Tứ Hạnh Quán – Outline of Practice – Đa ngôn ngữ

English: Red Pine.

Việt ngữ: Red pine, Thiện Tri Thức.

Compile: Middle Way Group.

Lược Biện Đại Thừa Nhập Đạo Tứ Hạnh Quán
Outline of Practice

ĐẠI THỪA NHẬP ĐẠO TỨ HẠNH QUÁN

BỐN QUÁN HẠNH VÀO ĐẠO CỦA ĐẠI THỪA

Many roads lead to the Path, but basically there are only two: reason and practice. To enter by reason means to realize the essence through instruction and to believe that all living things share the same true nature, which isn’t apparent because it’s shrouded by sensation and delusion.
Muốn vào Đạo có nhiều đường, tóm lại không ra ngoài hai đường: Lý Nhập (bằng lý trí) và Hạnh Nhập (bằng thực hành). Lý Nhập là thực hành theo giáo lý mà bước vào cội nguồn của đạo. Tin sâu rằng các loài hàm sinh đều cùng một chân tánh, chỉ do khách trần vọng tưởng che khuất nên không hiển lộ.

fū rù dào duō tú yào ér yán zhī bù chū èr zhòng yī shì lǐ rù èr shì xíng.

Phù nhập đạo đa đồ, yếu nhi ngôn chi, bất xuất nhị chúng: Nhất thị lý nhập, nhị thị hạnh.

rù lǐ rù zhě wèi jiè jiào wù zōng shēn xìn hán shēng tóng yī zhēn xìng dàn wèi kè
nhập.

Lý nhập giả, vị tạ giáo ngộ tông, thâm tín hàm sinh đồng nhất chân tánh, đản vi khách.
chén wàng xiǎng suǒ fù bù néng xiǎn liǎo
trần vọng tưởng sở phúc, bất năng hiển liễu.

Those who turn from delusion back to reality, who meditate on walls, the absence of self and other, the oneness of mortal and sage, and who remain unmoved even by scriptures are in complete and unspoken agreement with reason. Without moving, without effort, they enter, we say, by reason.
Nếu rời hư dối mà trở về nơi chân thật, dừng lại trong bích quán, không thấy có mình có người, phàm thánh là một, vững chắc không dời, cũng không theo chữ nghĩa, đó là hợp với lý. Không phân biệt, tịch diệt vô vi, gọi là lý nhập.
ruò yě shě wàng guī zhēn níng zhù bì guān wú zì wú tā fán shèng děng yī jiān zhù
Nhược dã xả vọng quy chân, ngưng trụ bích quán, vô tự vô tha, phàm thánh đẳng nhất. Kiên trụ

bù yí gèng bù suí wén jiàocǐ jí yǔ lǐ míng fú wú yǒu fēn bié jì rán wú wèi bất di, cánh bất tùy văn giáo, thử tức dữ lý minh phù. Vô hữu phân biệt, tịch nhiên vô vi, míng zhī lǐ rù danh chi lý nhập.

To enter by practice refers to four all-inclusive practices: Suffering injustice, adapting to conditions, seeking nothing, and practicing the Dharma.
Hạnh nhập có bốn hạnh. Tất cả những hạnh khác cũng đều nhập cả vào bốn hạnh này. Bốn hạnh đó là gì? Thứ nhất là Báo Oán Hạnh (chấp nhận bất công), thứ hai là Tùy Duyên Hạnh (thích nghi với hoàn cảnh), thứ ba là Vô Sở Cầu Hạnh (không cầu mong điều gì), và thứ tư là Xứng Pháp Hạnh (thực hành giáo pháp).
xíng rù wèi sì xíng qí yú zhū xíng xī rù cǐ zhōng hé děng sì yē yí bào yuān

Hạnh nhập vị tứ hạnh, kỳ dư chư hạnh, tất nhập thử trung. Hà đẳng tứ da Nhất báo oan xíng èr suí yuán xíng sān wú suǒ qiú xíng sì chēng fǎ xíng
hạnh, nhị tùy duyên hạnh, tam vô sở cầu hạnh, tứ xứng pháp hạnh.

First, suffering injustice. When those who search for the Path encounter adversity, they should think to themselves, “In Countless ages gone by, I’ve turned from the essential to the trivial and wandered through all manner of existence, often angry without cause and guilty of numberless transgressions.
Now, though I do no wrong, I’m punished by my past. Neither gods nor men can foresee when an evil deed will bear its fruit. I accept it with an open heart and without complaint of injustice. The sutras say ” when you meet with adversity don’t be upset because it makes sense.” With such understanding you’re in harmony with reason. And by suffering injustice you enter the Path.
Báo Oán Hạnh (chấp nhận bất công): Người tu đạo lúc gặp khổ, nên tin nghĩ rằng mình từ trong vô số kiếp xưa, bỏ gốc theo ngọn, trôi nổi theo các pháp hữu vi, khởi nhiều oán ghét, tội lỗi rất nhiều. Ngày nay tuy không lầm lỗi, nhưng chính là cái tai họa do trước kia đã tạo của mình. Khi ác nghiệp chín, không có trời, không có người nào có thể thấy trước. Nay mở tâm nhận chịu, không than thở. Kinh dạy: “Gặp khổ không buồn. Vì sao thế  Hiểu rõ vậy.” Hiểu như thế, thì tương ưng với lý. Lấy oán mà tăng tiến đạo hạnh, nên gọi là Báo Oán Hạnh.

yún hé bào yuān xíng wèi xiū dào xíng rén ruò shòu kǔ shí dāng zì niàn yán wǒ wǎng

Vân hà báo oán hạnh. Vị tu đạo hạnh nhân, nhược thọ khổ thời, đương tự niệm ngôn.Ngã vãng

– xī wú shù jié zhōng qì běn cóng mò liú làng zhū yǒu duō qǐ yuān zēng wéi hài wú

tích vô số kiếp trung, khí bổn tòng mạt, lưu lãng chư hữu, đa khởi oan tăng, vi hại – vô xiàn jīn suī wú fàn shì wǒ sù yāng è yè guǒ shú fēi tiān fēi rén suǒ néng jiàn – hạn. Kim tuy vô phạm, thị ngã túc ương, ác nghiệp quả thục, phi thiên phi nhân sở năng kiến – yǔ gān xīn gān shòu dōu wú yuān sù jīng yún féng kǔ bù yōu hé yǐ gù zhì dữ, cam tâm cam thọ, đô vô oan tổ. Kinh vân: Phùng khổ bất ưu. Hà dĩ cố ? Thức dá gù cǐ xīn shēng shí yǔ lǐ xiāng yìng tǐ yuān jìn dào gù shuō yán bào yuān xíng đạt cố. Thử tâm sanh thời, dữ lý tương ứng, thể oan tiến đạo. Cố thuyết ngôn báo oan hạnh.

Second, adapting to conditions. As mortals, we’re ruled by conditions, not by ourselves. All the suffering and joy we experience depend on conditions. If we should be blessed by some great reward, such as fame or fortune, it’s the fruit of a seed planted by us in the past. When conditions change, it ends. Why delight In Its existence? But while success and failure depend on conditions, the mind neither waxes nor wanes. Those who remain unmoved by the wind of joy silently follow the Path.
Tùy Duyên Hạnh (thích nghi với hoàn cảnh): Chúng sanh không phải do chính mình làm chủ mà do duyên nghiệp chuyển hóa. Cảm nhận khổ vui đều do duyên sinh. Nếu được quả báo tốt đẹp vinh dự vân vân, đó là do nhân quá khứ cảm nên, ngày nay có được, khi duyên hết thì trở lại là không. Có gì mà vui khi được? Được mất theo duyên, tâm không thêm bớt. Gió vui không động, thầm thuận nơi đạo. Đó là Tùy Duyên Hạnh.

èr suí yuán xíng zhě zhòng shēng wú wǒ bìng yuán yè suǒ zhuǎn kǔ lè qí shòu jiē cóng

Nhị tùy duyên hạnh giả. Chúng sanh vô ngã, tịnh duyên nghiệp sở chuyển, khổ lạc tề thọ, giai tòng

yuán shēng. ruò dé shèng bào róng yú děng shì shì wǒ guò qù sù yīn suǒ gǎn jīn fāng dé

duyên sanh. Nhược đắc thắng báo vinh dự đẳng sự, thị ngã quá khứ túc nhân sở cảm, kim phương đắc

zhī yuán jìn hái wú hé xǐ zhī yǒu dé shī cóng yuán xīn wú zēng jiǎn xǐ fēng bù chi.

Duyên tận hoàn vô, hà hỷ chi hữu? Đắc thất tòng duyên, tâm vô tăng giảm, hỷ phong bất dòng

míng shùn yú dào shì gù shuō yán suí yuán xíng

động, minh thuận ư đạo. Thị cố thuyết ngôn tùy duyên hạnh.

