Quyển 1 – Chapter 1 – Kinh Thủ Lăng Nghiêm – Shurangama Sutra – Đa ngôn ngữ

English: Lu Kíuan Yu.

Chinese: Trung-Thiên-trúc.

Việt ngữ: Cư Sĩ Hạnh Cơ.

Compile: Middle Way Group.

 

 

VERSE FOR OPENING A SUTRA

 

The unsurpassed, profound, and wonderful Dharma,

Is difficult to encounter in hundreds of millions of eons;

I now see and hear it, receive and uphold it,

And I vow to fathom the Tathagata’s true meaning.

 

KHAI KINH KỆ

開經偈

 

無上甚深微妙法

百千萬刼難遭遇。

我今見聞得受持

願解如來真實義

 

Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp

Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ

Ngã kim kiến văn đắc thọ trì

Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa

 

***

 

Phật pháp rộng sâu rất nhiệm mầu

Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu

Con nay nghe được chuyên trì tụng      

Nguyện rõ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.

 

The Shurangama Sutra

大佛頂首楞嚴經

Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm

 

CHAPTER 1

卷第一  (Quyển Đệ Nhứt)

 

1.Thus I have heard. At one time the Buddha dwelt at the city of Shravasti in the sublime abode of the Jeta Grove. With a gathering of great bhikshus, twelve hundred fifty in all. All were great Arhats without outflows, disciples of the Buddha, dwellers and maintainers. They had fully transcended all existence, and were able to travel everywhere, and to accomplish the awesome deportment.

They followed the Buddha in turning the wheel and were wonderfully worthy of the bequest. Stern and pure in the Vinaya, they were great exemplars in the three realms. Their limitless response-bodies took living beings across and liberated them, pulling out and rescuing those of the future so they could transcend all the bonds of dust.

  • Ta nghe như vầy: Một thuở nọ, Phật ở tịnh xá Kỳ Hoàn (Jetavana), thành Thất La Phiệt (Shravasti), với một ngàn hai trăm năm mươi thầy Đại Tỳ Khưu đều là bậc vô lậu A La Hán. Các vị Phật tử trụ trì ấy, siêu thoát các cõi phàm phu, năng ở mười phương quốc độ, thành tựu các oai nghi, nương theo Phật chuyển bánh xe Pháp nhận lãnh di chúc nhiệm mầu, gìn giữ giới luật trong sạch, rộng làm khuôn phép cho ba cõi ứng hiện vô số thân cứu độ chúng sanh, tới cùng tột vị lai, đều giải thoát các thứ trần lao khổ não.

 

如是我聞。一時佛在室羅筏城,祇桓精舍。與大比丘

rú  shì   wǒ wén              yì   shí   fó  zài  shì   luó  fá  chéng        qí  huán  jīng  shè         yǔ   dà   bǐ   qiū

Như thị ngã văn.       Nhứt thời Phật tại Thất La Phiệt thành,   Kỳ hoàn tịnh xá.      Dữ đại Tỳ  khưu

 

眾,千二百五十人俱。皆是無漏大阿羅漢。

zhòng       qiān  èr   bǎi  wǔ  shí  rén    jù           jiē  shì   wú  lòu   dà    ē    luó   hàn

chúng,    thiên nhị bá ngũ thập nhân cu.     Giai  thị  vô   lậu  đại   A   La   Hán. 

 

佛子住持,善超諸有。能於國土,成就威儀。從佛

fó    zǐ    zhù  chí        shàn chāo zhū yǒu          néng yú guó  dù         chéng jiù  wēi   yí          cóng  fó

Phật  tử  trụ trì,     thiện  siêu  chư  hữu.     Năng  ư  quốc  độ,    thành tựu  oai  nghi.   Tùng Phật

 

轉輪,妙 堪遺囑。嚴淨毗尼,弘範三界。應身無量,

zhuǎn lún        miào  kān yí  zhǔ          yán  jìng  pí  ní           hóng fàn sān jiè            yìng shēn wú liàng

chuyển luân,  diệu kham di chúc.   Nghiêm tịnh tỳ ni,  hoằng phạm tam giới,  ứng thân vô lượng, 

 

度脫眾生。拔濟未來,越諸塵累。

dù tuō zhòng shēng         bá   jì  wèi   lái          yuè  zhū chén  lèi

độ thoát chúng sanh.   Bạt  tế   vị   lai,        việt  chư  trần  lụy. 

 

2.The names of the leaders were: the greatly wise Shariputra, Mahamaudgalyayana, Mahakaushthila, Purnamaitreyaniputra, Subhuti, Upanishad, and others.

Moreover limitless Pratyekas who were beyond learning and those with initial resolve came to where the Buddha was to join the bhikshus’ Pravarana at the close of the summer retreat.

  • Các vị ấy là : Đại Trí Xá Lợi Phất (Shariputra), Ma Ha Mục Kiền Liên (Maha Maudgalyayana), Ma Ha Cu Si La (Maha Kaushthila), Phú Lầu Na Di Đa La Ni Tử (Purna Maitreyaniputra), Tu Bồ Đề (Subhuti), Ưu Ba Ni Sa Đà (Upanisada) đều là bậc Thượng Thủ.
  • Lại có vô số vị Bích Chi ( Pratyekas) vô học và sơ tâm đều đến chỗ Phật.

 

其名曰。大智舍利弗。摩訶目犍連。摩訶拘絺羅。

qí   míng yuē           dà  zhì  shè   lì    fú            mó   hē   mù  jiān  lián           mó  hē   jū  chī  luó

Kỳ danh viết:        Đại   trí   Xá  Lợi  Phất,      Ma ha  Mục  Kiền Liên,      Ma   ha  Câu  Si  La,

 

富樓那彌多羅尼子。須菩提。優波尼沙陀等。而為

fù   lóu   nà   mí  duō  luó   ní   zǐ              xū  pú  tí               yōu  bō  ní  shā  tuó  děng         ér   wéi

Phú  Lầu  Na  Di   Đa  La   Ni  tử,           Tu  Bồ  Đề,             Ưu  Ba  Ni  Sa  Đà  đẳng,        nhi  vị 

 

上首。復有無量辟支無學。并其初心。同來佛所。

shàng shǒu      fù   yǒu   wú  liàng pì  zhī  wú   xué          bìng qí chū  xīn         tóng  lái   fó  suǒ

thượng thủ.  Phục hữu vô lượng Bích Chi vô học.   Tịnh kỳ sơ  tâm.       Đồng lai Phật  sở.

 

3.Bodhisattvas from the ten directions who desired counsel in order to resolve the doubts in their minds were respectful and obedient to the Awesome but Compassionate One as they prepared to seek the Secret Meaning.

  • Khi ấy nhằm ngày tự tứ của các Thầy Tỳ Khưu mãn hạ, cũng có chư Bồ Tát ở khắp mười phương vì muốn xin giải quyết tâm nghi nên kính hầu Đấng Trọn Lành Trang Nghiêm để cầu nghĩa lý thâm sâu kín nhiệm.

 

屬諸比丘休夏自恣。十方菩薩咨決心疑。欽奉慈嚴

zhǔ  zhū  bǐ   qiū   xiū   xià   zì   zì             shí  fāng  pú   sà   zī   jué  xīn   yí             qīn fèng  cí  yán

Thuộc chư tỳ khưu hưu hạ tự  tứ, thập phương Bồ Tát tư quyết tâm nghi,khâm phụng từ nghiêm

 

將求密義。

jiāng qiú  mì   yì

tương cầu mật nghĩa.

 

4.Then the Tathagata arranged his seat, sat quietly and peacefully, and for the sake of everyone in the assembly proclaimed the profound and mysterious. Those in the pure assembly at the banquet of Dharma obtained what they had never obtained before.

The Immortal’s kalavinka-sound pervaded the ten directions and Bodhisattvas as numerous as the sands of the Ganges gathered at the Bodhimanda with Manjushri as their leader.

  • Đức Như Lai trải tọa cụ, ngồi nghiêm chỉnh, vì đại chúng trong giáo hội, khai thị pháp thâm diệu, cả đại chúng nghe pháp chưa từng có, tiếng nói của Phật hòa nhã như tiếng chim Ca Lăng Tần Già (Kalavinka) kêu vang khắp mười phương, hằng sa Bồ Tát đều họp tại đạo tràng, có Ngài Văn Thù Sư Lợi (Manjushri) là bậc Thượng Thủ.

 

即時如來敷座宴安。為諸會中,宣示深奧。法筵清

jí    shí    rú    lái    fū   zuò   yàn  ān        wèi zhū  huì zhōng        xuān shì shēn ào            fǎ yán qīng

Tức thời Như Lai phu tòa yến an.        Vị  chủ  hội trung,     tuyên  thị thâm  áo,   pháp diên thanh

 

眾,得未曾有。迦陵仙 音,十方界。 沙菩薩,

zhòng      dé  wèi céng yǒu        jiā  líng  xiān  yīn          biàn shí  fāng  jiè           héng  shā pú  sà

chúng,   đắc vị tằng hữu.      Ca  lăng  tiên âm,     biến  thập phương giới.   Hằng sa  Bồ Tát,

 

來聚道場。文殊師利而為上首。

lái   jù  dào chǎng         wén shū  shī   lì    ér   wèi shàng shǒu

lai  tụ  đạo  tràng.      Văn  Thù  Sư  Lợi  nhi  vi thượng thủ.

 

5.Then King Prasenajit, for the sake of his father, the late king, arranged on the day of mourning a vegetarian feast and invited the Buddha to the side rooms of the palace. He welcomed the Tathagata in person with a vast array of superb delicacies of unsurpassed wonderful flavors and himself invited the great Bodhisattvas.

In the city were also elders and laypeople who were also prepared to feed the Sangha at the same time, and they stood waiting for the Buddha to come and receive offerings. The Buddha commanded Manjushri to assign the Bodhisattvas and Arhats to receive offerings from the various vegetarian hosts.

  • Khi ấy vua Ba Tư Nặc (Prasenajit) nhân dịp cúng kỵ Thân phụ, vua sắm đủ các món chay quí báu, tự thỉnh Phật và chư Đại Bồ Tát đến cung điện, để thành tâm cúng dường. Đồng thời ở trong thành cũng có các vị Trưởng giả cư sĩ thiết Trai Tăng, ngưỡng cầu Phật chứng minh. Phật dạy Ngài Văn Thù chia phận sự cho chư Bồ Tát và A La Hán đến các nhà trai chủ.

 

時波斯匿王,為其父王諱日營齋。請佛宮掖。自迎

shí    bō   sī    nì  wáng         wèi  qí   fù  wáng huì   rì  yíng zhāi        qǐng  fó  gōng  yì            zì   yíng

Thời Ba Tư  Nặc vương,  vị kỳ phụ vương quí nhựt dinh trai,   thỉnh Phật cung dịch,    tự nghinh

 

如來。廣設珍羞無上妙 味。兼復親延諸大菩薩。城中

rú   lái        guǎng shè zhēn xiū wú shàng miào wèi           jiān fù  qīn yán  zhū  dà   pú   sà       chéng zhōng

Như Lai. Quảng thiết trân tu vô thượng diệu vị, kiêm phục thân diên chư đại Bồ Tát.   Thành trung

 

復有長者居士同時飯僧。 佇佛來應。佛敕 殊,分領

fù  yǒu zhǎng zhě  jū   shì  tóng  shí  fàn  sēng           zhù  fó   lái  yìng        fó  chì  wén  shū          fēn lǐng

phục hữu trưởng giả cư sĩ đồng thời phạn Tăng, trử Phật lai ứng.     Phật sắc Văn thù,     phân lãnh

 

菩薩及阿羅漢,應諸齋主。

pú   sà     jí      ē    luó  hàn          yìng zhū zhāi zhǔ

Bồ  tát  cập   A   La   Hán,        ứng chư trai chủ.

 

6.Only Ananda, who, having accepted a special invitation earlier, had traveled far and had not yet returned, was late for the apportioning of the Sangha. No senior-seated one or Acharya was with him, so he was returning alone on the road.

On that day he had received no offerings, and so at the appropriate time Ananda took up his begging bowl and, as he traveled through the city, begged in successive order.

As he first began to beg, he thought to himself that down to the very last danapati who would be his vegetarian host he would not question whether they were clean or unclean; whether they were ksatriyas of honorable name or chandalas. While practicing equality and compassion he would not merely select the lowly but was determined to perfect all living beings’ limitless merit and virtue.

  • Chỉ có Ngài A Nan, vì trước ngày ấy được một người ở xứ khác thỉnh chứng trai, nên chưa về kịp thời. Ngài A Nan chỉ đi một mình, không có vị Thượng Tọa và vị A Xà Lê (Acharya). Khi về giữa đường, vì không có ai thỉnh riêng, nên Ngài A Nan mang bát đi vào thành khất thực từng nhà theo thứ lớp, trong lòng ước ao được có người đàn việt mới, chưa từng bố thí, làm trai chủ, bất luận thanh hay tục, dòng Sát Đế Lỵ (ksatriyas) hoặc dòng Chiên Đà La (chandalas). Ngài A Nan thật hành tâm từ bi bình đẳng không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, cố ý làm cho tất cả chúng sanh đồng được hoàn toàn công đức vô lượng.

 

 唯有阿難,先受別請。遠遊未還,不遑僧次。既無

wéi  yǒu  ē   nán         xiān shòu bié  qǐng       yuǎn yóu wèi huán         bù huáng sēng cì          jì   wú

Duy hữu A  Nan,      tiên  thọ  biệt  thỉnh,    viễn  du   vị  hoàn,     bất hoàng tăng thứ,    ký   vô

 

上座,及阿闍黎。途中獨歸。其日無供。即時阿難,

shàng zuò          jí   ē   shé   lí              tú zhōng dú guī           qí     rì   wú  gòng          jí   shí   ē  nán

Thượng Tọa,  cập  A  Xà   Lê.         Đồ trung độc qui          kỳ nhựt vô cúng.      Tức thời  A  Nan,

 

執持應器,於所遊城,次第循乞。心中初求最後檀

zhí   chí  yìng  qì           yú suǒ yóu chéng           cì  dì  xún  qǐ             xīn zhōng chū qiú zuì  hòu  tán

chấp trì  ứng khí,          ư  sở  du thành,       thứ đệ tuần khất.       Tâm  trung sơ cầu tối hậu  đàn

 

越,以為齋主。無問淨穢,剎利尊姓。及旃陀羅。方

yuè            yǐ wéi zhāi zhǔ           wú wèn jìng huì           chà  lì   zūn xìng          jí  zhān  tuó  luó          fāng

việt,         dỉ  vi  trai   chủ.          Vô  vấn  tịnh  uế,       Sát  lợi tôn  tánh.    Cập Chiên Đà  La.   Phương

 

行等慈,不擇微賤。發意圓成,一切眾生,無量功德。

xíng děng cí          bù   zé  wéi  jiàn        fā    yì   yuán chéng     yí  qiè zhòng shēng     wú liàng gōng dé

hành đẳng từ,   bất trạch vi tiện.     Phát  ý  viên  thành, nhứt thiết chúng sanh, vô lượng công đức.

 

7.Ananda already knew that the Tathagata, the World Honored One, had admonished Subhuti and great Kashyapa for being Arhats whose hearts were not fair and equal, and he regarded with respect the Tathagata’s instructions on impartiality, to save everyone from doubt and slander.

Having crossed the city moat, he walked slowly through the outer gates, his manner stern and proper as he honored with propriety the method of obtaining food.

  • Ngài A Nan từng biết Đức Như Lai Thế Tôn đã quở hai vị A La Hán: Tu Bồ Đề và Đại Ca Diếp, lòng không bình đẳng, người thì bỏ nhà giàu chỉ khất thực ở nhà nghèo, người thì bỏ nhà nghèo chỉ khất thực ở nhà giàu, thế nên Ngài tuân hành lời dạy vô giá của Phật, để vượt qua các sự nghi hoặc gièm siểm.
  • Ngài A Nan từ ngoại thành đi vào nội thành, oai nghi tề chỉnh trang nghiêm, giữ đúng lễ phép hóa trai.

 

阿難已知如來世尊,訶須菩提,及大迦葉,為阿羅

ē    nán   yǐ    zhī   rú   lái    shì  zūn          hē   xū    pú   tí              jí   dà   jiā   shè           wéi  ē   luó

   A  Nan dĩ   tri   Như Lai Thế  Tôn,         kha  Tu   Bồ   Đề,       cập  Đại  Ca  Diếp,      vi   A    La

 

漢,心不均平。欽仰如來,開闡無遮,度諸疑謗。經

hàn         xīn  bù  jūn   píng          qīn yǎng  rú   lái           kāi chǎn wú zhē         dù  zhū   yí  bàng         jīng

Hán,   tâm  bất  quân  bình.   Khâm ngưỡng Như Lai, khai xiển vô giá,     độ  chư nghi bang.   Kinh

 

彼城隍,徐步郭門。嚴整威 儀,肅恭齋法。

bǐ chéng huáng        xú  bù  guō  mén       yán zhěng wēi  yí            sù  gōng zhāi fǎ

bỉ thành hoàng,   từ bộ  quách  môn,  nghiêm chỉnh oai nghi,  túc cung  trai pháp.

 

  1. 8. At that time, because Ananda was begging in sequential order, he passed by a house of prostitution and was waylaid by a powerful artifice. By means of a mantra of the Kapila religion, formerly of the Brahma Heaven, the daughter of Matangi drew him onto an impure mat. With her licentious body she stroked and rubbed him until he was on the verge of destroying the precept-substance.

The Tathagata, knowing Ananda was being taken advantage of by the indecent artifice, finished the meal and immediately began his return journey. The king, great officials, elders, and laypeople followed along after the Buddha, desiring to hear the essentials of Dharma.

  • Lúc bấy giờ, Ngài A Nan đang đi khất thực, ngang qua một nhà dâm có nàng ngoại đạo Ma

Đăng Già (Matanga) dùng tà thuật Ta tỳ Ca-la Tiên Phạm-Thiên bắt vào dâm phòng, vuốt ve cám dỗ toan phá giới thể thanh tịnh.

  • Tuy nhiên Đức Như Lai đang thọ trai, biết Ngài A Nan bị nạn dâm thuật, nên vừa thọ trai xong, vội cáo từ. Các vị hoàng đế, đại thần, trưởng giả và cư sĩ đồng theo Phật về tịnh xá để nghe chánh Pháp.

 

爾時阿難,因乞食次,經歷婬室,遭大幻術。摩登

 

ěr   shí    ē     nán           yīn  qǐ   shí   cì             jīng lì   yín   shì         zāo dà huàn shù         mó  dēng

Nhĩ  thời   A  Nan,     nhân khất thực thứ,  kinh  lịch dâm thất,     tao đại huyễn thuật.  Ma Đăng

 

伽女,以娑毗迦羅先梵天咒,攝入婬席。婬躬撫摩,

qié  nǚ              yǐ  suō   pí   jiā  luó xiān fàn tiān zhòu            shè  rù   yín   xí           yín   gōng fǔ mó ,

Già  nữ,          dĩ Ta Tỳ Ca  La  tiên phạm thiên chú,      nhiếp nhập dâm tịch.    Dâm cung phủ ma,

 

將毀戒體。如來知彼婬術所加,齋畢旋歸。王及大臣

jiāng huǐ  jiè   tǐ                rú lái  zhī   bǐ    yín  shù   suǒ  jiā        zhāi  bì  xuán  guī       wáng  jí   dà  chén

tương hủy giới thể.      Như Lai tri  bỉ  dâm  thuật  sở gia,    trai  tất  hoàn  qui.  Vương cập đại thần

 

長者居士,俱來隨佛,願聞法要。

zhǎng zhě jū  shì             jù   lái  suí  fó            yuàn wén fǎ  yào

trưởng giả cư sĩ,         cu  lai  tùy  Phật,   nguyện  vấn pháp yếu.  

 

9.Then the World Honored One emitted a hundred rays of jeweled and fearless light from his crown. Within the light appeared a thousand-petalled precious lotus, upon which was seated a transformation-body Buddha in full-lotus posture, proclaiming a spiritual mantra. He commanded Manjushri to take the mantra and go provide protection, and, when the evil mantra was extinguished, to lend support, and to encourage Ananda and Matangi’s daughter to return to where the Buddha was.

  • Khi ấy Đức Thế Tôn từ Phật đảnh phóng hào quang đủ trăm thứ báu tự tại vô úy, trong hào quang có hoa sen ngàn cánh, trên hoa sen có Hóa Thân Như Lai đoan tọa kiết già tuyên thuyết chú tâm Thủ Lăng Nghiêm, rồi dạy Ngài Văn Thù Sư Lợi phụng hành đến tiêu diệt tà thuật ngoại đạo, cứu thoát Ngài A Nan, đồng thời bắt nàng Ma Đăng Già đem về tịnh xá.

 

於時世尊。頂放百寶無畏光明,  光中出生千葉

yú   shí  shì   zūn        dǐng fàng bǎi bǎo wú wèi guāng míng       guāng zhōng chū shēng qiān  yè  bǎo

Ư  thời  Thế  Tôn.   Đảnh phóng bá bữu vô úy quang minh, quang trung xuất sanh thiên diệp bửu

 

蓮,有佛化身,結跏趺坐,宣說 神咒。敕文殊師利

lián       yǒu  fó  huà  shēn            jié   jiā  fū  zuò           xuān shuō  shén zhòu     chì  wén  shū  shī  lì

liên,      hữu Phật hóa thân,     kiết già phu tọa,      tuyên thuyết thần chú.    Sắc Văn Thù Sư Lợi

 

將咒往護。惡咒 滅。提獎阿難,及摩登伽,歸來

jiāng zhòu wǎng hù        è  zhòu xiāo  miè            tí   jiǎng ē  nán            jí  mó  dēng  qié          guī  lái

tương chú vãng hộ.     Ác thú  tiêu diệt.         Đề tương A  Nan,      cập Ma  Đăng Già,      qui  lai

 

佛所。

fó   suǒ

Phật sở.

 

10.The Request for Dharma

Ananda saw the Buddha, bowed, and wept sorrowfully, regretting that from time without beginning he had been preoccupied with erudition and had not yet perfected his strength in the Way. He respectfully and repeatedly requested an explanation of the very first expedients of the wonderful shamatha, samapatti, and dhyana, by means of which the Tathagatas of the ten directions had realized Bodhi.

  • Ngài A Nan thỉnh Pháp

Ngài A Nan trông thấy Phật thì đảnh lễ, khóc ròng, khổ tâm vì mình từ vô thỉ nhẫn nay, chuyên học rộng nghe nhiều nhưng chưa tròn đạo lực, ân cần cung thỉnh Phật dạy các diệu pháp Sa ma tha (Samatha), Tam ma đề (Samadhi), Thiền na (Dhyana) là phương tiện đầu tiên tu chứng đạo quả Bồ Đề của thập phương Như Lai.

 

阿難見佛。頂禮悲泣。恨無始來。一向多聞,未全

ē   nán  jiàn   fó             dǐng  lǐ   bēi   qì           hèn  wú shǐ  lái             yí  xiàng duō wén      wèi  quán

A  Nan kiến Phật.        Đảnh lễ  bi  khấp.       Hận  vô  thỉ lai.          Nhứt hướng đa văn,    vị  toàn

 

道力。殷勤啟請,十方如來 得成菩提,妙奢摩他,

dào  lì             yīn   qín  qǐ qǐng          shí  fāng  rú   lái    dé  chéng  pú   tí           miào  shē  mó  tā

đạo  lực.     Ân cần  khải thỉnh,    thập phương Như Lai đắc thành Bồ Đề,   diệu  Sa  ma  tha,

 

三摩,禪那,最初方便。

sān  mó          chán  nà         zuì  chū fāng biàn

Tam  ma,     Thiền  na       tối  sơ phương tiện.    

