Quyển 4 – Chapter 4 – 卷第四 (Quyển Đệ Tứ) – Đa ngôn ngữ
English: Lu Kíuan Yu.
Chinese: Trung-Thiên-trúc.
Việt ngữ: Cư Sĩ Hạnh Cơ.
Compile: Lotus group.
1. THE REASON FOR CONTINUAL ARISAL
Purnamatreyani retraces the former teaching and brings up two doubts
Then Purnamaitreyaniputra arose from his seat in the midst of the Great Assembly, uncovered his right shoulder, knelt on his right knee, put his palms together respectfully, and said to the Buddha, “The most virtuous and awe-inspiring World Honored One has for the sake of living beings expounded the primary truth of the Thus Come One with remarkable eloquence.
”The World Honored One often singles me out as the foremost among speakers of dharma. But now when I hear the wonderful and subtle expression of the dharma, I am like a deaf person who at a distance of more than a hundred paces tries to hear a mosquito, which in fact cannot be seen, let alone heard.
”World Honored One, although Ananda and those like him have become enlightened, they have not yet cast out their habits and outflows.
”We in the assembly have reached the level of no outflows. Yet, although we have no outflows, we still have doubts about the dharma we have now heard the Thus Come One speak.
- Nguyên Do Sinh Khởi Tương Tục
- Ngài Phú-Lâu-Na hỏi Nghĩa Vọng-Sanh Tương-Tục
- Khi ấy có ngài Phú-Lâu-Na Di-Đa La-Ni Tử ở trong Đại-chúng đứng dậy, trật vai áo mặt và quì gối mặt, hiệp-chướng kính-cẩn bạch Phật: Bạch Đức Thế-Tôn! Đức Thế Tôn oai-đức cao-cả khéo vì chúng-sanh giảng dạy Như-Lai Đệ-nhứt nghĩa-đế.
- Bạch ĐứcThế-Tôn! Đức Thế-Tôn thường khen tôi là người thuyết pháp bậc nhứt. Nay tôi nghe tiếng pháp thậm-thâm vi-diệu của Đức Thế-tôn, tôi lại giống như người điếc ở cách xa trăm bước, biết tiếng muỗi bay nhưng không trông thấy, hà huống chi nghe được. Mặc-dầu Đức Thế-Tôn giảng minh-bạch khiến tôi có thể tiêu-trừ mê-chấp, nhưng tôi còn chưa thấu-triệt nghĩa rốt-ráo ở chỗ diệt hoặc.
- Bạch Đức Thế-Tôn! Như hạng ngài A-Nan tuy đã kiến đạo mà tập-khí hữu-lậu vẫn chưa hết, còn hạng tôi ở trong Giáo-Hội đã lên bậc vô-lậu, tuy hết tập-khí hữu-lậu nhưng khi nghe Đức Thế-Tôn thuyết-pháp, cũng còn phân-vân.
爾時富樓那彌多囉尼子,在大眾中,即從座起,偏袒
ěr shí fù lóu nà mí duō luó ní zǐ zài dà zhòng zhōng jí cóng zuò qǐ piān tǎn
Nhĩ thời Phú- Lầu- Na- Di- Đa –La –Ni -tử, tại đại-chúng trung, tức tùng tòa khởi, thiên đán
右肩,右膝著地,合掌恭敬,而白佛言:大威德世尊!
yòu jiān yòu xī zhuó dì hé zhǎng gōng jìng ér bái fó yán dà wēi dé shì zūn
hữu kiên, hữu tất trước địa, hiệp-chưởng cung-kính, nhi bạch Phật ngôn: Đại Oai Đức Thế-Tôn!
善為眾生,敷演如來第一義諦。世 尊 常 推 說 法 人
shàn wèi zhòng shēng fū yǎn rú lái dì yī yì dì shì zūn cháng tuī shuō fǎ rén
Thiện vị chúng-sanh, phu diễn Như-Lai đệ nhứt nghĩa đế. Thế-tôn thường suy thuyết pháp nhân
中,我為第一。今聞如來微妙法音,猶如聾人,逾百
zhōng wǒ wèi dì yī jīn wén rú lái wéi miào fǎ yīn yóu rú lóng rén yú bǎi
Trung, ngã vi đệ nhứt, Kim văn Như-Lai vi diệu pháp âm, du như lung nhân, du bá
步外聆於蚊蚋,本所不見,何況得聞?佛雖宣明,令
bù wài ling yú wén ruì běn suǒ bú jiàn hé kuàng dé wén fó suī xuān míng lìng
bộ ngoại linh ư văn nhuế, bổn sở bất kiến, hà huống đắc văn? Phật tuy tuyên minh, linh
我除惑,今猶未詳斯義究竟,無疑惑地。世尊!如阿
wǒ chú huò jīn yóu wèi xiáng sī yì jiù jìng wú yí huò dì shì zūn rú ē
Ngã trừ hoặc, kim do vị tường tư nghĩa cứu-cánh, vô nghi-hoặc địa. Thế-Tôn! Như A-
難輩,雖則開悟,習漏未除。我等會中登無漏者,雖
nán bèi suī zé kāi wù xí lòu wèi chú wǒ děng huì zhōng dēng wú lòu zhě suī
Nan bối, tuy tắc khai ngộ, tập lậu vị trừ. Ngã đẳng hội trung đăng vô lậu giả, tuy
盡諸漏,今聞如來所說法音,尚紆疑悔。
jìn zhū lòu jīn wén rú lái suǒ shuō fǎ yīn shàng yū yí huǐ
tận chư lậu; kim văn Như-Lai sở thuyết pháp âm, thượng vu nghi hối.
2.”World Honored One, if all the sense organs, sense objects, skandhas, places, and realms in all the world are the Treasury of the Thus Come One, originally pure, why do all conditioned appearances such as the mountains, the rivers, and the great earth suddenly arise?
”Moreover, the Thus Come One said that earth, water, fire, and wind are by nature perfectly fused, are all-pervasive in the Dharma Realm, and are all tranquil and everlasting.
”World Honored One, if the nature of earth is pervasive, how can it contain water? If the nature of water is pervasive, then fire does not arise. Further, how do you explain that the natures of fire and water can each pervade empty space with out displacing one another? World Honored One, the nature of earth is solid; the nature of emptiness is penetrating. How can they both pervade the Dharma Realm? I don’t know where this doctrine is leading.
”I only hope the Thus Come One will compassionately explain in order to rend the clouds of confusion in me and among the Great Assembly.” After saying this, he made a full prostration and respectfully and expectantly awaited the Thus Come One’s unsurpassed compassionate instruction.
- Bạch Đức Thế-Tôn! Tôi xin hỏi: Nếu tất cả lục-căn, lục-trần, ngũ-ấm, lục-nhập, thập-nhị xứ, thập-bát xứ ở thế-gian là Như-Lai-Tạng, bản-nhiên thanh-tịnh, tại sao lại phát sanh núi sông, đất bằng, các tướng hữu-vi có thứ lớp lưu-chuyển luôn luôn không dứt tức là vọng sanh tương-tục.
- Lại nếu tứ-đại địa hỏa thủy phong, bổn-tánh viên-dung, châu-biến, khắp cả pháp-giới, vắng-lặng thường-trụ, nhưng tại sao có những điều đáng nghi-ngờ như vầy: Tánh đất trùm khắp pháp-giới thì đáng lẽ pháp-giới toàn là đất, cớ sao lại có nước? Tánh nước trùm khắp pháp-giới thì pháp-giới toàn là nước chớ không sanh được lửa, cớ sao lại nước và lửa ở khắp hư-không chẳng tương-khắc? Tánh đất hay ngăn-ngại, tánh hư-không thì trống-rỗng, đáng lẽ hai tánh sai-biệt thì có món nầy, không có món kia, cớ sao lại đất với hư-không đều trùm khắp pháp-giới?
- Bạch Đức Thế-Tôn! Tôi chưa hiểu-thấu nghĩa rốt-ráo ấy. Kính xin Đức Thế-Tôn dũ lòng đại từ-bi giảng dạy cho tôi và Đại-chúng tường-tri.
- Bạch xong, ngài Phú-Lâu-Na Di-Đa La-Ni-Tử và Đại-chúng đồng veo năm vóc xuống đất, kính cẩn lạy Đức Phật ngưỡng-cầu Chơn-Lý Từ-Bi Vô-Thượng.
世尊!若復世間,一切根塵陰處界等,皆如來藏清淨
shì zūn ruò fù shì jiān yí qiè gēn chén yīn chù jiè děng jiē rú lái zàng qīng jìng
Thế-Tôn! Nhược phục thế-gian, nhứt thiết căn trần âm xứ giới đẳng, giai Như-Lai tạng thanh-tịnh
本然,云何忽生山河大地,諸有為相,次第遷流,終
běn rán yún hé hū shēng shān hé dà dì zhū yǒu wéi xiàng cì dì qiān liú zhōng
bổn nhiên, vân hà hốt sanh sơn hà đại địa; chư hữu vi tướng, thứ đệ thiên lưu, chung
而復始?又如來說:地水火風本性圓融,周徧法界,
ér fù shǐ yòu rú lái shuō dì shuǐ huǒ fēng běn xìng yuán róng zhōu biàn fǎ jiè
nhi phục thỉ ? Hựu Như-Lai thuyết: địa thủy hỏa phong bổn tánh viên-dung, châu biến pháp giới,
湛然 常 住。世尊!若地性徧,云何容水?水性周徧,
zhàn rán cháng zhù shì zūn ruò dì xìng biàn yún hé róng shuǐ shuǐ xìng zhōu biàn
trạm-nhiên thường-trụ. Thế Tôn! Nhược địa tánh biến, vân hà dung thủy? Thủy tánh châu biến
火則不生。復云何明水火二性俱徧虛空,不相陵滅?
huǒ zé bù shēng fù yún hé míng shuǐ huǒ èr xìng jù biàn xū kōng bù xiāng líng miè
hỏa tắc bất sanh. Phục vân hà minh thủy hỏa nhị tánh cụ biến hư không, bất tương lăng diệt?
世尊!地性障礙,空性虛通,云何二俱周徧法界?而
shì zūn dì xìng zhàng ài kōng xìng xū tōng yún hé èr jù zhōu biàn fǎ jiè ér
Thế-Tôn! Địa tánh chướng ngại, không tánh hư-thông, vân hà nhị cụ châu biến pháp giới ? Nhi
我不知,是義攸往。惟願如來宣流大慈,開我迷雲,
wǒ bù zhī shì yì yōu wǎng wéi yuàn rú lái xuān liú dà cí kāi wǒ mí yún
ngã bất tri, thị nghĩa nhu vãng. Duy nguyện Như-Lai tuyên lưu đại từ, khai ngã mê vân,
及諸大眾。作是語已,五體投地,欽渴如來無上
jí zhū dà zhòng zuò shì yǔ yǐ wǔ tǐ tóu dì qīn kě rú lái wú shàng
cập chư đại-chúng. Tác thị ngữ dĩ, ngũ thể đầu-địa, khâm khát Như-Lai Vô-Thượng
慈誨。
cí huì
tự hối.
3.The Thus Come One sequentially casts out the two doubts.
The World Honored One then told Purna and all the Arhats in the assembly who had extinguished their outflows and had reached the level of no study, “Today the Thus Come One will explain in depth the true, supreme meaning within the supreme meaning in order to cause all of you in the assembly who are fixed-nature Sound-Hearers and those arhats who have not realized the two kinds of emptiness, but are dedicated to the superior vehicle, as well as the others, to obtain the place of still extinction, the one vehicle, the true aranya, the proper place of cultivation. Listen attentively and I will explain it for you.”
Purna and the others, revering the Buddha’s expression of Dharma, listened silently.
- Nghĩa Vọng-Sanh Tương-Tục-Nhân-Không-Pháp-Không
- Thời bấy giờ, Đức Phật bảo ngài Phú-Lâu-Na và các vị lậu-tận vô-học A-La-Hán trong Giáo-Hội:
- -Nay Như-Lai vì nhứt-thiết hội-chúng, tuyên-dương tánh Thắng-nghĩa thiệt đúng trong tánh Thắng-nghĩa của Nhứt-chơn pháp-giới, để cho ông Phú-Lâu-Na và quí-vị định-tánh Thanh-văn, quí vị chưa đắc Nhân-không và Pháp-không, cho tới quí vị A-La-Hán hồi-hướng Thượng-thừa, tất cả đều tỏ-ngộ pháp Nhứt-thừa, đến chỗ tu-hành chắc-thiệt, tịch-diệt thường-trụ. Vậy quí-vị hãy tịnh-tâm nghe-hiểu tinh-tường, Ta sẽ giảng tiếp.
- Ngài Phú-Lâu-Na và Đại-chúng vâng lời, lặng-thinh trông chờ Pháp-âm Vi-diệu.
爾時世尊告富樓那,及諸會中漏盡無學諸阿羅漢:如
ěr shí shì zūn gào fù lóu nà jí zhū huì zhōng lòu jìn wú xué zhū ē luó hàn rú
Nhĩ thời Thế-Tôn cáo Phú-Lầu-Na, cập chư hội trung lậu tận vô học chư A-La-Hán: Như-
來今日,普為此會,宣勝義中, 眞勝義性。令汝會
lái jīn rì pǔ wèi cǐ huì xuān shèng yì zhōng zhēn shèng yì xìng lìng rǔ huì
Lai kim nhựt, phổ vị thử hội, tuyên thắng nghĩa trung, chơn thắng nghĩa tánh. Linh nhữ hội
中 定 性 聲 聞,及諸一切未得二空,回向上乘阿羅漢
zhōng dìng xìng shēng wén jí zhū yí qiè wèi dé èr kōng huí xiàng shàng chèng ē luó hàn
trung định tánh thinh văn, cập chư nhất thiết vị đắc nhị không, hồi hướng thượng thừa A-La-Hán
等,皆獲一乘寂滅場地,眞阿練若,正修行處。汝今
děng jiē huò yí chèng jí miè chǎng dì zhēn ē liàn ruò zhèng xiū xíng chù rǔ jīn
đẳng; giai hoạch nhứt thừa tịch diệt trường địa, chơn A-Luyện Nhã, chánh tu hành xứ. Nhữ kim
諦聽,當為汝說!富樓那等 欽 佛 法 音,默然承聽。
dì tīng dāng wèi rǔ shuō fù lóu nà děng qīn fó fǎ yīn mò rán chéng tīng
đề thính, đương vị nhữ thuyết ! Phú-Lầu-Na đẳng khâm Phật pháp âm, mặc nhiên thừa thính.
- 4. The continuation of the world.
The Buddha said, “Purna, you have asked why in fundamental purity the mountains, the rivers, and the great earth suddenly arise.
”Have you not often heard the Thus Come One expound upon the wonderful light of the enlightened nature and the bright wonder of the fundamental enlightenment.”
Purna said, “Yes, World Honored One, I have often heard the Buddha expound upon this subject.”
The Buddha said, “You speak of the light of enlightenment; is it that the natural light is called enlightenment? Or are you saying that enlightenment is initially without light and that then there is a socalled brightening of the enlightenment?”
Purna said, “If the absence of light is called enlightenment, then there is no light whatever.”
The Buddha said, “If there is no bright enlightenment without light added to it, then it is not enlightenment with it; and it is not light without it. The absence of light is not the still, bright nature of enlightenment, either.
”The nature of enlightenment is essentially bright. It is false for you to make it bright enlightenment.
- Thế-Giới Tương-Tục
- Đức Phật dạy: Phú-Lâu-Na! Ông vừa hỏi: Tánh Như-Lai-Tạng bản-nhiên thanh-tịnh, cớ sao lại phát-sanh núi sông, đất bằng. Ta hỏi lại ông: Bấy lâu nay, ông không có nghe Như-lai nói câu: “Giác-tánh diệu-minh, bổn-giác diệu-minh”?
- -Bạch Đức Thế-Tôn! Tôi thường nghe Đức Thế-Tôn nói nghĩa-lý ấy.
- -Phú-Lâu-Na! Thế nào là giác-minh? Ông nghĩ sao? Tánh tự minh gọi là giác, hoặc tánh giác không minh, cần phải minh tánh giác, gọi là minh-giác.?
- Bạch Đức Thế-Tôn! Nếu không minh mà còn gọi là giác thì giác ấy chẳng có minh gì cả.
- -Phú-Lâu-Na! Minh tức là sáng. Ông nghĩ không có chỗ sáng thì không gọi được minh-giác, phải có chỗ sáng mới gọi minh-giác. Đó là ông lầm tánh bổn-giác, gốc chẳng luận được có chỗ sáng hoặc không có chổ sáng. Nếu nói có chỗ sáng là vọng-kiến phân-biệt rồi, chớ không phải là giác. Nếu nói không có chỗ sáng thì thành ra mờ-ám, chẳng còn là tánh trong-sạch sáng-suốt tự-nhiên của bổn-giác,
như vậy là vô-minh hay sao?
佛言:富樓那!如汝所言,清淨本然,云何忽生山河
fó yán fù lóu nà rú rǔ suǒ yán qīng jìng běn rán yún hé hū shēng shān hé
Phật ngôn: Phú-Lầu-Na! Như nhữ sở ngôn, thanh-tịnh bổn-nhiên, vân hà hốt sanh sơn hà
大地?汝常不聞如來宣說,性覺妙明,本覺明妙。富
dà dì rǔ cháng bù wén rú lái xuān shuō xìng jué miào míng běn jué míng miào fù
đại địa? Nhữ thường bất văn Như-Lai tuyên thuyết, tánh giác diệu minh, bổn giác minh diệu. Phú-
樓那言:唯然,世尊!我常 聞 佛 宣 說 斯義。佛言:
lóu nà yán wéi rán shì zūn wǒ cháng wén fó xuān shuō sī yì fó yán
Lầu-Na ngôn: Duy nhiên Thế-Tôn! Ngã thường văn Phật tuyên thuyết tư nghĩa. Phật ngôn:
汝 稱 覺明,為復性明,稱名為覺?為覺不明,稱為
rǔ chēng jué míng wéi fù xìng míng chēng míng wéi jué wéi jué bù míng chēng wéi
Nhữ xưng giác minh, vi phục tánh minh, xưng danh vi giác? Vi giác bất minh, xưng vi
明覺?富樓那言:若此不明,名為覺者,則無所明。
míng jué fù lóu nà yán ruò cǐ bù míng míng wéi jué zhě zé wú suǒ míng
minh giác? Phú-Lầu-Na ngôn: Nhược thử bất minh, danh vi giác giả, tắc vô sở minh.
佛言:若無所明,則無明覺;有所非覺,無所非明。
fó yán ruò wú suǒ míng zé wú míng jué yǒu suǒ fēi jué wú suǒ fēi míng
Phật ngôn: Nhược vô sở minh, tắc vô minh giác, hữu sở phi giác, vô sở phi minh.
無明又非覺湛明性,
wú míng yòu fēi jué zhàn míng xìng
Vô minh hựu phi giác trạm minh-tánh.
5.”Enlightenment is not something that needs to be made bright, for once that is done, an object is established because of this light. Once an object is falsely set up, you as a false subject come into being.
”In the midst of what is neither the same nor different, difference blazes forth. And what is different from that difference becomes sameness, because of the difference. Once sameness and difference are created then due to them what is neither the same nor different is further established.
”This turmoil eventually brings about weariness. Prolonged weariness produces defilement. The combination of these in a murky turbidity creates affliction with respect to wearisome defilement.
”Arisal is the world; stillness is emptiness. Emptiness is sameness; the world is difference. What is neither sameness nor difference is the actual conditioned dharmas.
- Phú-Lâu-Na! Nguyên tánh giác sáng rồi, không cần chỗ sáng nào nữa. Ông lại vọng-lập thêm chỗ sáng vào tánh giác thật là sai-lầm. Thể-tánh của bổn-giác thanh-tịnh, vốn không thuộc chỗ nào, nhưng ở đâu cũng là chỗ của bổn-giác, cũng không thuộc tướng sáng nào, nhưng ở đâu cũng là tướng sáng của bổn-giác. Thể tánh của bổn-giác sáng-suốt như vậy, nhưng chúng-sanh khởi hoặc vô-minh, vọng-lập thêm phương-sở mà bị buộc vào phương-sở thành ra tạng-thức, và do tạng-thức nầy sanh tánh hay thấy. Ở trong cảnh chơn-đế thì không động không dị, nhưng bổng-nhiên tánh hay thấy vọng-lập có đồng có dị, nhân dị lập ra đồng, rồi lại đồng và dị đối-đãi nhau mà lập ra vô đồng vô vị. Trong tạng-thức xao-động như hoa-đốm rối-loạn, lại bị các duyên-trần mà sanh lao-lự mù-mịt, rồi khởi ra các sắc-tướng dấy-đục lẫn nhau, do đó phát hiện trần-lao phiền-não, nổi lên thì có núi sông, đất bằng, thế-giới hữu-hình, còn lặng xuống thì thành hư-không vô-hình. Có thế-giới là do tướng dị, có hư-không là do tướng đồng.
- Chúng-sanh và nghiệp-quả thành-tựu đều do tướng vô đồng vô dị, đó là chỗ sở-nhân của thế-gian hữu-vi pháp.
性覺必明,妄為明覺。覺非所明,因明立所,所既妄
xìng jué bì míng wàng wéi míng jué jué fēi suǒ míng yīn míng lì suǒ suǒ jì wàng
Tánh giác tất minh, vọng vi minh giác. Giác phi sở minh, nhân minh lập sở; sở ký vọng
立,生汝妄能。無同異中,熾然成異,異彼所異,因
lì shēng rǔ wàng néng wú tóng yì zhōng chì rán chéng yì yì bǐ suǒ yì yīn
lập, sanh nhữ vọng năng. Vô đồng dị trung, xí nhiên thành dị, dị bĩ sở dị, nhân
異立同。同異發明,因此復立無同無異。如是擾亂,
yì lì tóng tóng yì fā míng yīn cǐ fù lì wú tóng wú yì rú shì rǎo luàn
dị lập đồng. Đồng dị phát minh, nhân thử phục lậpvô đồng vô dị. Như thị nhiễu loạn,
相待生勞。勞久發塵,自相渾濁,由是引起塵勞煩惱。
xiāng dài shēng láo láo jiǔ fā chén zì xiāng hún zhuó yóu shì yǐn qǐ chén láo fán nǎo
tương đải sanh lao. Lao cữu phát trần, tự tương hổn trược, do thị dẫn khởi trần lao phiền não.
起為世界,靜成虛空。虛空為同,世界為異。彼無同
qǐ wéi shì jiè jìng chéng xū kōng xū kōng wéi tóng shì jiè wéi yì bǐ wú tóng
Khởi vi thế giới, tịnh thành hư-không. Hư-không vi đồng, thế giới vi dị. Bỉ vô đồng
異,眞有為法。
yì zhēn yǒu wéi fǎ
dị, chơn hữu vi pháp.
6.”The interaction of bright enlightenment and dark emptiness sets them in a perpetual rotation; thus there is the pervasiveness of wind
which supports the world.
”Because emptiness produces movement, hardened light sets up a solidity which is the store of metal. Bright enlightenment makes this hardness; thus there is the pervasiveness of metal which secures the lands.
”Obstinate attachment to unenlightened awareness results in the formation of metals, while the vibration of illusory awareness causes wind to rise up. The wind and metal rub together; thus there is the light of fire which is changeable by nature.
”The brightness of the metal produces moisture, and from the light of fire steam arises; thus there is the pervasiveness of water which encompasses realms in the ten directions.
”Fire rises and water falls, and the combination sets up a solidity. What is wet becomes the oceans and seas; what is dry becomes the continents and islands.
”Because of this, fire often rises up in the oceans, and on the continents the streams and rivers ever flow.
”When the power of water is less than that of fire, high mountains result. So it is that mountain rocks give off sparks when struck, and become liquid when melted.
”When the power of earth is less than that of water, the outcome is grasses and trees. So it is that groves and meadows turn to ashes when burned and ooze water when twisted.
”A falseness is produced with interaction as the seeds, and from these causes and conditions comes the continuity of the world.
- Thể của giác thì sáng-suốt, thể của ngoan-không thì mờ-tối. Sáng-suốt và mờ-tối đối-đãi nhau, khởi niệm vọng-minh, do đó mà sanh tướng biến-động, mới có gió gọi là phong-luân để chấp-trì cả thế-giới.
- Do ngoan-không, có tướng biến-động rồi sanh niệm vọng-giác, mới cảm thành chất cứng như đất, đá, vàng, bạc, v.v… gọi là kim-luân để bảo-trì che lảnh-thổ.
- Niệm vọng-minh cảm sanh phong-luân, niệm vọng-giác cảm sanh kim-luân. Phong-luân và kim-luân đối-đãi nhau sanh ra tướng lửa sáng gọi là hỏa-quang, có tánh biến-hóa.
- Nhờ kim-luân và hỏa-quang đối-đãi nhau, cảm thành nước gọi là thủy-luân trùm khắp thập phương thế-giới.
- Hỏa-quang có công-dụng bốc lên, thủy-luân có công-dụng chảy xuống, hai thứ ấy hòa-hiệp tạo thành thế-giới chỗ thấp-ướt là sông-biển, chỗ cao-ráo là bình-nguyên, giữa và cao-nguyên, nên giữa sông-biển thường có tia lửa sáng bốc lên, còn giữa bình-nguyên và cao-nguyên thường có nước chảy.
- Sức nuớc kém hơn sức lửa, nên hay kết thành núi cao, do đó hễ đập đá núi thì có lửa, nấu đá núi thì có nước.
- Sức đất kém hơn sức nước, nên đất bị nước rút cảm thành cỏ cây, do đó rừng nhờ đất và nước tạo, hể đốt thì thành đất, ép thì thành nước.
- Nguyên vọng-tâm phát ra các vọng-tướng, các vọng-tướng giao-cảm thành trụ hoại không, xây-vần liên-tiếp mãi, không dứt, như thế gọi là thế-giới tương-tục.
覺 明 空 昧,相 待 成 搖,故有 風 輪執持世界。因空
jué míng kōng mèi xiāng dài chéng yáo gù yǒu fēng lún zhí chí shì jiè yīn kōng
Giác minh không muội, tương đải thành diêu, cố hữu phong luân chấp trì thế giới. Nhân không
生搖,堅明立礙,彼金寶者,明覺立堅,故有金輪保
shēng yáo jiān míng lì ài bǐ jīn bǎo zhě míng jué lì jiān gù yǒu jīn lún bǎo
sanh diêu, kiên minh lập ngại, bỉ kim bửu dã, minh giác lập kiên, cố hữu kim luân bảo
持國土。堅覺寶成,搖明風出,風金相摩,故有火光
chí guó dù jiān jué bǎo chéng yáo míng fēng chū fēng jīn xiāng mó gù yǒu huǒ guāng
trì quốc độ. Kiên giác bửu thành, diêu minh phong xuất, phong kim tương ma, cố hữu hỏa quang
為變化性。寶 明 生 潤, 火 光 上 蒸, 故有水輪含十
wéi biàn huà xìng bǎo míng shēng rùn huǒ guāng shàng zhēng gù yǒu shuǐ lún hán shí
vi biến hóa tánh. Bửu minh sanh nhuận, hỏa quang thượng chưng, cố hữu thũy luân hàm thập
方 界。火 騰 水 降,交發立堅,溼為巨海,乾為洲潬。
fāng jiè huǒ téng shuǐ jiàng jiāo fā lì jiān shī wéi jù hǎi gān wéi zhōu tān
phương giới. Hỏa đằng thũy giáng, giao phát lập kiên, thấp vi cự hải, kiền vi châu đàm.
以是義故,彼大海中,火 光 常 起;彼洲潬中,江河
yǐ shì yì gù bǐ dà hǎi zhōng huǒ guāng cháng qǐ bǐ zhōu tān zhōng jiāng hé
Dĩ thị nghĩa cố, bỉ đại hải trung, hỏa quang thường khởi; chỉ châu đàm trung, giang hà
常 注。水勢劣火,結為高山,是故山石,擊則成燄,
cháng zhù shuǐ shì liè huǒ jié wéi gāo shān shì gù shān shí jí zé chéng yàn
thường chú. Thủy thế liệt hỏa, kiết vi cao sơn, thị cố sơn thạch, thịch tắc thành diệm,
融 則 成 水。土勢劣水,抽為草木,是故林藪,遇燒
róng zé chéng shuǐ tǔ shì liè shuǐ chōu wéi cǎo mù shì gù lín sǒu yù shāo
dung tắc thành thủy. Thổ thế liệt thủy, trục vi thảo mộc, thị cố lâm sát; ngộ thiêu
成 土,因 絞 成 水。 交妄發生, 遞相為種,以是因
chéng tǔ yīn jiǎo chéng shuǐ jiāo wàng fā shēng dì xiāng wéi zhǒng yǐ shì yīn
thành thổ, nhân giảo thành thủy. Giao vọng phát sanh, đệ tương vi chưởng, dĩ thị nhân
緣,世界相續。
yuán shì jiè xiāng xù
duyên, thế-giới tương-tục.
- 7. The continuation of living beings.
”Moreover, Purna, the false brightness is none other than the mistake of adding light to enlightenment.
”After the falseness of an object is established, the faculty of understanding cannot transcend it. Due to this cause and condition, hearing does not go beyond sound, and seeing does not surpass form.
”Forms, smells, tastes, and objects of touch . six falsenesses are realized. Because of them there is division into seeing, sensation, hearing, and knowing.
”Similar karma binds together: union and separation bring about transformation.
”One sees that a bright spot is generated. At the sight of the bright spot conception comes into being. Differing views produce hatred; similar views create love. The flow of love becomes a seed, and the conception is drawn into the womb. Intercourse happens with a mutual attraction of similar karma. And so there are the causes and conditions that create the kalala, the arbuda, and the rest.
”The womb-born, egg-born, moisture-born, and transformation- born come about in response: the egg-born come from thought, the womb-born are due to emotion, the moisture-born arise from union, and transformations occur through separation.
”Emotion, thought, union, and separation go through further changes, and from all the karma received one either rises or sinks. From these causes and conditions comes the continuity of living beings.
- Chúng-Sanh Tương-Tục
- -Phú-Lâu-Na! Lại như vầy nữa: Vọng-minh sanh ra bởi niệm lầm-lỗi trong lúc tối-sơ, che-khuất bổn-giác sáng-suốt, vọng-lập chỗ sở-vọng, do nhân-duyên ấy mà nghe không vượt khỏi phạm –vi của thinh và thấy không vượt khỏi phạm-vi của sắc, sáu món vọng-trần sắc thinh hương vị xúc pháp đối-đãi với sáu vọng-căn mắt tai mũi lưỡi thân ý, nên tạng-thức mới phân ra kiến văn giác tri giao-kết với ba đồng-nghiệp, hoặc hiệp hoặc ly mà sanh-sản. Ba đồng-nghiệp là nghiệp cha, nghiệp mẹ và biệt nghiệp. Đó là chỉ về loài thai-sanh và noãn-sanh tức là loài sanh thai và sanh trứng. Hiệp hoặc ly, do biệt nghiệp chớ không do nghiệp cha và nghiệp mẹ, đó là chỉ về loài thấp-sanh, như các vật máy-cựa sanh ở chỗ ẩm-ướt và loài hóa-sanh tức là loài lìa các nguyên-chất ra mà thoát sanh, như sâu hóa bướm, gạo hóa mọt.