Third, seeking nothing. People of this world are deluded. They’re always longing for something- always, in a word, seeking. But the wise wake up. They choose reason over custom. They fix their minds on the sublime and let their bodies change with the seasons. All phenomena are empty. They contain nothing worth desiring. Calamity forever alternates with Prosperity! To dwell in the three realms is to dwell in a burning house. To have a body is to suffer. Does anyone with a body know peace? Those who understand this detach themselves from all that exists and stop Imagining or seeking anything. The sutras say, “To seek is to suffer. To seek nothing is bliss.” When you seek nothing, you’re on the Path.
Vô Sở Cầu Hạnh (không cầu mong điều gì): Người đời ở trong cơn mê dài, dẫy đầy sự tham trước, gọi đó là cầu. Người trí giác ngộ sự thật, ngược lại thế tục, an tâm nơi vô vi, thân thuận theo sự biến chuyển. Vạn vật đều là không, không có chỗ để ham muốn. Công đức và hắc ám thường đuổi theo nhau. Ba cõi ở lâu như trong nhà lửa. Có thân tất khổ, chẳng ai được an ổn. Hiểu rõ chỗ này thì sẽ bỏ được mọi thứ, dừng lại vọng tưởng, không có cầu mong. Kinh dạy: “Có cầu tất có khổ, không cầu được vui.” Khi không cầu mong, đó thật là tu đạo.

– sān wú suǒ qiú xíng zhě shì rén cháng mí chù chù tān zháo míng zhī wèi qiú zhì zhě

Tam vô sở cầu hạnh giả. Thế nhân trường mê, xứ xứ tham trứ, danh chi vi cầu. Trí giả

wù zhēn lǐ jiāng sú fǎn ān xīn wú wèi xíng suí yùn zhuǎn wàn yǒu sī kōng wú suǒ

ngộ chân, lý tương tục phản, an tâm vô vi, hình tùy vận chuyển, vạn hữu tư không, vô sở

yuàn lè gōng dé hēi àn cháng xiāng suí zhú sān jiè jiǔ jū yóu rú huǒ zhái yǒu shēnnguyện lạc. Công đức hắc ám, thường tương tùy trục, tam giới cứu cư, do như hỏa trạch, hữu thân

– jiē kǔ shuí dé ér ān liǎo dá cǐ chù gù shě zhū yǒu zhǐ xiǎng wú qiú jīng

giai khổ, thùy đắc nhi an. Liễu đạt thử xứ, cố xả chư hữu, chỉ tưởng vô cầu. Kinh

yuē yǒu qiú jiē kǔ wú qiú jí lè pàn zhī wú qiú zhēn wèi dào xíng gù yán wú

– viết: hữu cầu giai khổ, vô cầu tức lạc. Phán trí vô cầu, chân vi đạo hạnh. Cố ngôn vô

suǒ qiú xíng

– sở cầu hạnh.

Fourth, practicing the Dharma.’ The Dharma is the truth that all natures are pure. By this truth, all appearances are empty. Defilement and attachment, subject and object don’t exist. The sutras say, “The Dharma includes no being because it’s free from the impurity of being, and the Dharma includes no self because it’s free from the impurity of self.” Those wise enough to believe and understand these truths are bound to practice according to the Dharma. And since that which is real includes nothing worth begrudging, they give their body, life, and property in charity, without regret, without the vanity of giver, gift, or recipient, and without bias or attachment. And to eliminate impurity they teach others, but without becoming attached to form. Thus, through their own practice they’re able to help others and glorify the Way of Enlightenment. And as with charity, they also practice the other virtues. But while practicing the six virtues to eliminate delusion, they practice nothing at all. This is what’s meant by practicing the Dharma.
Xứng Pháp Hạnh (thực hành giáo pháp): Lý thể các pháp tự tánh thanh tịnh. Trong đó, mọi vật đều là không, không nhiễm, không trước, không chủ, không khách. Kinh dạy: “Pháp không chúng sanh, nên lìa chúng sanh cấu, pháp không có ngã, nên lìa ngã cấu.” Người trí nếu tin hiểu lý này, có thể thuận với Phật Pháp mà tu hành. Bản thể của pháp là không, nên xả thí thân mạng, tài sản mà tâm không luyến tiếc. Hiểu rõ ba không, không nương không bám, dẹp dần trần cấu, giáo hóa chúng sanh mà không mắc vào hình tướng. Đó là tự hành, mà lại có thể lợi người, lại có thể trang nghiêm đạo Bồ Đề. Hạnh bố thí với năm hạnh khác (sáu ba la mật) cũng đều đầy đủ. Giải trừ vọng tưởng, tu hành lục độ, nhưng không thấy chỗ tu, gọi là Xứng Pháp Hạnh.

– sì chēng fǎ xíng zhě xìng jìng zhī lǐ mù zhī wèi fǎ cǐ lǐ zhòng xiāng sī kōng wú

Tứ xứng pháp hạnh giả. Tánh tịnh chi lý, mục chi vi pháp. thử lý chúng tướng tư không, vô rǎn

wú zháo wú cǐ wú bǐ jīng yuē fǎ wú zhòng shēng lí zhòng shēng gòu gù fǎ

– nhiễm vô trứ, vô thử vô bỉ. Kinh viết: pháp vô chúng sanh, ly chúng sanh cấu cố. Pháp

wú yǒu wǒ lí wǒ gòu gù zhì zhě ruò néng xìn jiě cǐ lǐ yīng dāng chēng fǎ ér

vô hữu ngã, ly ngã cấu cố. Tri giả nhược năng tín giải thử lý, ưng đương xứng pháp nhi

xíng fǎ tǐ wú qiān shēn mìng cái xíng tán shě shī xīn wú lìn xī tuō jiě sān kōng

hạnh. Pháp thể vô khan, thân mệnh tài hạnh đàn xả thí, tâm vô lậu tích. Thoát giải tam không,

– bù yǐ bù zháo dàn wèi qù gòu chēng huà zhòng shēng ér bù qǔ xiāng cǐ wèi zì

bất ỷ bất trứ, đản vi khứ cấu, xứng hóa chúng sanh nhi bất thủ tướng. Thử vi tự

xíng fù néng lì tā yì néng zhuāng yán pú tí zhī dào tán shī jì ěr yú wǔ

hành, phục năng lợi tha, diệc năng trang nghiêm bồ đề chi đạo. Đàn thí ký nhĩ, dư ngũ

yì rán wèi chú wàng xiǎng xiū xíng liù dù ér wú suǒ xíng shì wèi chēng fǎ xíng

diệc nhiên. Vi trừ vọng tưởng, tu hành lục độ , nhi vô sở hành. Thị vi xứng pháp hạnh

yòu wèn rǔ yán yǔ shī wèi yùn dòng yǔ rǔ bié bù bié ?』

– Hựu vấn : Nhữ ngôn ngữ thí vi vận động dữ nhữ biệt bất biệt ?
No, it isn’t.

Đáp: Không riêng khác.
dá yuē bù bié 。』
Đáp viết: Bất biệt.

But if it isn’t, then this body is your real body. And this real body is your mind.
Sư nói  Đã không riêng khác thì thân này là bản Pháp Thân của ngươi, Pháp Thân này là bản tâm của ngươi.
– shī yuē jì ruò bù bié jí cǐ shēn shì rǔ běn fǎ shēn jí cǐ fǎ shēn shì rǔ

Sư viết : Ký nhược bất biệt tức thử thân thị nhữ bản pháp thân, tức thử pháp thân thị nhữ

běn xīn 。』

bản tâm.

And this mind, through endless kalpas without beginning, has never varied. It has never lived or died, appeared or disappeared, increased or decreased.
Tâm này từ kiếp vô thủy xa xôi đến nay không khác nhau, chưa hề sanh tử, không sanh không diệt, – cǐ xīn cóng wú shǐ kuàng dà jié lái yǔ rú jīn bù bié wèi céng yǒu shēng sǐ bù shēngThử tâm tùng vô thủy khoáng đại kiếp lai, dữ như kim bất biệt, vị tằng hữu sanh tử, bất sanhbù miè bất diệt,

Its not pure or impure, good or evil, past or future. It’s not true or false.
không tăng không giảm, không dơ không sạch, không tốt không xấu, không đến không đi, cũng không phải quấy, – bù zēng bù jiǎn bù gòu bù jìng bù hǎo bù è bù lái bù qù yì wú shì fēi bất tăng bất giảm, bất cấu bất tịnh, bất hảo bất ác, bất lai bất khứ, diệc vô thị phi,

It’s not mate or female. It doesn’t appear as a monk or a layman, an elder or a novice, a sage or a fool, a Buddha or a mortal.
không có tướng nam nữ, cũng không tăng tục, già trẻ, không Thánh không phàm, cũng không Phật không chúng sanh, – yì wú nán nǚ xiāng yì wú sēng sú lǎo shǎo wú shèng wú fán yì wú fó yì wúdiệc vô nam nữ tướng, diệc vô tăng tục lão thiếu, vô Thánh vô phàm, diệc vô Phật, diệc vô zhòng shēng chúng sanh,

It strives ‘for no realization and suffers no karma. It has no strength or form.

cũng không tu chứng, cũng không nhân quả, cũng không gân sức, cũng không tướng mạo, – yì wú xiū zhèng yì wú yīn guǒ yì wú jīn lì yì wú xiàng mào;
diệc vô tu chứng, diệc vô nhân quả, diệc vô cân lực, diệc vô tướng mạo,

It’s like space. You can’t possess it and you can’t lose it.
giống như hư không, giữ không được, bỏ không được, yóu rú xū kōng qǔ bù dé shě bù dé,- do như hư không, thủ bất đắc, xả bất đắc,

Its movements can’t be blocked by mountains, rivers, or rock walls. Its unstoppable powers penetrate the Mountain of Five Skandhas and cross the River of Samsara.” No karma can restrain this real body. But this mind is subtle and hard to see.
Núi sông vách đá không ngăn ngại được, đi đến hiện ẩn thần thông tự tại, xuyên qua núi năm uẩn, vượt qua sông sanh tử. Không nghiệp nào giữ được Pháp Thân này. Cái Tâm này vi diệu khó thấy.

shān hé shí bì bù néng wèi ài chū mò wǎng lái zì zài shén tōng tòu wǔ yùn shāndù sơn hà thạch bích bất năng vi ngại, xuất một vãng lai, tự tại thần thông, thấu ngũ uẩn sơn, độ

shēng sǐ hé yī qiē yè jū cǐ fǎ shēn bù dé cǐ xīn wēi miào nán jiàn

sanh tử hà. Nhất thiết nghiệp câu thử pháp thân bất đắc. Thử tâm vi diệu nan kiến.