 

11.At that time Bodhisattvas as numerous as the sands of the Ganges, great Arhats, pratyekas, and others from the ten directions, were also present. Pleased at the opportunity to listen, they withdrew silently to their seats to receive the sagely instruction.

  • Trong lúc đó có Hằng sa Bồ tát, thập phương Đại A La Hán và Bích Chi nguyện nghe diệu pháp, ngồi im lặng để vâng lãnh các điều dạy siêu nhiên cuả Phật.

 

於時復有沙菩薩。及諸十方大阿羅漢。辟支佛

yú   shí   fù   yǒu  héng shā  pú   sà              jí  zhū shí  fāng  dà    ē   luó  hàn             bì   zhī   fó

Ư  thời phục hữu hằng sa Bồ Tát.        Cập chư thập phương đại A La Hán.   Bích Chi Phật 

 

等。俱願樂聞。退坐默然。 承受聖旨。

děng         jù yuàn yào  wén          tuì  zuò mò  rán          chéng shòu shèng zhǐ

đẳng.   Cu nguyện nhạo văn.  Thối tọa mặc nhiên,     thừa tọa Thánh chỉ.

 

12.In the midst of the great assembly, the World Honored One then extended his golden arm, rubbed Ananda’s crown, and said to Ananda and the great assembly, “There is a samadhi called the King of the Foremost Shurangama at the Great Buddha’s Summit Replete with the Myriad Practices; it is a path wonderfully adorned and the single door through which the Tathagatas of the ten directions gained transcendence. You should now listen attentively.” Ananda bowed down to receive the compassionate instruction humbly.

The Buddha said to Ananda, “You and I are of the same family and share the affection of a natural relationship. At the time of your initial resolve, what were the outstanding characteristics which you saw in my Dharma that caused you to suddenly cast aside the deep kindness and love found in the world?”

  • Khi ấy Đức Thế Tôn ở trong đại chúng lấy tay dịu dàng rờ đầu Ngài A Nan, rồi dạy Ngài A Nan và đại chúng: có pháp Tam ma đề, hiệu là Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Vuơng bao hàm vạn hạnh, mười phương Như Lai đều do pháp môn duy nhứt ấy, giải thoát sanh tử, đạt Phật quả thâm diệu trang nghiêm. Vậy quí vị phải chăm chú nghe kỹ. Ngài A Nan cung kính lễ Phật và nhứt tăm vâng lời Phật dạy.
  • Đức Phật bảo Ngài A Nan: “Ông với Ta đồng một tông môn quyến thuộc, tình nghĩa thân mật, khi ông mới phát tâm xuất gia tu hành, ông thấy những tướng chi ở trong Pháp Ta mà làm cho ông can đảm từ bỏ nghiệp ân ái sâu nặng ở thế gian?”

 

爾時世尊,在大眾中,舒金色臂,摩阿難頂。告示

ěr   shí  shì  zūn            zài dà zhòng zhōng       shū  jīn  sè   bì             mó   ē  nán  dǐng          gào  shì

Nhĩ thời Thế Tôn,     tại đại chúng trung,       thơ  kim sắc  tý,        ma  A  Nan  đảnh.       Cáo  thị

 

阿難及諸大眾。有三摩提。名大佛頂首楞嚴王,具足

ē   nán     jí    zhū  dà zhòng        yǒu sān mó   tí           míng dà fó dǐng shǒu léng yán wáng            jù  zú

A  Nan cập chư đại chúng. Hữu Tam ma đề. Danh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm vương, cụ túc

 

萬行,十方如來一門 出妙 嚴路。汝今諦聽。阿

wàn hèng,    shí  fāng  rú   lái   yì   mén chāo  chū miào zhuāng yán  lù             rǔ    jīn  dì   tīng         ē

vạn hạnh, thập phương Như Lai nhứt môn siêu xuất diệu trang nghiêm lộ. Nhữ kim đề thính.    A

 

難頂 禮,伏受慈旨。

nán  dǐng  lǐ              fú shòu cí zhǐ

Nan đảnh  lễ,        phục thọ từ chỉ.

 

佛告阿難。汝我同氣,情均天倫。當初發心,於我法

fó   gào    ē   nán            rǔ  wǒ tóng qì             qíng jūn tiān lún          dāng  chū  fā  xīn            yú  wǒ  fǎ

Phật cáo A  Nan.    Nhữ  ngã  đồng khí,  tình  huân  thiên luân.  Đương sơ phát tâm,    ư  ngã  pháp

 

中,見何勝相,頓捨世間深重恩愛

zhōng     jiàn hé shèng xiàng       dùn  shě shì jiān shēn zhòng ēn ài

trung,  kiến hà thắng tướng,    đốn xả thế gian thâm trọng ân ái ?       

 

13.Ananda said to the Buddha, “I saw the Tathagata’s thirty-two characteristics, which were so supremely wonderful, so incomparable, that his entire body had a shimmering transparence just like that of crystal.

”I often thought to myself that these characteristics cannot be born of desire and love. Why? The vapors of desire are coarse and murky. From foul and putrid intercourse comes a turbid mixture of pus and blood which cannot give off such a magnificent, pure, and brilliant concentration of purple-golden light. And so I thirstily gazed upward, followed the Buddha, and let the hair fall from my head.”

  • Ngài A Nan bạch Phật: “ Bạch Đức Thế Tôn! Tôi thấy hình thể Như Lai sáng rỡ như ngọc Lưu Ly có đủ 32 tướng tốt đẹp tuyệt trần, tôi tự suy nghĩ: đức tướng quang minh đó chẳng phải do ái dục sanh ra. Vì cớ sao? Vì ái dục ô nhiễm xấu xa, cấu kết tinh huyết dơ bẩn, không thể nào sanh được đức tướng phi phàm, nghiêm tịnh, sáng ngời hơn sắc tử kim. Vì cớ ấy tôi ngưỡng mộ, cạo tóc xuất gia theo Phật.

 

阿難白佛我見如來三十二相。勝妙殊絕。形體映

ē    nán  bái   fó             wǒ jiàn   rú   lái   sān    shí  èr  xiàng      shèng miào shū jué          xíng tǐ yìng

A  Nan bạch Phật:  Ngã kiến Như Lai tam thập nhị tướng. Thắng diệu thù tuyệt.   Hình thể  ưởng

 

徹猶如琉璃。常自思惟,此 相非是欲愛所生。何以

chè  yóu  rú   liú   lí              cháng zì  sī   wéi           cǐ  xiāng fēi shì   yù   ài   suǒ  shēng           hé   yǐ

triệt du như Lưu ly.          Thường tự tư duy,         thử tướng phi thị dục ái sở sanh.         Hà  dĩ

 

欲氣麤濁,腥臊交遘,膿血雜亂,不能發生

gù ?      yù    qì    cū  zhuó         xīng sāo jiāo gòu         nóng xuè zá luàn           bù néng fā  shēng

cố ?      Dục khí  thô trược,   tinh tháo giao cấu,    nung huyết tạp loạn,    bất năng phát sanh

 

勝淨妙明紫金光聚。是以渴 仰,從佛剃落。

shèng jìng miào míng zǐ jīn guāng jù          shì  yǐ   kě  yǎng            cóng fó  tì   luò

thắng tịnh diệu minh tử kim quang tụ.  Thị dĩ khát ngưỡng,     tùng Phật thế lạc.   

 

  1. 14. The Buddha said, “Very good, Ananda. You should all know that all living beings are continually born and continually die, simply because they do not know the everlasting true mind, the bright substance of the pure nature. Instead they engage in false thinking. It has been so since time without beginning. Their thoughts are not true, and so the wheel keeps turning.

”Now you wish to investigate the unsurpassed Bodhi and actually discover your nature. You should answer my questions with a straightforward mind, because that is exactly the way the Tathagatas of the ten directions escaped birth and death. Their minds were all straightforward, and since their minds and words were consistently that way, from the beginning, through the intermediate stages to the end, they were never in the least evasive.

Ananda, I now ask you: at the time of your initial resolve, which

arose in response to the Tathagata’s thirty-two characteristics, what was it that saw those characteristics and who delighted in them?”

  • Đức Phật dạy: Lành thay, A Nan! Ông phải biết; tất cả chúng sanh từ vô thỉ nhẫn nay, sống chết liên tục, vì không rõ thể tánh thanh tịnh sáng suốt của Tâm Chơn Như thường trụ, cứ dùng các thứ vọng tưởng giả dối, do đó bị chìm đắm ở biển khổ luân hồi.
  • Nay ông muốn nghiên cứu đạo Vô Thượng Bồ Đề, phát minh thể tánh của Tâm Chơn thì phải lấy tâm chánh trực giải đáp các điều Ta hỏi, vì thập phương Như Lai đều do một đường giải thoát sanh tử là dùng tâm chánh trực và lời nói tự tâm chánh trực phát ra, từ đầu chí cuối, trước sau như một, không bao giờ có những sự quanh co.
  • A Nan, bây giờ Ta hỏi ông: Trong khi ông trông thấy và quí mến 32 tướng Như Lai mà phát tâm tu hành, vậy ông dùng cái chi mà trông thấy? và trong khi trông thấy, ông dùng cái chi mà quí mến?

 

佛言:善哉阿難。汝等當知一切眾生,從無始來。

fó   yán            shàn  zāi  ē   nán          rǔ děng dāng zhī  yí qiè zhòng shēng        cóng  wú shǐ lái

Phật ngôn:  Thiện tai A  Nan.   Nhữ đẳng đương tri nhứt thiết chúng sanh,  tùng  vô  thỉ  lai.

 

生死相續,皆由不知常住心性淨明體。用諸妄想。

shēng sǐ xiāng xù           jiē yóu bù zhī cháng zhù  zhēn xīn xìng jìng míng  tǐ         yòng zhū wàng xiǎng

Sanh  tử tương tục,  giai do bất tri thường trụ chơn tâm tánh tịnh minh thể.Dụng chư vọng tưởng.

 

,故 有輪 轉。汝今 研無上

cǐ    xiǎng  bù zhēn            gù  yǒu lún  zhuǎn           rǔ   jīn   yù    yán   wú   shàng   pú    tí   zhēn  fā

Thử tưởng bất chơn,    cố hữu luân chuyển.   Nhữ kiêm dục nghiên vô thượng Bồ Đề chơn phát

 

性。應 當直心 問。十方如來同一 故,

míng  xìng      yīng  dāng zhí xīn  chóu   wǒ    suǒ   wèn          shí  fāng  rú   lái  tóng  yí   dào   gù

minh tánh.     Ưng đương trực tâm huấn ngã sở vấn.     Thập phương Như Lai đồng nhứt đạo cố,

 

出離生死,皆以直心。心言直故,如是乃至終

chū   lí   shēng sǐ           jiē  yǐ   zhí   xīn              xīn yán zhí gù             rú  shì nǎi  zhì zhōng  shǐ  dì

xuất ly sanh tử,          giai dĩ trực tâm.       Tâm ngôn trực cố,      như thị  nãi  chí chung  thỉ  địa  

 

間永無諸委曲相。

wèi          zhōng jiān yǒng wú zhū wěi  qū xiàng

vị,           trung gian vĩnh vô chư ủy khúc tướng.

 

阿難,我今問汝。當汝發心緣於如來三十二相,將何

ē  nán          wǒ   jīn   wèn  rǔ          dāng  rǔ   fā  xīn  yuán  yú   rú   lái   sān  shí   èr   xiàng          jiāng hé

A  Nan,   ngã  kiêm văn  nhữ. Đương nhữ phát tâm duyên ư Như Lai tam thập nhị tướng, tương hà

 

所見,誰為愛樂

suǒ  jiàn         shuí  wéi  ài  yào

sở kiến,       thùy vi ái nhạo?

 

15.Ananda said to the Buddha, “World Honored One, this is the way I experienced the delight: I used my mind and eyes. Because my eyes saw the Tathagata’s outstanding characteristics, my mind gave rise to delight. That is why I became resolved and wished to removed myself from birth and death.”

  • Ngài A Nan bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Khi tôi trông thấy đức tướng Như Lai, đó là tôi dùng mắt. Khi tôi quí mến Phật, đó là tôi dùng tâm, vì mắt trông thấy đức tướng, tâm sanh quí mến, nên tôi phát nguyện tu hành cầu giải thoát sanh tử.

 

阿難白佛言:世尊,如是愛樂,用我心目由目觀見

ē    nán  bái   fó  yán           shì  zūn             rú  shì   ài  yào           yòng wǒ  xīn mù yóu mù guān jiàn

A  Nan bạch Phật ngôn:   Thế Tôn,        như thị  ái nhạo,    dụng ngã tâm mục do mục quan kiến

 

如來勝相,心生愛樂。故我發心,願捨生死。

rú  lái shèng xiàng           xīn shēng ài  yào        gù   wǒ  fā   xīn          yuàn shě shēng sǐ

Như Lai thắng tướng, tâm sanh ái nhạo,     cố ngã phát tâm,    nguyện xả sanh tử.

 

16.The Location of the Mind

The Buddha said to Ananda, “It is as you say, that experience of delight actually occurs because of your mind and eyes. If you do not know where your mind and eyes are, you will not be able to conquer the wearisome dust.

For example, when a king’s country is invaded by thieves and he sends out his troops to suppress and banish them, the troops must know where the thieves are. It is the fault of your mind and eyes that you flow and turn. I am now asking you specifically about your mind and eyes: where are they now?”

  • Gạn hỏi cái tâm
  • Đức Phật bảo Ngài A Nan: Như ông vừa nói; Trông thấy và quí mến đức tướng Như Lai là do mắt và tâm, tất nhiên ông phải biết mắt và tâm ở đâu. Nếu ông không biết mắt và tâm ở đâu thì không dễ gì hàng phục trần lao.
  • Ví như một vị hoàng đế, khi đất nước bị giặc xâm lăng, muốn xuất binh dẹp giặc tất nhiên phải biết trước sào huyệt của giặc, mới có thể chiến thắng được. Xưa nay ông bị trôi lăn trong biển khổ luân hồi chỉ vì tâm và mắt. Bây giờ Ta hỏi ông: Tâm và mắt hiện ở đâu?

 

佛告阿難:如汝所說。 所愛樂,因於心目。若不

fó   gào   ē   nán               rú   rǔ suǒ shuō          zhēn  suǒ  ài  yào          yīn   yú  xīn  mù          ruò  bú

Phật cáo A Nan:       Như nhữ sở thuyết.      Chơn sở ái nhạo,     nhân  ư  tâm  mục.    Nhược bất

 

識知心目所在,則不能得降伏塵勞。譬如國王,為賊

shì  zhī  xīn   mù  suǒ  zài            zé  bù  néng dé  xiáng fú  chén  láo           pì   rú  guó  wáng       wéi  zéi

thức tri tâm mục sở  tại,        tắc bất năng đắc hàng phục trần lao.   Thí như Quốc vương,    vị  tặc 

 

所侵,發兵討除。是兵要當知賊所在使汝流轉,心目

suǒ  qīn            fā  bīng tǎo chú            shì bīng yào dāng zhī zéi suǒ  zài  shǐ  rǔ  liú  zhuǎn         xīn  mù

sở  xâm,     phát  binh  thảo  trừ.  Thị binh yếu đương tri tặc sở tại sữ nhữ lưu chuyển,      tâm mục

 

為咎。吾今問汝,唯心與目,今何所在

wéi  jiù          wú  jīn  wèn  rǔ             wéi xīn  yǔ  mù             jīn hé  suǒ  zài

vi cữu.         Ngô kim vấn nhữ,        duy tâm dữ mục,        kiêm hà sở tại?

 

17.Ananda Proposes That the Mind Is in the Body

Ananda said to the Buddha, “World Honored One, all the ten kinds of living beings in the world alike maintain that the conscious mind dwells within the body; and as I regard the Tathagata’s blue lotus-flower eyes, they too are on the Buddha’s face.

”I now observe that these prominent organs, four kinds of defiling objects, are on my face, and so, too, my conscious mind actually is within my body.”

  • Ngài A Nan chấp Tâm ở trong Thân
  • Ngài A Nan bạch Phật: Tất cả mười loài chúng sanh ở thế gian đều nhận Tâm hiểu biết ở trong thân và mắt xem thấy ở trên mặt, dẩu mắt thanh-liên-hoa của Như Lai cũng ở trên mặt Như Lai. Nay tôi thấy mắt tứ trần của tôi ở trên mặt tôi. Như thế chứng tỏ mắt ở ngoài, tâm thiệt ở trong thân.

 

阿難白佛言:世尊,一切世間十種異生,同將識心

ē    nán   bái   fó   yán           shì  zūn          yí  qiè  shì jiān shí zhǒng  yì shēng         tóng jiāng shì xīn

A  Nan bạch Phật ngôn:   Thế Tôn,  nhứt thiết thế gian thập chủng dị sanh, đồng tương thức tâm

 

居在身。縱觀如來青蓮華眼,亦在佛面。我今觀

jū   zài  shēn  nèi              zòng guān rú lái qīng lián huā yǎn             yì  zài   fó miàn         wǒ  jīn guān  cǐ

cư tại thân nội.     Túng quan Như Lai thanh liên hoa nhãn,  diệc tại Phật diện.    Ngã kim quan thử

 

浮根四塵,祇在我面。如是識心,實居身

fú   gēn  sì  chén            zhǐ zài wǒ miàn            rú  shì  shì  xīn              shí  jū shēn nèi

phù căn  tứ  trần,        kỳ  tại  ngã  diện.     Như  thị  thức  tâm,    thiệt  cư  thân  nội.  

 

18.The Buddha said to Ananda, “You are now sitting in the Tathagata’s lecture hall looking at the Jeta Grove. Where is it at present?”

”World Honored One, this great many-storied pure lecture hall is in the Garden of the Benefactor of the Solitary. At present the Jeta Grove is in fact outside the hall.”

”Ananda, as you are now in the hall, what do you see first?”

”World Honored One, here in the hall I first see the Tathagata, next I see the great assembly, and from there, as I gaze outward, I see the grove and garden.”

”Ananda, why it is you are able to see the grove and the garden as you look at them?”

”World Honored One, since the doors and windows of this great lecture hall have been thrown open wide, I can be in the hall and see into the distance.”

  • Đức Phật bảo Ngài A Nan: Hiện tại ông ở trong giảng đường, ông thấy rừng cây của Thái Tử Kỳ Đà hiện ở chỗ nào?
  • Bạch Đức Thế Tôn! Giảng đường khang trang thanh tịnh, rộng rãi nầy ở trong vườn Cấp Cô Độc, còn rừng cây Kỳ Đà thiệt ở ngoài giảng đường.
  • A Nan! Bây giờ ông đang ở trong giảng đường, ông thấy cái chi trước?
  • Bạch Đức Thế Tôn! Tôi ở trong giảng đường, trước hết tôi thấy Phật, kế đến đại chúng, sau trông ra ngoài mới thấy rừng cây.
  • A Nan! Nguyên nhân vì sau ông thấy được rừng cây?
  • Bạch Đức Thế Tôn! Nguyên nhân vì cửa giảng đường mở trống nên tôi thấy suốt ở ngoài.

 

佛告阿難:汝今現坐如來講堂。觀 祇陀林 今何所

fó   gào   ē   nán              rǔ   jīn xiàn zuò  rú    lái jiǎng táng          guān  qí   tuó  lín   jīn   hé  suǒ

Phật  cáo  A Nan:  Nhữ  kim hiện tại Như Lai giảng đường.   Quan Kỳ Đà lâm,     kim  hà  sở

 

世尊,此大重閣清淨講堂,在給孤園。今祇陀林

zài           shì  zūn        cǐ  dà chóng gé qīng jìng jiǎng  táng            zài jǐ  gū  yuán              jīn qí  tuó lín

tại ?      Thế  Tôn, thử đại trùng các thanh tịnh giảng đường   tại Cấp Vô viên.         Kim Kỳ Đà lâm

 

實在堂外。阿難,汝今堂中先何所見世尊,我在堂

shí  zài  táng wài             ē  nán           rǔ jīn táng zhōng xiān hé suǒ jiàn            shì zūn          wǒ zài táng

thiệt tại đường ngoại.  A  Nan,    nhữ  kim đường trung tiên hà sở kiến? Thế Tôn,    ngã tại đường

 

先見如來。次觀大眾。如是外望,方 矚林園。

zhōng xiān jiàn rú lái              cì guān dà zhòng        rú shì wài wàng          fāng zhǔ lín yuán

trung tiên kiến Như Lai. Thứ quang đại chúng. Như thị ngoại vọng, phương chúc lâm viên.

 

阿難,汝矚林園,因何有見。世尊,此大講堂,戶牖

ē    nán             rǔ  zhǔ lín yuán         yīn hé yǒu jiàn               shì zūn        cǐ  dà  jiǎng  táng ,     hù  yǒu

A  Nan,       nhữ chúc  lâm viên,   nhân hà hữu kiến?     Thế  Tôn,      thử đại giảng đường,    hộ  đủ

 

開豁。故我在堂得遠瞻見。

kāi  huò            gù wǒ zài  táng  dé yuǎn zhān jiàn

khai  khoát.  Cố  ngã  tại đường đắc viễn chiêm kiến.

 

19.The Buddha said to Ananda, “It is as you say. When one is in the lecture hall and the doors and windows are open wide, one can see far into the garden and grove. Could there be someone in the hall who does not see the Tathagata and yet sees outside the hall?”

Ananda answered: “World Honored One, to be in the hall and not see the Tathagata, and yet see the grove and fountains is impossible.”

”Ananda, you are like that too.

“Your mind is capable of understanding everything thoroughly. Now if your present mind, which thoroughly understands everything, were in your body, then you should be aware first of what is inside your body. Can there be living beings who first see inside their bodies before they observe things outside?

”Even if you cannot see your heart, liver, spleen, and stomach, still, the growing of your nails and hair, the twist of your sinews, and the throb of your pulse should be clearly understood. Why don’t you perceive these things? If you cannot perceive what is inside at all, how can you perceive what is outside?

”Therefore you should know that you state the impossible when you say that the aware and knowing mind is in the body.”

  • Đức Phật bảo Ngài A Nan: Như ông vừa nói, ông ở tại giảng đường, nhờ mở cửa trống nên thấy rừng cây. Có chúng sanh nào ở tại giảng đường mà không thấy Như Lai lại thấy rừng cây ở ngoài chăng?
  • Ngài A Nan bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Ở trong giảng đường không thấy Như Lai lại thấy rừng cây ở ngoài thì chắc chắn vô lý.
  • A Nan! Ông cũng như vậy. Linh tâm của ông hiểu rỏ tất cả, nếu Tâm ấy thiệt ở trong thân rồi mới biết ở ngoài thân.
  • Có chúng sanh nào biết trước ở trong thân chăng? Dầu không thấy được tim, gan, tỳ vị, nhưng các chỗ móng sanh, tóc dài, gân chuyển, mạch nhảy, cũng phải biết? Tâm không biết ở trong thân thì làm sao biết ở ngoài thân được?
  • Thế nên phải nhận định: ông nói Tâm hiểu biết sáng suốt của ông ở trong thân, chắc chắn vô lý.