- Tánh thấy phát minh thì các sắc-tướng phát sanh, do đó các tư-tưởng khởi hiện, hễ ý-kiến khác nhau thì sanh ra ghét, ý-kiến hạp-nhau thì sanh ra thương, giao-hiệp và lôi cuốn các đồng nghiệp tới, kết làm nhân-duyên qui-nạp vào bào-thai, ban sơ như hình bọt-nhớt gọi là Yết-la-lam, lần lần như hình bong-bóng gọi là ác-bồ-đàm, v.v…Các thứ ấy lấy nghiệp-định làm tương-cảm nên định-báo cũng tùy chỗ tương-cảm mà ứng-sanh. Như loài thai-sanh cảm theo “tình” mà sanh, loài noãn sanh cảm theo “tưởng” mà sanh, loài thấp-sanh cảm theo “hiệp” mà sanh và loài hóa-sanh cảm theo “ly” mà sanh. Các loài nặng về tình, tưởng, hoặc nặng về hiệp, ly, nhưng không nhứt-định, vì có khi tình biến làm tưởng, hiệp biến làm ly, hoặc tưởng biến làm tình, ly biến làm hiệp, có khi thai-sanh biến làm noãn-sanh, thấp-sanh biến làm hóa-sanh, hoặc noãn-sanh biến thành thai-sanh, hóa-sanh biến làm thấp-sanh, các loài ở thế-gian cam chịu nghiệp-quả vay-trả, lộn-kiếp luân-hồi, thay hình đổi xác, xây-vần luôn luôn, không dứt, như thế gọi là chúng-sanh tương-tục.
復次富樓那!明妄非他,覺明為咎。所妄既立,明理
fù cì fù lóu nà míng wàng fēi tā jué míng wéi jiù suǒ wàng jì lì míng lǐ
Phục thứ Phú-Lầu-Na! Minh vọng phi tha, giác minh vi cựu. Sở vọng ký lập, minh lý
不踰。以是因緣,聽不出聲,見不超色。色香味觸,
bù yú yǐ shì yīn yuán tīng bù chū shēng jiàn bù chāo sè sè xiāng wèi chù
bất du. Dĩ thị nhân duyên, thính bất xuất thinh, kiến bất siêu sắc. Sắc hương vị xúc,
六妄成就,由是分開見覺聞知。同 業 相 纏,合離成
liù wàng chéng jiù yóu shì fēn kāi jiàn jué wén zhī tóng yè xiāng chán hé lí chéng
lục vọng thành tựu, do thị phân khai kiến giácvăn tri. Đồng nghiệp tương triển, hiệp ly thành
化。見明色發,明見想成,異見成憎,同想成愛。流
huà jiàn míng sè fā míng jiàn xiǎng chéng yì jiàn chéng zēng tóng xiǎng chéng ài liú
hóa. Kiến minh sắc phát, minh kiến tưởng thành; dị kiến thành tắng, đồng tưởng thành ái. Lưu
愛為種,納想為胎,交遘發生,吸引同業,故有因
ài wéi zhǒng nà xiǎng wéi tāi jiāo gòu fā shēng xī yǐn tóng yè gù yǒu yīn
ái vi chưởng, nạp tưởng vi thai, giao cấu phát sanh, hấp-dẫn đồng-nghiệp, cố hữu nhân-
緣,生羯羅藍、遏蒲曇等。胎卵溼化,隨其所應,卵
yuán shēng jié luó lán è pú tán děng tāi luǎn shī huà suí qí suǒ yìng luǎn
duyên, sanh yết-la-lam, ác-bồ đàm đẳng. Thai noản thấp hóa, tùy kỳ sở ứng, noản
唯 想 生,胎因情有,溼以合感,化以離應。情想合
wéi xiǎng shēng tāi yīn qíng yǒu shī yǐ hé gǎn huà yǐ lí yìng qíng xiǎng hé
duy tưởng sanh, thai nhân tình hữu, thấp dĩ hiệp cảm, hóa dĩ ly ứng. Tình tưởng hiệp
離,更相變易,所有受業,逐其飛沈。以是因緣,眾
lí gèng xiāng biàn yì suǒ yǒu shòu yè zhú qí fēi chén yǐ shì yīn yuán zhòng
ly, cánh tướng biến dịch, sở hữu thọ nghiệp, trực kỳ phi trầm. Dĩ thị nhân-duyên, chúng
生 相 續。
shēng xiāng xù
sanh tương tục.
- 8. The continuation of karmic retribution.
”Purna, thought and love become bound together so that people love each other and cannot bear to be apart.
a.As a result, the world has seen an endless succession of births of parents, children, and grandchildren. And the basis for all of this is desire and greed.
b.”Greed and love feed on one another until greed becomes insatiable. As a result, in the world all the sentient beings born of eggs, wombs, moisture, and by transformation tend to devour one another for the nourishment of their bodies to the extent that their strength permits. And the basis for all of this is killing and greed.
c.A person eats a sheep. The sheep dies and becomes a person. The person dies and becomes a sheep, and it goes on that way through ten births and more. Through death after death and birth after birth, they come back to eat one another. The evil karma becomes innate and exhausts the bounds of the future. And the basis for all of this is stealing and greed.
Karmic debts must be repaid
”’You owe me a life; I have to repay my debt to you.’ From these causes and conditions we pass through hundreds of thousands of aeons, in a sustained cycle of birth and death.
”’You love my mind; I adore your form.’ From these causes and conditions we pass through hundreds of thousands of aeons, in a sustained mutual entanglement.
The result becomes continuation.
”Killing, stealing, and lust are themselves the basic roots. From these causes and conditions comes the continuity of karmic retribution.
- Nghiệp-Quả Tương-Tục
- -Phú-Lâu-Na! Riêng nghiệp-quả của người thế-gian có ba nguyên nhân:
- Có hạng bị ái-tình trói-buộc, các sự tưởng nhớ, thương-yêu triều-mến, quyến-luyến cứ vấn-vít kết-cấu nhau, không chịu xa-lìa nhau, nên cha mẹ con cháu thường nối-tiếp nhau mà sanh-sản mãi ở trần-tục đau-khổ. Đó là gốc ở lòng tham-dục.
- Có hạng bị sở-thích ám ảnh, khiến lòng tham-dục gia-tăng mãi không bờ-bến, nên các loài thai-sanh, noãn-sanh thấp-sanh, hóa-sanh ở thế-gian tùy sức mạnh yếu, thường giết hại nhau, ăn thịt lẫn nhau.
- Mười loài chúng-sanh ở thế-gian sống rồi chết, chết rồi sống, vay-trả xây-vần, cứ ăn lẫn nhau. Ví dụ như người mạnh hơn dê, ăn dê, dê chết rồi có thể trở làm người, người chết có thể trở làm dê, thì người ăn dê, dê trở lại ăn người, nghiệp-quả vay-trả, tuần-hoàn liên-tục, vì có tạo vọng-nghiệp như vậy, nên đời nào cũng phải sanh một chỗ với nhau để gặp-gở nhau, đền-trả cho nhau các thứ tiền-cừu, oan-gia, trái-chủ, trả từ kiếp nầy sang kiếp khác cho tới vô-biên kiếp vị-lai, không dứt. Đó là gốc ở lòng tham-đạo (tham trộm-cắp).
- Ở thế-gian người nầy mắc nợ người kia, người kia trả nợ tiền-oan cho người nầy, vay rồi trả, trả đủ lại vay, nợ-nần chồng-chất lớn-lao, hễ mắc nợ thì phải trả, trả nợ chưa xong thì phải luân -hồi nữa, vì nhân-duyên ấy mà phải trải qua trăm ngàn cho tới vô-lượng kiếp chìm-đắm trong biển sanh-tử.
- Lại cũng ở thế-gian, đây yêu lòng kia, kia yêu lòng đây, đây thích sắc kia, kia thích sắc đây, mang nặng ái-tình, vương-vấn oan-trái, triều-mến luyến-tiếc, chặt không đứt, bứt không rời, khiến phải luân-chuyển mãi ở trần-tục vô-thường, hết thân nầy mang thân khác, bị trói-buộc trong vòng ái-dục đắng-cay đời đời kiếp kiếp.
- -Phú-Lâu-Na! Ba ác-nghiệp: tham-dục, tham-sát, và tham-đạo (tham trộm-cắp) là nguồn-gốc sanh ra vô-số trần-lao thống-khổ và làm nhân-duyên cho nghiệp-quả của chúng-sanh phải chịu liên-tiếp mãi mãi, không dứt. Như thế gọi là nghiệp-quả tương-tục.
富樓那!想愛同結,愛不能離,則諸世間,父母子孫
fù lóu nà xiǎng ài tóng jié ài bù néng lí zé zhū shì jiān fù mǔ zǐ sūn
Phú-Lầu-Na! Tưởng ái đồng kiết, ái bất năng ly, tắc chư thế-gian, phụ-mẫu tử tôn
相 生 不 斷,是等則以欲貪為本。貪愛同滋,貪不能
xiāng shēng bù duàn shì děng zé yǐ yù tān wéi běn tān ài tóng zī tān bù néng
tương sanh bất đoạn, thị đẳng tắc dĩ dục tham vi bổn. Tham ái đồng tư, tham bất năng
止,則諸世間,卵化溼胎,隨力強弱, 遞相吞食,是
zhǐ zé zhū shì jiān luǎn huà shī tāi suí lì qiáng ruò dì xiāng tūn shí shì
chỉ, tắc chư thế-gian: noản hóa thấp thai, tùy lực cường nhược, đệ tương thôn thực, thị
等則以殺貪為本。以人食羊,羊死為人,人死為羊,
děng zé yǐ shā tān wéi běn yǐ rén shí yáng yáng sǐ wéi rén rén sǐ wéi yáng
đẳng tắc dĩ sát tham vi bổn. Dĩ nhân thực dương, dương tử vi nhân, nhân tử vi dương,
如是乃至十生之類,死死生生,互來相噉,惡業俱
rú shì nǎi zhì shí shēng zhī lèi sǐ sǐ shēng shēng hù lái xiāng dàn è yè jù
như thị nãi chí thập sanh chi loại, tử tử sanh sanh, hổ lai tương đạm, ác nghiệp cu
生,窮未來際,是等則以盜貪為本。汝負我命,我還
shēng qióng wèi lái jì shì děng zé yǐ dào tān wéi běn rǔ fù wǒ mìng wǒ huán
sanh, cùng vị lai tế, thị đẳng tắc dĩ đạo tham vi bổn. Nhữ phụ ngã mạn, ngã hoàn
汝債,以是因緣,經百千劫,常在生死。汝愛我心,
rǔ zhài yǐ shì yīn yuán jīng bǎi qiān jié cháng zài shēng sǐ rǔ ài wǒ xīn
nhữ trái, dĩ thị nhân duyên, kinh bá thiên kiếp, thường tại sanh tử, Nhữ ái ngã tâm,
我憐汝色,以是因緣,經百千劫,常 在 纏 縛。唯殺
wǒ lián rǔ sè yǐ shì yīn yuán jīng bǎi qiān jié cháng zài chán fú wéi shā
ngã liên nhữ sắc; dĩ thị nhân duyên, kinh bá thiên kiếp, thường tại triền phược. Duy sát
盜婬三為根本,以是因緣,業 果 相 續。
dào yín sān wéi gēn běn yǐ shì yīn yuán yè guǒ xiāng xù
đạo dâm tam vi căn bổn, dĩ thị nhân duyên, nghiệp-quả tương-tục.
9.”Therefore, Purna, the three kinds of upside down continuity come from the light which is added to enlightenment. With this false enlightening of the knowing-nature, subjective awareness gives rise to objective appearances. Both are born of false views, and from this falseness the mountains, the rivers, the great earth, and all conditioned appearances unfold themselves in a succession that recurs in endless cycles.”
- –Phú-Lâu-Na! Ba thứ điên-đảo: thế-giới tương-tục, chúng-sanh tương-tục, nghiệp-quả tương-tục, gốc ở tánh giác-minh liễu-tri, nhưng vì một niệm bất-giác trong lúc tối-sơ che-khuất mà có tạng-thức sanh vọng-kiến, rồi vọng-kiến phát ra sắc-tướng, hư-vọng, do đó thành tựu núi sông, đất bằng, các pháp hữu-vi có thứ-tự trước sau tiếp-nối nhau luôn.
富樓那!如 是 三 種 顚 倒 相 續,皆是覺明,明了知
fù lóu nà rú shì sān zhǒng diān dǎo xiāng xù jiē shì jué míng míng liǎo zhī
Phú-Lầu-Na! Như thị tam chưởng điên-đảo tương-tục, giai thị giác minh, minh liễu tri
性,因 了 發 相,從 妄 見生 山河大地諸 有為 相,次
xìng yīn liǎo fā xiàng cóng wàng jiàn shēng shān hé dà dì zhū yǒu wéi xiàng cì
tánh, Nhân liễu phát tướng, tùng vọng kiến sanh sơn hà đại địa chư hữu vi tướng, thứ
第遷流。因此虛妄 終 而 復 始。
dì qiān liú yīn cǐ xū wàng zhōng ér fù shǐ
đệ thiên lưu. Nhân thử hư-vọng chung nhi phục thỉ.
- 10. Purna Attaches to Causes and Doubts Effects..
Purna said, “If this wonderful enlightenment, this basic miraculous enlightened brightness which is neither greater than nor less than the mind of the Thus Come One, abruptly brings forth the mountains, the rivers, and the great earth, and all conditioned appearances, then now that the Thus Come One has attained the wonderful empty bright enlightenment, will the mountains, the rivers, the great earth, and all conditioned habitual outflows arise again?”
- Ngài Phú-Lâu Na hỏi Lý Giác Mê
- Ngài Phú-Lâu-Na hỏi: Nếu Tâm-Bồn-giác diệu-minh tức là Tâm-Như-Lai, dầu ở Phật dầu ở chúng-sanh đều bình-đẳng một bản-nhiên Chơn-Như thường-trụ, không thêm không bớt, tại sao vô cớ mà thoạt sanh núi sông, đất bằng và các pháp hữu-vi?
- Trước khi có núi sông, đất bằng và các pháp hữu-vi, thì Bổn-giác diệu-minh của Phật cũng như Bổn-giác diệu-minh của chúng-sanh. Như chúng-sanh ở vào địa-vị phàm-tục mê muội thì sự có núi sông, đất bằng, và các pháp hữu-vi không lạ gì. Chí như Đức Phật đã viên-chứng bổn-giác diệu-minh thì thế nào? Núi sông, đất bằng, các pháp hữu-vi cho tới nghiệp-quả tập-lậu có thể một ngày nào đó, từ Bổn-giác diệu-minh của Đức Phật sẽ vô cớ thoạt sanh hay không?
富樓那言:若此妙覺,本妙覺明,與如來心,不增不
fù lóu nà yán ruò cǐ miào jué běn miào jué míng yǔ rú lái xīn bù zēng bù
Phú-Lầu-Na ngôn: Nhược thử diệu-giác, bổn-diệu giác-minh, dữ Như-Lai tâm, bất tăng bất
減,無狀忽 生山 河大地諸有為相。如來今得妙空明
jiǎn wú zhuàng hū shēng shān hé dà dì zhū yǒu wéi xiàng rú lái jīn dé miào kōng míng
giảm, vô trạng hốt sanh sơn hà đại địa chư hữu vi tướng. Như-Lai kim đắc diệu-không minh
覺,山河大地有為習漏,何當復生?
jué shān hé dà dì yǒu wéi xí lòu hé dāng fù shēng
giác, sơn hà đại địa hữu vi tập lậu, hà đương phục sanh?
11.Explaining by Analogy which Distinguishes True and False
The Buddha said to Purna, “Consider for example a person who has become confused in a village, mistaking south for north. Is this confusion the result of confusion or of awareness?”
Purna said, “This person’s confusion is the result neither of confusion nor of awareness. Why? Confusion is fundamentally baseless, so how could it arise because of confusion? Awareness does not produce confusion, so how could it arise because of awareness?”
The Buddha said, “If a person who is aware points out the way to the person who is in the midst of confusion, and makes him aware, then do you suppose, Purna, that once the person is over his confusion he could lose his sense of direction again in that village?”
”No, World Honored One.”
- Hiển Minh Lý-Giác-Mê
- Đức Phật hỏi: Phú-Lâu-Na! Ví-dụ như có một người lạ mặt, chưa từng biết thành-phố, khi đến thành-phố thì nhận lầm hướng nam ra hướng bắc, đó là ngưới mê. Như thế cái mê ấy do mê hay do ngộ mà có?
- -Bạch Đức Thế-Tôn! Cái mê của người ấy không phải do mê, cũng không phải do ngộ. Vì cớ sao? Vì mê vốn không có gốc thì chẳng lấy gì làm nhân mê, còn ngộ không thể sanh mê thì chẳng lấy gì làm nhân ngộ?
- -Phú-Lâu-Na! Nếu người mê ấy trong lúc mê thoạt có người ngộ chỉ dạy khiến cho được ngộ thì ý ông nghĩ sao? Người mê ấy có còn mê nữa hay không?
- -Bạch Đức Thế-Tôn! Chắc hẳn là không.
- -Phú-Lâu-Na! Thập phương Như-Lai đã ngộ thì không còn mê nữa, lý cũng như vậy. Cái mê chẳng có gốc, tánh của cái mê rốt-ráo là không, thì cái mê của người lầm hướng kia, vốn chẳng có chỗ sở-nhân.
- Phú-Lâu-Na! Trước hết không có mê, nhưng chỉ vì vô-minh che-tối Bổn-giác diệu-minh nên hình như có mê. Khi biết được cái mê thì cái mê phải diệt. Khi cái mê diệt thì cái giác nguyên là Bổn-giác diệu-minh sẳn có, tự hiện rõ, như vậy cái giác không bao giờ sanh ra mê.
佛告富樓那:譬如迷人,於一聚落,惑南為北。此迷
fó gào fù lóu nà pì rú mí rén yú yí jù luò huò nán wéi běi cǐ mí
Phật cáo Phú-Lầu-Na: Thí như mê-nhân, ư nhứt tụ lạc, hoặc nam vi bắc. Thử mê
為復因迷而有?因悟而出?富樓那言:如是迷人,亦
wéi fù yīn mí ér yǒu yīn wù ér chū fù lóu nà yán rú shì mí rén yì
vi phục nhân mê nhi hữu? Nhân ngộ nhi xuất? Phú-Lầu-Na ngôn: Như thị mê nhân, diệc
不因迷,又不因悟。何以故?迷本無根,云何因迷?
bù yīn mí yòu bù yīn wù hé yǐ gù mí běn wú gēn yún hé yīn mí
bất nhân mê, hựu bất nhân ngộ. Hà dĩ cố? Mê bổn vô căn, vân hà nhân mê?
悟非生迷,云何因悟?佛言:彼之迷人,正在迷時 ,
wù fēi shēng mí yún hé yīn wù fó yán : bǐ zhī mí rén zhèng zài mí shí
ngộ phi sanh mê, vân hà nhân ngộ Phật ngôn: Bỉ chi mê nhân, chánh tại mê thời;
倏有悟人,指示令悟。富樓那!於意云何?此人縱迷
shù yǒu wù rén zhǐ shì lìng wù fù lóu nà yú yì yún hé cǐ rén zòng mí
thốc hữu ngộ nhân, chỉ thị linh ngộ. Phú-Lầu-Na! Ư ý vân hà? Thử nhân túng mê
於此聚落,更生迷不?不也!世尊!富樓那!十 方
yú cǐ jù luò gèng shēng mí fǒu fú yě shì zūn fù lóu nà shí fāng
Ư thử tụ lạc, cánh sanh mê phủ? Phất dã! Thế-Tôn! Phú-Lầu-Na! Thập phương
如來亦復如是。此迷無本,性畢竟空。昔本無迷,似
rú lái yì fù rú shì cǐ mí wú běn xìng bì jìng kōng xī běn wú mí sì
Như-Lai diệc phục như thị. Thử mê vô bổn, tánh tất cánh không. Tích bổn vô mê, tợ
有迷覺;覺迷迷滅,覺不生迷。
yǒu mí jué jué mí mí miè jué bù shēng mí
hữu mê giác; giác mê mê diệt, giác bất sanh mê.
12.”Purna, the Thus Come Ones of the ten directions are the same way. Confusion is groundless and ultimately empty in nature. There had basically been no confusion: it merely seemed as if there were confusion and enlightenment. When the delusion about confusion and enlightenment is ended, enlightenment does not give rise to confusion.
”It is also like a person with an eye-ailment who sees flowers in space. If he gets rid of his eye-ailment, the flowers in space will disappear. If he were so stupid as to quickly return to the spot where the flowers disappeared and wait for them to reappear, would you consider that person to be stupid or smart?”
Purna said, “Originally there weren’t any flowers in space. It was through a falseness in the seeing that they were produced and extinguished. To see the disappearance of the flowers in space is already upside down. To wait for them to reappear is sheer madness. Why bother to determine further if such a person is stupid or smart?”
The Buddha said, “Since you explain it that way, why do you ask if the wonderful enlightened bright emptiness can once again give rise to the mountains, the rivers, and the great earth?
”It is like a piece of ore containing gold and a mixture of other metals. Once the pure gold is extracted, it will not become an ore again. It is like wood that has been burned to ashes; it will not become wood again.
”The Bodhi and Nirvana of all Buddhas, the Thus Come Ones, are the same way.
- Phú-Lâu-Na! Nguyên vô-minh là gốc phát-khởi thế-gian pháp, nhưng vô-minh không có tự-thể, thì thế-gian pháp cũng như vậy.
- Phú-Lâu-Na! Ví như người bị bịnh mắt thấy giữa hư-không có vô-số hoa-đốm rối loạn, nhưng khi hết bịnh mắt, người ấy không còn thấy hoa-đốm nữa tức là các hoa-đốm tiêu-tan. Nếu có kẻ nào cứ ngó chỗ hoa-đốm đã tiêu-tan, chờ-đợi hoa-đốm tái sanh thì ông thử nghĩ kẻ ấy ngu hay là trí?
- -Bạch Đức Thế-Tôn! Hư-không vốn chẳng có hoa-đốm chi cả. Chỉ tại người có vọng-kiến thấy bậy hoa-đốm có sanh có diệt. Thậm chí thấy có hoa-đốm tiêu-tan giữa hư-không cũng là điên-đảo mê-loạn. Nếu kẻ nào chờ-đợi hư-không sanh lại hoa-đốm thì thật là dại biết bao! Kẻ ấy thành ra điên-cuồng rồi, còn nói gì đến sự ngu hay trí nữa.
- -Phú-Lâu-Na! Thế là ông đã hiểu kẻ chờ-đợi hư-không sanh hoa-đốm là ngu rồi. Khi ông chưa hiểu thì ông hỏi lúc nào Tánh không của Bổn-giác diệu-minh của Như-Lai cảm sanh sơn-hà đại-địa, bây giờ ông hiểu rồi, nghi-vấn của ông thế nào?
- Phú-Lâu-Na! Lại như trong mỏ đá có lộn vàng, trong khi vàng còn ở xen theo đá thì hai vật lẫn-lộn nhau, khó phân-biệt, nhưng đến khi lấy hết vàng ra khỏi đá, thì đá là đá, vàng là vàng, vàng không có lộn đá được, nếu muốn tìm đá trong đống vàng là dại. Cũng như cây đốt ra tro thì tro không thể nào trở lại làm cây được, nếu muốn tìm cây trong đống tro là dại.
- Xét theo lý ấy, ông thông-đạt Bồ-Đề Niết-Bàn của chư Phật cũng như vậy. Khi viên-chứng Bồ-Đề Niết-Bàn thì hoàn-phục Tâm Bổn-giác diệu-minh, trạm-tịch thường-trụ, đã chuyển tất cả nghiệp phiền-não sanh-tử thì không bao giờ sanh ra các nghiệp điên-đảo ấy nữa, ví như vàng thì không còn đá, tro thì không trở làm cây.
亦如翳人見 空 中 華,翳病若除,華於空滅。忽有愚
yì rú yì rén jiàn kōng zhōng huā yì bìng ruò chú huā yú kōng miè hū yǒu yú
Diệc như ế nhân kiến không trung hoa, ế bịnh nhược trừ, hoa ư không diệt. Hốt hữu ngu
人,於彼空華所滅空地,待華更生。汝觀是人,為愚
rén yú bǐ kōng huā suǒ miè kōng dì dài huā gèng shēng rǔ guān shì rén wéi yú
nhân, ư bỉ không ba sở diệt không địa, đải ba cánh sanh. Nhữ quan thị nhân, vi ngu
為慧?富樓那言:空 元 無 華,妄見生滅。見華滅空,
wéi huì fù lóu nà yán kōng yuán wú huā wàng jiàn shēng miè jiàn huā miè kōng
vi huệ? Phú-Lầu-Na ngôn: Không nguyên vô hoa, vọng kiến sanh diệt. Kiến hoa diệt không,
已是顚倒 ,敕令更出,斯實狂癡。云何更名,如是狂
yǐ shì diān dǎo chì lìng gèng chū sī shí kuáng chī yún hé gèng míng rú shì kuáng
Dĩ thị điên-đảo; sắc lịnh cánh xuất, tư thiệt cuồng si, vân hà cánh danh, như thị cuồng
人為愚為慧?佛言:如汝所解,云何問言:諸佛如來
rén wéi yú wéi huì fó yán rú rǔ suǒ jiě yún hé wèn yán zhū fó rú lái
nhân vi ngu vi huệ? Phật ngôn: Như nhữ sở giải, vân hà vấn ngôn: chư Phật Như-Lai
妙 覺明 空,何當更出山河大地?又如金鑛,雜於精
miào jué míng kōng hé dāng gèng chū shān hé dà dì yòu rú jīn kuàng zá yú jīng
diệu-giác minh không, hà đương cánh xuất sơn hà đại địa? Hựu như kim khoáng, tập ư tinh
金 ,其金一純,更不成雜;如木成灰,不重 為木。
jīn qí jīn yì chún gèng bù chéng zá rú mù chéng huī bù chóng wéi mù
kim; kỳ kim nhứt thuần, cánh bất thành tạp; như mộc thành thán, bất trùng vi mộc.
諸佛如來,菩提涅槃,亦復如是!
zhū fó rú lái pú tí niè pán yì fù rú shì
Chư Phật Như-Lai, Bồ-đề Niết-bàn, diệc phục như thị.
13.THE REASON FOR PERFECT PENETRATION
“Purna, you also asked whether the natures of water and fire would not destroy each other if the natures of earth, water, fire, and wind were all perfectly fused and pervaded the Dharma Realm, and whether subtle emptiness and the great earth would not be incompatible if both pervaded the Dharma Realm.
”For example, Purna, the substance of emptiness is not the myriad things, and yet it does not prevent the inclusion of all appearances within it.
”Do you know the reason why? Purna, the empty space is bright on a sunny day, and dark when the sky is cloudy. It moves when the wind rises up, it is fresh when the sky clears. It is turbid and hazy when the weather is foul, it is obscure when a dust-storm breaks out. It casts a bright reflection on a pool of clear water.
”What do you think of these conditions which come into existence at different places? Are they created from these conditions themselves or do they find their origin in emptiness? If they arise from those conditions, Purna, then on a sunny day since the sun is bright, all the worlds of the ten directions should take the form of the sun. Then how does it happen that on a sunny day one still sees the round sun in the sky? If emptiness is bright, emptiness itself should shine. How does it happen that when there is a covering of clouds and fog there is no light in evidence?
”You should know that brightness is not the sun, is not emptiness, and is not other than the emptiness and the sun.
”The truly wonderful enlightened brightness is the same way. If your karma finds expression in emptiness, then emptiness will appear. If your karma finds expression in one or another of earth, water, fire, or wind, that one will appear. If your karma finds expression in them all, they will all appear.
- Sự Dung Thông của Các Đại Chủng
- Phú-Lâu-Na! Ông có hỏi: Bổn-tánh viên-dung trùm khắp pháp-giới của đất lửa nước gió, tại sao nước và lửa không tiêu-diệt nhau? Hư-không vô-hình, đại-địa hữu-hình, trùm khắp pháp-giới, tại sao không dung nhau?
- Nguyên Như-Lai Tạng tánh chẳng phải các tướng như: địa hỏa thủy phong không kiến và thức, cũng chẳng cấm-chỉ các tướng phát khởi, ví như thể hư-không chẳng phải các tướng, cũng chẳng ngăn-cản được các tướng phát-huy. Vì sao? Vì hư-không vốn trống-rỗng, hễ mặt trời soi thì sáng, mây che thì tối, gió thổi thì động, khô-ráo yên-lặng thì thanh, sương mù khí ngưng thì trược, đất tụ thì ngăn, nước lạnh thì ngại. Ý ông nghĩ sao? Các tướng hữu-vi sai-biệt như vậy có cái sáng là nhờ mấy tướng khác trợ-duyên, hoặc nhờ mặt trời hay là hư-không mà hiện?
- Phú-Lâu-Na! Nếu cái sáng nhờ mặt trời mà hiện thì khi mặt trời chiếu, cho là mặt trời sáng, như thế cả mười phương thế-giới toàn là một sắc của mặt trời, đáng lý không có hình mặt trời nữa, nhưng tại sao còn thấy mặt trời tròn ở giữa hư-không?
- Nếu cái sáng nhờ hư-không mà hiện, thì đáng lý hư-không cứ tự sáng luôn luôn, tại sao lúc ban đêm và khi có mây mù lại chẳng thấy sáng? Ông nên biết cái sáng phát sanh không phải nhờ mặt trời hay hư-không, cũng chẳng phải ly mặt trời hoặc ly hư-không.
- Xét các tướng vốn là hư-không, không thể chỉ bày, cũng như sự mong-cầu hoa-đốm kết thành quả hư-không thì còn có lý do gì nghi-vấn chỗ không tiêu-diệt nhau?
- Xét nguyên tánh Chơn-giác huyền-diệu sáng-suốt của Tâm Bổn-giác diệu-minh không phải là nước hoặc lửa thì còn lý-do gì nghi-vấn chỗ không dung nhau? Tâm Bổn-giác diệu-minh cũng như vậy. Nếu Tâm phát minh tướng hư-không thì có hư-không phát-hiện, phát-minh các tướng như: địa hỏa thủy phong v.v… thì mỗi tướng mỗi hiện, nếu đồng thời phát-minh thì các tướng đồng hiện một lượt. Sao gọi là đồng hiện?
富樓那!又汝問言:地 水 火 風 本 性 圓 融,周徧法
fù lóu nà yòu rǔ wèn yán dì shuǐ huǒ fēng běn xìng yuán róng zhōu biàn fǎ
Phú-Lầu-Na! Hựu nhữ vấn ngôn: Địa thủy hỏa phong bổn-tánh viên dung, châu biến pháp
界,疑水火性,不相陵滅。 又 征 虛 空 及 諸 大地俱
jiè yí shuǐ huǒ xìng bù xiāng líng miè yòu zhēng xū kōng jí zhū dà dì jù
giới, nghi thủy hỏa tánh , bất tương lăng diệt. Hựu trưng hư-không cập chư đại địa cu
徧 法界,不 合 相 容。富樓那!譬如虛空,體非群相,
biàn fǎ jiè bù hé xiāng róng fù lóu nà pì rú xū kōng tǐ fēi qún xiàng
biến pháp-giới, bất hiệp tương dung. Phú-Lầu-Na! Thí như hư-không, thể phi quần tướng,
而不拒彼諸相發揮。所以者何?富樓那!彼太虛空,
ér bú jù bǐ zhū xiàng fā huī suǒ yǐ zhě hé fù lóu nà bǐ tài xū kōng
nhi bất cự bỉ chư tướng phát huy. Sở dĩ giả hà? Phú-Lầu-Na! Bỉ thái hư-không,
日照則明,雲屯則暗,風搖則動,霽澄則清,氣凝則
rì zhào zé míng yún tún zé àn fēng yáo zé dòng jì chéng zé qīng qì níng zé
nhựt chiếu tắc minh, vân đồn tắc ám, phong diêu tắc động, tể trừng tắc thanh, khí ngưng tắc
濁,土積成霾,水澄成映。於意云何?如是殊方諸有
zhuó tǔ jī chéng mái shuǐ chéng chéng yìng yú yì yún hé rú shì shū fāng zhū yǒu
trược, thổ tích thành mai, thủy trừng thành ách. Ư ý vân hà? Như thị thù phương chư hữu
為相,為因彼生?為復空有?若彼所生。富樓那!且
wéi xiàng wéi yīn bǐ shēng wéi fù kōng yǒu ruò bǐ suǒ shēng fù lóu nà qiě
vi tướng, vi nhân bỉ sanh? Vi phục không hữu ? Nhược bỉ sở sanh. Phú-Lầu-Na! Thả
日照時,既是日明,十 方 世 界 同 為 日 色,云 何 空
rì zhào shí jì shì rì míng shí fāng shì jiè tóng wéi rì sè yún hé kōng
nhựt chiếu thời, ký thị nhựt minh, thập phương thế-giới đồng vi nhựt sắc, vân hà không
中 更 見 圓 日?若 是 空 明,空應自照,云何中宵雲
zhōng gèng jiàn yuán rì ruò shì kōng míng kōng yīng zì zhào yún hé zhōng xiāo yún
trung cánh kiên viên nhựt? Nhược thị không minh, không ứng tự nhiên, vân hà trung tiêu vân
霧之時不生 光 耀?當知是明,非日非空,不異空日。
wù zhī shí bù shēng guāng yào dāng zhī shì míng fēi rì fēi kōng bù yì kōng rì
vụ chi thời bất sanh quang diêu? Đương tri thị minh, phi nhựt phi không, bất dị không nhựt.