It’s not the same as the sensual mind. Everyone wants to see this mind, and those who move their hands and feet by its light are as many as the grains of sand along the Ganges, but when you ask them, they can’t explain it. They’re like puppets. It’s theirs to use. Why don’t they see it?
Tâm đó không giống tâm cảm thọ. Tâm đó người người đều muốn thấy. Ở trong ánh sáng này, khua tay động chân, nhiều như cát sông Hằng, vậy mà hỏi đến, đều nói chẳng được, giống hệt người gỗ, tất cả đều tự mình thọ dụng, vì sao không biết?

cǐ xīn bù tóng sè xīn cǐ xīn shì rén jiē yù dé jiàn yú cǐ guāng míng zhōng yùn shǒu – Thử tâm bất đồng sắc tâm. Thử tâm thị nhân giai dục đắc kiến. Ư thử quang minh trung vận thủ dòng

zú zhě rú héng hé shā jí hū wèn zháo zǒng dào bù dé yóu rú mù rén xiāng động túc giả, như hằng hà sa, cập hồ vấn trước, tổng đạo bất đắc, do như mộc nhân tương

sì zǒng shì zì jǐ shòu yòng yīn hé bù zhì

 tự, tổng thị tự kỷ thụ dụng. Nhân hà bất thức?

The Buddha said people are deluded. This Is why when they act they fall into the river of endless rebirth. And when they try to get out, they only sink deeper. And all because they don’t see their nature. If people weren’t deluded, why would they ask about something right in front of them? Not one of them understands the movement of his own hands and feet.
Phật nói hết thảy chúng sanh đều là người mê, do đó tạo nghiệp, rơi vào giòng sông sanh tử, muốn ra lại đắm chỉ vì không thấy Tánh. Chúng sanh nếu không mê, sao hỏi sự việc trước mắt lại không có một người hiểu. Tự mình khua tay động chân làm sao lại không biết?

:fó yán yí qiè zhòng shēng jìn shì mí rén yīn cǐ zuò yè duò shēng sǐ hé yù chū –
Phật ngôn: “Nhất thiết chúng sanh tận thị mê nhân, nhân thử tác nghiệp, đọa sanh tử hà, dục xuất

hái méi zhǐ wèi bù jiàn xìng zhòng shēng ruò bù mí yīn hé wèn zháo qí zhōng shì wú yǒu

hoàn một, chỉ vì bất kiến tánh.” Chúng sanh nhược bất mê, nhân hà vấn trước kỳ trung sự, vô hữu

yī rén dé huì zhě zì jiā yùn shǒu dòng zú yīn hé bù zhì

nhất nhân đắc hội giả ? Tự gia vận thủ động túc nhân hà bất thức?

The Buddha wasn’t mistaken. Deluded people don’t know who they are. A Buddha and no one else know something so hard to fathom. Only the wise knows mind, this mind call nature, this mind called liberation. Neither life nor death can restrain this mind.
Do đó biết rằng lời của bậc Thánh nhân không sai, mà do người mê không hiểu. Cho nên biết rằng cái đó khó hiểu thấu, chỉ Phật mới thấu được pháp đó, ngoài ra người trời cùng các loại chúng sanh đều không hiểu được. Nếu trí huệ soi rõ, tâm này được gọi là Pháp Tánh, (1) cũng gọi là giải thoát, sống chết không giam hãm được.

gù zhī shèng rén yǔ bù cuò mí rén zì bù huì xiǎo gù zhī cǐ nán míng wéi fó yī

Cố tri Thánh nhân ngữ bất thác, mê nhân tự bất hội hiểu. Cố tri thử nan minh, duy Phật nhất

rén néng huì cǐ fǎ yú rén tiān jí zhòng shēng děng jìn bù míng liǎo ruò zhì huì míng liǎo

nhân năng hội thử pháp, dư nhân thiên cập chúng sanh đẳng, tận bất minh liễu. Nhược trí huệ minh liễu,

cǐ xīn hào míng fǎ xìng yì míng jiě tuō shēng sǐ bù jū

thử tâm hiệu danh pháp tánh, diệc danh giải thoát, sanh tử bất câu.

Nothing can. It’s also called the Unstoppable Tathagata,” the Incomprehensible, the Sacred Self, the Immortal, the Great Sage. Its names vary but not its essence.
Không pháp nào giam hãm được người này, gọi là Đại Tự Tại Vương Như Lai, cũng gọi là Bất Tư Nghì (không thể suy lường), cũng gọi là Thánh Thể, là Trường Sanh Bất Tử, là Đại Tiên. Tên tuy không đồng, thể thì là một.
yí qiè fǎ jū tā bù dé shì míng dà zì zài wáng rú lái yì míng bù sī yì Nhất thiết pháp câu tha bất đắc, thị danh Đại Tự Tại Vương Như Lai, diệc danh Bất Tư Nghị, diệc

míng shèng tǐ yì míng cháng shēng bù sǐ yì míng dà xiān míng suī bù tóng tǐ jí shì

danh Thánh Thể, diệc danh trường sanh bất tử, diệc danh đại tiên. Danh tuy bất đồng, thể tức thị yī nhất.

Buddhas vary too, but none leaves his own mind. The mind’s capacity is limitless, and its manifestations are inexhaustible. Seeing forms with your eyes, hearing sounds with your ears, smelling odors with your nose, tasting flavors with your tongue, every movement or state is your entire mind. At every moment, where language can’t go, that’s your mind.
Thánh nhân nhiều loại khác nhau thảy đều không lìa Tự Tâm. Lượng Tâm rộng lớn, ứng dụng không cùng, theo mắt thấy sắc, theo tai nghe tiếng, theo mũi ngửi mùi, theo lưỡi biết vị, cho đến vận động lớn nhỏ đều là tự tâm. Ngay trong mọi lúc, ngôn ngữ không đến được, đó là Tâm này.
shèng rén zhǒng zhǒng fēn bié jiē bù lí zì xīn xīn liàng guǎng dà yìng yòng wú qióng yìng

Thánh nhân chủng chủng phân biệt, giai bất ly tự tâm. Tâm lượng quảng đại, ứng dụng vô cùng. Ứng

yǎn jiàn sè yìng ěr wén shēng yìng bí xiù xiāng yìng shé zhī wèi nǎi zhì shī wèi yùn

dòng nhãn kiến sắc, ứng nhĩ văn thanh, ứng tỷ khứu hương, ứng thiệt tri vị, nãi chí thi vi vận động,

jiē shì zì xīn yí qiè shí zhōng dàn yǒu yǔ yán dào duàn jí shì zì xīn

giai thị tự tâm. Nhất thiết thời trung, đản hữu ngữ ngôn đạo đoạn, tức thị tự tâm.

The sutras say, “A Tathagata’s forms are endless. And so is his awareness.” The endless variety of forms is due to the mind. Its ability to distinguish things, whatever their movement or state, is the mind’s awareness. But the mind has no form and its awareness no limit. Hence, it’s said, “A Tathagata’s forms are endless. And so is his awareness.”
Cho nên nói “Sắc Như Lai là vô tận, Trí huệ Như Lai cũng như vậy.” Sắc vô tận là Tự Tâm. Tâm thức khéo phân biệt được hết thảy, cho đến vận động lớn nhỏ đều là trí huệ. Tâm không có hình tướng, trí huệ cũng không cùng tận, cho nên nói “Như Lai sắc vô tận, Trí huệ diệc phục nhiên.”
gù yún rú lái sè wú jìn zhì huì yì fù rán sè wú jìn shì zì xīn xīn zhì shàn

Cố vân “Như Lai sắc vô tận, Trí huệ diệc phục nhiên…” Sắc vô tận thị tự tâm. Tâm thức thiện

néng fēn bié yí qiè nǎi zhì shī wèi yùn dòng jiē shì zhì huì xīn wú xíng xiāng zhì huì

năng phân biệt nhất thiết, nãi chí thí vi vận động, giai thị trí huệ. Tâm vô hình tướng, trí huệ:

yì wú jìn gù yún :rú lái sè wú jìn zhì huì yì fù rán

diệc vô tận, cố vân “Như Lai sắc vô tận, Trí huệ diệc phục nhiên.”

