Phẩm 25a: Kinh Hoa Nghiêm – Phẩm Thập hồi-hướng – (Hán bộ quyển 23 – 26) – Song ngữ
English: Thomas Cleary – 1984.
Việt ngữ: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh – PL 2527 – 1983.
Compile: Lotus group.
Book Twenty-Five: Ten Dedication – page 477 – 640 (MsW page 531 – 693)
Phẩm 25a: Kinh Hoa Nghiêm – Phẩm Thập hồi-hướng – (Hán bộ quyển 23 – 26)
THEN THE ENLIGHTENING BEING Diamond Banner, empowered by the
Buddha, entered absorption in the light of knowledge of enlightening
beings. When he had entered this absorption, there appeared before him
as many Buddhas as atoms in a hundred thousand buddha-lands from
beyond as many worlds as atoms in a hundred thousand buddha-lands
in each of the ten directions. Those Buddhas, who were all alike named
Diamond Banner, praised him, saying, “Good! Good man, it’s very
good that you can enter this absorption in the light of knowledge of
enlightening beings. Good man, this is the spiritual power of Buddhas
as numerous as atoms in a hundred thousand buddha-lands in each of
the ten directions bolstering you, and also the spiritual power of the
force of Vairocana Buddha’s past vows, and it is also due to the purity
of your knowledge and wisdom, and to the growing supremacy of the
bases of goodness of enlightening beings, enabling you to enter this
absorption and expound the teaching, in order to enable enlightening
beings to attain pure fearlessness, to have unimpeded powers of
elucidation, to enter the state of unobstructed knowledge, to abide in
the great mind of omniscience, to perfect innumerable virtues, to fulfill
unhindered pure ways, to enter into the all-sided realm of reality, to
manifest the spiritual freedom of all Buddhas, to maintain previous
awareness and knowledge, to gain all Buddhas’ protection of all faculties,
to extensively expound myriad principles by means of countless
approaches, to understand and keep in memory the teachings heard, to
embrace all the foundations of goodness of enlightening beings, to
accomplish the aids to the path transcending the world, to prevent
omniscient knowledge from dying out, to develop great vows, to
interpret true meanings, to know the realm of reality, to cause all
enlightening beings to rejoice, to cultivate the equal roots of goodness
of all Buddhas, to protect and maintain the lineage of all enlightened
ones; that is, you expound the ten dedications of enlightening beings.
Hán Bộ Quyển Thứ 23
Lúc bấy giờ Kim Cang Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Phật nhập Bồ Tát trí quang tam muội.
Nhập tam muội này rồi, mười phương đều quá mười vạn Phật sát vi trần số thế giới, có mười vạn Phật sát vi trần số Phật đồng một hiệu Kim Cang Tràng hiện ra trước Bồ Tát mà đồng khen rằng:
Lành thay! Ông có thể nhập Bồ Tát trí quang tam muội này !
Thiện nam tử! Ðây là mười phương đều mưới vạn Phật sát vi trần số Chư Phật dùng thần lục cùng gia hộ ông. Mà cũng là oai lực bổn nguyện của đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai. Và vì ông được trí huệ thanh tịnh, cùng chư Bồ Tát thiện căn tăng thắng, khiến ông nhập tam muội này để thuyết pháp. vì khiến chư Bồ Tát được thanh tịnh vô úy, vì để đủ vô ngại biện tài, vì nhập trí địa vô ngại, vì trụ đại tâm Nhứt thiết trí, vì thành tựu vô tận thiện căn, vì đầy đủ pháp lành vô ngại, vì nhập phổ môn pháp giới, vì hiện thần lực tất cả Phật, vì niệm trí về thời quá khứ chẳng dứt, vì được tất cả Phật hộ trì các ăn, vì dùng vô lượng môn nói rộng các pháp, vì nghe rồi trọn hiểu rõ thọ trì chẳng quên, vì nhiếp tất căn lành của chư Bồ Tát, vì trọn nên những pháp trợ đạo xuất thế, vì chẳng dứt Nhứt thiết chủng trí, vì khai phát đại nguyện, vì giải thích thiệt nghĩa, vì rõ biết pháp giới, vì khiến chư Bồ Tát đều trọn hoan hỷ, vì tu tất cả Phật bình đẳng thiện căn, vì hộ trì chúng tánh Phật.
Sẽ diễn thuyết pháp gì? Chính là diễn nói Thập hồi hướng của chư Bồ Tát vậy.
“Child of Buddha, you should receive the spiritual power of the
Buddha and expound this teaching, to gain the protection of the Buddhas,
to dwell in the house of the Buddhas, to increase transcendental virtues.
To attain the light of concentration, to enter the unobstructed state of
the Buddha, to illumine the realm of reality with great light, to assem-
ble faultless pure ways, to abide in the realm of great knowledge, to
attain the unimpeded light of truth.”
Thiện nam tử! Ông nên thừa thần lực của Phật mà diễn pháp ấy, vì để được Phật hộ niệm, vì an trụ nhà Phật, vì thêm lớn công đức xuất thế, vì được đà la ni quang minh, vì nhập Phật pháp vô ngại, vì đại quang chiếu khắp pháp giới, vì họp pháp thanh tịnh không lỗi, vì trụ cảnh giới trí quảng đại, vì được pháp quang vô ngại.
Then the Buddhas bestowed on Diamond Banner boundless knowl-
edge and wisdom, unhalting, unimpeded eloquence, skill in distinguish-
ing expressions and meanings, unhindered light of the teaching, the
equal body of wisdom of the enlightened, a pure voice with infinite
distinct tones, the inconceivable concentration of enlightening beings’
skillful observation, the knowledge of dedication of indestructible foun-
dations of all goodness, consummate skill in analytic observation of all
things, and uninterrupted power of elucidation to explain all things in
all places. Why? Because of the power of the virtue of entry into this
absorption.
Chư Phật liền ban cho Kim Cang Tràng Bồ Tát vô lượng trí huệ cùng vô ngại biện, ban cho thiện phương tiện phân biệt cú nghĩa, ban cho pháp quang minh vô ngại, ban cho thân Như Lai bình đẳng, ban cho vô lượng âm thinh thanh tịnh sai biệ, ban cho Bồ Tát bất tư nghì thiện quán sát tam muội, ban cho thiện căn hồi hướng trí kiên cố, ban cho quan sát Nhứt thiết pháp thành tựu xảo phương tiện, ban cho biện tài ở tất cả chỗ, thuyết tất cả pháp vô đoạn.
Tại sao vậy? vì do sức căn lành nhập tam muội này từ được như vậy.
Then the Buddhas each patted the enlightening being Diamond Ban-
ner on the head with their right hands, after which Diamond Banner
rose from absorption and declared to the enlightening beings, “Children
of Buddhas, great enlightening beings have inconceivable great vows,
filling the cosmos, able to save all sentient beings. That is, to learn and
practice the dedications of all Buddhas of past, present, and future.
How many kinds of dedication have the great enlightening beings?
Chư Phật đều đưa tay hữu xoa đảnh Kim Cang Tràng Bồ Tát.
Ðược Chư Phật xoa đảnh xong, Kim Cang Tràng Bồ Tát xuất định nói với chúng Bồ Tát rằng: “Thưa Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có đại nguyện bất tư nghì đầy khắp pháp giới cứu hộ đuợc tất cả chúng sanh. Chính là tu học tam thế Chư Phật hồi hướng.
Thưa Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát hồi hướng có mấy thứ?
Great enlightening beings have ten kinds of dedication, which are
expounded by the Buddhas of past, present, and future. What are they?
(1) Dedication to saving all sentient beings without any mental image of
sentient beings. (2) Indestructible dedication. (3) Dedication equal to all
Buddhas. (4) Dedication reaching all places. (5) Dedication of inexhaust-
ible treasuries of virtue. (6) Dedication causing all roots of goodness to
endure. (7) Dedication equally adapting to all sentient beings. (8) Dedi-
cation with the character of true thusness. (9) Unattached, unbound,
liberated dedication. (10) Boundless dedication equal to the cosmos.
These are the ten kinds of dedication of great enlightening beings,
which the past, future, and present Buddhas have, will, and do expound.
Ðại Bồ Tát hồi hướng có mười thứ sau đây, tam thế Chư Phật đồng diễn thuyết:
Một là Cứu hộ tất cả chúng sanh ly chúng sanh tướng hồi hướng.
Hai là Bất hoại hồi hướng.
Ba là Ðẳng nhứt thiết Chư Phật hồi hướng.
Bốn là Chí nhứt thiết xứ hồi hướng.
Năm là Vô tận công đức tạng hồi hướng.
Sáu là Nhập nhứt thiết bình đẳng thiện căn hồi hướng.
Bảy là Ðẳng tùy thuận nhứt thiết chúng sanh hồi hướng.
Tám là Chơn như tướng hồi hướng.
Chín là Vô phược, Vô trước giải thoát hồi hướng.
Mười là Nhập pháp giới vô lượng hồi hướng.
“What is the great enlightening beings’ dedication to saving all sen-
tient beings? Here the enlightening beings practice transcendent giving,
purify transcendent discipline, cultivate transcendent forbearance, arouse
transcendent energy, enter transcendent meditation, abide in transcen-
dent wisdom, great compassion, great kindness, great joy, and great
equanimity. Cultivating boundless roots of goodness such as these,
they form this thought: ‘May these roots of goodness universally bene-
fit all sentient beings, causing them to be purified, to reach the ultimate,
and to forever leave the innumerable pains and afflictions of the realms
of hells, ghosts, and animals, and so on.’ When the great enlightening
beings plant these roots of goodness, they dedicate their own roots of
goodness thus: ‘I should be a hostel for all sentient beings, to let them
escape from all painful things. I should be a protector for all sentient
beings, to let them all be liberated from all afflictions. I should be a
refuge for all sentient beings, to tree them from all fears. I should be a
goal tor all sentient beings, to cause them to reach universal knowledge.
I should make a resting place tor all sentient beings, to enable them to
find a place of peace and security. I should be a light tor all sentient
beings, to enable them to attain the light of knowledge to annihilate the
darkness of ignorance. I should be a torch for all sentient beings, to
destroy all darkness of nescience. I should be a lamp for all sentient
beings, to cause them to abide in the realm of ultimate purity. I should
be a guide for all sentient beings, to lead them into the truth. I should
be a great leader tor all sentient beings, to give them great knowledge.’
Enlightening beings dedicate all foundations of goodness in this way, to
equally benefit all sentient beings and ultimately cause them all to attain
universal knowledge.
Thưa Chư Phật tử! Thế nào là đại Bồ Tát cứu hộ nhứt thiết chúng sanh ly chúng sanh tướng hồi hướng?
Ðại Bồ Tát này thật hành Ðàn Ba la mật, thanh tịnh Thi Ba la mật, tu Nhẫn nhục Ba la mật, khởi Tinh tấn Ba la mật, nhập Thiền Ba la mật, trụ Bát nhã Ba la mật, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, tu vô lượng thiện căn như vậy.
Lúc tu thiện căn tự nghĩ rằng: Nguyện những thiện căn này có thể khắp lợi ích tất cả chúng sanh đều làm cho thanh tịnh đến nơi rốt ráo, lìa hẳn vô lượng khổ não Ðịa ngục, Ngạ qủy, Súc sanh, Diêm La Vương v.v…
Ðại Bồ Tát lúc trồng thiện căn, đem thiện căn của mình hồi hướng như vầy : Tôi sẽ làm nhà cho tất cả chúng sanh để họ khỏi tất cả sự khổ; tôi sẽ làm chỗ cứu hộ của tất cả chúng sanh khiến họ đều được giải thoát phiền não; tôi sẽ làm chỗ quy y của tất cả chúng sanh khiến họ đều được lìa sự bố úy; tôi sẽ làm chỗ xu hướng của tất cả chúng sanh khiến họ được đến nơi Nhứt thiết trí; tôi sẽ làm chỗ an ỗn cho tất cả chúng sanh khiến họ được chỗ an ổn rốt ráo; tôi sẽ làm ánh sáng cho tất cả chúng sanh khiến họ được trí quang diệt si ám; tôi sẽ làm ngọn đuốc cho tất cả chúng sanh để phá tất cả tối vô minh cho họ; tôi sẽ làm đèn cho tất cả chúng sanh khiến họ an trụ nơi rốt ráo thanh tịnh; tôi sẽ là Ðạo Sư cho tất cả chúng sanh dẫn dắt họ vào pháp chơn thệt; tôi sẽ làm đại Ðạo Sư của tất cả chúng sanh ban cho họ trí huệ lớn vô ngại.
Ðại Bồ Tát đem những thiện căn hồi hướng như vậy, bình đẳng lợi ích tất cả chúng sanh, rốt ráo đều khiến được Nhứt thiết trí.
“The enlightening beings’ protection of and dedication to those who
are not their relatives or friends are equal to those for their relatives and
friends. Why? Because enlightening beings enter the equal nature of all
things, they do not conceive a single thought of not being relatives or
friends. Even if there be sentient beings who have malicious or hostile
intentions toward the enlightening beings, still the enlightening beings
also regard them with the eye of compassion and are never angered.
Ðại Bồ Tát lợi ích hướng cho hàng chẳng phải thân hữu đồng như đối với hàng thân hữu của mình. Vì đại Bồ Tát đã nhập tánh bình đẳng của tất cả pháp, với các chúng sanh không có một quan niệm là chẳng phải thân hữu. Giả sử có chúng sanh nào đem lòng oán hại Bồ Tát, Bồ Tát này cũng vẫn thương mến họ trọn không hờn giận.
They are good friends to all sentient beings, explaining the right teach-
ing for them, so that they may learn and practice it. Just as the ocean
cannot be changed or destroyed by all poisons, so too are enlightening
beings — the various oppressive afflictions of all the ignorant, the unwise,
the ungrateful, the wrathful, those poisoned by covetousness, the arro-
gant and conceited, the mentally blind and deaf, those who do not
know what is good, and other such evil sentient beings, cannot disturb
the enlightening beings.
Bồ Tát này làm thiện tri thức cho khắp tất cả chúng sanh, đem chánh pháp diễn thuyết khiến họ tu tập.
Ví như biển cả, tất cả chất độc, không làm biến hoại được.
Bồ Tát này cũng vậy. Tất cả kẻ ngu mông vô trí, vô ân, sân độc, kiêu mạn, mê tối không biết pháp lành, những kẻ ác này đủ cách làm bức hại vẫn không làm động loạn tâm Bồ Tát này được
“Just as the sun, appearing in the world, is not concealed because
those who are born blind do not see it, and is not hidden by the
obstruction of such things as mirages, eclipses, trees, high mountains,
deep ravines, dust, mist, smoke, or clouds, and is not concealed by the
change of seasons, so also are the enlightening beings — they have great
virtues, their minds are deep and broad, they observe with true
mindfulness, without boredom; because they want ultimate virtue and
knowledge their minds aspire to the supreme truth; the light of truth
illumines everywhere and they perceive the meanings of everything.
Their knowledge freely commands all avenues of teaching, and in order
to benefit all sentient beings they always practice virtuous ways, never
mistakenly conceiving the idea of abandoning sentient beings. They do
not reject sentient beings and tail to cultivate dedication because of the
meanness of character of sentient beings, or because their erroneous
views, ill will, and contusion are hard to quell. The enlightening beings
just array themselves with the armor of great vows of enlightening
beings, saving sentient beings without ever retreating; they do not
withdraw trom enlightening activity and abandon the path of enlighten-
ment just because sentient beings are ungrateful, they do not get sick of
sentient beings just because ignoramuses altogether give up all the
foundations of goodness which accord with reality, or because they
repeatedly commit excesses and evils which are hard to bear. Why? Just
as the sun does not appear in the world for just one thing, so too the
enlightening beings do not cultivate roots of goodness and dedicate
them to complete perfect enlightenment just tor the sake of one sentient
being — it is in order to save and safeguard all sentient beings every-
where that they cultivate roots of goodness and dedicate them to
unexcelled complete perfect enlightenment. In the same way, it is not
to purify just one buddha-land, not because of belief in just one Buddha,
not just to see one Buddha, not just to comprehend one doctrine, that
they initiate the determination tor great knowledge and dedicate it to
unexcelled complete perfect enlightenment — it is to purity all buddha-
lands, out of faith in all Buddhas, to serve all Buddhas, to understand
all Buddha teachings, that they initiate great vows, cultivate the founda-
tions of goodness, and dedicate them to unexcelled complete perfect
enlightenment.
“Enlightening beings, focusing on all the Buddha teachings, develop
a broad mind and great determination, a determination never to retreat,
and through measureless eons cultivate and collect rare, hard to obtain
mental jewels, all equal to those of all Buddhas. Thus observing the
bases of goodness, enlightening beings’ mind of faith is pure, their great
compassion is firm and enduring; they truly and genuinely dedicate
them to sentient beings with a most profound intent, a joyful mind, a
pure mind, a mind conquering all, a gentle mind, a kind, compassion-
ate mind, a mind of pity and sympathy, with the intention to profect,
to benefit, and to give peace and happiness to all sentient beings — they
do this sincerely and in reality, not just in words.
Ví như mặt nhựt hiện ra thế gian, chẳng do vì kẻ sanh manh kia mà lại ẩn đi không sáng. Lại cũng chẳng vì sương mù, tay A Tu La, cây Diêm phù đề, gộp cao, hang sâu, bụi khói mây mù che chướng mà ẩn đi không sáng. Lại cũng chẳng vì thời tiết biến đổ mà ẩn đi không sáng.
Ðại Bồ Tát cũng như vậy. Có phước đức lớn, tâm sâu rộng chánh niệm quán sát không thối khuất. Vì muốn rốt ráo công đức trí huệ nên đối với pháp thắng thượng lập chí nguyện pháp quang chiếu khắp thấy tất cả nghĩa, nơi các pháp môn trí huệ tự tại, thường vì lợi ích chúng sanh mà tu pháp lành, chẳng bao giờ lầm sanh lòng tổn hại chúng sanh. Chẳng vì chúng sanh tệ ác tà kiến khó điều phục mà rời bỏ chẳng tu hồi hướng. Chỉ dùng giáp trụ đại nguyện để tự trang nghiêm, luôn cứu hộ chúng sanh không thối chuyển. Chẳng vì chúng sanh vô ân mà thối Bồ Tát hạnh, bỏ Bồ đề đạo, chẳng vì ở chung với kẻ phàm ngu mà lìa bỏ tất cả thiện căn như thiệt, chẳng vì chúng sanh thường sanh lỗi ác khó nhẫn thọ được mà sanh lòng nhàm mỏi. Như mặt nhựt kia chẳng vì có một sự nào che chướng mà lại ẩn đi không chiếu sáng.
Ðại Bồ Tát chẳng phải chỉ vì cứu hộ một chúng sanh mà tu các thiện căn hồi hướng Vô thượng Bồ đề, mà chính vì khắp cứu hộ tất cả chúng sanh vậy. Chẳng phải chỉ vì thanh tịnh một Phật độ, tin một Ðức Phật, thấy một Ðức Phật, rõ một pháp, nhưng chính vì thanh tịnh khắp tất cả Phật độ, tin khắp tất cả Chư Phật, thấy khắp tất cả Chư Phật, hiểu tất cả Phật pháp mà phát khởi đại nguyện tu các thiện căn hồi hướng Vô thượng Bồ đề.
Ðại Bồ Tát dùng các Phật pháp mà làm duyên khởi, phát tâm quảng đại, tâm bất thối, trong vô lượng kiếp tu tập tâm bửu hy hữu nan đắc, trọn đều bình đẳng với tất cả Chư Phật.