觀 相 元 妄, 無可指陳,猶邀空華,結為空果,云
guān xiàng yuán wàng wú kě zhǐ chén yóu yāo kōng huā jiē wéi kōng guǒ yún
Quan tướng nguyên vọng, vô khả chỉ trần, do khiếu không hoa, kiết vi không quả, vân
何詰其相 陵 滅 義?觀 性 元 眞,唯妙覺明,妙覺明
hé jié qí xiāng líng miè yì guān xìng yuán zhēn wéi miào jué míng miào jué míng
hà cật kỳ tương lăng diệt nghĩa? Quan tánh nguyên chơn, duy diệu giác minh, diệu giác minh
心,先非水火,云何復問不相容者?眞妙覺明,亦復
xīn xiān fēi shuǐ huǒ yún hé fù wèn bù xiāng róng zhě zhēn miào jué míng yì fù
tâm, tiên phi thủy hỏa, vân hà phục vấn bất tương dung giả? Chơn diệu giác-minh, diệc phục
如是!汝以空明,則有空現。地水火風各各發明,則
rú shì rǔ yǐ kōng míng zé yǒu kōng xiàn dì shuǐ huǒ fēng gè gè fā míng zé
như thị! Nhữ dĩ không minh, tắc hữu không hiện. Địa thủy hỏa phong các các phát minh, tắc
各各現;若俱發明,則有俱現。云何俱現?
gè gè xiàn ruò jù fā míng zé yǒu jù xiàn yún hé jù xiàn
các các hiện; nhược cụ phát minh, tắc hữu cụ hiện. Vân hà cụ hiện?
14.”How can they all appear? Suppose, Purna, the sun’s reflection appears in a single body of water, and two people gaze at it, both at the same time. Then one person walks east and the other walks west. Each person, still looking in the water, will see a sun go along with him, one to the east, one to the west, seemingly without there being any fixed direction for the movement of the sun’s reflection.
”You shouldn’t belabor the question and say, ‘If there is one sun, how can it follow both people? Since the sun is double, why does only one appear in the sky?’ This is just to revolve in falseness, because it cannot be proved.
”Contemplate the fundamental falseness of appearances. They are just like flowers that are conjured up in space and produce empty fruit. Why, then, investigate the meaning of their formation and disappearance?
”Contemplate the fundamental truth of the nature. It is solely the wonderful enlightened brightness, the wonderful enlightened bright mind. Originally, it is neither water nor fire. Why, then, ask about incompatibility?
- -Phú-Lâu-Na! Ví dụ như trong một dòng nước hiện ra một bóng mặt trời. Có hai người đồng xem bóng mặt trời, rồi tách riêng ra, người đi phía đông, kẻ đi phía tây, mỗi người mỗi ngã, cả hai đều thấy bóng mặt trời đi theo, cái đi đông, cái đi tây, vẫn không nhứt-định chuẩn-đích. Như vậy không nên vấn-nạn: mặt trời chỉ có một, làm sao thành hai, chia ra mỗi cái đi một ngã? Bóng mặt trời đi hai hướng, thành hai cái, đã thành hai rồi, tại sao chỉ thấy có một? Đó là tại hư-vọng mà hóa ra mê-loạn, chớ không thể lấy được lý-do gì mà làm bằng-chứng cho hai bóng mặt trời, cũng như trần-cảnh, nếu có chuẩn-đích thì còn có lý do biện bác, còn không có chuẩn-đích mà cứ vấn-nạn viễn-vông, không có căn-nguyên thật-tế thì càng vấn-nạn càng sa vào chỗ hư-vọng, đen-tối. Vậy các tướng: địa hỏa thủy phong không kiến thức, chẳng có chuẩn-đích tất nhiên là cảnh hư-vọng.
富樓那!如一水中,現於日影,兩 人 同 觀 水 中 之
fù lóu nà rú yì shuǐ zhōng xiàn yú rì yǐng liǎng rén tóng guān shuǐ zhōng zhī
Phú-Lầu-Na! Như nhứt thủy trung, hiện ư nhựt ảnh, lưỡng nhân đồng quan thủy trung chi
日,東西各行,則各有日隨二人去,一東一西,先無
rì dōng xī gè xíng zé gè yǒu rì suí èr rén qù yì dōng yì xī xiān wú
nhựt, đông tây các hành, tắc các hữu nhựt tùy nhị nhân khứ, nhứt đông nhứt tây, tiên vô
準 的。不應難言,此日是一,云何各行?各日既雙,
zhǔn dì bù yīng nán yán cǐ rì shì yī yún hé gè xíng gè rì jì shuāng
chuẩn-đích. Bất ứng nạn ngôn, thử nhựt thị nhứt, vân hà các hành? Các nhựt ký song,
云何現一?宛 轉 虛 妄,無可憑據。
yún hé xiàn yī wǎn zhuǎn xū wàng wú kě píng jù
vân hà hiện nhứt? Xuyển chuyển hư-vọng, vô khả bằng cứ.
15.”Purna, you think that form and emptiness overcome and destroy one another in the Treasury of the Thus Come One. Thus the Treasury of the Thus Come One accordingly appears to you as form and emptiness throughout the Dharma Realm.
”And so, within it the wind moves, emptiness is still, the sun is bright, and the clouds are dark. The reason for this lies in the delusion of living beings who have turned their backs on enlightenment and joined with the ‘dust.’ Thus, the wearisome defilements come into being and mundane appearances exist.
- Phú-Lâu-Na! Như Ông lấy sắc và không, cho rằng tương-khuynh tương-đoạt tức là có thể tiêu-diệt lẫn nhau ở trong Như-Lai Tạng thì Như-Lai Tạng cũng theo ông làm sắc, làm không trùm khắp pháp giới. Vì cớ ấy nên ở trong đó các vật-tượng như gió động, hư-không lặng, mặt trời sáng, mây mù tối, chúng-sanh mê-muội, trái-nghịch với bổn-giác, giao-kết với trần-tướng, do đó phát sanh vô-số trần-lao phiền-não và thành-tựu các tướng thế-gian.
富樓那!汝以色空,相 傾 相 奪 於 如來藏。而如來
fù lóu nà rǔ yǐ sè kōng xiāng qīng xiāng duó yú rú lái zàng ér rú lái
Phú-Lầu-Na! Nhữ dĩ sắc không, tương khuynh tương đoạt ư Như-Lai tạng. Nhi Như-Lai
藏,隨為色空,周徧法界。是故於中,風 動 空 澄,
zàng suí wéi sè kōng zhōu biàn fǎ jiè shì gù yú zhōng fēng dòng kōng chéng
tạng, tùy vi sắc không, châu biến pháp-giới. Thị cố ư trung, phong động không trừng,
日明雲暗。眾 生 迷悶,背覺合塵,故發塵勞,有世
rì míng yún àn zhòng shēng mí mèn , bèi jué hé chén gù fā chén láo yǒu shì
nhựt minh vân ám. Chúng-sanh mê-muộn, bội giác hiệp trần; cố phát trần-lao, hữu thế-
間相。
jiān xiàng
gian tướng.
16.”With the wonderful brightness that is not extinguished and not produced, I unite with the Treasury of the Thus Come One. Thus the Treasury of the Thus Come One is the unique and wonderful enlightened brightness which completely illumines the Dharma Realm.
”That is why, within it, the one is limitless; the limitless is one. In the small appears the great; in the great appears the small.
”Unmoving in the Bodhimanda, yet pervading the ten directions, my body contains the ten directions and endless emptiness. On the tip of a single hair appear the lands of the Jeweled Kings. Sitting in a mote of dust, I turn the great Dharma wheel, destroy the defilements, and unite with enlightenment, so, true suchness, the wonderful enlightened bright nature, comes into being.
”The Treasury of the Thus Come One is the fundamental, wonderful, perfect mind.
- –Phú-Lâu-Na! Chí như Ta lấy tánh Chơn-giác diệu-minh bất-sanh bất-diệt dung-hiệp với Như-Lai Tạng thì Như-Lai Tạng chỉ thuần một tánh Chơn-giác diệu-minh thường-tịnh thường-chiếu viên-mãn cả pháp-giới. Vì cớ ấy ở trong đó, một là vô-lượng, vô-lượng là một, trong nhỏ hiện ra lớn, như thế là lý tức sự, sự tức lý, lý-sự viên-dung vô-ngại, lý vô-ngại, lý-sự vô-ngại, sự-sự vô-ngại, đạo-tràng bất-động châu-biến khắp cả mười phương pháp-giới, thân bao-hàm thập phương hư-không vô-tận, nơi đầu một sợi lông hiện rõ cõi Như-Lai, ngồi ở một hột vi-trần chuyển bánh xe Pháp, dứt-tuyệt các trần-tướng, hòa-hiệp với Bổn-giác, hiện rõ tánh Chơn-Như Viên-giác diệu-minh.
我以妙明不滅不生合如來藏,而如來藏唯妙覺明,圓
wǒ yǐ miào míng bú miè bù shēng hé rú lái zàng ér rú lái zàng wéi miào jué míng yuán
Ngã dĩ diệu-minh bất diệt bất sanh hiệp Như-Lai tạng, nhi Như-Lai tạng duy diệu giác minh, viên
照 法 界。是故於中,一為無量,無量為一;小中現
zhào fǎ jiè shì gù yú zhōng yī wéi wú liàng wú liàng wéi yī xiǎo zhōng xiàn
chiếu pháp-giới, thị cố ư trung, nhứt vi vô lượng, vô lượng vi nhứt; tiểu trung hiện-
大 ,大中現小。 不動道場徧十方界, 身含十方無
dà dà zhōng xiàn xiǎo bú dòng dào chǎng biàn shí fāng jiè shēn hán shí fāng wú
đại; đại trung hiện-tiểu. Bất động đạo tràng biến thập phương giới, thân hàm thập phương vô
盡虛空,於一毛端現寶王剎,坐微塵裡轉大法輪。滅
jìn xū kōng yú yì máo duān xiàn bǎo wáng chà zuò wéi chén lǐ zhuǎn dà fǎ lún miè
tận hư-không, ư nhứt mao đan hiện bửu-vương sát, tọa vi trần lý chuyển đại pháp luân. Diệt
塵合覺,故發眞如妙覺明性。
chén hé jué gù fā zhēn rú miào jué míng xìng
trần hiệp giác, cố pháp chơn như diệu giác-minh tánh.
- 17. In the Empty Treasury All is Non-Existent
”It is not the mind, nor emptiness, nor earth, nor water, nor wind, nor fire; it is not the eyes, nor the ears, the nose, the tongue, the body, or the mind. It is not form, nor sound, smells, tastes, objects of touch, or dharmas. It is not the realm of eye-consciousness, nor any other, up to and including the realm of mind-consciousness.
”It is not understanding, nor ignorance, nor the ending of understanding or ignorance, nor any other, up to and including old age and death and the ending of old age and death.
”It is not suffering, nor accumulation, nor extinction, nor the way. It is neither knowing nor attaining.
”It is not dana, nor shila, nor virya, nor kshanti, nor dhyana, nor prajna, nor paramita.
Nor any other: it is not the Tathagata, nor the arhats, nor samyaksambodhi, nor parinirvana, nor eternity, nor bliss, nor true self, nor purity.
”Therefore, it is neither mundane nor transcendental, since the Treasury of the Thus Come One is the fundamental brightness of the wonderful mind.
- Tạng Không và Bất Không
- Phú-Lâu-Na! Tâm Bổn-giác diệu-minh châu-viên của Như-Lai Tạng rỗng-không, thông-suốt, chẳng thuộc về pháp nào cả, thế nên phi tâm phi không, chẳng phải địa hỏa thủy phong, chẳng phải nhãn nhĩ tỹ thiệt thân ý, chẳng phải sắc thinh hương vị xúc pháp, chẳng phải nhãn-thức-giới, nhĩ-thức-giới, tỹ-thức-giới, thiệt-thức-giới, thân-thức-giới, ý-thức-giới.
- Tâm Bổn-Giác diệu-minh châu-viên không phải minh và vô-minh, không phải minh và vô-minh tận, dĩ-chí không phải lão, không phải tử, không phải lão tử tận, không phải khổ, không phải tập, không phải diệt, không phải đạo, không phải trí, không phải đắc, không phải bố-thí trì-giới tinh-tấn nhẫn-nhục thiền-định trí-huệ, không phải đáo-bỉ-ngạn. Như thế cho tới không phải Như-Lai Ứng-Cúng Chánh-Biến-Tri, không phải Đại-Niết-Bàn, không phải thường lạc ngã tịnh. Đó là vì Tâm Bổn-giác vốn “không”, nên tất cả pháp thế-gian và xuất thế-gian đều thuộc nghĩa “Phi”.
而如來藏,本妙圓心。非心、非空,非地、非水、非
ér rú lái zàng běn miào yuán xīn fēi xīn fēi kōng fēi dì fēi shuǐ fēi
Nhi Như-Lai tạng, bổn diệu viên tâm. Phi tâm , phi không, phi địa, phi thủy, phi
風、非火。非眼、非耳鼻舌身意,非色、非聲 香味觸
fēng fēi huǒ fēi yǎn fēi ěr bí shé shēn yì fēi sè fēi shēng xiāngwèi chù
phong, phi hỏa. Phi nhãn, phi nhĩ tỹ thiệt thân ý, phi sắc, phi thinh hương vị xúc
法,非眼識界,如是乃至非意識界。非明無明、明無
fǎ fēi yǎn shì jiè rú shì nǎi zhì fēi yì shì jiè fēi míng wú míng míng wú
pháp, phi nhãn-thức giới, như thị nãi chí phi ý-thức giới. Phi minh vô-minh, minh vô-
明盡,如是乃至非老非死、非老死盡,非苦、非集、
míng jìn rú shì nǎi zhì fēi lǎo fēi sǐ fēi lǎo sǐ jìn fēi kǔ fēi jí
minh tận, như thị nãi chí phi lão phi tử, phi lão-tử tận, phi khổ, phi tập,
非滅、非道,非智、非得。非檀那、非尸羅、非毗梨
fēi miè fēi dào fēi zhì fēi dé fēi tán nà fēi shī luó fēi pí lí
phi diệt, phi đạo, phi trí, phi đắc. Phi đàn-na, phi thi-la, phi tỳ-lê-
耶、非羼提、非禪那、非般刺若、非波囉蜜多;如是
yē fēi chàn tí fēi shàn nà fēi bō là ruò fēi bō luó mì duō rú shì
gia, phi sẵn-đề, phi thiền-na, phi bát-lặc-nhã, phi ba-la-mật đa; như thị
乃至非怛闥阿竭、非阿囉訶、三耶三菩、非大涅槃,
nǎi zhì fēi dá tà ē jié fēi ē luó hē sān yē sān pú fēi dà niè pán ,
nãi chí phi đác-thác a-kiệt, phi a-la-ha, tam-gia tam-bồ, phi đại Niết- bàn,
非常、非樂、非我、非淨。以是俱非,世出世故,
fēi cháng fēi lè fēi wǒ fēi jìng yǐ shì jù fēi shì chū shì gù
phi thường, phi lạc, phi ngã, phi tịnh. Dĩ thị cự phi, thế xuất thế cố.
18.”It is the mind, it is emptiness, it is earth, it is water, it is wind, it is fire, it is the eyes, it is the ears, the nose, the tongue, the body, and the mind. It is form, it is sounds, smells, tastes, objects of touch, and dharmas. It is the realm of eye-consciousness, and so forth up, to and including the realm of mind-consciousness.
It is understanding and ignorance and the ending of understanding and ignorance, and so forth up to and including old age and death and the ending of old age and death. It is suffering, it is accumulation, it is extinction, and it is the way. It is knowing and attaining. It is dana, it is shila, it is virya, it is kshanti, it is dhyana, it is prajna, and it is paramita, and so forth, up to and including the Tathagata, the arhats, samyaksambodhi, parinirvana, eternity, bliss, true self, and purity.
”It is both mundane and transcendental, since the Treasury of the Thus Come One is the wonderful brightness of the fundamental mind.
”It is apart from ‘is’ and ‘is not.’ It is identical with ‘is’ and ‘is not.’
- –Phú-Lâu-Na! Nếu ly Tâm Bổn-giác diệu-minh châu-viên của Như-Lai tạng thì từ tứ Thánh: Phật, Bồ-Tát, Duyên-giác, Thinh-văn cho tới lục phàm: Thiên, Nhân, A-tu-la, súc-sanh, ngạ-quỉ, địa-ngục, tất cả đều không có một mảy sự-tướng chi cả, thế nên Bổn-giác diệu-minh ấy tức là tâm, tức là không, tức là địa hỏa thủy phong, tức là nhãn nhĩ tỹ thiệt thân ý, tức là sắc thinh hương vị xúc pháp, tức là nhãn-thức-giới, nhĩ-thức-giới, tỹ-thức-giới, thiệt-thức-giới, thân-thức-giới, ý-thức-giới, như thế là pháp giới lục phàm.
- Bổn-giác diệu-minh tức là minh và vô-minh, tức là minh và vô-minh tận, cho tới tức là lão, tức là tử, tức là lão tử tận, tức là khổ, tức là tập, tức là diệt, tức là đạo, tức là trí, tức là đắc, tức là bố-thí trì-giới tinh-tấn nhẫn-nhục thiền-định trí-huệ, tức là đáo bỉ-ngạn, cho tới tức là Như-Lai Ứng-Cúng Chánh-Biến-Tri, tức là Đại-Niết-Bàn, tức là thường lạc ngã tịnh, như thế là pháp-giới tứ Thánh.
- Tâm Bổn-Giác “bất-không”, nên thế-pháp và xuất-thế pháp đều thuộc nghĩa “Tức”.
即 如 來 藏 妙 明 心 元。即心、即空、即地、即水、即
jí rú lái zàng miào míng xīn yuán jí xīn jí kōng jí dì jí shuǐ jí
Tức Như-Lai tạng diệu minh tâm nguyên. Tức tâm, tức không, tức địa, tức thủy, tức
風、即火,即眼、即耳鼻舌身意,即色、即聲香味觸
fēng jí huǒ jí yǎn jí ěr bí shé shēn yì jí sè jí shēng xiāng wèi chù
phong, tức hỏa, tức nhãn, tức nhĩ tỷ thiệt thân ý, tức sắc, tức thinh hương vị xúc
法,即眼識界,如是乃至即意識界。即明無明、明無
fǎ jí yǎn shì jiè rú shì nǎi zhì jí yì shì jiè jí míng wú míng míng wú
pháp, tức nhãn thức giới, như thị nãi chí tức ý thức giới. Tức minh vô-minh, minh vô-
明盡,如是乃至即老即死、即老死盡,即苦、即集、
míng jìn rú shì nǎi zhì jí lǎo jí sǐ jí lǎo sǐ jìn jí kǔ jí jí
minh tận, như thị nãi chí tức lão tức tử, tức lão tử tận; tức khổ, tức tập,
即滅、即道,即智、即得,即檀那、即尸羅、即毗梨
jí miè jí dào jí zhì jí dé jí tán nà jí shī luó jí pí lí
tức diệt, tức đạo, tức trí, tức đắc, tức đàn-na, tức thi-la, tức tỳ-lê
耶、即羼提、即禪那、即般刺若、即波羅蜜多;如是
yē jí chàn tí jí chán nà jí bō là ruò jí bō luó mì duō rú shì
gia, tức sẵn-đề, tức thiền-na, tức bát-lặc-nhã, tức ba – la- mật đa; như thị
乃至即怛闥阿竭、即阿羅訶、三耶三菩、即大涅槃,
nǎi zhì jí dá tà ē jié jí ē luō hē sān yē sān pú jí dà niè pán
nãi chí tức đác-thát a-kiệt, tức a – la – ha, tam gia tam-bồ, tức đại Niết-bàn,
即 常、即樂、即我、即淨。以是俱即,世出世故,
jí cháng jí lè jí wǒ jí jìng yǐ shì jù jí shì chū shì gù
tức thường, tức lạc, tức ngã, tức tịnh. Dĩ thị cụ tức, thế xuất thế cố.
19.”How can living beings in the three realms of existence on the level of worldliness and the Sound-Hearers and Those Enlightened to Conditions on the level of transcendence make suppositions about the supreme Bodhi of the Thus Come One with the minds that they know of, or enter the knowledge and vision of the Buddha through the medium of worldly language and expressions?
”For example, lutes, flutes, and guitars can make wonderful sounds, but if there are no skilled fingers to play them, their music will never come forth.
”You and all living beings are the same way. The precious, enlightened mind is perfect in everyone. Thus, I press my finger upon it and the ocean-impression emits light; you move your mind, and the wearisome defilements spring up.
”It is all because you do not diligently seek the unsurpassed enlightened Way, but are fond of the lesser vehicle and are satisfied with little attainment.”
- Phú-Lâu-Na! Nguyên lai Tâm Bổn-Giác diệu-minh châu-viên của Như-Lai Tạng vốn ly cái tức, ly cái phi, mà cũng tức cái tức, tức cái phi-tức, đó là thể-tánh cực-diệu cực-minh, viên-dung tuyệt-đối, không còn chi hơn. Như vậy chúng-sanh ở trong tam-giới cho tới các bậc xuất-thế Thinh-văn Duyên-giác không làm sao lấy tâm sở-tri mà đo lường được đạo Vô-Thượng Bồ-Đề của Như-Lai và dùng ngôn-ngữ thế-gian mà vào được cảnh-trí thấy-biết của Như-Lai.
- Ví như những cây đờn cầm, đờn sắt, đờn tỳ-bà cho tới ống tiêu, ống sáo, v.vv…đờn nào cũng phát-động tiếng thâm-diệu, nhưng nếu không phải ngón tay thâm-diệu thì rốt cuộc đờn chẳng làm sao phát-động được tiếng thâm-diệu.
- Phú-Lâu-Na! Ông và chúng-sanh đều giống như vậy. Ai ai cũng có sẳn Tâm Chơn-Như bửu-giác, nhưng ở Như-Lai có diệu-dụng, còn ở chúng-sanh không có diệu-dụng? Tại sao? Vì Như-lai đắc-chỉ ư tâm, ứng-chỉ ư thủ, nên khi Như-Lai nhấn ngón tay nơi hải-ấn thì từ hải-ấn phát ra hào-quang chiếu-diệu khắp cả pháp-giới.
- Phú-Lâu-Na! Ông và chúng-sanh vừa khỏi tâm động thì trần-lao phiền-não tiếp dậy, đó là tại các ông không chịu quyết-chí siêng-năng cần-cầu đạo Vô-Thượng Bồ-Đề, lại còn ưa-mến pháp tiểu-thừa, lập công nhỏ mà muốn quả to, được chút ít đã vội cho là đủ.
即 如 來 藏 妙 明 心 元。離即離非,是即非即。如 何
jí rú lái zàng miào míng xīn yuán lí jí lí fēi shì jí fēi jí rú hé
Tức Như-Lai tạng nguyên minh tâm diệu. Ly tức ly phi, thị tức phi tức. Như hà
世 間 三 有 眾生,及 出 世 間 聲 聞 緣 覺,以所知心
shì jiān sān yǒu zhòng shēng jí chū shì jiān shēng wén yuán jué yǐ suǒ zhī xīn
thế gian tam hữu chúng-sanh, cập xuất thế-gian Thinh-văn Duyên-giác, dĩ sở tri tâm
測度如來無上菩提,用世語言入佛知見?譬 如 琴、
cè duò rú lái wú shàng pú tí yòng shì yǔ yán rù fó zhī jiàn pì rú qín
trắc độ Như-Lai Vô-Thượng Bồ-Đề, dụng thế ngữ ngôn nhập Phật tri kiến? Thí như cầm,
瑟、箜篌、琵琶,雖有妙音,若無妙指,終不能發,
sè kōng hóu pí bá suī yǒu miào yīn ruò wú miào zhǐ zhōng bù néng fā
sắc, không hầu , tỳ-bà, tuy hữu diệu âm, nhược vô diệu-chỉ, chung bất năng phát;
汝 與 眾 生 亦 復 如是。寶覺眞心各各圓滿,如我按
rǔ yǔ zhòng shēng yì fù rú shì bǎo jué zhēn xīn gè gè yuán mǎn rú wǒ àn
nhữ dữ chúng-sanh diệc phục như thị. Bửu giác chơn-tâm các các viên-mãn, như ngã án
指,海印發光;汝暫舉心,塵勞先起。由不勤求無上
zhǐ hǎi yìn fā guāng rǔ zhàn jǔ xīn chén láo xiān qǐ yóu bù qín qiú wú shàng
chỉ, hải ấn phát quang; như tạm cử tâm, trần-lao tiên khởi. Do bất cần cầu Vô-Thượng
覺道,愛念小乘,得少為足。
jué dào ài niàn xiǎo chéng dé shǎo wéi zú
giác-đạo, ái niệm tiểu thừa, đắc thiểu vi túc.
20.Purna said, “I am non-dual and complete with the Thus Come One’s perfect brightness of the precious enlightenment, the true wonder of the pure mind. But long ago I was victimized by false thoughts that have no beginning and I have long endured the turning wheel of rebirth. Now I have attained the sagely vehicle, but it is not yet ultimate. The World Honored One has completely extinguished all falseness and obtained wonderful true eternity.
”I venture to ask the Thus Come One why all living beings exist in falseness and conceal their own wonderful brightness, so that they keep drowning in this deluge?”
- Ngài Phú-Lâu-Na bạch Phật: Bạch Đức Thế-Tôn! Đức Thế-Tôn với tôi vốn đồng một Tâm Chơn-Như bửu-giác, thanh-tịnh huyền-diệu, quang-minh châu-viên, hoàn-toàn như nhau, không phải hai thứ sai-biệt. Tuy nhiên riêng tôi bị các vọng-tưởng nhiễu-hại từ vô-thỉ, nên trầm-luân nhiều kiếp trong biển khổ luân-hồi. Nay tôi tuy đắc Thánh-thừa nhưng chưa được rốt-ráo. Bạch Đức Thế-Tôn! Đức Thế-Tôn đã viên-chứng Phật-quả nên tất cả vọng-nghiệp phiền-não đều cáo-chung, chỉ có thuần một thể Chơn-Như vi-diệu thường-trụ.
- Tôi xin phép hỏi Đúc Thế-Tôn: Chúng-sanh bị nguyên-nhân nào mà có vọng tự che-tối Tâm Chơn-Như sáng-suốt nhiệm-mầu, để phải chìm-đắm khổ-hải?
富樓那言:我與如來寶覺圓明,眞妙淨心,無二圓
fù lóu nà yán wǒ yǔ rú lái bǎo jué yuán míng zhēn miào jìng xīn wú èr yuán
Phú-Lầu-Na ngôn: Ngã dữ Như-Lai bửu giác viên minh, chơn diệu tịnh tâm, vô nhị viên-
滿。而我昔遭無始妄想,久在輪回,今得聖乘,猶末
mǎn ér wǒ xī zāo wú shǐ wàng xiǎng jiǔ zài lún huí jīn dé shèng chèng yóu wèi
mãn. Nhi ngã tích tao vô thỉ vọng tưởng, cữu tại luân-hồi, kim đắc Thánh thừa, du vị
究竟。世尊諸妄一切圓滅,獨 妙 眞 常。敢問如來,
jiù jìng shì zūn zhū wàng yí qiè yuán miè dú miào zhēn cháng gǎn wèn rú lái
cứu cánh. Thế-Tôn chư vọng nhứt thiết viên diệt, độc diệu Chơn-Thường. Cãm vấn Như-Lai;
一切 眾 生 何 因 有妄,自蔽妙明,受此淪溺?
yí qiè zhòng shēng hé yīn yǒu wàng zì bì miào míng shòu cǐ lún nì
nhứt thiết chúng-sanh hà nhân hữu vọng, tự tế diệu-minh, thọ thử luân-nịch?
21.No Cause for Confusion
The Buddha said to Purna, “Although you have cast off doubts, you still have not ended residual delusions. I will now employ a worldly event in questioning you.
”Have you not heard of Yajnadatta in Shravasti who on impulse one morning held a mirror to his face and fell in love with the head in the mirror? He gazed at the eyes and eyebrows but got angry because he could not see his own face. He decided he must be a li mei ghost. Having lost all his bearings, he ran madly out. What do you think? Why did this person set out on a mad chase for no reason?.
Purna said, “That person was insane. There’s no other reason.”
The Buddha said, “What reason can you give for calling false the wonderful enlightened bright perfection, the fundamentally perfect bright wonder? If there is a reason, then how can you say it is false?
”All your own false thinking becomes in turn the cause for more. From confusion you accumulate confusion through kalpa after kalpa; although the Buddha is aware of it, he cannot counteract it.
”From such confused causes, the cause of confusion perpetuates itself. When one realizes that confusion has no cause, the falseness becomes baseless. Since it never arose, why would you hope for its extinction? One who obtains Bodhi is like a person who awakens to realize the events of a dream; even though his mind is awake and clear, he cannot get hold of the things in the dream and physically display them.
- Vọng Vốn Vô-Nhân
- Đức Phật dạy: Phú-Lâu-Na! Ông tuy trừ nghi được, nhưng còn hoặc chưa hết.
- Ta lấy việc thế-gian hiện-tiền hỏi ông: Lý nào ông há không nghe trong thành Thất-La-Phiệt có tên Diễn-Nhã Đạt-Đa, vào buổi sớm-mai lấy gương soi mặt nhìn thấy cái đầu, cả lông mày và mắt quí-mến, bổng-nhiên lại giận cái đầu tại sao không thấy mặt, bèn cho bóng hiện trong gương là yêu-quái, rồi vô cớ phát khùng lên, vứt gương chạy mất. Ý ông nghĩ sao? Bởi nguyên-nhân gì mà người ấy vô cớ phát khùng bỏ chạy?
- Bạch Đức Thế-Tôn! Đó là vì tâm người ấy khùng, chớ thật-tế không có nguyên-nhân nào cả.
- Phú-Lâu-Na! Thể-tánh Bổn-giác diệu-minh-viên gốc tự diệu, tự minh, tự viên tức là luôn-luôn huyền-diệu, quang-minh, viên-mãn, chớ không bao giờ có vọng. Nếu gọi là vọng thì thế nào có chỗ sở-nhân?
- Nếu có sở-nhân thì làm sao gọi là vọng? Chỉ từ vọng-tưởng xây-vần làm nhân cho nhau, theo mê mà chất-chứa mãi các thứ mê từ kiếp nầy sang kiếp kia, trải qua vô-lượng vô-biên kiếp, tuy Như-Lai có phát-minh khai-thị cho, nhưng vẫn không tĩnh-ngộ. Như vậy cái mê là do mê mà tự có. Nếu biết cái mê không có nguyên-nhân thì biết cái vọng cũng không chỗ nương-dựa. Đó là chứng-tỏ các thứ gọi là mê là vọng đều vô nhân. Mê-vọng vô nhân tức là không có sanh. Mê-vọng đã không có sanh thì muốn diệt là diệt cái gì? Không có sanh dĩ-nhiên không có diệt.