A material body of the four elements” is trouble. A material body is subject to birth and death. But the real body exists without existing, because a Tathagata’s real body never changes. The sutras say, “People should realize that the buddha-nature is something they have always had.” Kashyapa only realized his own nature.
Thân xác tứ đại là phiền não. Sắc thân thì có sinh diệt. Pháp Thân thì thường còn mà không có chỗ nương, vì Pháp Thân của Như Lai không biến đổi vậy. Kinh nói: “Chúng sanh nên biết rằng Phật Tánh vốn tự có sẵn.” Ca Diếp chỉ là ngộ được Bản Tánh.

sì dà sè shēn jí shì fán nǎo sè shēn jí yǒu shēng miè fǎ shēn cháng zhù wú suǒ zhù

Tứ đại sắc thân tức thị phiền não. Sắc thân tức hữu sanh diệt. Pháp thân thường trụ vô sở trụ.

rú lái fǎ shēn cháng bù biàn yì gù jīng yún zhòng shēng yìng zhī fó xìng běn zì yǒu zhī

Như Lai Pháp Thân thường bất biến dị cố. Kinh vân: “Chúng sanh ứng tri Phật tánh bản tự hữu chi.”

jiā yè zhǐ shì wù dé běn xìng

Ca Diếp chỉ thị ngộ đắc bản tánh.

Our nature is the mind. And the mind is our nature. This nature is the same as the mind of all Buddhas. Buddhas of the past and future only transmit this mind. Beyond this mind there’s no Buddha anywhere. But deluded people don’t realize that their own mind is the Buddha. They keep searching outside. They never stop invoking Buddhas or worshipping Buddhas and wondering Where is the buddha? Don’t indulge in such illusions. Just know your mind. Beyond your mind there’s no other Buddha.
Bản Tánh tức là Tâm, Tâm tức là Tánh. Tánh này đồng với Tâm chư Phật. Phật trước Phật sau chỉ truyền Tâm này, ngoài Tâm này ra không có Phật. Chúng sanh điên đảo không biết Tâm mình là Phật, hướng ra ngoài mà đuổi tìm, suốt ngày hoang mang niệm Phật lễ Phật, không biết Phật ở đâu. Không nên có các cái thấy như vậy. Chỉ biết Tự Tâm, ngoài Tâm ra không có Phật khác.
běn xìng jí shì xīn xīn jí shì xìng xìng jí cǐ tóng zhū fó xīn qián fó hòu fó zhǐ

Bản tánh tức thị tâm, tâm tức thị tánh. Tánh tức thử đồng chư Phật Tâm. Tiền Phật hậu Phật chỉ

chuán cǐ xīn chú cǐ xīn wài wú fó kě dé diān dǎo zhòng shēng bù zhī zì xīn shì fó truyền thử tâm, trừ thử tâm ngoại, vô Phật khả đắc. Điên đảo chúng sanh bất tri tự tâm thị Phật,

xiàng wài chí qiú zhōng rì máng máng niàn fó lǐ fó fó zài hé chǔ bù yìng zuò rú shì hướng ngoại trì cầu, chung nhật mang mang niệm Phật lễ Phật, Phật tại hà xứ ? Bất ưng tác như thị

děng jiàn dàn zhī zì xīn xīn wài gèng wú bié fó

– đẳng kiến. Đản tri tự tâm, tâm ngoại cánh vô biệt Phật.

The sutras say, “Everything that has form is an illusion.” They also say, “Wherever you are, there’s a Buddha.” Your mind is the Buddha. Don’t use a Buddha to worship a Buddha.
Kinh dạy: “Phàm cái gì có tướng đều là hư dối.” (Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng.) Cũng dạy: “Ngay chỗ đang ở bèn là có Phật.” Tâm mình là Phật. Chẳng nên đem Phật lễ Phật.

jīng yún fán suǒ yǒu xiāng jiē shì xū wàng yòu yún suǒ zài zhī chù jí wèi yǒu fó Kinh vân: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng.” Hựu vân: ” Sở tại chi xứ, tức vi hữu Phật.”

– zì xīn shì fó bù yìng jiāng fó lǐ fó;

Tự tâm thị Phật, bất ưng tương Phật lễ Phật.

Even if a Buddha or bodhisattva” should suddenly appear before you, there’s no need for reverence This mind of ours is empty and contains no such form. Those who hold onto appearances are devils. They fall from the Path. Why worship illusions born of the mind?
Như có hình tướng Phật và Bồ tát bỗng hiện trước mắt, cũng không phải kính lễ. Tâm ta vốn rỗng lặng, vốn không có hình tướng. Nếu bám vào tướng tức là ma, rơi vào tà đạo, đó là huyễn do tâm khởi, không phải kính lễ.
dàn shì yǒu fó jí pú sà xiàng mào hū ěr jiàn qián qiē bù yòng lǐ jìng wǒ xīn kōng Đản thị hữu Phật cập Bồ tát tướng mạo, hốt nhĩ kiến tiền, thiết bất dụng lễ kính. Ngã tâm không

jì běn wú rú shì xiāng mào ruò qǔ xiāng jí shì mó jìn luò xié dào ruò shì huàn cóng

tịch, bản vô như thị tướng mạo. Nhược thủ tướng tức thị ma, tận lạc tà đạo, nhược thị huyễn tòng xīn qǐ jí bù yòng lǐ –  tâm khởi, tức bất dụng lễ.

Those who worship doesn’t know, and those who know don’t worship. By worshipping you come under the spell of devils. I point this out because afraid you’re unaware of it. The basic nature of a Buddha has no such form. Keep this in mind, even if something unusual should appear. Don’t embrace it, and don’t fear it, and don’t doubt that your Mind is basically pure. Where could there be room for any such form?
Người lễ thì không biết, người biết thì không lễ. Lễ thì bị ma nhiếp. Sợ người học không biết nên nói ra. Tánh thể của chư Phật Như Lai thảy không có tướng mạo như vậy. Cần ghi nhớ điều này. Như có cảnh giới khác lạ cũng không nên chọn giữ, cũng không sợ hãi. Không nên nghi ngờ, tâm ta xưa nay vốn thanh tịnh, làm sao có hình trạng như vậy.
– lǐ zhě bù zhī zhī zhě bù lǐ lǐ bèi mó shè kǒng xué rén bù zhī gù zuò shì

– Lễ giả bất tri, tri giả bất lễ. Lễ bị ma nhiếp. Khủng học nhân bất tri, cố tác thị

biàn zhū fó rú lái běn xìng tǐ shàng dōu wú rú shì xiàng mào qiē xū zài yì dàn yǒu

biện. Chư Phật Như Lai bản tánh thể thượng, đô vô như thị tướng mạo. Thiết tu tại ý, đản hữu

yì jìng jiè qiē bù yòng cǎi kuò yì mò shēng pà bù bù yào yí huò wǒ xīn běn lái qīng

dị cảnh giới,thiết bất dụng thải quát, diệc mạt sanh phạ bố. Bất yếu nghi hoặc, ngã tâm bản lai thanh

jìng hé chǔ yǒu rú xǔ xiāng mào

– tịnh, hà xứ hữu như hứa tướng mạo.

Also, at the appearance of spirits, demons, or divine conceive neither respect nor fear. Your mind is basically empty. All appearances are illusions. Don’t hold on to appearances.
Cho đến các hình tướng thiên, long, dạ xoa, quỷ thần, Đế Thích, Phạm Vương, cũng không khởi tâm kính trọng, cũng không sợ hãi. Tâm ta vốn xưa nay rỗng lặng. Hết thảy các hình tướng đều là hư dối, cho nên đừng chấp giữ hình tướng.
– nǎi zhì tiān lóng , yè chā, guǐ shén dì shì fàn wáng děng xiāng yì bù yòng xīn shēng jìng

– Nãi chí thiên long, dạ xoa, quỷ thần, Đế Thích, Phạm Vương đẳng tướng, diệc bất dụng tâm sanh kính

zhòng yì mò pà jù wǒ xīn běn lái kōng jì yí qiè xiāng mào jiē shì wàng xiāng dàn mò

trọng, diệc mạt phạ cụ. Ngã tâm bản lai không tịch. Nhất thiết tướng mạo giai thị vọng tướng, đản mạc

qǔ xiāng

thủ tướng.

If you envision a Buddha, a Dharma, or a bodhisattva” and conceive respect for them, you relegate yourself to the realm of mortals. If you seek direct understanding, don’t hold on to any appearance whatsoever, and you’ll succeed. I have no other advice.
Nếu khởi lên cái thấy hiểu về Phật, cái thấy hiểu về Pháp, cùng các tướng Phật, Bồ tát mà sinh kính trọng, tự mình rơi vào địa vị chúng sanh. Nếu muốn trực tiếp hiểu rõ, chỉ không bám giữ tất cả các tướng là được, ngoài ra, không có lời nào khác.

– , ruò qǐ fó jiàn fǎ jiàn jí fó pú sà děng xiāng mào ér shēng jìng zhòng zì duò zhòng shēng

Nhược khởi Phật kiến, Pháp kiến, cập Phật Bồ tát đẳng tướng mạo nhi sanh kính trọng, tự đọa chúng sanh

wèi zhōng ruò yù zhí huì dàn mò qǔ yí qiè xiāng jí dé gèng wú bié yǔ

vị trung. Nhược dục trực hội, đản mạc thủ nhất thiết tướng tức đắc, cánh vô biệt ngữ.