Ðại Bồ Tát quán sát các thiện căn như vậy, tín tâm thanh tịnh, đại bi kiên cố, dùng thâm tâm, hoan hỷ tâm, thanh tịnh tâm, tối thắng tâm, nhu nhuyến tâm, từ bi tâm, lân mẫn tâm, nhiếp hộ tâm
An Lạc tâm, mà khắp vì chúng sanh hồi hướng chơn thiệt, chẳng phải chỉ là lời suông.
“When great enlightening beings dedicate roots of goodness, they
think in these terms: ‘By my roots of goodness may all creatures, all
sentient beings, be purified, may they be filled with virtues which
cannot be ruined and are inexhaustible. May they always gain respect.
May they have right mindfulness and unfailing recollection. May they
attain sure discernment. May they be replete with immeasurable
knowledge. May all virtues of physical, verbal, and mental action fully
adorn them.’ They also think, ‘By these roots of goodness I’ll cause all
sentient beings to serve all Buddhas, to their unfailing benefit. I’ll cause
their pure faith to be indestructible; I’ll cause them to hear the true
teaching, cut off all doubt and confusion, remember the teaching with-
out forgetting it and practice in accord with the teaching. I will cause
them to develop respect for the Enlightened, to act with purity, to rest
securely on innumerable great foundations of goodness, to be forever
free of poverty, to be fully equipped with the seven kinds of wealth —
faith, self-control, shame, conscience, learning, generosity, and wis-
dom — to always learn from the Buddhas, to perfect innumerable su-
preme roots of goodness, to attain impartial understanding, to abide in
omniscience, to look upon all sentient beings equally with unobstructed
eyes, to adorn their bodies with all marks ol greatness, without any
flaws, to have pure, beautiful voices replete with all fine qualities, to
have control over their senses, to accomplish the ten powers, to be
filled with good will, to dwell or depend on nothing, to cause all
sentient beings to attain the enjoyments of buddhahood, attain infinite
spiritual stations, and abide in the abode of Buddhas.
Ðại Bồ Tát lúc đem các thiện căn hồi hướng tự nghĩ rằng: Do thiện căn của tôi đây, nguyện tất cả loài, tất cả chúng sanh đều được thanh tịnh, công đức viên mãn, chẳng bị trở ngại hư hoại, không cùng tận, thường được tôn trọng chánh niệm chẳng quên, được trí huệ quyết định, đủ vô lượng trí, thân, khẩu, ý ba nghiệp tất cả công đức viên mãn trang nghiêm.
Ðại Bồ Tát lại nghĩ rằng : Do căn lành này khiến tất cả chúng sanh thừa sự cúng dường tất cả Chư Phật không bỏ qua, khởi lòng tin Chư Phật thanh tịnh không hư hoại, được nghe chánh pháp dứt các sự nghi hoặc, và ghi nhớ không quên, tu hành đúng pháp, cung kính Chư Phật, thân nghiệp thanh tịnh an trụ vô lượng thiện căn rộng lớn, lìa hẳnsự nghèo cùng, đầy đủ bảy Thánh tài, thường theo Chư Phật tu học, thành tựu vô lượng thiện căn thắng diệu, tỏ ngộ bình đẳng trụ Nhứt thiết trí, dùng vô ngại nhãn bình đẳng nhìn chúng sanh, các tướng hảo nghiêm thân không tỳ vết, lời nói tinh diệu, công đức viên mãn, các căn điều phục, thành tựu thập lực, tâm lành đầy đủ, không chỗ y trụ, khiến tất cả chúng sanh đều được sự vui của Phật, trụ nơi chỗ Phật an trụ.
“When enlightening beings see sentient beings doing all sorts of bad
things and suffering all sorts of misery and pain, and being hindered by
this from seeing the Buddha, hearing the teaching, and recognizing the
community, the enlightening beings think: ‘I should, in those states of
woe, take on the various miseries in place of the sentient beings, to
liberate them.’ When enlightening beings suffer pain in this way, they
become even more determined — they do not give up or run away, are
not shocked or frightened, are not discouraged or intimidated, and are
unwearied. Why? Because according to their vows they are determined
to carry all sentient beings to liberation. At such a time, enlightening
beings think in these terms: ‘All sentient beings are in the realm of the
pains and troubles of birth, old age, sickness, and death, revolving in
repeated routines according to the force of their acts, ignorant, with
erroneous views, bereft of qualities of goodness — I should save them
and enable them to attain emancipation.’
“Also, sentient beings are wrapped up in the web of attachments,
covered by the shroud of ignorance, clinging to all existents, pursuing
them unceasingly, entering the cage of suffering, acting like maniacs,
tofally void of virtue or knowledge, always doubtful and confused;
they do not perceive the place of peace, they do not know the path of
emancipation, they revolve in birth and death without rest, always
submerged in the mire of suffering. Enlightening beings, seeing this,
conceive great compassion and desire to help them, wanting to enable
sentient beings to all attain liberation; to this end they dedicate all their
virtues, dedicating them with a great, magnanimous heart, in confor-
mity with the dedication practiced by the enlightening beings of all
times, in accord with dedication as explained in the scriptures, praying
that all sentient beings be thoroughly purified and ultimately accom-
plish knowledge of all means of liberation. They also think, ‘What I
practice is in order to enable sentient beings to all become supreme
sovereigns of knowledge; I am not seeking liberation for myself, but
only to serve all sentient beings, to cause them to all attain the omni-
scient mind, to cross over the flow of birth and death, and be freed
from all suffering.’
Ðại Bồ Tát thấy các chúng sanh gây tạo ác nghiệp, chịu nhiều khổ, bị đây làm chướng mà không thấy được Phật, chẳng được nghe pháp, chẳng biết Tăng, Bồ Tát ben nghĩ rằng:
Tôi sẽ ở trong các ác đạo kia, thay thế các chúng sanh chịu các sự khổ, khiến họ được giải thoát.
Lúc Bồ Tát chịu khổ thế chúng sanh như vậy càng tinh tấn hơn, chẳng bỏ chẳng tránh, chẳng kinh chẳng sợ, không nhàm mỏi. Vì đúng như bổn nguyện : Quyết muốn đảm nhiệm chúng sanh khiến họ được giải thoát. Bồ Tát nghĩ rằng : tất cả chúng sanh ở trong chỗ sanh, già, bệnh, chết các khổ nạn, theo nghiệp mà lưu chuyển, tà kiến vô trí mất các pháp lành, tôi phải cứu họ, cho họ được xuất ly.
Lại các chúng sanh bị lưới ái vấn, lọng si che, mà nhiễm trước cõi hữu lậu theo mãi không rời bỏ, vào trong lồng củi khổ não, thật hành nghiệp ma, phước trí đều hết thường ôm lòng nghi hoặc, chẳng thấy chỗ an ổn, chẳng biết đạo xuất ly, ở trong sanh tử luân hồi mãi, luôn bị ngập chìm trong khổ bùn lầy.
Bồ Tát thầy chúng sanh như vậy nên khởi tâm đại bi, tâm lợi ích, muốn làm cho chúng sanh đều được giải thoát nên đem tất cả thiện căn hồi hướng, dùng tâm quảng đại hồi hướng, như chỗ tu hành của tam thế Bồ Tát hồi hướng, như lời dạy trong kinh Ðại Hồi Hướng mà hồi hướng. Nguyện các chúng sanh đều khắp được thanh tịnh, rốt ráo thành tựu Nhứt thiết chủng trí.
Bồ Tát lại nghĩ rằng: Chỗ tu hành của tôi, muốn làm cho chúng sanh đều được thành bực trí huệ vô thượng. Tôi chẳng vì tự thân mà cầu giải thoát, chỉ vì cứu tế tất cả chúng sanh, khiến họ đều được Nhứt thiết trí, qua khỏi vòng sanh tử thoát tất cả khổ.
“They also form this thought: ‘I should accept all sufferings tor the
sake of all sentient beings, and enable them to escape from the abyss of
immeasurable woes of birth and death. I should accept all suffering tor
the sake of all sentient beings in all worlds, in all states of misery, for-
ever and ever, and still always cultivate foundations of goodness for the
sake of all beings. Why? I would rather take all this suffering on myself
than to allow sentient beings to fall into hell. I should be a hostage in
those perilous places — hells, animal realms, the nether world, etc. — as a
ransom to rescue all sentient beings in states of woe and enable them to
gain liberation.’
Bồ Tát lại nghĩ rằng: Tôi sẽ vì khắp tất cả chúng sanh chịu đủ sự khổ, khiến họ ra khỏi hố sanh tử khổ. Tôi vì khắp tất cả chúng sanh mà tận vị lai kiếp chịu tất cả khổ trong các đạo nơi tất cả thế giới, nhưng vẫn luôn vì chúng sanh mà tu thiện căn. Tôi thà riêng màinh chịu mọi sự khổ, đem thân chuộc tất cả ác đạo chúng sanh khiến họ được giải thoát, chớ chẳng để chúng sanh đoạ nơi Ðịa ngục, Súc sanh, Ngạ quỷ, Diêm La Vương các ác đạo.
“They also form this thought: ‘I vow to protect all sentient beings
and never abandon them. What I say is sincerely true, without falsehood.
Why? Because I have set my mind on enlightenment in order to liberate
all sentient beings; I do not seek the unexcelled Way tor my own sake.
Also I do not cultivate enlightening practice in seareh of pleasure or
enjoyment. Why? Because mundane pleasures are all suffering, the
realm of maniacs, craved by ignorant people but scorned by Buddhas;
all misery arises from them. The anger, fighting, mutual defamation,
and ofher such evils of the realms of hells, ghosts, animals, and the
nether world are all caused by greedy attachment to objects of desire.
By addiction to desire one becomes estranged from the Buddhas and
hindered from birth in heaven, to say nothing of unexcelled complete
perfect enlightenment.’ Observing thus how worldlings, because of
greed tor a little taste of what they desire, experience immeasurable
suffering, enlightening beings after all do not seek unexcelled enlighten-
ment and cultivate enlightening practice for the sake of those pleasures
of the senses; it is only to bring peace and comfort to all sentient beings
that they set their minds on enlightenment and practice to fulfill their
great vows to cut sentient beings’ halter of miseries and enable them to
attain liberation.
“Great enlightening beings also form this thought: ‘I should dedicate
roots of goodness in this way to enable all sentient beings to attain
ultimate bliss, beneficial bliss, the bliss of nonreception, the bliss of
dispassionate tranquility, the bliss of nondependence, the bliss of
imperturbability, immeasurable bliss, the bliss of not rejecting birth and
death yet not regressing from nirvana, undying bliss, and the bliss of
universal knowledge.’
Bồ Tát lại nghĩ rằng: Tôi nguyện bảo hộ tất cả chúng sanh trọn chẳng rời bỏ. Ðây là lời nguyện thành thật không hư vọng. Tại sao vậy? Tôi vì cứu độ tất cả chúng sanh mà phát Bồ đề tâm, chớ chẳng phải vì tự thân mà cầu đạo Vô thượng. Cũng chẳng phải vì cầu hưởng phước lạc trong ba cõi mà tôi tu Bồ đề hạnh. Tại sao vậy ? Vì phước lạc thế gian không gì chẳng phải là khổ, là cảnh giới ma, Chư Phật luôn quở trách, chỉ có kẻ ngu mới tham trước, tất cả khổ hoạn đều nhơn đó mà có. Những ác đạo Ðịa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh, chỗ Diêm La Vương, giận thù kiện cáo hủy nhục nhau v.v… đều do tham trước ngũ dục mà gây nên. Kẻ tham ngũ dục thời xa lìa Chư Phật, chướng ngại sanh lên cõi trời, huống là được Vô thượng Bồ đề.
Bồ Tát quán sát thế gian như vậy, vì tham chút ít dục lạc mà bị vô lượng sự khổ, nên trọn chẳng vì cảnh ngũ dục mà cầu Bồ đề Bồ Tát hạnh, chỉ vì An Lạc tất cả chúng sanh mà phát tâm tu tập thành tựu viên mãn đại nguyện, cắt đứt những dây khổ của chúng sanh khiến họ được giải thoát.
Bồ Tát lại nghĩ rằng: Tôi phải đem căn lành hồi hướng như vậy khiến tất cả chúng sanh được vui rốt ráo, vui lợi ích, vui bất thọ, vui tịch tịnh, vui vô động, vui vô lượng, vui bất xả bất thối, vui bất diệt, vui Nhứt thiết trí.
“They also think, ‘I should be for all sentient beings as a chariofeer,
as a leader, holding the torch of great knowledge and showing the way
to safety and peace, freeing them from danger, using appropriate means
to inform them of the truth; and also, in the ocean of birth and death,
be as a skillful ship’s captain who knows all, to deliver sentient beings
to the ofher shore.’
Bồ Tát lại nghĩ rằng: Tôi sẽ vì tất cả chúng sanh mà làm Ðiều Ngự Sự làm chủ binh thần, cầm đuốc đại trí, chỉ đường an ổn khiến họ lìa hiểm nạn, dùng thiện phương tiện khiến họ biết thiệt nghĩa. Nơi biển sanh tử làm thuyền trưởng khéo giỏi đủ trí đưa các chúng sanh đến bờ kia.
“In this way do great enlightening beings dedicate all their basic
virtues — that is, they save all sentient beings by employing means
appropriate to the situation to cause them to emerge from birth and
death, serve and provide tor all the Buddhas, attain unhindered, omni-
scient knowledge, abandon all maniacs and bad associates, approach all
enlightening beings and good associates, annihilate all error and
wrongdoing, perfect pure behavior, and fulfill the great practical vows
and innumerable virtues of enlightening beings.
“When great enlightening beings have properly dedicated their roots
of goodness, they form this thought: ‘Many suns do not appear because
of the multitude of sentient beings in the four continents — only one sun
appears, yet it can shine on all sentient beings. Also, sentient beings do
not know the day and night, or travel, or see, or carry out their work
by the light of their own bodies — the accomplishment of these things
all depends on the emergence of the sun; yet the sun is only one, not
two.’ In the same way, great enlightening beings, cultivating and
amassing roots of goodness, thinking as they dedicate them, ‘Sentient
beings cannot save themselves — how can they save ofhers? Only I alone
have this unique determination,’ they cultivate and amass roots of
goodness and dedicate them in this way — that is to liberate all sentient
beings, to illumine all sentient beings, to guide all sentient beings, to
enlighten all sentient beings, to watch over and attend to all sentient
beings, to take care of all sentient beings, to perfect all sentient beings,
to gladden all sentient beings, to bring happiness to all sentient beings,
and to cause all sentient beings to become freed from doubt.
Thưa Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát đem các thiện căn hồi hướng như vậy. Chính là tùy nghi cứu hộ tất cả chúng sanh khiến họ thoát sanh tử, thờ cúng tất cả Chư Phật; được trí vô ngại, lìa các ma, xa bạn ác, gần bạn lành Bồ Tát, dứt trừ tội lỗi, thành tựu tịnh nghiệp, đầy đủ hạnh nguyện rộng lớn của Bồ Tát và vô lượng thiện căn.
Ðại Bồ Tát đem thiện căn chánh hồi hướng rồi, tự nghĩ rằng : Chẳng vì tứ châu thiên hạ đông chúng sanh mà có nhiều mặt nhựt hiện, chỉ một mặt nhựt mọc lên đủ soi sáng khắp tất cả chúng sanh. Lại các chúng sanh chẳng phải từ mình có ánh sáng để biết ngày đêm, đứng đi hành động, mà đều do mặt nhựt mọc lên. Mặt nhựt kia chỉ có một.
Cũng thế, đại Bồ Tát lúc tu tập thiện căn hồi hướng, nghĩ rằng: Các chúng sanh kia chẳng thể tự cứu, đâu có thể cứu người khác. Riêng một mình tôi tập chí nguyện tu tập thiện căn hồi hướng như vậy. Những là: Vì muốn quảng độ tất cả chúng sanh, vì chiếu khắp tất cả chúng sanh, vì chỉ dẫn tất cả chúng sanh, vì khai ngộ tất cả chúng sanh, vì đoái lại tất cả chúng sanh, vì nhiếp thọ tất cả chúng sanh, vì thành tựu tất cả chúng sanh, vì khiến tất cả chúng sanh hoan hỷ, vì khiến tất cả chúng sanh vui đẹp, vì khiến tất cả chúng sanh dứt nghi.
“Great enlightening beings also think, ‘I should be like the sun,
shining universally on all without seeking thanks or reward, able to
take care of all sentient beings even if they are bad, never giving up my
vows on this account, not abandoning all sentient beings because one
sentient being is evil, just diligently practicing the dedication of roots of
goodness to cause all sentient beings to attain peace and case. Even if
my roots of goodness be few, I embrace all sentient beings and make a
great dedication with a joyful heart. If one has roots of goodness but
does not desire to benefit all sentient beings, that’s not called dedication.
When every single roof of goodness is directed toward all sentient
beings, that is called dedication.’
“They cultivate dedication to place sentient beings in the true nature
of things where there is no attachment, dedication seeing that the
intrinsic nature of sentient beings doesn’t move or change, dedication
without depending on or grasping dedication, dedication without attach-
ment to the appearances of roots of goodness, dedication without false
ideas about the essential nature of consequences of actions, dedication
without attachment to the characteristics of the five clusters of material
and mental existence, dedication without destroying the characteristics
of the five clusters, dedication without grasping action, dedication
without seeking reward, dedication without attachment to causality,
dedication without imagining what is produced by causality, dedication
without attachment to reputation, without attachment to location,
dedication without attachment to unreal things, dedication without
attachment to images of sentient beings, the world, or mind, dedication
without creating delusions of mind, delusions of concepts, or delusions
of views, dedication without attachment to verbal expression, dedica-
tion observing the real true nature of all things, dedication observing
the aspects in which all sentient beings are equal, dedication stamping
all roots of goodness with the seal of the realm of truth, dedication
observing all things dispassionately; they understand that all things have
no propagation and that roots of goodness are also thus; they observe
that things are nondual, unborn, and unperishing, and that so is
dedication.
“Dedicating such roots of goodness, they cultivate and practice pure
methods of curing spiritual ills. All of their roots of goodness are in
accord with transcendental principles, but they do not conceive of them
dualistically: it is not in their deeds that they cultivate omniscience, yet
it is not apart from deeds that they are dedicated to omniscience;
omniscience is not identical to action, but omniscience is not attained
apart from action either. Because their action is pure as light, the
consequences are also pure as light; because the consequences are pure
as light, omniscience is also pure as light. Detached from all confusions
and thoughts of self and possession, they know perfectly in this way
and skillfully dedicate all roots of goodness.
“When enlightening beings practice dedication in this way, liberating
sentient beings ceaselessly, they do not dwell on appearances; but
though they know that in all things there is no action and no consequence,
yet they can skillfully produce all deeds and consequences, without
opposition or contention. In this way they expediently practice dedication.
When enlightening beings practice dedication in this way, they are free
from all faults and are praised by all Buddhas. This is called the great
enlightening beings’ first dedication, saving all sentient beings without
any image or concept of sentient beings.”