 

佛告阿難:如汝所言,身在講堂,戶牖開豁,遠矚

fó   gào   ē    nán            rú  rǔ  suǒ  yán           shēn zài jiǎng táng        hù  yǒu  kāi  huò        yuǎn zhǔ

Phật cáo A Nan:      Như nhữ sở ngôn,    thân tại giảng đường,     hộ đủ khai khoát,   viễn chúc

 

林園。亦有眾生在此堂中,不見如來,見堂外者。阿

lín  yuán        yì yǒu zhòng shēng zài cǐ táng zhōng           bú  jiàn  rú  lái          jiàn táng wài zhě 。     ē

lâm viên, diệc hữu chúng sanh tại thử đường trung, bất kiến Như Lai, kiến đường ngoại giả.    A 

 

難答言:世尊,在堂不見如來,能見林泉,無有是處。

nán  dá  yán           shì zūn           zài  táng bú  jiàn  rú  lái           néng jiàn lín quán      wú yǒu shì chù

Nan đáp ngôn:   Thế Tôn,    tại đường bất  kiến Như Lai,  năng kiến lâm tuyền,  vô hữu  thị  xứ.

 

阿難,汝亦如是。汝之心靈一切明了。若汝現前所明

ē    nán            rǔ    yì    rú   shì            rǔ zhī   xīn líng  yí  qiè míng liǎo            ruò rǔ xiàn qián suǒ míng

A  Nan,      nhữ diệc như thị.   Nhữ chi tâm linh nhứt thiết minh liễu.  Nhược nhữ hiện tiền sở minh

 

了心實在身,爾時先合了知身。頗有眾生,先見

liǎo xīn  shí   zài  shēn  nèi           ěr  shí  xiān  hé liǎo zhī  nèi  shēn           pǒ yǒu zhòng shēng    xiān jiàn

liễu tâm thiệt tại thân nội,        nhĩ thời tiên hiệp liễu tri nội thân.     Phả hữu chúng sanh,  tiên kiến

 

身中,後觀外物,縱不能見心肝脾胃,爪生髮長,筋

shēn zhōng ,hòu guān wài wù ,    zòng bù néng jiàn xīn gān pí wèi ,    zhǎo shēng fǎ zhǎng ,   jīn

thân trung,   hậu quan ngoại vật,   túng bất năng kiến tâm can tỳ vị,     trảo sanh phát trường,  cân

 

轉脈搖, 誠合明了,如何不知。必不知,云何知外

zhuǎn mài yáo        chéng hé míng liǎo        rú  hé  bù  zhī             bì  bú  nèi  zhī           yún hé zhī  wài

chuyển mạch diêu, thành hiệp minh liễu, như hà bất tri.       Tất bất  nội tri,         vân hà tri ngoại?  

 

是故應知,汝言覺了能知之心,住在身無有是處。

shì  gù  yīng zhī              rǔ yán jué liǎo néng zhī zhī xīn                 zhù zài shēn nèi wú yǒu shì chù

Thị cố ưng tri,           nhữ ngôn giác liễu năng tri chi tâm,       trụ tại thân nội  vô  hữu  thị  xứ.

 

20.Ananda Proposes That the Mind Is Outside the Body

Ananda bowed his head and said to the Buddha, “Upon hearing such a Dharma-sound as the Tathagata has proclaimed, I realize that my mind is actually outside my body.

”Why? For example, a lamp alight in a room will certainly illumine the inside of the room first, and only then will it pour through the doorway to reach the recesses of the hall. For all living beings who do not see within their bodies but only see outside them, it is as if the lighted lamp were placed outside the room, so that it cannot illumine the room.

”This principle is certainly clear: it is absolutely beyond all doubt and exactly the Buddha’s entire meaning, and so it isn’t wrong, is it?”

  • Ngài A Nan chắp Tâm ở ngoài Thân
  • Ngài A Nan cúi đầu bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Tôi nghe lời Như Lai dạy như vậy, tôi biết chắc Tâm thiệt ở ngoài thân. Vì cớ sao? Vì như đèn thắp trong nhà thì trước phải chiếu sáng trong nhà rồi sau đó cửa mở mới chiếu sáng ở bên ngoài. Tâm chúng sanh không thấy vật ở trong thân mà chỉ thấy vật ở ngoài thân, giống như đèn thắp ở ngoài nhà, tự nhiên chỉ chiếu sáng vật ở ngoài nhà, chứ không chiếu sáng vật ở bên trong. Như thế cái nghĩa “Tâm ở ngoài thân”, tôi tưởng không sai lầm, nhưng chưa rõ có đúng với nghĩa rốt ráo của Phật chăng?

 

阿難稽首而白佛言:我聞如來如是法音。悟知我心

ē    nán   qǐ  shǒu   ér   bái   fó   yán            wǒ wén  rú  lái    rú  shì   fǎ   yīn              wù zhī wǒ  xīn

A  Nan khể thủ nhi bạch Phật ngôn:    Ngã văn Như Lai như thị Pháp âm.         Ngộ tri ngã tâm

 

實居身外。所以者何譬如燈光然於室中,是燈必能

shí  jū  shēn  wài            suǒ  yǐ  zhě  hé            pì  rú dēng guāng rán yú shì zhōng        shì  dēng bì néng

thiệt cư thân ngoại.      Sở dĩ giả hà?        Thí như đăng quang nhiên ư thất trung, thị đăng tất năng 

 

照室,從其室門,後及庭際。一切眾生,不見身

xiān zhào shì  nèi            cóng qí shì mén            hòu  jí  ting  jì           yí qiè zhòng shēng         bú jiàn shēn

tiên chiếu thất nội,    tùng kỳ thất môn,       hậu cập đình tế.     Nhứt thiết chúng sanh, bất kiến thân

 

中,獨見身外。亦如燈光,居在室外,不能照室。是

zhōng    dú jiàn shēn  wài              yì rú dēng guāng           jū  zài shì  wài         bù néng zhào shì         shì

trung,   độc kiến thân ngoại.   Diệc  như đăng quang, cư tại thất ngoại,   bất năng chiếu thất.    Thị

 

義必明,將無所惑。同佛了義得無妄耶。

yì    bì  míng         jiāng wú suǒ huò            tóng fó  liǎo   yì   dé wú wàng  yé

Nghĩa tất minh  tương vô sở hoặc.   Đồng Phật liễu nghĩa đắc vô vọng dã.

 

21.The Buddha said to Ananda, “All these bhikshus who just followed me to the city of Shravasti to beg in sequence for food have returned to the Jeta Grove and are rolling their food into balls as they eat. I have already finished eating, but consider the bhikshus: when one person eats, does everyone get full?”

Ananda answered, “No, World Honored One. Why? These bhikshus are Arhats, but their individual lives differ. How could one person’s eating cause everyone to be full?”

The Buddha told Ananda, “If your mind which understands, knows, sees and is aware were actually outside your body, your body and mind would be mutually exclusive and would have no relationship to one another. The body would be unaware of what the mind perceives, and the mind would not perceive the awareness within the body.

”Now as I show you my tula-cotton hand, does your mind distinguish it when your eyes see it?”

Ananda answered, “So it is, World Honored One.”

The Buddha told Ananda, “If the mind and eyes create a common perception, how then can the mind be outside?

”Therefore you should know you state the impossible when you say that the mind which knows, understands, and is aware is outside the body.”

  • Đức Phật bảo Ngài A Nan: A Nan! Hồi sớm mai, có các vị Tỳ Khưu theo Ta vào thành Thất La Phiệt khất thực, rồi trở về rừng Kỳ Đà. Ta vừa thọ trai xong, Ta bảo ông thử nghĩ: trong số Tỳ Khưu ấy, chỉ một người ăn mà các vị khác có thể no được không?
  • Ngài A Nan bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Không thể được như vậy. Vì cớ sao? Vì các vị Tỳ Khưu dầu là bậc A La Hán, nhưng thân thể không đồng, mỗi người mỗi thân thì có lý nào một người ăn mà các vị khác no được.
  • Đức Phật bảo Ngài A Nan: Nếu Tâm hiểu biết sáng suốt của ông thiệt ở ngoài thân, dĩ nhiên thân với Tâm khác biệt nhau, không có liên quan gì với nhau, như vậy hể Tâm biết thì thân không biết, chớ Tâm và thân không thể đồng biết một lượt.
  • Bây giờ Ta đưa tay dịu dàng của Ta lên cho ông xem, mắt ông thấy tay, còn Tâm ông có biết tay hay không?
  • Ngài A Nan bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Mắt tôi vừa thấy tay thì Tâm tôi biết liền.
  • Đức Phật bảo: A Nan, Thân và Tâm của ông đồng biết một lượt thì không phải là hai thể sai biệt, như vậy ông làm sao dám nói tâm ở ngoài thân. Thế nên phải nhận định: Ông nói Tâm hiểu biết sáng suốt của ông ở ngoài thân, chắc chắn không đúng.

 

佛告阿難:是諸比丘,適來從我室羅筏城,循乞摶

fó   gào  ē   nán              shì  zhū  bǐ  qiū             shì  lái cóng  wǒ shì  luó  fá  chéng         xún qǐ  tuán

Phật cáo  A  Nan:    Thị chư  Tỳ khưu,     thích lai tùng ngã Thất La Phiệt thành, tuần khất đoàn

 

食,歸祇陀林。我已宿齋。汝觀比丘,一人食時,諸

shí             guī zhǐ tuó lín                wǒ yǐ sù zhāi            rǔ  guān bǐ  qiū             yí  rén  shí  shí            zhū

thực,      qui  Kỳ  Đà  lâm.           Ngã dĩ túc trai.      Nhữ  quan Tỳ  khưu,   nhứt nhân thực thời, chư

 

人飽不阿難答言:不也,世尊。何以故是諸比

rén  bǎo  fǒu           ē  nán  dá  yán             fú  yě             shì zūn            hé  yǐ   gù        shì  zhū  bǐ

nhân bảo phủ?   A  Nan  đáp  ngôn:    Phất dã,       Thế Tôn.          Hà dĩ cố?        Thị  chư  Tỳ

 

丘,雖阿羅漢,軀命不同。云何一人能令眾飽佛告

qiū            suī  ē  luó  hàn            qū mìng bù tóng           yún hé  yì rén néng lìng zhòng bǎo          fó gào

khưu,   tuy  A  La   Hán,       xu mạng bất đồng.  Vân hà nhứt nhân  năng lịnh chúng bảo?  Phật cáo

 

阿難:若汝覺了知見之心,實在身外,身心相外,自

ē     nán           ruò  rǔ   jué   liǎo  zhī  jiàn zhī  xīn          shí  zài shēn wài          shēn xīn xiāng wài      zì

A  Nan:     Nhược nhữ giác liễu tri kiến chi tâm,    thiệt tại thân ngoại,  thân tâm tương ngoại,   tự

 

不相干。則心所知,身不能覺。覺在身際,心不能

bù xiāng gān             zé xīn suǒ zhī            shēn bù néng jué              jué zài shēn jì          xīn  bù  néng

bất tương can.     Tắc tâm sở tri,         thân bất năng giác .      Giác tại thân tế,       tâm  bất năng

 

。我今示汝兜羅綿手,汝眼見時,心分別不阿難

zhī          wǒ  jīn  shì  rǔ  dōu  luó  mián shǒu          rǔ  yǎn  jiàn  shí             xīn fēn bié  fǒu           ē  nán

tri.       Ngã kim  thị nhữ Đâu La miên thủ,        nhữ nhãn kiến thời,     tâm phân biệt phủ?    A   Nan

 

答言:如是,世尊。佛告阿難。若相知者,云何在

dá  yán             rú   shì          shì zūn            fó  gào  ē  nán           ruò xiāng zhī zhě             yún hé zài

đáp ngôn:     Như thị,      Thế  Tôn.        Phật cáo A Nan:     Nhược tương tri giả,       vân hà tại

 

是故應知,汝言覺了能知之心,住在身外,無有

wài           shì gù yìng zhī             rǔ  yán  jué liǎo néng zhī zhī  xīn            zhù zài shēn wài         wú  yǒu

ngoại?   Thị cố ưng tri,         nhữ ngôn giác liễu năng tri chi tâm,       trụ tại thân ngoại,      vô hữu

 

是處。

shì  chù

thị  xứ.

 

22.Ananda Proposes That the Mind is in the Eye-Faculty

Ananda said to the Buddha, “World Honored One, it is as the Buddha has said, since I cannot see inside, my mind does not reside in the body. Since my body and mind have a common awareness, they are not separate and so my mind does not dwell outside my body. As I now consider it, I know it is in a certain place.”

The Buddha said, “Now where is it?”

Ananda said, “Since the mind which knows and understands does not perceive what is inside but can see outside, upon reflection I believe it is concealed in the organ of vision.

”For example, when someone places crystal bowls over his eyes, the bowls cover his eyes but do not obstruct his vision. The organ of vision is thus able to see, and discriminations are made accordingly.

”And so my mind which knows, understands, and is aware does not see within because it resides in the organ. It can gaze outside clearly, without obstruction for the same reason: it is concealed in the organ.”

  • Ngài A Nan chấp Tâm ẩn tại Mắt
  • Ngài A Nan bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Như lời Phật dạy: Tâm không thấy trong thân thì tâm chẳng phải ở trong thân. Tâm và thân đồng biết một lượt, không thể rời nhau, thì Tâm chẳng phải ở ngoài thân. Bây giờ tôi thiết nghĩ: Tâm ở một chỗ.
  • Phật hỏi : A Nan! Tâm ở chỗ nào?
  • Ngài A Nan bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Tâm liễu tri đó không biết trong mà hay thấy ngoài, theo tôi nghĩ Tâm ấy ẩn tại mắt.

Ví như có người lấy chén lưu ly úp vào hai mắt, thì tuy có vật úp ở ngoài, nhưng mắt vẫn sáng tỏ chớ không bị ngăn ngại, nên hể mắt thấy tất nhiên Tâm phân biệt. Tâm hiểu biết của tôi không thấy trong thân vì Tâm ẩn tại mắt cũng bởi Tâm ẩn tại mắt nên thấy phân minh vật ở ngoài thân, không có chút ngăn ngại, chưa rỏ đúng chăng?

 

阿難白佛言:世尊,如佛所言,不見故,不居身

ē    nán   bái  fó   yán           shì  zūn            rú  fó  suǒ  yán             bú  jiàn nèi  gù             bù   jū  shēn

A  Nan  bạch Phật ngôn:  Thế Tôn,     như Phật  sở ngôn,       bất  kiến nội cố,         bất  cư  thân

 

。身心相知,不相離故,不在身外。我今思惟,知

nèi            shēn xīn xiāng zhī          bù xiāng lí gù            bú  zài shēn  wài          wǒ  jīn   sī   wéi          zhī

nội.      Thân tâm tương tri,        bất tương ly cố,      bất tại thân ngoại.       Ngã  kim tư duy,         tri

 

在一處。佛言:處今何在阿難言:此了知心,既不

zài   yí   chù            fó  yán           chù  jīn  hé  zài          ē  nán  yán              cǐ  liǎo zhī  xīn            jì   bù

tại nhứt xứ.      Phật ngôn:       Xứ  kim hà tại?          A  Nan ngôn:        thử liễu tri tâm,         ký  bất

 

,而能見外。如我思忖,潛伏根裏。猶如有人,

zhī   nèi           ér néng jiàn wài           rú   wǒ  sī   cǔn            qián  fú   gēn  lǐ            yóu  rú  yǒu  rén

tri  nội,      nhi  năng  kiến ngoại.    Như ngã tư thổn,      tiềm phục căn lý.       Du  như hữu nhân,

 

,合其兩眼。雖有物合,而不留礙。彼根隨

qǔ    liú    lí  wǎn           hé   qí  liǎng yǎn           suī yǒu wù hé                ér  bù   liú   ài            bǐ  gēn  suí

thủ lưu ly huyễn,    hiệp  kỳ lưỡng nhãn.    Tuy  hữu vật hiệp,       nhi bất  lưu ngại.        bỉ căn  tùy

 

見,隨即分別。然我覺了能知之心,不見者,為在

jiàn          suí  jí   fēn  bié             rán wǒ  jué liǎo néng  zhī  zhī  xīn            bú jiàn  nèi zhě         wéi  zài

kiến,     tùy  tức phân biệt.      Nhiên ngã giác liễu năng tri chi tâm,     bất kiến nội giả,          vi   tại

 

根故。分明矚外,無障礙者,潛根故。

gēn   gù        fēn míng zhǔ  wài          wú zhàng ài  zhě          qián gēn nèi gù

căn cố.       Phân biệt chúc ngoại,   vô chướng ngại giả,  tiềm căn nội cố.

 

23.The Buddha said to Ananda, “Assuming that it is concealed in the organ, as you assert in your analogy of the crystals: if someone were to cover his eyes with the crystals and look at the mountains and rivers, would he see the crystals as well?”

”Yes, World Honored One, if a person were to cover his eyes with the crystals, he would in fact see the crystals.”

The Buddha said to Ananda, “If your mind is analogous to the eyes covered with crystals, then when you see the mountains and rivers, why dont you see your eyes?

”If you could see your eyes, your eyes would be part of the external environment. If you cannot see them, why did you say that the mind which understands, knows, and is aware is concealed in the organ of vision as eyes are covered by crystals?

“Therefore you should know that you state the impossible when you say that the mind which knows, understands, and is aware is concealed in the organ of vision in the way that the eyes are covered by crystals.”

  • Đức Phật dạy: A Nan! Như ông vừa nói, Tâm ẩn tại mắt, cũng như mắt ẩn sau chén lưu ly thì người lấy chén lưu ly úp vào mắt, trong khi mắt thấy núi sông, có thấy chén lưu ly chăng?
  • Bạch Đức Thế Tôn! Người úp chén lưu ly vào mắt, trong khi mắt thấy núi sông, cũng thấy lưu ly.
  • A Nan! Nếu tâm của ông ẩn tại mắt cũng như mắt ẩn sau chén lưu ly thì trong khi Tâm thấy núi sông, tại sao không thấy mắt? Nếu Tâm thấy mắt thì mắt cũng như ngoại cảnh, không thể nào mắt liền thấy, Tâm liền biết. Nếu Tâm không thấy mắt thì không làm sao nói Tâm hiểu biết ẩn tại mắt như mắt ẩn sau chén lưu ly.
  • Thế nên phải nhận định: Ông nói Tâm sáng tỏ hiểu biết ẩn tại mắt như mắt ẩn sau chén lưu ly, chắc chắn vô lý

 

佛告阿難:如汝所言,潛根者,猶如璃。彼人

fó   gào   ē   nán             rú  rǔ  suǒ  yán           qián gēn nèi zhě             yóu  rú  liú   lí           bǐ  rén

Phật cáo A  Nan:    Như nhữ sở ngôn,        tiềm căn nội giả,           du như lưu ly.         Bỉ  nhân

 

當以璃籠眼,當見山河,見璃不如是,世尊,

dāng yǐ   liú    lí   lóng yǎn          dāng jiàn shān hé        jiàn liú   lí    fǒu         rú  shì          shì  zūn

đương dĩ  lưu ly lung nhãn,   đương kiến sơn hà,      kiến lưu ly phủ?     Như thị,      Thế Tôn,

 

是人當以璃籠眼,實見璃。佛告阿難:汝心若同

shì  rén  dāng   yǐ   liú   lí    lóng yǎn         shí  jiàn  liú   lí            fó   gào   ē   nán          rǔ  xīn ruò tóng

thị nhân đương dĩ  lưu ly lung nhãn,    thiệt kiến lưu ly.       Phật cáo A  Nan:  nhữ tâm nhược đồng

 

璃合 者。當見山河,何不見眼若見眼者,眼即同

liú    lí    hé  zhě              dāng jiàn shān hé         hé   bú  jiàn yǎn         ruò jiàn yǎn zhě          yǎn  jí  tóng

lưu  ly hiệp  giả .      Đương  kiến sơn hà,   hà bất kiến nhãn? Nhược kiến nhãn giả, nhãn tức đồng

 

境,不得成隨。若不能見,云何說言此了知心,潛在

jìng         bù  dé chéng suí            ruò  bù néng jiàn          yún hé shuō yán  cǐ  liǎo zhī  xīn            qián  zài

cảnh,   bất đắc thành tùy.    Nhược bất năng kiến,    vân hà thuyết ngôn thử liễu tri tâm,      tiềm tại

 

,如璃合是故應知,汝言覺了能知之心,潛

gēn  nèi             rú   liú   lí   hé           shì gù yīng zhī              rǔ  yán  jué liǎo  néng  zhī zhī  xīn        qián

căn nội,        như  lưu ly hiệp?      Thị cố ưng tri,          nhữ ngôn giác liễu năng tri chi tâm,      tiềm

 

伏根裏,如璃合,無有是處。

fú    gēn   lǐ              rú   liú   lí   hé             wú  yǒu shì  chù

phục căn lý,          như lưu  ly  hiệp,      vô  hữu  thị  xứ.

 

24.Ananda Reconsiders Seeing Inside and Seeing Outside

Ananda said to the Buddha, “World Honored One, I now offer this reconsideration: viscera and bowels lie inside the bodies of living beings, while the orifices are open to the exterior. There is darkness at the bowels and light at the orifices.

”Now, as I face the Buddha and open my eyes, I see light: that is to see outside. When I close my eyes and see darkness, that is to see within. How does that principle sound?”

  • Ngài A Nan chấp Tâm ở Trong lẫn Ngoài
  • Ngài A Nan bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Bây giờ tôi lại suy nghĩ thân thể của chúng sanh, tạng phủ ở trong, khiếu huyệt ở ngoài, có tạng phủ thì tối, có khiếu huyệt thì sáng. Như bây giờ tôi ở trước mặt Phật, khi mở mắt thì Tâm thấy sáng gọi là Tâm thấy ngoài, khi nhắm mắt thì thấy tối gọi là Tâm thấy trong, tức là Tâm ở cả trong lẫn ngoài, tôi chưa biết nghĩa ấy có đúng chăng?

 

阿難白佛言:世尊,我今又作如是思惟。是眾生身,

ē    nán   bái    fó  yán           shì zūn       wǒ  jīn  yòu   zuò   rú  shì     sī   wéi        shì zhòng shēng shēn

A  Nan  bạch Phật ngôn:   Thế Tôn,    ngã  kiêm  hựu tác như thị tư duy.    Thị chúng sanh thân,

 

在中,竅穴居外。有藏則暗。有竅則明。今我對

fǔ zàng zài zhōng      qiào   xuè   jū  wài             yǒu zàng zé àn         yǒu qiào zé míng           jīn  wǒ  duì

phủ tạng tại trung,  khiếu huyệt cư ngoại.  Hữu tạng tắc ám.     Hữu khiếu tắc minh.    Kiêm ngã đối

 

佛,開眼見明,名為見外。閉眼見暗,名為見。是

fó            kāi yǎn jiàn míng          míng wéi jiàn wài        bì yǎn jiàn  àn             míng wéi jiàn nèi        shì

Phật,   khai nhãn kiến minh,  danh vi kiến ngoại.     Bế nhãn kiến ám,        danh vi kiến nội.       Thị

 

義云何

yì   yún   hé

nghĩa vân hà?

 

25.The Buddha said to Ananda, “When you close your eyes and see darkness, does the darkness you experience lie before your eyes? If it does lie before your eyes, then the darkness is in front of your eyes. How can that be said to be ‘within’?