The sutras say, “All appearances are illusions.” They have no fixed existence, no constant form. They’re impermanent. Don’t cling to appearances and you’ll be of one mind with the Buddha.
Vì vậy Kinh dạy: “Phàm cái gì có hình tướng đều là hư vọng.” Rốt ráo không có cái chân, cái huyễn cố định, không có hình tướng cố định, đó là pháp vô thường .Chỉ không bám giữ hình tướng là hợp Thánh ý.
– gù jīng yún fán suǒ yǒu xiāng jiē shì xū wàng dōu wú dìng chí huàn wú dìng xiāng shì

Cố Kinh vân : “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng.” Đô vô định thật, huyễn vô định tướng, thị

wú cháng fǎ dàn bù qǔ xiāng hé tā shèng yì

– vô thường pháp. Đản bất thủ tướng, hợp tha Thánh ý.

The sutras say, “’That which is free of all form is the Buddha.”
Kinh dạy : “Rời hết thảy tướng thì gọi là Phật.”
– gù jīng yún lí yí qiè xiāng jí míng zhū fó

Cố Kinh vân : “Ly nhất thiết tướng tức danh chư Phật.”

But why shouldn’t we worship Buddhas and bodhisattvas?
Hỏi: Tại sao không lễ Phật, Bồ tát?
– wèn yuē yīn hé bù dé lǐ fó pú sà děng
– Vấn viết: Nhân hà bất đắc lễ Phật, Bồ tát đẳng?

Devils and demons possess the power of manifestation. They can create the appearance of bodhisattvas in all sorts of guises. But they’re false. None of them are Buddhas. The Buddha is your own mind. Don’t misdirect your worship.
Đáp: Thiên Ma Ba Tuần, A Tu La hóa hiện thần thông đều có thể làm ra hình tướng Bồ tát, các loại biến hóa, đó là ngoại đạo, chẳng phải Phật gì cả, vì Phật là Tự Tâm, đừng lầm lễ lạy.
– dá yuē tiān mó bō xún ā xiū luó shì jiàn shén tōng jiē zuò dé pú sà xiāng mào zhǒng

– Đáp viết : Thiên ma Ba Tuần, A Tu La thị hiện thần thông, giai tác đắc Bồ tát tướng mạo, chủng

zhǒng biàn huà shì wài dào zǒng bú shì fó fó shì zì xīn mò cuò lǐ bài

chủng biến hóa, thị ngoại đạo, tổng bất thị Phật, Phật thị tự tâm, mạc thác lễ bái.

Buddha is Sanskrit for what you call aware, miraculously aware. Responding, arching your brows blinking your eyes, moving your hands and feet, its all your miraculously aware nature. And this nature is the mind. And the mind is the Buddha. And the Buddha is the path. And the path is Zen.
Phật là tiếng Ấn Độ, nghĩa là Tánh Biết (Giác Tánh), Người Biết, Linh Giác. Tùy thời đối việc, đưa mày, nháy mắt, khua tay, động chân đều là tánh linh giác của mình. Tánh tức là Tâm, Tâm tức là Phật, Phật là Đạo, Đạo tức là Thiền.
– fó shì xī guó yǔ cǐ dǔ yún jué xìng jué zhě ling jué yìng jī jiē wù yáng méi shùn

Phật thị Tây quốc ngữ, thử độ vân giác tánh, giác giả, linh giác. Ứng cơ tiếp vật, dương mi thuấn

mù yùn shǒu dòng zú jiē shì zì jǐ líng jué zhī xìng xìng jí shì xīn xīn jí shì fó

mục, vận thủ động túc giai thị thự kỷ linh giác chi tánh. Tánh tức thị tâm, tâm tức thị Phật,

fó jí shì dào dào jí shì shàn

Phật tức thị Đạo, Đạo tức thị Thiền.

But the word Zen is one that remains a puzzle to both mortals and sages. Seeing your nature is Zen. Unless you see your nature, it’s not Zen.
Một chữ Thiền không phải là chỗ phàm Thánh đo lường. Lại dạy : “Thấy Bản Tánh là Thiền.” Nếu không thấy Tánh mình thì không phải là Thiền.

– shàn zhī yī zì fēi fán shèng suǒ cè yòu yún jiàn běn xìng wèi shàn ruò bù jiàn běn

– Thiền chi nhất tự, phi phàm Thánh sở trắc. Hựu vân : ” Kiến bản tánh vi Thiền.” Nhược bất kiến bản

xìng jí fēi shàn yě

tánh tức phi Thiền dã.

Even if you can explain thousands of sutras and shastras, unless you see your own nature yours is the teaching of a mortal, not a Buddha. The true Way is sublime. It can’t be expressed in language. Of what use are scriptures?
Giả như có giảng được ngàn quyển kinh, vạn cuốn luận mà không thấy Tánh mình thì cũng chỉ là phàm phu, không phải là Phật Pháp. Đạo lớn thâm sâu mầu nhiệm, không thể dùng lời mà hiểu, điển giáo làm sao chỉ tới?
– jiǎ shǐ shuō dé qiān jīng wàn lùn ruò bù jiàn běn xìng zhǐ shì fán fū fēi shì fó fǎ

Giả sử thuyết đắc thiên Kinh vạn Luận, nhược bất kiến bản tánh, chỉ thị phàm phu, phi thị Phật Pháp.

– zhì dào yōu shēn bù kě huà huì diǎn jiào píng hé suǒ jí
– Chí Đạo u thâm, bất khả thoại hội, điển giáo bằng hà sở cập?

– wài dào bù huì fó yì yòng gōng zuì duō wéi bèi shèng yì zhōng rì qū qū niàn fó zhuǎn

– Ngoại đạo bất hội Phật ý, dụng công tối đa, vi bối Thánh ý, chung nhật khu khu niệm Phật chuyển

jīng hūn yú shén xìng bù miǎn lún huí Kinh, hôn ư thần tánh, bất miễn luân hồi.

A Buddha is an idle person. He doesn’t run around after fortune and fame. What good are such things in the end? People who don’t see their nature and think reading sutras, invoking Buddhas’, studying long and hard, practicing morning and night, never lying down, or acquiring knowledge is the Dharma, blaspheme the Dharma.
Phật là người an nhàn, cần gì lăng xăng tìm cầu danh lợi. Làm thế có ích gì về sau? Chỉ người không thấy Tánh mới đọc Kinh, niệm Phật, học hỏi tinh tấn, sáu thời hành đạo, ngồi mãi không nằm, học nhiều nghe nhiều, coi đó là Phật Pháp. Những chúng sanh như vậy thảy là những người phỉ báng Phật Pháp.
– fó shì xián rén hé yòng qū qū guǎng qiú míng lì hòu shí hé yòng dàn bù jiàn xìng rén

– Phật thị nhàn nhân, hà dụng khu khu quảng cầu danh lợi. Hậu thời hà dụng? Đản bất kiến tánh nhân

– dú jīng niàn fó cháng xué jīng jìn liù shí xíng dào cháng zuò bù wò guǎng xué duō wén

độc Kinh niệm Phật, trường học tinh tiến, lục thời hành đạo, trường tọa bất ngọa, quảng học đa văn,

yǐ wèi fó fǎ cǐ děng zhòng sheng, jìn shì bàng fó fǎ rén

dĩ vi Phật Pháp. Thử đẳng chúng sanh, tận thị báng Phật Pháp nhân.

Buddhas of the past and future only talk about seeing your nature. All practices are impermanent. Unless they see their nature, people who claim to have attained unexcelled, complete enlightenment” are liars.
Phật trước Phật sau chỉ nói Thấy Tánh. Các hành thì vô thường. Nếu không thấy Tánh mà nói càn rằng đã đắc A Nậu Bồ Đề là đại tội nhân.
– qián fó hòu fó zhǐ yán jiàn xìng zhū xíng wú cháng ruò bù jiàn xìng wàng yán wǒ dé

Tiền Phật hậu Phật chỉ ngôn kiến tánh. Chư hành vô thường. Nhược bất kiến tánh, vọng ngôn ngã đắc

– ē nòu pú tí cǐ shì dà zuì rén

A Nậu Bồ Đề, thử thị đại tội nhân.

Among Shakyamuni’s ten greatest disciples, Ananda was foremost in learning. But he didn’t know the Buddha. All he did was study and memorize. Arhats don’t know the Buddha. All they know are so many practices for realization, and they become trapped by cause and effect. Such is a mortal’s karma: no escape from birth and death.
Trong mười đệ tử lớn của Phật, A Nan học rộng nghe nhiều bậc nhất mà không hiểu được Phật, chỉ suông học rộng nghe nhiều. Nhị thừa, ngoại đạo đều không hiểu được Phật, phân biệt các việc tu chứng, rơi vào nhân quả. Đó là nghiệp báo chúng sanh, không khỏi sanh tử.
– shí dà dì zǐ ē nán duō wén zhōng dé dì yī yú fó wú zhì zhǐ xué duō wén èr chéng
Thập đại đệ tử, A nan đa văn trung đắc đệ nhất, ư Phật vô thức, chỉ học đa văn. Nhị thừa,

–  wài dào jiē wú zhì fó zhì shù xiū zhèng duò zài yīn guǒ zhōng shì zhòng shēng yè bào

ngoại đạo giai vô thức Phật, thức sổ tu chứng, đọa tại nhân quả trung. Thị chúng sanh nghiệp báo,

bù miǎn shēng sǐ

bất miễn sanh tử.