Ðại Bồ Tát lại nghĩ rằng: Tôi phải như mặt nhựt, chiếu khắp tất cả mà chẳng cầu báo ân; chúng sanh có kẻ ác hại tôi, tôi đều dung thọ trọn chẳng do đây mà bỏ thệ nguyện; chẳng vì một chúng sanh ác mà bỏ tất cả chúng sanh, tôi chỉ riêng tu tập thiện căn hồi hướng, khiến khắp chúng sanh đều được an lạc. Thiện căn dầu ít, nhưng vì nhiếp khắp chúng sanh tôi dùng tâm hoan hỷ hồi hướng quảng đại. Nếu có thiện căn mà chẳng muốn lợi ích tất cả chúng sanh thời chẳng gọi là hồi hướng. Tùy một thiện căn dùng khắp chúng sanh làm cảnh sở duyên mới gọi là hồi hướng. Hồi hướng đặt để chúng sanh nơi pháp tánh vô trước. Hồi hướng thấy chúng sanh bất động bất chuyển. Hồi hướng vô y vô thủ đối với sự hồi hướng. Hồi hướng chẳng chấp lấy tướng thiện căn. Hồi hướng chẳng phân biệt nghiệp báo thể tánh. Hồi hướng chẳng tham trước tướng ngũ uẩn. Hồi hướng chẳng phá hoại tướng ngũ uẩn. Hồi hướng chẳng chấp lấy nghiệp. Hồi hướng chẳng cầu báo. Hồi hướng chẳng nhiễm trước nhơn duyên. Hồi hướng chẳng phân biệt nhơn duyên khởi. Hồi hướng chẳng chấp xứ sở. Hồi hướng chẳng chấp pháp hư vọng. Hồi hướng chẳng chấp tướng chúng sanh, tướng thế giới, tướng tâm ý. Hồi hướng chẳng khởi tâm điên đảo, tưởng điên đảo, kiến điên đảo. Hồi hướng chẳng chấp đường ngôn ngữ. Hồi hướng quán tánh chơn thật của tất cả pháp. hồi hướng quán tánh bình đẳng của tất cả chúng sanh. Hồi hướng dùng ấn pháp giới ấn các thiện căn. Hồi hướng quán các pháp lìa tham dục. Hiểu tất cả pháp không gieo trồng, thiện căn cũng như vậy. Quán các pháp không hai, không sanh, không diệt, hồi hướng cũng như vậy. Dùng những thiện căn hồi hướng như vậy mà tu hành pháp đối trị thanh tịnh. Bao nhiêu thiện căn thảy đều tùy thuận pháp xuất thế, chẳng làm hai tướng. Chẳng phải tức nghiệp tu tập Nhứt thiết trí. Chẳng phải lìa nghiệp hồi hướng Nhứt thiết trí. Nhứt thiết trí chẳng phải tức nghiệp, nhưng cũng chẳng phải lìa nghiệp mà được Nhứt thiết trí. Bởi nghiệp thanh tịnh như bóng sáng. Báo như bóng sáng thanh tịnh bóng sáng, lìa ngã ngã sở tất cả động loạn tư duy phân biệt. Rõ biết như vậy, đem các thiện căn phương tiện hồi hướng.
Lúc Bồ Tát hồi hướng như vậy, Bồ Tát luôn độ thoát chúng sanh không thôi, chẳng trụ pháp tướng. Dầu biết các pháp không nghiệp, không báo, mà khéo hay xuất sanh tất cả nghiệp báo không trái nghịch. Bồ Tát phương tiện khéo tu hồi hướng như vậy.
Lúc đại Bồ Tát hồi hướng như vậy lìa tất cả lỗi, được Chư Phật khen ngợi.
Ðây là đại Bồ Tát cứu hộ nhứt thiết chúng sanh ly chúng sanh tướng hồi hướng thứ nhứt.
Then the enlightening being Diamond Banner looked over all the
assemblies in the ten directions, throughout the cosmos; entering into
the meanings and expressions of the profundities, cultivating supreme
action with a boundless mind, covering all beings with great compassion,
maintaining the lineage of the enlightened ones of past, present, and
future, entering the treasury of virtuous qualities of all Buddhas,
producing the verity body of all Buddhas, able to discern the mentalities
of all sentient beings, knowing the roots of goodness he had planted
were ripe, while abiding in the reality body he manifested pure
physical embodiment for them and, empowered by the Buddha, said
in verse:
Kim Cang Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Ðức Phật quan sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng:
Cultivating the Way over inconceivable eons,
Vigor firm, mind unobstructed,
Always seeking the virtuous qualities of Buddhas
I o benefit living beings,
The peerless tamers of the world
Thoroughly purify their minds;
Determining to save all conscious creatures,
They can enter well into the treasury of dedication.
Their courageous power of energy complete.
Their knowledge clear, their minds pure,
They rescue all beings everywhere,
Their minds enduring, unperturbed.
Their hearts can rest peacefully, without compare;
Their minds are ever pure and full of joy.
Earnestly striving thus tor the sake of the living.
They are like earth, accepting all.
They do not seek pleasure for themselves:
They only want to rescue sentient beings;
Thus developing a heart of great compassion.
They quickly gain entry to the unhindered state.
They are able to accept all beings
In all worlds in the ten directions;
They stabilize their minds to save those beings.
This way cultivating the dedications.
They practice generosity most gladly
And preserve pure conduct, without transgression;
Their intrepid, vigorous mind unstirred,
They dedicate this to enlightened omniscience.
Their mind is boundlessly broad.
Their forbearance is stable, unshakable;
Their meditation is most profound, always illumining.
Their wisdom’s inconceivably subtle.
In all worlds in the ten directions
They fully cultivate pure practices:
All these virtues they dedicate
To the peace and happiness of all conscious beings.
The great heroes diligently practice good works.
Measureless, boundless, uncountable:
All these they use to benefit sentient beings
And cause them to abide in inconceivable supreme knowledge.
To act tor the benefit of all sentient beings
They spend inconceivably many cons in hells;
This they do without wearying or shrinking back,
Always practicing dedication with courage and decision.
They do not seek form, sound, smell or taste.
And they do not seek nice feelings:
It is just to liberate all living beings
That they always seek supreme knowledge.
Their knowledge and wisdom are pure as space,
They pratice boundless enlightening acts;
The practical methods the Buddhas carry out
Those people always practice and learn.
The great heroes, traveling through all worlds,
Are able to give peace and safety to all beings,
Causing all to rejoice,
Tirelessly cultivating enlightening practice.
Destroying all mental poisons,
Contemplating and cultivating highest knowledge,
They do not seek comfort for themselves:
They only wish that sentient beings be freed from pain.
These people’s dedication is ultimate —
Their hearts are always pure and free from poison:
Entrusted by the Buddhas of all times,
They dwell in the citadel of the loftiest teaching.
They’re never attached to forms
Or to sensations, perceptions, habits, or consciousness;
Their minds have forever transcended existence,
While all their virtues they dedicate to ofhers.
All the sentient beings seen by the Buddhas
They take into their care, without exception,
Vowing to enable them all to be liberated;
For them do they strive, with great joy.
Their minds are constantly stable,
Their knowledge and wisdom’s incomparably vast.
Truly mindful, free from ignorance, they’re always calm,
And all their deeds are tofally pure.
Those enlightening beings, while in the world,
Are not attached to any internal or external phenomena;
Like the wind traveling unhindered through the sky
Is the function of the great beings’ mind.
Their physical actions are all pure,
All their speech is without error;
Their minds always take refuge in the Buddha,
And they can please all the Buddhas.
In the infinite worlds of the ten directions,
Wherever there are Buddhas, they go;
There, seeing the lords of great compassion,
They all gaze with reverent respect.
Their minds are always pure and faultless,
Entering all worlds without tear;
Already in the Enlightened Ones’ unexcelled Bath,
They act as great reservoirs of truth for all beings.
Diligently observing and examining all phenomena.
They contemplate existence and nonexistence accordingly:
Thus they pursue the truth
And gain entry to the most profound realm of noncontention.
With this they cultivate the steadfast Way
Which no sentient beings can break down;
Well able to comprehend the nature of all things,
They have no attachments in any world.
Thus they are dedicated to reaching the ofher shore,
Enabling all beings to be free from defilements;
Forever rid of all dependency,
They enter the realm of ultimate independence.
In the languages of all sentient beings
In accord with the differences in their types,
Enlightening beings can distinctly explain
While their minds are unattached and unhindered.
Thus do enlightening beings practice dedication:
Unspeakably many are their virtues and their methods;
They earn the praise of all the Buddhas
In all worlds of the ten directions.
Tu hành trong bất tư nghì kiếp
Tinh tấn kiên cố tâm vô ngại
Vì muốn lợi ích các quần sang
Thường cầu khắp công đức của Phật.
Bực thế gian không ai sánh bằng
Tu sửa tâm ý rất sáng sạch
Phát tâm cứu khắp các hàm thức
Bực này khéo vào tạng hồi hướng.
Dũng mãnh tinh tấn sức đầy đủ.
Trí huệ thông đạt ý thanh tịnh
Cứu khắp tất cả các quần sanh
Lòng kia kham nhẫn chẳng khuynh động,
Tâm khéo an trụ không ai sánh
Ý thường thanh tịnh rất vui thích
Như vậy vì người siêng tu hành
Ví như mặt đất khắp dung thọ.
Chẳng vì tự thân cầu khoái lạc
Chỉ muốn cứu hộ các chúng sanh
Như vậy phát khởi tâm đại bi
Chóng được vào nơi bực vô ngại.
Tất cả thế gian ở mười phương
Bao nhiêu chúng sanh đều nhiếp thọ
Vì cứu họ nên khéo trụ tâm
Như vậy tu học các hồi hướng
Tu hành bố thí rất vui thích
Hộ trì tịnh giới không sai phạm
Dũng mãnh tinh tấn tâm chẳng động
Hồi hướng Nhứt thiết trí của Phật.
Tâm đó rộng lớn không ngằn mé
Nhẫn lực an trụ chẳng lay động
Thiền định rất sâu luôn chiếu rõ
Trí huệ vi diệu khó nghĩ bàn.
Trong tất cả thế giới mười phương
Tu tập đầy đủ hạnh thanh tịnh
Công đức như vậy đều hồi hướng.
Vì muốn an lạc các chúng sanh.
Ðại sĩ siêng tu những thiện nghiệp
Vô lượng vô biên chẳng đếm được
Ðều đem lợi ích các chúng sanh
Khiến trụ nơi trí huệ vô thượng
Khắp vì tất cả các chúng sanh
Mà ở địa ngục vô số kiếp
Nhưng vẫn không có lòng nhàm mỏi
Dũng mãnh quyết định thường hồi hướng.
Chẳng cầu sắc, thinh, hương cùng vị
Cũng chẳng mong cầu các diệu xúc
Chỉ vì cứu độ các quần sanh
Thường cầu trí tối thắng vô thượng.
Trí huệ thanh tịnh như hư không
Tu tập vô biên hạnh Ðại Sĩ
Như những công hạnh Phật đã làm
Bực này luôn tu học như vậy.
Ðại Sĩ du hành các thế giới
Ðều hay an ổn các quần sanh
Khiến khắp tất cả đều vui mừng
Tu Bồ Tát hạnh không nhàm đủ.
Dứt trừ tất cả những tâm độc
Tư duy tu tập trí vô thượng
Chẳng vì tự mình cầu an lạc
Chỉ nguyện chúng sanh được lìa khổ.
Bực này hồi hướng được rốt ráo
Tâm thường thanh tịnh lìa các độc
Tam thế Chư Phật phó chúc cho
Trụ nơi thành đại pháp vô thượng
Chưa từng nhiễm trước nơi các sắc
Thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng nhiễm
Tâm đó thoát hẳn nơi ba cõi
Tất cả công đức đều hồi hướng.
Những chúng sanh mà Phật thấy biết
Ðều trọn nhiếp thủ không thừa sót
Thệ nguyện đều khiến được giải thoát
Vì kia tu hành rất hoan hỷ,
Lòng kia niệm niệm luôn an trụ
Trí huệ rộng lớn không ai sánh
Rời si, chánh niệm thường vắng lặng
Tất cả các nghiệp đều thanh tịnh.
Như Bồ Tát kia ở thế gian
Chẳng nhiễm nội pháp như ngoại pháp
Như gió trong hư không vô ngại !
Ðại Sĩ dụng tâm cũng như vậy.
Bao nhiêu thân nghiệp đều thanh tịnh.
Tất cả ngôn ngữ không lỗi lầm
Tâm thường quy hướng nơi Như Lai.
Hay khiến Chư Phật đều hoan hỷ.
Thập phương vô lượng các quốc độ
Nơi tất cả Phật đều qua đến
Trong đó xem thấy đấng đại bi
Người đều cung kính mà thờ phụng.
Lòng thường thanh tịnh lìa các lỗi
Vào khắp thế gian không e sợ
Ðã trụ đạo Vô thượng của Phật
Làm ao pháp lớn cho ba cõi.
Tinh tấn quán sát tất cả pháp
Tùy thuận tư duy hữu phi hữu.
Như vậy thẳng đến lý chơn thật
Ðược vào chỗ vô tránh rất sâu.
Do đây tu thành đạo kiên cố
Tất cả chúng sanh chẳng hoại được
Khéo hay rõ thấu các pháp tánh
Khắp trong tam thế không chấp trước.
Như vậy hồi hướng đến bờ kia
Khiến khắp quần sanh lìa cấu nhiễm
Lìa hẳn tất cả những sở y.
Ðược vào chỗ vô y rốt ráo.
Ngôn ngữ của tất cả chúng sanh
Tùy theo chủng loại đều sai khác
Bồ Tát trọn hay phân biệt nói
Mà lòng vẫn vô trước vô ngại.
Bồ Tát tu hồi hướng như vậy
Công đức phương tiện bất khả thuyết
Hay khiến trong thế giới mười phương
Tất cả Chư Phật đều khen ngợi.
“What is the indestructible dedication of great enlightening beings?
These great enlightening beings attain indestructible faith in the Enlight-
ened Ones of past, future, and present, because they serve all Buddhas.
They attain indestructible faith in enlightening beings, even those who
have just resolved on the seareh for omniscience for the first time,
because they vow to tirelessly cultivate all foundations of goodness of
enlightening beings. They attain indestructible faith in all the Buddha
qualities, because they conceive profound aspiration. They attain inde-
structible faith in all Buddha teachings, because they abide by them and
maintain them. They attain indestructible faith in all sentient beings,
because they look upon them impartially with the eye of compassion
and dedicate roots of goodness to their universal benefit. They attain
indestructible faith in all pure ways, because everywhere they amass
boundless roots of goodness. They attain indestructible faith in the path
of dedication of enlightening beings, because they fulfill their noble
aspirations. They attain indestructible faith in all teachers of the ways of
enlightening beings, because they think of the enlightening beings as
Buddhas. They attain indestructible faith in the spiritual powers of
all Buddhas, because they deeply believe in the inconceivability of the
Buddhas. They attain indestructible faith in the practice of skill in
expedient means exercised by all enlightening beings, because they
include countless various realms of activity.
Hán Bộ Quyển Thứ 24
Thưa Chư Phật tử! Thế nào là Bồ Tát bất hoại hồi hướng?
Ðại Bồ Tát này được đức tin bất hoại đối với tam thế Chư Phật, vì hay trọn phụng thờ tất cả Chư Phật vậy; lại được đức tin bất hoại đối với tất cả chư Bồ Tát, mhẫn đến đối với các Bồ Tát sơ phát tâm cầu Vô thượng đạo, vì thệ tu tất cả Bồ Tát thiện căn không mỏi nhàm vậy; được đức tin hoại đối với tất cả Phật pháp, vì phát chí nguyện sâu vậy; được đức tin bất hoại đối với tất cả Phật giáo, vì thủ hộ Trụ trì vậy; được đức tin bất hoại đối với tất cả chúng sanh, vì lòng từ bình đẳng xem chúng sanh đem thiện căn hồi hướng khắp lợi ích vậy; được đức tin bất hoại đối với tất cả pháp lành thanh tịnh, vì khắp họp vô biên thiện căn vậy; được đức tin bất hoại đối với đạo hồi hướng của tất cả Bồ Tát, vì đầy đủ những thắng nguyện vậy; được đức tin bất hoại đối với các Bồ Tát Pháp sư, vì đối với Bồ Tát tưởng là Phật vậy; được đức tin bất hoại đối với thần thông tự tại của tất cả Phật, vì thâm tín Chư Phật khó nghĩ bàn vậy; được đức tin bất hoại đối với phương tiện thiện xảo của tất cả Bồ Tát, vì nhiếp thủ vô lượng vô số công hạnh vậy.
“When great enlightening beings abide in indestructible faith, they
plant roots of goodness, innumerable and boundless, in various realms,
such as those of Buddhas, enlightening beings, disciples of Buddhas,
individual illuminates, of Buddhist doctrines, and of sentient beings,
causing the determination for enlightenment to grow more and more.
Their kindness and compassion broad and great, they observe impartially.
They accord with and practice the deeds of the Buddhas, embracing all
pure foundations of goodness. Entering the truth, they assemble virtu-
ous practices, carry out great works of charity, and cultivate meritori-
ous qualities, looking upon the past, present, and future as equal.
Ðại Bồ Tát lúc an trụ đức tin bất hoại như vậy, đối với Phật, Bồ Tát, Ðộc Giác, Thanh Văn, Phật pháp, Phật giáo, chúng sanh v.v… đều ở trong đó khéo vun trồng thiện căn vô lượng vô biên, khiến thêm tâm Bồ đề, lớn lòng từ bi, quán sát bình đẳng, tùy thuận tu học chỗ làm của Chư Phật, nhiếp thủ tất cả thiện căn thanh tịnh vào nghĩa chơn thật, nhóm công hạnh phước đức thật hành bố thí lớn, tu các công đức, xem tam thế bình đẳng.
“Great enlightening beings dedicate such virtues to omniscience,
aspiring to always see the Buddhas. They associate with good compan-
ions and live among enlightening beings. Constantly keeping their
minds on omniscience, they accept and hold the Buddhist teachings,
conscientiously profecting them, and educate and develop all sen-
tient beings, their minds always dedicated to the path of emancipation
from the world. They provide for and serve all teachers of truth.
Understanding the principles of the teachings, they retain them in
memory; they cultivate and practice great vows, causing them all to be
fulfilled.
Ðại Bồ Tát dùng thiện căn công đức như vậy hồi hướng Nhứt thiết trí, nguyện thường thấy Phật, gần bạn lành, cùng ở với chư Bồ Tát, nhớ Nhứt thiết trí không rời, thọ trì Phật giáo siêng thủ hộ, giáo hóa thành thục tất cả chúng sanh, tâm thường hồi hướng đạo xuất thế, cúng dường hầu hạ tất cả Pháp sư, hiểu rõ các pháp ghi nhớ chẳng quên, tu hành đại nguyện đều khiến đầy đủ.
“Thus do enlightening beings amass roots of goodness, accomplish
roots of goodness, develop roots of goodness, contemplate roots of
goodness, concentrate on roots of goodness, analyze roots of goodness,
delight in roots of goodness, cultivate roots of goodness, and abide in
roots of goodness.
“Once enlightening beings have amassed various roots of goodness
in this way, they cultivate the practices of enlightening beings by means
of the results of these roots of goodness. In every successive moment
they see innumerable Buddhas, and serve and provide tor them in
accordance with their needs. They provide innumerable jewels, flowers,
garlands, garments, parasols, banners, pennants, adornments, servants,
beautified places, perfumes, powdered incenses, mixed scents, burning
incenses, profound faith, aspiration, pure minds, respect, praise, honor,
jeweled scats, flower scats, incense seats, scats of garlands, sandalwood
scats, clofh seats, diamond scats, crystal seats, precious streamer scats,
jewel-colored scats, bejeweled parks, flowered parks, perfumed parks,
parks hung with garlands, parks spread with robes, jewel-studded
parks, parks decorated with streamers of all jewels, parks with trees of
all precious substances, parks with balustrades of all precious substances,
parks covered with nets of chimes of all jewels, palaces with all precious
substances, palaces with all kinds of flowers, palaces with all kinds of
incenses, palaces with all kinds of garlands, palaces of all kinds of
sandalwood, palaces with stores of all kinds of aromatic resins, palaces
of all kinds of diamonds, palaces of all kinds of crystals, all extraordinar-
ily fine, surpassing those of the heavens; innumerable trees of mixed
jewels, trees of various fragrances, trees of precious raiment, trees of
music, trees of fascinating jewels, trees of gem-studded streamers, trees
of precious rings, trees adorned with banners, pennants, and canopies
with the fragrances of all flowers — such trees, with luxuriant foliage
intcrrcflccting, adorn the palaces; the palaces also are adorned with
countless lattices, windows, doors, balconies, crescents, and drapes,
countless nets of gold covering them, countless perfumes watting through-
out them scenting everything, and countless robes spread on the ground.