”If it were within, then when you are in a dark room without the light of sun, moon, or lamps, the darkness in the room would constitute your .warmers. and viscera. If it is not before you, how can it be seen?

”If you assert that there is an inward seeing that is distinct from seeing outside. In that case, when you close your eyes and see darkness, you would be seeing inside the body. Therefore, when you open your eyes and see light, why can’t you see your own face?

”If you cannot see your face, then there can be no seeing within. If you can see your face, then your mind that knows and understands and your organ of vision as well must be suspended in space. How could they be part of your body?

”If they are in space, then they are not part of your body. Otherwise the Tathagata who now sees your face should be part of your body as well.

”In that case, when your eyes perceive something, your body would remain unaware of it. If you press the point and say that the body and eyes each have an awareness, then you should have two perceptions, and your one body should eventually become two Buddhas.

”Therefore you should know that you state the impossible when you say that to see darkness is to see within.”

  • Đức Phật dạy: A Nan! Trong khi ông nhắm mắt thấy tối, cái tối đó đối hay không đối với mắt? Như đối với mắt, thì cái tối ở trước mắt rồi, há phải ở trong thân?

-Nếu cái tối đó ở trong thân thì khi ông ở trong nhà tối, không có mặt trời, mặt trăng và đèn đuốc, các vật trong nhà tối đều là tạng phủ của ông chăng?

-Nếu cái tối không đối với mắt thì làm sao lại thấy tối?

-Nếu cái tối đó không phải ngoại đối tức là đối ra ngoài, mà là nội đối, tức là đối vào trong thì tại sao khi nhắm mắt thấy tối gọi là thấy trong, còn khi mở mắt thấy sáng, tại sao mắt đối vào trong mà không thấy được mặt? Nếu không thấy được mặt thì không phải là nội đối. Nếu thấy được mặt thì Tâm hiểu biết sáng suốt và mắt ở ngoài hư không, chớ chẳng phải ở trong thân. Nếu Tâm và mắt ở giữa hư không thì không phải là thể của ông. Bây giờ Như Lai ở ngoài thể của ông, vẫn thấy được mặt ông, đó cũng là thân ông chăng?

-Nếu mắt ở giữa hư không thì cái gì mắt biết, thân không biết được. Nếu ông chấp rằng thân và mắt , mỗi vật đều có tánh biết, thành thử tự ông có hai tánh biết, như vậy một thể của ông có hai vị Phật, đó là mê chấp.

 

佛告阿難:汝當閉眼見暗之時,此暗境界,為與眼

fó   gào   ē   nán            rǔ  dāng bì   yǎn jiàn  àn  zhī   shí            cǐ  àn  jìng  jiè            wéi  yǔ  yǎn

Phật cáo A  Nan:   nhữ đương bế nhãn kiến ám chi thời,     thử  ám cảnh giới,     vi  dữ  nhãn

 

,為不對眼若與眼對,暗在眼前,云何成内?

duì          wéi  bù  duì  yǎn          ruò  yǔ  yǎn  duì          àn  zài  yǎn  qián         yún hé chéng nèi        ruò

đối,       vi  bất đối nhãn ?     Nhược  dữ nhãn đối,   ám  tại nhãn  tiền,    vân  hà thành nội?   Nhược

 

者,居暗室中,無日月燈,此室暗中,皆汝焦腑。

chéng nèi zhě        jū  àn  shì  zhōng       wú  rì  yuè  dēng          cǐ  shì  àn   zhōng        jiē  rǔ  jiāo  fǔ

thành nội giả,   cư ám  thất trung,   vô nhựt nguyệt đăng,  thử  thất  ám trung,    giai nhữ  tiêu phủ?   

 

若不對者,云何成見。若離外見,對所成。合眼見

ruò  bú  duì  zhě           yún hé chéng jiàn         ruò   lí   wài  jiàn         nèi duì suǒ chéng         hé  yǎn  jiàn

Nhược bất đối giả,   vân hà thành  kiến.    Nhược ly ngoại kiến,  nội đối sở thành,    hiệp nhãn kiến

 

暗,名為身中。開眼見明,何不見面。若不見面,

àn          míng wéi shēn zhōng     kāi yǎn  jiàn  míng        hé bú jiàn miàn           ruò bú jiàn miàn          nèi

ám,     danh  vi  thân trung.   Khai  nhãn kiến minh,   hà  bất  kiến diện.   Nhược  bất kiến diện,   nội

 

對不成。見面若成,      此了知心,及與眼根,乃在虛空,

duì  bù chéng       jiàn miàn ruò chéng          cǐ  liǎo zhī  xīn           jí  yǔ  yǎn  gēn          nǎi zài  xū  kōng

đối  bất thành. Kiến  diện nhược thành,  thử  liễu  tri  tâm,  cập dữ  nhãn căn ,     nãi  tại  hư  không,

 

成在内?若在虛空,自非汝體。即應如來今見汝面,

hé chéng zài  nèi         ruò  zài  xū  kōng          zì   fēi   rǔ    tǐ            jí  yīng  rú   lái   jīn  jiàn  rǔ  miàn

hà thành tại  nội? Nhược tại hư không,   tự  phi  nhữ thể.   Tức  ưng  Như  Lai  kim kiến  nhữ diện,

 

亦是汝身。汝眼已知,身合非覺。必汝執言身眼兩覺,

yì    shì  rǔ  shēn           rǔ  yǎn  yǐ   zhī        shēn  hé  fēi   jué            bì  rǔ  zhí  yán shēn yǎn liǎng jué

diệc thị nhữ thân.  Nhữ nhãn dĩ tri,     thân hiệp phi giác.  Tất nhữ chấp ngoân thân nhãn lưỡng giác,

 

應有二知,即汝一身,應成兩佛    是故應知,汝言見

yīng yǒu èr zhī              jí    rǔ    yì  shēn        yīng chéng liǎng fó         shì  gù yīng zhī          rǔ  yán  jiàn

ưng hữu nhị tri,      tức nhữ nhứt thân,   ưng thành lưỡng Phật ?   Thị cố ưng tri,      nhữ ngôn kiến

 

暗名見者,無有是處。

àn míng  jiàn  nèi zhě            wú yǒu shì chù

ám danh kiến nội giả,         vô hữu thị xứ.

 

26.Ananda Proposes That the Mind Comes into Being in Response to Conditions.

Ananda said to the Buddha, “I have heard the Buddha instruct the four assemblies that because the mind arises every kind of dharma arises, and that because dharmas arise, every kind of mind arises.

”As I now consider it, the substance of that very consideration is truly the nature of the mind. Wherever it comes together with things, the mind exists in response. It does not exist in the three locations of inside, outside and in between.”

  • Ngài A Nan chấp Tâm ở chỗ Tùy Hiệp
  • Ngài A Nan bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Tôi thường nghe Đức Thế Tôn dạy tứ chúng rằng: Vì Tâm sanh nên pháp sanh, vì pháp sanh nên tâm sanh.
  • Bây giờ nương theo lời Phật dạy mà tôi suy nghĩ, sự suy nghĩ ấy thiệt là Tâm tôi, khi Tâm hiệp với chỗ nào thì Tâm liền ở chỗ đó, vì thế tôi cho Tâm tùy hiệp, chớ không nhứt định ở trong ở ngoài chi cả.

 

阿難言:  聞佛開示四眾。由心 故,種種法

ē    nán  yán :        wǒ cháng wén  fó   kāi  shì   sì  zhòng         yóu xīn shēng gù ,    zhǒng zhǒng fǎ

A  Nan ngôn:  Ngã thường văn Phật khai thị tứ chúng.    Do  tâm  sanh cố,  chủng chủng pháp

 

生。由法生故,種 心生。我今思惟,即思惟體,實

shēng       yóu fǎ shēng gù        zhǒngzhǒng xīn shēng        wǒ jīn  sī   wéi            jí    sī    wéi   tǐ          shí

sanh.    Do  pháp sanh cố,  chủng chủng tâm sanh.     Ngã kim tư duy,      tức  tư  duy thể,       thiệt

 

我心性。隨所合處,心則隨有。亦非外中間三處。

wǒ  xīn  xìng           suí suǒ hé chù             xīn  zé  suí  yǒu           yì  fēi  nèi  wài zhōng  jiān sān chù

ngã tâm tánh.      Tùy sở hiệp  xứ,       tâm tắc tùy hữu.        Diệc phi nội ngoại trung gian tam xứ.

 

27.The Buddha said to Ananda, “Now you say that because dharmas arise, every kind of mind arises. Wherever it comes together with things, the mind exists in response. But if it has no substance, the mind cannot come together with anything. If, having no substance, it can yet come together with things, that would constitute a nineteenth realm brought about by a union with the seventh defiling object, and there is no such principle.

”If it does have substance, when you pinch your body with your hand, does your mind which perceives it come out from the inside or in from the outside? If it comes out from the inside, then, once again, it should see within your body. If it comes in from outside, it should see your face first.”

  • Đức Phật dạy: A Nan! Ông vừa nói: vì pháp sanh nên Tâm sanh, Tâm hiệp với chỗ nào thì Tâm liền ở chỗ đó. Tâm suy nghĩ của ông không có thiệt thể thì chẳng bao giờ hiệp được với cái chi cả.

-Nếu Tâm không có thiệt thể mà cũng hiệp được chẳng khác nào lấy thêm một giới ngoài số 18 giới và lấy thêm một trần ngoài số 6 trần, đặt hai vật cho có tên: giới thứ 19 và trần thứ 7, chứ không có thiệt, nếu nói rằng hai vật ấy hiệp được thì phi lý.

-Nếu Tâm có thiệt thể thì ông thử nghiệm xét bằng cách lấy bàn tay đánh vào thân ông, Tâm biết chỗ đánh ấy ở trong ra hay là ở ngoài vào?

-Nếu Tâm ở trong ra thì đã thấy trong thân, nếu Tâm ở ngoài vào thì đã thấy mặt.

 

佛告阿難: 汝今說言,由法生故,種種心生,隨所

fó   gào  ē   nán          rǔ  jīn shuō  yán            yóu fǎ shēng gù      zhǒngzhǒng xīn shēng    suí suǒ

Phật cáo A  Nan:  Nhữ  kim thuyết ngôn,  do pháp sanh cố, chủng chủng tâm sanh,  tùy sở

 

合處。心隨有者,是心無體,則無所合。若無有體

hé  chù             xīn suí yǒu zhě            shì  xīn  wú   tǐ           zé   wú  suǒ  hé             ruò wú  yǒu   tǐ

hiệp xứ.       Tâm tùy hữu giả,          thị  tâm  vô  thể,       tắc vô  sở hiệp.         Nhược vô hữu thể

 

而能合者,則十九界因七塵合。是義不然若有體

ér  néng  hé  zhě           zé   shí   jiǔ   jiè  yīn   qī   chén  hé            shì   yì   bù   rán           ruò  yǒu  tǐ

nhi năng hiệp giả,   tắc thập  cửu giới  nhân thất trần hiệp.  Thị nghĩa bất nhiên?   Nhược hữu thể

 

者,如汝以手自挃其體。汝所知心,為復出,為從

zhě            rú  rǔ   yǐ  shǒu   zì    zhì   qí    tǐ             rǔ  suǒ  zhī  xīn           wéi  fù  nèi  chū         wèi cóng

giả,       như nhữ  dĩ   thủ   tự  chí  kỳ  thể. .       Nhữ sở  tri tâm,         vi  phục nội xuất,        vi tùng

 

外入若復出,還見身中。  若從外來,  先合見面。

wài  rù             ruò  fù   nèi  chū          huán jiàn shēn zhōng       ruò cóng wài lái            xiān hé jiàn miàn

ngoại nhập? Nhược phục nội xuất, hoàn kiến thân trung. Nhược tùng ngoại lai, tiên hiệp kiến diện.

 

  1. 28. Ananda said, “Seeing is done with the eyes. The mind’s perception is not that of the eyes. To say it sees doesn’t make sense.”
  • Bạch Đức Thế Tôn! Mắt chủ sự thấy, Tâm chủ sự biết, Tâm không phải như mắt mà bảo rằng Tâm thấy, tôi sợ phi nghĩa.

 

阿難言:見是其眼。心知非眼。為見非義。

ē    nán  yán             jiàn shì  qí  yǎn            xīn  zhī  fēi  yǎn          wéi  jiàn  fēi  yì

A  Nan ngôn:        Kiến thị  kỳ nhãn.      Tâm tri  phi  nhãn.     Vi kiến phi nghĩa.

 

29.The Buddha said, “To suppose that the eyes can see is like supposing that the doors of a room can see. Also, when someone has died but his eyes are still intact, his eyes should see things. How can it be death if one can still see?

”Furthermore, Ananda, if your mind which is aware, understands, and knows in fact has substance, then is it a single substance or many substances? Does its substance perceive the body as it now resides in it or does it not perceive it?

”Supposing that it were a single substance, then when you pinched one limb with your fingers, the four limbs would be aware of it. If they all were aware of it, the pinch could not be at any one place. If the pinch were confined to one place, then the single substance you propose would not be possible.

”Supposing that it were many substances: then you would be many people. Which substance would be you?

”Supposing it were a pervasive substance: the case would be the same as before in the instance of pinching. But supposing it were not pervasive; then when you touched your head and touched your foot simultaneously, the foot would not perceive it if the head does. But that is not how you are.

”Therefore you should know that you state the impossible when you say that wherever it comes together with things, the mind exists in response.”

  • A Nan! Sự thấy tuy về phần mắt nhưng tánh hay thấy thiệt ở Tâm. Ta ví dụ thân ông là Tâm, cái cửa là mắt. Như thân ông không có trong nhà trông ra ngoài thì cái cửa có tự thấy được chăng? Nếu nghĩ chỉ có mắt thấy chớ chẳng cần Tâm, thì nguời chết, mắt vẫn còn mà tại sao không thấy? Vì mắt thấy thì thế nào gọi là chết được?
  • A Nan! Lại như Tâm hiểu biết sáng suốt có tự thể thì chỉ có một thể hay là nhiều thể? Nếu nói Tâm ở trong thân ông thì khắp cả mình hay chẳng khắp cả mình?

-Nếu nói chỉ có một thể, thì trong khi ông lấy bàn tay đánh một chỗ thì tứ chi đều biết, nếu tứ chi đều biết thì ông không biết được chỗ đánh. Như ông biết được chỗ đánh thì không thành nghĩa “một thể” nữa. Nếu nói có nhiều thể, thành ra nhiều người, vì mỗi người có một Tâm, nhiều Tâm tất phải nhiều người, thì thể nào là thể của ông?

-Nếu nói Tâm ông khắp cả mình thì không đúng vì ông biết được chỗ đánh như vừa kể trên.

-Nếu nói Tâm ông chẳng khắp cả mình thì trong khi ông đụng đầu và đụng chân, như đầu biết đau thì đáng lẽ chân không biết đau, nhưng cả đầu và chân đồng biết đau một lượt, thế thì không thành nghĩa “chẳng khắp cả mình”.

  • Đó là chứng tỏ Tâm ông không phải một, cũng không phải nhiều, không phải khắp cả mình, cũng không phải chẳng khắp cả mình.

Vậy phải nhận định: ông nói Tâm hiệp ở chỗ nào, thì Tâm liền ở chỗ đó tức là Tâm ở chỗ tùy hiệp, chắc chắn vô lý.

 

佛言:若眼能見,  汝在室中,門能見不   則諸已死,

fó  yán            ruò yǎn néng jiàn            rǔ zài shì zhōng        mén néng jiàn fǒu          zé  zhū  yǐ  sǐ

Phật ngôn: nhược nhãn năng kiến,  nhữ  tại  thất trung,  môn năng kiến phủ?  Tắc chư dĩ  tử,

 

尚有眼存,應皆見物。若見物者,云何名死阿難,

shàng yǒu yǎn cún          yīng jiē jiàn wù            ruò jiàn wù zhě          yún hé míng sǐ           ē  nán

thương hữu nhãn tồn,  ưng giai  kiến vật.    Nhược kiến vật giả,  vân hà danh  tử?     A   Nan,

 

又汝覺了能知之心,若必有體,為復一體,為有多

yòu  rǔ   jué liǎo  néng  zhī  zhī  xīn             ruò  bì  yǒu  tǐ              wéi  fù  yì   tǐ            wéi  yǒu duō

hựu  nhữ  giác  liễu năng tri chi tâm,    nhược tất hữu thể,    vi  phục  nhứt thể,      vi   hữu   đa

 

今在汝身,為復體,為不若一體者,則

tǐ            jīn zài rǔ shēn                wéi  fù  biàn tǐ              wéi bú biàn tǐ              ruò  yì  tǐ  zhě           zé

thể ?    Kim tại  nhữ thân,       vi  phục  biến  thể,      vi  bất  biến  thể ?  Nhược nhứt thể giả,    tắc

 

汝以手挃一支時,四支應覺。若咸覺者,挃應無在。

rǔ    yǐ  shǒu   zhì   yì  zhī  shí             sì  zhī  yīng  jué            ruò xián jué zhě           zhì yīng wú zài

nhữ dĩ  thủ  chất  nhứt chi thời,      tứ  chi  ưng giác.     Nhược hàm giác giả,     chất ưng vô tại.

 

若挃有所,則汝一體,自不能成。若多體者,則成

ruò  zhì  yǒu  suǒ             zé  rǔ    yì   tǐ             zì   bù néng chéng         ruò duō  tǐ  zhě          zé chéng

Nhược chất hữu sở,  tắc  nhữ  nhứt thể,     tự  bất năng thành.   Nhược  đa thể giả,    tắc thành

 

多人,何體為汝。若體者,同前所挃。若不者,

duō  rén            hé   tǐ  wéi   rǔ             ruò  biàn tǐ zhě           tóng qián suǒ zhì           ruò bú  biàn zhě

đa nhân,        hà   thể  vi  nhữ.      Nhược biến thể giả,    đồng tiền sở chất.     Nhược bất biến giả,

 

當汝觸頭,亦觸其足,頭有所覺,足應無知。今汝

dāng rǔ  chù  tóu              yì  chù  qí  zú            tóu yǒu suǒ  jué            zú yīng wú zhī             jīn rǔ

đương nhữ xúc đầu,   diệc xúc kỳ túc,       đầu  hữu sở giác,       túc ưng  vô  tri.        Kim nhữ

 

不然。是故應知,隨所合處,心則隨有,無有是處。

bù   rán            shì gù yīng zhī             suí suǒ hé chù              xīn zé  suí  yǒu           wú  yǒu shì  chù

bất nhiên.     Thị  cố  ưng tri,         tùy  sở  hiệp  xứ,       tâm  tắc  tùy  hữu,        vô  hữu  thị  xứ.

 

30.Ananda Proposes That the Mind is in the Middle

Ananda said to the Buddha, “World Honored One, I also have heard the Buddha discuss true appearance with Manjushri and the other disciples of the Dharma king. The World Honored One also said, ‘The mind is not inside and it is not outside.’

”As I now consider it, if it were within, it would see things it does not see; if it were outside, there would be no common perception. Since it cannot see inside, it cannot be inside; and since the body and mind have common perception, it does not make sense to say it is outside. Therefore, since there is a common perception and since there is no seeing within, it must be in the middle.”

  • Ngài A Nan chấp Tâm ở khoảng Giữa
  • Ngài A Nan bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Trong khi Đức Thế Tôn với Bồ Tát Văn Thù và các vị Pháp Vương Tử luận bổn tướng chơn thiệt. Đức Thế Tôn có nói: Tâm không ở trong, cũng không ở ngoài. Tôi thiết nghĩ: Nếu Tâm ở trong thì tại sao Tâm chẳng thấy trong, nếu Tâm ở ngoài thì đáng lẽ Tâm với thân ở cách xa, mỗi vật biết riêng, chớ tại sao Tâm và thân đồng biết một lượt. Tâm không biết trong nên không thể nói Tâm ở trong. Tâm và thân đồng biết một lượt nên không thể nói Tâm ở ngoài. Nếu Tâm không ở trong, cũng không ở ngoài thì Tâm ở khoảng giữa.

 

阿難白佛言:世尊,我亦聞佛,與文殊等諸法王

ē    nán   bái  fó   yán            shì zūn          wǒ  yì  wén   fó            yǔ wén shū děng zhū fǎ wáng

A   Nan  bạch Phật ngôn:  Thế Tôn,   ngã diệc  văn Phật,   dữ Văn Thù đẳng chư Pháp vương

 

子,談實相時,世尊亦言,心不在,亦不在外。如

zǐ              tán shí xiàng shí           shì  zūn yì  yán             xīn  bú  zài  nèi         yì  bú  zài  wài              rú

tử,     đàm thiệt tướng thời,   Thế  Tôn diệc ngôn:     “Tâm bất tại nội,      diệc bất tại ngoại.”    Như

 

我思惟,無所見,外不相知。無知故,在不成。

wǒ  sī   wéi           nèi  wú suǒ  jiàn           wài bù xiāng zhī          nèi  wú  zhī  gù         zài  nèi  bù chéng

ngã tư duy,        nội  vô  sở  kiến,       ngoại bất tương tri.      Nội  vô  tri  cố,         tại  nội  bất  thành.

 

身心相知,在外非義。今相知故,復無見,當

shēn xīn xiāng zhī          zài  wài  fēi  yì             jīn xiāng zhī  gù        fù  nèi  wú  jiàn            dāng  zài

Thân tâm tương tri,   tại ngoại phi nghĩa.    Kim tương tri cố,    phục nội vô  kiến,      đương  tại

 

中間。

zhōng jiān

trung  gian.

 

31.The Buddha said, “You say it is in the middle. That middle must not be haphazard or without a fixed location. Where is this middle that you propose? Is it in an external place, or is it in the body?

”If it were in the body, it could not be on the surface of the body since that is not the middle. But to be in the middle is no different than being inside. If it were in an external place, would there be some evidence of it, or not? If there were no evidence of it, that would be the same as if it did not exist. If there were evidence of it, then it would have no fixed location.

”Why? Suppose that someone were to indicate the middle by a marker. When regarded from the east, it would be to the west, and when regarded from the south, it would be to the north. The marker is unclear, and the mind would be equally chaotic.”

  • Đức Phật dạy: A Nan! Ông nói khoảng giữa thì phải biết khoảng giữa có chỗ nhứt định phân minh, chớ không được mơ hồ. Khoảng giữa đó ở chỗ nào? Ở tại thân hay tại cảnh?
  • Nếu Tâm ở tại thân thì có nghĩa ở một bên thân hoặc ở giữa thân. Nếu ở một bên thân thì không phải là ở khoảng giữa, còn nếu ở giữa thân thì có khác chi ở trong thân, như đã nói ở lần trước.
  • Nếu Tâm ở tại cảnh thì có nên hay không nên? Nếu không nên thì bất thành nghĩa khoảng giữa, còn có nên thì không thể chỉ định chỗ nào là khoảng giữa. Vì cớ sao? Ví như có người cấm cây nêu làm trung tâm thì khi đứng hướng Đông xem, cây nêu ở hướng Tây, khi đứng hướng Nam xem, thì cây nêu ở hướng Bắc. Nếu nêu lộn xộn thì Tâm của ông cũng lộn xộn, làm sao chỉ định khoảng giữa.