By doing the opposite of what lie intended, such people blaspheme the Buddha. Killing them would not be wrong. The sutras say, “Since icchantikas are incapable of belief, killing them would be blameless, whereas people who believe reach the state of Buddhahood.”
Trái xa ý Phật đó là loại chúng sanh báng Phật, giết đi còn không có tội. Kinh dạy: “Ngườixiển đề không có lòng tin, giết đi không có tội.” Nếu có lòng tin, ấy là người dự vào Phật vị.

yuǎn bèi fó yì jí shì bàng fó zhòng shēng shā yù wú zuì guò jīng yún chǎn tí rén

Viễn bối Phật ý tức thị báng Phật chúng sanh, sát khước vô tội quá. Kinh vân: ” Xiển đề nhân

– bù shēng xìn xīn shā què wú zuì guò ruò yǒu xìn xīn cǐ rén shì fó wèi rén

bất sanh tín tâm, sát khước vô tội quá.” Nhược hữu tín tâm, thử nhân thị Phật vị nhân.

Unless you see your nature, you shouldn’t go around criticizing the goodness of others. There’s no advantage in deceiving yourself. Good and bad are distinct. Cause and effect are clear. Heaven and hell are right before your eyes. But fools don’t believe and fall straight into a hell of endless darkness without even knowing it.
Nếu không thấy Tánh không nên đem lòng phân biệt phỉ báng những người lương thiện, tự dối vô ích. Thiện ác rành mạch, nhân quả phân minh. Thiên đường địa ngục ở ngay trước mắt. Người ngu không tin liền rơi vào địa ngục hắc ám cũng không hay biết.

ruò bù jiàn xìng jí bù yòng qǔ cì bàng tā liáng shàn zì zhuàn wú yì shàn è lì rán

Nhược bất kiến tánh tức bất dụng thủ thứ bang tha lương thiện, tự trám vô ích. Thiện ác lịch nhiên,

yīn guǒ fēn míng tiān táng dì yù zhǐ zài yǎn qián yú rén bù xìn xiàn duò hēi àn dì nhân quả phân minh, thiên đường địa ngục chỉ tại nhãn tiền. Ngu nhân bất tín, hiện đọa hắc ám địa

yù zhōng yì bù jué bù zhī

ngục trung diệc bất giác bất tri.

What keeps them from believing is the heaviness of their karma. They’re like blind people who don’t believe there’s such a thing as light. Even if you explain it to them, they still don t believe, because they’re blind. How can they possibly distinguish light?
Chỉ do nghiệp nặng nên không khởi lòng tin. Thí như người không mắt không tin rằng có ánh sáng, như có nói cho nghe thì cũng không tin. Chỉ vì mù lòa, vịn vào đâu để phân biệt ánh sáng?

– zhǐ yuán yè zhòng gù suǒ yǐ bù xìn pì rú wú mù rén bù xìn dào yǒu guāng míng

Chỉ duyên nghiệp trọng cố, sở dĩ bất tín. Thí như vô mục nhân bất tín đạo hữu quang minh,

– zòng xiàng yī shuō yì bù xìn zhǐ yuán máng gù píng hé biàn dé rì guāng

túng hướng y thuyết diệc bất tín. Chỉ duyên manh cố, bằng hà biện đắc nhựt quang.

The same holds true for fools who end up among the lower orders of existence or among the poor and despised. They can’t live and they can’t die. And despite their sufferings, if you ask them, they say they’re as happy as gods. All mortals even those who think themselves wellborn, are likewise unaware. Because of the heaviness of their karma, such fools can’t believe and can’t get free.
Người ngu cũng giống như vậy, ngày nay rơi vào các loài súc sinh, sinh ra trong hạng bần cùng hạ tiện, muốn sống không được, muốn chết cũng không được. Tuy chỉ chịu các sự khổ, nếu có ai hỏi cũng nói rằng tôi nay vui sướng chẳng khác thiên đường. Cho nên biết rằng hết thảy chúng sanh dù chỗ sinh được coi là cõi vui cũng đều là những kẻ không có tri giác. Những kẻ ác này chỉ vì nghiệp chướng nặng nề, không khởi được lòng tin, không được tự do.

yú rén yì fù rú shì xiàn jīn duò chù shēng zá lèi dàn zài pín qióng xià jiàn qiú shēng bù

Ngu nhân diệc phục như thị, hiện kim đọa súc sanh tạp loại, đản tại bần cùng hạ tiện, cầu sinh bất

dé qiú sǐ bù dé suī shòu shì kǔ zhí wèn zháo yì yán wǒ jīn kuài lè bù yì tiān

– đắc, cầu tử bất đắc. Tuy thọ thị khổ, trực vấn trước diệc ngôn ngã kim khoái lạc bất dị thiên tang

gù zhī yí qiè zhòng shēng shēng chù wèi lè yì bù jué bù zhī rú sī è rén

đường. Cố tri nhất thiết chúng sanh sinh xứ vi lạc diệc bất giác bất tri. Như tư ác nhân

zhǐ yuán yè zhàng zhòng gù suǒ yǐ bù néng fā xìn xīn zhě bù zì yóu tā yě

chỉ duyên nghiệp chướng trọng cố, sở dĩ bất năng phát tín tâm giả, bất tự do tha dã.

People who see that their mind is the Buddha don’t need to shave their head” Laymen are Buddhas too. Unless they see their nature, people who shave their head are simply fanatics.
Nếu thấy Tâm mình là Phật, không cạo bỏ râu tóc, người bạch y cũng chính là Phật. Nếu không thấy Tánh, cạo bỏ râu tóc cũng là ngoại đạo.

– ruò jiàn zì xīn shì fó bù zài tì chú xū fà bái yī yì shì fó ruò bù jiàn xìng

Nhược kiến tự tâm thị Phật, bất tại thế trừ tu phát, bạch y diệc thị Phật. Nhược bất kiến tánh,

tì chú xū fà yì shì wài dào

– thế trừ tu phát diệc thị ngoại đạo.

But since married laymen don’t give up sex, bow can they become Buddhas?
Hỏi: Người bạch y có vợ con, không bỏ dâm dục, làm sao mà thành Phật?
– wèn yuē bái yī yǒu qī zi yín yù bù chú píng hé dé chéng fó
– Vấn viết: Bạch y hữu thê tử, dâm dục bất trừ, bằng hà đắc thành Phật?

I only talk about seeing your nature. I don’t talk about sex simply because you don’t see your nature. Once you see your nature, sex is basically immaterial. It ends along with your delight in it. Even if some habits remain’, they can’t harm you, because your nature is essentially pure.
Đáp: Chỉ nói Thấy Tánh mà không nói dâm dục chỉ vì chưa thấy Tánh. Khi thấy được Tánh, dâm dục gốc vốn rỗng lặng, tự nó đoạn trừ, cũng không vui đắm. Như còn dư tập cũng không làm hại được. Vì sao? Vì Tánh vốn thanh tịnh vậy.
– dá yuē zhǐ yán jiàn xìng bù yán yín yù zhǐ wèi bù jiàn xìng dàn dé jiàn xìng yín yù
– Đáp viết: Chỉ ngôn kiến tánh, bất ngôn dâm dục, chỉ vi bất kiến tánh. Đản đắc kiến tánh, dâm dục

běn lái kōng jì zì ěr duàn chú yì bù lè zháo zòng yǒu yú xí bù néng wèi hài

bản lai không tịch, tự nhĩ đoạn trừ, diệc bất lạc trước. Túng hữu dư tập bất năng vi hại.

hé yǐ gù xìng běn qīng jìng gù

Hà dĩ cố? Tánh bản thanh tịnh cố.

Despite dwelling in a material body of four elements, your nature is basically pure. It can’t be corrupted. Your real body is basically pure. It can’t be corrupted. Your real body has no sensation, no hunger or thirst’, no warmth or cold, no sickness, no love or attachment, no pleasure or pain, no good or bad, no shortness or length, no weakness or strength. Actually, there’s nothing here. It’s only because you cling to this material body that things like hunger and thirst, warmth and cold, sickness appear.
Tuy ở trong xác thân ngũ uẩn nhưng Tánh vốn gốc thanh tịnh, không thể bị nhiễm ô. Pháp thân vốn không thọ nhận, không đói không khát, không lạnh nóng, không bệnh hoạn, không ân ái, không quyến thuộc, không khổ vui, không tốt xấu, không ngắn dài, không mạnh yếu. Xưa nay chưa hề có một vật. Chỉ do chấp có thân xác này nên có đói khát lạnh nóng bịnh chướng các thứ.

suī chù zài wǔ yùn sè shēn zhōng qí xìng běn lái qīng jìng rǎn wū bù dé fǎ shēn běn lái

Tuy xử tại ngũ uần sắc thân trung, kỳ tánh bản lai thanh tịnh, nhiễm ô bất đắc. Pháp thân bản lai

wú shòu wú jī wú kě wú hán rè wú bìng wú ēn ài wú juàn shǔ wú kǔ

vô thọ, vô cơ vô khát, vô hàn nhiệt, vô bịnh, vô ân ái, vô quyến thuộc, vô khổ

lè wú hǎo è wú duǎn cháng wú qiáng ruò běn lái wú yǒu yī wù kě dé zhǐ yuán

lạc, vô hảo ác, vô đoản trường, vô cường nhược. Bản lai vô hữu nhất vật khả đắc. Chỉ duyên

zhí yǒu cǐ sè shēn yīn jí yǒu jī kě hán rè zhàng bìng děng xiāng

chấp hữu thử sắc thân, nhân tức hữu cơ khát hàn nhiệt chướng bệnh đẳng tướng.