Ðại Bồ Tát như vậy mà chứa nhóm thiện căn, thành tựu thiện căn, tăng trưởng thiện căn, tư duy thiện căn, hộ niệm thiện căn, phân biệt thiện căn, mến thích thiện căn, tu tập thiện căn, an trụ thiện căn.
Ðại Bồ Tát chứa nhóm những thiện căn như vậy rồi, dùng những y báo của thiện căn này mà tu Bồ Tát hạnh, trong mỗi niệm thấy vô lượng Phật và phụng thờ cúng dường.
Dùng vô số châu báu, hoa, tràng hoa, y phục, lọng, tràng phan, đồ trang nghiêm vô số lượng thoa, hương bột, hương hòa trộn, hương đốt, đồ trán đất, vô số sự hầu hạ, thâm tín, mến ưa, tâm thanh tịnh, tôn trọng, ca ngợi, lễ kính, vô số bửu tòa, hoa tòa, hương tòa, man tòa, chiên đàn tòa, y tòa, Kim Cang toà, ma ni tòa, bửu tăng tòa, bửu sắc tòa, vô số chỗ kinh hành trải hoa, trải báu, trải hương, trải tràng hoa, trải y phục, trải lụa màu, vô số chỗ kinh hành trồng cây bửu đa la, lan can báu, lưới linh báu giăng che, vô số cung điện báu, cung điện hoa, cung điện tràng hoa, cung điện hương, cung điện chiên đàn, cung điện diệu hương tạng, cung điện Kim Cang, cung điện ma ni, tất cả đều qúy đẹp hơn ở cõi trời, vô số cây báu, cây hương, cây bửu y, cây âm nhạc, cây diệu âm thinh, cây đồ trang nghiêm, cây hàng lụa báu, cây vòng báu, vô số cây hoa hương tràng phan lọng trang nghiêm che mát các cung điện, lại có vô số mái hiên trang nghiêm, vô số cửa chính cửa song trang nghiêm, vô số lâu các trang nghiêm, vô số hình bán nguyệt trang nghiêm, vô số màn trang nghiêm, vô số lưới vàng giăng che, vô số hương thơm tỏa khắp nơi, vô số thảm báu trải đất, tôn kính cúng dường tất cả Chư Phật trải qua vô lượng vô số bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp, cúng dường luôn không thối chuyển không thôi nghỉ.
“Enlightening beings reverently present these offerings with pure-
minded respect to all Buddhas for countless, incalculable eons, never
retreating, never ceasing; and after each Buddha dies they also respect-
fully make similar offerings to all their relics, in order to induce all
sentient beings to develop pure faith, to embody all foundations of
goodness, to be treed from all suffering, to have broad understanding,
to be arrayed with great adornments, to be arrayed with infinite
adornments, to consummate all their undertakings, to know how rare it
is to meet a Buddha in the world, to fulfill the immeasurable power of
the enlightened, to adorn and make offerings to the tombs and shrines
of Buddhas, and to maintain the teachings of all Buddhas.
Sau khi mỗi đức Như Lai diệt độ, Bồ Tát cũng cúng dường Xá lợi như vậy, vì muốn khiến chúng sanh khởi làng tin thanh tịnh, nhiếp thiện căn, lìa các khổ, hiểu biết rộng, dùng đại trang nghiêm để tự trang nghiêm, chỗ tu hành được rốt ráo, biết Chư Phật xuất thế rất khó gặp, được đủ vô lượng trí lực của Như Lai, trang nghiêm cúng dường tháp miếu của Chư Phật, trụ trì Phật pháp.
“Their offerings to living Buddhas and to their relics after death
could never be fully told of even in an incalculable period of time. Such
cultivation and accumulation of immeasurable virtue is all to develop
and mature sentient beings, without retreating, without ceasing, with-
out wearying, without clinging, free from all mental images, without
stopping anywhere, forever beyond all dependence, detached from self
and anything pertaining to a self. They seal all aspects of their activities
with the stamp of truth, realize the birthlcssncss of things, abide in the
abode of buddhahood, and observe the nature of birthlessness defini-
tively marking all objects. In the care of the Buddhas, they set their
minds on dedication — dedication in accord with the essential nature of
things, dedication entering into the uncreated truth yet perfecting created
expedient methods, dedication of techniques discarding attachments to
concepts of phenomena, dedication abiding in countless enlightening
skills, dedication forever departing from all realms of existence, dedica-
tion of expedient application of practices without sticking to forms,
dedication embracing all foundations of goodness, great dedication
purifying the acts of all enlightening beings, dedication rousing the will
for enlightenment, dedication living with all bases of goodness, dedica-
tion fulfilling supreme faith.
Bồ Tát cúng dường hiện tại Chư Phật và Xá lợi của Phật như vậy, dầu cả vô số kiếp nói cũng không thể biết. Bồ Tát tu tập vô lượng công đức này đều vì thành thục tất cả chúng sanh, không thối chuyển, không dứt nghỉ, không nhàm, không chấp, lìa tâm tưởng, không y chỉ, tuyệt hẳn sở y, xa lìa ngã ngã sở, dùng pháp ấn như thiệt ấn các nghiệp môn, được pháp vô sanh, trụ chỗ trụ của Phật, quán tánh vô sanh, ấn các cảnh giới, Chư Phật hộ niệm, phát tâm hồi hướng, hồi hướng tương ưng với pháp tánh, hồi hướng phương tiện nhập pháp vô tác chỗ làm được thành tựu, hồi hướng phương tiện bỏ lìa chấp trước, phương tiện hồi hướng an trụ nơi vô lượng thiện xảo, hồi hướng ra khỏi hẳn tất cả cõi hữu lậu, hồi hướng khéo tu hành chẳng trụ nơi tướng, hồi hướng nhiếp khắp tất cả thiện căn, hồi hướng thanh tịnh khắp tất cả Bồ Tát hạnh rộng lớn, hồi hướng phát tâm Vô thượng Bồ đề, hồi hướng đồng trụ tất cả thiện căn, hồi hướng đầy đủ tâm tín giải vô thượng.
“When enlightening beings dedicate such roots of goodness, though
they go along with birth and death they are not changed: they seek
omniscience without ever retreating; while being in the various realms
of existence, their minds are undisturbed; they are able to liberate all
sentient beings; they are not stained by compounded things; they do
not lose unimpeded knowledge; their fulfillment of causes and condi-
tions of enlightening beings’ practices and stages is inexhaustible; worldly
things cannot change or move them; they fulfill the pure ways of
transcendence; they are able to accomplish all knowledge and power.
Thus do enlightening beings get rid of the darkness of ignorance and
tolly, develop the will tor enlightenment and reveal its light, increase
pure ways, dedicated to the supreme Way, fulfilling all its practices.
Ðại Bồ Tát lúc đem thiện căn hồi hướng như vậy, dầu theo sanh tử mà chẳng biến đổi, cầu Nhứt thiết trí chưa từng thối chuyển, ở trong tam giới tâm không động loạn, trọn có thể độ thoát tất cả chúng sanh, chẳng nhiễm pháp hữu vi, chẳng mất trí vô ngại, Bồ Tát hàng vì nhơn duyên vô tận, các pháp thế gian không biến động được, thanh tịnh đầy đủ các Ba la mật, trọn có thể thành tựu Nhứt thiết trí lực.
“With clear, pure intellect they are able to skillfully analyze and
comprehend all things as appearing according to the mind; they know
deeds are like illusions, results of deeds are like paintings, all activities
are like magic tricks, things born of causes and conditions are all like
echoes, and the practices of enlightening beings are all like reflections.
They produce the clear, pure eye of reality, seeing the vast realm of the
uncreated; realizing their null essence, they understand the nonduality of
things and discover the true aspect of things. They fulfill the practices
of enlightening beings without attachment to any forms. They are able
to carry out all commonplace acts without ever abandoning pure princi-
ples and practices. Free from all attachments, they remain unattached in
action.
Bồ Tát như vậy lìa các si ám, thành tâm Bồ đề, khai thị quang minh, tăng trưởng tịnh pháp, hồi hướng thắng đạo, đầy đủ các hạnh, dùng ý thanh tịnh khéo hay phân biệt, rõ tất cả pháp đều tùy tâm hiện, biết nghiệp như huyễn, báo như tượng, hành như hóa, pháp nhơn duyên sanh đều như vang, tất cả Bồ Tát hạnh như bóng, xuất sanh pháp nhãn thanh tịnh vô trước, thấy cảnh giới vô tác rộng lớn, chứng tánh tịch diệt, rõ pháp không hai được pháp thiệt tướng, đủ Bồ Tát hạnh, nơi tất cả tướng đều không chấp trước khéo hay thật hành những việc đồng sự, hằng không rời bỏ các pháp lành thanh tịnh, lìa tất cả chấp trước trụ hạnh vô trước.
“Thus do enlightening beings think flexibly, without contusion or
delusion, without contradicting tacts, without destroying active causes,
dedicating as is appropriate, with clear perception of real truth. They
know the inherent nature of things, yet by the power of skill in means
they accomplish results of action and reach the ofher shore. With
knowledge and wisdom they examine all things and attain knowledge
of spiritual faculties. The virtues of their deeds are carried out without
striving, in accordance with their free will.
Bồ Tát như vậy khéo léo tư duy không mê hoặc, chẳng trái các pháp, chẳng hoại nghiệp nhơn, thấy rõ chơn thiệt, khéo hồi hướng, biết pháp tánh, dùng sức phương tiện thành tựu nghiệp báo đến bờ kia, dùng trí huệ quan sát tất cả pháp được trí thần thông, vô tác mà thật hành các nghiệp thiện căn tùy tâm tự tại.
“Enlightening beings dedicate roots of goodness in this way because
they want to liberate all sentient beings, keep the lineage of Buddhas
unbroken, be forever rid of demonic activity, and see omniscience.
Their boundless aspiration is never discarded; they detach from mun-
dane objects and cut off all mixup and defilement. They also wish for
sentient beings to attain pure knowledge, enter deeply into the tech-
niques of liberation, depart from the state of birth and death, attain the
bases of virtues of buddhahood, forever end all delusive activities,
stamp all actions with the seal of equanimity, determine to enter knowl-
edge of all ways of liberation, and accomplish all transmundanc qualities.
This, O Child of Buddha, is called enlightening beings’ second dedication,
indestructible dedication.
Ðại Bồ Tát đem những thiện căn hồi hướng như vậy, vì muốn độ thoát tất cả chúng sanh, chẳng dứt Phật chủng, lìa hẳn nghiệp ma, thấy Nhứt thiết trí không ngằn mé tin ưa không bỏ, lìa các cảnh giới, dứt những tạp nhiễm, cũng nguyện tất cả chúng sanh được trí thanh tịnh, vào phương tiện sâu, ra khỏi pháp sanh tử, được thiện căn của Phật, dứt hẳn tất cả sự nghiệp ma, dùng ấn bình đẳng ấn khắp các nghiệp, phát tâm vào thẳng Nhứt thiết chủng trí, thành tựu tất cả pháp xuất thế gian.
Ðây là đại Bồ Tát bất hoại hồi hướng thứ hai.
“When enlightening beings abide in this dedication, they get to see all
the countless Buddhas and master innumerable pure, sublime teachings.
They attain impartiality toward all sentient beings, and have no doubt
about anything. Strengthened by the spiritual power of all Buddhas,
they overcome all demons and forever get rid of their influence. They
achieve noble birth and fulfill the will for enlightenment. Attaining
unhindered knowledge, they can expound the meanings of all doctrines
without relying on another for understanding. They are able, following
the power of imagination, to enter all lands; illumining sentient beings
everywhere, they cause them all to become purified. Great enlightening
beings, by the power of this indestructible dedication, embody all founda-
tions of goodness and dedicate them in this way.”
Ðại Bồ Tát lúc trụ nơi hồi hướng này, được thấy vô số Chư Phật, thành tựu vô lượng diệu pháp thanh tịnh, được tâm bình đẳng với khắp chúng sanh, với tất cả pháp không nghi hoặc, được tất cả Chư Phật thần lực gia hộ, hàng phục chúng ma lìa hẳn nghiệp ma, thành tựu sanh qúy viên mãn Bồ đề tâm, được trí vô ngại hiểu chẳng do người, khéo hay khai xiển nghĩa của tất cả pháp, có thể tùy năng lực tư tưởng vào tất cả cõi, soi sáng khắp chúng sanh đều khiến thanh tịnh.
Ðại Bồ Tát dùng sức bất hoại hồi hướng này nhiếp các thiện căn.
Then Diamond Banner, spiritually empowered by Buddha, looked
over the ten directions and said in verse:
Kim Cang Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Ðức Phật quan sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng:
Enlightening beings, having attained indestructible will,
Carry out all good works;
Therefore they’re able to make the Buddhas rejoice:
Those who are wise dedicate this.
Making offerings to infinite Buddhas,
Giving charity, with self-control, they subdue their senses,
Out of desire to benefit all sentient beings,
To cause them all to be purified.
All sorts of beautiful, fragrant flowers,
Innumerable different splendid robes,
Jeweled canopies and adornments,
They present to all the Buddhas.
Thus do they make offerings to Buddhas
For countless, unthinkable cons;
Reverent, respectful, always rejoicing,
They never have a thought of weariness.
They concentrate their thought on the Buddhas,
The Great Bright Lamps of all worlds:
All the Enlightened Ones of the ten directions
Appear before them, as though face to face.
For inconceivably infinite cons
They give in all ways, their minds never weary:
For hundreds of millions of eons
They practice good principles in the same way.
After the Buddhas become extinct,
They make offerings to their relics, tirelessly:
With various fine adornments tor each
They set up inconceivably many shrines.
Built in incomparably excellent forms.
Adorned with jewels and gold,
The shrines are magnificent, big as mountains,
Their number countless billions.
Having made offerings with pure minds, with respect,
They also conceive the will to gladden and benefit ofhers;
For inconceivable cons they stay in the world,
Rescuing sentient beings and liberating them.
They know that sentient beings are illusory
And do not discriminate among them.
Yet can differentiate the faculties of beings
And act tor the benefit of all the living.
Enlightening beings cultivate and build up virtues
Vast, extensive, incomparably supreme;
Understanding they’re essentially not existent.
In this way they dedicate them all with certainty.
Observing all things with supreme knowledge,
There’s not a single thing that’s born;
Thus do they provisionally cultivate dedication,
Virtue infinite, inexhaustible.
By this means they purify the mind,
Equal to all the Buddhas —
This power of skill in means is inexhaustible;
Therefore felicitous results have no limit.
Initiating the will tor unsurpassed enlightenment.
Without depending on anything in the world.
They go to all worlds in the ten directions
And are not hindered by anything at all.
All Buddhas appear in the world
Because they want to guide beings’ minds;
They examine the true natures of their minds
And discover they ultimately cannot be found.
All phenomena, without exception,
Are included in thusness, with no essential nature;
Dedicating with this pure eye
They open the prison of birth and death in the world.
Though they purity all existences.
Yet they do not have a notion of existences;
They know the nature of existents has no existence
And purify thejoytul mind.
They depend on nothing in one buddha-land,
Or in any buddha-lands,
And they are not attached to conditioned things,
Knowing their phenomenality has no basis.
Hereby they cultivate omniscience;
Hereby highest knowledge adorns them;
Hereby the Buddhas all rejoice;
This is enlightening beings’ work of dedication.
Enlightening beings focus their minds on the Buddhas,
Their supreme knowledge, wisdom, and means.
Like Buddhas, they depend on nothing at all:
May we accomplish these virtues.
Concentrating on saving all,
They cause them to abandon evil deeds;
Thus benefiting sentient beings,
They contemplate attentively without abandoning them.
Abiding in the state of knowledge and guarding the teaching,
They do not take nirvana by ofher vehicles —
They only vow to attain the Buddhas’ unexcelled Way;
This is the dedication of enlightening beings.
They do not grasp the fabricated unrealities
Spoken of by sentient beings,
But though they do not rely on speech
Still they don’t cling to wordlessness.
All the enlightened ones in the ten directions
Comprehend all things without exception;
But though they know all things are empty, void.
They don’t produce a notion of voidness.
With one adornment they adorn all
Yet don’t discriminate phenomena —
They enlighten all living beings:
All is without inherent nature, without objectivity.
Bồ Tát đã được ý bất hoại
Tu hành tất cả những nghiệp lành
Nên có thể khiến Phật hoan hỷ
Người trí do đây mà hồi hướng
Cúng dường vô lượng vô biên Phật
Bố thí trì giới phục các căn
Vì muốn lợi ích các chúng sanh
Khiến khắp tất cả đều thanh tịnh.
Tất cả những hương hoa thượng diệu
Vô lượng sai biệt thắng y phục
Bửu cái nhẫn đến đồ trang nghiêm
Cúng dường tất cả chư Như Lai.
Như vậy cúng dường lên Chư Phật.
Vô lượng vô số nan tư kiếp
Cung kính tôn trọng thường hoan hỷ
Chưa từng một niệm sanh nhàm mỏi.
Chuyên tâm tưởng niệm nơi Chư Phật
Ðèn sáng trong tất cả thế gian
Mười phương tất cả chư Như Lai.
Thảy đều hiện tiền như mắt thấy.
Bất khả tư nghì vô lượng kiếp
Các thứ bố thí tâm không nhàm
Trong trăm ngàn muôn ức kiếp số
Tu những nghiệp lành đều như vậy.
Chư Như Lai kia diệt độ rồi.
Cúng dường Xá lợi không nhàm đủ
Ðều dùng các loại diệu trang nghiêm
Xây dựng vô lượng những tháp miếu
Tạo lập vô lượng hình tượng Phật.
Châu báu vàng bạc dùng trang nghiêm
Cao lớn vòi vọi như núi cả
Số đó vô lượng trăm ngàn ức,
Tịnh tâm tôn trọng cúng dường rồi
Lại khởi lòng hoan hỷ lợi ích
Bất tư nghì kiếp ở thế gian
Cứu hộ chúng sanh khiến giải thoát
Rõ biết chúng sanh đều vọng tưởng
Nơi kia tất cả vô phân biệt
Mà hay khéo biết căn chúng sanh
Vì khắp chúng sanh làm lợi ích.
Bồ Tát tu tập các công đức
Rộng lớn tối thắng không ai sánh
Rõ thấu thể tánh đều chẳng có
Quyết định như vậy đều hồi hướng.
Dùng trí tối thắng quán các pháp
Trong đó không có một pháp sanh
Như vậy phương tiện tu hồi hướng
Công đức vô lượng không thể hết.
Dùng phương tiện này khiến tâm tịnh
Ðều cùng tất cả Như Lai đồng
Phương tiện lực này chẳng cùng tận
Nên phước đức cũng không cùng tận.
Phát khởi tâm Bồ đề vô thượng
Tất cả thế gian vô sở y
Ðến khắp mười phương các thế giới
Mà tất cả nơi đều vô ngại
Tất cả Như Lai xuất thế gian
Vì muốn khải đạo lòng chúng sanh
Như tâm tánh kia mà quán sát
Rốt ráo tìm cầu chẳng thể được.