 

佛言:汝言中間,中必不迷,非無所在。今汝推中,

fó  yán            rǔ yán zhōng jiān          zhōng bì bù mí         fēi wú  suǒ  zài          jīn  rǔ  tuī  zhōng

Phật ngôn:  Nhữ ngôn trung gian,  trung tất bất mê,      phi vô sở  tại.         Kim nhữ suy trung,

 

中何為在為復在處。為當在身若在身者,在邊

zhōng hé wéi zài           wéi  fù  zài  chù          wéi dāng zài shēn        ruò zài shēn zhě          zài  biān

trung hà vi tại?           Vi  phục tại xứ.         Vi đương tại thân?    Nhược tại thân giả,    tại  biên

 

非中,在中同。若在處者,為有所表,為無所表。

fēi zhōng       zài zhōng tóng nèi        ruò zài chù zhě            wéi yǒu suǒ biǎo         wéi wú suǒ biǎo

phi trung,    tại trung đồng nội.    Nhược tại xứ giả,          vi hữu sở biểu,          vi vô  sở  biểu.

 

無表同無。表則無定。何以故如人以表,表為中

wú biǎo tóng wú            biǎo zé wú dìng             hé  yǐ  gù            rú  rén  yǐ  biǎo          biǎo  wéi zhōng

Vô biểu đồng vô.       Biểu tắc vô định.            Hà dĩ cố?        Như nhân dĩ biểu,       biểu vi trung

 

時,東看則西,南觀成北。表體既混,心應雜亂。

shí            dōng  kàn  zé  xī          nán guān chéng běi       biǎo  tǐ  jì  hǔn            xīn  yīng  zá  luàn .

thời,       đông khán tắc tây,    nam quan thành bắc.   Biểu thể ký hổn,       tâm ưng tạp loạn.

 

32.Ananda said, “The middle I speak of is neither of those. As the World Honored One has said, the eyes and forms are the conditions which create the eye-consciousness. The eyes make discriminations; forms have no perception, but a consciousness is created between them. That is where my mind is.”

  • Ngài A Nan bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Tôi nói khoảng giữa, không phải ở tại thân hoặc tại cảnh. Như Phật có nói: căn mắt và sắc trần làm duyên sanh ra nhãn thức. Căn mắt có phân biệt, sắc trần không hiểu biết, căn và trần đối đãi nhau, thì Tâm sanh ở khoảng giữa căn với trần.

 

阿難 言:我所說中,非此二種。如世尊言,眼色

ē    nán   yán            wǒ suǒ shuō zhōng      fēi   cǐ   èr  zhǒng           rú shì zūn  yán           yǎn  sè

 A  Nan  ngôn:    ngã  sở thuyết trung,  phi thử nhị chủng.    Như Thế Tôn ngôn,      nhãn  sắc

 

為緣,生於眼識。眼有分別,色塵無知。識生其中,

wèi yuán ,    shēng yú yǎn zhì 。   yǎn yǒu fēn  bié ,        sè chén wú   zhī 。    shì shēng qí  zhōng

vi duyên,     sanh ư nhãn thức.    Nhãn hửu phân biệt,     sắc trần vô tri.          Thức sanh kỳ trung,

 

則為心在。

zé   wèi  xīn  zài 。

tắc  vi  tâm  tại.

 

33.The Buddha said, “If your mind were between the eye and an object, does the mind’s substance combine with the two or does it not?

”If it did combine with the two, then objects and the mind-substance would form a chaotic mixture. Since objects have no perception, while the substance has perception, the two would stand in opposition. Which is the middle?

”If it did not combine with the two, it would then be neither perceiver nor perceived and would have no substance or nature. Where would the characteristic of ‘middle’ be?

”Therefore you should know that for the mind to be in the middle is impossible.”

  • Đức Phật dạy: A Nan! Nếu Tâm của ông ở khoảng giữa căn với trần thì Tâm gồm cả căn trần hay không gồm hai món ấy?
  • Nếu gồm cả căn trần thì căn là thể, trần là vật, thể vật lẫn lộn, làm sao biết Tâm ông ở chỗ nào được. Thể là thứ hiểu biết, vật là thứ không hiểu biết, thứ hiểu biết và thứ không hiểu biết, hai thứ đối đải nhau, thành hai bên riêng biệt, thì làm sao chỉ định khoảng giữa.
  • Nếu không gồm căn trần thì Tâm không phải căn, cũng không phải trần, tức là không có tánh chi cả, thì lấy chi làm khoảng giữa được?

Thế nên phải nhận định: lời nói “Tâm ở khoảng giữa” của ông thật là vô lý

 

佛言:汝心若在根塵之中,此之心體,為復兼二,

fó   yán           rǔ  xīn  ruò   zài  gēn chén zhī zhōng         cǐ  zhī  xīn   tǐ             wéi  fù  jiān  èr

Phật ngôn:   Nhữ tâm nhược tại căn trần chi trung,   thử chi tâm thể,      vi phục kiêm nhị,

 

為不兼二若兼二者,物體雜亂。物非體知,成敵

wéi  bù  jiān   èr             ruò  jiān  èr zhě          wù   tǐ   zá  luàn            wù  fēi    tǐ  zhī        chéng  dí

vi  bất kiêm nhị?       Nhược kiêm nhị giả,    vật thể tạp loạn.         Vật phi  thể tri,      thành địch

 

兩立,云何為中。兼二不成,非知不知,即無體性,

liǎng  lì            yún hé wéi zhōng       jiān  èr  bù  chéng         fēi  zhī  bù  zhī             jí   wú   tǐ  xìng

lưỡng lập,     vân  hà  vị trung.     Kiêm nhị bất thành,      phi  tri  bất  tri,          tức vô thể tánh,

 

中何為相。是故應知,當在中間,無有是 處。

zhōng hé wèi xiāng         shì gù yìng zhī          dāng zài zhōng jiān       wú yǒu  shì  chù

trung  há  vi tướng.     Thị  cố  ưng  tri,      đương tại trung gian,   vô  hữu   thị xứ.

 

34.Ananda Proposes That the Mind Has No Specific Location

Ananda said to the Buddha, “World Honored One, when I have seen the Buddha turn the Dharma wheel in the past with great Maudgalyayana, Subhuti, Purna, and Shariputra, four of the great disciples, he often said that the nature of the mind which perceives, makes discriminations, and is aware is located neither within nor outside nor in the middle; it is not located anywhere at all. That very non-attachment to anything is what is called the mind. Therefore, is my non-attachment my mind?”

  • Ngài A Nan chấp Tâm Vô Trước
  • Ngài A Nan bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Khi trước tôi có thấy Phật và bốn vị đại đệ tử: Đại Mục Kiền Liên, Tu Bồ Đề, Phú Lâu Na, Xá Lợi Phất đồng chuyển bánh xe pháp, thường nói Tâm tánh hiểu biết phân biệt, không có ở trong, ở ngoài hoặc ở khoảng giữa, không ở chỗ nào hết. Như không mắc tất cả pháp gọi là Tâm, thế thì cái vô trước của tôi có phải Tâm chăng?

 

阿難 白佛言:世尊,我昔見佛,與大目連、須菩

ē   nán  bái   fó  yán           shì  zūn            wǒ  xí  jiàn  fó             yǔ  dà  mù  lián          xū   pú

A  Nan bạch Phật ngôn:    Thế Tôn,        ngã tích kiến Phật,    dữ Đại Mục Kiền Liên,  Tu  Bồ

 

提、富樓那、舍利弗,四大弟子,共轉法輪。常言覺

tí               fù  lóu  nà               shè  lì  fú        sì  dà  dì  zǐ           gòng zhuǎn fǎ lún          cháng yán jué

Đề,         Phú Lâu Na,      Xá  Lợi  Phất,     tứ đại đệ tử,   cộng chuyển pháp luân. Thường ngôn giác

 

知分別心性,既不在,亦不在外,不在中間,俱無

zhī  fēn  bié  xīn xìng              jì  bú  zài  nèi              yì  bú  zài  wài           bú  zài zhōng  jiān        jù  wú

tri  phân biệt tâm tánh,        ký bất tại nội,         diệc  bất tại ngoại,      bất tại trung gian,        cu  vô

 

所在,一切無著,名之為心。則我無著,名為心不

suǒ  zài           yí  qiè  wú  zhuó          míng zhī wéi xīn          zé  wǒ  wú zhuó          míng wéi  xīn fǒu

sở  tại,        nhứt thiết vô trước,     danh chi vi tâm.          Tắc ngã vô trước,     danh vi  tâm phủ?

 

35.The Buddha said to Ananda, “You say that the nature of the mind which perceives, makes discriminations, and is aware is not located anywhere at all. The entirety of things existing in the world consists of space, the waters, the land, the creatures that fly and walk, and all external objects. Does your non-attachment also exist?

”If it does not exist, it is the same as hairs on a tortoise or horns on a rabbit. How can you speak of non-attachment?

”If non-attachment existed, it could not be said to be non-existent. To be non-existent is to be without attributes. To be existent is to have attributes. Whatever has attributes has a location; how then can it be said to be unattached?

”Therefore you should know, to call the aware, knowing mind non-attachment to anything is impossible.”

  • Đức Phật dạy: A Nan! Ông nói Tâm tánh hiểu biết phân biệt không ở chỗ nào hết. Trong thế gian, các loài đi ở mặt đất, lội ở dưới nước, bay ở hư không, gọi là các pháp mà ông vô trước đó, có hay không có?
  • Nếu các pháp không có, như lông rùa sừng thỏ thì vốn là không rồi, còn có chi gọi được vô trước?
  • Nếu không có tướng thì các pháp không có, còn có tướng thì các pháp có.
  • Nếu ông không phải vô Tâm tất có Tâm tướng, có Tâm tướng tất có chỗ sở tại, có chỗ sở tại tất có trước, như vậy bất thành nghĩa : vô trước.
  • Thế nên phải nhận định: ông nói Tâm vô trước, chắc chắn phi lý.

 

佛告阿難:汝言覺知分別心性,俱無在者,世間虛空

fó  gào   ē   nán           rǔ  yán jué zhī  fēn  bié  xīn  xìng             jù wú zài zhě           shì  jiān  xū  kōng

Phật cáo  A  Nan:     Nhữ ngôn giác tri phân biệt tâm tánh,      cu vô tại  giả,      thế gian  hư không

 

水陸飛行,諸所物象,名為一切。汝不著者,為在為

shuǐ  lù  fēi  xíng         zhū  suǒ  wù  xiàng      míng  wéi  yí  qiè        rǔ   bù  zhuó  zhě          wéi  zài  wéi

thũy lục phi hành,     chư sở  vật tượng,    danh vi nhứt thiết.      Nhữ bất trước giả,        vi  tại  vi

 

無則同於龜毛兔角,云何不著有不著者,不可

wú           wú  zé  tóng yú  guī máo  tù  jiǎo            yún  hé bù  zhuó         yǒu bù zhuó  zhě          bù  kě

vô?       Vô tắc đồng ư  qui mao  thố giác,        vân hà bất trước?   Hữu  bất  trước giả,     bất khả

 

名無。無相則無,非無則相,相有則在,云何無著

míng wú          wú xiāng zé wú            fēi  wú  zé  xiāng       xiāng  yǒu  zé  zài ,     yún hé wú zhuó

danh vô.     Vô  tướng tắc vô,         phi  vô  tắc tướng,    tướng hữu tắc tại,      vân  hà  vô trước?

 

是故應知,一切無著,名覺知心,無有是處。

shì  gù  yīng  zhī            yí  qiè  wú  zhuó          míng  jué  zhī xīn         wú  yǒu  shì  chù

Thị cố  ưng  tri,         nhứt thiết vô trước,     danh giác  tri  tâm,      vô  hữu thị  xứ.

 

36.Then Ananda arose from his seat in the midst of the great assembly, uncovered his right shoulder, placed his right knee on the ground, respectfully put his palms together, and said to the Buddha:

”I am the Tathagata’s youngest cousin. I have received the Buddha’s compassionate love and have left the home-life, but I have been dependent on his affection, and as a consequence have pursued erudition and am not yet without outflows.

”I could not overcome the Kapila mantra. I was spun around by it and sank in the house of prostitution, all because I did not know the location of the realm of reality.

”I only hope that the World Honored One, out of great kindness and pity, will instruct us in the path of shamata to guide the icchantikas and overthrow the mlecchas.”

After he had finished speaking, he placed his five limbs on the ground along with the entire great assembly. Then they stood on tiptoe waiting attentively and thirstily to respectfully hear the instructions.

  • Khi ấy, ngài A Nan ở trong đại chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy, trật vai áo và quì gối bên hữu, chắp tay hiệp chưởng cung kính bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Tôi là đứa em rất thấp kém của Như Lai, nhờ Như Lai thương, mặc dầu xuất gia, nhưng còn ỷ lại vào lòng thương của Như Lai, nên có nghe nhiều giáo pháp mà chưa đắc quả vô lậu, đến nỗi không trừ được thuật ngoại đạo Ta Tỳ Ca La để bị lay chuyển vào dâm phòng. Sở dĩ phải chịu khổ như vậy là vì tôi chưa biết rõ Thường Trụ Chơn Như Tâm.
  • Nay tôi thỉnh cầu Đức Thế Tôn dũ lòng đại từ đại bi khai thị Tâm Chơn Như, chỉ dạy đường Sa Ma Tha cho chúng tôi trừ tuyệt các giống bất tín và ác kiến. Bạch Phật xong, Ngài A Nan gieo năm vóc xuống đất, đãnh lễ Phật, còn đại chúng thì im lặng, hết lòng ngưỡng mộ, chờ nghe diệu pháp.

 

爾時阿難,在大眾中,即從座起,偏袒右肩,右膝

ěr  shí   ē   nán           zài dà zhòng zhōng ,   jí cóng zuò  qǐ             piān tǎn yòu jiān          yòu  xī

 Nhĩ thời  A  Nan,      tại  đại chúng trung,   tức tùng tòa khởi,     thiên đản hữu kiên,      hữu  tất

 

著地,合掌恭 敬,而白佛言:我是如來最小之弟,蒙

zhuó  dì           hé zhǎng gōng jìng         ér   bái   fó  yán             wǒ  shì   rú  lái  zuì  xiǎo zhī  dì         méng

trước địa, hiệp chưởng cung kỉnh,  nhi bạch Phật ngôn:   ngã thị Như Lai tối thiểu chi đệ,      mông

 

佛慈愛,雖今出家,猶恃憍憐。所以多聞未得無漏。

fó   cí   ài              suī  jīn   chū  jiā         yóu shì  jiāo lián             suǒ yǐ duō wén wèi  dé  wú   lòu

Phật  từ  ái,        tuy  kiêm  xuất gia,       du thị kiều lân.           Sở  dĩ  đa  văn  vị  đắc  vô  lậu.

 

不能折伏娑毗羅咒。為彼所轉,溺於婬舍。當由不知

bù néng zhé  fú suō  pí   luó zhòu           wèi  bǐ suǒ zhuǎn          nì   yú   yín shè           dāng yóu bù  zhī

Bất năng chiết phục Tỳ Ca La chú.        Vi bỉ sở chuyển,          nịch  ư  dâm  xá.     Đương do bất tri

 

際所詣。惟願世尊,大慈哀愍,開示我等奢摩他

zhēn  jì  suǒ  yì             wéi yuàn shì zūn           dà   cí   āi   mǐn             kāi shì  wǒ  děng shē mó  tā

chơn tế  sở  chỉ.       Duy nguyện Thế Tôn,    đại  từ  ai  mẩn          khai thị ngã  đẳng Sa ma tha

 

路,令諸闡提。隳彌戾車。作是語已,五體投地,及

lù             lìng zhū chǎn tí              huī  mí  lì  chē            zuò shì  yǔ  yǐ              wǔ   tǐ   tóu   dì             jí

lộ,         linh chư  xiển đề.           Huy  di  lệ  xa.          Tác  thị  ngữ  dĩ,         ngũ  thể  đầu  địa,      cập

 

諸大眾,傾渴翹佇,欽聞示誨。

zhū  dà  zhòng       qīng kě qiáo zhù           qīn wén shì  huì

chư  đại chúng,  khuynh khát kiều trử,  khâm văn thị hối.

 

37.Then the World Honored One radiated forth from his face various kinds of light, dazzling light as brilliant as hundreds of thousands of suns.

The six kinds of quaking pervaded the Buddharealms, and thus lands as many as fine motes of dust throughout the ten directions appeared simultaneously.

The Buddha’s awesome spirit caused all the realms to unite into a single realm.

And in these realms all the great Bodhisattvas, each remaining in his own country, put their palms together and listened.

  • Lúc bấy giờ, Đức Phật từ mặt phóng nhiều đạo hào quang sáng tỏ như trăm ngàn thái dương, soi khắp thế giới, sáu chưởng rung động, mười phương quốc độ, nhiều như hột bụi vi trần, đồng thời hiện ra, oai đức thần thông cuả Phật khiến các thế giới hiệp thành một thế giới, tất cả Đại Bồ Tát trụ nơi bổn quốc, đều hiệp chưởng hầu Phật, chăm nghe diệu pháp.

 

爾時世尊,從其面門, 放種種光。  其光晃耀,如百

ěr  shí  shì  zūn          cóng qí miàn mén     fàng zhǒng zhǒng guāng    qí guāng huǎng yào         rú  bǎi

Nhĩ thời Thế Tôn,    tùng kỳ diện môn,  phóng chủng chủng quang. Kỳ quang hoảng diệu,  như  bá

 

千日。普佛世界,六種震動。如是十方微塵國土,一

qiān  rì               pǔ   fó  shì  jiè        liù zhǒng zhèn dòng          rú shì shí fāng wéi chén guó  dù             yì

thiên nhựt. Phổ Phật thế giới, lục chưởng chấn động. Như thị thập phương vi trần quốc độ,  nhứt

 

時開現佛之威神,令諸世界合成一界。其世界中,所

shí   kāi  xiàn  fó  zhī  wēi shén          lìng zhū  shì  jiè   hé chéng  yí  jiè             qí   shì  jiè zhōng        suǒ

thời khai kiến Phật chi oai thần,   linh chư thế giới hiệp thành nhứt giới.   Kỳ thế giới trung,     sở

 

有一切諸大菩薩,皆住本國,合掌承 聽。

yǒu   yí   qiè   zhū  dà   pú  sà             jiē  zhù běn guó           hé zhǎng chéng tīng

hữu nhứt thiết chư đại Bồ Tát,      giai trụ  bổn quốc,   hiệp chưởng thừa thính.

 

38.“The reason those who cultivate cannot accomplish unsurpassed Bodhi, but instead reach the level of a Sound-Hearer or of one enlightened to conditions, or become accomplished in outside ways as heaven-dwellers or as demon-kings or as members of the retinue of demons is that they do not know the two fundamental roots and are mistaken and confused in their cultivation. They are like one who cooks sand in the hope of creating savory delicacies. They may pass through as many aeons as there are motes of dust, but in the end they will not obtain what they want.

  • Đức Phật dạy Ngài A Nan: Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, vì mê chơn giác, khởi hoặc vô minh, điên đảo vọng tưởng tạo ra nghiệp chướng, hễ có nghiệp chướng tất bị khổ báo, ví như chùm trái Át Xoa.
  • Nếu không tu hành thì chẳng làm sao thoát ly được. Những người có tu hành nhưng không đắc đạo quả Vô Thượng Bồ Đề, lại thành Thanh Văn, Duyên Giác hoặc thành ngoại đạo, hoặc thành Chư Thiên, hoặc thành Ma Vương và quyến thuộc, đều tại không hiểu rõ hai căn bổn, tu tập sai lầm ví như nấu cát mà muốn cho thành cơm thì dầu trải vô số kiếp cũng không thành được.

佛告阿難:一切眾生,從無始來,種種顚倒,業種

fó  gào  ē   nán            yí qiè zhòng shēng        cóng wú shǐ lái      zhǒng zhǒng diān dǎo      yè  zhǒng

Phật cáo A  Nan:   Nhứt thiết chúng sanh, tùng vô thỉ lai,  chủng chủng điên đảo,  nghiệp chủng

 

自然,如惡叉聚。諸修行人,不能得成無上菩提,乃

zì   rán          rú   è   chā  jù              zhū xiū xíng rén         bù  néng dé chéng wú shàng pú  tí            nǎi

t nhiên,       như át xoa  tụ,           chư tu hành nhân,    bất năng đắc thành vô thượng Bồ đề,     nải

 

別成 聞緣覺,  及成外道,諸天魔王,及魔眷

zhì  bié chéng  shēng  wén yuán jué           jí chéng wài dào           zhū tiān mó wáng        jí   mó   juàn

chí biệt thành Thanh văn Duyên giác, cập thành ngoại đạo, chư Thiên ma vương, cập ma quyến

 

屬。皆由不知二種根本,錯亂修習。猶如煮沙,欲成

shǔ          jiē  yóu  bù  zhī  èr  zhǒng  gēn  běn         cuò luàn xiū xí            yóu   rú  zhǔ  shā       yù  chéng

thuộc.     Giai do bất tri  nhị chủng căn bổn,       thố loạn tu tập,          du nhữ chữ sa,       dục thành

 

饌,縱經塵劫,終不能得。

jiā  zhuàn        zòng jīng chén jié        zhōng bù  néng dé

gia soạn,      túng kinh trần kiếp,    chung bất năng đắc.    

 

39.”What are the two? Ananda, the first is the root of beginningless birth and death, which is the mind that seizes upon conditions and that you and all living beings now make use of, taking it to be the self-nature.

”The second is the primal pure substance of the beginningless Bodhi Nirvana. It is the primal bright essence of consciousness that can bring forth all conditions. Because of conditions, you consider it to be lost.

”Living beings lose sight of the original brightness: therefore, though they use it to the end of their days, they are unaware of it, and without intending to they enter the various destinies.

  • Hai căn bổn đó là chi?
  • A Nan, căn bổn thứ nhất là vô thỉ sanh tử, căn bổn thứ nhì là Vô Thỉ Bồ Đề Niết Bàn. Vô thỉ sanh tử là như hiện nay ông cũng như tất cả chúng sanh đều lấy Tâm vọng động nhận làm Tự Tánh nên chịu khổ sanh tử luân hồi.
  • Vô Thỉ Bồ Đề Niết Bàn là như hiện nay căn bổn thức của ông gốc có một thể nguyên minh thanh tịnh sáng suốt, nhưng vì ông không giữ được Tự Tánh, cứ tùy duyên tùy cảnh mà sanh ra vọng tưởng, rồi nhận lấy vọng tưởng làm Tự Tánh, quên mất thể nguyên minh. Tất cả chúng sanh vì quên mất thể nguyên minh, nên hằng ngày tuy sống ở thể nguyên minh mà không tự biết, do đó bị luân chuyển trong các cõi phàm phu. Thật là oan uổng!