佛告富樓那:汝雖除疑,餘惑未盡。吾以世間,現前
fó gào fù lóu nà rǔ suī chú yí yú huò wèi jìn wú yǐ shì jiān xiàn qián
Phật cáo Phú-Lầu-Na: Nhữ tuy trừ nghi, dư hoặc vị tận. Ngô dĩ thế-gian, hiện tiền
諸事,今復問汝。汝豈不聞,室羅城中,演若達多?
zhū shì jīn fù wèn rǔ rǔ qǐ bù wén shì luó chéng zhōng yǎn ruò dá duō
chư sự, kim phục vấn nhữ. nhữ khởi bất văn; Thất-La thành trung, Diễn-Nhã Đạt Đa?
忽於晨朝,以鏡照面,愛鏡中頭,眉目可見。瞋責己
hū yú chén zhāo yǐ jìng zhào miàn ài jìng zhōng tóu méi mù kě jiàn chēn zé jǐ
Hốt ư thần triêu, dĩ cảnh chiếu-diện, ái cảnh trung đầu, mi mục khả kiến, Điền trách dĩ
頭,不見面目,以為魑魅,無狀狂走。於意云何?此
tóu bú jiàn miàn mù yǐ wéi chī mèi wú zhuàng kuáng zǒu yú yì yún hé cǐ
đầu, bất kiến diện mục, dĩ vi lị mị, vô trạng cuồng tẩu. Ư ý vân hà? Thử
人何因無故狂走?富樓那言:是人心狂,更無他故!
rén hé yīn wú gù kuáng zǒu fù lóu nà yán shì rén xīn kuáng gèng wú tā gù
nhân hà nhân vô cố cuồng tẩu? Phú-Lầu-Na ngôn: Thị nhân tâm cuồng, cánh vô tha cố!
佛言:妙覺明圓,本圓明妙,既稱為妄,云何有因?
fó yán miào jué míng yuán běn yuán míng miào jì chēng wéi wàng yún hé yǒu yīn
Phật ngôn: Diệu giác-minh viên, bổn viên minh diệu, ký xưng vi vọng, vân hà hữu nhân?
若 有 所因,云何名妄?自 諸 妄 想 展 轉 相 因,從迷
ruò yǒu suǒ yīn yún hé míng wàng zì zhū wàng xiǎng zhǎn zhuǎn xiāng yīn cóng mí
Nhược hữu sở nhân, vân hà danh vọng? Tự chư vọng tưởng triến chuyển tương nhân, tùng mê
積迷,以歷塵劫,雖佛發明,猶不能返。如是迷因,
jī mí yǐ lì chén jié suī fó fā míng yóu bù néng fǎn rú shì mí yīn
tích mê, dĩ lịch trần kiếp; tuy Phật phát minh, du bất năng phản. Như thị mê nhân,
因迷自有。識迷無因,妄無所依。尚 無 有生,欲何
yīn mí zì yǒu shì mí wú yīn wàng wú suǒ yī shàng wú yǒu shēng yù hé
nhân mê tự hữu. Thức mê vô nhân, vọng vô sở y. Thượng vô hữu sanh, dục hà
為滅?
wéi miè
vi diệt?
22.How much the more is that the case with some thing which is without a cause and basically non-existent, such as Yajnadatta’s situation that day in the city? Was there any reason why he became fearful for his head and went running about? If his madness were suddenly to cease, it would not be that he had obtained his head from someplace outside; and so before his madness ceases, how can his head have been lost?
”Purna, falseness is the same way. How can it exist?
”All you need do is not follow discriminations, because none of the three causes arises when the three conditions of the three continuities of the world, living beings, and karmic retribution are cut off.
”Then the madness of the Yajnadatta in your mind will cease of itself, and just that ceasing is Bodhi. The supreme, pure, bright mind originally pervades the Dharma Realm. It is not something obtained from anyone else. Why, then, labor and toil with marrow and joint to cultivate and be certified?
”This is to be like the person who has a wish fulfilling pearl sewn in his clothing without-realizing it. Thus he roams abroad in a state of poverty, begging for food and always on the move. Although he is indeed destitute, the pearl is never lost.
”Suddenly, a wise person shows him the pearl: all his wishes are fulfilled, he obtains great wealth, and he realizes that the pearl did not come from somewhere outside.”
- Bậc đã viên-chứng Bồ-Đề như Ta, nói cho ông biết vọng vốn vô nhân, chớ không đưa được cái vọng vô nhân cho ông thấy, cũng như người ngủ nằm mộng, khi thức dậy nói lại điềm chiêm-bao, dẫu tâm vẫn thanh-tịnh sáng-suốt biết rõ-ràng, nhưng không thế nào có nhân-duyên gì để lấy ra các vật trong giấc mộng, huống chi là cái vọng không có sở-nhân tức là không có thiệt-thể.
- Thế nên vọng-tưởng vô-nhân chẳng khác chi tên Diễn-Nhã Đạt-Đa phát khùng, không phải nguyên-nhân gì cả, chỉ tại người ấy nhận lầm cái bóng hiện trong gương rồi sợ mất đầu mà hoảng-hốt bỏ chạy. Đến khi hết khùng thì người ấy biết được cái đầu của mình sẵn có, chớ không phải từ ngoài đưa tới. Vã lại dầu chưa hết khùng, đầu ấy cũng còn nguyên-vẹn, chớ không có mất.
- Phú-Lâu-Na! Vọng-tánh vô-nhân như vậy thì làm sao tồn-tại ở chỗ nào được mà ông hỏi? Như ông chỉ tùy theo tập-quán mê-loạn mà phân-biệt ba món tương-tục: thế-giới tương-tục, chúng-sanh tương-tục và nghiệp-quả tương-tục, thì ba duyên phân-biệt phải diệt. Nếu ba duyên diệt hết thì ba nhân của ba món ấy không có sanh, thế nên tánh khùng của tên Diễn-Nhã Đạt-Đa ở trong tâm ông tự-nhiên tiêu-mất tức là hết mê, hết mê thì Tâm Bồ-Đề thật-hiện. Đó là chứng-tỏ Tâm-Bồ-Đề thắng-diệu thanh-tịnh quang-minh, trùm khắp pháp giới vốn là thể bản-nhiên sẳn có của mình, chớ không phải của người khác, nếu hiểu thấu được như vậy thì công-phu bỏ vọng về chơn, hoàn-nguyên tu-chứng Bồ-Đề không có khó chi. Ví-dụ như có người mang sẵn hột châu Như-Ý trong áo, nhưng quên mất, không tự hiểu biết mình có, đến đổi nghèo khổ phải đi xứ khác xin ăn, tuy bần-cùng túng-thiếu nhưng hột châu Như-Ý vẫn không mất, bổng-nhiên có nhà Thiện-Tri-thức chỉ rõ cho hiểu biết hột châu Như-Ý thì người ấy tùy tâm mãn nguyện, trở nên đại-phú gia, mới rỏ thấu hột châu Như-Ý là vật của mình sẳn có, chớ không phải từ bên ngoài đưa tới mà có được.
得菩提者,如 寤 時 人 說 夢 中 事。心縱精明,欲何
dé pú tí zhě rú wù shí rén shuō mèng zhōng shì xīn zòng jīng míng yù hé
Đắc Bồ-Đề giả, như mụ thời nhân thuyết mộng trung sự. Tâm túng tinh minh, dục hà
因 緣 取 夢 中 物?況 復 無 因,本無所有。如彼城中
yīn yuán qǔ mèng zhōng wù kuàng fù wú yīn běn wú suǒ yǒu rú bǐ chéng zhōng
nhân duyên thủ mộng trung vật? Huống phục vô nhân, bổn vô sở hữu. Như bĩ thành trung
演若達多,豈 有 因 緣,自怖頭走?忽 然 狂 歇,頭
yǎn ruò dá duō qǐ yǒu yīn yuán zì bù tóu zǒu hū rán kuáng xiē tóu
Diễn-Nhã Đạt-Đa, khởi hữu nhân-duyên, tự bố đầu tẩu? Hốt nhiên cuồng kiệt, đầu
非外得。縱未歇狂,亦何遺失?富樓那!妄性如是,
fēi wài dé zòng wèi xiē kuáng yì hé yí shī fù lóu nà wàng xìng rú shì
phi ngoại đắc. Túng vị kiệt cuồng, diệc hà di thất.? Phú-Lầu-Na! Vọng-tánh như thị,
因何為在?汝但不隨分別,世間、業果、眾 生 三 種
yīn hé wéi zài rǔ dàn bù suí fēn bié shì jiān yè guǒ zhòng shēng sān zhǒng
nhân hà vi tại? Nhữ đãn bất tùy phân-biệt, thế-gian, nghiệp-quả, chúng-sanh tam chủng
相續,三緣斷 故,三因不生。則 汝 心 中 演 若 達 多,
xiāng xù sān yuán duàn gù sān yīn bù shēng zé rǔ xīn zhōng yǎn ruò dá duō
tương tục, tam duyên đoạn cố, tam nhân bất sanh. Tắc nhữ tâm trung Diễn-Nhã Đạt-Đa;
狂性自歇,歇即菩提。勝淨明心,本周法界,不從人
kuáng xìng zì xiē xiē jí pú tí shèng jìng míng xīn běn zhōu fǎ jiè bù cóng rén
cuồng tánh tự yết, yết tức Bồ-Đề. Thắng tịnh minh tâm, bổn châu pháp-giới, bất tùng nhân
得,何藉劬勞,肯綮修證?譬如有人,於自衣中繫如
dé hé jiè qú láo kěn qǐ xiū zhèng pì rú yǒu rén yú zì yī zhōng xì rú
đắc, hà tịch cù lao, khẳng khái tu chứng? Thí như hữu nhân, ư tự y trung hệ như
意珠,不自覺知,窮露他方,乞食馳走。雖實貧窮,
yì zhū bù zì jué zhī qióng lù tā fāng qǐ shí chí zǒu suī shí pín qióng
ý châu, bất tự giác tri, cùng lộ tha phương, khất thực trì tẩu. Tuy thiệt bần-cùng,
珠不曾失。忽有智者,指示其珠,所願從心,致大饒
zhū bù céng shī hū yǒu zhì zhě zhǐ shì qí zhū suǒ yuàn cóng xīn zhì dà ráo
châu bất tằng thất. Hốt hữu trí giả; chỉ thị kỳ châu, sở nguyện tùng tâm, trí đại nhiêu
富,方 悟 神 珠,非從外得。
fù fāng wù shén zhū fēi cóng wài dé
phú, phương ngộ thần châu, phi-tùng ngoại đắc.
- 23. ANANDA ATTACHES TO CAUSES AND CONDITIONS
Ananda then bowed at the Buddha’s feet, arose in the Great Assembly, and said to the Buddha, “The World Honored One now explains that when the three conditions of the karma of killing, stealing, and lust are cut off, the three causes for them do not arise. Then the madness of Yajnadatta in the mind ceases of itself, and just that ceasing is Bodhi. It is not something obtained from anyone else. These clearly are causes and conditions; why, then, does the Thus Come One abruptly reject causes and conditions?
”It was through causes and conditions that my mind became enlightened, World Honored One, and that is not only true of us who are young in years, of us Sound-Hearers who still have to study. Mahamaudgalyayana, Shariputra, and Subhuti, who are now in this assembly and who followed the elder Brahmans, became enlightened and obtained the state of no outflows upon hearing the Buddha expound upon causes and conditions.
”Now you say that Bodhi does not come from causes and conditions. So the spontaneity that Maskari Goshaliputra and others advocated in Rajagriha then becomes the primary meaning! I only hope you will let fall great compassion and break through my confusion.”
- A-Nan Chấp Vào Nhân-Duyên
- Khi ấy ngài A-Nan từ chỗ đại-chúng đứng dậy lễ Phật rồi bạch: Bạch Đức Thế-Tôn! Đức Thế-Tôn vừa nói ba ác-nghiệp tham-dục tham-sát tham-đạo ( cũng gọi là dâm sát đạo), nếu ba nghiệp ấy đoạn-diệt rồi thì ba nhân không sanh, cho tới tâm ông Diễn-Nhã Đạt-Đa cũng hết khùng, mà hết khùng thì hiện rõ Tâm-Bồ-Đề. Tâm-Bồ-Đề là vật sẳn có của mình, chớ không phải do người khác mà có. Đó là có nhân-duyên rõ-ràng, nhưng tại sao trước kia Đức Thế-Tôn lại bác-bỏ nghĩa nhân-duyên? Chính tôi cũng nhờ có nhân-duyên mà tâm được khai-ngộ. Bạch Đức Thế-Tôn! Chẳng những chúng tôi là hạng Thinh-Văn trẻ tuổi, cho tới hiện-tiền ở trong Giáo-Hội, có các vị già-cả như Mục-Kiền-Liên, Xá-Lợi-Phất, Tu-Bồ-Đề đã từng nghe Lão-gia Phạm-Chí nói thuyết nhân-duyên của Phật mà phát tâm khai-ngộ, thành bậc vô-lậu. Nay Đức Thế-Tôn dạy Tâm Bồ Đề không do nhân-duyên thì thuyết tự-nhiên của ngoại-đạo Câu-xá-lê ở thành Vương-xá là nghĩa đệ nhứt hay sao? Ngưỡng cầu Đức Thế-Tôn dũ tâm đại-bi khai sáng chỗ mê-lầm của chúng-tôi.
即時阿難在 大眾中,頂禮佛足,起立白佛:世尊!現
jí shí ē nán zài dà zhòng zhōng dǐng lǐ fó zú qǐ lì bái fó shì zūn xiàn
Tức thời A-Nan tại đại-chúng trung, đảnh lễ Phật túc, khởi lập bạch Phật : Thế-Tôn! Hiện
說 殺 盜婬 業,三緣斷故,三因不生,心中達多,狂
shuō shā dào yín yè sān yuán duàn gù sān yīn bù shēng xīn zhōng dá duō kuáng
Thuyết sát đạo dâm nghiệp, tam duyên đoạn cố, tam nhân bất sanh, tâm trung đạt-đa, cuồng
性自歇,歇即菩提,不從人得。斯則因緣,皎然明
xìng zì xiē xiē jí pú tí bù cóng rén dé sī zé yīn yuán jiǎo rán míng
tánh tự yết; yết tức Bồ-đề, bất tùng nhân đắc. Tư tắc nhân-duyên, hạo nhiên minh-
白。云何 如 來 頓 棄 因 緣?我 從 因 緣,心得開悟。
bái yún hé rú lái dùn qì yīn yuán wǒ cóng yīn yuán xīn dé kāi wù
bạch. Vân hà Như-Lai đốn khí nhân-duyên? Ngã tùng nhân-duyên, tâm đắc khai ngộ.
世尊!此義 何 獨 我 等 年 少 有學聲聞?今此會中,
shì zūn cǐ yì hé dú wǒ děng nián shào yǒu xué shēng wén jīn cǐ huì zhōng
Thế-Tôn! Thử nghĩa hà độc ngã đẳng niên thiểu hữu học Thinh-văn? Kim thử hội trung,
大目犍連及舍利弗、須菩提等,從老梵志聞佛
dà mù jiān lián jí shè lì fú xū pú tí děng cóng lǎo fàn zhì wén fó
đại Mục-Kiền-Liên cập Xá-Lợi-Phất, Tu – Bồ – Đề đẳng, tùng lão Phạm-Chí văn Phật
因緣,發心開悟,得成無漏。今 說 菩 提 不 從 因
yīn yuán fā xīn kāi wù dé chéng wú lòu jīn shuō pú tí bù cóng yīn
nhân-duyên, phát tâm khai ngộ, đắc thành vô-lậu. Kim thuyết Bồ – Đề bất tùng nhân-
緣,則 王舍 城 拘 舍 棃等,所說自然,成 第 一 義。
yuán zé wáng shè chéng jū shè lí děng suǒ shuō zì rán chéng dì yī yì
duyên; tắc Vương-Xá thành Câu-xá-lê đẳng, sở thuyết tự-nhiên, thành đệ nhứt nghĩa.
惟垂大悲,開發迷悶!
wéi chuí dà bēi kāi fā mí mèn
Duy thùy đại-bi, khai phát mê-muội !
24.The Buddha said to Ananda, “Let us take the case of Yajnadatta in the city: if the causes and conditions of his madness cease, the nature that is not mad will spontaneously come forth. The entire principle of spontaneity and causes and conditions is nothing more than that.
”Ananda, Yajnadatta’s head was spontaneously there, it was a spontaneous part of him. There was never a time when it was not. Why, then, did he suddenly fear that he had no head and start running about madly?
”If he naturally had a head and went mad due to causes and conditions, would it not be just as natural for him to lose his head due to causes and conditions?
”Basically his head was not lost. The madness and fear arose from falseness. There was never any change that took place. Why, then, labor the point about causes and conditions?
”If the madness were spontaneous, the madness and fear would be fundamental. Before he went mad, then, where was his madness hidden?
”If the madness were not spontaneous, and his head were in fact not lost, why did he run about in a state of madness?
”If you realize that you have a head and recognize the madness of your pursuit, then both spontaneity and causes and conditions become idle theories. That is why I say that the three conditions’ ceasing to be is itself the Bodhi mind.
- Đức Phật dạy: A-Nan! Như ông Diễn-Nhã Đạt-Đa ở trong thành, nếu đoạn-diệt được nhân-duyên tánh khùng thì tánh không khùng tự-nhiên hiện ra. Thế nên trước khi chưa khùng, nhân-duyên và tự-nhiên, hai tánh ấy không có. Lý nhân-duyên và tự-nhiên chỉ có như vậy mà thôi. Đó là chứng tỏ nhân-duyên và tự-nhiên không có căn-bổn.
- A-Nan! Như đầu của ông Diễn-Nhã Đạt-Đa vốn là tự-nhiên thì cứ tự-nhhiên mãi, chẳng có nhiên lại cũng không có tự, vậy do nhân-duyên gì mà ông ấy phát khùng sợ-hãi bỏ chạy?
- Cái đầu gốc tự-nhiên, lại vì nhân-duyên soi gương sợ mất đầu, nên đầu phát khùng thì cái đầu làm sao chẳng tự-nhiên, lại vì nhân-duyên soi gương mà mất? Nhưng cái đầu vốn không có mất, chỉ vì nghĩ bậy phát khùng mà sợ chạy, chớ cái đầu không có thay-đổi chi hết thì cần gì phải nhờ nhân-duyên soi gương?
- Nếu tự-nhiên vốn có tánh khùng thì lúc chưa khùng, tánh khùng ấy ẩn ở chỗ nào? Nếu tự-nhiên vốn có tánh không khùng thì cái đầu vẫn y nguyên, không có gì cả, tại sao lại phát khùng sợ chạy? Nếu nhận được cái đầu sẳn có, biết rõ vì khùng mà sợ chạy thì cái đầu và tánh khùng chẳng thuộc về nhân-duyên hoặc tự-nhiên, hai tánh nầy chỉ là hý-luận mà thôi. Vì thế Ta nói: ba duyên đoạn-diệt tức là Bồ-Đề tâm. Xét theo lý đó thì hiểu thấu Bổn-giác và vô-minh cũng như vậy.
佛告阿難:即 如 城 中 演 若達多,狂 性 因 緣 若
fó gào ē nán jí rú chéng zhōng yǎn ruò dá duō kuáng xìng yīn yuán ruò
Phật cáo A-Nan: Tức như thành trung Diễn – Nhã Đạt-Đa, cuồng tánh nhân-duyên nhược
得滅除,則不狂性自然而出,因緣自然,理窮於
dé miè chú zé bù kuáng xìng zì rán ér chū yīn yuán zì rán lǐ qióng yú
đắc diệt trừ, tất bất cuồng tánh tự nhiên nhi xuất, nhân-duyên tự nhiên, lý cùng ư
是。阿難!演若達多頭本自然,本自其然,無然非
shì ē nán yǎn ruò dá duō tóu běn zì rán běn zì qí rán wú rán fēi
thị . A-Nan! Diễn-Nhã Đạt-Đa đầu bổn tự nhiên, bổn tự kỳ nhiên, vô nhiên phi
自,何因 緣故,怖頭狂走?若 自然 頭,因 緣 故狂,
zì hé yīn yuán gù bù tóu kuáng zǒu ruò zì rán tóu yīn yuán gù kuáng
tự, hà nhân-duyên cố, bố đầu cuồng tẩu? Nhược tự nhiên đầu, nhân-duyên cố cuồng,
何不自然因緣故失?本頭不失,狂怖妄出,曾無變
hé bú zì rán yīn yuán gù shī běn tóu bù shī kuáng bù wàng chū céng wú biàn
hà bất tự nhiên nhân-duyên cố thất ? Bổn đầu bất thất, cuồng bố vọng xuất, tằng vô biên
易,何藉因緣?本 狂自然,本有狂怖,未狂之際,狂
yì hé jiè yīn yuán běn kuáng zì rán běn yǒu kuáng bù wèi kuáng zhī jì kuáng
diệc, hà tạ nhân-duyên? Bổn cuồng tự nhiên, bổn hữu cuồng bố, vị cuồng vi tế, cuồng
何所潛?不狂自然,頭本無妄,何為狂走?若悟
hé suǒ qián bù kuáng zì rán tóu běn wú wàng hé wéi kuáng zǒu ruò wù
hà sở tiềm? Bất cuồng tự nhiên, đầu bổn vô vọng, hà vi cuồng tẩu ? Nhược ngộ
本頭,識知狂走,因緣自然,俱為戲論。是故我言:
běn tóu shì zhī kuáng zǒu yīn yuán zì rán jù wéi xì lùn shì gù wǒ yán
bổn đầu, thức tri cuồng tẩu, nhân-duyên tự nhiên, cụ vi hý – luận. Thị cố ngã ngôn:
三 緣 斷 故,即菩提心。
sān yuán duàn gù jí pú tí xīn
Tam duyên đoạn cố, tức Bồ-Đề tâm.
25.”The Bodhi mind’s being produced and the mind subject to production and extinction’s being extinguished is simply production and extinction.
”The ending of both production and extinction is the effortless Way. If there is spontaneity, then clearly it must be that the thought of spontaneity arises and the mind subject to production and extinction ceases: that, then, is still production and extinction.
”To call the lack of production and extinction spontaneity is the same as to say that the single substance formed by the combination of all mundane appearances is a mixed and united essence, and that whatever is not mixed and united is basically spontaneous in nature.
”When spontaneity is devoid of spontaneity, and mixing and uniting are devoid of their unifying quality, so that spontaneity and unity alike are abandoned, and both the abandonment of them and their existence cease to be – that is no idle theory.
- A-Nan! Nói là Tâm Bồ-Đề thì không nên khởi tư-tưởng sanh Bồ-Đề, vì nếu Tâm Bồ Đề sanh thì thành tâm sanh-diệt tức là không phải Tâm Bồ Đề. Tâm sanh-diệt mất thì thuộc về lý sanh-diệt, và hai thứ sanh-diệt đều hết tức là đạo vô công-dụng.
- Nếu có tự-nhiên tức là Tâm tự-nhiên sanh thì Tâm ấy phải diệt và nếu có gọi cái không sanh-diệt là tự-nhiên thì cũng như vậy, chẳng khác chi ở thế-gian, các tướng hiệp nhau thành một thể, gọi là tánh hòa-hiệp, còn cái không hòa-hiệp thì cho là tánh bản-nhiên. Ở tánh bản-nhiên không có tướng bản-nhhiên, ở tánh hòa-hiệp không có tướng hòa-hiệp, bản-nhiên và hòa-hiệp, hai tánh ấy phân-ly nhau, cho tới sự phân ly và không phân-ly cũng chẳng có, lời nói ấy mới phải là vô hý-luận.
菩提心生,生滅心滅,此但生滅,滅生俱盡,無功用
pú tí xīn shēng shēng miè xīn miè cǐ dàn shēng miè miè shēng jù jìn wú gōng yòng
Bồ-Đề tâm sanh, sanh diệt tâm diệt, thử đãn sanh diệt, diệt sanh cụ tận, vô công-dụng
道。若有自然,如是則明自然心生,生滅心滅,此
dào ruò yǒu zì rán rú shì zé míng zì rán xīn shēng shēng miè xīn miè cǐ
đạo. Nhược hữu tự-nhiên, như thị tắc minh tự-nhiên tâm sanh, sanh diệt tâm diệt, thử
亦生滅。無生滅者,名為自然。猶如世間諸相雜和,
yì shēng miè wú shēng miè zhě míng wéi zì rán yóu rú shì jiān zhū xiàng zá hé
diệc sanh diệt. Vô sanh diệt dã, danh vi tự nhiên. Du như thế-gian chư tướng tạo hòa,
成一體者,名和合性;非和合者,稱本然性。本然
chéng yì tǐ zhě míng hé hé xìng fēi hé hé zhě chēng běn rán xìng běn rán
thành nhứt thể giả, danh hòa-hiệp tánh; phi hòa-hiệp giả, xưng bổn-nhiên tánh. Bổn nhiên
非然,和合非合。合然俱離,離合俱非,此句方
fēi rán hé hé fēi hé hé rán jù lí lí hé jù fēi cǐ jù fāng
phi nhiên, hòa-hiệp phi hiệp. Hiệp nhiên cụ ly, ly hiệp cụ phi, thử cú phương
名 無戲論法。
míng wú xì lùn fǎ
danh vô hý-luận pháp.
26.To Cultivate No Outflows
”Bodhi and Nirvana are still so far away that you must undoubtedly pass through kalpas of bitterness and diligence before you cultivate them and are certified.
”You can hold in memory the twelve divisions of the sutras spoken by the Buddhas of the ten directions and their pure, wonderful principles as many as the sands of the River Ganges, but it only aids your idle theorizing.
You can discuss causes and conditions and spontaneity and understand them perfectly clearly, and people in the world refer to you as the one foremost in learning. You have spent aeons upon aeons saturating yourself with learning, yet you could not avoid the difficulty of Matangi.
”Why did you have to wait for me to use the spiritual mantra of the Buddha’s summit? The fire of lust in Matangi’s daughter’s heart died instantly, and she attained the position of an Anagamin. Now she is one of a vigorous group in my dharma assembly. The river of love dried up in her, and she was able to set you free.
”Therefore, Ananda, your ability to keep in mind the Thus Come One’s wonderful secret teachings of aeon after aeon is not as good as a single day of no-outflow cultivation that is intent upon getting far away from the two worldly sufferings of love and hate.
”In Matangi’s daughter, a former prostitute, love and desire were dispelled by the spiritual power of the mantra. Now her name in dharma is Bhikshuni ‘Nature.’
”She and Rahula’s mother, Yashodhara both became aware of their past causes and knew that for many kalpas they had endured the suffering of greed and love. Because they single-mindedly became permeated with the cultivation of the goodness of no outflows, they were both freed from their bonds and received predictions. Why, then, do you cheat yourself and still remain caught up in looking and listening?”
- Công-Đức Vô-Lậu
- Đức Phật bảo ngài A-Nan: A-Nan! Cảnh-giới Bồ-Đề Niết-Bàn xa lắm.
- Nếu ông không trải qua lịch kiếp siêng-năng tu-chứng thì dầu có ghi-nhớ diệu-lý thanh-tịnh của thập nhị bộ kinh Phật, rất nhiều như số cát sông Hằng, cũng chỉ thêm phần hý-luận mà thôi.
- A-Nan! Ông tuy nói luôn suôn-sẻ lý-tánh nhân-duyên và tự-nhiên khiến cho người thế-gian ca-tụng ông là bậc đa-văn đệ nhứt.
- Tuy nhiên tài-năng đa-văn của ông đã huân-tập trong vô-số kiếp đó không giúp ông thoát khỏi nạn Ma-Đăng-Già, ông lại phải nhờ oai-thần Phật-đảnh mật-chú của Ta làm cho nàng Ma-Đăng-Già tắt hết lửa dâm, khô-cạn ái-hà, đắc quả A-Na-Hàm và ở trong Chánh-Pháp Như-Lai, tinh-tấn tu-hành, để ông được giải-thoát.
- A-Nan! Như vậy ông tuy trải qua vô-số kiếp nghe nhiều nhớ giỏi và gìn-giữ các pháp vi-mật mầu-nhiệm trang-nghiêm của Phật, nhưng không bằng trong một ngày dứt tuyệt 2 mối tình mê-muội là “triều-mến” và “ganh-ghét” để chuyên tâm tu vô-lậu giải-thoát.
- Vả chăng nàng Ma-Đăng-Già xưa là hạng dâm-nữ, nhờ oai-lực Phật-chú diệt hết ái-dục, tu-hành ở trong Chánh-Pháp Như-Lai, nên bậc Tỳ-Khưu-ni, hiệp với thân-mẫu của ông La-Hầu-La là bà Gia-Du Đà-La, đồng hiểu-thấu chính hai mối tình mê-muội: triều mến và ganh-ghét tạo ra các điều đau-khổ chồng-chất sâu-dày trong nhiều đời, nên nhứt tâm đoạn-trừ và chí-thành tu các pháp lành vô-lậu, hiện nay người thì được giải-thoát các sự phiền-não ô trược, kẻ thì được thọ-ký về sau thành Phật. Còn ông? Cớ sao tự mình ràng-buộc trong vòng nghe thấy?
菩提涅槃,尚在遙遠,非汝歷劫辛勤修證。雖復憶
pú tí niè pán shàng zài yáo yuǎn fēi rǔ lì jié xīn qín xiū zhèng suī fù yì
Bồ-Đề Niết-Bàn, thượng tại diệu-viễn, phi nhữ lịch kiếp tân cần tu chứng. Tuy phục ức
持,十方如來十二部經,清淨妙理,如恆河沙,
chí shí fāng rú lái shí èr bù jīng qīng jìng miào lǐ rú héng hé shā ,
trì, thập phương Như-Lai thập nhị bộ kinh, thanh-tịnh diệu lý, như hằng-hà sa,
祗益戲論。汝 雖 談 說 因 緣 自 然, 決 定 明了,人間
zhī yì xì lùn rǔ suī tán shuō yīn yuán zì rán jué dìng míng liǎo rén jiān
kỳ ích hý- luận. Nhữ tuy đàm thuyết nhân-duyên tự-nhiên, quyết-định minh liễu, nhân-gian
稱汝多聞第一。以此積劫多聞熏習,不能免離摩登伽
chēng rǔ duō wén dì yī yǐ cǐ jī jié duō wén xūn xí bù néng miǎn lí mó dēng qié
xưng nhữ đa văn đệ nhứt. Dĩ thử tích kiếp đa văn huân tập, bất năng miển ly Ma-đăng-già
難。何須待我佛頂神咒,摩登伽心婬火頓歇,得阿那
nàn hé xū dài wǒ fó dǐng shén zhòu mó dēng qié xīn yín huǒ dùn xiē dé ē nà
nạn. Hà tu đải ngã Phật-đảnh thần-chú, Ma-đăng-già tâm dâm hỏa đốn kiệt, đắc A-Na-
含,於我法中,成精進林,愛河乾枯,令汝解脫。是
hán yú wǒ fǎ zhōng chéng jīng jìn lín ài hé gān kū lìng rǔ jiě tuō shì
hàm, ư ngã pháp trung, thành tinh-tấn lâm, ái-hà càn khô, lịnh nhữ giải-thoát. Thị
故阿難!汝雖歷劫,憶持如來,祕密妙嚴,不如一日
gù ē nán rǔ suī lì jié yì chí rú lái mì mì miào yán bù rú yí rì
cố A-Nan! Nhữ tuy lịch kiếp, ức trì Như-Lai, bí-mật diệu-nghiêm, bất như nhứt nhựt
修無漏業,遠離世間憎愛二苦。如摩登伽宿為婬女,
xiū wú lòu yè yuǎn lí shì jiān zēng ài èr kǔ rú mó dēng qié sù wéi yín nǚ
tu vô-lậu nghiệp , viễn ly thế-gian tắng ái nhị khổ. Như Ma-đăng-già tức vi dâm nữ,
由神咒力,銷其愛欲,法中今名性比丘 尼。與羅睺母
yóu shén zhòu lì xiāo qí ài yù fǎ zhōng jīn míng xìng bǐ qiū ní yǔ luó hóu mǔ
do thần-chú lực, tiêu kỳ ái- dục, pháp trung kim danh tánh Tỳ-khưu-ni. Dữ La-Hầu mẫu
耶輸陀羅,同悟宿因,知歷世因,貪愛為苦。一念熏
yē shū tuó luó tóng wù sù yīn zhī lì shì yīn tān ài wéi kǔ yí niàn xūn
Gia-Du Đà-La, đồng ngộ túc nhân, tri lịch thế-nhân, tham-ái vi khổ. Nhứt niệm huân
修無漏善故,或得出纏,或蒙授記。如何自欺,尚留
xiū wú lòu shàn gù huò dé chū chán huò méng shòu jì rú hé zì qī shàng liú
tu vô lậu thiện cố, hoặc đắc xuất triền, hoặc mông thọ-ký. Như hà tự khi, thượng lưu
觀聽?
guān tīng
quan thính ?