Tất cả các pháp trọn không thừa
Ðều vào chơn như không thể tánh
Dùng tịnh nhãn mà hồi hướng
Mở ngục sanh tử ở thế gian.
Ðều khiến các cõi đều thanh tịnh
Cũng chẳng phân biệt nơi các cõi
Biết tánh các cõi đều không có
Mà khiến ý hoan hỷ thanh tịnh.
Nơi một Phật độ không sở y.
Tất cả Phật độ đều như vậy
Cũng chẳng nhiễm trước pháp hữu vi
Biết pháp tánh kia không y xứ.
Do đây tu thành Nhứt thiết trí
Do đây trí vô thượng trang nghiêm
Do đây Chư Phật đều hoan hỷ
Ðây là hạnh Bồ Tát hồi hướng.
Bồ Tát chuyên tâm niệm Chư Phật
Trí huệ vô thượng phương tiện khéo
Như Phật tất cả không sở y
Nguyện tôi tu thành công đức này.
Chuyên tâm cứu hộ tất cả chúng
Khiến họ xa lìa các nghiệp ác
Như vậy lợi ích các chúng sanh
Chuyên niệm tư duy chưa từng có.
Trụ nơi pháp thủ hộ trí địa
Chẳng lấy Niết Bàn nơi thừa khác
Chỉ nguyện được Phật đạo vô thượng
Bồ Tát như vậy khéo hồi hướng.
Chẳng chấp lấy ngôn ngữ chúng sanh.
Tất cả sự hữu vi hư vọng
Dầu chẳng y tựa đường ngôn ngữ.
Cũng lại chẳng chấp không ngôn thuyết
Thập phương tất cả chư Như Lai.
Rõ thấu các pháp không còn sót
Dầu biết các pháp đều không tịch
Mà chẳng sanh niệm trụ nơi không.
Dùng một trang nghiêm nghiêm tất cả.
Cũng chẳng phân biệt nơi các pháp
Như vậy khai ngộ các quần sanh
Tất cả vô tánh vô sở quán.
“What is great enlightening beings’ dedication equal to all Buddhas?
Here the enlightening beings follow and cultivate the path of dedication
of the Buddhas of the past, future, and present. When they practice and
learn the path of dedication in this way, when they perceive any objects
of sense, whether pleasant or unpleasant, they do not conceive like or
dislike — their minds are tree, without faults, broad, pure, joyful, blissful,
free from all sorrows and troubles. Their minds are flexible, their senses
are pure and cool.
Chư Phật tử! thế nào là Bồ Tát đẳng Nhứt thiết Phật hồi hướng ?
Ðại Bồ Tát này tùy thuận tu học đạo hồi hướng của tam thế Chư Phật.
Lúc tu học đạo hồi hướng như vậy, Bồ Tát này thấy tất cả lục trần : sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp hoặc tốt hoặc xấu, chẳng sanh lòng ưa hay ghét, tâm được tự tại, không lổi lầm, rộng lớn thanh tịnh, hoan hỷ vui thích, lìa những tưu não, tâm ý như nhuyến các căn thanh lương.
“When great enlightening beings gain such peace and bliss, they
become even more determined, dedicating their determination to the
Buddhas, with these thoughts: ‘With the roots of goodness I am now
planting I vow to cause the bliss of the Buddhas to increase more and
more — that is, the bliss of the inconceivable abode of Buddhas, the bliss
of the peerless concentration of Buddhas, the bliss of unlimited
compassion, the bliss of liberation of all Buddhas, the bliss of vast,
ultimate, immeasurable power, the bliss of tranquility detached from all
cognition, the bliss of abiding in the state of nonobstruction, always
rightly concentrated, the bliss of carrying out the practice of nondualism
without change.’
Lúc đại Bồ Tát được An Lạc như vậy, lại phát âm hồi hướng Chư Phật, tự nghĩ rằng:
Nguyện đem thiện căn của tôi vun trồng hiện nay làm cho sự vui của Chư Phật càng thêm. Những là sự vui nơi an trụ bất tư nghì của Phật, sự nơi tam muội vô tỷ của Chư Phật, sự vui đại từ bi vô hạn lượng, sự vui giải thoát của tất cả Chư Phật, sự vui đại thần thông ngằn mé, sự vui đại tự tại rất mực tôn trọng, sự vui vô lượng lực rốt ráo rộng lớn, sự vui tịch tịnh lìa những tri giác, sự vui thường chánh định trụ nơi vô ngại trụ, sự vui thật hành hạnh vô nhị không đổi khác.
“Once the great enlightening beings have dedicated their roots of
goodness to the Buddhas, they also dedicate these virtues to the enlight-
ening beings: that is, to cause those who have not fulfilled their vows to
fulfill them, to cause those whose minds are not yet pure to attain
purity, to cause those who have not fulfilled the ways of transcendence
to fulfill them, to settle them in the indestructible will for enlightenment,
that they not regress on the way to omniscience, not give up great
effort, preserve all the foundations of goodness of the gates of
enlightenment, and be able to cause sentient beings to give up conceit,
set their minds on enlightenment, fulfill their aspirations, abide in the
abode of all enlightening beings, attain the clear, sharp senses of enlight-
ening beings, cultivate roots of goodness, and realize omniscience.
Ðại Bồ Tát đem những thiện căn hồi hướng Phật xong, lại đem thiện căn hồi hướng Bồ Tát. Nghĩa là người chưa viên mãn làm cho được viên mãn, người tâm chưa thanh tịnh làm cho được thanh tịnh, người chưa tròn đủ Ba la mật làm cho được tròn đủ, an trụ nơi tâm Kim Cang Bồ đề, nơi Nhứt thiết trí được bất thối chuyển, chẳng bỏ đại tinh tấn, thủ hộ môn Bồ đề, tất cả thiện căn có thể khiến chúng sanh bỏ lìa ngã mạn phát Bồ đề tâm chí nguyện được thành tựu viên mãn, an trụ nơi chỗ trụ của Bồ Tát, được các căn minh lợi của Bồ Tát, tu tập thiện căn chứng Phật chủng trí.
“Having thus dedicated their roots of goodness to enlightening beings,
the great enlightening beings then dedicate them to all sentient beings,
wishing that the roots of goodness of all sentient beings, even the
slightest — even seeing a Buddha, hearing teaching, or respecting holy
mendicants, for but the time of a fingersnap — all be free from obstruction,
that they reflect on the completeness of Buddhas, on the techniques of
the teaching, and on the nobility and importance of the community,
that they not be separated from vision of the Buddha, that their
minds become pure, that they attain the qualities of buddhahood, build
up immeasurable virtue, purify spiritual powers, give up doubts about
the truth and live according to the teaching. As they make such dedica-
tion to sentient beings, they also make such dedication for the Buddhist
disciples and the individual illuminates.
Ðại Bồ Tát đem thiện căn hồi hướng Bồ Tát như thế rồi, lại đem hồi hướng tất cả chúng sanh, nguyện cho tất cả chúng sanh có bao nhiêu thiện căn nhẫn đến rất ít chừng khoảng khảy ngón tay, đều được thấy Phật nghe pháp, kính Tăng, những thiện căn kia đều lìa chướng ngại, niệm Phật viên mãn, niệm Pháp phương tiện, niệm Tăng tôn trọng, chẳng lìa thấy Phật, tâm được thanh tịnh được các Phật pháp, họp vô lượng đức, thanh tịnh những thần thông, bỏ niệm nghi pháp an trụ đúng Phật giáo.
Bồ Tát này vì Thanh Văn và Bích Chi Phật hồi hướng cũng như vậy.
“Also they pray that all sentient beings forever leave all miserable
places like hells, ghosthood, and animality, the nether world, and so on,
that they further develop the supreme will for enlightenment, concen-
trate their minds on the earnest seareh for knowledge of all means of
liberation, never repudiate the true teaching of the Buddhas, attain the
peace of the Buddhas, be pure in body and mind, and realize omniscience.
Lại nguyện tất cả chúng sanh lìa hẳn Ðịa ngục,Ngạ qủy, Súc sanh, Diêm La Vương v.v… Tất cả nơi ác khổ, tăng trưởng tâm Vô thượng Bồ Ðề, chuyên ý siêng cầu Nhứt thiết chủng trí, lìa hẳn hủy báng chánh pháp Chư Phật được Phật an lạc thân tâm thanh tịn chứng Nhứt thiết trí.
“The foundations of goodness of great enlightening beings are all
correctly initiated, built up, and developed by great vows, causing
them all to expand and to be completely fulfilled.
Ðại Bồ Tát có bao nhiêu thiện căn đều do đại nguyện phát khởi, chánh phát khởi, tích tập chánh tích tập, tăng trưởng chánh tăng trưởng, đều rộng lớn đầy đủ.
“When great enlightening beings live at home with spouses and
children, they never tor a moment give up the determination tor
enlightenment; with correct mindfulness they meditate on the realm of
all knowledge, liberating themselves and ofhers, enabling them to reach
the ultimate. Using appropriate means they transform the members of
their own households, causing them to enter the knowledge of enlight-
ening beings and causing them to develop to maturity and attain
liberation. Though they live together, their minds have no attachments.
By their basic great great compassion they remain in home life, and
because of their kindness they harmonize with their spouses and children,
with no hindrance to the pure Way of enlightening beings.
Ðại Bồ Tát tại gia cùng vợ con ở chung chưa từng tạm bỏ tâm Bồ Ðề, chánh niệm tư duy cảnh Nhứt thiết chủng trí, tự độ độ người khiến được rốt ráo. Dùng thiện phương tiện giao hóa quyến thuộc của mình, khiến vào trí Bồ Tát, khiến thành thục giải thoát. Dầu cùng ở chung mà không lòng chấp trước. Vì bổn đại bi mà hiện ở nhà, vì từ tâm mà tùy thuận vợ con, nơi đạo thanh tịnh của Bồ Tát vẫn không chướng ngại.
“Though great enlightening beings be in home life and work at
various occupations, they never for a moment give up the will tor
omniscience; that is, whether they are dressing, eating, taking medicine,
washing, looking around, walking, standing still, sitting, reclining,
speaking, thinking, asleep or awake, whatever they are doing their
minds always dedicate it to the path of omniscience. They concentrate
and contemplate unremittingly, because they want to aid all sentient
beings and settle them in enlightenment; with immeasurable great vows
they embody countless great roots of goodness, diligently cultivating
virtues to save everyone. They forever divorce arrogance and indul-
gence and proceed surely toward the state of omniscience, never con-
ceiving any intention of turning to another path. Always contemplating
the enlightenment of all Buddhas, they forever abandon all impure
ways. Cultivating practice of what all enlightening beings learn, they
encounter no obstruction on the path of omniscience and stand on the
ground of knowledge. They are devofed to recitation and learning, and
collect roots of goodness by means of immeasurable knowledge. Their
minds have no affection for any mundane realm, nor are they obsessed
with what they practice. They wholeheartedly accept and hold the
principles of the Buddhas’ teachings. Thus enlightening beings living at
home cultivate and internalize roots of goodness in every way, cause
them to grow, and dedicate them to the unsurpassed enlightenment,
which is the essence of the Buddhas.
Ðại Bồ Tát dầu ở nhà tạo lập sự nghiệp, nhưng chưa từng tạm bỏ tâm Nhứt thiết trí. Nghĩa là trong những lúc mặc y phục, ăn thực phẩm, uống thuốc men, tắm rửa, xoay ngó, đi, đứng ngồi, nằm, thân, ngữ, ý hoặc ngủ, hoặc thức v.v… lòng Bồ Tát luôn hướng đến đạo Vô thượng Giác chuyên nhiếp niệm tư duy nơi đây không lúc nào tạm bỏ rời.
Vì muốn lợi ích tất cả chúng sanh, mà Bồ Tát an trụ vô lượng đại nguyện Bồ Ðề, nhiếp thủ vô số thiện căn rộng lớn, siêng thật hành những đều lành, cứu độ khắp tất cả mọi loài, xa tất cả kiêu mạn phóng dật, quyết định đến bực Nhứt thiết trí, trọn chẳng để tâm đến những đạo khác, thường quán sát Chư Phật Bồ Ðề, bỏ hẳn tất cả những pháp tạp nhiễm, tu hành tất cả chỗ sở học của Bồ Tát, nơi đạo Nhứt thiết trí, không bị chướng ngại, trụ nơi trí địa, ưa thích tụng tập, dùng vô lượng trí huệ họp những thiện căn, tâm chẳng luyến thích tất cả thế gian, cũng chẳng nhiễm trước nơi công hạnh của mình thật hành, chuyên tâm thọ trì giáo pháp của Chư Phật.
Bồ Tát ở tại gia nhiếp khắp những thiện căn khiến được tăng trưởng mà hồi hướng Chư Phật vô thượng Bồ Ðề như vậy.
“At such a time, enlightening beings, even when they are feeding
domestic animals, all make this vow: ‘I should cause these creatures to
leave the realm of animality, to be helped and comforted and ultimately
be liberated, having forever crossed over the ocean of suffering, eter-
nally annihilating painful sensations, forever removing suffering physi-
cal and mental elements, eternally cutting off painful feeling, accumulation
of pain, painful actions, the causes of pain, the roof of suffering, and
painful situations. May these sentient beings all be able to leave these
behind.’ Thus do enlightening beings focus their thoughts on all sen-
tient beings; with their roots of goodness in the forefront, they dedicate
them to knowledge of ways of liberation for all beings.
Bấy giờ Bồ Tát nhẫn đến thí cho Súc sanh ăn một nắm một hột, đều nguyện rằng : Tôi sẽ làm cho các loài này thoát khỏi báo Súc sanh mà được lợi ích an vui rốt ráo giải thoát, khỏi hẳn biển khổ, dứt hẳn khổ thọ, trừ hẳn khổ uẩn, dứt hẳn khổ giác, khổ tụ, khổ hạnh, khổ nhơn, khổ bổn và các khổ xứ. Nguyện cho những chúng sanh kia đều được giải thoát tất cả khổ.
“When enlightening beings first engender the determination for
enlightenment, they include all sentient beings, cultivating the founda-
tions of goodness and dedicating them to causing all sentient beings to
leave the plain of birth and death forever, to attain the unhindered bliss
of the enlightened, emerge from the ocean of afflictions, practice the
path of the Buddha teachings, to fill everywhere with kindness, to have
vast powers of compassion, cause all to attain pure bliss, preserve
foundations of goodness, draw near to the qualities of Buddhahood,
leave the realms of demons and enter the realm of Buddhas, to cut off
the seeds of mundamty and plant the seeds of enlightenment, to abide
in the truth which is equal in all times.
Bồ Tát chuyên tâm tưởng nhớ tất cả chúng sanh như vậy, dùng thiện căn này làm trên hết, vì họ mà hồi hướng Nhứt thiết chủng trí.
Bồ Tát sơ phát tâm Bồ Ðề nhiếp khắp chúng sanh tu những thiện căn đều đem hồi hướng cả, muốn cho họ thoát hẳn sanh tử, được sự khoái lạc vô ngại của các Như Lai, ra khỏi biển phiền não, tu Phật đạo, từ tâm cùng khắp, bi lực rộng lớn, khiến khắp tất cả được vui tịch tịnh, gìn giữ thiện căn, gần gũi Phật pháp, ra khỏi cảnh ma, vào cảnh Phật, dứt giống thế gian, gieo giống Phật, trụ trong pháp tam thế bình đẳng.
Bao nhiêu thiện căn đã, sẽ và hiện tập họp đều đem hồi hướng như vậy cả.
“Enlightening beings dedicate all the roots of goodness they have
collected, will collect, and are collecting in this way, and form this
thought: ‘As the Buddhas and enlightening beings of the past have
practiced — respectfully serving all enlightened ones, liberating sentient
beings so that they be forever emancipated, diligently cultivating and
practicing all roots of goodness and dedicating them all without
attachment, without depending on form, without attachment to sensation,
without erroneous conceptions, without creating fixed patterns, with-
out grasping consciousness, detached from the senses, not dwelling on
things of the world, delighting in transcendence, knowing that all
things are empty as space, come from nowhere, are unborn and
not perishing, and have no true reality; having no attachments, they
avoided all discriminatory views, were imperturbable and unaffected by
anything, never lost awareness or calm, abiding in reality without
form, detached from all appearances, all being one; thus they entered
deeply into the nature of all things, always happily practiced all-sided
virtues, and saw the congregation of all Buddhas — just as all those
enlightened ones of the past dedicated roots of goodness in this way, I,
too, should practice dedication in this way, understand these principles,
actualize these principles, and, based on these principles determine to
learn and act, not violating the specifics of the teachings, knowing that
what is practiced is like illusions, like shadows, like the moon’s image
in the water, like reflections in a mirror, manifested by the combination
of causes and conditions, proceeding thus up to the ultimate stage of
enlightenment.’
Bồ Tát lại nghĩ rằng: như Chư Phật và Bồ Tát quá khứ thật hành những sự cung kính cúng dường Chư Phật, độ chúng sanh khiến được giải thoát, siêng năng tu tập tất cả thiện căn đều đem hồi hướng mà không chấp trước. Nghĩa là chẳng tựa nơi sắc, chẳng nhiễm nơi thọ, không tưởng điên đảo, chẳng khởi hành, chẳng theo thức, bỏ rời sáu trần, chẳng trụ thế pháp, thích đạo xuất thế, biết tất cả pháp đều như hư không, không từ đâu đến, bất sanh, bất diệt, không chơn thiệt, không nhiễm trước, xa lìa tất cả những kiến chấp phân biệt; động chẳng chuyển, chẳng mất, chẳng hoại, trụ nơi thiệt kế không tướng lìa tướng chỉ là nhứt tướng.
Bồ Tát thâm nhập tất cả pháp tánh như vậy, thường thích tu tập thiện căn phổ môn, đều thấy tất cả chúng hội Chư Phật.
Như thiện căn hồi hướng của tất cả Như Lai thời quá khứ, tôi cũng hồi hướng như vậy hiểu pháp như vậy, chứng pháp như vậy, y pháp như vậy mà phát tâm tu tập chẳng trái pháp tướng, biết chỗ tu hành như huyễn, như ảnh, như trăng đáy nước, như tượng trong gương, nhơn duyên hòa hiệp mà hiển hiện nhẫn đến bực Như Lai rốt ráo.
“Great enlightening beings also form this thought: ‘Just as the Bud-
dhas of the past, when cultivating enlightening practice, dedicated roots
of goodness in this way, and so do and will the Buddhas of the present
and future, so too should I arouse my will and dedicate roots of
goodness like those Buddhas — with foremost dedication, excellent
dedication, supreme dedication, superior dedication, unexcelled dedication,
peerless dedication, unequalled dedication, incomparable dedication,
honorable dedication, sublime dedication, impartial dedication, straight-
forward dedication, virtuous dedication, far-reaching dedication, good
dedication, pure dedication, dedication free from evil, dedication not
going wrong.’
Bồ Tát lại nghĩ rằng: như Chư Phật thời quá khứ lúc tu hạnh Bồ Tát đem những thiện căn hồi hướng như vậy, Chư Phật hiện tại và vị lai đều cũng như vậy.