 

云何二種     阿難,一者,無始生死根本。則汝今者,

 

yún  hé  èr  zhǒng          ē  nán             yì  zhě               wú shǐ shēng sǐ gēn běn          zé  rǔ  jīn zhě

Vân hà nhị chủng?    A  Nan,        nhứt giả,        vô  thỉ sanh  tử  căn  bổn.      Tắc nhữ kiêm  giả,

 

與諸眾生,用 心,為 自性 者。二者,無始菩提

yǔ zhū zhòng shēng     yòng  pān  yuán  xīn           wéi  zì   xìng  zhě          èr   zhě             wú  shǐ  pú  tí

dữ chư chúng sanh, dụng phan duyên tâm,        vi   tự tánh giả.         Nhị giả,           vô  thỉ  Bồ  đề 

 

涅槃元清淨體。      則汝今者識 元明,  能生諸緣,

niè  pán  yuán  qīng  jìng  tǐ                zé   rǔ   jīn    zhě  shì  jīng  yuán   míng         néng shēng zhū yuán

 Niết bàn nguyên thanh tịnh thể.  Tắc nhữ  kiêm giả thúc tinh nguyên minh, năng sanh chư duyên,

 

緣所遺者。由諸眾生,遺此本 明,雖終日行,而不自

yuán suǒ yí zhě           yóu zhū zhòng  shēng     yí  cǐ  běn  míng         suī zhōng   rì   xíng         ér   bù   zì

duyên sở di giả.     Do chư chúng sanh,     di thử bổn minh,   tuy chung nhựt hành,        nhi bất tự

覺,枉入諸趣。

jué         wǎng  rù  zhū  qù

giác,    uổng nhập chư thú.

 

40.”Ananda, since you now wish to know about the path of shamatha with the hope of getting out of birth and death, I will question you further.”

Then the Tathagata raised his golden arm and bent his five wheeled fingers as he asked Ananda, “Do you see?”

Ananda said, “I see.”

The Buddha said, “What do you see?”

Ananda said, “I see the Tathagata raise his arm and bend his fingers into a fist of light which dazzles my mind and my eyes.”

The Buddha said, “What do you see it with?”

Ananda said, “The members of the great assembly and I each see it with our eyes.”

The Buddha said to Ananda, “You have answered me by saying that the Tathagata bends his fingers into a fist of light which dazzles your mind and eyes. Your eyes are able to see, but what is the mind that is dazzled by my fist?”

Ananda said, “The Tathagata is asking where the mind is located. Now that I use my mind to search for it thoroughly, I propose that precisely what is able to investigate is my mind.”

The Buddha said, “Hey! Ananda, that is not your mind.”

  • A-Nan! Nay ông muốn biết đường Sa Ma Tha để giải thoát sanh tử, thì bây giờ ông hãy nghe đây. Đức Phật bèn đưa cánh tay lên, co 5 ngón lại hỏi, : A Nan! Ông thấy hay không?
  • Bạch Đức Thế Tôn! Tôi thấy rõ.
  • Thấy cái chi?
  • Bạch Đức Thế Tôn! Tôi thấy Như Lai đưa cánh tay lên, co 5 ngón thành quyền chiếu sáng Tâm và mắt tôi.
  • Ông dùng cái chi mà thấy?
  • Bạch Đức Thế Tôn! Tôi và đại chúng đều dùng mắt mà thấy.
  • A Nan! Ông đã đáp: Như Lai có 5 ngón tay lại làm quyền chiếu sáng Tâm và mắt ông. Ông dùng mắt mà thấy, còn ông dùng cái chi làm Tâm của ông để đối với quyền chiếu sáng của Ta.
  • Bạch Đức Thế Tôn! Như Lai hỏi Tâm của tôi ở đâu, vâng lời Phật, tôi cố suy nghĩ sưu tầm, vậy cái năng suy nghĩ sưu tầm là Tâm của tôi.
  • Đức Phật bèn quở: A Nan! Cái năng suy nghĩ sưu tầm không phải là Tâm của ông.

 

阿難,汝今欲知奢摩他路,願出生死。今復問汝。

ē  nán              rǔ   jīn  yù  zhī  shē  mó  tā  lù               yuàn chū shēng sǐ           jīn  fù  wèn  rǔ

  A  Nan,         nhữ kim  dục tri Sa Ma Tha lộ,         nguyện xuất sanh tử.      Kim phục vấn nhữ

 

時如來舉金色臂,屈五輪指,語阿難言:汝今見

jí  shí  rú  lái  jǔ  jīn  sè   bì                       qū wǔ lún zhǐ              yù  ē  nán  yán           rǔ   jīn  jiàn

Tức thời Như Lai  cử kim sắc tý,           khuất ngũ luân chỉ,     ngữ A  Nan ngôn:     Nhữ kim kiến

 

不。阿難言:見。佛言:汝何所見阿難言:我見如來

fǒu           ē  nán  yán          jiàn        fó  yán          rǔ  hé  suǒ  jiàn          ē   nán  yán         wǒ  jiàn  rú  lái

phủ?     A  Nan ngôn:     Kiến.  Phật ngôn:      Nhữ  hà sở kiến?     A  Nan ngôn:     Ngã kiến Như Lai

 

舉臂屈指,為光明拳,耀我心目。佛言:汝將誰見。

jǔ   bì    qū    zhǐ         wéi guāng míng quán     yào wǒ xīn mù              fó yán           rǔ jiāng shuí jiàn

cử   tý  khuất chỉ,   vi quang minh quyền   diệu ngã tâm mục.      Phật ngôn:  Nhữ tương thùy kiến?

 

阿難言:我與大眾,同將眼見   佛告阿難:汝今答

ē   nán    yán        wǒ   yǔ  dà   zhòng       tóng jiāng yǎn jiàn               fó  gào  ē   nán           rǔ  jīn  dá

A Nan ngôn:    ngã  dữ đại chúng,   đồng tương nhãn kiến?     Phật cáo A  Nan:      Nhữ  kim  đáp

 

我,如來屈指為光明拳,耀汝心目。汝目可見,以何

wǒ           rú  lái qū zhǐ wèi guāng míng quán          yào  rǔ   xīn  mù           rǔ    mù   kě   jiàn          yǐ   hé

ngã,  Như Lai khuất chỉ vi quang minh quyền, diện nhữ tâm mục.     Nhữ mục khả kiến,      Dĩ  hà

 

為心,當我拳耀。阿難言:如來現今徵心所在。而我

wéi xīn          dāng wǒ quán yào         ē    nán   yán           rú  lái xiàn   jīn zhēng xīn suǒ  zài           ér  wǒ

vi  tâm,     đương ngã quyền diệu.   A  Nan ngôn:   Như  Lai  hiện kim trưng tâm sở tại.    Nhi   ngã

 

以心推窮尋逐,即能推者,我將為心。佛言:咄。阿

yǐ     xīn tuī qióng xún zhú           jí  néng  tuī  zhě          wǒ jiāng wéi xīn           fó  yán        duō         ē

dĩ  tâm  suy cúng tầm trục,   tức năng suy giã,      ngã tương vi tâm.       Phật  ngôn.   Tốt.         A

 

難,此非汝心。

nán          cǐ   fēi   rǔ   xīn

Nan,       thử phi nhữ tâm.

 

41.Startled, Ananda leapt from his seat, stood and put his palms together, and said to the Buddha, “If it’s not my mind, what is it?”

The Buddha said to Ananda, “It is your perception of false appearances based on external objects which deludes your true nature and has caused you from beginningless time to your present life to recognize a thief as your son, to lose your eternal source, and to undergo the wheel’s turning.”

  • Ngài A Nan lấy làm kinh sợ, bước ra khỏi chỗ ngồi, đứng chắp tay hiệp chưởng bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Cái năng suy nghĩ sưu tầm không phải Tâm, chớ gọi là cái chi?
  • Đức Phật dạy: Cái ấy là vọng tưởng tiền trần, ám che Chơn Tánh. Vì từ vô thỉ đến nay, ông nhận lầm vọng tưởng ấy làm Tâm, như nhận kẻ giặc làm con, quên mất bổn giác Chơn thường, nên chịu luân hồi sanh tử thống khổ.

 

 阿難矍然,避座合掌起立白佛。此非我心,當名何

ē   nán   jué   rán             bì  zuò  hé  zhǎng  qǐ  lì   bái  fó               cǐ  fēi   wǒ  xīn          dāng míng hé

   A   Nan cù nhiên,  tỵ tọa hiệp chưởng khởi lập bạch Phật.  Thử phi ngã tâm,     đương danh hà

 

等。佛告阿難。此是前塵虛妄相想,惑汝性。由汝

děng          fó  gào  ē  nán           cǐ  shì  qián  chén xū wàng xiāng xiǎng     huò  rǔ  zhēn xìng        yóu  rǔ

đẳng?    Phật cáo A  Nan:    thử thị tiền trần hư vọng tướng tưởng, hoặc nhữ chơn tánh.   Do nhữ

 

無始至於今生,認 賊為子,失汝元常,    故受輪轉。

wú  shǐ  zhì  yú  jīn shēng             rèn  zéi  wéi  zǐ             shī   rǔ yuán cháng           gù shòu lún zhuǎn

vô thỉ  chí ư kiêm sanh,             nhận tắc vi tử,        thất nhữ nguyên thường, cố thọ luân chuyển.

 

  1. 42. Ananda said to the Buddha, “World Honored One, I am the Buddha’s favorite cousin. It is because my mind loved the Buddha that I was led to leave the home-life. It is my mind that not only makes offerings to the Tathagata, but also, in passing through lands as many as the grains of sand in the Ganges River to serve all Buddhas and good, wise advisors, and in martialing great courage to practice every difficult aspect of the dharma, I always use this mind. Even if I am slandering the dharma and eternally withdrawing my good roots, it would also be because of this mind. If this is not my mind, then I have no mind, and I am the same as a clod of earth or a piece of wood. Without this awareness and knowing, nothing would exist.

”Why does the Tathagata say this is not my mind? I am startled and frightened and not one member of the great assembly is without doubt. I only hope that the World Honored One will regard us with great compassion and instruct those who have not yet awakened.”

  • Ngài A Nan bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Tôi là em yêu mến của Phật, vì Tâm thương Phật mà xuất gia, Tâm tôi chẳng những cúng dường một mình Như Lai lại còn qua khắp Hằng sa quốc độ, tôi phụng sự chư Phật cho đến các vị Thiện Tri Thức, gia dĩ tôi gắng sức đại dõng mãnh làm các việc khó làm trong đạo pháp, tôi đều dùng cái Tâm ấy. Nếu như Phật phát minh cái Tâm ấy không phải thiệt là Tâm của tôi, thì thành ra tôi không Tâm như cây và đất, vì ngoài Tâm hiểu biết ấy, tôi không còn Tâm nào khác.
  • Tại sao Phật gọi cái suy nghĩ ấy không phải là Tâm? Khiến tôi rất kinh sợ và đại chúng cũng nghi hoặc. Ngưỡng cầu Như Lai mở lượng đại bi khai thị cho chúng tôi những điều chưa được tỏ ngộ.

 

阿難白佛言:世尊,我佛寵弟,心愛佛故,令我出

ē   nán   bái   fó    yán          shì zūn             wǒ fó chǒng dì              xīn  ài  fó  gù             ling  wǒ  chū

 A  Nan bạch Phật ngôn:  Thế Tôn,        ngã Phật sủng đệ,       tâm ái Phật cố,         lịnh ngã xuất

 

家。我心何獨供養如來。乃至沙國土,承事諸

jiā            wǒ  xīn  hé  dú  gòng  yàng  rú  lái           nǎi   zhì  biàn   lì    héng shā guó dù      chéng shì zhū

gia.       Ngã tâm  hà độc cúng dường Như Lai.  Nải chí biến lịch hằng sa quốc độ,      thừa sự  chư

 

佛,及善知識,發大勇猛,行諸一切難行法事,皆用

fó            jí  shàn  zhī  shì             fā dà yǒng měng        xíng zhū   yí   qiè  nán xíng  fǎ  shì           jiē yòng

Phật,  cập Thiện tri thức,    phát đại dõng mãnh,  hành chư nhứt thiết nan hành pháp sự, giai dụng

 

此心。縱令謗法,永退善根,亦因此心。若此發明不

cǐ   xīn           zòng lìng bàng fǎ         yǒng tuì shàn gēn           yì  yīn   cǐ   xīn            ruò cǐ    fā  míng  bú

thử tâm.  Túng lịnh bang Pháp,  vĩnh thối thiện căn,  diệc nhân thử tâm.  Nhược thử phát minh bất

 

是心者,我乃無心同諸土木,離此覺知,更無所有。

shì  xīn   zhě         wǒ  nǎi  wú  xīn  tóng  zhū  tǔ   mù             lí    cǐ   jué   zhī           gèng wú suǒ  yǒu

thị tâm giả,          ngã nãi vô tâm đồng chư thổ mộc,          ly thử giác tri,         cánh vô sở hữu.

 

云何如來說此非心。我實驚怖。兼此大眾,無不疑

yún   hé   rú   lái  shuō  cǐ  fēi  xīn            wǒ  shí  jīng  bù           jiān  cǐ   dà  zhòng        wú   bù   yí

Vân hà Như Lai thuyết thử phi tâm?   Ngã thiệt kinh bố,     kiêm thử đại chúng,     vô bất nghi

 

惑。惟垂大悲,開示未悟。

huò           wéi chuí dà bēi            kāi shì wèi wù

hoặc.       Duy thùy đại bi,        khai thị vị ngộ.

 

43.Then the World Honored One gave instruction to Ananda and the great assembly, wishing to cause their minds to enter the state of patience with the non-production of dharmas.

From the lion’s seat he rubbed Ananda’s crown and said to him, “The Tathagata has often said that all dharmas that arise are only manifestations of the mind. All causes and effects, the worlds as many as fine motes of dust, come into being because of the mind.

”Ananda, when all the things in the world, including blades of grass and strands of silk thread, are examined at their fundamental source, each is seen to have substance and a nature, even empty space has a name and an appearance.

”How much the less could the clear, wonderful, pure bright mind, the essence of all thoughts, itself be without a substance?

  • Liền khi ấy, Đức Phật muốn khai thị Tâm của Ngài A Nan và đại chúng cho được vào bậc Vô sanh pháp nhẫn, nên Đức Phật ở tòa sư tử, rờ đầu Ngài A Nan, bảo rằng: Như Lai thường nói tất cả pháp đều do Tâm phát sanh, như tất cả Nhân, Quả, thế giới, vi trần đều do Tâm mà thành có thể tánh.
  • A Nan! Xét nguồn gốc có thể tánh của các vật thì ở khắp thế giới từ vật lớn cho tới vật nhỏ như lá cỏ, mảnh giấy đều có thể tánh, thậm chí hư không cũng có tên có tướng, huống chi Tâm Chơn Như thiêng sáng thông suốt, thanh tịnh nhiệm mầu, vốn là nguồn gốc làm cho các vật có thể tánh thì chẳng có lý nào Tâm ấy không có thể tánh riêng.

 

爾時世尊。開示阿難。及諸大眾。欲令心入無生法

ěr  shí  shì  zūn            kāi  shì   ē   nán           jí   zhū   dà  zhòng         yù  lìng xīn  rù   wú  shēng  fǎ

Nhĩ thời Thế Tôn.        Khai thị   A  Nan.        Cập  chư đại chúng.  Dục lịnh tâm nhập vô sanh pháp

 

忍。於師子座,摩阿難頂,而告之言:如來常說諸

rěn           yú   shī   zi   zuò         mó   ē    nán dǐng          ér   gào  zhī  yán          rú   lái cháng shuō zhū

nhẫn.        Ư sư tử tòa,           ma A Nan đảnh,          nhi cáo chi ngôn:    Như Lai thường thuyết chư

 

法所生,唯心所現。一切因果,世界微塵,因心成

fǎ  suǒ  shēng         wéi xīn suǒ xiàn          yí     qiè yīn guǒ           shì  jiè  wéi chén         yīn  xīn  chéng

pháp sở sanh,     duy tâm sở hiện.      Nhứt thiết nhân quả,      thế giới vi trần,       nhân tâm thành

 

體。阿難,若諸世界,一切所有,其中乃至草葉縷

tǐ            ē  nán             ruò zhū shì jiè               yí  qiè suǒ yǒu           qí  zhōng nǎi  zhì cǎo   yè   lǚ

thể.         A  Nan,      nhược chư thế giới,       nhứt thiết sở hữu,    kỳ trung nải chí thảo diệp lủ

 

結,詰 其根元,咸有體性。縱令虛空,亦有名貌。何

jiē            jié     qí  gēn  yuán       xián  yǒu   tǐ  xìng        zòng lìng xū kōng        yì  yǒu míng mào          hé

kiết,       cật kỳ  căn nguyên,    hàm hữu thể tánh.    Túng lịnh hư không,   diệc hữu danh mạo.     Hà

 

況清淨妙淨明心,     性一切 心,而自無體

kuàng  qīng  jìng  miào  jìng  míng xīn       xìng yí  qiè  xīn               ér  zì   wú  tǐ

huống thanh tịnh diệu tịnh minh tâm,   tánh nhứt thiết tâm,      nhi tự vô thể?  

 

44.”If you insist that the nature which knows and observes and is aware of distinctions is the mind, then apart from all forms, smells, tastes, and touches . apart from the workings of all the defiling objects . that mind should have its own complete nature.

”And yet now, as you listen to my Dharma, it is because of sound that you are able to make distinctions.

”Even if you could extinguish all seeing, hearing, awareness, and knowing, and maintain an inner composure, the shadows of your discrimination of dharmas would remain.

  • A Nan! Nếu ông chấp tánh thấy hiểu biết, suy nghĩ, phân biệt là Tâm của ông thì Tâm ấy dĩ nhiên phải lìa sắc hương vị xúc cho tới tất cả tiền trần, vì riêng Tâm ấy có thể tánh hoàn toàn. Như nay ông nghe tiếng pháp của Ta, đó là do tiếng nói mà có phân biệt, chớ không phải là Tâm Chơn Như. Dẩu ông dứt hết các sự thấy, nghe, hiểu biết, chỉ giữ sự yên lặng cũng chỉ là bóng pháp trần phân biệt, cũng không phải là Tâm Chơn Như.

 

若汝執,分別覺觀,  所了知性,必為心者。此心

ruò  rǔ   zhí  lìn              fēn bié jué guān ,       suǒ liǎo  zhī  xìng          bì wèi xīn zhě             cǐ  xīn

Nhược nhữ chấp lẫn,  phân  biệt giác quan,    sở liễu tri tánh,          tất vi tâm giả.         Thử tâm

 

即應離諸一切色香味觸諸塵事業,別有全性。如汝今

jí   yìng   lí   zhū  yí  qiè  sè  xiāng  wèi  chù  zhū  chén  shì  yè           bié yǒu quán xìng         rú  rǔ  jīn

tức ưng ly chư nhứt thiết sắc hương vị xúc chư trần sự nghiệp,  biệt hữu toàn tánh. Như nhữ kim

 

者承聽我法,此則因聲而有分別。縱滅一切見聞覺

zhě chéng tīng wǒ  fǎ            cǐ  zé  yīn  shēng  ér  yǒu  fēn  bié          zòng miè   yí  qiè  jiàn wén  jué

giả thừa thính ngã pháp, thử tắc nhân thinh nhi hữu phân biệt. Túng diệt nhứt thiết kiến văn giáo

 

知,守幽,猶為法塵分別影事。

zhī         nèi shǒu yōu xián         yóu wéi  fǎ chén  fēn  bié yǐng shì

tri,          nội thủ u nhàn,         du vi pháp trần phân biệt ảnh sự.

 

45.”I do not insist that you grant that it is not the mind. But examine your mind in minute detail to see whether there is a discriminating nature apart from the objects of sense. That would truly be your mind.

”If this discriminating nature has no substance apart from objects, then it is shadows of discriminations of objects of mind.

”The objects are not permanent, and when they pass out of existence, such a mind would be like hair on a tortoise or horns on a rabbit. In that case your Dharma-body would be extinguished along with it. Then who cultivates and attains patience with the non-production of dharmas?”

  • A Nan! Như Lai chẳng bảo ông nhận cái phân biệt ấy không phải là Tâm, ông cần nghiên cứu tinh tường, cái ấy chơn hay vọng. Như lìa các tiền trần mà có thể tánh phân biệt, đó là Tâm Chơn Như của ông. Như lìa các tiền trần mà không có thể tánh, đó là bóng tiền trần phân biệt. Tiền trần không có thường trụ, khi sanh khi diệt, thay đổi luôn luôn thì cái Tâm nương theo tiền trần đó hóa ra lông rùa sừng thỏ là vật không có. Tiền trần diệt, tâm diệt, thì Pháp thân của ông cũng diệt theo, như vậy ông lấy chi tu chứng Vô sanh pháp nhẫn.?

 

我非敕汝,執為非心。但汝於心,微細揣摩。若離

wǒ  fēi  chì  rǔ              zhí wèi fēi xīn             dàn   rǔ   yú   xīn         wéi  xì  chuǎi  mó        ruò    lí 

Ngã phi sắc nhữ,       chấp vi phi tâm.            Đản nhữ ư tâm,       vi  thế suy ma.        Nhược ly

 

前塵有分別性,即 汝心。若分別性,離塵無體,斯

qián chén yǒu fēn  bié  xìng          jí  zhēn   rǔ   xīn          ruò fēn bié xìng             lí chén  wú    tǐ           sī

tiền  trần hữu phân biệt tánh, tức chơn nhữ tâm.  Nhược phân biệt tánh,    ly  trần  vô  thể,         tư

 

則前塵分別影事。塵非常住,若變滅時,此心則同龜

zé   qián chén  fēn bié  yǐng shì        chén fēi cháng zhù         ruò biàn miè shí           cǐ  xīn  zé  tóng  guī

tắc tiền trần phân biệt ảnh sự.     Trần phi thường trụ,  nhược biến diệt thời, thử tâm tắc đồng qui

 

毛兔角,則汝法身同於斷滅,其誰修證,無生法忍

máo  tù  jiǎo           zé  rǔ  fǎ  shēn  tóng  yú  duàn  miè          qí shuí xiū zhèng         wú shēng fǎ rěn

mao thố giác,   tắc nhữ pháp thân đồng ư đoạn diệt,      kỳ thùy tu chứng,       vô sanh pháp nhẫn?  

 

46.At that point Ananda and everyone in the great assembly was speechless and at a total loss.

The Buddha said to Ananda, “There are cultivators in the world who, although they realize the nine successive stages of samadhi, do not achieve the extinction of outflows or become Arhats, all because they are attached to birth-and-death false thinking and mistake it for what is truly real. That is why now, although you are greatly learned, you have not realized the accomplishment of sagehood.”

  • Lúc bấy giờ, Ngài A Nan và đại chúng đều lặng thinh, suy xét, hình như vừa mất một vật quí báu.

Đức Phật bảo Ngài A Nan: ở trong thế gian, các vị tu học hiện tiền tuy thành tựu chín bậc định nhưng không dứt hết các thứ “lậu”, chưa chứng quả Vô Lậu A La Hán, vì chấp trước vọng tưởng sanh tử làm tánh chơn thiệt, như ông cũng vậy, tuy nghe nhiều giáo lý nhưng không thành Thánh quả..

 

即時阿難,與諸大眾,默然自失。佛告阿難:世間

jí  shí   ē   nán              yǔ  zhū   dà zhòng        mò  rán  zì  shī            fó   gào  ē   nán           shì  jiān

Tức thời A  Nan,        dữ chư đại chúng,       mặc nhhiên tự thất.    Phật cáo A Nan:     Thế gian

 

一切諸修學人,現前雖成九次第定,不得漏盡成阿羅

yí   qiè   zhū  xiū  xué  rén         xiàn qián suī chéng jiǔ   cì   dì   dìng          bù    dé  lòu  jìn chéng  ē   luó

nhứt thiết chư tu học nhân,  hiện tiền tuy thành cửu thứ đệ định,       bất đắc lậu tận thành A La

 

漢,皆由執此生死妄想,實。是故汝今雖得多

hàn            jiē yóu zhí cǐ shēng sǐ wàng xiǎng          wù wéi zhēn shí            shì  gù  rǔ  jīn  suī  dé  duō

Hán,      giai do chấp thử sanh tử vọng tưởng,   ngộ vi chơn thiệt.     Thị cố nhữ kiêm tuy đắc đa

 

聞不成聖果。

wén bù chéng shèng guǒ

văn bất thành Thánh quả.