- 27. The Great Assembly is led to Enlightenment and Praises his Goodness, and Express Gratitude.
When Ananda and the Great Assembly heard the Buddha’s instruction, their doubts and delusion were dispelled. Their minds awakened to the actual appearance, they experienced “light ease” both physically and mentally, and they obtained what they had never had before.
Once again he wept, bowed at the Buddha’s feet, knelt on both knees, placed his palms together, and said to the Buddha, “The Unsurpassed, Great, Compassionate, Pure, and Precious King has instructed me well, so that, by means of these various causes and conditions, expedients, and encouragements, all of us who were immersed in the sea of suffering have escaped it.
”World Honored One, having heard the sound of dharma like this, I know that the Treasury of the Thus Come One, the wonderful, enlightened, bright mind, pervades the ten directions and includes the Thus Come One, the lands of the ten directions, and the pure, precious adornments of the land of the Wonderfully Enlightened King. Yet, the Thus Come One once again admonishes that erudition is of no merit and is not as good as cultivation.
”So now I am like a wanderer who suddenly encounters a reigning king who bestows upon him an elegant house. He has obtained a mansion, but there needs to be a door in order for him to enter it.
”I only hope the Thus Come One will not withhold his great compassion in instructing those of us in the assembly who are covered over by darkness, so that we may renounce the small vehicle and attain at last the Thus Come One’s Nirvana without residue, the fundamental path of resolve, and that he will enable those who still must study to know now how to subdue the age-old seeking of advantage from conditions, to obtain Dharani, and to enter into the knowledge and vision of the Buddha.” Having said this, he made a full prostration, and together with the members of the assembly, he single-mindedly awaited the Buddha’s compassionate instruction.
- Nhứt-Thiết Đại-Chúng Cầu Tu-Chứng Đại-Thừa Pháp
- Ngài A-Nan và Đại-chúng nghe qua lời dạy của Đức Phật, tiêu-trừ nghi-hoặc, tâm ngộ chơn-thiệt, thân ý nhẹ-nhàng an-vui. Ngài A-Nan đắc pháp chưa từng có, tự xét mình tủi-hổ, rơi lụy, thành tâm đảnh lễ và bạch Phật: Bạch Đức Thế-Tôn! Đức Thế-Tôn vốn là Đấng Thanh-Tịnh Bửu-Vương hết lòng đại-bi vô-thượng, khéo khai-ngộ tâm tôi và khéo dung các nhân-duyên, phương-tiện hướng dẫn những hạng người mê-lầm ra khỏi biển-khổ.
- Bạch Đức Thế-Tôn! Nay tôi dầu nghe tiếng pháp như vậy, được biết Tâm Như-Lai-Tạng giác-ngộ huyền-diệu, quang-minh châu-biến khắp cả thập-phương thế-giới, bao-hàm các cõi thanh-tịnh bửu-nghiêm diệu-giác vương Như-Lai. Đúc Thế-Tôn quở tôi không chịu quyết tâm tu-tập, cái tài đa-văn vô-dụng trong Hằng-sa kiếp chẳng bằng một ngày tu công-đức vô-lậu, thế nên tôi ví như kẻ lữ-khách đang lận-đận lao-đao, tình cờ nhờ ơn vua cho một cái nhà tốt. Tuy được nhà tốt, nhưng muốn vào nhà tốt thì phải do cửa, nếu không biết cửa vào thì nhà tốt cũng vô ích. Vậy ngưỡng cầu Đức Thế-Tôn đại-từ đại-bi đại-hỉ đại-xả, khai thị cho tôi là kẻ mê-lầm, cho tới các vị còn mê-tối ở trong Giáo-Hội được biết xả pháp Tiểu-thừa để biết lên đường căn-bổn phát-tâm tu-chứng vô-dư Niết-Bàn của Như-Lai, đồng thời cứu-độ những người hữu-học biết dùng phương-tiện trừ-tuyệt các thứ phan-duyên lâu đời, được pháp Đà-ra-ni, hầu vào cảnh trí thấy-biết của Như-Lai. Ngài A-Nan bạch xong, gieo năm vóc xuống đất lạy Phật và cả Đại-chúng trong Giáo-Hội đều hết lòng thành-kính trông-chờ giáo-chỉ từ-bi của Đức Thế-Tôn.
阿難及諸大眾,聞佛示誨,疑惑銷除,心悟實相,身
ē nán jí zhū dà zhòng wén fó shì huì yí huò xiāo chú xīn wù shí xiàng shēn
A-Nan cập chư đại-chúng, văn Phật thị hối, nghi-hoặc tiêu-trừ, tâm ngộ thiệt tướng, thân
意輕安,得未曾有。重複悲淚,頂禮佛足,長跪
yì qīng ān dé wèi céng yǒu chóng fù bēi lèi dǐng lǐ fó zú cháng guì
ý khinh-an, đắc vị-tằng-hữu. Trùng phục bi lụy, đảnh lễ Phật túc, trường quì
合 掌,而白佛言:無上大悲清淨寶王,善開我
hé zhǎng ér bái fó yán wú shàng dà bēi qīng jìng bǎo wáng shàn kāi wǒ
hiệp-chưởng, nhi bạch Phật ngôn: Vô Thượng đại-bi thanh-tịnh Bửu-vương, thiện khai ngã
心!能 以 如 是 種 種 因 緣,方 便 提 獎,引諸沈冥,
xīn néng yǐ rú shì zhǒng zhǒng yīn yuán fāng biàn tí jiǎng yǐn zhū chén míng
tâm! Năng dĩ như thị chủng chủng nhân duyên, phương-tiện đề tương, dẫn chư trầm-minh,
出於苦海。世尊!我今雖承如是法音,知如來藏妙覺
chū yú kǔ hǎi shì zūn wǒ jīn suī chéng rú shì fǎ yīn zhī rú lái zàng miào jué
xuất ư khổ-hải. Thế-Tôn! Ngã kim tuy thừa như thị pháp âm, tri Như-Lai tạng diệu giác-
明心徧十方界,含育如來十方國土,清淨寶
míng xīn biàn shí fāng jiè hán yù rú lái shí fāng guó dù qīng jìng bǎo
minh tâm biến thập phương giới, hàm dục Như-Lai thập phương quốc độ, thanh-tịnh Bửu-
嚴妙 覺 王 剎。如來復責,多聞無功,不逮修習。
yán miào jué wáng chà rú lái fù zé duō wén wú gōng bú dài xiū xí
nghiêm diệu-giác vương sát. Như-Lai phục trách, đa văn vô công, bất đãi tu tập.
我今猶如旅泊之人,忽蒙天王賜與華屋。雖獲大宅,
wǒ jīn yóu rú lǚ bó zhī rén hū méng tiān wáng cì yǔ huá wū suī huò dà zhái
Ngã kim du như lử bạc chi nhân, hốt mông thiên-vương tứ dĩ hoa ốc. Tuy hoạch đại trạch,
要因門入。惟願如來不捨大悲,示我在會諸蒙暗者,
yào yīn mén rù wéi yuàn rú lái bù shě dà bēi shì wǒ zài huì zhū méng àn zhě
yếu nhân môn nhập. Duy nguyện Như-Lai bất xá đại bi, thị ngã tại hội chư mông ám giả,
捐捨小乘,畢獲如來無餘涅槃,本發心路。令有學者,
juān shě xiǎo chéng bì huò rú lái wú yú niè pán běn fā xīn lù lìng yǒu xué zhě
quyên xá tìểu thừa, tất hoạch Như-Lai Vô dư Niết-Bàn, bổn phát tâm lộ. Lịnh hữu học giả,
從 何 攝 伏 疇 昔 攀 緣,得陀囉尼,入佛知見?作是語
cóng hé shè fú chóu xí pān yuán dé tuó luō ní rù fó zhī jiàn zuò shì yǔ
tùng hà nhiếp phục trù tích phan duyên, đắc đà ra ni, nhập Phật tri-kiến? Tác thị ngữ
已,五體投地。在會一心,佇佛慈旨。
yǐ wǔ tǐ tóu dì zài huì yì xīn zhù fó cí zhǐ
dĩ, ngũ thể đầu địa. Tại hội nhứt tâm, trử Phật từ chỉ .
28.THE TWO DECISIVE DOCTRINES
The Wonderful Path of Cultivation
The World Honored One then took pity on the Sound-Hearers and the Condition-Enlightened Ones in the assembly – all those who were not yet at ease with the Bodhi mind – and on all living beings to come after the Buddha’s extinction during the Dharma-ending Age. He revealed the wonderful path of cultivation of the unsurpassed vehicle.
He proclaimed to Ananda and to the Great Assembly, “If you want to have decisive resolve for Bodhi and not grow weary of the Wonderful Samadhi of the Buddha, the Thus Come One, you must first understand the two resolutions regarding initial resolve for enlightenment. What are the two resolutions regarding initial resolve for enlightenment?
- Hai Nghĩa Quyết Định
- Khai Thị Đại Thừa Pháp
- Khi ấy Đức Phật từ-bi thương-xót các vị Tiểu-thừa Thinh-văn và Duyên-giác trong Giáo hội chưa được tự-tại ở Tâm Bồ-đề và cũng vì chúng-sanh phát Tâm Bồ-đề trong thời-kỳ mạt-pháp sau khi Như-Lai diệt-độ, Đức Phật mở đường tu-hành mầu-nhiệm của Vô-Thượng thừa để viên-chứng Phật quả.
- Đức Thế-Tôn bảo ngài A-Nan và Đại-chúng: Các ông dõng-cảm quyết-định phát Tâm Bồ-đề, qui hướng theo đường Tam-Ma-Đề tức là Chánh-Định thậm-thâm vi-diệu của Như-Lai, không bao giờ biếng-nhác mệt-nhọc, thì trong lúc mới phát tâm giác-ngộ phải hiểu-rõ hai nghĩa quyết định như sau:
- Đức Phật dạy: A-Nan! Thế nào là hai nghĩa quyết-định trong lúc sơ-phát tâm?
爾時世尊,哀愍會中緣覺聲聞,於菩提心未自在
ěr shí shì zūn āi mǐn huì zhōng yuán jué shēng wén yú pú tí xīn wèi zì zài
Nhĩ thời Thế-Tôn, ai mẫn hội trung Duyên-giác Thinh-văn, ư Bồ-Đề tâm vị tự tại
者,及為當來佛滅度後,末法眾生發菩薩心,開無
zhě jí wèi dāng lái fó miè dù hòu mò fǎ zhòng shēng fā pú sà xīn kāi wú
giả, cập vi đương lai Phật diệt độ hậu, mạc pháp chúng-sanh phát Bồ- Đề tâm, khai Vô-
上 乘妙修行路。宣示阿難,及諸大眾:汝等決
shàng chéng miào xiū xíng lù xuān shì ē nán jí zhū dà zhòng rǔ děng jué
Thượng thừa diệu tu hành lộ. Tuyên thị A-Nan, cập chư đại chúng: Nhữ đẳng quyết-
定發菩提心,於佛如來妙三摩提不生疲倦,應當先
dìng fā pú tí xīn yú fó rú lái miào sān mó tí bù shēng pí juàn yīng dāng xiān
định phát Bồ-Đề tâm, ư Phật Như-Lai diệu Tam-ma- đề bất sanh bì quyện, ưng đương tiên
明,發覺初 心 二 決 定 義。
míng fā jué chū xīn èr jué dìng yì
minh, phát giác sơ tâm nhị quyết- định nghĩa.
29.The Means of Two Decisive Doctrines
Nghĩa Quyết-Định thứ Nhứt
”Ananda, the first resolution is this: if you wish to renounce the position of Sound-Hearer and cultivate the Bodhisattva Vehicle, and to enter the knowledge and vision of the Buddha, you must carefully consider whether the resolve on the cause ground and the enlightenment on the ground of fruition are the same or different.
”Ananda, it is impossible while on the cause-ground to use the mind subject to production and extinction as the basis for cultivating in quest of the Buddha vehicle, which is neither produced nor extinguished.
For this reason, you should realize that all existing dharmas in the material world will decay and disappear. Ananda, contemplate the world: what thing is there that will not waste away?
”But, has anyone ever heard of the disintegration of the void? Why not? It is because the void does not exist, and so it can never be destroyed.
- Nhị Nghĩa Quyết-Định trong Đại-Thừa Pháp
- Tịnh Hóa Các Lớp Vẫn Đục
- Nghĩa Quyết-Định Thứ Nhứt
- Nghĩa quyết-định thứ nhứt là tất cả công đức vô-lậu đều ở trong sơ-phát tâm bất sanh bất diệt, nếu ly sơ-phát tâm ấy thì không thành đạo Vô-Thượng Bồ-Đề.
- Như các ông muốn xả thừa Thinh-văn, tu thừa Bồ-Tát để vào cảnh-trí thấy-biết của Như-Lai thì phải cứu-xét chỗ nhân-địa phát tâm và chỗ quả-địa giác-ngộ là đồng hay khác.
- A-Nan! Nếu ở chỗ nhân-địa lấy tâm sanh-diệt làm căn-bổn tu-hành để cầu Phật-thừa bất sanh bất diệt thì vô-lý.
- A-Nan! Ông lại nên cứu-xét ở trong khí-thế-gian các pháp hữu-vi có cái chi chẳng hư-hoại?-Chỉ có hư-không thuộc về vô-vi, chẳng phải là vật có thể làm ra nên thủy-chung không hề hư-hoại.
- Cứu-xét theo nghĩa ấy, nếu muốn cầu quả bất sanh bất diệt tất nhiên phải có nhân-địa bất-sanh bất diệt.
云何初心二義決定?阿難!第一義者,汝 等 若 欲
yún hé chū xīn èr yì jué dìng ē nán dì yī yì zhě rǔ děng ruò yù
Vân hà sơ tâm nhị nghĩa quyết- định? A-Nan! Đệ nhứt nghĩa giả, nhữ đẳng nhược dục
捐捨聲聞,修菩薩乘,入佛知見。應 當 審 觀 因 地
juān shě shēng wén xiū pú sà chéng rù fó zhī jiàn yīng dāng shěn guān yīn dì
quyên xả Thinh-văn, tu Bồ-tát thừa, nhập Phật tri kiến. Ưng đương thẩm quan nhân địa
發心,與果地覺,為同為異,阿難!若於因地,以生
fā xīn yǔ guǒ dì jué wéi tóng wéi yì ē nán ruò yú yīn dì yǐ shēng
phát tâm, dữ quả địa giác, vi đồng vi dị, A-Nan! Nhược ư nhân địa, dĩ sanh-
滅心為本修因,而求佛乘不生不滅,無有是處!以是
miè xīn wéi běn xiū yīn ér qiú fó chéng bù shēng bù miè wú yǒu shì chù yǐ shì
diệt tâm vi bổn tu nhân, nhi cầu Phật-thừa bất sanh bất diệt, vô hữu thị xứ ! Dĩ thị
義故,汝當 照明,諸器世間,可作之法,皆從變
yì gù rǔ dāng zhào míng zhū qì shì jiān kě zuò zhī fǎ jiē cóng biàn
nghĩa cố, nhữ đương chiếu minh, chư khí thế-gian, khả tác chi pháp, giai tùng biến
滅。阿難!汝觀世間,可作之法,誰為不壞?然終
miè ē nán rǔ guān shì jiān kě zuò zhī fǎ shuí wéi bú huài rán zhōng
diệt. A-Nan! Nhữ quan thế-gian, khả tác chi pháp, thi vi bất hoại? Nhiên chung
不聞爛壞虛空。何以故?空非可作,由是始終無壞
bù wén làn huài xū kōng hé yǐ gù kōng fēi kě zuò yóu shì shǐ zhōng wú huài
bất văn lãn hoại hư-không. Hà dĩ cố? Không phi khả tác, do thị thủy-chung vô hoại
滅故。
miè gù
diệt cố.
30.The Five Turbidities
”While you are in your body, what is solid is of earth, what is moist is of water, what is warm is of fire, and what moves is of wind. Because of these four bonds, your tranquil and perfect, wonderfully enlightened bright mind divides into seeing, hearing, sensation, and cognition. From beginning to end there are the five layers of turbidity.
”What is meant by ‘turbidity?’ Ananda, pure water, for instance, is fundamentally clear and clean, whereas dust, dirt, ashes, silt, and the like, are basically solid substances. Such are the properties of the two; their natures are not compatible. Suppose, then, that an ordinary person takes some dirt and tosses it into the pure water. The dirt loses its solid quality and the water is deprived of its transparency. The cloudiness which results is called ‘turbidity.’ Your five layers of turbidity are similar to it.
- Ngũ-Trược
- A-Nan! Như trong thân-thể của ông, ông phải biết vật cứng là địa-đại, vật nóng là hỏa-đại, vật ướt là thủy-đại, vật lay động là phong đại, vì bốn món nầy ràng buộc và phân chia tâm-thể Chơn-giác diệu-minh trạm-viên của ông ra làm thấy, nghe, hiểu-biết, quan-sát, v.v… từ thủy chí chung đều bị năm thứ trược bao vây.
- A-Nan! Thế nào gọi là trược? Trược tức là nhơ-đục. Ví như chất nuớc bản-nhiên thanh-khiết, còn chất bụi đất tro hoặc cát vốn nhơ-đục hay ngăn-ngại, hai loại ấy không thể nào hòa-hiệp nhau được. Ví như có người thế-gian lấy đất quăng vào nước thì đất mất tánh ngăn-ngại, nước mất tánh thanh-khiết, thành ra có tướng nhơ-đực. Năm thứ trược của ông cũng như vậy.
則汝身中,堅相為地,潤溼為水,煖觸為火,動搖為
zé rǔ shēn zhōng jiān xiàng wéi dì rùn shī wéi shuǐ nuǎn chù wéi huǒ dòng yáo wéi
Tắc nhữ thân trung, kiên tướng vi địa, nhuận thấp vi thủy, noãn súc vi hỏa, động diêu vi
風。由此四纏,分汝湛圓妙覺明心,為視為聽為
fēng yóu cǐ sì chán fēn rǔ zhàn yuán miào jué míng xīn wéi shì wéi tīng wéi
phong. Do thử tứ triền, phân nhữ trạm viên diệu giác minh tâm, vi thị vi thính vi
覺為察。從始入終,五疊渾濁。云何為濁?阿難!譬
jué wéi chá cóng shǐ rù zhōng wǔ dié hún zhuó yún hé wéi zhuó ē nán pì
giác vi xát. Tùng thỉ nhập chung, ngũ điệp hồn trược. Vân hà vi trược? A-Nan! Thí
如清水,清潔本然。即彼塵土灰沙之倫,
rú qīng shuǐ qīng jié běn rán jí bǐ chén tǔ huī shā zhī lún
như thanh-thủy, thanh-khiết bổn-nhiên. Tức bỉ trần thổ khôi sa chi luân,
本質留礙。二體法爾,性不相循。有世間人,取彼土
běn zhí liú ài èr tǐ fǎ ěr xìng bù xiāng xún yǒu shì jiān rén qǔ bǐ tǔ
bổn chất lưu ngại. Nhị thể pháp nhĩ, tánh bất tương tuần. Hữu thế-gian nhân, thủ bỉ thổ
塵,投於淨水,土失留礙,水亡 清 潔,容 貌 汨 然,
chén tóu yú jìng shuǐ tǔ shī liú ài shuǐ wáng qīng jié róng mào gǔ rán
trần, đầu ư tịnh thủy, thổ thất lưu ngại, thủy vong thanh-khiết, dung mạo cốt nhiên,
名之為濁。汝 濁 五 重,亦復如是。
míng zhī wéi zhuó rǔ zhuó wǔ chóng yì fù rú shì
danh chi vi trược. Nhữ trược ngũ trùng, diệc phục như thị.
31.The Turbidity of Time
”Ananda, you see that emptiness pervades the ten directions. There is no division between emptiness and seeing. However, although emptiness has no substance and your seeing has no awareness, the two become entangled in a falseness. This is the first layer, called the turbidity of time.
- Kiếp-trược
- Nói về trược thứ nhứt, A-Nan! Như ông thấy hư-không khắp thập phương pháp giới, tánh thấy và hư-không chẳng rời nhau, tánh thấy xen-lộn với hư-không thì chẳng còn thiệt-giác, hư-không xen-lộn với tánh thấy thì chẳng còn thiệt-thể, hai thứ giả-hiệp nhau vọng thành sắc-ấm hư-vọng, có sanh lão bịnh tử, các tai-biến khổ-lụy và các-sắc-tướng, thành trụ hoại không, nên gọi là kiếp-trược.
阿難!汝見虛 空徧 十 方 界,空見不分,有空無體,
ē nán rǔ jiàn xū kōng biàn shí fāng jiè kōng jiàn bù fēn yǒu kōng wú tǐ
A-Nan! Nhữ kiến hư-không biến thập phương giới, không kiến bất phân, hữu không vô thể,
有見無覺,相 織 妄 成,是第一重,名為劫濁。
yǒu jiàn wú jué xiāng zhī wàng chéng shì dì yī chóng míng wéi jié zhuó
hữu kiến vô giác, tương chức vọng-thành, thị đệ nhứt trùng, danh vi kiếp trược.
32.The Turbidity of Views
”Your body appears in full, with the four elements composing its substance, and from this, seeing, hearing, sensation, and cognition become firmly defined. Water, fire, wind, and earth fluctuate between sensation and cognition and become entangled in a falseness. This is the second layer, called the turbidity of views.
- Kiến-Trược
- Nói về trược thứ hai, A-Nan! Như Bổn-thể chơn-giác thì không có nhục-thân, nhưng có đầu-thai luân-hồi, tất phải có nhục-thân. Thân nầy giữ bốn món đất lửa nước gió làm tự-thể mới thật là mê-muội, vì thế tánh kiến-văn giác-tri bị hạn-chế, sanh ra có ngăn-ngại; bốn món đất lửa nước gió xây-vần hóa ra có tri-giác, hai bên giả-hiệp nhau vọng-thành thọ-ấm hư-vọng, thấy biết sai-lầm, lấy phải làm quấy, lấy quấy làm phải, nên gọi là kiến-trược.
汝身現摶四大為體,見聞覺知,壅令留礙;水火風
rǔ shēn xiàn tuán sì dà wéi tǐ jiàn wén jué zhī yǒng lìng liú ài shuǐ huǒ fēng
Nhữ thân hiện đoàn tứ đại vi thể, kiến văn giác tri, ủng linh lưu ngại; thủy hỏa phong
土,旋 令 覺 知 相 織 妄 成,是第二重,名為見濁。
tǔ xuán lìng jué zhī xiāng zhī wàng chéng shì dì èr chóng míng wéi jiàn zhuó
thỗ, triền linh giác tri tương chức vọng-thành, thị đệ nhị trùng, danh vi kiến trược.
33.The Turbidity of Afflictions
”Further, the functions of memory, discrimination, and verbal comprehension in your mind bring into being knowledge and views. From out of them appear the six defiling objects. Apart from the defiling objects there are no appearances. Apart from cognition they have no nature. But they become entangled in a falseness. This is the third layer, called the turbidity of afflictions.
- Phiền-Não Trược
- Nói về trược thứ ba, A-Nan! Như trong tâm ông, tánh tưởng-nhớ, học-hiểu, luyện-tập phát ra tri-kiến dung-nạp lục-trần, nếu ly trần thì vô tướng, ly giác thì vô tánh, hai pháp giả-hiệp nhau vọng-thành tưởng ấm hư-vọng, có đủ vọng-tưởng điên-đảo, phiền-não như tham, sân, si, v.v… nhiễu-loạn, nên gọi là phiền-não trược.
又汝心中憶識誦習,性發知見,容現六塵;離塵無
yòu rǔ xīn zhōng yì shì sòng xí xìng fā zhī jiàn róng xiàn liù chén lí chén wú
Hựu nhữ tâm trung ức thức tụng tập, tánh phát tri kiến, dung hiện lục trần; ly trần vô
相,離覺無性,相 織 妄 成,是第三重,名 煩 惱濁。
xiàng lí jué wú xìng xiāng zhī wàng chéng , shì dì sān chóng míng fán nǎo zhuó
tướng, ly giác vô tánh, tương chức vọng-thành, thị đệ tam trùng, danh phiền-não trược.
34.The Turbidity of Living Beings
”And then day and night there is endless production and extinction as your knowledge and views continually wish to remain in the world, while your karmic patterns constantly move you to various places. This entanglement becomes a falseness, which is the fourth layer, called the turbidity of living beings.
- Chúng-Sanh Trược
- Nói về trược thứ tư, A-nan! Như trong tâm ông, sanh-diệt không dứt, niệm niệm không ngừng, tánh tri-kiến hằng muốn ở mãi thế-gian, nhưng nghiệp-thức lại hay thay-đổi trong các cõi, hai pháp giả-hiệp nhau vọng-thành hành-ấm hư-vọng, gây ra các nghiệp-báo oan-trái vay-trả mà làm chúng-sanh luân-hồi sanh-tử ở các lãnh-thổ phàm-phu, nên gọi là chúng-sanh trược.
又汝朝夕生滅不停,知見每欲留於世間,業運每
yòu rǔ zhāo xì shēng miè bù tíng zhī jiàn měi yù liú yú shì jiān yè yùn měi
Hựu nhữ triệu tịch sanh diệt bất đình, tri kiến mỗi dục lưu ư thế-gian, nghiệp vân mỗi
常 遷 於 國 土,相 織 妄 成,是第四重,名 眾 生 濁。
cháng qiān yú guó dù xiāng zhī wàng chéng ,shì dì sì chóng míng zhòng shēng zhuó
thường thiên ư quốc-độ, tương chức vọng-thành, thị đệ tứ trùng, danh chúng-sanh trược.
35.The Turbidity of Lifespan
”Originally, your seeing and hearing were not different natures, but a multitude of defiling objects has divided them until suddenly they became different. Their natures have a mutual awareness, but their functions are in opposition. Sameness and difference arise and they lose their identity. This entanglement becomes a falseness, which is the fifth layer, called the turbidity of a lifespan.
”Ananda, you now want to cause your seeing, hearing, sensation, and cognition to return to and tally with the permanence, bliss, true self, and purity of the Thus Come One.
You should first decide what the basis of birth and death is by relying on the perfect, tranquil nature which is neither produced nor extinguished.
- Mạng Trược
- Nói về trược thứ năm, A-Nan! Như tánh thấy và tánh nghe của ông vốn không có khác nhau, nhưng vì lục-trần mê-loạn, phân-chia ra có khác nhau, cho tới cả lục-căn tuy đồng một thể-tánh nhưng có sáu dụng khác nhau, cái đồng cái dị, không có chuẩn-đích, giả-hiệp nhau vọng-thành thức-ấm hư-vọng, do đó căn-mạng của chúng-sanh hôn-trầm mỏng-mãnh vô-thường, thoạt còn thoạt mất, khi sanh khi diệt, không có bền-chắc, nên gọi là mạng-trược.
- Tâm Bổn-Giác diệu-minh của chúng-sanh tuy đồng với Phật nhưng tại năm thứ trược che-khuất, khiến chúng-sanh bị trôi-lăn ở biển khổ luân-hồi sanh-tử. Cũng vì ngũ-trược đó mà chúng-sanh không thành-tựu được tứ đức thường lạc ngã tịnh.
汝等見聞元無異性,眾塵隔越,無狀異生,性中
rǔ děng jiàn wén yuán wú yì xìng zhòng chén gé yuè wú zhuàng yì shēng xìng zhōng
Nhữ đẳng kiến văn nguyên vô vị tánh, chúng trần cách việt, vô trạng dị sanh, tánh trung
相知,用 中 相 背,同異失準,相 織 妄 成,是第五
xiāng zhī yòng zhōng xiāng bèi tóng yì shī zhǔn xiāng zhī wàng chéng shì dì wǔ
tương tri, dụng trung tương bội, đồng dị thất chuẩn, tương chức vọng-thành, thị đệ ngũ
重,名為命濁。
chóng míng wéi mìng zhuó
trùng, danh vi mạng-trược.
36.The Mind On The Cause-Ground
By means of this tranquility, turn the empty and false production and extinction so that they are subdued and return to the source of enlightenment. The attainment of this source of bright enlightenment, which is neither produced nor extinguished, is the mind on the cause-ground.
”Then you can completely accomplish the cultivation of and certification to the ground of fruition.
- Giác-Tánh
- A-Nan! Như hiện nay ông muốn đem tánh kiến-văn giác-tri của ông cho khế-hiệp với tứ đức thường lạc ngã tịnh của Như-Lai thì trước hết phải lọc bỏ cội-gốc sanh-tử, nương theo thể bất sanh-diệt mà thành-lập tánh viên-trạm. Ông phải dùng tánh viên-trạm chuyển các thứ hư-vọng sanh-diệt, ví-dụ như thập bát giới, ngũ-trược,v.v…, trở về với cội-gốc Chơn-Như hoàn-toàn hiểu-biết sáng-suốt, thật-hiện giác-tánh nguyên-minh bất sanh-diệt làm chỗ nhân-địa phát tâm thì nhiên-hậu chắc-chắn tu-chứng viên-mãn quả-địa Vô Thượng Bồ-Đề.
- Nguyên-lai vì nhân-địa và quả-địa phải đồng nhau mới tu-chứng Bồ-Tát thừa, từ Thập-Tín, lần lên Thập-Trụ, Thập-Hạnh, Thập Hồi-Hướng, Thập-Địa cho tới Đẳng-giác Bồ-Tát, rồi mới cứu-cánh Diệu-quả Như-Lai.
阿難!汝今欲令見聞覺知,遠 契 如 來 常 樂 我淨,應
ē nán rǔ jīn yù lìng jiàn wén jué zhī yuǎn qì rú lái cháng lè wǒ jìng yīng
A-Nan! Nhữ kim dục lịnh kiến văn giác tri, viễn khiết Như-Lai thường lạc ngã tịnh, ưng
當 先 擇 死 生 根 本,依不生滅圓湛性成。以湛旋其虛
dāng xiān zé sǐ shēng gēn běn yī bù shēng miè yuán zhàn xìng chéng yǐ zhàn xuán qí xū
đương tiên trạch tử sanh căn-bổn, ý bất sanh diệt viên-trạm tánh thành. Dĩ trạm triền kỳ hư-
妄 滅 生,伏 還 元 覺,得 元 明 覺 無 生滅 性 為 因地
wàng miè shēng fú huán yuán jué dé yuán míng jué wú shēng miè xìng wéi yīn dì
vọng diệt sanh, phục hoàn nguyên giác, đắc nguyên minh giác vô sanh diệt tánh vi nhân-địa
心,然 後 圓 成 果 地 修 證。
xīn rán hòu yuán chéng guǒ dì xiū zhèng
tâm, nhiên-hậu viên-thành quả địa tu chứng.