Nay tôi cũng nên phát tâm như chỗ phát tâm của Chư Phật; đem những thiện căn mà dùng hồi hướng: hồi hướng đệ nhứt, hồi hướng thắng, hồi hướng tối thắng, hồi hướng thượng, hồi hướng vô thượng, hồi hướng vô đẳng, hồi hướng vô đẳng đẳng, hồi hướng vô tỉ, hồi hướng vô đối, hồi hướng tôn, hồi hướng diệu, hồi hướng bình đẳng, hồi hướng chánh trực, hồi hướng đại công đức, hồi hướng quảng đại, hồi hướng thiện, hồi hướng thanh tịnh, hồi hướng ly ác, hồi hướng bất tùy ác.
“Once enlightening beings have dedicated roots of goodness in this
way, they accomplish pure action of body, speech, and mind, and abide
in the abode of enlightening beings without any faults. Practicing good
works, they get rid of evils of action and speech. Their minds are
without flaw or defilement; they cultivate omniscience, abide in an
immeasurably broad mind, and know all phenomena create nothing.
They abide in transmundane states and are not influenced by things of
the world. They analyze and comprehend innumerable actions and fully
develop skill in means of dedication, extirpating the roof of grasping
and attachment forever. This is the great enlightening beings’ third
dedication, dedication equal to all Buddhas.
Bồ Tát đem những thiện căn chánh hồi hướng như thế rồi, thời thành tựu thân, ngữ, ý nghiệp thanh tịnh, trụ nơi an trụ của Bồ Tát, không có các lỗi lầm, tu tập nghiệp lành, lìa sự ác nơi thân, ngữ, tâm, ý không tội lỗi, tu Nhứt thiết trí, trụ nơi tâm quảng đại, biết tất cả pháp không sở tác, trụ pháp xuất thế, chẳng nhiễm thế pháp, phân biệt rõ biết vô lượng các nghiệp, thành tựu hồi hướng phương tiện khéo léo, nhổ hẳn tất cả cội gốc chấp trước.
Thưa Chư Phật tử! Ðây là đại Bồ Tát nhứt thiết Phật hồi hướng thứ ba.
“When great enlightening beings abide in this dedication, they enter
deeply into the acts of all the enlightened ones, proceed toward the
supremely wonderful qualities of the enlightened, enter into the pro-
found realm of pure knowledge, do not depart from the works of
enlightening beings, are able to distinguish skillful, subtle means of
liberation, enter the profound realm of truth, know well the process of
practice of enlightening beings, enter the family of the Buddhas, and
with skill in means analyze and comprehend all things. Though they
appear physically, born in the world, yet their minds have no attach-
ment to things of the world.”
Then the enlightening being Diamond Banner, spiritually empow-
ered by the Buddha, looked over the ten directions and said in verse.
Ðại Bồ Tát trụ bực hồi hướng này, thâm nhập nghiệp hạnh của tất cả Như Lai, xu hướng công đức thắng diệu của Như Lai, vào sâu trong cảnh giới trí huệ thanh tịnh, chẳng rời hạnh nghiệp của tất cả Bồ Tát, hay khéo phân biệt phương tiện xảo diệu, nhập thâm pháp giới, khéo biết thứ đệ tu hành của Bồ Tát, vào chúng tánh của Phật, dùng phương tiện xảo diệu phân biệt rõ biết vô lượng vô biên tất cả các pháp. Dầu hiện thân sanh vào thế gian nhưng không nhiễm trước thế pháp.
Bấy giờ Kim Cang Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Phật, quán sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng:
Those great enlightening beings
Practice the ways of dedication of past Buddhas,
And also cultivate the practices
Of all the Guides of future and present.
They attain peace and case in all realms.
Praised by all the enlightened ones;
Their expansive light and pure eyes
They dedicate all to the great Brilliant Sages.
Blisstul are the bodies of enlightening beings,
And so are all their senses;
Such immeasurable, supremely wonderful bliss
They all dedicate to the Supreme.
All the good ways in the world
And those the Buddhas have accomplished,
All they foster, excepting none,
Whereby they joyfully benefit the living.
Their joys in the world are infinite:
These they dedicate to sentient beings,
Vowing to cause them all to be tilled
With the bliss of the Human Lion.
The various raptures known and perceived
By the Buddhas of all lands
They vow to foster in sentient beings
And become great lamps lighting the world.
The supremely refined pleasure of enlightening beings
They dedicate to all sentient beings:
Though they are dedicated to the benefit of the living,
Yet they have no attachment to dedication.
Enlightening beings, practicing this dedication,
Produce a mind of infinite compassion;
The virtues of dedication practiced by the Buddhas
They vow to cultivate and fulfill the same way.
The subtle bliss of the vehicle of omniscience
Such as attained by the Supreme,
As well as the infinite bliss of enlightening practice
Carried out while they’re in the world,
The bliss of peace while appearing to be in the world,
The bliss of tranquility, always guarding the senses.
All they dedicate to sentient beings
To cause all to develop unexcelled knowledge.
Their work is not physical, verbal, or mental,
Yet doesn’t exist apart from this;
They just destroy ignorance by expedient means
And thus develop supreme knowledge.
The deeds practiced by enlightening beings
Build up immeasurable excellent virtues;
Following the Enlightened, born in the family of Buddhas,
Dispassionate and calm, they dedicate aright.
They take care of all beings there are
In all worlds of the ten directions,
Dedicating all roots of goodness to them,
Vowing to fill them with the bliss of peace.
They do not seek benefit for themselves;
They want to cause all to be at ease.
They have never entertained arbitrary conceptions:
They only observe all things to be empty and selfless.
To all the true children of Buddhas
Seen by the innumerable Supreme Ones in the ten directions
They dedicate all roots of goodness,
Vowing to hasten their ultimate enlightenment.
The conscious creatures in all worlds
They embrace impartially, without exception;
With the good works they do themselves
They cause those beings to soon become Buddhas.
The countless, boundless great vows
Expounded by the unexcelled Guides
Vow that all Buddha-childrcn become pure
And fulfill all their aspirations.
Observing all worlds in the ten directions,
Donating all their virtues to them,
They vow to cause them all to be wonderfully adorned:
Thus do enlightening beings practice dedication.
Their minds do not weigh dualistic things;
They only constantly realize the nonduahty of things.
In all things, whether dual or nondual.
They ultimately have no attachments.
All the worlds in the ten directions
Are sentient beings’ conceptualizations;
Not apprehending anything in conception or nonconception,
Thus are conceptions understood.
The enlightening beings’ bodies are purified.
So their minds are pure, without blemish:
Their speech being already pure and faultless.
Know that their minds are pure, without attachment.
Single-mindedly they think of the past Buddhas
And also of the Guides of the future.
As well as the Honored Ones of the present:
They study the teachings they all expound.
All enlightened ones of past, present, and future
Have clear penetrating knowledge, their minds unobstructed;
Because they want to help sentient beings
They dedicate myriad works to enlightenment.
Those of foremost wisdom, vast wisdom,
Wisdom free from falsehood, without delusion,
Impartial, true wisdom, pure wisdom,
And supreme wisdom, explain this way.
Như Bồ Tát Ma ha tát đó
Tu pháp hồi hướng Phật quá khứ
Cũng học công hạnh của Chư Phật
Hiện tại cùng Chư Phật vị lai.
Nơi các cảnh giới được an vui
Chỗ ngợi khen của tất cả Phật
Mắt sáng suốt thanh tịnh rộng lớn
Ðều đem hồi hướng đại trí huệ.
Bồ Tát thân căn các sự vui
Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt cũng như vậy.
Vô lượng sự vui thượng diệu ấy
Ðều đem hồi hướng bực tối thắng.
Những pháp lành của các thế gian
Và chỗ thành tựu của Chư Phật
Nơi đó nhiếp cả không để thừa
Trọn tùy hỷ lợi ích chúng sanh.
Thế gian tùy hỷ vô lượng thứ.
Khiến vì chúng sanh mà hồi hướng
Những sự vui của đấng Nhơn Sư
Nguyện cho chúng sanh đều viên mãn.
Tất cả quốc độ tất cả Phật
Phàm chỗ thấy biết những sự vui
Nguyện cho chúng sanh đều được cả.
Làm đền sáng lớn chiếu thế gian.
Bồ Tát chỗ được vui thắng diệu
Ðều đem hồi hướng cho quần sanh
Dầu vì quần sanh nên hồi hướng
Nhưng không chấp trước nơi hồi hướng
Bồ Tát tu hành hồi hướng này
Hưng khởi vô lượng tâm đại bi
Như đức hồi hướng của Phật tu
Nguyện tôi tu hành trọn viên mãn.
Như chư Như Lai đã Thành tựu
Ðạo Nhứt thiết trí vui vi diệu
Và việc làm ở đời của tôi
Công hạnh Bồ Tát vui vô lượng
Thị hiện vào các loài an vui
Luôn gìn các căn vui tịch tịnh
Ðều đem hồi hướng các quần sanh
Khiến khắp tu thành trì vô thượng.
Chẳng phải thân ngữ, ý, là nghiệp.
Cũng chẳng rời đây mà có riêng.
Chỉ dùng phương tiện diệt si tối
Như vậy tu thành trí vô thượng.
Bồ Tát tu hành các công hạnh
Chứa họp vô lượng thắng công đức
Tùy thuận Như Lai sanh nhà Phật.
Yên lặng chẳng loạn chánh hồi hướng.
Tất cả thế giới ở mười phương
Bao nhiêu chúng sanh đều nhiếp thọ
Ðều đem thiện căn hồi hướng kia
Nguyện họ đầy đủ vui an ổn.
Chẳng vì thân mình cầu lợi ích
Muốn khiến tất cả đều an vui
Chưa từng tạm khởi tâm hí luận
Chỉ quán các pháp không vô ngã.
Thập phương vô lượng chư Như Lai.
Thấy biết tất cả chơn Phật tử
Ðều đem thiện căn hồi hướng cho
Mong mau được thành Vô thượng Giác.
Tất cả loài hàm thức thế gian
Bình đẳng nhiếp thủ không bỏ sót
Ðem những nghiệp lành của tôi tu
Khiến chúng sanh kia mau thành Phật
Vô lượng vô biên những đại nguyện
Vô thượng Ðạo Sư đã diễn thuyết
Nguyện các Phật tử đều thanh tịnh
Tùy tâm họ thích đều thành tựu
Xem khắp các thế giới mười phương
Ðều đem công đức thí chúng sanh
Nguyện họ đều đủ diệu trang nghiêm
Bồ Tát tu hồi hướng như vậy.
Lòng chẳng gẫm suy pháp sai biệt
Chỉ luôn rõ thấu pháp vô nhị
Các pháp hoặc hai hoặc chẳng hai
Trong đó rốt ráo không chấp trước.
Tất cả thế gian trong mười phương
Ðều là chúng sanh tưởng phân biệt
Nơi tưởng, phi tưởng không chỗ được
Với các tưởng rõ thấu như vậy.
Bồ Tát kia thân đã thanh tịnh
Thời ý thanh tịnh không lỗi lầm
Ngữ nghiệp thanh tịnh không sái quấy
Phải biết ý thanh tịnh không nhiễm.
Nhứt tâm chánh niệm Phật quá khứ
Cũng nhớ Chư Phật đời vị lai
Và nhớ hiện tại đấng Thế Tôn
Bồ Tát đều học pháp của Phật.
Tất cả Chư Phật trong ba thời
Trí huệ sáng suốt tâm vô ngại
Vì muốn lợi ích các chúng sanh
Nên họp công hạnh mà hồi hướng.
Trí huệ đệ nhứt, huệ rộng lớn
Huệ chẳng hư vọng, huệ vô đảo
Thiệt trí bình đẳng, huệ thanh tịnh
Ðấng huệ tối thắng nói như vậy.
“What is the great enlightening beings’ dedication reaching all places?
Here when the enlightening beings cultivate all roots of goodness, they
think, ‘May the power of virtue of these roots of good reach all places,
just as reality extends everywhere without exception, reaching all things,
all worlds, all living beings, all lands, all phenomena, all space, all time,
all that is compounded and uncompounded, all speech and sound; may
these roots of goodness in the same way reach the abodes of all
enlightened ones, and be as offerings to all those Buddhas, the past
Buddhas whose vows are all fulfilled, the future Buddhas, fully adorned,
and the present Buddhas, their lands, sites of enlightenment, and
congregations, filling all realms throughout the entirety of space. I
aspire, by virtue of the power of faith, by virtue of great knowledge
without obstruction, by virtue of dedication of all roots of goodness, to
present offerings like those of the celestials, filling infinite worlds.’
Thưa Chư Phật tử! Thế nào là đại Bồ Tát chí nhứt thiết xứ hồi hướng?
Ðại Bồ Tát này lúc tu tập tất cả thiện căn tự nghĩ rằng: Nguyện năng lực của thiện căn công đức này đến tất cả chỗ.
Ví như thiệt tế không chỗ nào là chẳng đến, đến tất cả vạt, đến tất cả thế gian, đến tất cả chúng sanh, đến tất cả quốc độ, đến tất cả pháp, đến tất cả không gian, đến tất cả thời gian, đến tất cả hữu vi và vô vi, đến tất cả ngôn ngữ âm thinh.
Nguyện thiện căn này cũng như vậy, đến khắp mọi chỗ của tất cả Như Lai, cúng duờng tất cả Chư Phật trong ba thời, Chư Phật quá khứ nguyện hạnh đều viên mãn, Chư Phật vị lai đầy đủ sự trang nghiêm, chư phật hiện tại cùng quốc độ đạo tràng chúng hội cùng khắp tất cả hư không pháp giới.
Nguyện do tín giải oai lực lớn, do trí huệ rộng lớn không chướng ngại, do tất cả thiện căn đều hồi hướng, nên dùng những đồ cúng dường như của Chư Thiên để dâng lên Chư Phật, khắp vô lượng vô biên thế giới.
“Great enlightening beings also form this thought: ‘The Buddhas
pervade all realms in space, the worlds of all the unspeakably many
world systems in the ten directions produced by various actions —
unspeakably many buddha-lands, buddha-spheres, all kinds of worlds,
infinite worlds, worlds without boundaries, rotating worlds, sideways
worlds, worlds facing upward and downward — in all worlds, such as
these, they manifest a span of life and display various spiritual powers
and demonstrations. There are enlightening beings there who by the
power of resolution appear as Buddhas in all worlds for the sake of
sentient beings who can be taught; with the knowledge of where all
paths lead, they reveal everywhere the boundless freedom and spiritual
power of the enlightened, the body of reality extending everywhere
without distinction, equally entering all realms of phenomena and
principles, the body of inherent buddhahood neither born nor perishing,
yet by skillful expedients appearing throughout the world, because of
realizing the true nature of things, transcending all, because of attain-
ment of nonregressing power, because of birth among the people of
vast power of unobstructed vision of the enlightened.’
Ðại Bồ Tát lại nghĩ rằng: Chư Phật Thế Tôn cùng khắp tất cả hư không pháp giới, những hạnh nghiệp tạo ra bất khả thuyết thế giới ở mười phương, bất khả thuyết Phật độ, Phật cảnh giới, các loại thế giới, vô lượng thế giới, thế giới xoay chuyển, thế giới nghiêng, thế giới úp, thế giới ngửa.
Trong tất cả thế giới như vậy, Chư Phật hiện tại trụ thế thị hiện những thần thông biến hóa.
Trong những thế giới đó, có Bồ Tát dùng sức thắng giải vì những chúng sanh đáng được giáo hóa mà khắp khai thị vô lượng thần lực tự tại của Như Lai, pháp thân đến khắp không sai biệt, bình đẳng vào khắp tất cả pháp giới, thân Như Lai tạng bất sanh bất diệt, dùng phương tiện thiện xảo hiện khắp thế gian chứng pháp thiệt tánh, vì vượt hơn tất cả vậy, vì được sức bất thối vô ngại vậy, vì sanh ở trong tri kiến vô ngại đức tánh rộng lớn của Như Lai.
“Great enlightening beings, by all the roots of goodness that they
plant, vow to make offerings to all such Buddhas, with myriad beauti-
ful flowers, myriad wonderful incenses, garlands, parasols, banners,
pennants, clofhing, lamps, and all ofher articles of adornment, and to
do the same to effigies, tombs, and shrines of Buddhas. Their roots of
goodness they dedicate in this way, with unconfused dedication, single-
minded dedication, autonomous dedication, respectful dedication, un-
shakable dedication, nonobsessivc dedication, independent dedication,
dedication without the mentality of worldly people, dedication without
haste or struggle, dedication with a tranquil mind.
Thưa Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát đem tất cả thiện căn của mình vun trồng, nguyện ở nơi Chư Phật như vậy, dùng hoa đẹp, hương thơm, tràng hoa, lọng, tràng phan, y phục, đèn đuốc và tất cả những đồ trang nghiêm khác đều dâng lên Ðức Phật. Nơi tượng Phật, tháp Phật cũng đều cúng dường như vậy.
Ðem thiện căn này hồi hướng như vậy: những là bất loạn hồi hướng, nhứt tâm hồi hướng, tự ý hồi hướng, tôn kính hồi hướng, bất động hồi hướng, vô trụ hồi hướng, vô y hồi hướng, không tâm chúng sanh hồi hướng, không tâm đua tranh hồi hướng, tâm tịch tịnh hồi hướng.
“They also think, ‘Throughout the space of the cosmos, in all ages,
past, future, and present, the Buddhas, the World Honored Ones,
attain omniscience and become enlightened; with innumerable different
names, at various times, they manifest attainment of true awakening,
all abiding tor a span of life, throughout the future, each adorning
themselves with the adornments of the realm of reality, their sites of
enlightenment and congregations pervading the cosmos; in all lands
they appear according to the time and perform the work of buddhahood.
To all these Buddhas I dedicate roots of goodness; I vow to offer
respectfully countless canopies of fragrance, banners of fragrance, pen-
nants of fragrance, drapes of fragrance, nets of fragrance, statues of
fragrance, lights of fragrance, flames of fragrance, clouds of fragrance,
thrones of fragrance, parks of fragrance, shelters of fragrance, worlds of
fragrance, mountains of fragrance, seas of fragrance, rivers of fragrance,
trees of fragrance, robes of fragrance, lofus blossoms of fragrance,
palaces of fragrance, flowers of fragrance; infinite canopies of flowers,
and so on, up to infinite palaces of flowers; boundless canopies of
garlands, and so on, up to boundless palaces of garlands; incomparably
many canopies of powdered incense, and so on, up to incomparably
many palaces of powdered incense; uncountable canopies of perfume,
and so on, up to uncountable palaces of perfume; incalculable canopies
of raiment, and so on, up to incalculable palaces of raiment; inconceiv-
able numbers of canopies of jewels, and so on, up to inconceivable
numbers of palaces of jewels; immeasurable numbers of canopies of
lamps, and so on, up to immeasurable numbers of palaces of lamps;
unspeakable numbers of canopies of ornaments, and so on, up to
unspeakable numbers of palaces of ornaments; unspeakably unspeakable
numbers of canopies, banners, pennants, drapes, nets, statues, lights,
flames, clouds, scats, parks, shelters, lands, mountains, seas, rivers,
trees, robes, lofus blossoms, and palaces, all made of jewel crystals, all
unspeakably unspeakable in number: in each of these objects are count-
less balustrades, palaces, bowers, doors, crescents, defensive barriers,
windows, pure jewels, and ornaments — all such offerings I present to
those Buddhas, aspiring to cause all worlds to become purified and all
sentient beings to attain emancipation, abide in the stage of the ten
powers and attain unhindered understanding of truth; to cause all sen-
tient beings to be fully endowed with bases of goodness, to gain
complete self-mastery, to have minds as infinite as space, going to all
fields without going anywhere, entering all lands, passing on good
ways, always able to sec Buddhas, planting roots of goodness, accomp-
lishing the great vehicle, not clinging to anything, replete with virtue,
establishing innumerable practices, entering into all the boundless realms
of reality, developing the spiritual faculties of the Buddhas, and attain-
ing the omniscient knowledge of the enlightened ones. Just as selfless-
ness includes all things, so also may my roots of goodness include all
the Buddhas by making offerings to them all; include all truths by
understanding them without hindrance; include all enlightening beings
by ultimately having the same roots of goodness; include all practices of
enlightening beings by fulfillment through the power of my original
vows; include all enlightening beings’ understandings of things by com-
prehending all things without obstruction; include all the great spiritual
powers of the Buddhas by perfecting innumerable roots of goodness;
include all the powers and fearlessnesses of the Buddhas by developing
immeasurable will and fulfilling them all; include all the enlightening
beings’ methods of meditation, powers of elucidation, and concentra-
tion formulae by being able to illumine and comprehend nonduahty;
include the Buddhas’ skill in means by manifesting the great spiritual
powers of the enlightened; include all the past, present, and future
Buddhas’ birth in the world, attainment of enlightenment, turning the
wheel of true teaching, taming sentient beings, and entering final decease,
by respectfully presenting offerings to all of them everywhere; include
all worlds of the ten directions by adorning and purifying buddha-lands
to the ultimate degree; include all ages by appearing therein and cultivat-
ing enlightening practice unceasingly; include all realms of being by
appearing to be born therein; include all realms of sentient beings by
fulfilling the practice of the Universally Good enlightening being; in-
clude all delusive habit energy by using appropriate means to clean it all
away; include the innumerable differences in faculties of sentient beings
by knowing them all; include the understandings and inclinations of all
sentient beings by causing them to get rid of contusion and defilement
and attain purity; include all activities that edify sentient beings by
appearing in forms appropriate to their needs; include all ways of
adaptively responding to sentient beings by entering into all realms of
sentient beings; and include the essence of knowledge of all enlightened
ones by preserving the teachings of the Buddhas.’