 

  1. 47. When Ananda heard that, he again wept sorrowfully, placed his five limbs on the ground, knelt on both knees, put his palms together, and said to the Buddha, “Since I followed the Buddha and left home, what I have done is to rely on the Buddha’s awesome spirit. I have often thought, ‘There is no reason for me to toil at cultivation’ expecting that the Tathagata would bestow samadhi upon me. I never realized that he could not stand in for me in body and mind. Thus, I lost my original mind and although my body has left the home-life, my mind has not entered the Way. I am like the poor son who renounced his father and roamed around.

”Therefore, today I realize that although I am greatly learned, if I do not cultivate, it is the same as if I had not learned anything; just as someone who only speaks of food will never get full.

  • Ngài A Nan nghe qua lời Phật dạy, xét mình lấy làm buồn tủi, rơi lụy, gieo năm vóc xuống đất lễ Phật rồi quỳ gối, hai tay hiệp chưởng bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Từ khi tôi phát tâm xuất gia theo Phật, hay trông cậy vào oai thần của Phật mà tự nghĩ không cần khổ hạnh tu hành, chắc chắn về sau Phật sẽ ban cho pháp chánh định để thành Phật. Tôi không ngờ thân tâm của Phật với thân tâm của tôi không thay thế được, ví như ăn cơm, ai ăn nấy no.
  • Nay nghe lời Phật dạy, tôi mới nhận thức: Bấy lâu nay tôi nhận vọng làm chơn, nên Tâm Chơn Như bị lạc mất. Vì thế tuy thân xuất gia mà Tâm không nhập đạo; tôi vốn ở chỗ giàu sang lại bỏ hết hạnh phước ví như đứa con khốn cùng nghe nhảm tin càn, bỏ cha trốn theo con đường mê vọng.
  • Bây giờ tôi hiểu rõ: dầu có nghe nhiều giáo lý mà không chịu khó tu hành giải thoát thì chẳng hơn gì kẻ không được nghe, ví như người nói ăn mà không ăn, thì không bao giờ no dạ được.

 

阿難聞已。重復悲淚,五體投地,長跪合掌,而白

ē   nán wén yǐ              chóng fù bēi lèi            wǔ   tǐ   tóu  dì           cháng guì hé zhǎng        ér   bái

A  Nan văn  dĩ.           Trùng phục bi lụy,    ngũ  thể đầu địa,   trường quỳ hiệp chưởng, nhi bạch

 

佛言:自我從佛發心出家,恃佛威神。常自思惟,無

fó   yán           zì   wǒ   cóng  fó   fā  xīn   chū   jiā            shì fó wēi shén          cháng zì   sī    wéi        wú

Phật ngôn:   tự ngã tùng Phật phát tâm xuất gia,       thị Phật oai thần.     Thường tự tư duy,      vô

 

勞我修,將謂如來惠我三昧。不知身心本不相代。失

láo wǒ xiū            jiāng wèi  rú  lái  huì  wǒ   sān   mèi          bù  zhī shēn  xīn  běn  bù xiāng  dài        shī

lao ngã tu,     tương vị Như Lai huệ ngã tam muội.        Bất tri thân tâm bổn bất tương đại.      Thất

 

本心。雖身出家,心不入道。譬如窮子,捨父逃

wǒ  běn  xīn            suī  shēn chū jiā          xīn   bù   rù  dào          pì   rú   qióng zǐ         shě  fù   táo

ngã bổn tâm.       Tuy  thân xuất gia,     tâm bất nhập đạo.      Thí như cùng tử,      xả phụ đào

 

逝。今日乃知雖有多聞,若不修行,與不聞等。如人

shì           jīn  rì  nǎi  zhī  suī  yǒu  duō  wén           ruò  bù  xiū  xíng         yǔ bù wén děng             rú rén

thệ,          kim nhựt nãi tri tuy hữu đa văn,      nhược bất tu hành,     dữ bất văn đẳng.        Như nhân

 

說食,終不能飽。

shuō shí        zhōng bù néng bǎo

thuyết thực, chung bất năng bảo.  

 

48.”World Honored One, now we all are bound by two obstructions and as a consequence do not perceive the still, eternal nature of the mind. I only hope the Tathagata will take pity on us poor and destitute ones and disclose the wonderful bright mind, and open my Way-eye.”

  • Bạch Đức Thế Tôn! Chúng tôi hiện tiền bị hai chướng phiền não và sở tri ràng buộc, nguyên nhân vì không biết rõ tâm tánh vắng lặng thường trụ. Vậy ngưỡng cầu Như Lai thương chỗ khốn cùng của chúng tôi mà khai thị Chơn Như Tâm sáng suốt nhiệm mầu và Đạo nhãn giải thoát của chúng tôi.

 

世尊,我等今者,二障所纏。良由不知寂常心性。

shì    zūn          wǒ děng jīn zhě          èr zhàng suǒ chán       liáng yóu bù   zhī   jì cháng xīn xìng

  Thế Tôn,  ngã đẳng kim giả,      nhị chướng sở triển.  Lương do bất tri tịch thường tâm tánh.

 

惟願如來,哀愍窮露,發妙明心,開我 道眼。

wéi yuàn rú lái               āi mǐn qióng lòu         fā miào míng xīn           kāi wǒ  dào yǎn

Duy nguyện Như Lai, ai mẫn cùng lộ,       phát diệu minh tâm,   khai ngã đạo nhãn.

 

The Nature of Visual Awareness

Sự nhận thức được Tánh Thấy

49.Then from the character wan [signifying “myriad virtues”] on his chest, the Tathagata poured forth precious light. Radiant with hundreds of thousands of colors, the brilliant light simultaneously pervaded everywhere throughout the ten directions to Buddharealms as many as fine motes of dust, anointing the crowns of every Tathagata in all the jeweled Buddhalands of the ten directions. Then it swept back to Ananda and all in the great assembly.

And said to Ananda, “I will now erect the great Dharma banner for you, to cause all living beings in the ten directions to obtain the wondrous subtle secret, the pure nature, the bright mind, and to attain the pure eye.

  • Khi ấy Đức Phật từ ngực, ngay chỗ có chữ Vạn, phóng hào quang vô cùng quí báu, rực rỡ trăm ngàn sắc, soi khắp mười phương thế giới, rồi hào quang đó chiếu vào đảnh của chư Như Lai trong thập phương Phật quốc, xây về rọi ngay Ngài A Nan và đại chúng. Đoạn Đức Phật dạy A Nan: Hôm nay Ta vì ông mà lập pháp tràng lớn lao, cũng làm cho tất cả chúng sanh đều được Tâm thường tịch thường chiếu, sáng suốt, vắng lặng, huyền diệu kín nhiệm và mắt thanh tịnh trang nghiêm.

 

即時如來,從胸卍字,涌出寶光。其光晃昱有百千

jí  shí   rú   lái            cóng xiōng wàn zì      yǒng chū bǎo guāng      qí guāng huǎng yù yǒu bǎi  qiān

 Tức thời Như Lai,   tùng hung Vạn tự,  dõng xuất bửu quang.   Kỳ quang hoảng giục hữu bá thiên

 

色。十方微塵,普佛世界,一時周灌十方所有

sè          shí  fāng  wéi  chén       pǔ  fó   shì   jiè           yì  shí  zhōu   biàn       biàn  guàn shí fāng suǒ yǒu

sắc.  Thập phương vi trần, phổ Phật thế giới, nhứt thời châu biến. Biến quan thập phương sở hữu

 

寶剎諸如來頂。旋至阿難,及諸大眾。告阿難言:吾

 

bǎo   chà  zhū  rú  lái  dǐng          xuán zhì  ē  nán            jí  zhū  dà  zhòng        gào   ē  nán  yán           wú

bửu sắc chư Như Lai đảnh.    Triền chí A  Nan,     cập chư đại chúng.      Cáo A  Nan ngôn:      Ngô

 

今為汝 建大法幢。亦令十方一切 眾生,  密,

jīn  wèi   rǔ  jiàn  dà  fǎ  chuáng        yì  lìng  shí  fāng yí qiè  zhòng  shēng              huò  miào  wēi  mì ,

kim vị nhữ kiến đại pháp tràng.Diệc lịnh thập phương nhứt thiết chúng sanh,  hoạch diệu vi mật,

 

淨明心,得清淨眼。

xìng  jìng míng xīn          dé qīng jìng yǎn

tánh tịnh minh tâm,   đắc thanh tịnh nhãn.

 

50.Seeing is The Mind

“Ananda, you have told me that you saw my fist of bright light. How did it take the form of a fist? How did the fist become bright? By what means could you see it?”

  • Tánh Thấy là Tâm
  • Đức Phật dạy: A Nan! Trước ông có đáp với Ta rằng: Ông thấy cái quyền quang minh. Vậy cái quyền ấy do đâu quang minh? Làm sao thành quyền? Ông dùng cái chi mà thấy?

 

阿難,汝先答我見光明拳。此拳光明,   因何所有。

ē   nán        rǔ  xiān  dá  wǒ  jiàn  guāng míng  quán      cǐ quán guāng míng ,      yīn hé  suǒ  yǒu

A  Nan,  nhữ tiên đáp ngã kiến quang minh quyền, thử quyền quang minh,  nhân hà sở hữu,

 

云何成拳汝將誰見

yún  hé  chéng quán       rǔ jiāng shuí jiàn

vân hà thành quyền? Nhữ tương tùy kiến?

 

51.Ananda replied, “The body of the Buddha is born of purity and cleanness, and, therefore, it assumes the color of Jambu River gold with deep red hues. Hence, it shone as brilliant and dazzling as a Precious mountain. It was actually my eyes that saw the Buddha bend his five-wheeled fingers to form a fist which was shown to all of us.”

  • Ngài A Nan bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Vì thân thể của Phật có sắc như vàng Diêm Phù Đàn, sáng chói như núi Bảo Sơn, đó là do đức độ thanh tịnh sanh ra, nên cái quyền của Phật quang minh, Năm ngón tay của Phật co lại làm thành cái quyền đưa ra cho người xem, Tôi dùng mắt thấy thiệt rõ ràng như vậy.

 

阿難言:由 佛全體閻浮檀金,赩如寶山,清淨所生,

ē   nán  yán          yóu  fó  quán   tǐ   yán   fú   tán   jīn          xì   rú  bǎo  shān       qīng jìng suǒ shēng

A  Nan ngôn      Do Phật toàn thể Diêm phù đàn kim,     hích như bữu sơn,   thanh tịnh sở sanh,

 

故有光明。我實眼觀,五輪指端,屈握示人,故有

gù yǒu guāng míng         wǒ shí yǎn guān          wǔ lún zhǐ duān           qū  wò  shì  rén           gù yǒu

cố hữu quang minh.   Ngã  thiệt nhãn quan,  ngũ luân chỉ đoan,    khuất ốc thị nhân,    cố hữu

 

拳相。

quán xiāng

quyền tướng.

 

52.The Buddha told Ananda, “Today the Tathagata will tell you truly that all those with wisdom are able to achieve enlightenment through the use of examples.

”Ananda, take, for example, my fist: if I didn’t have a hand, I couldn’t make a fist. If you didn’t have eyes, you couldn’t see. If you apply the example of my fist to the case of your eyes, is the idea the same?”

Ananda said, “Yes, World Honored One. Since I can’t see without my eyes, if one applies the example of the Buddha’s fist to the case of your eyes, the idea is the same.”

  • Đức Phật dạy: A Nan! Hôm nay Như Lai lấy lời chơn thiệt nói cho ông rõ. Nếu là bậc trí huệ thì chỉ nhờ lời thí dụ mà được khai ngộ.
  • A Nan! Ví dụ như cái quyền của Ta, nếu không có tay Ta dĩ nhiên chẳng thành cái quyền, và nếu không có mắt ông dĩ nhiên chẳng thành cái thấy. Vậy lấy cái thấy của ông so sánh với cái quyền của Phật, hai nghĩa có giống nhau chăng?
  • Bạch Đức Thế Tôn! Như không có mắt tôi thì chẳng thành cái thấy của tôi. Nếu lấy cái thấy của tôi so sánh với cái quyền của Phật thì hai nghĩa giống nhau.

 

告阿 難:如來今日實言告汝。諸有智者,要以譬

fó   gào  ē   nán           rú   lái   jīn   rì   shí   yán   gào   rǔ            zhū yǒu zhì zhě            yào  yǐ   pì  

Phật cáo  A   Nan:     Như Lai  kim nhựt thiệt ngôn cáo nhữ.   Chư hữu trí giả,         yếu  dĩ  thí

 

喻而得開悟。阿難,譬如我拳,若無我手,不成我拳。

yù   ér   dé   kāi   wù          ē    nán         pì    rú   wǒ quán        ruò wú  wǒ  shǒu    bù  chéng  wǒ  quán

dụ nhi đắc khai ngộ.          A  Nan,    thí như ngã quyền,    nhược vô ngã thủ, bất thành ngã quyền.

 

若無汝眼, 不成汝見。以汝眼根,例我拳理,其義均

ruò  wú   rǔ   yǎn ,        bù   chéng rǔ jiàn          yǐ  rǔ   yǎn   gēn           lì  wǒ  quán  lǐ           qí   yì    jūn

Nhược vô  nhữ nhãn,   bất thành nhữ kiến.   Dĩ nhữ nhãn căn,       lộ ngã quyền lý,    kỳ nghĩa quân

 

難言:唯然世尊。既無我眼,不成我見。以我

fǒu         ē   nán   yán          wéi  rán  shì  zūn             jì  wú  wǒ  yǎn           bù  chéng wǒ jiàn          yǐ  wǒ

phủ?       A   Nan ngôn:     Dũy nhiên Thế Tôn.     Ký vô ngã nhãn,      bất thành ngã kiến.     Dĩ ngã

 

眼根,例如來拳,事義相類。

yǎn gēn            lì     rú   lái  quán        shì  yì  xiāng  lèi

nhãn căn,      lệ Như Lai quyền,    sự nghĩa  tương loại.

 

53.The Buddha said to Ananda, “You say it is the same, but that is not right. Why? If a person has no hand, his fist is gone forever. But one who is without eyes is not entirely devoid of sight.

”For what reason? Try consulting a blind man on the street: ‘What do you see?’

”Any blind man will certainly answer, ‘Now I see only black in front of my eyes. Nothing else meets my gaze.’

”The meaning is apparent: if he sees blackness in front of him, how could his seeing be considered ‘lost’?”

  • Đức Phật bảo: A Nan! Ông nói hai nghĩa giống nhau thì không đúng. Vì cớ sao? Vì nếu người không có cánh tay thì không có quyền, chớ người không có mắt, chưa phải hoàn toàn không có cái thấy. Lý do làm sao? Ông thử ra đường, hỏi người mù: Ông có thấychi chăng? Chắc chắn người mù ấy trả lời: trước mắt tôi, chỉ thấy tối đen, chớ không thấy chi khác. Cứu xét theo lý ấy thì biết: tiền trần tự tối chớ cái thấy không giảm bớt.

 

佛告阿難:汝言相類,是義不然。何以故如無手

fó  gào   ē   nán            rǔ  yán  xiāng  lèi          shì  yì  bù  rán              hé  yǐ   gù            rú  wú  shǒu

 Phật cáo   A   Nan:   Nhữ ngôn tương loại,  thị nghĩa bất nhiên.       Hà  dĩ  cố?    Như  vô  thủ

 

人,拳畢竟滅。彼無眼者,非見 全無。所以者何

rén          quán bì   jìng   miè         bǐ  wú  yǎn  zhě          fēi jiàn  quán wú           suǒ   yǐ   zhě hé          rǔ

nhân,   quyền tất cảnh diệt.      Bỉ vô nhãn giả,        phi   kiến  toàn  vô.       Sở  dĩ  giả  hà?         Nhữ

 

試於途,詢問盲人,汝何所見。彼諸盲人,必來答汝,

shì   yú   tú         xún wèn  máng  rén       rǔ   hé   suǒ   jiàn        bǐ zhū máng rén          bì    lái   dá   rǔ

thí  ư  đồ,         tư vấn  manh nhân,      nhữ hà sở kiến.      Bĩ chư manh nhân,     tất lai đáp nhữ,

 

我今眼前,唯見黑暗,更無他 矚。以是義觀,前塵

wǒ   jīn yǎn  qián          wéi jiàn hēi  àn             gèng wú   tā  zhǔ           yǐ  shì   yì   guān        qián chén

ngã  kiêm nhãn tiền,  duy kiến hắc ám,        cánh vô tha chúc.       Dĩ thị nghĩa quan,     tiền  trần

 

自暗,見何虧損。

zì    àn           jiàn hé   kuī   sǔn

   tự  ám,         kiến hà  khuy tổn.

 

54.Ananda said, “The only thing blind people see in front of their eyes is blackness. How can that be seeing?”

The Buddha said to Ananda, “Is there any difference between the blackness seen by blind people, who do not have the use of their eyes, and the blackness seen by someone who has the use of his eyes when he is in a dark room?”

”So it is, World Honored One. Between the two kinds of blackness, that seen by the person in a dark room and that seen by the blind, there is no difference.”

  • Ngài A Nan bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Người mù chỉ thấy tối đen ở trước mắt, thế nào gọi được cái thấy?
  • A Nan! Người mù không có mắt, chỉ thấy tối, đối với kẻ có mắt ở trong nhà tối, hai cái tối ấy có khác nhau chăng?
  • Bạch Đức Thế Tôn! Kẻ có mắt ở trong nhà tối đối với người mù, hai cái tối ấy so sánh lại thiệt không có khác nhau chi cả.

 

阿難言:諸盲 眼前,唯睹黑暗,云何成見佛告阿

ē  nán   yán        zhū  máng  yǎn qián       wéi  dǔ   hēi  àn          yún  hé chéng jiàn        fó  gào  ē

 A Nan  ngôn:  Chư mang nhãn tiền,    duy  đổ  hắc  ám,     vân  hà  thành  kiến?   Phật  cáo  A

 

難:諸盲無眼,唯觀黑暗,與有眼人,處於暗室,二

nán        zhū máng wú yǎn       wéi  guān hēi   àn          yǔ  yǒu  yǎn  rén          chǔ  yú  àn  shì             èr

Nan:  Chư manh vô nhãn,  duy  quan  hắc  ám,    dữ  hữu  nhãn  nhân,      xử  ư  ám  thất,        nhị 

 

黑有別,為無有 如是世尊。此暗中人,與彼群

hēi  yǒu  bié         wéi  wú  yǒu   bié          rú   shì   shì  zūn           cǐ  àn  zhōng rén          yǔ  bǐ  qún

hắc  hữu biệt,      vi   vô  hữu  biệt ?      Như thị Thế Tôn.      Thử ám trung nhân,    dữ  bỉ  quần

 

盲,二黑校量,曾 無有異。

máng        èr   hēi jiào liàng        céng  wú  yǒu  yì

manh,    nhị hắc giảo lượng,    tằng vô hữu dị. 

 

55.”Ananda, if the person without the use of his eyes who sees only blackness were suddenly to regain his sight and see all kinds of forms, and you say it is his eyes which see, then when the person in a dark room who sees only blackness suddenly sees all kinds of forms because a lamp is lit, you should say it is the lamp which sees.

”If it is a case of the lamp seeing, it would be a lamp endowed with sight – which couldn’t be called a lamp. And if the lamp were to do the seeing, how would you be involved?

”Therefore you should know that while the lamp can reveal the forms, it is the eyes, not the lamp, that do the seeing. And while the eyes can reveal the forms, the seeing-nature comes from the mind, not the eyes.”

  • A Nan! Ví dụ như người mù chỉ thấy tối đen, bỗng được mắt sáng thì ở pháp trần thấy các sắc, như thế cho là mắt thấy. Như người có mắt ở trong nhà tối chỉ thấy tối đen, bỗng có đèn sáng, cũng ở pháp trần, thấy có sắc, vậy có thể nào cho là đèn thấy chăng?
  • Nếu cái đèn thấy các sắc thì đèn tức là cái thấy, như thế không còn gọi là cái đèn được. Nếu cái đèn thấy thì cái đèn tự thấy, chớ không liên hệ chi tới cái thấy của người.
  • A Nan! Ông phải biết: cái đèn chỉ làm sáng tỏ các sắc, còn thấy các sắc là con mắt, chớ không phải đèn. Tuy nhiên nói rằng mắt thấy chớ thật ra mắt cũng như đèn, chỉ hiển sắc mà thôi, còn cái năng thấy năng biết là Tâm.

 

阿難,若無眼人,全見前黑,忽得眼光,還 於前塵

ē     nán          ruò wú  yǎn   rén          quán jiàn qián hēi        hū   dé  yǎn   guāng     huán  yú qián chén

 A   Nan,    nhược vô nhãn nhân,   toàn kiến tiền hắc,     hốt đắc nhãn quang,   hoàn ư tiền trần

 

見種種色, 名眼見者。彼暗中人,全見前黑,忽獲燈

jiàn zhǒng zhǒng sè        míng yǎn jiàn zhě        bǐ  àn  zhōng rén        quán jiàn qián hēi         hū  huò dēng

kiến chủng chũng sắc, danh nhãn kiến giả.  Bỉ ám trung nhân,  toàn kiến tiền hắc,  hốt hoạch đăng

 

光,亦於前塵見種種色,應名 燈見 燈見 者,燈

guāng      yì  yú qián chén jiàn zhǒng zhǒng sè ,yìng míng  dēng jiàn       ruò  dēng jiàn  zhě ,     dēng

quang, diệc ư tiền trần kiếnchủng chủng sắc, ưng danh đăng kiến?   Nhược đăng kiến giả,   đăng

 

能有見,自不名燈。又則燈觀,何關汝事 故當

néng yǒu jiàn        zì  bù  míng  dēng        yòu zé dēng guān           hé  guan  rǔ  shì         shì   gù  dāng

năng hữu kiến,   tự bất danh đăng .   Hựu tắc đăng quan,       hà quan nhữ sự?     Thị cố đương

 

知,燈能顯色。如是見者,是眼非燈。眼能顯 色,如

zhī          dēng néng xiǎn sè          rú  shì  jiàn  zhě         shì  yǎn  fēi  dēng         yǎn néng xiǎn  sè           rú

tri,        đăng năng hiển sắc.    Như thị kiến giả,       thị nhãn phi đăng.    Nhãn năng hiển sắc,    như

 

是見性,是心非眼。

shì  jiàn  xìng        shì  xīn  fēi  yǎn

thị kiến tánh,     thị tâm phi nhãn.

 

56.Visual Awareness Does Not Move

Although Ananda and everyone in the great assembly had heard what was said, their minds had not yet understood, and so they remained silent. Hoping to hear more of the gentle sounds of the Tathagata’s teaching, they put their palms together, purified their minds, and stood waiting for the Tathagata’s compassionate instruction.

  • Tánh Thấy Không Động
  • Ngài A Nan và đại chúng tuy nghe lời Phật dạy như vậy, nhưng Tâm chưa tỏ ngộ nên ngồi ngậm miệng lặng thinh, hai tay hiệp chưởng, nhiếp tâm thanh tịnh và thành kính trông chờ lời nói từ bi của Phật dạy cho.