37.”It is like purifying muddy water by placing it in a quiet vessel which is kept completely still and unmoving. The sand and silt settle, and the pure water appears. This is called the initial subduing of the guest-dust affliction.
”The complete removal of the mud from the water is called the eternal severance of fundamental ignorance.
”When clarity is pure to its essence, then no matter what happens there is no affliction. Everything is in accord with the pure and wonderful virtues of Nirvana.
- Ví-dụ như lọc nước nhơ-đục. Phải dùng một cái bình sạch-sẽ để yên-lặng ở một chỗ. Yên-lặng tức là không lay-động, lâu ngày đất cát bụi-bặm tự lóng chìm xuống đáy bình, thì nước trở nên trong-trẻo.
- Nước tượng-trưng cho giác-tánh viên-trạm, cái bình sạch-sẽ yên-lặng tượng-trưng cho thể của các căn, đất-cát bụi-bặm tượng-trưng cho các thứ nhơ-đục như vô-minh, ngũ-trược, v.v…
- Đất-cát bụi-bặm tự lóng chìm xuống đáy bình, nước trong-trẻo hiện rõ có nghĩa là khởi sự đoạn-trừ các khách-trần vọng-nghiệp phiền-não sở-tri. Tuy nhiên, chất bùn còn đóng ở đáy bình có thể gặp giờ-phút nào đó, cái bình bị lay-động thì chất bùn tự dấy lên làm nhơ-đục nước như cũ, đó là lý đoạn-trừ khách-trần vọng-nghiệp phiền-não sở-tri mà còn vô-minh thì chưa khỏi hậu-quả nguy-hại.
- Người tu-chứng Phật-thừa phải lọc cho hết chất bùn, chỉ còn thuần một thể nước hoàn-toàn tinh-khiết, đó là nghĩa diệt-tận căn-bổn vô-minh.
- Khi vô-minh dứt tuyệt thì các khách-trần vọng-nghiệp phiền-não sở-tri không còn do đâu mà phát sanh, ví như đốn cây, khi gốc-rể bị chặt đứt rồi thì các ngọn-ngành phải héo-tàn. Thế thì Tâm Bổn-Giác Chơn-Như, huyền-diệu quang-minh, trạm-nhiên thường-trụ không còn có chi che-khuất, tự-tại vô-ngại, thần-thông biến-hóa, tinh-thuần thị-hiện bất cứ ở nơi nào, nhứt thiết đều không có phiền-não ngăn-ngại, khế-hiệp với diệu-đức thanh-tịnh Bồ-Đề Niết-Bàn của Phật.
如 澄 濁 水,貯於靜器,靜深不動,沙土自沈,清
rú chéng zhuó shuǐ zhǔ yú jìng qì jìng shēn bú dòng shā tǔ zì chén qīng
Như trường trược thủy, trử ư tinh-khí, tinh thâm bất động, sa-thổ tự trầm, thanh-
水現前,名 為 初 伏 客 塵 煩 惱。去泥純水,名 為 永
shuǐ xiàn qián míng wéi chū fú kè chén fán nǎo qù ní chún shuǐ míng wéi yǒng
thủy hiện-tiền, danh vi sơ phục khách-trần phiền-não. Khứ nê thuần-thủy, danh vi vĩnh
斷根本無明。明 相 精 純,一切變現不為煩惱,皆
duàn gēn běn wú míng míng xiàng jīng chún yí qiè biàn xiàn bù wéi fán nǎo jiē
đoạn căn-bổn vô minh. Minh tướng tinh-thuần, nhứt thiết biến-hiện bất vi phiền-não, giai
合涅槃 清 淨 妙 德。
hé niè pán qīng jìng miào dé
hiệp Niết-Bàn thanh-tịnh diệu-đức.
- 38. LIBERATION OF THE ORGANS
The Second Resolution
”The second resolution is this: if you definitely wish to bring forth the resolve for Bodhi and to be especially courageous and dedicated in your cultivation of the Bodhisattva Vehicle, you must decisively renounce all conditioned appearances.
You should carefully consider the origin of affliction and the beginningless creation of karma and perpetuation of rebirth – who creates it and who endures it?
”Ananda, if in your cultivation of Bodhi you do not carefully consider the origin of affliction, you cannot realize the empty falseness of the sense-organs and sense-objects or the location of delusion. If you don’t even know its location, how can you subdue it and reach the level of the Thus Come One?
”Ananda, consider the ordinary person who wants to untie a knot. If he can’t see where the knot is, how can he untie it?
But I have never heard that one can obliterate empty space. Why? It is because emptiness has no form or appearance;A therefore there are no knots to untie.
”But now your visible eyes, ears, nose and tongue, as well as your body and mind, are like six thieving matchmakers who plunder the jewels of your household.
”And, thus, from beginningless time living beings and the world have been bound up together, so that the material world cannot be transcended.
- Mở Gút Các Căn
- Nghĩa Quyết-Định Thứ Hai
- Nghĩa quyết-định thứ hai là từ chỗ các căn viên-thông mà vào cảnh-trí giải-thoát, tự-tại vô ngại.
- -A-Nan! Như ông và Đại-chúng muốn phát Bồ-Đề Tâm tu Bồ-Tát thừa, giàu thiện-chí dõng-mãnh, quyết-định dứt sạch các tướng hữu-vi thì phải cứu-xét tinh-tường cho hiểu-rõ nguồn-gốc phiền-não, ví như chỗ vọng-động phát khởi nghiệp vô-minh, và các chỗ trợ-duyên nhuận-sanh nghiệp vô-minh từ vô-thỉ đến nay, tự ai tạo-tác và ai thọ-lãnh?
- -A-Nan! Nếu ông hành đạo Vô-Thượng Bồ-Đề mà không cứu-xét hiểu-rõ nguồn-gốc phiền-não thì không thể biết đuợc chỗ điên-đảo của căn-trần hư-vọng. Nếu chỗ điên-đảo luống-dối ấy chưa được biết thì ông làm sao hàng-phục và tiêu-diệt các thứ điên-đảo nguy-hiểm để đắc Phật-quả?
- A-Nan! Ông hãy xem-xét người mở gút dây ở thế-gian. Nếu muốn mở gút thì phải biết chỗ gút. Nếu chẳng biết chỗ gút thì làm sao mở gút? Các sắc-tướng ở thế-gian đều có thể bị phá-hủy, nhưng hư-không thì chẳng bao giờ bị ai phá-hủy được. Vì cớ sao? Vì hư-không vốn chẳng có sắc-tướng, chẳng có gút, mở.
- Tâm Bổn-giác Chơn-Như của ông ví như hư-không, nhưng thân tứ-đại giả-hiệp của ông vốn có sắc-tướng tất nhiên phải có gút dây; chỗ gút ấy là chỗ sáu căn hư-vọng của ông.
- A-Nan! Hiện nay sáu căn: mắt tai mũi luỡi thân ý của ông làm trung-gian cho sáu thức: nhãn-thức, nhĩ-thức, tỹ-thức, thiệt-thức, thân-thức, ý-thức, cướp lấy các gia-bảo của ông, do đó sanh ra các thứ trói-buộc ở thế-giới chúng-sanh, không vượt khỏi được thế-gian.
- Người tu-hành giải-thoát đã biết sáu căn là chỗ gút thì phải lo mở. Tuy có sáu căn nhưng chỉ cần mở được một căn thì thông-suốt luôn cả các căn. Thế nên muốn mở gút phải lựa căn. Trước khi lựa căn, phải biết số lượng của thế-giới chúng-sanh và lục-căn.
第二義者,汝等必欲發菩提心,於菩薩乘生大勇猛,
dì èr yì zhě rǔ děng bì yù fā pú tí xīn yú pú sà chéng shēng dà yǒng měng
Đệ nhị nghĩa giả, nhữ đẳng tất dục phát Bồ- Đề tâm, ư Bồ-Tát thừa sanh đại dõng-mãnh,
決 定 棄 捐 諸 有 為 相。應 當 審 詳 煩 惱 根 本,此無
jué dìng qì juān zhū yǒu wéi xiàng yīng dāng shěn xiáng fán nǎo gēn běn cǐ wú
quyết-định khí quyên chư hữu-vi tướng. Ưng đương thẩm tường phiền-não căn-bổn, thử vô
始 來 發 業 潤 生,誰作誰受?阿難!汝修菩提,若不
shǐ lái fā yè rùn shēng shuí zuò shuí shòu ē nán rǔ xiū pú tí ruò bù
thỉ lai phát nghiệp nhuận sanh, thùy tác thùy thọ? A-Nan! Nhữ Tu-Bồ- Đề, nhược bất
審 觀 煩 惱 根 本,則不能知虛妄根塵,何處顚倒。處
shěn guān fán nǎo gēn běn zé bù néng zhī xū wàng gēn chén hé chǔ diān dǎo chù
thẩm quan phiền-não căn-bổn, tắc bất năng tri hư-vọng căn trần, hà xứ điên-đảo. Xứ
尚不知,云何降伏,取如來位?阿難!汝觀世間解結
shàng bù zhī yún hé xiáng fú qǔ rú lái wèi ē nán rǔ guān shì jiān jiě jié
thượng bất tri, vân hà hàng phục, thủ Như-Lai vị? A-Nan! Nhữ quan thế-gian giải kiết
之人,不見所結,云何知解?不聞虛空被汝隳裂,何
zhī rén bú jiàn suǒ jié yún hé zhī jiě bù wén xū kōng bèi rǔ huī liè hé
chi nhân, bất kiến sở kết, vân hà tri giải? Bất văn hư không bị nhữ đọa liệc, hà
以故?空無形相,無結解故。則汝現前眼耳鼻舌及與
yǐ gù kōng wú xíng xiàng wú jiē jiě gù zé rǔ xiàn qián yǎn ěr bí shé jí yǔ
dĩ cố? Không vô hình tướng, vô kiết giải cố. Tắc nhữ hiện-tiền nhãn nhĩ tỹ thiệt cập dữ
身心,六為賊媒,自劫家寶。由此無始,眾生世界,
Shēn xīn liù wéi zéi méi zì jié jiā bǎo yóu cǐ wú shǐ zhòng shēng shì jiè
thân tâm, lục vi tặc mai, tự kiếp gia bửu. Do thử vô thỉ, chúng-sanh thế-giới,
生 纏 縛 故,於器世間不能超越。
shēng chán fú gù yú qì shì jiān bù néng chāo yuè
sanh triền-phược cố, ư khí thế gian bất năng siêu-việt.
39.The Efficacy of the Six Organs
”Ananda, what is meant by the time and space of living beings? ‘Time’ refers to change and flow; .space. refers to location.
”You should know by now that north, east, south, west, northeast, northwest, southeast, southwest, above and below are space. Past, present, and future are periods of time. There are ten directions in space and three periods of time.
”All living beings come into being because of false interaction. Their bodies go through changes and they are caught up in time and space.
”However, although there are ten directions in space, those known in the world as north, south, east, and west are the only ones that can be clearly fixed. Above and below have no position; the intermediates have no definite direction. Determined clearly to be four in number, they are then combined with the three periods of time. Three times four, or, alternately, four times three, make twelve.
”Increase it three times: itself multiplied by ten and again by ten, to reach the thousands: one thousand two hundred is the greatest possible efficacy of the six organs.
- Số Lượng của Thế-Giới và Lục Căn
- A-Nan! Tại sao gọi là thế-giới chúng-sanh? Thế-giới chúng-sanh tức là thế-giới của chúng-sanh. Thế là thiên-lưu, thuộc về thời-gian thay-đổi liên-tục, sanh-diệt vô-thường. Giới là phương-vị, thuộc về địa-cảnh, có xứ sở, phương-hướng.
- Thế có 3 thời: quá-khứ, hiện-tại, và vị-lai.
- Giới có 4 hướng: Đông Tây Nam Bắc, 4 duy: Đông-Nam, Tây-Nam, Đông-Bắc, Tây-Bắc, 2 thượng hạ: phương trên và phương dưới.
- Nhứt thiết chúng-sanh vọng-động, chủng-chủng các thứ hư-vọng giao-tiếp nhau thành ra vọng-thân vọng-cảnh, tương hiệp liên-tục, chúng-sanh vì mê-muội nên không hiểu-rõ.
- Số lượng của thế tức là thiên-lưu có 3. Số lượng cuả giới tức là phương-vi tuy có 10, nhưng chỉ dùng 4, vì lấy bốn phương làm chánh là Đông Tây Nam Bắc, bốn phương nầy có định vị, còn bốn duy: Đông-Nam Tây-Nam, Đông-Bắc Tây-Bắc vốn là bốn gốc cạnh, lấy hai phương giao-tiếp mà đặt danh chớ không có định vị, cho tới hai phía trên và dưới do sự đối-đải với bốn-phương mà đặt danh, chớ cũng không có định-vị.
- Lấy số lượng 3 của thiên-lưu giao-tiếp với số lượng 4 của phương-vị, xây-vần liên-tục, 3×4 hoặc 4×3 thành 12.
- Lấy số lượng 12 của thế-giới chúng-sanh nhân ba lần, mỗi lần nhân với số 10, thì từ hàng một lên hàng mười, rồi lên hàng tram cho tới hang ngàn, như lần thứ nhứt: 3×4=12, lần thứ hai 12×10=120, lần thứ ba 120×10=1200.
- Thế-giới của chúng-sanh tức là thế-giới của căn-mạng nên số lượng của thế-giới tức là số lượng của các căn, thì tổng-quát mỗi căn có thể được số lượng tối đa 1200 gọi là 1200 công-đức. Tuy nhiên sáu căn so-sánh với nhau thì có căn đủ 1200 công đức, có căn kém hơn, vì sáu căn nhiễm theo sáu trần, từ vô-thỉ đến nay, thành ra công-đức có tròn có khuyết.
阿難!云何名為眾生世界?世為遷流,界為方位。汝
ē nán yún hé míng wéi zhòng shēng shì jiè shì wéi qiān liú jiè wéi fāng wèi rǔ
A-Nan! Vân hà danh vi chúng-sanh thế-giới? Thế vi thiên-lưu, giới vi phương-vị. Nhữ
今當知,東西南北、東南西南、東北西北,上下為
jīn dāng zhī dōng xī nán běi dōng nán xī nán dōng běi xī běi shàng xià wéi
kim đương tri, Đông Tây Nam Bắc, Đông-nam Tây-nam, Đông-bắc Tây-bắc, thượng hạ vi
界。過去未來現在為世。方位有十,流數有三。一切
jiè guò qù wèi lái xiàn zài wéi shì fāng wèi yǒu shí liú shù yǒu sān yí qiè
giới. Quá-khứ vị-lai hiện-tại vi thế. Phương-vị hữu thập, lưu số hữu tam. Nhút thiết
眾 生 織 妄 相 成, 身中貿遷,世界相涉。而此界性,
zhòng shēng zhī wàng xiāng chéng shēn zhōng mào qiān shì jiè xiāng shè ér cǐ jiè xìng
chúng-sanh chức vọng tương thành, thân trung mậu thiên, thế giới tương hiệp. Nhi thử giới tánh
設雖十方,定位可明。世間祇目東西南北,上下
shè suī shí fāng dìng wèi kě míng shì jiān zhǐ mù dōng xī nán běi shàng xià
thiết tuy thập phương, định vị khả minh. Thế-gian chỉ mục Đông Tây Nam Bắc, thượng hạ
無位,中 無 定方。四數必明,與世相涉,三四四三,
wú wèi zhōng wú dìng fāng sì shù bì míng yǔ shì xiāng shè sān sì sì sān
vô vị, trung vô định-phương. Tứ số tất minh, giữ thế tương thiệp, tam tứ tứ tam,
宛 轉 十 二。流變三疊,一十百千,總括始終,六根
wǎn zhuǎn shí èr liú biàn sān dié yī shí bǎi qiān zǒng guā shǐ zhōng liù gēn
uyển-chuyển thập nhị. Lưu biến tam điệp, nhứt thập bá thiên, tổng quát thỉ-chung, lục căn
之中,各各功 德 有 千 二 百。
zhī zhōng gè gè gōng dé yǒu qiān èr bǎi
chi trung, các các công-đức hữu thiên nhị bá.
40.”Ananda, you can thereby establish their value. For example, the eyes see darkness behind and light in front. The front is totally light; the back is totally dark. With your peripheral vision included, you can see two thirds around at most. Therefore, its capacity can be expressed as an efficacy which is not complete. One third of its efficacy is without virtue. Know, then, that the eyes have an efficacy of only eight hundred.
”For example, the ears hear everywhere in the ten directions, without loss. They hear movements, whether far or near, and stillness without bounds. Know, then, that the organ of hearing is complete with an efficacy of twelve hundred.
”For example, the nose smells odors with each inhalation and exhalation of the breath. It is deficient at the point between the inhalation and exhalation. The organ of smell can be considered to be deficient by one third. Know, then, that the nose has an efficacy of only eight hundred.
”For example, the tongue can proclaim the entirety of worldly and transcendental wisdom. Although language varies according to locality, the principles go beyond boundaries of any kind. Know, then, that the organ of the tongue is complete with an efficacy of twelve hundred.
”For example, the body is aware of touch, registering it as pain or pleasure. When it makes contact, it is aware of the thing touched; when in isolation, it has no tactile knowledge of other things. Isolation has a single and contact has a dual aspect. The organ of the body can be considered as deficient by one third. Know, then, that the body has an efficacy of only eight hundred.
”For example, the mind silently includes all worldly and transcendental dharmas of the ten directions and the three periods of time. Regardless of whether it be sagely or ordinary, everything is included in its boundlessness. Know, then, that the organ of the mind is complete with an efficacy of twelve hundred.
- -A-Nan! Như mắt chủ về sự thấy. Mắt thấy nhưng chỉ thấy phía trước chớ không thấy phía sau, nên phía trước toàn sáng, phía sau toàn tối. Mắt ngó nghiêng qua hai bên tả-hữu, thì ba phần chỉ thấy được hai. Cứu-xét tác-dụng của mắt thì công đức không tròn vẹn, trong ba phần, mất một phần, chỉ còn 2/3. Vậy nên biết căn mắt có 800 công đức.
- Như tai chủ về sự nghe. Tai có thể nghe được các tiếng động khắp nơi, bất chấp phương-vị. Khi có tiếng động thì biết xa biết gần, khi không tiếng động thì thông-suốt vô-biên. Vậy phải hiểu căn tai có đủ 3/3 tức là 1200 công-đức.
- -Như mũi chủ về sự ngữi. Mũi thở ra thở vào, nhưng thở ra hít vào, chớ không giao-tiếp được hai hơi thở ở khoảng giữa tức là mất 1/3 công đức. Vậy nên biết căn mũi chỉ có 2/3 tức là 800 công-đức.
- -Như lưỡi chủ về sự nếm vị và cũng chủ về sự nói-năng. Về sự nói-năng, lưỡi có thể thuyết được các pháp thế-gian và xuất thế-gian, dầu lời nói có hạn-lượng, nhưng nghĩa-lý có thể sâu-xa vô-tận. Vậy nên biết căn lưỡi có đủ 3/3 tức là 1200 công-đức.
- -Như thân chủ về sự cảm-xúc. Thân cảm-xúc thì biết thuận biết nghịch, phải có cảm-xúc mới biết, nếu không có cảm-xúc thì chẳng biết. Như thế chứng-tỏ cảm-xúc hiệp thì biết, cảm-xúc ly thì chẳng biết, do đó công đức phải mất một phần. Vậy phải hiểu căn thân chỉ có 2/3 tức là 800 công-đức.
- -Như ý chủ về sự hiểu-biết phân-biệt. Ý bao-hàm tất cả Thánh phàm trong ba đời mười phương, dung-nạp các pháp thế-gian và xuất thế-gian, không pháp nào mà chẳng dung-nạp tới bờ bến. Vậy nên biết căn ý có đủ 3/3 tức là 1200 công đức.
阿難。汝復於 中 克定優劣。如眼 觀見,後暗前明,
ē nán rǔ fù yú zhōng kè dìng yōu liè rú yǎn guān jiàn hòu àn qián míng
A-Nan! Nhữ phục ư trung khắc định ưu liệt. Như nhãn quan kiến, hậu ám tiền minh,
前 方 全 明,後 方 全 暗,左右旁觀,三分之二。統
qián fāng quán míng hòu fāng quán àn zuǒ yòu páng guān sān fēn zhī èr tǒng
tiền phương toàn minh, hậu phương toàn ám, tả hữu bàn quan, tam phần chi nhị. Thống
論所作,功德不全,三分言功,一分無德,當知
lùn suǒ zuò gōng dé bù quán sān fēn yán gōng yí fēn wú dé dāng zhī
luận sở tác, công-đức bất toàn, tam phần ngôn công, nhứt phần vô đức, đương tri
眼唯八百功德。如耳周 聽,十 方無遺,動 若 邇 遙,
yǎn wéi bā bǎi gōng dé rú ěr zhōu tīng shí fāng wú yí dòng ruò ěr yáo
nhãn duy bát bá công đức. Như nhĩ châu thính, thập phương vô di, động nhược nhĩ-diêu,
靜無邊際,當知耳根圓滿一千二百功德。如鼻齅聞,
jìng wú biān jì dāng zhī ěr gēn yuán mǎn yì qiān èr bǎi gōng dé rú bí xiù wén
tịnh vô biên tế , đương tri nhĩ căn viên-mãn nhứt thiên nhị bá công-đức. Như tỹ khứu văn,
通 出 入 息,有出有入,而 闕 中 交。驗於鼻根,三
tōng chū rù xí yǒu chū yǒu rù ér quē zhōng jiāo yàn yú bí gēn sān
thông xuất nhập tức, hữu xuất hữu nhập, nhi khuyết trung giao. Nghiệm ư tỹ căn, tam
分 闕 一,當知鼻唯八百功德。如 舌 宣 揚,盡諸世間
fēn quē yī dāng zhī bí wéi bā bǎi gōng dé rú shé xuān yáng jìn zhū shì jiān
phần khuyết nhứt, đương tri tỹ duy bát bá công đức. Như thiệt tuyên dương, tận chư thế-gian
出世間智,言有方分,理無窮盡,當知舌根圓
chū shì jiān zhì yán yǒu fāng fēn lǐ wú qióng jìn dāng zhī shé gēn yuán
xuất thế-gian trí ngôn hữu phương phân, lý vô-cùng tận, đương tri thiệt-căn viên-
滿一千二百功德。如身覺觸,識於違順,合 時 能覺,
mǎn yì qiān èr bǎi gōng dé rú shēn jué chù zhì yú wéi shùn hé shí néng jué
mãn nhứt thiên nhị bá công đức. Như thân giác xúc, thức ư di thuận, hiệp thời năng giác,
離中不知,離一合雙。驗於身根,三 分 闕 一,當知
lí zhōng bù zhī lí yī hé shuāng yàn yú shēn gēn sān fēn què yī dāng zhī
ly trung bất tri, ly nhứt hiệp song. Nghiệm ư thân-căn, tam phần khuyết nhứt, đương tri
身唯八百功德。如意默容,十 方 三 世 一 切 世 間 出
shēn wéi bā bǎi gōng dé rú yì mò róng shí fāng sān shì yí qiè shì jiān chū
thân duy bát bá công đức. Như ý mặc dung, thập phương tam thế nhứt thiết thế-gian xuất
世間 法,唯聖與凡,無不包容,盡其涯際,當知意根
shì jiān fǎ wéi sheng yǔ fán wú bù bāo róng jìn qí yá jì dāng zhī yì gēn
thế-gian pháp, duy Thánh dữ phàm, vô bất bao dung, tận kỳ nhai tế, đương tri ý-căn
圓滿 一 千 二 百功德。
yuán mǎn yì qiān èr bǎi gōng dé
viên mãn nhứt thiên nhị bá công đức.
41.Investigating The Perfection of The Six
”Ananda, now you wish to oppose the flow of desire that leads to birth and death. You should turn back the flow of the organs to reach a state of neither production nor extinction.
”You should investigate all of these six functioning organs to see which are uniting, which are isolated, which are deep, which are shallow, which will penetrate perfectly, and which are not perfect.
”Once you have awakened to the organ which penetrates perfectly, you should thereupon reverse the flow of its beginningless involvement in false karma. Then you will know the difference between one that penetrates perfectly and one that does not. Then a day and an aeon will be one and the same.
”I have now revealed to you the fundamental efficacy of the tranquil perfect brightness of these six. This is what the numbers are; it is up to you to select which one to enter. I will explain more to aid your progress in it.
”The Thus Come Ones of the ten directions cultivated by means of all of the eighteen realms and obtained perfect, unsurpassed Bodhi. All of them were generally adequate.
”But you are at an inferior level and are not yet able to perfect comfortable wisdom among them. Therefore, I shall give you an explanation, so that you will be able to enter deeply into one door.
”Enter one without falseness, and the six sense organs will be simultaneously pure.” 4:179
- Ngộ Căn Viên-Thông, Thoát Luân-Hồi Khổ
- Đức Phật dạy: A-Nan! Sáu căn là cội-gốc sanh-tử. Nấu thuận theo sáu căn thì luân-hồi liên-tục, còn nghịch với sáu căn thì luân-hồi chấm dứt. Thế nên muốn về cảnh-trí. Niết-Bàn tất nhiên phải nghịch dòng sanh-tử.
- Như vậy ông muốn nghịch dòng sanh-tử, tìm hiểu châu-đáo cội-gốc của sáu căn để đến cảnh-trí bất sanh bất diệt thì phải nghiệm-xét sáu căn hiện đang thọ-dụng, căn nào hiệp, căn nào ly, căn nào sâu, căn nào cạn, căn nào viên-thông tức là viên-mãn thông-suốt, căn nào không viên-thông?
- Căn nào ly trần thì sâu, căn nào hiệp trần thì cạn, nếu ngộ được một căn viên-thông, nương theo căn ấy mà tu-hành, nghịch lại vọng-nghiệp đã tạo từ vô-thỉ thì so-sánh với các căn không viên-thông, công-đức thắng-lợi hơn rất nhiều ví như một ngày đối với một kiếp.
- A-Nan! Ta đã chỉ rõ số lượng công-đức của sáu căn, ông tự chọn-lựa kỹ càng căn nào viên-thông mà ông có thể ngộ-nhập, Ta sẽ tùy duyên dạy-bảo minh-bạch cho ông tinh-tấn tu-hành.
- Mười phương Như-Lai đã từng hiểu-thấu thập bát giới, bất luận giới nào, nhứt-thiết đều tu-hành viên-mãn Vô-Thượng Bồ-Đề, chớ không có phân-biệt hơn thua. Phần ông căn-cơ còn thấp kém, chưa đắc trí-huệ tự-tại viên-mãn nên Ta tuyên-dương cho ông hiểu rõ sáu căn để ông tùy ý chọn-lựa một căn viên-thông, rồi giác-ngộ căn ấy không còn một mảy hư-vọng tức là căn ấy được thanh-tịnh trang-nghiêm thì mấy căn khác đồng thời trở nên thanh-tịnh trang nghiêm.
阿難!汝今欲逆生死欲流,返窮流根,至不生滅,當
ē nán rǔ jīn yù nì shēng sǐ yù liú fǎn qióng liú gēn zhì bù shēng miè dāng
A-Nan! Nhữ kim dục nghịch sanh tử dục lưu, phãn cùng lưu căn, chí bất sanh diệt, đương
驗 此等六受用根,誰合誰離?誰深誰淺?誰為圓
yàn cǐ děng liù shòu yòng gēn shuí hé shuí lí shuí shēn shuí qiǎn shuí wéi yuán
nghiệm thử đẳng lục thọ dụng căn, thùy hiệp thùy ly? Thùy thâm thùy siển? Thùy vi viên-
通?誰不圓滿?若 能 於此悟圓通根,逆 彼 無 始 織
tōng shuí bù yuán mǎn ruò néng yú cǐ wù yuán tōng gēn nì bǐ wú shǐ zhī
thông? Thùy bất viên-mãn? Nhược năng ư thử ngộ viên-thông căn, nghịch bỉ vô thỉ chức
妄 業 流,得循圓通,與不圓根,日劫相倍。我今備
wàng yè liú dé xún yuán tōng yǔ bù yuán gēn rì jié xiāng bèi wǒ jīn bèi
vọng-nghiệp lưu, đắc tuần viên-thông, dữ bất viên căn, nhựt kiếp tương bội. Ngã kim bị
顯,六湛圓明,本所功德,數量如是。隨汝詳擇其可
xiǎn liù zhàn yuán míng běn suǒ gōng dé shù liàng rú shì suí rǔ xiáng zé qí kě
hiển, lục trạm viên minh, bổn sở công- đức, số lượng như thị. Tùy nhữ tường trạch kỳ khả
入者,吾當發明,令汝增進。十方如來於十八界
rù zhě wú dāng fā míng lìng rǔ zēng jìn shí fāng rú lái yú shí bā jiè
nhập giả, ngô đương phát minh, lịnh nhữ tăng tấn. Thập phương Như-Lai ư thập bát giới
一一修行,皆得圓滿無上菩提,於其中間,亦無優
yī yī xiū xíng jiē dé yuán mǎn wú shàng pú tí yú qí zhōng jiān yì wú yōu
nhứt nhứt tu hành, Giai đắc viên-mãn Vô-Thượng Bồ- Đề, ư kỳ trung gian, diệc vô ưu
劣。但汝下劣,末能於中圓自在慧。故我宣揚, 令汝
liè dàn rǔ xià liè wèi néng yú zhōng yuán zì zài huì gù wǒ xuān yáng ling rǔ
liệt. Đẳng nhữ hạ liệt, vị năng ư trung viên tự-tại huệ. Cố ngã tuyên dương, lịnh nhữ
但於一門深入,入一無妄,彼六知根,一時清淨。
dàn yú yì mén shēn rù rù yī wú wàng bǐ liù zhī gēn yì shí qīng jìng
đản ư nhứt môn thâm nhập, nhập nhứt vô vọng, bỉ lục tri căn, nhứt thời thanh-tịnh.
- 42. Ananda said to the Buddha, “World Honored One, how do we oppose the flow, enter deeply into one door, and cause the six organs to simultaneously become pure?”
The Buddha told Ananda, ”You have already obtained the fruition of a Shrotaapanna. You have already extinguished the view-delusions of living beings in the three realms, but you do not yet know that your organs have accumulated habits that are without beginning. It is through cultivation that one severs not simply these habits, but also their numerous subtleties as they pass through arisal, dwelling, change, and extinction.
”You should now contemplate the six organs further: are they one or six? If you say they are one, Ananda, why can’t the ears see? Why can’t the eyes hear? Why can’t the head walk? Why can’t the feet talk?
”If the six organs are definitely six, then as I now explain this subtle, wonderful dharma-door for you in this assembly, which of your six organs is receiving it?”
Ananda said, ”I hear it with my ears.”
The Buddha said, “Your ears hear by themselves; what, then, does it have to do with your body and mouth? And yet you ask about the principles with your mouth, and your body displays veneration.
”Therefore, you should know that if they are not one, then they must be six. And if they are not six, they must be one. But you can’t say that your organs are basically one and six.
”Ananda, you should know that these organs are neither one nor six. It is from being upside-down and sinking into involvements throughout time without beginning that the theory of one and six has become established. As a Shrotaapanna, you have dissolved the six, but you still have not done away with the one.
”It is like emptiness fitting into differently shaped vessels. The emptiness is said to be whatever shape the vessel is. But if you get rid of the vessel and look at the emptiness, you will say it is one and the same.
”But how can that emptiness become alike and different at your convenience? Even less can it be one or not one. Therefore, you should understand that the six receptive functioning organs should be the same way.