Ðại Bồ Tát lại nghĩ rằng: Khắp không gian, tột thời gian, trong tất cả kiếp, Phật Thế Tôn được Nhứt thiết trí thành đạo Bồ đề, có vô lượng danh tự sai biệt. Trong những lúc hiện thành bực Chánh Giác trọn đều trụ thọ tận thuở vị lai. Chư Phật đều dùng pháp giới trang nghiêm mà trang nghiêm thân mình, đạo tràng chúng hội khắp cùng pháp giới tất cả quốc độ, tùy lúc xuất thế mà làm Phật sự.
Tất cả Chư Phật Như Lai như vậy, tôi đem thiện căn đều hồi hướng khắp cả. Nguyện dùng vô số lọng thơm, tràng thơm, phan thơm, trướng thơm, lưới thơm, tượng thơm, ánh sáng thơm, ngọn lửa thơm, mây thơm, toà thơm, chỗ kinh hành thơm, chỗ ở thơm, thế giới thơm, núi thơm, biển thơm, sông thơm, cây thơm, y phục thơm, hoa sen thơm, cung điện thơm . . . mỗi thứ đều vô số. Lại dùng vô biên lọng tràng hoa nhẫn đến vô biên cung điện tràng hoa. Lại dùng vô đẳng lọng hương thoa nhẫn đến vô đẳng cung điện hương thoa. Lại dùng bất khả sổ lọng hương bột nhẫn đến bất khả sổ cung điện hương bột. Lại dùng bất khả xưng lọng y phục nhẫn đến bất khả xưng cung điện y phục. Lại dùng bất khả tư lọng báu nhẫn đến bất khả tư cung điện lọng báu. Lại dùng bất khả lượng đèn sáng nhẫn đến bất khả lượng cung điện đèn sáng, lại dùng bất khả thuyết lọng đồ trang nghiêm. Lại dùng bất khả thuyết bất khả thuyết lọng ma ni bửu nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết cung điện ma ni bửu.
Trong mỗi mỗi cảnh giới như vậy đều có vô số lan can, vô số cung điện. Vô số lâu các, vô số cửa cái, vô số cửa song, vô số hình bán nguyệt, vô số báu thanh tịnh, vô số đồ trang nghiêm.
Ðem những vật cúng dường như vậy mà cung kính dưng lên tất cả Chư Phật đã kể ở trên.
Nguyện cho tất cả thế gian đều được thanh tịnh, tất cả chúng sanh đều được giải thoát trụ bực Thập địa, trong tất cả pháp được pháp minh vô ngại, khiến tất cả chúng sanh đầy đủ thiện căn đều được điều phục, tâm họ quảng đại vô lượng khắp cõi hư không, qua tất cả cõi mà không chỗ đến, vào tất cả cõi thật hành pháp lành, thường được thấy Phật vun trồng căn lành, thành tựu Ðại thừa chẳng chấp trước các pháp, đủ các điều lành lập vô lượng hạnh, vào khắp vô biên pháp giới, thành tựu thần lực của Chư Phật, được Phật trí.
Ví như vô ngã nhiếp khắp các pháp. cũng vậy những căn lành của tôi nhiếp khắp tất cả Chư Phật Như Lai vì đều cúng dường không sót vậy, nhiếp khắp tất cả vô lượng pháp vì đều có thể chứng ngộ vô ngại vậy, nhiếp tất cả chúng Bồ Tát vì rốt ráo đều đồng thiện căn vậy, nhiếp khắp tất cả hạnh Bồ Tát vì bổn nguyện lực đều viên mãn vậy, nhiếp khắp tất cả Bồ Tát pháp minh vì rõ thấu các pháp đều vô ngại vậy, nhiếp khắp đại thần lực của Chư Phật vì thành tựu vô lượng thiện căn vậy, nhiếp khắp các Phật lực vô úy vì phát tâm vô lượng viên mãn tất cả vậy, nhiếp khắp những tam muội biện tài đà la ni của Bồ Tát vì khéo có thể chiếu rõ pháp vô nhị vậy, nhiếp khắp phương tiện thiện xảo của Chư Phật vì thị hiện đại thần lực của Như Lai vậy, nhiếp khắp tám tướng thành đạo của tam thế Phật vì cung kính cúng dường đều khắp cả vậy, nhiếp khắp tất cả thế giới mười phương vì nghiêm tịnh Phật sát đều rốt ráo vậy, nhiếp khắp tất cả kiếp rộng lớn vì xuất hiện trong đó tu Bồ Tát hạnh không đoạn tuyệt vậy, nhiếp khắp tất cả mọi loài vì đều hiện thọ sanh trong đó vậy, nhiếp khắp tất cả chúng sanh giới vì đủ hạnh Phổ Hiền vậy, nhiếp khắp tất cả phiền não tập khí vì đều dùng phương tiện khiến thanh tịnh vậy, nhiếp khắp tất cả vô lượng căn tánh sai biệt của chúng sanh vì đều rõ biết vậy, nhiếp khắp tất cả tri giải sở dục của chúng sanh vì khiến họ lìa tạp nhiễm được thanh tịnh vậy, nhiếp khắp tất cả công hạnh giáo hóa chúng sanh vì tùy chỗ họ đáng được độ mà hiện thân vậy, nhiếp khắp tất cả loài chúng sanh đáng được độ vì đều vào tất cả chúng sanh giới vậy, nhiếp khắp tất cả trí tánh Như Lai vì hộ trì tất cả Phật giáo vậy.
“When great enlightening beings dedicate roots of goodness in this
way, they use the absence of object of attainment as a means: they do
not distinguish consequences in actions, they do not distinguish actions
in consequences; though they have no discrimination, they enter all
realms of phenomena and principles; though they have no striving, yet
they always abide in roots of goodness; though they initiate nothing,
yet they diligently practice excellent principles. They do not believe in
things, yet can enter deeply into them; they do not consider things as
existent, yet they know and see them all. Creation and noncreation are
bofh ungraspable. They know that by nature all things are never
independent. Though they see all things, yet they are not seeing anything;
they know everything without knowing anything.
Lúc đại Bồ Tát đem những thiện căn hồi hướng như vậy, thời dùng vô sở đắc làm phương tiện, ở trong nghiệp chẳng phân biệt báo, ở trong báo chẳng phân biệt báo, ở trong báo chẳng phân biệt nghiệp. Dầu không phân biệt mà vào khắp pháp giới. Dầu vô sở tác mà luôn trụ thiện căn. Dấu vô sở khởi mà siêng tu thắng pháp. Chẳng tin các pháp mà có thể thâm nhập các pháp. Chẳng có nơi pháp mà thấy biết tất cả pháp. Hoặc làm hay chẳng làm đều bất khả đắc. Biết các pháp tánh luôn chẳng tự tại. Dầu đều thấy các pháp mà không sở kiến. Dầu biết khắp tất cả mà không sở trì.
Bồ Tát rõ thấu cảnh giới như vậy, biết tất cả pháp lấy nhơn duyên làm căn bản, thấy pháp thân của Chư Phật, hiểu rõ thế gian đều như biến hóa, thấu rõ chúng sanh chỉ là một pháp không có hai tánh, chẳng bỏ nghiệp cảnh, phương tiện thiện xảo nơi hữu vi giới hiển thị vô vi pháp, mà chẳng hoại diệt tướng hữu vi, nơi vô vi giới hiển thị hữu vi pháp mà chẳng phân biệt tướng vô vi.
“Thus do enlightening beings comprehend the objective world, know-
ing that all things are based on causes and conditions. They see the
reality-body of all Buddhas and arrive at the untainted ultimate reality
of all things. They understand all worlds are like magical apparitions.
They clearly realize that sentient beings are only one phenomenon and
do not have two natures. They do not give up the realm of action: with
skill in expedient means they show the uncreated in the midst of the
realm of compounded things, without destroying the characteristics of
compounded things; they show compounded things in the midst of the
realm of the uncompoundcd, without distinguishing marks of the
uncompounded. Thus enlightening beings always observe all things as
ultimately null and void. They develop all pure roots of goodness and
arouse the will to save and profect sentient beings. Their knowledge
clearly realizes the ocean of all truths. They always gladly cultivate
practice to get rid of ignorance and folly. They have already fully
accomplished transmundane virtues, and they no longer practice worldly
ways. They have attained the pure eye of knowledge, stripped of the
blinders of ignorance, and with skill in means they practice the path
of dedication.
“Great enlightening beings, dedicating roots of goodness in this way,
accord with the will of all the Buddhas, beautify and purify all buddha-
lands, teach, edify, and mature all sentient beings, fully accept and
maintain all principles of the Buddhas, become supreme fields of bless-
ings for all sentient beings, become wise guides for all caravans, be-
come pure suns for all worlds. Each of their roots of goodness fills the
cosmos, able to rescue and safeguard all sentient beings and cause them
to be filled with pure virtuous qualities.
“When the great enlightening beings practice dedication in this way,
they are able to preserve the lineage of all Buddhas, to develop all
sentient beings to maturity, to beautify and purify all lands, to avoid
spoiling all works, to thoroughly understand all things, to impartially
observe the nonduality of all things, to go to all lands in the ten
directions, to comprehend the ultimate reality apart from desire, to
achieve pure faith, and to have clear, sharp faculties.
Bồ Tát quán sát tất cả pháp rốt ráo tịch diệt như vậy, thành tựu tất cả thiện căn thanh tịnh mà khởi tâm cứu hộ chúng sanh, trí huệ thấu suốt biển tất cả pháp, thường thích tu hành pháp lìa ngu si, đã thành tựu đủ công đức xuất thế, chẳng còn tu học pháp thế giới, được trí nhãn thanh tịnh lìa những si tối, dùng phương tiện khéo tu đạo hồi hướng.
Ðại Bồ Tát đem các thiện căn hồi hướng như vậy, làm vừa lòng Chư Phật, nghiêm tịnh tất cả Phật độ, giáo hóa thành tựu tất cả chúng sanh, thọ trì đầy đủ tất cả Phật pháp, làm phước điền tối thượng của tất cả chúng sanh, là Ðạo Sư trí huệ của tất cả người hành đạo, là mặt nhựt sáng tất cả thế gian, mỗi mỗi thiện căn rộng khắp pháp giới đều có thể cứu hộ tất cả chúng sanh, đều khiến họ thanh tịnh có đủ công đức.
Lúc đại Bồ Tát hồi hướng như vậy, có thể hộ trì tất cả Phật chủng, có thể thành thục tất cả chúng sanh, có thể chẳng hư hoại tất cả hạnh nghiệp, có thể rõ biết tất cả pháp, có thể bình đẳng quán sát các pháp vô nhị, có thể qua khắp thế giới mười phương, có thể rõ thấu thiệt tế ly dục, có thể thành tựu tín giải thanh tịnh, có thể đầy đủ căn thân minh lợi.
“This is great enlightening beings’ fourth dedication, dedication reach-
ing all places. When great enlightening beings abide in this dedication,
they achieve physical action reaching all places, being able to appear
responsively in all worlds; they achieve verbal action reaching all places,
expounding the truth in all places; they achieve mental action reaching
all places, accepting and holding the truth explained by all Buddhas;
they attain the power of psychic travel reaching everywhere, going in
response to beings’ minds; they attain rccollectivc and explanatory
powers reaching all places, able to please beings according to their
mentalities; they gain entry into the realm of reality reaching all places,
able to enter all worlds in a single pore; they attain entry into bodies
reaching all places, able to enter the bodies of all beings in the body of
one being; they attain universal perception of the ages reaching all
places, in each age always seeing all the Buddhas; they attain instanta-
neous universal perception reaching all places, moment to moment
seeing all the Buddhas appear before them. When great enlightening
beings attain dedication reaching all places, they are able to dedicate
roots of goodness in this way.’’
Then the enlightening being Diamond Banner, empowered by the
Buddhas, looked over the ten directions and said:
Ðây là đại Bồ Tát chí nhứt thiết xứ hồi hướng thứ tư.
Lúc đại Bồ Tát trụ bực hồi hướng này được thân nghiệp đến tất cả chỗ vì có thể ứng hiện khắp tất cả thế giới vậy, được ngữ nghiệp đến tất cả chỗ, vì thuyết pháp trong tất cả thế giới vậy, được nghiệp đến tất cả chỗ vì thọ trì tất cả Phật pháp vậy, được thần túc thông đến tất cả chỗ vì tùy theo tâm chúng sanh đều ứng đến vậy, được tùy chứng trí đến tất cả chỗ vì khắp có thể rõ thấu tất cả pháp vậy, được tổng trì biện tài đến tất cả chỗ vì đều tùy theo tâm chúng sanh khiến họ hoan hỷ vậy, được nhập pháp giới đến tất cả chỗ vì trong một chưn lông vào khắp tất cả thế giới vậy, được biến nhập thân đến tất cả chỗ vì nơi một thân chúng sanh vậy, được phổ kiến kiếp đến tất cả chỗ vì trong mỗi mỗi kiếp thường thấy tất cả Phật vậy, được phổ kiến niệm đến tất cả chỗ vì trong mỗi mỗi niệm tất cả Chư Phật đều hiện tiền vậy.
Ðại Bồ Tát được bực Chí Nhứt Thiết Xứ Hồi Hướng thời có thể đem thiện căn hồi hướng như vậy.
Bấy giờ Kim Cang Tràng Bồ Tát thừa oai lực của Ðức Phật, quán sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng:
To all internal and external worlds
Enlightening beings have no attachments at all,
Yet do not abandon works beneficial to sentient beings:
The great ones cultivate this kind of knowledge.
In all lands in the ten directions
They do not depend or dwell on anything;
They do not grasp things, such as livelihood,
And do not arbitrarily create distinctions.
They deal with all sentient beings
In all worlds in the ten directions;
Observing their essential nature has no existence,
They practice dedication reaching everywhere.
Dealing with all compounded and uncompounded things.
They do not entertain errant thoughts about them,
Or in regard to anything in the world:
The Lamps that Illumine the World are aware in this way.
The works carried out by enlightening beings
Are different in superior, middling, and lower grades;
In all of them they dedicate roots of goodness
To all the Buddhas of the ten directions.
Enlightening beings, by dedication, reach transcendence,
Accomplishing what they learn from the Buddhas;
They always think well based on subtle knowledge
And embody the best of human qualities.
Their pure roots of goodness they universally dedicate
To help the deluded, never abandoning them:
They enable all sentient beings to become
Unexcelled lamps that illumine the world.
They never conceptualize sentient beings
Nor think of things with false imagination;
Though in the world, they have no attachments,
Yet also do not abandon conscious creatures.
Enlightening beings always enjoy tranquil nullity
By following which they attain the realm of nirvana;
Yet they do not abandon the realm of sentient beings:
They have attained such subtle knowledge.
Enlightening beings do not conceptualize actions
And do not grasp their results:
All worlds are born from conditions —
Things cannot be seen apart from causality.
Deeply entering such realms,
They do not create vain discriminations therein:
The tamers of all sentient beings
Herein understand skilled dedication.
Tất cả những thế gian trong ngoài
Bồ Tát thảy đều không chấp trước
Chẳng bỏ hạnh lợi ích chúng sanh
Ðại Sĩ tu hành trí như vậy.
Tất cả quốc độ ở mười phương
Tất cả vô y và vô trụ
Chẳng lấy những pháp mạng sống thảy
Cũng chẳng vọng khởi những phân biệt
Những chúng sanh trong mười phương cõi
Nhiết khắp tất cả không để sót
Quán thể tánh kia không sở hữu
Chí nhứt thiết xứ khéo hồi hướng
Nhiếp khắp pháp hữu vi vô vi
Chẳng ở trong đó sanh vọng niệm
Nơi pháp thế gian cũng như vậy
Bực Chiếu Thế Ðăng được giác ngộ.
Bồ Tát tu hành những nghiệp hạnh
Phẩm thượng, trung, hạ đều sai khác
Ðều đem thiện căn hồi hướng đến
Tất cả Chư Phật ở mười phương.
Bồ Tát hồi hướng đến bờ kia.
Theo Phật tu học đều thành tựu
Thường dùng diệu trí khéo tư duy
Thắng pháp nhơn gian đều đầy đủ.
Thiện căn thanh tịnh khắp hồi hướng
Lợi ích chúng sanh thường chẳng bỏ
Ðều khiến tất cả các chúng sanh
Thành đấng Chiếu Thế Ðăng vô thượng.
Chưa từng phân biệt chấp chúng sanh.
Cũng chẳng vọng tưởng nhớ các pháp
Dầu không nhiễm trước nơi thế gian
Cũng lại chẳng bỏ các hàm thức.
Bồ Tát thường thích pháp tịch diệt
Tùy thuận được đến cảnh Niết Bàn.
Cũng chẳng bỏ rời đạo chúng sanh
Mà được trí vi diệu như vậy.
Bồ Tát chưa từng phân biệt nghiệp
Cũng chẳng chấp lấy các quả báo.
Tất cả thế gian từ duyên sanh
Chẳng rời nhơn duyên thấy các pháp.
Cảnh giới như vậy đều thâm nhập
Chẳng ở trong đó khởi phân biệt.