 

阿難,雖復得聞是言,與諸大眾,口已默然,心未

ē    nán           suī    fù    dé  wén  shì  yán         yǔ  zhū  dà  zhòng        kǒu  yǐ  mò  rán           xīn wèi

 A  Nan,       tuy phục đắc văn thị ngôn,      dữ chư đại chúng,     khẩu dĩ mặc nhiên,     tâm  vị

 

開悟。猶冀如來慈音宣示,合掌清心,佇佛悲誨。

kāi   wù           yóu  jì   rú   lái   cí    yīn   xuān  shì        hé  zhǎng  qīng  xīn       zhù  fó  bēi  huì 。

khai ngộ.     Du  ký  Như  Lai  từ  âm  tuyên  thị,   hiệp chưởng thanh tâm,  trừ  Phật  bi  hối.

 

57.Then the World Honored One extended his tula-cotton webbed bright hand, opened his five-wheeled fingers, and told Ananda and the great assembly, “When I first accomplished the Way I went to the Deer Park, and for the sake of Ajnatakaundinya and all five of the bhikshus, as well as for you of the four-fold assembly, I said, ‘It is because living beings are impeded by guest-dust and affliction that they do not realize Bodhi or become arhats.’ At that time, what caused you who have now realized the holy fruit to become enlightened?”

  • Khi ấy Đức Thế Tôn đưa cánh tay dịu dàng, sáng rỡ tốt đẹp, mở năm ngón tay, bảo Ngài A Nan và đại chúng: khi Ta thành đạo, đến vườn Lộc Uyển (Deer Park) và ở đó Ta có dạy đoàn thể năm vị Tỳ Khưu do ông A Nhã Đa (Ajnatakaundinya) làm Thượng thủ cùng tứ chúng rằng: tất cả chúng sanh không viên chứng Bồ Đề và A La Hán, căn do vì bị khách trần phiền não ám muội. Nay các ông ấy đắc Thánh quả rồi vậy khi trước các ông ấy vì nguyên nhân nào mà tỏ ngộ được?

 

爾時世尊。  舒兜羅綿網相光手,開五輪指,誨敕阿

ěr    shí   shì   zūn        shū dōu luó mián wǎng xiàng guāng shǒu     kāi  wǔ  lún  zhǐ          huì  chì   ē

Nhĩ thời Thế  Tôn.    Thơ  đâu la miên võng tướng quang thủ,  khai ngũ luân chỉ,      hối  sắc  A

 

難,及諸大眾。我初成道,於鹿園中,為阿若多五比

nán          jí   zhū  dà  zhòng       wǒ chū chéng dào        yú   lù  yuán zhōng       wèi   ē   ruò duō  wǔ  bǐ

Nan,   cập  chư  đại chúng.   Ngã  sơ thành đạo,     ư  Lộc  viên trung,       vị  A  Nhã  Đa  ngũ  Tỳ

 

丘等,及汝四眾言。一切眾生,不成菩提,及阿羅

qiū   děng       jí    rǔ   sì   zhòng yán         yí   qiè zhòng shēng     bù  chéng  pú  tí            jí    ē    luó

Khưu đẳng, cập nhữ tứ chúng ngôn:  Nhứt thiết chúng sanh, bất thành Bồ Đề,     cập  A   La

 

漢,皆由客塵煩惱所。汝等當時,因何開悟,今成

hàn         jiē  yóu  kè  chén  fán  nǎo  suǒ  wù           rǔ děng dāng shí          yīn  hé  kāi  wù           jīn chéng

Hán,    giai do khách trần phiền não sở ngộ.    Nhữ đẳng đương thời, nhân hà khai ngộ,  kim thành

 

聖果。

shèng guǒ

Thánh quả?

 

58.Then Ajnatakaundinya arose and said to the Buddha, “Of the elders now present in the great assembly, only I received the name ‘understanding’ because I was enlightened to the meaning of the word ‘guest-dust’ and realized the fruition.

”World Honored One, it is like a traveler who stops as a guest at a roadside inn, perhaps for the night or perhaps for a meal. When he has finished lodging there or when the meal is finished, he packs his his baggage and sets out again. He does not remain there at leisure. The host himself, however, does not go far away.

”Considering it this way, the one who does not remain is called the guest, and the one who does remain is called the host. The word ‘guest,’ then, means ‘one who does not remain.’

”Again, when the sky clears up, the morning sun rises with all resplendence, and its golden rays stream into a house through a crevice to reveal particles of dust in the air. The dust dances in the rays of light, but the empty space is motionless.

”Considering it this way, what is clear and still is called space, and what moves is called dust. The word ‘dust,’ then, means ‘that which moves.’”

The Buddha said, “So it is.”

  • Lúc bấy giờ có Ngài Kiều Trần Na đứng dậy hiệp chưởng bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Tôi là một vị Trưởng Lão ở trong đại chúng, pháp danh là Giải, nguyên nhân tỏ ngộ hai tiếng khách trần mà được chứng quả.
  • Bạch Đức Thế Tôn! Khách là hành khách, ví như khách đi lỡ đường tạm trọ trong quán, khi ăn khi ngủ, ăn ngủ xong lại phải thu xếp hành lý lên đường, không có rảnh rang chi mà trụ nơi quán. Nếu là chủ quán thiệt thì trụ mãi tại quán, không đi đâu nữa. Vì cớ ấy tôi thiết nghĩ: không trụ là khách, thường trụ là chủ. Tôi xin lấy sự không trụ làm định nghĩa cho tiếng khách.
  • Trần là bụi, ví như giữa khi bầu trời thanh bạch, vầng thái dương chiếu sáng, rọi vào các chỗ trống làm thấy rõ hình thể của bụi ở giữa hư không. Tuy nhiên bụi thì lay động, chớ hư không thì luôn luôn vắng lặng. Vì cớ ấy tôi thiết nghĩ: Lay động là Trần, vắng lặng là hư không. Tôi xin lấy sự lay động làm định nghĩa cho tiền trần.
  • Đức Phật khen: Như vậy là đúng.

 

時憍陳那,起立白佛。我今長老,於大眾中,獨得

shí   jiāo  chén  nà          qǐ   lì   bái   fó            wǒ  jīn  zhǎng  lǎo       yú   dà  zhòng zhōng     dú   dé

Thời Kiều Trần Na,   khởi lập bạch Phật.  Ngã kim Trưởng lão,     ư đại chúng trung,     độc  đắc

 

解名。因悟客塵二字成果。世尊,譬如行客,投寄旅

jiě  míng         yīn  wù  kè  chén  èr   zì chéng  guǒ         shì  zūn           pì   rú  xíng  kè           tóu    jì    lǚ

giải danh.    Nhân ngộ khách trần nhị tự thành quả.  Thế Tôn,    thí như hành khách,    đầu  ký  lử

 

亭,或宿或食,宿食事畢,俶裝前途,不遑安住。若

tíng          huò sù  huò  shí            sù  shí  shì  bì           chù  zhuāng qián tú        bù huáng ān zhù          ruò

đình,    hoặc túc hoặc thực,      thực túc sự tất,       xúc trang tiền đồ,       bất  hoàn an  trụ.    Nhược

 

實主人,自無攸往。如是思惟,不住名客,住名主

shí  zhǔ  rén             zì  wú  yōu  wǎng        rú  shì  sī  wéi           bú  zhù  míng  kè         zhù  míng  zhǔ

thiệt chủ nhân,       tự  vô  du  vãng.     Như  thị  tư duy,      bất trụ  danh khách,    trụ   danh chủ

 

人,以不住者,名為客義。又如新霽。清暘升天,

rén            yǐ   bú  zhù zhě           míng wèi  kè  yì            yòu  rú  xīn  jì           qīng yáng shēng tiān ,

nhân,      dĩ  bất  trụ  giả,      danh vi khách nghĩa.     Hựu như tân tể.   Thanh dương thăng thiên.

 

光入 隙中,  空中 相。 塵質搖動,虛

guāng rù  xì   zhōng          fā  míng  kōng zhōng  zhū  yǒu  chén  xiàng        chén zhí yáo dòng         xū

quang nhập kích trung, phát minh không trung chư hữu trần tướng.Trần chất diêu động,     hư

 

空寂然。如是思惟,澄寂名空。  搖動名塵。以搖動

kōng  jì   rán             rú shì   sī   wéi         chéng jì míng kōng          yáo dòng míng chén       yǐ yáo dòng

không tịch nhiên.   Như  thị tư duy,   trừng tịch danh không.   Diêu động danh trần. Dĩ diêu động

 

者,名為塵 義。佛言: 如是。

zhě         míng wèi chén  yì             fó  yán      rú   shì

giả,        danh vi  trần nghĩa.    Phật  ngôn :như thị.   

 

59.Then in the midst of the great assembly the Thus Come One bent his five-wheeled fingers. After bending them, he opened them again. After he opened them, he bent them again, and he asked Ananda, “What do you see now?”

Ananda said, “I see the Thus Come One’s hundred-jeweled wheeled palms opening and closing in the midst of the assembly.”

The Buddha said to Ananda, “You see my hand open and close in the assembly. Is it my hand that opens and closes, or is it your seeing that opens and closes?”

Ananda said, “The World Honored One’s jeweled hand opened and closed in the assembly. I saw the Thus Come One’s hand itself open and close; it was not my seeing-nature that opened and closed.”

The Buddha said, “What moves and what is still?”

Ananda said, “The Buddha’s hand does not remain at rest. And since my seeing-nature is beyond even stillness, how could it not be at rest?”

The Buddha said, “So it is.”

  • Tức thời, Đức Như Lai ở trong đại chúng, nắm năm ngón tay lại rồi mở, mở xong lại nắm, đoạn hỏi Ngài A Nan : Hiện giờ ông thấy chi?
  • Bạch Đức Thế Tôn! Hiện giờ tôi thấy bàn tay Như Lai quí báu, khi mở khi nắm giữa đại chúng.
  • A Nan! Ông thấy bàn tay Ta khi mở khi nắm, đó là tại bàn tay của Ta có mở có nắm hoặc tại tánh thấy của ông có mở có nắm?
  • Bạch Đức Thế Tôn! Tôi thấy rõ giữa đại chúng, bàn tay Như Lai tự mở tự nắm, chớ không phải tánh thấy của tôi có mở có nắm.
  • A Nan! Như vậy cái chi động? Cái chi tịnh?
  • Bạch Đức Thế Tôn! Bàn tay Như Lai không trụ, tức là động. Tánh thấy của tôi bất động, vì tướng tịnh còn không có thay, huống chi là động.
  • Đức Phật khen: Như vậy là đúng.

 

即時如來,於大眾中,屈五輪指,屈已復開,開已

jí     shí   rú   lái        yú  dà zhòng zhōng        qū  wǔ   lún   zhǐ          qū    yǐ   fù   kāi           kāi  yǐ

Tức thời Như Lai,     ư  đại chúng trung,    khuất ngũ  luân chỉ,   khuất dĩ phục khai,   khai  dĩ 

 

又屈。謂阿難言:汝今何見阿難言:我見如來百寶

yòu   qū          wèi   ē    nán yán           rǔ  jīn  hé  jiàn           ē   nán  yán           wǒ jiàn  rú  lái  bǎi  bǎo

hựu khuất.    Vị   A  Nan  ngôn:     Nhữ  kim hà kiến?      A  Nan  ngôn:   Ngã kiến Như Lai bá bửu

 

輪掌, 眾中開合。佛告阿難:汝見我手,眾中開合。

lún zhǎng         zhòng zhōng kāi hé          fó gào ē nán              rǔ jiàn wǒ shǒu       zhòng zhōng kāi hé

luân chưởng, chúng trung khai hiệp.  Phật cáo A Nan:  Nhữ kiến ngã thủ, chúng trung khai hiệp.

 

為是我手,有開有合。為復汝見,有開有合。阿難

wéi shì wǒ shǒu            yǒu  kāi  yǒu  hé          wéi  fù  rǔ  jiàn             yǒu kāi yǒu hé             ē   nán

Vi  thị  ngã  thủ,       hữu khai hữu hiệp.     Vi  phục hữu kiến,     hữu khai hữu hiệp.       A  Nan

 

言:世尊寶手,眾中開合。我見如來手自開合。非我

yán          shì zūn bǎo shǒu        zhòng zhōng kāi hé          wǒ jiàn  rú  lái  shǒu  zì  kāi  hé              fēi wǒ

ngôn:     Thế  Tôn  bửu thủ,  chúng trung khai hiệp.  Ngã kiến Như Lai thủ tự khai hiệp.      Phi ngã

 

見性有開有合。佛言:誰動誰靜  阿難言:佛手不

jiàn xìng yǒu kāi  yǒu  hé              fó yán         shuí dòng shuí jìng            ē  nán  yán            fó shǒu bú

kiến tánh hữu khai hữu hiệp.   Phật ngôn:   Thùy động thùy tịnh?   A  Nan ngôn:     Phật thủ bất

 

住。而我見性,尚無有靜,誰為無住佛言:   如是。

zhù           ér wǒ jiàn xìng          shàng wú yǒu jìng         shuí wéi wú zhù          fó yán           rú  shì

trụ.        Nhi ngã kiến tánh,    thượng vô hữu tịnh,      thùy  vi  vô  trụ?     Phật ngôn:   Như thị.

 

60.Then from his wheeled palm the Thus Come One sent a precious ray of light flying to Ananda’s right. Ananda immediately turned his head and glanced to the right. He then sent another ray of light to Ananda’s left. Ananda again turned his head and glanced to the left. The Buddha said to Ananda, “Why did your head move just now?”

Ananda said, “I saw the Thus Come One emit a wonderful precious light which came by my left and right, and so I looked to the left and right. My head moved of itself.”

”Ananda, when you glanced at the Buddha’s light and moved your head to the left and right, was it your head that moved or your seeing that moved?”

”World Honored One, my head moved of itself. Since my seeing-nature is beyond even cessation, how could it move?”

The Buddha said, “So it is.”

Then the Thus Come One told everyone in the great assembly, “Suppose other living beings called what moves ‘the dust’ and what does not dwell ‘the guest’?

”You noticed that it was Ananda’s head that moved; the seeing did not move. You also noticed that it was my hand which opened and closed; the seeing did not stretch or bend.

”Why do you continue to take something moving like your body and its environment to be in substantial existence, so that from the beginning to the end, your every thought is subject to production and extinction?

”You have lost your true nature and conduct yourselves in upside-down ways. Having lost your true nature and mind, you recognize objects as yourself, and it is you who cling to the flowing and turning of the revolving wheel.”

  • Đức Như Lai từ bàn tay phóng một đạo hào quang qua bên hữu Ngài A Nan thì Ngài A Nan day đầu ngó qua bên hữu. Đức Như Lai lại phóng một đạo hào quang qua bên tả Ngài A Nan thì Ngài A Nan day đầu ngó qua bên tả. Đức Như Lai hỏi: A Nan! Hôm nay tại sao đầu của ông lay động?
  • Bạch Đức Thế Tôn! Tôi thấy Đức Như Lai phóng hào quang mầu nhiệm quí báu qua hai bên thân tôi , nên tôi ngó qua ngó lại, do đó đầu tôi phải lay động.
  • A Nan! Ông thấy hào quang Như Lai, nên day đầu ngó qua ngó lại, đó là đầu của ông lay động hay là tánh thấy của ông lay động?
  • Bạch Đức Thế Tôn! Đó là cái đầu của tôi tự động, chớ tánh thấy của tôi bất động, vì tướng chỉ trụ còn không có thấy, huống chi là động.
  • Đức Phật khen: Như vậy là đúng.
  • Đức Phật liền bảo đại chúng rằng: Như chúng sanh nhận định cái lay động là trần, cái không trụ là khách, thì xem xét đầu của ông A Nan tự động, còn tánh thấy vốn bất động, đồng thời xem xét bàn tay Như Lai tự mở tự nắm, còn tánh thấy vốn không mở nắm, như thế cũng đủ tỏ ngộ rồi. Chỉ vì nhận lầm cái động làm thân, đó là giả thân, chớ không biết cái bất động là Chơn thân, lại còn nhận lầm chỗ động làm cảnh, đó là giả cảnh, chớ không biết chỗ thường tịch mới là Chơn cảnh. Vì thế, quên mất Chơn Tánh bất động, xưa nay cứ vương vấn những thứ “động” mà vọng tưởng điên đảo, bỏ chơn theo vọng, các niệm mê muội, thay đổi sanh diệt, nhận vật làm mình, tạo sự trái nghịch, thành thử tự trói buộc trong vòng luân hồi sanh tử.

 

如來於是從輪掌中,  飛一寶光,在阿難右。即時阿

rú    lái  yú   shì cóng lún zhǎng zhōng       fēi  yì   bǎo  guāng       zài    ē  nán  yòu             jí    shí   ē

Như Lai ư thị tùng luân chưởng trung,  phi nhứt bửu quang,    tại  A  Nan  hữu.        Tức thời A

 

難,迴首右盼。又放一光,在阿難左,阿難又則迴首

nán         huí shǒu yòu pàn          yòu fàng yì guāng         zài  ē  nán  zuǒ             ē   nán  yòu  zé  huí  shǒu

Nan,      hồi thủ hữu miến.    Hựu phóng nhứt quang,  tại  A  Nan  tả,             A  Nan hựu  tắc hồi thủ

 

左盼。佛告阿難:汝頭今日何因搖動。阿難言:我見

zuǒ pàn           fó  gào  ē  nán              rǔ  tóu  jīn  rì  hé  yīn  yáo  dòng               ē  nán  yán          wǒ  jiàn

tả miến.       Phật  cáo  A  Nan:   Nhữ đầu kiêm nhựt hà nhân diêu động.   A  Nan ngôn:     Ngã  kiến

 

如來出妙寶光,來我左右,故左右觀,頭自搖動。阿

rú   lái   chū miào bǎo guāng       lái wǒ zuǒ yòu          gù  zuǒ  yòu  guān        tóu  zì  yáo  dòng          ē

Như Lai xuất diệu bửu quang,  lai ngã tả hữu,          cố  tả hữu quang,      đầu tự diêu động.       A

 

難,汝盼佛光,左右動頭,為汝頭動,為復見動

nán          rǔ  pàn  fó  guāng        zuǒ  yòu  dòng tóu       wéi  rǔ  tóu  dòng       wéi  fù  jiàn  dòng       shì

Nan,   nhữ miến Phật quang,   tả hữu động đầu,      vi nhữ đầu động,     vi  phục kiến động?    Thế

 

尊,我頭自動,而我見性尚無有止,誰為搖動佛言

zūn          wǒ  tóu  zì  dòng          ér  wǒ  jiàn  xìng  shàng  wú  yǒu  zhǐ , shuí wéi yáo dòng      fó  yán

Tôn,    ngã  đầu tự  động,     nhi ngã  kiến tánh thượng vô hữu chỉ,  thùy vi diêu động?  Phật ngôn:

 

如是。於是如來,普告大眾,若復眾生,以搖動者名

rú    shì            yú  shì  rú  lái            pǔ  gào dà zhòng        ruò  fù  zhòng  shēng      yǐ yáo dòng zhě míng

Như thị.         Ư thị Như  Lai,    phổ cáo đại chúng,  nhược phục chúng sanh, dĩ diêu động giả danh

 

之為塵。以不住者,名之為客。汝觀阿難頭自動搖,

 

zhī  wéi  chén        yǐ  bú  zhù  zhě             míng zhī wèi kè           rǔ  guān  ē   nán  tóu  zì  dòng  yáo

chi vi trần.           Dĩ bất trụ giả,            danh chi vi khách.      Nhữ quan A Nan đầu tự động diêu,

 

見無所動。又汝觀我手自開合見無舒卷。云何汝今以

jiàn  wú  suǒ  dòng        yòu  rǔ  guān wǒ  shǒu  zì  kāi  hé  jiàn  wú  shū  juàn            yún  hé  rǔ  jīn  yǐ

kiến vô  sở động.     Hựu nhữ quan ngã thủ tự khai hiệpkiến vô thơ quyển.    Vân hà nhữ kiêm dĩ

 

動為身,以動為境。從始泊終,念念生滅,遺失

dòng wéi shēn        yǐ  dòng  wéi  jìng       cóng shǐ  jì   zhōng      niàn niàn shēng miè     yí   shī  zhēn

động vi thân,      dĩ  động vi  cảnh.      Tùng thỉ  cử chung,   niệm niện sanh diệt,     di thất chơn

 

性,倒行事。性心失,認物為己。輪迴是中,自

xìng       diān  dǎo xíng shì          xìng xīn shī  zhēn         rèn  wù  wéi  jǐ            lún  huí shì  zhōng      zì

tánh,   điên đảo hành sự.      Tánh tâm thất chơn,      nhận vật vi kỷ.         Luân  hồi thị trung,     tự

 

取流轉。

qǔ   liú   zhuǎn

 thủ lưu chuyển.

 

 

 

 

補闕

bǔ quē zhēn yán

Bỗ Khuyết Chơn Ngôn

 

南 無 三 滿 哆沒 馱 喃,阿 鉢 囉 帝,喝 多 折,折 捺

na   mo    san    man   duo          mo     tuo   nan     e        bo      la     di      he     duo   zhe      zhe   na

    Nam  mô  tam  mãn  đa            một  đà  nẫm,        a  bát  ra  đế,         yết  đa  chiết        chiết  nại

 

雞 彌 雞 彌, 怛 塔 葛 塔 喃,末 瓦 山 矴,

mi           nan         ji     mi     ji      mi         da     ta      ge     ta     nan      mo   wa   shan ding   bo

  1. Án. Kê     di     kê     di,       đát  tháp  cát  tháp  nẫm,    mạt  ngã  sơn  đính,    bát

 

囉 帝 烏 怛 摩 怛 摩, 怛 塔 葛 塔 喃,末 瓦 吽, 莎 訶

la        di     wu   da     mo     da     mo      da      ta      ge      ta      nan     mo   wa   hong    pan   suo   he

ra       đế     ô   đát     ma     đát    ma,    đát   tháp  cát   tháp   nẫm,  mạt ngõa hồng,  phấn  tá  ha.

 

 

 

 

 

 

 

 

楞嚴經

lèng yán jīng zàn

Tán Kinh Lăng Nghiêm

 

阿 難 示 墮調 御 垂 憐七 重 徵 詰 破 攀 緣

ē   nán    shì    duò            tiáo  yù  chuí  lián               qī  chóng  zhēng  jié   pò   pān   yuán

    A   Nan  thị  đọa           Điệu  ngự thùy liên.        Thất  trùng trưng cật phá phan duyên.      

 

心目 燿 金 拳眞 妄 同 元  決 意 在 當 權

xīn   mù   yào    jīn  quán          zhēn  wàng  tóng  yuán           jué    yì   zài    dāng    quán

Tâm mục diệu kim quyền.   Chơn vọng đồng nguyên.    Quyết   ý   tại  đương quyền.

 

南 無 楞 嚴 會 上 佛 菩 薩(三稱)

ná     mó    lèng  yán    huì   shàng   fó       pú      sà (sān chēng )

Nam mô Lăng Nghiêm Hội Thượng Phật Bồ Tát ( 3 lần)

 

Sources:

Tài liệu tham khảo:

  1. https://thuvienhoasen.org/a18839/kinh-dai-phat-danh-thu-lang-nghiem
  2. http://www.cttbusa.org/shurangama/shurangama_contents.asp.html