- Ngài A-Nan bạch Phật: Bạch Đức Thế-Tôn! Làm thế nào nghịch dòng sanh-tử để đến cảnh-trí Niết-Bàn? Vì sao thâm-nhập một căn mà cả sáu căn đồng thanh-tịnh trang-nghiêm?
- Đức Phật dạy: A-Nan! Ông tuy đắc quả Tu-đà-hoàn, trừ được cái thấy lầm của chúng-sanh ở tam giới thế-gian, nhưng ông chưa trừ được cái nghĩ lầm tức là hột giống của các tập-khí hư-vọng điên-đảo chất-chứa trong các căn từ vô-thỉ đến nay, cái nghĩ lầm ấy còn chưa trừ được, huống chi bốn tướng sanh trụ dị diệt.
- A-Nan! Ông hãy nghiệm-xét sáu căn là một hay sáu? Nếu cho là một thì mắt sao không nghe, tại sao không thấy, cho tới thân-thể có đầu có chưn, nhưng đầu sao không đi, chưn sao không nói? Nếu cho là sáu thì ở Giáo-Hội nầy, trong khi Ta dạy các pháp-môn nhiệm-mầu cho ông, cả sáu căn hay là một căn nào của ông nghe và lãnh-thọ?
- -Bạch Đức Thế-Tôn! Tôi chỉ dùng có một căn tai để nghe và lãnh-thọ.
- -A-Nan! Như vậy tai của ông tự nghe, chớ không có quan-hệ gì đến miệng hoặc thân của ông, nhưng tại sao khi nghe, miệng biết hỏi nghĩa, thân biết đứng dậy tỏ lòng cung-kính vâng-lời? Ông nên hiểu rõ nếu chẳng phải một thì sáu, nếu chẳng phải sáu thì một. Các căn của ông vốn không có một cái nhứt-định hay là sáu cái nhứt-định, nhưng tại vọng-tưởng điên-đảo giao-tiếp với các trần từ vô-thỉ đến nay, nên tánh viên-trạm hình như có một có sáu.
- Nay ông đã chứng quả Tu-đà-hoàn, tuy không còn chấp sáu cái nhứt-định, nhưng còn chấp một cái nhứt-định.
- Tánh viên-trạm khi còn bị sáu căn che-khuất ví như hư-không giao-hiệp với các vật khí-dụng, rồi vì thấy các vật khí-dụng có hình-thể hoặc tròn hoặc vuông, hoặc dài hoặc ngắn, v.v…mà ông vội cho hư-không có nhiều hình-thể sai-biệt. Nếu bỏ hết các vật khí-dụng ra thì hư-không chỉ là môt và hư-không chẳng vì lời nói của ông mà thành có đồng có dị, hoặc có một có sáu.
- Các căn thọ-dụng của ông cũng giống như vậy.
阿難白佛言:世尊!云 何 逆 流 深 入 一 門,能令六
ē nán bái fó yán shì zūn yún hé nì liú shēn rù yì mén néng lìng liù
A-Nan bạch Phật ngôn: Thế-Tôn! Vân hà nghịch lưu thâm nhập nhứt môn, năng lịch lục
根一 時 清 淨?佛告阿難:汝今已得須陀洹果,已滅
gēn yì shí qīng jìng fó gào ē nán rǔ jīn yǐ dé xū tuó huán guǒ yǐ miè
căn nhứt thời thanh-tịnh? Phật cáo A-Nan: Nhữ kim dĩ đắc Tu-đà-hoàn quả, dĩ diệt
三 界 眾 生 世 間 見所斷惑。然猶未知,根中積生無
sān jiè zhòng shēng shì jiān jiàn suǒ duàn huò rán yóu wèi zhī gēn zhōng jī shēng wú
tam giới chúng-sanh thế-gian kiến sở đoạn hoặc. Nhiên du vị tri, căn trung tích sanh vô-
始虛習,彼習要因修所斷得。何況此中 生住異滅,分
shǐ xū xí bǐ xí yào yīn xiū suǒ duàn dé hé kuàng cǐ zhōng shēng zhù yì miè fēn
thỉ hư tập, bỉ tập yếu nhân tu sở đoạn đắc. Hà huống thử trung sanh trụ dị diệt, phân
劑頭數?今汝且觀,現前六根,為一為六?阿難!若
jì tóu shù jīn rǔ qiě guān xiàn qián liù gēn wéi yī wéi liù ē nán ruò
tể đầu số? Kim nhữ thả quan, hiện-tiền lục căn, vi nhứt vi lục? A-Nan! Nhược
言一者,耳何不見,目何不聞,頭奚不履,足奚無語?
yán yī zhě ěr hé bù jiàn mù hé bù wén tóu xī bù lǚ zú xī wú yǔ
ngôn nhứt giả, nhĩ hà bất kiến, mục hà bất văn, đầu hề bất lý, túc hề vô ngữ?
若此六根決 定 成 六, 如我今 會 與 汝 宣 揚 微 妙 法
ruò cǐ liù gēn jué dìng chéng liù rú wǒ jīn huì yǔ rǔ xuān yáng wēi miào fǎ
Nhược thử lục căn quyết định thành lục, nhữ ngã kim hội dữ nhữ tuyên dương vi diệu pháp
門,汝之六根,誰來領受?阿難言:我用耳聞。佛言:
mén rǔ zhī liù gēn shuí lái lǐng shòu ē nán yán wǒ yòng ěr wén fó yán
môn, nhữ chi lục căn, thùy lai lãnh thọ? A-Nan ngôn: Ngã dụng nhĩ văn. Phật ngôn:
汝耳自聞,何關身口?口來問義,身起欽承?是故
rǔ ěr zì wén hé guān shēn kǒu kǒu lái wèn yì shēn qǐ qīn chéng shì gù
Nhữ nhĩ tự văn, hà quan thân khẩu? Khẩu lai vấn nghĩa, thân khởi khâm thị? Thị cố
應知,非一終六,非六終一,終 不 汝 根 元 一 元 六 。
yìng zhī fēi yī zhōng liù fēi liù zhōng yī zhōng bù rǔ gēn yuán yī yuán liù
ưng tri, phi nhứt chung lục, phi lục chung nhứt, chung bất nhữ căn nguyên nhứt nguyên lục.
阿難當知,是根非一非六,由無始來,顚倒淪替,故
ē nán dāng zhī shì gēn fēi yī fēi liù yóu wú shǐ lái diān dǎo lún tì gù
A-Nan đương tri, thị căn phi nhứt phi lục, do vô thỉ lai, điên-đảo luân thế, cố
於圓湛,一六義生。汝須陀洹,雖得六銷,猶未亡一。
yú yuán zhàn yī liù yì shēng rǔ xū tuó huán suī dé liù xiāo yóu wèi wáng yī
ư viên-trạm, nhứt lục nghĩa sanh. Nhữ Tu-đà-hoàn, tuy đắc lục tiêu , du vị vong nhứt.
如 太 虛 空參合群 器,由器形異,名之異空。除器觀
rú tài xū kōng cān hé qún qì yóu qì xíng yì míng zhī yì kōng chú qì guān
Như thái hư-không tham hiệp quần khí, do khí hình dị, danh chi dị không. Trừ khí quan
空,說 空 為 一。彼太虛空,云何為汝成同不同?何
kōng shuō kōng wéi yī bǐ tài xū kōng yún hé wéi rǔ chéng tóng bù tóng hé
không, thuyết không vi nhứt. Bỉ thái hư-không, vân hà vị nhữ thành đồng bất đồng? Hà
況 更 名 是 一非一。則汝了知六受用根,亦復如是!
kuàng gèng míng shì yī fēi yī zé rǔ liǎo zhī liù shòu yòng gēn yì fù rú shì
huống cách danh thị nhứt phi nhứt. Tắc nhữ liễu tri lục thọ-dụng căn, diệc phục như thị!
43.”Seeing occurs because the two appearances of darkness and light, and their like, firmly adhere to quietude in what originally was wonderful perfection. The essence of seeing reflects form and combines with form to become an organ. In its pure state the organ of the eye is the four elements. And yet it takes the name ‘eye-organ’ and is shaped like a grape. Of the superficial sense-organs and the four defiling objects, this one races out after form.
”Hearing occurs because the two reverberations of movement and stillness, and their like, firmly adhere to quietude in what originally was wonderful perfection. The essence of hearing reflects sound and resounds with sound to become the organ of the ear. In its pure state, the organ of the ear is the four elements. It takes the name ‘ear organ’ and is shaped like a fresh, curled leaf. Of the superficial sense-organs and the four defiling objects, this one is loosed upon sound.
”Smelling occurs because the two appearances of penetration and obstruction, and their like, firmly adhere to quietude in what originally was wonderful perfection. The essence of smelling reflects scents and takes in scents to become the organ of the nose. In its pure state, the organ of the nose is the four elements. It takes the name ‘nose-organ’ and is shaped like a double hanging claw. Of the superficial sense-organs and the four defiling objects, this one probes out after scents.
”Tasting occurs because the two blends of blandness and variety, and their like, firmly adhere to quietude in what originally was wonderful perfection. The essence of tasting reflects flavors and becomes entwined with flavors to become the organ of the tongue. In its pure state the organ of the tongue is the four elements. It takes the name ‘tongue-organ’ and is shaped like the crescent moon. Of the superficial sense-organs and the four defiling objects, this one pursues flavors.
”Sensation occurs because the two frictions of separation and union, and their like, firmly adhere to quietude in what originally was wonderful perfection. The essence of sensation reflects contact and seizes upon contact to become the organ of the body. In its pure state, the organ of the body is the four elements. It takes the name ‘body-organ’ and is shaped like a tabla. Of the superficial sense-organs and the four defiling objects, this one is compelled by contact.
”Knowing occurs because the two continuities of production and extinction, and their like, firmly adhere to quietude in what originally was wonderful perfection. The essence of knowing reflects dharmas and grasps dharmas to become the organ of the mind. In its pure state, the organ of the mind is the four elements. It takes the name ‘mental cognition’ and resembles seeing in a dark room. Of the superficial sense-organs and their four defiling objects, this one chases after dharmas.
- -Căn mắt vốn do thể trong-sạch của tứ đại kết-tạo hình-thể như trái bồ-đào, đã kết-tạo, nên tứ trần-tướng ấy dong-ruổi theo sắc-trần. Nguyên vì tánh viên-trạm dính-mắc với hai tướng sáng và tối mà phát sanh tánh thấy, rồi đối chiếu với sắc-trần thành ra có căn mắt.
- -Căn tai vốn do thể trong-sạch của tứ đại kết-tạo hình-thể như cái cuống, đã kết-tạo, nên tứ trần-tướng ấy dong-ruổi theo thinh-trần.
- Nguyên vì tánh viên-trạm dính-mắc với hai tướng động và tịnh mà phát sanh tánh nghe, rồi đối-chiếu với thinh-trần thành ra có căn tai.
- -Căn mũi vốn do thể trong-sạch của tứ đại kết-tạo hình-thể như hai cái vấu thòng xuống, đã kết-tạo, nên từ trần-tướng ấy dong-ruổi theo hương-trần.
- Nguyên vì tánh viên-trạm dính-mắc với hai tướng thông và bít mà phát sanh tánh ngữi, rồi đối-chiếu với hương-trần thành ra có căn mũi.
- -Căn lưỡi vốn do thể trong-sạch của tứ đại kết-tạo hình-thể như mặt trăng khuyết, đã kết-tạo, nên tứ trần-tướng ấy dong-ruổi theo xúc-trần.
- Nguyên vì tánh viên-trạm dính-mắc với hai tướng hữu-vị và vô-vị mà phát sanh tánh nếm, rồi đối-chiếu với vị-trần thành ra có căn lưỡi.
- -Căn thân vốn do thể trong-sạch của tứ đại kết-tạo hình-thể như cái trống có lưng, đã kết-tạo, nên tứ trần-tướng ấy dong-ruổi theo xúc-trần.
- Nguyên vì tánh viên-trạm dính-mắc với hai tướng hiệp và ly mà phát sanh tánh cảm xúc, rồi đối-chiếu với xúc-trần thành ra có căn thân.
- Chí như căn ý thì thế nào? Nguyên vì tánh viên-trạm đối-đải với hai tướng sanh và diệt liên-tục mà phát hiện tánh hiểu-biết phân-biệt, rồi đối-chiếu với pháp-trần thành ra có căn ý, thường gọi là ý nghĩ, tuy giống như ẩn trong nhà tối mà vẫn hiểu-biết phân-biệt và thâu-nạp các pháp-trần vào bên trong.
由明暗 等 二 種 相 形,於妙圓中,黏湛發見,見精映
yóu míng àn děng èr zhǒng xiāng xíng yú miào yuán zhōng nián zhàn fā jiàn jiàn jīng yìng
Do minh ám đẳng nhị chủng tướng hình, ư diệu viên trung, niên trạm phát kiến, kiến tinh ánh
色,結色成根。根元目為清淨四大,因名眼體,如蒲
sè jié sè chéng gēn gēn yuán mù wéi qīng jìng sì dà yīn míng yǎn tǐ rú pú
sắc, kiết sắc thành căn. Căn nguyên mục vị thanh-tịnh tứ đại, nhân danh nhân thể, như bồ-
萄朵,浮根四塵,流逸奔色。由 動 靜 等 二 種 相 擊,
táo duǒ fú gēn sì chén liú yì bēn sè yóu dòng jìng děng èr zhǒng xiāng jī
đào đóa , phù-căn tứ trần, lưu dật bôn sắc. Do động tịnh đẳng nhị chủng tương kế,
於妙圓中,黏湛發聽,聽精映聲,卷 聲 成 根。根元
yú miào yuán zhōng nián zhàn fā tīng tīng jīng yìng shēng juǎn shēng chéng gēn gēn yuán
ư diệu viên trung, niêm trạm phát thính, thính tinh ánh thinh, quyện thinh thành căn. Căn nguyên
目為清淨四大,因名耳體,如新卷葉,浮根四塵,流
mù wéi qīng jìng sì dà yīn míng ěr tǐ rú xīn juǎn yè fú gēn sì chén liú
mục vi thanh-tịnh tứ đại, nhân danh nhĩ thể, như tân quyển diệp, phù căn tứ trần, lưu
逸奔聲。由 通 塞 等 二 種 相 發,於妙圓中,黏湛發
yì bēn shēng yóu tōng sè děng èr zhǒng xiāng fā yú miào yuán zhōng nián zhàn fā
dật bôn thinh. Do thông tắc đẳng nhị chủng tương phát, ư diệu viên trung, niêm trạm phát
齅,齅 精 映 香,納 香 成 根。根元目為清淨四大,
xiù xiù jīng yìng xiāng nà xiāng chéng gēn gēn yuán mù wéi qīng jìng sì dà
khứu, khứu tinh ánh hương, nạp hương thành căn. Căn nguyên mục vị thanh tịnh tứ-đại,
因名鼻體,如雙垂爪,浮根四塵,流逸奔香。由恬變
yīn míng bí tǐ rú shuāng chuí zhǎo fú gēn sì chén liú yì bēn xiāng yóu tián biàn
nhân danh tỹ thể, như song thùy trảo, phù-căn tứ trần, lưu dật bôn hương. Do điềm biến
等 二 種 相 參,於妙圓中,黏 湛 發 嘗,嘗精映味,
děng èr zhòng xiāng cān yú miào yuán zhōng nián zhàn fā cháng cháng jīng yìng wèi
đẳng nhị chủng tương tham, ư diệu viên trung, niêm trạm phát thường, thường tinh ánh vị,
絞味成根。根元目為清淨四大,因名舌體,如初偃
jiǎo wèi chéng gēn gēn yuán mù wéi qīng jìng sì dà yīn míng shé tǐ rú chū yǎn
giáo vị thành căn. Căn nguyên mục vi thanh-tịnh tứ-đại, nhân danh thiệt-thể, như sơ yểm
月,浮根四塵,流逸奔味。由離合等二種相摩,於妙
yuè fú gēn sì chén liú yì bēn wèi yóu lí hé děng èr zhǒng xiāng mó yú miào
nguyệt, phù căn tứ trần, lưu dật bôn vị. Do ly hiệp đẳng nhị chủng tương ma, ư diệu
圓中,黏湛發覺,覺精映觸,搏觸成根。根元 目 為
yuán zhōng nián zhàn fā jué jué jīng yìng chù tuán chù chéng gēn gēn yuán mù wéi
viên trung, niêm trạm phát giác, giác tinh ánh xúc, đoàn xúc thành căn. Căn nguyên mục vi
清淨四大,因名身體,如腰鼓顙,浮根四塵,流逸奔
qīng jìng sì dà yīn míng shēn tǐ rú yāo gǔ sǎng fú gēn sì chén liú yì bēn
thanh- tịnh tứ-đại, nhân danh thân-thể, như yêu cổ tảng, phù-căn tứ trần, lưu dật bôn
觸。由 生 滅 等 二 種 相 續,於妙圓中,黏湛發知,知
chù yóu shēng miè děng èr zhǒng xiāng xù yú miào yuán zhōng nián zhàn fā zhī zhī
xúc. Do sanh-diệt đẳng nhị chủng tương-tục, ư diệu viên trung, niêm trạm phát tri, tri
精映法,攬法成根。根 元目 為 清淨 四大,因名意思,
jīng yìng fǎ lǎn fǎ chéng gēn gēn yuán mù wéi qīng jìng sì dà yīn míng yì sī
tinh ánh pháp, lãm pháp thành căn. Căn nguyên mục vi thanh- tịnh tứ-đại, nhân danh ý tư,
如幽室見,浮根四塵,流逸奔法。
rú yōu shì jiàn fú gēn sì chén liú yì bēn fǎ
như u-thất kiến, phù-căn tứ trần, thâu-nạp trần-pháp.
44.”Ananda, in this way the six organs occur, because that bright enlightenment has a brightness added to it. Thus they lose their essence and adhere to falseness and create light.
”Therefore, apart from darkness and light there is no substance to seeing for you now; apart from movement and stillness, there, basically, is no disposition of hearing; without penetration and obstruction, the nature of smelling does not arise; in the absence of variety and blandness, tasting does not occur, lacking separation and union, the sensation of contact is fundamentally non-existent; without extinction and production, knowing is put to rest.
”You need only not follow the twelve conditioned appearances of movement and stillness, union and separation, blandness and variety, penetration and obstruction, production and extinction, and brightness and darkness.
”Accordingly, extract one organ from adhesion, free it, and subdue it at its inner core. Once subdued, it will return to inherent truth and radiate its innate brilliance. When that brilliance shines forth, the remaining five adhesions will be freed to accomplish total liberation.
”Do not follow the knowing and seeing that arise from the objects before you. True brightness does not comply with the sense-organs. Yet, lodged at the organs is the revelation of the brightness that permits the mutual functioning of the six organs.
- -A-Nan! Do mê-muội trong lúc tối-sơ, lấy chơn làm vọng, nên mất tánh liễu-tri sáng-suốt, phát ra vọng-tưởng điên-đảo mà thành-tựu sáu căn như vậy. Nay nếu bỏ hai tướng sáng tối thì không có tánh thấy, bỏ hai tướng động tịnh thì không có tánh nghe, bỏ hai tướng thông bít thì không có tánh ngữi, bỏ hai tướng hữu-vị vô-vị thì không có tánh nếm, bỏ hai tướng hiệp ly thì không có tánh cảm-xúc, bỏ hai tướng sanh diệt thì không có tánh hiểu-biết phân-biệt. Đó là chứng-tỏ sáu căn của chúng-sanh bị trói-buộc trong phạm-vi của sáu trần.
- Như ông muốn sáu trần khỏi bị trói-buộc thì ông không được chiều theo 12 tướng hữu-vi: sáng-tối, động-tịnh, thông-bít, hữu-vị vô-vị, hiệp-ly, sanh-diệt, vì các tướng ấy hay làm chướng-ngại cho sáu căn. Ông tự chọn-lựa một căn viên-thông, quyết-định dùng căn ấy không cho dính-mắc một thứ ràng-buộc nào cả và xoay trở lại bên trong, tu-tập đem về với Tâm Bổn-giác Chơn-Như để phát hiện giác-tánh diệu-minh, tất nhiên căn ấy được giải-thoát, cho tới năm căn khác đồng thời vượt khỏi tất cả chướng-ngại. Khi các căn không còn do các trần-cảnh sắc-tướng mà khởi những sự thấy biết thì giác-tánh diệu-minh không còn bị các căn chi phối, mà chỉ tạm trú ở các căn để phát hiện, vì thế các căn dung-thông nhau, tự-nhiên ông được tự-tại vô-ngại.
- Đó là chứng-tỏ tu-hành giải-thoát phải đặt giác-tánh là chủ, các căn là tớ, chủ vị tất phải nhờ tớ mới phát hiện bổn-lai hay sao?
阿難!如是六根,由彼覺明,有明明覺,失彼精了,
ē nán rú shì liù gēn yóu bǐ jué míng yǒu míng míng jué shī bǐ jīng liǎo
A-Nan! Như thị lục căn, do bỉ giác minh, hữu minh minh giác, thất bỉ tinh liễu,
黏 妄 發 光。是以汝今離暗離明,無有見體,離動離
nián wàng fā guāng shì yǐ rǔ jīn lí àn lí míng wú yǒu jiàn tǐ lí dòng lí
niêm vọng phát quang. Thị dĩ nhữ kim ly ám ly minh, vô hữu kiến thể, ly động ly
靜,元無聽質,無通無塞,齅性不生,非變非恬,
jìng yuán wú tīng zhí wú tōng wú sè xiù xìng bù shēng fēi biàn fēi tián
tịnh, nguyên vô thính chất, vô thông vô tắc, khứu tánh bất sanh, phi biến phi điềm,
嘗無所出;不離不合,覺觸本無;無滅無生,了知安
cháng wú suǒ chū bù lí bù hé jué chù běn wú wú miè wú shēng liǎo zhī ān
thường vô sở xuất, bất ly bất hiệp, giác xúc bổn vô; vô diệt vô sanh, liễu tri an
寄?汝但不循,動靜、合離、恬變、通塞、生滅、明
jì rǔ dàn bù xún dòng jìng hé lí tián biàn tōng sè shēng miè míng
ký ? Nhữ đản bất tuần, động tịnh, hiệp ly, điểm biến, thông tắc, sanh diệt, minh
暗,如是十二諸有為相,隨拔一根,脫黏内伏,伏歸
àn rú shì shí èr zhū yǒu wéi xiàng suí bá yì gēn tuō nián nèi fú fú guī
ám, như thị thập nhị chư hữu-vi tướng, tùy bạt nhứt căn, thoát niêm nội phục, phục qui-
元眞,發本明耀。耀性發明,諸餘五黏應
yuán zhēn fā běn míng yào yào xìng fā míng zhū yú wǔ nián yīng
nguyên chơn, phát bổn minh diệu, Diệu tánh phát minh, chư dư ngũ niệm ứng
拔圓脫。不由前塵所起知見,明不循根,寄根明
bá yuán tuō bù yóu qián chén suǒ qǐ zhī jiàn míng bù xún gēn jì gēn míng
bạt viên thoát. Bất do tiền- trần sở khởi tri kiến, minh bất tuần căn, ký căn minh
發,由是六根互相為用。
fā yóu shì liù gēn hù xiāng wéi yòng
phát, do thị lục căn hộ tương vi dụng.
45.”Ananda, don’t you know that now in this assembly there is Aniruddha, who is blind and yet can see; the dragon, Upananda, who is deaf and yet can hear; the spirit of the Ganges River, who has no nose and yet smells fragrance; Gavampati, who has an unusual tongue and yet senses flavor; and the spirit, Shunyata, who has no body and yet is aware of contact? In the light of the Thus Come One, this spirit is illumined temporarily as an ethereal essence without any substance. In the same way, there is also Mahakashyapa in this assembly, dwelling in the samadhi of extinction, having obtained the stillness of a Sound-Hearer. He has long since extinguished the mind-organ, and yet he has a perfectly clear knowledge which is not due to the mental process of thinking.
”Then, Ananda, after all your organs are completely freed, you will glow with an inner light. All the ephemeral, defiling objects and the material world will thereupon change their appearance like ice which is melted by hot liquid. In response to your mind, they will transform and become the knowledge and awareness which is unsurpassed enlightenment.
- -A-Nan! Ông đã biết rõ: Như trong Giáo-hội, ông A-Na-Luật-Đà không còn căn mắt mà vẫn thấy rồng Bạc-Nan-Đà không còn căn tai mà vẫn nghe, nàng Cang-Già thần nữ không còn căn mũi mà vẫn ngữi, ông Kiều-Phạm Ba-Đề không còn căn lưỡi mà vẫn nếm, thần Thuấn-Nhã-Đa không còn căn thân mà vẫn cảm-xúc, thần nầy chỉ là chất gió chớ không có thiệt-thể, chi do hào-quang Như-Lai đối-chiếu mà tạm hiện thân, cho tới các vị tu pháp diệt-tận-định và chứng quả Thinh-văn như ông Ma-Ha Ca-Diếp đã dứt sạch ý-căn từ lâu, không còn dùng ý-niệm để suy-xét nhưng vẫn sáng-tỏ. Đối với 6 vị kể trên, hoặc là phàm-phu, hoặc là Thinh-văn, Hữu-học, các căn còn không thiết-yếu, huống chi đối với bậc Bồ-Tát, khi các căn thoát khỏi phạm-vi của các tiền-trần thì các căn lại chẳng đắc diệu-dụng hay sao?
- A-Nan! Nếu các căn của ông đã được giải-thoát sự trói-buộc của tiền-trần thì sáu diệu-dụng dung thông nhau, do đó giác tánh diệu-minh chẳng những sáng-tỏ ở bên trong, lại còn sáng tỏ suốt cả bên ngoài khiến các tiền-trần cho tới tất cả sắc-tướng biến-hóa ở thế-gian dường như không có, vì bị tiêu hết trong cảnh-trí tịch-quang thường-trụ, chẳng khác nào nước sôi làm tan giá lạnh, tức khắc ứng-niệm chuyển thành diệu-thể. Vô-Thượng Tri-Giác, tự-tại vô-ngại.
阿難!汝豈不知?今此會中,阿那律陀,無目而見。
ē nán rǔ qǐ bù zhī jīn cǐ huì zhōng ē nà lǜ tuó wú mù ér jiàn
A-Nan! Nhữ khởi bất tri? Kim thử hội trung, A-Na-Luật-Đà, vô mục nhi kiến.
跋難陀龍,無耳而聽。殑伽神女,非鼻聞香。驕梵鉢
bá nàn tuó lóng wú ěr ér tīng qíng qié shén nǚ fēi bí wén xiāng jiāo fàn bō
Bạc-Nan-Đà-Long, vô nhĩ nhi thính. Cang-Già thần nữ, phi tỹ văn hương. Kiều-Phạm Ba-
提,異舌知味。舜若多神,無身覺觸,如來光中,映
tí yì shé zhī wèi shùn ruò duō shén wú shēn jué chù rú lái guāng zhōng yìng
Đề, dị thiệt tri vị. Thuấn-Nhã-Đa thần, vô thân giác xúc, Như-Lai quang trung, ánh
令暫現;既為風質,其體元無。諸滅盡定,得寂聲
lìng zhàn xiàn jì wéi fēng zhí qí tǐ yuán wú zhū miè jìn dìng dé jì shēng
linh tạm hiện; ký vi phong chất, Kỳ thể nguyên vô. Chư diệt-tận-định, đắc tịch Thinh-
聞,如此會中摩訶迦葉,久滅意根,圓明了知,不因
wén rú cǐ huì zhōng mó hē jiā yè jiǔ miè yì gēn yuán míng liǎo zhī bù yīn
văn, như thử hội trung Ma-Ha-Ca-Diếp, cữu diệt ý-căn, viên-minh liễu tri, bất nhân
心念。阿難!今汝諸根若圓拔已,内瑩發光。如是浮
xīn niàn ē nán jīn rǔ zhū gēn ruò yuán bá yǐ nèi yíng fā guāng rú shì fú
tâm niệm. A-Nan! Kim nhữ chư căn nhược viên bạc dĩ, nội cánh phát quang. Như thị phù
塵,及器世間諸變化相,如湯銷冰,應 念 化 成 無 上
chén jí qì shì jiān zhū biàn huà xiāng rú tāng xiāo bīng yìng niàn huà chéng wú shàng
trần, cập khí thế-gian chư biến-hóa tướng, như thang tiêu bang, ứng-niệm hóa thành Vô-Thượng
知覺。
zhī jué
Tri-Giác.
46.”Ananda, it is like an ordinary person who has confined seeing to his eyes. If you suddenly have him close his eyes, he will see darkness before him. The six organs and his head and feet will be enveloped in total darkness. If the person traces the shape of external things with his hands, then even though he cannot see, he will recognize someone’s head and feet if he feels them. This knowledge and awareness are the same way.
If light is the condition requisite for seeing, then darkness brings the absence of seeing. But to perceive without light means that no dark manifestation can obscure the seeing.
”Once the organs and objects are eradicated, how can the enlightened brightness not become perfect and wonderful?”
- -A-Nan! Người thế-gian vì vọng-tưởng đem tánh thấy trụ vào căn mắt. Như người nhắm mắt thì không thấy vật chi hết, chỉ có tướng tối hiện ra trước mắt, mấy căn kia cũng mù tịt, đầu và chưn cũng như vậy. Nếu người ấy lấy tay rờ chung-quanh thân-thể của một kẻ khác ở trước mắt, thì tuy không dùng được căn mắt nhưng cũng nhận được đầu, chưn và tánh biết cũng đồng phát hiện minh-bạch, vì tánh biết ở trong tối với tánh biết ở trong sáng đồng nhau.
- A-Nan! Nếu tánh thấy duyên theo trần thì phải có tướng sáng mới thấy, còn tối thì không thấy. Nếu tánh thấy chẳng duyên theo trần thì chẳng ỷ-lại ở tướng sáng nữa, tánh thấy vẫn tự phát hiện, tướng tối không làm mờ được tánh thấy. Nếu cả hai trần đều dứt thì giác-tánh hoàn-phục viên diệu.
阿難!如彼世人,聚見於眼。若令急合,暗相現前,
ē nán rú bǐ shì rén jù jiàn yú yǎn ruò lìng jí hé àn xiàng xiàn qián
A-Nan! Như bỉ thế-nhân, tụ kiến ư nhãn. Nhược linh cấp hiệp, ám tướng hiện-tiền,
六根黯然,頭足相類。彼人以手循體外繞,彼雖不
liù gēn àn rán tóu zú xiāng lèi bǐ rén yǐ shǒu xún tǐ wài rào bǐ suī bù
lục căn ám nhiên, đầu túc tương loại. Bỉ nhân dĩ thủ tuần thể ngoại nhiễu, bỉ tuy bất
見,頭足一辨,知覺是同。緣 見 因明,暗成無見。不
jiàn tóu zú yí biàn zhī jué shì tóng yuán jiàn yīn míng àn chéng wú jiàn bù
kiến, đầu túc nhứt biến, tri-giác thị đồng. Duyên kiến nhân minh, ám thành vô kiến. Bất
明自發,則諸暗相永不能昏。根塵既銷,云何覺明不
míng zì fā zé zhū àn xiàng yǒng bù néng hūn gēn chén jì xiāo yún hé jué míng bù
minh tự phát, tắc chư ám tướng vỉnh bất năng hôn. Căn trần ký tiêu, vân hà giác-minh bất
成 圓 妙?
chéng yuán miào
thành viên-diệu?
- 47. HEARING IS NOT SOUND
Ananda said to the Buddha, “World Honored One, as the Buddha has said, ‘The resolve for enlightenment on the cause-ground which seeks the eternal must be in mutual accord with the ground of fruition.’
”World Honored One, the ground of fruition is Bodhi; Nirvana; true suchness; the Buddha-nature; the Amala-Consciousness; the Empty Treasury of the Thus Come One; the great, Perfect Mirror-Wisdom. But although it is called by these seven names, it is pure and perfect, its substance is durable, like royal vajra, everlasting and indestructible.