Once you stop clinging and let things be, you’ll- be free, even of birth and death. You’ll transform everything. You’ll possess Spiritual powers ” that can’t be obstructed. And you’ll be at peace wherever you are. If you doubt this, you’ll never see through anything. You’re better off doing nothing. Once you act, you can’t avoid the cycle of birth and death. But once you see your nature, you’re a Buddha even if you work as a butcher.

Nếu không chấp, dù làm bất cứ việc gì, ở trong sanh tử đều được tự tại, chuyển hết thảy các Pháp, cùng với bậc Thánh nhân thần thông tự tại vô ngại, không nơi nào không phải là chỗ an vui. Nếu tâm còn nghi ngờ, nhất định sự hiểu các cảnh giới sẽ không tới nơi, tốt nhất là đừng làm, làm rồi không tránh khỏi luân hồi sanh tử. Nếu thấy Tánh, chiên đà la cũng thành Phật được.

ruò bù zhí jí yī rèn zuò ruò yú shēng sǐ zhōng dé zì zài zhuǎn yí qiè fǎ yǔ shèng

Nhược bất chấp, tức nhất nhiệm tác, nhược ư sanh tử trung đắc tự tại, chuyển nhất thiết Pháp, dữ Thánh

rén shén tōng zì zài wú ài wú chù bù ān ruò xīn yǒu yí jué dìng tòu yí qiè jìng

nhân thần thông tự tại vô ngại, vô xứ bất an. Nhược tâm hữu nghi, quyết định thấu nhất thiết cảnh

jiè bù guò bù zuò zuì hǎo zuò liǎo bù miǎn lún huí shēng sǐ ruò jiàn xìng zhān tuó luó

giới bất quá, bất tác tối hảo, tức liễu bất miễn luân hồi sanh tử. Nhược kiến tánh, chiên đà la.

yì dé chéng fó

diệc đắc thành Phật.

But butchers create karma by slaughtering animals. How can they be Buddhas?
Hỏi: Chiên đà la giết hại sinh mạng tạo nghiệp làm sao thành Phật?
– wèn yuē zhān tuó luó shā shēng zuò yè rú hé dé chéng fó
– Vấn viết : Chiên đà la sát sinh tác nghiệp như hà đắc thành Phật?

I only talk about seeing your nature. I don’t talk about creating karma. Regardless of what we do, our karma has no hold on us. Through endless kalpas without beginning, its only because people don’t see their nature that they end up in hell. As long as a person creates karma, he keeps passing through birth and death.
Đáp: Chỉ nói Thấy Tánh, không nói tạo nghiệp. Như có tạo nhiều nghiệp khác nhau nhưng không nghiệp nào trói buộc được. Từ kiếp lâu xa, chỉ có người không thấy Tánh đọa địa ngục, vì tạo các nghiệp nên luân hồi trong sanh tử.
– dá yuē zhǐ yán jiàn xìng bù yán zuò yè zòng zuò yè bù tóng yí qiè yè jū bù dé
– Đáp viết: Chỉ ngôn kiến tánh, bất ngôn tác nghiệp. Túng tác nghiệp bất đồng, nhất thiết nghiệp câu bất đắc.

cóng wú shǐ kuàng dà jié lái zhǐ wèi bù jiàn xìng duò dì yù zhōng suǒ yǐ zuò yè lún

Tòng vô thủy khoáng đại kiếp lai, chỉ vi bất kiến tánh đọa địa ngục trung, sở dĩ tác nghiệp luân

huí shēng sǐ

hồi sanh tử.

But once a person realizes his original nature, he stops creating karma. If he doesn’t see his nature, invoking Buddhas won’t release him from his karma, regardless of whether or not he’s a butcher. But once he sees his nature, all doubts vanish. Even a butcher’s karma has no effect on such a
person.
Từ khi ngộ được Bản Tánh thì không còn tạo nghiệp. Nếu không thấy Tánh, niệm Phật mà khỏi quả báo cũng không thể được, không luận giết hại sinh mạng hay không. Nếu thấy Tánh, tâm nghi liền trừ, giết sinh mạng cũng chẳng can gì.
– cóng wù dé běn xìng zhōng bù zuò yè ruò bù jiàn xìng niàn fó miǎn bào bù dé fēi lùn shā
– Tòng ngộ đắc bản tánh, chung bất tác nghiệp. Nhược bất kiến tánh, niệm Phật miễn báo bất đắc, phi luận sát

– shēng mìng ruò jiàn xìng yí xīn dùn chú shā shēng mìng yì bù nài tā hé
– sanh mệnh. Nhược kiến tánh, nghi tâm đốn trừ, sát sanh mạng diệc bất nại tha hà.

In India the twenty-seven patriarchs only transmitted the imprint of the mind. And the only reason I’ve come to China is to transmit the instantaneous teaching of the Mahayana This mind is the Buddha. I don’t talk about precepts, devotions or ascetic practices such immersing yourself in water and fire, treading a wheel of knives, eating one meal a day, or never lying down. These are fanatical, provisional teachings.
Từ hai mươi bảy vị Tổ ở Tây Thiên chỉ lần truyền Tâm Ấn. Ta nay sang nước này, chỉ truyền Đại Thừa Đốn Giáo, tức Tâm là Phật, không dạy giữ giới, tinh tấn, khổ hạnh. Những việc vào lửa vào nước, đi trên kiếm luân, ăn một bữa, ngồi hoài không nằm thảy đều là pháp hữu vi của ngoại đạo.
– zì xī tiān èr shí qī zǔ zhǐ shì dì chuán xīn yìn wú jīn lái cǐ tǔ wéi chuán dùn jiào
– Tự Tây Thiên nhị thập thất Tổ, chỉ thị đệ truyền tâm ấn. Ngô kim lai thử thổ, duy truyền Đốn Giáo

– dà chéng jí xīn shì fó bù yán chí jiè jīng jìn kǔ xíng nǎi zhì rù shuǐ huǒ dēng yú
– Đại Thừa, tức tâm thị Phật, bất ngôn trì giới tinh tiến khổ hạnh. Nãi chí nhập thủy hỏa, đăng

– ư jiàn lún yī shí cháng zuò bù wò jìn shì wài dào yǒu wèi fǎ
– kiếm luận, nhất thực, trường tọa bất ngọa, tận thị ngoại đạo hữu vi pháp.

Once you recognize your moving, miraculously aware nature. Yours is the mind of all Buddhas. Buddhas of the past and future only talk about transmitting the mind. They teach nothing else if someone understands this teaching, even if he’s illiterate he’s a Buddha. If You don’t see your own miraculously aware nature, you’ll never find a Buddha even if you break your body into atoms.
Nếu rõ biết tánh linh giác của mỗi mỗi vận động lớn nhỏ, thì tâm ngươi tức là tâm của chư Phật. Phật trước Phật sau chỉ nói truyền Tâm, không có pháp khác. Nếu rõ được pháp này, người phàm phu không biết một chữ cũng là Phật. Nếu không biết Tánh linh giác của mình, thân dù tan ra thành tro bụi tìm Phật cũng không thể thấy.
– ruò zhì dé shī wèi yùn dòng ling jué zhī xìng rǔ jí zhū fó xīn qián fó hòu fó zhǐ yán chuán
– Nhược thức đắc thí vi vận động linh giác chi tánh, nhữ tức chư Phật tâm. Tiền Phật hậu Phật chỉ ngôn truyền

  • xīn gèng wú bié fǎ ruò zhì cǐ fǎ fán fū yī zì bù zhì yì shì fó ruò bù zhì
  • tâm, cánh vô biệt pháp. Nhược thức thử pháp, phàm phu nhất tự bất thức diệc thị Phật. Nhược bất thức
  • zì jǐ líng jué zhī xìng jiǎ shǐ shēn pò rú wēi chén mì fó zhōng bù dé yě

– tự kỷ linh giác chi tánh, giả sử thân phá như vi trần, mịch Phật chung bất đắc dã.