If the seeing and hearing are apart from light and darkness, movement and stillness, and penetration and obstruction and are ultimately devoid of substance, they are then like thoughts apart from sense-objects: they do not exist at all.
”How can what is ultimately destroyed be a cause by which one cultivates in the hope of obtaining the fruition of the Thus Come One’s sevenfold permanent abode?
”World Honored One, when it is apart from light and darkness, the seeing is ultimately empty, just as when there is no sense-object, the essence of thought is extinguished.
”I go back and forth in circles, minutely searching, and basically there is no such thing as my mind or its objects. Just what should be used to seek the Unsurpassed Enlightenment?
”The Thus Come One previously said it was a tranquil essence, perfect and eternal. His present contradiction defies belief and is a resort to idle theorizing. How can the Thus Come One’s words be true and actual?
”I only hope the Buddha will let fall his great compassion and will instruct us who do not understand and who are holding on tightly.”
- Nghe Không Phải Là Tiếng
- Nhân-Địa Bất-Sanh Bất-Diệt,Quả-Vị Viên-Tịch Viên-thường
- -Ngài A-Nan bạch Phật: Bạch Đức Thế-Tôn! Thế theo lời của Đức Thế-Tôn vừa dạy bảo, muốn cầu quả-vị thường-trụ thì nhân-địa giác-tâm phải cân-xứng với danh-nghĩa quả-vị.
- Bạch Đức Thế-Tôn! Như ở quả-vị, tôi biết: Bồ-Đề, Niết-Bàn, Chơn-Như, Phật-tánh, Bạch-Tịnh thức, Không Như-Lai Tạng, Đại-viên cảnh-trí, tuy bảy thứ danh-từ có tiếng nói khác nhau, nhưng nguồn-gốc đều thanh-tịnh viên-mãn, thể-tánh bền-chắc như Kim-cang thường-trụ, không bao giờ hư-hoại, đó là quả-vị của Phật.
- Về nhân-địa, tôi xét trong sáu dụng của sáu căn, như tánh thấy và tánh nghe, nếu ly tướng sáng-tối, động-tịnh thông-bít thì rốt-ráo không có tự-thể, cũng như tâm -niệm, nếu ly tiền-trần thì vốn không thiệt có, như vậy làm sao đem những cái rốt-ráo đoạn-diệt ấy làm nhân-địa tu-hành để cầu quả-vị thường-trụ của Phật?
- Bạch Đức Thế-Tôn! Nếu ly sáng tối mà tánh thấy rốt-ráo không có và nếu ly tiền-trần mà tự-tánh tâm-niệm cũng không có, gọi là đoạn diệt thì xây-vần tới lui, suy-xét tỉ-mỉ, vốn không thấy có tâm tôi và sở-hữu của tâm tôi, như vậy lấy gì làm nhân-địa tu-hành để cầu quả Vô-Thượng Giác?
- Bạch Đức Thế-Tôn! Trước đây, Đức Thế-Tôn có nói tánh của sáu căn trạm-tịnh viên-thường, nhưng tại sao tôi xem-xét thì thấy có đoạn-diệt tức là không có tự-thể? Như vậy kết-cuộc thành ra hý-luận chớ không phải chơn-thiệt-ngữ chăng? Xin chí-thành cung-thỉnh Đức Thế-Tôn dũ lòng đại-từ khai-sáng chỗ mê-lầm của tôi.
阿難白佛言:世尊!如佛說言,因地覺心,欲求
ē nán bái fó yán shì zūn rú fó shuō yán yīn dì jué xīn yù qiú
A-Nan bạch Phật ngôn: Thế-Tôn! Như Phật thuyết ngôn, nhân-địa giác-tâm, dục cầu
常 住,要與果位名目相應。世尊!如果位中,菩提、
cháng zhù yào yǔ guǒ wèi míng mù xiāng yìng shì zūn rú guǒ wèi zhōng pú tí
thường trụ, yếu dữ quả-vị danh mục tương ứng. Thế-Tôn! Như quả-vị trung, Bồ-Đề,
涅槃、眞如、佛性、庵摩羅識、空如來藏、大圓鏡
niè pán zhēn rú fó xìng ān mó luó shì kōng rú lái zàng dà yuán jìng
Niết-Bàn, Chơn-như, Phật-tánh, Am-ma-la thức, không Như-Lai tạng, Đại-Viên cảnh
智,是七種名,稱謂雖別,清 淨 圓滿,體 性 堅 凝,
zhì shì qī zhǒng míng chēng wèi suī bié qīng jìng yuán mǎn tǐ xìng jiān níng
trí, thị thất chủng danh, xưng vị tuy biệt, thanh-tịnh viên-mãn, thể tánh kiên ngưng,
如 金 剛 王 常 住 不 壞。若此見聽離於明暗、動靜、
rú jīn gāng wáng cháng zhù bú huài ruò cǐ jiàn tīng lí yú míng àn dòng jìng
như Kim-Cang vương thường-trụ bất hoại. Nhược thử kiến thính ly ư minh ám, động-tịnh,
通塞,畢竟無體,猶如念心,離於前塵,本無所有。
tōng sè bì jìng wú tǐ yóu rú niàn xīn lí yú qián chén běn wú suǒ yǒu
thông tắc, tất cảnh vô thể, du như niệm tâm, ly ư tiền trần, bổn vô sở hữu.
云何將此畢竟斷滅,以為修因,欲 獲如來七 常 住 果?
yún hé jiāng cǐ bì jìng duàn miè yǐ wèi xiū yīn yù huò rú lái qī cháng zhù guǒ
Vân hà tương thử tất cảnh đoạn diệt, dĩ vi tu nhân, dục hoạch Như-Lai thất thường trụ quả?
世尊!若離明暗,見 畢 竟 空。如無前塵,念自性滅。
shì zūn ruò lí míng àn jiàn bì jìng kōng rú wú qián chén niàn zì xìng miè
Thế-Tôn! Nhược ly minh ám, kiến tất cánh không. Như vô tiền-trần, niệm tự-tánh diệt.
進 退 循 環,微細推求,本無我心及我心所,將 誰 立
jìn tuì xún huán wéi xì tuī qiú běn wú wǒ xīn jí wǒ xīn suǒ jiāng shuí lì
Tấn thối tuần hoàn, vi tế suy cầu, bổn vô ngã tâm cập ngã tâm sở, tương thùy lập
因,求 無 上 覺?如 來 先 說 湛 精 圓 常,違越誠言,
yīn qiú wú shàng jué rú lái xiān shuō zhàn jīng yuán cháng wéi yuè chéng yán
nhân, cầu Vô-Thượng Giác? Như-Lai tiên thuyết trạm tinh viên thường, vi việt thanh ngôn,
終成戲論,云何如來眞實語者?惟垂大慈,開我
zhōng chéng xì lùn yún hé rú lái zhēn shí yǔ zhě wéi chuí dà cí kāi wǒ
chung thành hý-luận, vân hà Như-Lai chơn thiệt ngữ giả? Duy thùy đại-từ, khai ngã
蒙 恡!
méng lìn
mông lẫn!
48.The Buddha told Ananda, “You study and learn much, but you have not yet extinguished outflows. In your mind you know only the causes of being upside down. But when the true inversion manifests, you really cannot recognize it yet.
”Lest your sincerity and faith remain insufficient, I will try to make use of an ordinary happening to dispel your doubts.”
Then the Thus Come One instructed Rahula to strike the bell once, and he asked Ananda, “Did you hear that?”
Ananda and the members of the Great Assembly all said, “We heard it.”
The bell ceased to sound, and the Buddha again asked, “Do you hear it now?”
Ananda and the members of the Great Assembly all said, “We do not hear it.”
Then Rahula struck the bell once again. The Buddha again asked, “Do you hear it now?”
Ananda and the Great Assembly again said, “We hear it.”
The Buddha asked Ananda, “What do you hear and what do you not hear?”
Ananda and the members of the Great Assembly all said to the Buddha, “When the bell is rung, we hear it. Once the sound of the bell ceases, so that even its echo fades away, we do not hear it.”
The Thus Come One again instructed Rahula to strike the bell, and he asked Ananda, “Is there sound now?”
Ananda and the members of the Great Assembly all said, “There is a sound.”
After a short time the sound ceased, and the Buddha again asked, “Is there a sound now?”
Ananda and the Great Assembly answered, “There is no sound.”
After a moment, Rahula again struck the bell, and the Buddha again asked, “Is there sound now?”
Ananda and the Great Assembly said together, “There is sound.”
The Buddha asked Ananda, “What is meant by ‘sound,’ and what is meant by ‘no sound?’”
Ananda and the Great Assembly told the Buddha, “When the bell is struck there is sound. Once the sound ceases and even the echo fades away, there is said to be no sound.”
- -Đức Phật dạy: A-Nan! Ông tuy học đa văn, nhưng chưa hết các lậu. Trong lòng ông chỉ biết tướng điên-đảo và lấy tướng điên-đảo làm sở-nhân cho vọng, chớ ông chưa biết được tướng điên-đảo ở trước ông, thật đáng lo-sợ cho thành-kiến nghi-chấp của ông chưa hoàn-phục chánh-tín. Nay Ta tùy phương-tiện, lấy những chuyện thế-gian để trừ nghi-chấp đó.
- Đức Phật bảo ngài La-Hầu-La đánh một tiếng chuông rồi hỏi ngài A-Nan! A-Nan! Ông có nghe không? -Bạch Đức Thế-Tôn! Cả Đại-chúng và tôi đều có nghe.
- Khi tiếng chuông dứt, Đức Phật hỏi tiếp: có nghe không? -Bạch Đức Thế-Tôn! Không nghe.
- Đức Phật lại bảo ngài La-Hầu-La đánh một tiếng chuông lần thứ hai, rồi hỏi: Có nghe không? -Bạch Đức Thế-Tôn! Có nghe.
- Thế nào là nghe? Thế nào là không nghe?
- -Bạch Đức Thế-Tôn! Khi tiếng chuông kêu thì nghe, còn khi tiếng chuông dứt thì không nghe.
- Đức Phật lại bảo ngài La-Hầu-La đánh một tiếng chuông lần thứ ba, rồi hỏi: A-Nan! Theo ý ông, có tiếng chăng? -Bạch Đức Thế-Tôn! Có tiếng.
- Đến khi tiếng chuông dứt, Đức Phật hỏi tiếp: Có tiếng hay không có tiếng? -Bạch Đức Thế-Tôn! Không có tiếng.
- Đức Phật lại bảo ngài La-Hầu-La đánh một tiếng chuông lần thứ tư, rồi hỏi: Theo ý ông, có tiếng chăng? -Bạch Đức Thế-Tôn! Có tiếng.
- Thế nào ông gọi là có tiếng, còn thế nào ông gọi là không có tiếng?
- Bạch Đức Thế-Tôn! Khi đánh chuông thì có tiếng kêu gọi là có tiếng, còn tiếng kêu trong giây lát thì hết tiếng gọi là không có tiếng.
佛告阿難:汝學多聞,未盡諸漏。心中徒知顚倒所
fó gào ē nán rǔ xué duō wén wèi jìn zhū lòu xīn zhōng tú zhī diān dǎo suǒ
Phật cáo A-Nan! Nhữ học đa văn, vị tận chư lậu. Tâm trung đồ tri điên- đảo sở-
因,眞倒現前,實未能識。恐汝誠心猶未信伏,吾今
yīn zhēn dǎo xiàn qián shí wèi néng shì kǒng rǔ chéng xīn yóu wèi xìn fú wú jīn
nhân, chơn đảo hiện-tiền, thiệt vị năng thức. Khủng nhữ thành tâm du vị tín phục, ngô kim
試 將塵俗諸事,當 除 汝 疑?即時如來敕羅睺羅擊鐘
shì jiāng chén sú zhū shì dāng chú rǔ yí jí shí rú lái chì luó hóu luó jí zhōng
thí tương trần tục chư sự, đương trừ nhữ nghi? Tức thời Như-Lai sắc La-Hầu-La kích chung
一 聲,問阿難言:汝今聞不?阿難大眾俱言:我聞!
yì shēng wèn ē nán yán rǔ jīn wén fǒu ē nán dà zhòng jù yán wǒ wén
nhứt thinh, vấn A-Nan ngôn: Nhữ kim văn phủ? A-Nan đại chúng cu ngôn: Ngã văn!
鐘歇無聲,佛又問言:汝今聞不?阿難大眾俱言:不
zhōng xiē wú shēng fó yòu wèn yán rǔ jīn wén fǒu ē nán dà zhòng jù yán bù
Chung kiệt vô thinh, Phật hựu vấn ngôn: Nhữ kim văn phủ? A-Nan đại-chúng cu ngôn: Bất
聞!時羅睺羅又擊一聲,佛又問言:汝今聞不?阿難
wén shí luó hóu luó yòu jí yì shēng fó yòu wèn yán rǔ jīn wén fǒu ē nán
văn ! Thời La-Hầu-La hựu kích nhứt thinh, Phật hựu vấn ngôn: Nhữ kim văn phủ? A-Nan!
大眾又言:俱聞!佛問阿難:汝云何聞?云何不聞?
dà zhòng yòu yán jù wén fó wèn ē nán rǔ yún hé wén yún hé bù wén
Đại-chúng hựu ngôn: Cu văn! Phật vấn A-Nan: Nhữ vân hà văn? Vân hà bất văn?
阿難大眾俱白佛言:鐘聲若擊,則我得聞;擊久
ē nán dà zhòng jù bái fó yán zhōng shēng ruò jí zé wǒ dé wén jí jiǔ
A-Nan đại-chúng cu bạch Phật ngôn: Chung thinh nhược kích, tắc ngã đắc văn, kích cữu
聲銷,音 響 雙 絕,則名無聞。如來又敕羅睺擊鐘,
shēng xiāo yīn xiǎng shuāng jué zé míng wú wén rú lái yòu chì luó hóu jí zhōng
thinh tiêu, âm hướng song tuyệt, tắc danh vô văn. Như-Lai hựu sắc La-Hầu kích chung,
問阿難言:汝今聲不?阿難大眾俱言:有聲!少選
wèn ē nán yán rǔ jīn shēng fǒu ē nán dà zhòng jù yán yǒu shēng shǎo xuǎn
vấn A-Nan ngôn: Nhữ kim thinh phủ? A-Nan đại-chúng cu ngôn: Hữu thinh! Thiểu tuyển
聲銷,佛又問言:爾今聲不?阿難大眾答言:無 聲!
shēng xiāo fó yòu wèn yán ěr jīn shēng fǒu ē nán dà zhòng dá yán wú shēng
thinh tiêu, Phật hựu vấn ngôn: Nhĩ kim thinh phủ? A-Nan đại-chúng đáp ngôn: Vô thinh!
有頃,羅睺 更 來 撞 鐘。佛又問言: 爾今聲不?阿難
yǒu qǐng luó hóu gèng lái zhuàng zhōng fó yòu wèn yán ěr jīn shēng fǒu ē nán
Hữu khoảnh, La-Hầu cánh lai tràng chung. Phật hựu vấn ngôn: Nhĩ kim thinh phủ ? A-Nan
大眾俱言:有聲!佛問阿難:汝云何聲?云何無聲?
dà zhòng jù yán yǒu shēng fó wèn ē nán rǔ yún hé shēng yún hé wú shēng
đại chúng cu ngôn: Hữu thinh! Phật vấn A-Nan: Nhữ vân hà thinh? Vân hà vô thinh?
阿難大眾俱白佛 言: 鐘 聲 若 擊,則名有聲;擊久聲
ē nán dà zhòng jù bái fó yán zhōng shēng ruò jí zé míng yǒu shēng jí jiǔ shēng
A-Nan đại-chúng cu bạch Phật ngôn: Chung thinh nhược kích, tắc danh hữu thinh; kích cữu thinh
銷,音 響 雙 絕,則名無聲。
xiāo yīn xiǎng shuāng jué zé míng wú shēng
tiêu, âm hướng song tuyệt, tắc danh vô thinh.
49.The Buddha said to Ananda and the Great Assembly, “Why are you inconsistent in what you say?”
The Great Assembly and Ananda then asked the Buddha, “In what way have we been inconsistent?”
The Buddha said, “When I asked you if it was your hearing, you said it was your hearing. Then, when I asked you if it was sound, you said it was sound. I cannot ascertain from your answers if it is hearing or if it is sound. How can you not say this is inconsistent?
”Ananda, when the sound is gone without an echo, you say there is no hearing. If there were really no hearing, the hearing-nature would be extinguished. It would be just like dead wood. If then the bell were sounded again, how would you know?
”What you know to be there or not there is the defiling object of sound. But could the hearing nature be there or not be there depending on your perception of its being there or not? If the hearing could really not be there, what would perceive that it was not?
”And so, Ananda, the sounds that you hear are what are subject to production and extinction, not your hearing. The arising and cessation of sounds cause your hearing-nature to be as if there or not there.
”You are so upside-down that you mistake sound for hearing. No wonder you are so confused that you take what is everlasting for what is annihilated. Ultimately, you cannot say that there is no hearing nature apart from movement and stillness and from obstruction and penetration.
”Consider a person who falls into a deep sleep while napping on his bed. While he is asleep, someone in his household starts beating clothes or pounding rice. In his dream, the person hears the sound of beating and pounding and takes it for something else, perhaps for the striking of a drum or the ringing of a bell. In the dream he wonders why the bell sounds like stone or wood.
”Suddenly he awakens and immediately recognizes the sound of pounding. He tells the members of his household, ‘I was just having a dream in which I mistook the sound of pounding for the sound of a drum.’
”Ananda, how can this person in the dream-state remember stillness and motion, opening and closing, and penetrability and obstruction? Yet, although he is physically asleep, his hearing-nature is not drowsy.
”Even when your body is gone and your light and life move on, how could this nature leave you?
- -A-Nan! Hôm nay tại sao ông nói lộn-xộn?
- -Bạch Đức Thế-Tôn! Thế nào gọi là nói lộn-xộn?
- -A-Nan! Ông hãy nghiệm-xét, khi Như-Lai hỏi ông có nghe, thì ông đáp là có nghe, khi hỏi có tiếng thì ông đáp là có tiếng, chỉ có tánh nghe và cái tiếng mà ông đáp không nhứt-định, thế thì làm sao chẳng gọi là lộn-xộn?
- A-Nan! Tiếng chuông thuộc về trần, sanh-diệt, nên khi tiếng hết kêu chỉ là không có tiếng, chớ không phải không có nghe, vì nghe thuộc về tánh thường-trụ.
- Tiếng chuông dứt mà ông nói là không nghe, đó là lộn-xộn. Không nghe thì tánh bị diệt như cây khô, tới tiếng chuông thứ hai, ông làm sao nghe được?
- Vậy ông nên hiểu có tiếng hay không có tiếng là tại thinh-trần sanh-diệt, hoặc có hoặc không, chớ chẳng phải tánh nghe vì tánh nghe thường-trụ, không có thay-đổi mà ông lầm-tưởng cho là có khi tiếng chuông đang kêu và cho là không khi tiếng chuông hết kêu.
- Nếu nói không nghe thì lấy gì biết là không?
- A-Nan! Ở trong tánh nghe, thinh-trần tự có sanh-diệt, chẳng phải vì nghe tiếng sanh tiếng diệt mà cho tánh nghe của ông thành có thành không. Ông lầm-lẫn tánh nghe với thinh-trần thì ông dễ bị hôn-mê lấy tánh thường-trụ làm cái đoạn-diệt. Kết luận, ông không nên nói: tánh nghe ly các trần-tướng như động-tịnh, đóng-mở, thông-bít, v.v…thì không còn bổn-tánh.
- Ví như có một người đang nằm ngủ mê trên giường, trong nhà lại có một số người khác giã gạo. Người ngủ mê ấy nằm mộng nghe tiếng chày đập vào cối đá lại nhận lầm là tiếng chuông trống và còn ngạc-nhiên tiếng chuông trống kêu vang như tiếng cây tiếng đá. Khi thức dậy, liền nghe tiếng chày đập vào cối thì tự mình tỉnh giấc chiêm-bao, nói lại với mấy ngaười giã gạo rằng: “ Trong cơn mộng, tôi lầm-lẫn tiếng chày đập vào cối là tiếng chuông trống”.
- A-Nan! Người ở trong giấc chiêm-bao quên-mất thân-thể, thì không còn nhớ các trần-tướng động-tịnh, đóng mở, thông bít, nhưng thân-thể hôn-mê chớ tánh nghe không có hôn-mê. Đến khi chết rồi, thân-thể tan-rả, căn-mạng đổi-dời, nhưng tánh nghe thường-trụ, không theo thân-thể mà tiêu-diệt.
佛語阿難及諸大眾:汝今云何自語矯亂?大眾阿難俱
fó yǔ ē nán jí zhū dà zhòng rǔ jīn yún hé zì yǔ jiǎo luàn dà zhòng ē nán jù
Phật ngữ A-Nan cập chư đại-chúng: Nhữ kim vân hà tự ngữ kiểu-loạn? Đại-chúng A-Nan cu
時問佛:我今云何名為矯亂?佛言:我問汝聞,汝則
shí wèn fó wǒ jīn yún hé míng wéi jiǎo luàn fó yán wǒ wèn rǔ wén rǔ zé
thời vấn Phật: Ngã kim vân hà danh vi kiểu-loạn? Phật ngôn: Ngã vấn nhữ văn, nhử tắc
言聞;又問汝聲,汝則言聲。唯聞與聲,報答無定,
yán wén yòu wèn rǔ shēng rǔ zé yán shēng wéi wén yǔ shēng bào dá wú dìng
ngôn văn; hựu vấn nhữ thinh, nhữ tắc ngôn thinh. Duy văn giữ thinh, báo-đáp vô định,
如是云何不名矯亂?阿難!聲 銷 無 響,汝說無 聞。
rú shì yún hé bù míng jiǎo luàn ē nán shēng xiāo wú xiǎng rǔ shuō wú wén
Như thị vân hà bất danh kiểu-loạn? A-Nan! Thinh tiêu vô hướng, nhữ thuyết vô văn.
若實無聞,聞性已滅,同於枯木,鐘聲更擊,汝
ruò shí wú wén wén xìng yǐ miè tóng yú kū mù zhōng shēng gèng jī rǔ
Nhược thiệt vô văn, văn tánh dĩ diệt, đồng ư khô mộc, chung thinh cánh kích, nhữ
云何知?知有知無,自是聲塵,或無或有;豈彼聞
yún hé zhī zhī yǒu zhī wú zì shì shēng chén huò wú huò yǒu qǐ bǐ wén
vân hà tri ? Tri hữu tri vô, tự thị thinh trần, hoặc vô hoặc hữu; khởi bỉ văn
性,為汝有無?聞實云無,誰知無者?是故阿難!聲
xìng wéi rǔ yǒu wú wén shí yún wú shuí zhī wú zhě shì gù ā nán shēng
tánh, vi nhữ hữu vô? Văn thiệt vân vô, thùy tri vô giả? Thị cố A-Nan! Thinh
於聞中,自有生滅;非為汝聞,聲生聲滅,令汝聞
yú wén zhōng zì yǒu shēng miè fēi wéi rǔ wén shēng shēng shēng miè ling rǔ wén
ư văn trung, tự hữu sanh diệt; phi vi nhữ văn, thinh sanh thinh diệt, linh nhữ văn
性,為有為無。汝 尚顚 倒,惑聲為聞。何怪昏迷,以
xìng wéi yǒu wéi wú rǔ shàng diān dǎo huò shēng wéi wén hé guài hūn mí yǐ
tánh, vi hữu vi vô. Nhữ thượng điên-đảo, hoặc thinh vi văn. Hà quái hôn-mê, dĩ
常為斷? 終 不 應 言:離諸動靜、閉塞、開通,說聞
cháng wéi duàn zhōng bù yīng yán lí zhū dòng jìng bì sè kāi tōng shuō wén
thường vi đoạn? Chung bất ưng ngôn: ly chư động tịnh, bế tắc, khai thông, thuyết văn
無性。如 重 睡 人,眠 熟 床 枕。其家有人,於彼睡
wú xìng rú zhòng shuì rén mián shú chuáng zhěn qí jiā yǒu rén yú bǐ shuì
vô tánh. Như trọng thụy nhân, mạnh thực sang chẩm. Kỳ gia hữu nhân, ư bỉ thụy
時,擣練舂米。其人夢中,聞舂擣聲,別作他
shí dǎo liàn chōng mǐ qí rén mèng zhōng wén chōng dǎo shēng bié zuò tā
thời, đảo luyện thung mễ. Kỳ nhân mộng trung, văn thung đảo thinh, biệt tác tha
物,或為擊鼓,或為撞 鐘。即於夢時,自怪其鐘,為
wù huò wéi jí gǔ huò wéi zhuàng zhōng jí yú mèng shí zì guài qí zhōng wéi
vật, hoặc vi kích cổ, hoặc vi tràng chung. Tức ư mộng thời, tự quái ký chung, vi
木石響。於時忽寤,遄知杵音。自告家人:我正
mù shí xiǎng yú shí hū wù chuán zhī chǔ yīn zì gào jiā rén wǒ zhèng
mộc thạch hướng. Ư thời hốt mụ, xiển tri chử âm. Tự cáo gia nhân: Ngã chánh
夢時,惑此舂音,將為鼓響。阿難!是人夢中,
mèng shí huò cǐ chōng yīn jiāng wéi gǔ xiǎng ē nán shì rén mèng zhōng
mộng thời, hoặc thử thung âm, tương vi cổ hướng. A-Nan! Thị nhân mộng trung,
豈憶靜搖、開閉、通塞?其形雖寐,聞性不昏。縱汝
qǐ yì jìng yáo kāi bì tōng sè qí xíng suī mèi wén xìng bù hūn zòng rǔ
khởi ức tĩnh diêu, khai bế, thông tắc? Kỳ hình tuy mị, văn tánh bất hôn. Túng nhữ
形銷,命 光 遷 謝,此性云何為汝銷滅?
xíng xiāo mìng guāng qiān xiè cǐ xìng yún hé wéi rǔ xiāo miè
hình tiêu, mạng quang thiên tạ, thử tánh vân hà vi nhữ tiêu-diệt?
50.”But because living beings, from time without beginning, have pursued forms and sounds and have followed their thoughts as they turn and flow, they still are not enlightened to the purity, wonder, and permanence of their nature.
”They do not accord with what is eternal, but chase after things which are subject to production and extinction. Because of this they are born again and again and become mixed with defilement as they flow and turn.
”But if they reject production and extinction and uphold true permanence, an everlasting light will appear, and with that, the sense-organs, defiling objects, and consciousnesses will disappear.
”The appearance of thought becomes defilement; the emotions of the consciousness become filth. If you stay far away from these two, then your dharma eye will accordingly become pure and bright. How could you fail to accomplish unsurpassed knowledge and enlightenment?”
- Từ vô-thỉ đến nay, tất cả chúngs-sanh, niêm niệm không ngừng, sa-mê theo sắc-thinh, chẳng những chưa tỏ-ngộ Tự-Tánh Chơn-Thường vi-diệu, thanh-tịnh trang-nghiêm, lại còn sống trái-nghịch với Tự-Tánh Chơn-thường, cứ dong-ruổi theo các pháp-trần sanh-diệt nên đời đời kiếp kiếp lẩn-quẩn trong vòng tạp-nhiễm, luân-hồi sanh-tử thống-khổ.
- A-Nan! Nếu dứt sạch tướng sanh-diệt, quay các căn soi lại bên trong, trở về cội-gốc Viên-giác, giữ nguyên Tự-Tánh Chơn-Thường, đến khi Tự-Tánh Chơn-thường thật hiện tỏ-rạng phong-quang thì các món căn trần và thức đều tiêu-lạc, đồng-thời tướng vọng-tưởng vi-trần, tánh phân-biệt vi-cấu đều được viễn-ly, tự-nhiên Pháp-Nhãn của ông hoàn-toàn trong sáng, chắc-chắn viên-chứng quả-vị Như-Lai Tri-Giác Vô-Thượng.
以 諸 眾 生,從無始來,循諸色聲,逐 念 流 轉,曾
yǐ zhū zhòng shēng cóng wú shǐ lái xún zhū sè shēng zhú niàn liú zhuǎn céng
Dĩ chư chúng-sanh, tùng vô – thỉ lai, tuần chư sắc thinh, trục niệm lưu chuyển, tằng
不 開 悟 性 淨 妙 常。不 循 所 常,逐諸生滅,由是生
bù kāi wù xìng jìng miào cháng bù xún suǒ cháng zhú zhū shēng miè yóu shì shēng
bất khai-ngộ tánh tịnh diệu thường. Bất tuần sở thường, trục chư sanh-diệt, do thị sanh
生雜染流 轉。若棄生滅,守於眞常,常 光 現
shēng zá rǎn liú zhuǎn ruò qì shēng miè shǒu yú zhēn cháng cháng guāng xiàn
sanh tạp-nhiễm lưu-chuyển. Nhược khí sanh-diệt, thủ ư Chơn-Thường, thường quang hiện-
前,根塵識心應時銷落。想 相 為 塵,識情為垢,二
qián gēn chén shì xīn yìng shí xiāo luò xiǎng xiàng wéi chén shì qíng wéi gòu èr
tiền, căn trần thức tâm ứng thời tiêu-lạc. Tưởng-tướng vi-trần, thức tình vi cấu, nhị
俱遠離,則汝法眼應時清明,云何不成無上知覺?
jù yuǎn lí zé rǔ fǎ yǎn yìng shí qīng míng yún hé bù chéng wú shàng zhī jué
cu viễn-ly, tắc nhữ pháp-nhãn ưng thời thanh-minh, vân hà bất thành Vô-Thượng Tri-Giác?
補闕眞言
bǔ quē zhēn yán
Bỗ Khuyết Chơn Ngôn
南 無 三 滿 哆。沒 馱 喃,阿 鉢 囉 帝,喝 多 折,折 捺
na mo san man duo mo tuo nan e bo la di he duo zhe zhe na
Nam mô tam mãn đa một đà nẫm, a bát ra đế, yết đa chiết chiết nại
彌。唵。雞 彌 雞 彌, 怛 塔 葛 塔 喃,末 瓦 山 矴, 鉢
mi nan ji mi ji mi da ta ge ta nan mo wa shan ding bo
- Án. Kê di kê di, đát tháp cát tháp nẫm, mạt ngã sơn đính, bát
囉 帝 烏 怛 摩 怛 摩, 怛 塔 葛 塔 喃,末 瓦 吽,癹 莎 訶
la di wu da mo da mo da ta ge ta nan mo wa hong pan suo he
ra đế ô đát ma đát ma, đát tháp cát tháp nẫm, mạt ngõa hồng, phấn tá ha.
楞嚴經讚
lèng yán jīng zàn
Tán Kinh Lăng Nghiêm
深 窮萬法。同異俱生。廣沉相續來無明。
shēn qióng wàn fǎ tóng yì jù shēng guǎng chén xiāng xù lái wú míng
Thâm cùng vạn pháp。Đồng dị câu sanh。Quảng trầm tương tụ lai vô minh。
妙體 覺眞澄。 同業摧懲。 法掩應時清。
miào tǐ jué zhēn chéng tóng yè cuī chéng fǎ yǎn yìng shí qīng
Diệu thể giác chân trừng。 Đồng nghiệp tồi trừng。 Pháp yểm ứng thì thanh。
南 無 楞 嚴 會 上 佛 菩 薩(三稱)
ná mó lèng yán huì shàng fó pú sà (sān chēng )
Nam mô Lăng Nghiêm Hội Thượng Phật Bồ Tát ( 3 lần)
Sources:
Tài liệu tham khảo:
- https://thuvienhoasen.org/a18839/kinh-dai-phat-danh-thu-lang-nghiem
- http://www.cttbusa.org/shurangama/shurangama_contents.asp.html
- http://www.buddhanet.net/pdf_file/surangama.pdf