The Buddha is your real body, your original mind. This mind has no form or characteristics, no cause or effect, no tendons or bones. It’s like space. You can’t hold it. It’s not the mind or materialists or nihilists. Except for a Tathagata, no one else- no mortal, no deluded being-can fathom it.
Phật cũng được gọi là Pháp Thân, cũng gọi là Bản Tâm. Tâm này không có hình tướng, không nhân quả, không gân cốt, giống như hư không, giữ không được, không đồng vật chất, không đồng ngoại đạo. Tâm này ngoài Như Lai hiểu được, còn những chúng sanh khác mê mờ không rõ được.
– fó zhě yì míng fǎ shēn yì míng běn xīn cǐ xīn wú xíng xiāng wú yīn guǒ wú jīn
– Phật giả diệc danh Pháp Thân, diệc danh Bản Tâm. Thử tâm vô hình tướng, vô nhân quả, vô cân

– gǔ yóu rú xū kōng qǔ bù dé bù tóng zhì ài bù tóng wài dào cǐ xīn

– chú cốt, do như hư không, thủ bất đắc, bất đồng chất ngại, bất đồng ngoại đạo. Thử tâm trừ

– rú lái yī rén néng huì qí yú zhòng shēng mí rén bù míng liǎo
– Như Lai nhất nhân năng hội, kỳ dư chúng sanh mê nhân bất minh liễu.

But this mind isn’t somewhere outside the material body of four elements. Without this mind we can’t move. The body has no awareness. Like a plant or stone, the body has no nature. So how does it move? It’s the mind that moves.
Tâm này không ở bên ngoài sắc thân tứ đại. Nếu bỏ Tâm này, thì không thể vận động, thân này thành vô tri. Giống như cây cỏ ngói gạch, thân là vô tánh, làm sao vận động được?
cǐ xīn bù lí sì dà sè shēn zhōng ruò lí shì xīn jí wú néng yùn dòng shì shēn wú
Thử tâm bất ly tứ đại sắc thân trung. Nhược ly thị tâm, tức vô năng vận động, thị thân vô

zhī rú cǎo mù wǎ lì shēn shì wú xìng yīn hé yùn dòng
trí. Như thảo mộc ngỏa lịch, thân thị vô tánh, nhân hà vận động?

Language and behavior, perception and conception are all functions of the moving mind. All motion is the mind’s motion. Motion is its function. Apart from motion there’s no mind, and apart from the mind there’s no motion.
Nếu Tâm động thì các việc nói năng vận động, thấy nghe hiểu biết đều là động tâm động dụng. Động là tâm động, động là dụng của tâm. Ngoài sự động dụng thì không có Tâm, ngoài Tâm không có động.
ruò zì xīn dòng nǎi zhì yǔ yán shī wèi yùn dòng jiàn wén jué zhī jiē shì dòng xīn dòng
Nhược tự tâm động, nãi chí ngữ ngôn thí vi vận động, kiến văn giác tri giai thị động tâm động

yòng dòng shì xīn dòng dòng jí qí yòng dòng yòng wài wú xīn xīn wài wú dòng
dụng. Động thị tâm động, động tức kỳ dụng. Động dụng ngoại vô tâm, tâm ngoại vô động.

But motion isn’t the mind. And the mind isn’t motion. Motion is basically mindless. And the mind is basically motionless. But motion doesn’t exist without the mind. And the mind doesn’t exist without motion. There’s no mind for motion to exist apart from, and no motion for mind to exist apart from. Motion is the mind’s function, and its function is its motion. Even so, the mind neither moves nor functions, the essence of its functioning is emptiness and emptiness is essentially motionless. Motion is the same as the mind. And the mind is essentially motionless.
Động chẳng phải là Tâm, Tâm chẳng phải là động. Động vốn không tâm, Tâm vốn không động. Động không lìa Tâm, Tâm không lìa động. Động không phải là lìa Tâm mà có, Tâm không phải là lìa động mà có. Động là dụng của Tâm, dụng là cái động của tâm. Không động không dụng, thể của dụng vốn là không, không vốn không động. Động và dụng cùng là tâm, mà tâm vốn không động.
dòng bú shì xīn xīn bú shì dòng dòng běn wú xīn xīn běn wú dòng dòng bù lí xīn
Động bất thị tâm, tâm bất thị động, động bản vô tâm, tâm bản vô động. Động bất ly tâm,

xīn bù lí dòng dòng wú xīn lí xīn wú dòng lí dòng shì xīn yòng yòng shì xīn dòng
tâm bất ly động, Động vô tâm ly, tâm vô động ly. Động thị tâm dụng, dụng thị tâm động.

dòng jí xīn yòng yòng jí xīn dòng bù dòng bù yòng yòng tǐ běn kōng kōng běn wú dòng
Động tức tâm dụng, dụng tức tâm động. Bất động bất dụng, dụng thể bản không, không bản vô động.

dòng yòng tong xīn xīn běn wú dòng
Động dụng đồng tâm, tâm bản vô động.

Hence the Sutras tell us to move without moving, to travel without traveling, to see without seeing, to laugh without laughing, to hear without hearing, to know without knowing, to be happy, without being happy, to walk without walking, to stand without standing.
Vì vậy Kinh dạy: “Động mà không có chỗ động.” Suốt ngày tới lui mà chưa từng đi, suốt ngày thấy mà chưa từng thấy, suốt ngày cười mà chưa từng cười, suốt ngày nghe mà chưa từng nghe, suốt ngày biết mà chưa từng biết, suốt ngày vui mà chưa từng vui, suốt ngày đi mà chưa từng đi, suốt ngày đứng mà chưa từng đứng.
gù jīng yún dòng ér wú suǒ dòng zhōng rì qù lái ér wèi céng qù zhōng rì jiàn ér wèi
Cố Kinh vân: “Động nhi vô sở động.” Chung nhật khứ lai nhi vị hội khứ, chung nhật kiến nhi

vị céng jiàn zhōn rì xiào ér wèi céng xiào zhōng rì wén ér wèi céng wén zhōng rì zhī ér wèi
hội kiến, chung nhật tiếu nhi vị hội tiếu, chung nhật văn nhi vị hội văn, chung nhật tri nhi vị

céng zhī zhōng rì xǐ ér wèi céng xǐ zhōng rì xíng ér wèi céng xíng zhōng rì zhù ér wèi
hội tri, chung nhật hỷ nhi vị hội hỷ, chung nhật hành nhi vị hội hành, chung nhật trụ nhi vị
céng zhù

hội trụ.

And the sutras say, “Go beyond language. Go beyond thought.” Basically, seeing, hearing, and knowing are completely empty. Your anger, Joy, or pain is like that of puppet. You search but you won’t find a thing.
Vì vậy Kinh dạy: “Đường ngôn ngữ dứt, chỗ tâm hành diệt. Thấy, nghe, hiểu, biết vốn tự rỗng lặng.” Cho đến giận, vui, đau, ốm chẳng khác người gỗ, chỉ do duyên tạo, tìm kiếm đau ốm chẳng thể được.
gù jīng yún yán yǔ dào duàn xīn xíng chù miè jiàn wén jué zhī běn zì yuán jì nǎi
Cố Kinh vân: “Ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt.” Kiến văn giác tri bản tự viên tịch.

Nãi zhì chēn xǐ tòng yǎng hé yì mù rén zhǐ yuán tuī xún tòng yǎng bù kě dé
chí sân hỷ thống dưỡng hà dị mộc nhân, chỉ duyên thôi tầm, thống dưỡng bất khả đắc.

According to the Sutras, evil deeds result in hardships and good deeds result in blessings. Angry people go to hell and happy people go to heaven. But once you know that the nature of anger and joy is empty and you let them go, you free yourself from karma. If you don’t see your nature, quoting sutras is no help, I could go on, but this brief sermon will have to do.
Vì vậy Kinh dạy: “Ác nghiệp thì chịu quả báo khổ, thiện nghiệp thì được quả báo vui.” Chẳng những sân đọa địa ngục, vui được sinh thiên, nhưng nếu biết sân và vui tánh không, chỉ không chấp thì nghiệp thoát. Còn nếu không thấy Tánh, giảng Kinh chẳng ích gì. Nói thì vô cùng, nay lược nói như vậy, không tỏ được một hai phần!
gù jīng yún è yè jí dé kǔ bào shàn yè jí yǒu shàn bào bù dàn chēn duò dì yù
Cố Kinh vân: ” Ác nghiệp tức đắc khổ báo, thiện nghiệp tức hữu thiện báo.” Bất đản sân đọa địa ngục,

xǐ jí shēng tiān ruò zhī chēn xǐ xìng kōng dàn bù zhí jí yè tuō ruò bù jiàn xìng
hỷ tức sanh thiên, nhược tri sân hỷ tánh không, đản bất chấp tức nghiệp thoát. Nhược bất kiến tánh,

jiǎng jīng jué wú píng shuō yì wú jìn lüè biāo xié zhèng rú shì bù jí yī èr yě
giảng Kinh quyết vô bằng. Thuyết diệc vô tận, lược tiêu tà chính như thị, bất cập nhất nhị dã.

Sources:

Tài liệu tham khảo:

  1. THE ZEN TEACHING OF BODHIDHARMA-1.pdf
  2. Zen-Teaching-of-Bodhidharma-trans-Red-Pine-clearscan.pdf
  3. http://www.buddhism.org/the-zen-teaching-of-bodhidharma-translated-by-red-pine/
  4. https://tangthuphathoc.net/tudien/nhi-nhap-tu-hanh/
  5. Photo 2: https://www.azquotes.com/quote/1033944