Bực Ðiều Ngự Sư của chúng sanh
Nơi đây sáng tỏ khéo hồi hướng
Hán Bộ Quyển Thứ 25
“What is great enlightening beings’ dedication of inexhaustible trea-
suries of virtue? Here they dedicate the roots of goodness produced by
repentance and removal of hindrances caused by past actions, the roots
of goodness produced by paying respect to all Buddhas, the roots of
goodness produced by requesting all Buddhas to teach, the roots of
goodness produced by listening to Buddhas’ teaching, diligently practic-
ing it, and realizing the vast realm of the inconceivable, the roots of
goodness produced by rejoicing at the virtues of all Buddhas and all
sentient beings of the past, future, and present, the roots of goodness of
all Buddhas, the roots of goodness achieved by the dilligent practice of
infinite enlightening beings, the roots of goodness produced by enlight-
ening beings knowing of and rejoicing in the Buddhas of all times
attaining true enlightenment, teaching the truth, and taming sentient
beings, the roots of goodness in rejoicing at the Buddhas of all times
cultivating enlightening practice from their first inspiration, attaining
supreme true awakening, finally appearing to enter ultimate extinction,
and, after their extinction, the true teaching remaining in the world
until passing away; thus enlightening beings think of the inexplicable
realm of the Buddhas as well as their own realm and the unhindered
realm of enlightenment — such tremendous, innumerable different roots
of goodness, all they accumulate, all they believe in, all they rejoice in,
all they fulfill, all they accomplish, all they practice, all they attain, all
they are aware of, all they embody, all they develop, they dedicate to
adorn all the buddha-lands, like the realm of action of all the Buddhas
in all worlds in boundless cons of the past — that is, incalculable, innu-
merable systems of buddha-worlds, known to the knowledge of Buddhas,
perceived by enlightening beings, sensed by the great mind, issuing
from and drawn forth by pure actions adorning buddha-fields, arising in
response to sentient beings, created by the sublime practices of the
enlightening being Universally Good, in which all the Buddhas become
enlightened and manifest various autonomous spiritual powers — and
like the purely adorned buddha-lands which will be attained upon
enlightenment by the Buddhas throughout the future, pervading the
cosmos, boundless, borderless, endless, infinite, all born of the knowl-
edge of the Buddhas, adorned by innumerable beautiful treasures —
ornaments of all fragrances, all flowers, all raiment, all treasuries of
worthy qualities, all powers of Buddhas, and the embellishments of all
buddha-lands; the capitals of the enlightened ones, inhabited by incon-
ceivable pure communities of people with existing affinity through
similar practices who will attain true enlightenment in the future,
developed by all the Buddhas, imperceptible to the world, visible only
to the pure eyes of enlightening beings. These enlightening beings have
great powers and have planted roots of goodness in the past; knowing
all things are like phantoms and illusions, they cultivate the pure deeds
of enlightening beings, entering absorption in inconceivable freedom,
and with skill in means can perform the work of Buddhas, emanate the
light of Buddhas and illumine the world everywhere without limit. All
the Buddhas of the present also adorn worlds in this way, with bound-
less forms, lights, and colors, all made by virtues; innumerable fragrances,
innumerable jewels, innumerable trees, innumerable ornaments, innu-
merable palaces, innumerable sounds, associates in accord with affinities
from the past, manifesting adornments of all worthy qualities, without
end — adornments of all fragrances, garlands, powdered incenses, jewels,
pennants, multicolored streamers of precious silk, balustrades of jewels,
countless ornaments of gold nets, rivers, clouds and rain, and music,
innumerable such embellishments adorning the buddha-lands in all
worlds throughout space, created by various deeds, known to the
Buddhas and told of by the Buddhas: that is, buddha-lands of adornments,
buddha-lands of purity, buddha-lands of equanimity, buddha-lands of
subtle refinements, buddha-lands of magnificent virtue, buddha-lands
of immensity, buddha-lands of peace and bliss, buddha-lands of
indestructibility, buddha-lands of inexhaustibility, buddha-lands of
infinity, buddha-lands of imperturbability, buddha-lands of fearlessness,
buddha-lands of light, buddha-lands free from opposition, buddha-
lands of delight, buddha-lands of all-illumining brightness, buddha-
lands of splendor, buddha-lands of refined beauty, buddha-lands of
wonderful skill, preeminent, excellent, extraordinary, supreme, abso-
lutely supreme, surpassing, unexcelled, peerless, incomparable, inde-
scribable buddha-lands. To emulate these adornments of all the
buddha-lands of past, future, and present, the great enlightening beings
willingly dedicate their own roots of goodness to adorn a world in the
same way, with the pure adornments of the lands of all Buddhas of
past, future, and present, to produce, purify, gather, manifest, array,
and maintain all adornments like those of the lands of all Buddhas, and
to do the same tor all worlds throughout the space of the cosmos, that
they be replete with the various adornments of the lands of the Buddhas
of all times.
Thế nào là đại Bồ Tát Vô tận công đức tạng hồi hướng.
Thưa Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát này đem thiện căn do sám trừ những nghiệp chướng nặng mà phát sanh, thiện căn do lễ kính tam thế Chư Phật mà phát sanh, thiện căn do khuyến thỉnh Chư Phật thuyết pháp mà phát sanh, thiện căn do nghe Phật thuyết pháp siêng năng tu tập ngộ cảnh giới rộng lớn bất tư nghì mà phát sanh, thiện căn do lòng tùy hỷ những căn lành của tất cả Phật, của tất cả chúng sanh mà phát sanh, thiện căn do siêng năng tu tập căn lành vô tận của tam thế Chư Phật mà phát sanh, thiện căn do lòng tùy hỷ trong khi biết những sự thành Phật thuyết pháp điều phục chúng sanh của tam thế Chư Phật mà phát sanh, tất cả do lòng tùy hỷ nơi sự phát tâm đến thành Phật nhập Niết Bàn, chánh pháp trụ thế diệt tận của tam thế Chư Phật mà phát sanh. Vô lượng thiện căn quảng đại niệm cảnh giới của bất khả thuyết Chư Phật và cảnh giới của Bồ Tát nhẫn đến cảnh giới Bồ đề vô ngại, phàm chỗ chứa họp, phàm chỗ tin hiểu, phàm chỗ tùy hỷ, phàm chỗ viên mãn, phàm chỗ thành tựu, phàm chỗ tu hành, phàm chỗ chứng được, phàm chỗ tri giác, phàm chỗ nhiếp trì, phàm chỗ tăng trưởng, tất cả thiện căn đều đem hồi hướng trang nghiêm tất cả Phật độ.
Như chỗ sở hành của Chư Phật trong tất cả thế giới nơi vô biện kiếp quá khứ. Những là vô lượng vô số thế giới chủng, chỗ Phật trí biết, chỗ Bồ Tát biết, chỗ đại tâm nhẫn thọ, cõi Phật trang nghiêm do nghiệp hạnh thanh tịnh cảm ra ứng theo chúng sanh thần lực của Như Lai thị hiện ra, tịnh nghiệp xuất thế của Chư Phật làm thành, diệu hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát hưng khởi. Trong đó, Chư Phật thành đạo thị hiện những thần lực tự tại. Cũng trong đó, cùng tận thời vị lai, tất cả Chư Phật Như Lai sẽ thành Phật đạo, sẽ được tất cả Phật độ công đức trang nghiêm thanh tịnh. Cùng tột pháp giới hư không giới, vô biên, vô tế, vô đoạn, vô tận đều từ trí huệ của Như Lai sanh ra, trang nghiêm với vô lượng diệu bửu.
Tất cả những hương trang nghiêm, hoa trang nghiêm, y phục trang nghiêm, công đức tạng trang nghiêm, Phật lực trang nghiêm, Phật độ trang nghiêm.
Nơi đây là chỗ ngự trị của đức Như Lai. Là chỗ cùng đồng ở của bất tư nghì chúng thanh tịnh đồng duyên đồng hành, sẽ thành Chánh giác ở thời vị lai.
Ðây là chỗ thành tựu của Chư Phật, thế gian chẳng thấy được, tịnh nhãn của Bồ Tát mới có thể thấy.
Chư Bồ Tát này có đủ Oai Ðức lớn đời trước đã vun trồng thiện căn, biết tất cả pháp như huyễn như hóa, khắp thật hành những nghiệp thanh tịnh của Bồ Tát, nhập bất tư nghì tam muội tự tại, phương tiện thiện xảo có thể làm Phật sự, phóng Phật quang chiếu khắp thế gian không giới hạn.
Hiện tại tất cả chẳng phải cũng đều trang nghiêm thế giới như vậy : Vô lượng hình tướng, vô lượng quang sắc, đều do công đức làm thành, có vô lượng hương, vô lượng báu, vô lượng cây, vô số trang nghiêm, vô số cung điện, vô số âm thinh.
Tùy thuận các bực thiện tri thức có duyên đời trước thị hiện tất cả công đức trang nghiêm không cùng tận. Những là tất cả hương trang nghiêm, tràng hoa trang nghiêm, bửu trang nghiêm, phan trang nghiêm, lụa màu báu trang nghiêm, lan can báu trang nghiêm, vô số lưới vàng trang nghiêm, vô số sông trang nghiêm vô số mây trang nghiêm, vô số âm nhạc vi diệu.
Tất cả Phật độ mà Phật rõ biết, Phật tuyên nói, những là Phật độ trang nghiêm, Phật độ thanh tịnh, Phật độ bình đẳng, Phật độ tốt đẹp, Phật độ Oai Ðức, Phật độ rộng lớn, Phật độ an lạc, Phật độ bất khả hoại, Phật độ vô tận, Phật độ vô lượng, Phật độ vô động, Phật độ vô úy, Phật độ quang minh, Phật độ không trái nghịch, Phật độ khả ái, Phật khắp soi sáng, Phật độ nghiêm tốt, Phật độ rực rỡ, Phật độ khéo đẹp, Phật độ đệ nhứt, Phật độ thắng, thù thắng, tối thắng, cực thắng, Phật độ thượng, vô thượng, vô đẳng, vô tỷ, vô thí dụ.
Tất cả Phật độ trong ba thời có bao nhiêu sự trang nghiêm, đại Bồ Tát đem thiện căn của mình mà phát tâm hồi hướng. Nguyện dùng tất cả sự trang nghiêm của tất cả quốc độ trong ba thời mà trang nghiêm nơi một thế giới, cũng đều thành tựu, đều thanh tịnh, đều tu tập, đều hiển hiện, đều tốt đẹp, đều trụ trì.
Một thế giới được trang nghiêm như vậy, tất cả thế giới tận pháp giới hư không giới cũng trang nghiêm như vậy.
“Great enlightening beings also dedicate roots of goodness in this
way: ‘May all the buddha-lands I cultivate be filled with great enlighten-
ing beings who are truly genuine, with comprehensive knowledge, able
to distinguish all worlds and sentient beings, to enter deeply into the
realm of reality as well as the realm of space, who cast off tolly and
perfect the recollection of the Buddhas, recollection of the truth of the
teaching, recollection of the infinity of the community, omnipresent
everywhere, and who also remember equanimity, their sun of truth full
and round, their light of knowledge illumining everywhere, seeing
without obstruction, born from nonacquisition, producing all aspects of
Buddhahood, possessed of myriad supreme roots of goodness, engen-
dering the determination of unexcelled enlightenment, abiding in the
powers of Buddhas, heading for omniscience, destroying the works of
demons, purifying the realm of sentient beings, entering deeply into the
essential nature of things, forever getting rid of delusion, bringing all
roots of goodness and great vows to fruition — may such enlightening
beings fill those lands, born in such places, having such virtues, always
performing the work of buddhahood, attaining the pure light of com-
plete enlightenment, possessed of knowledge of the realm of reality,
manifesting the power of spiritual faculties, filling all realms with one
body, attaining great knowledge and wisdom, entering the sphere of
omniscience, able to distinguish infinite, boundless expressions and
meanings of realms of phenomena and principles, having no attach-
ments in any land, yet able to appear in all buddha-lands, their minds
like space, not relying on anything, yet able to distinguish all realms of
phenomena and principles, able to enter and emerge from inconceivable
profound concentrations, intent on omniscience, dwelling in the buddha-
fields, attaining the power of buddhahood, expounding countless truths
without fear, conforming to the roots of goodness of Buddhas of all
times, tofally illumining the cosmos of truth of all enlightened ones,
able to accept and hold all Buddhas’ teachings, knowing countless ways
of speaking, able to enunciate inconceivably many different sounds,
entering the unsurpassed stage of freedom of the Buddhas, traveling
throughout all worlds in the ten directions without hindrance, practicing
noncontention and nonreliance, not falsely discriminating anything,
cultivating, practicing, and enlarging the determination for enlightenment,
attaining knowledge of skill in means, of expression and meanings, able
to explain and expound them step-by-step. I vow to cause such enlight-
ening beings to adorn those lands, distributed throughout, living in peace
and accord, well cultivated, extremely well cultivated, pure, extremely
pure, calm and serene. May there be, in each and every region of one
buddha-land infinitely many such great enlightening beings filling it,
and may all buddha-lands throughout space, throughout the cosmos, all
be filled with great enlightening beings in the same way.’
Ðại Bồ Tát lại đem thiện căn hồi hướng như vầy: Nguyện tất cả Phật sát của tôi tu đều đầy dẫy những bực đại Bồ Tát. Những Bồ Tát này thể tánh chơn thật, trí huệ thông đạt, khéo phân biệt được tất cả thế giới và chúng sanh giới, thâm nhập pháp giới và hư không giới, lìa bỏ ngu si, thành tựu niệm Phật, niệm Pháp chơn thật bất tư nghì, niệm Tăng vô lượng đều cùng khắp, cũng niệm hạnh xả, pháp nhựt viên mãn, trí quang chiếu khắp, chỗ thấy vô ngại, từ vô đắc mà sanh và sanh các Phật pháp, là ông chủ thiện căn thắng thượng của đại chúng, phát sanh tâm Vô thượng Bồ đề, trụ nơi Phật lực, hướng đến Phật trí, pháp ma nghiệp, tịnh chúng sanh, thâm nhập pháp tánh, lìa hẳn điên đảo, thiện căn đại nguyện đều chẳng luống.
Chúng đại Bồ Tát như trên đây đầy dẫy trong quốc độ của tôi tu.
Những bực Bồ Tát sanh chỗ như vậy, có đức như vậy, luôn thật hành Phật sự, được Phật Bồ đề quang minh thanh tịnh, đủ trí pháp giới, hiện sức thần thông một thân đầy khắp pháp giới, có trí huệ lớn vào cảnh giới sở hành của Nhứt thiết trí, có thể phân biệt vô lượng vô biên pháp giới cú nghĩa, nơi tất cả cõi đều không chấp trước mà có thể hiện khắp tất cả Phật độ, lòng như hư không chẳng y tựa mà có thể phân biệt tất cả pháp giới có thể khéo nhập xuất những tam muội rất sâu bất tư nghì, đến Phật trí, trụ Phật độ, được Phật lực khai thị diễn thuyết vô số pháp mà vẫn vô úy, tùy thuận thiện căn của tam thế Chư Phật, chiếu khắp Phật pháp giới, đều có thể thọ trì tất cả Phật pháp, biết vô số ngôn ngữ, khéo hay diễn nói bất tư nghì âm thinh sai khác, vào nơi bực Phật tự tại vô thượng, đi khắp tất cả thế giới mười phương mà không bị chướng ngại, thật hành pháp vô tránh, vô y, vô phân biệt, tu tập thêm rộng tâm Bồ đề, được trí thiện xảo khéo biết cú nghĩa có thể theo thứ đệ mà khai thị diễn thuyết.
Nguyện được chư đại Bồ Tát như trên đây trang nghiêm cõi nước của tôi tu.
“Great enlightening beings expediently dedicate all roots of good-
ness to all buddha-lands, to all enlightening beings, to all Buddhas, to
the enlightenment of all Buddhas, to all great vows, to all essential
ways of emancipation, to purifying all realms of sentient beings, to
always seeing the Buddhas appear in all worlds, to always seeing the
life of the enlightened ones as infinite, and to always seeing the Buddhas
pervading the cosmos turning the unimpeded, nonregressing wheel of
teaching.
Thưa Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát đem những thiện căn mà phương tiện hồi hướng tất cả Phật, phương tiện hồi hướng tất cả Bồ Tát, phương tiện hồi hướng tất cả Như Lai, phương tiện hồi hướng Phật Bồ đề, phương tiện hồi hướng tất cả nguyện rộng lớn, phương tiện hồi hướng tất cả đạo xuất yếu, phương tiện hồi hướng thanh tịnh tất cả chúng sanh giới, phương tiện hồi hướng nơi tất cả thế giới thường thấy Chư Phật hiện ra đời, phương tiện hồi hướng thường thấy Như Lai thọ mạng vô lượng, phương tiện hồi hướng thường thấy Chư Phật cùng khắp pháp giới chuyển Pháp luân vô ngại bất thối.
“When great enlightening beings dedicate roots of goodness in this
way, because they enter all buddha-lands, all buddha-lands are purified;
because they reach all realms of sentient beings, all enlightening beings
are purified; because they will the appearance of Buddhas in all buddha-
lands, in all buddha-lands in all universes the embodiments of the
enlightened transcendcntally manifest.
“By means of such peerless dedication great enlightening beings
proceed toward omniscience, their minds broad and vast as space,
without any limitations; entering inconceivability, they know all ac-
tions and the resulting consequences are null, so their minds are always
equanimous. Having no bounds, they are able to enter all realms of
reality.
Lúc đại Bồ Tát đem những thiện căn hồi hướng như vậy, vì vào khắp tất cả Phật độ nên tất cả cõi Phật đều thanh tịnh, vì đến khắp tất cả chúng sanh giới nên tất cả Bồ Tát thảy đều thanh tịnh, vì nguyện Chư Phật xuất thế khắp tất cả thế giới nên tất cả pháp giới tất cả Phật độ đều có Phật thân xuất hiện.
Ðại Bồ Tát dùng vô tỷ hồi hướng như vậy để đến Phật trí, lòng Bồ Tát rộng lớn như hư không không có hạn lượng, vào bất tư nghì, biết tất cả nghiệp và cùng quả báo thảy đều tịch diệt, tâm thường bình đẳng không có biên tế, có thể vào tất cả pháp giới.
“When great enlightening beings practice dedication in this way, they
do not conceive of self or possessions, do not conceive of Buddha or
Buddha teaching, do not conceive of lands or adornment, do not
conceive of sentient beings or civilization, do not conceive of action or
results of action; they do not cling to thought or what is produced by
thought, they do not deny cause and effect, they do not grasp things,
they do not grasp principles, they do not say birth and death has
mentation, they do not say nirvana is eternal tranquility, they do not
say the enlightened realize buddhahood — there is not the slightest thing
that coexists with reality.
Lúc đại Bồ Tát hồi hướng như vậy, thời chẳng phân biệt ngã cùng ngã sở, chẳng phân biệt Phật pháp, chẳng phân biệt cõi nước cùng nghiêm tịnh, chẳng phân biệt chúng sanh và điều phục, chẳng phân biệt nghiệp và quả báo, chẳng chấp nơi tư và chỗ khởi của tư, chẳng hoại nhơn, chẳng hoại quả, chẳng lấy sự, chẳng lấy pháp, chẳng cho rằng sanh tử có phân biệt, chẳng cho rằng Niết Bàn thường tịch tịnh, chẳng cho rằng đức Như Lai chứng cảnh giới Phật, chẳng có chút pháp nào cùng ở với pháp.
“When great enlightening beings practice dedication in this way, they
give all roots of goodness over to sentient beings, to assure their
development of maturation, teaching and edifying them impartially,
without mental images, without objectification, without assessment,
without falsehood, avoiding all vain discrimination and conceptual
clinging.
“Once great enlightening beings have made this dedication, they
attain inexhaustible roots of goodness: that is, they attain inexhaustible
roots of goodness because they keep all enlightening beings in mind;
they attain inexhaustible roots of goodness because they purify the
buddha-lands; they attain inexhaustible roots of goodness because they
purify all realms of sentient beings; they attain inexhaustible roots of
goodness because they delve deeply into the realm of reality; they attain
inexhaustible roots of goodness because they cultivate immeasurable
minds equal to the realm of space; they attain inexhaustible roots of
goodness because they profoundly understand the realm of all Buddhas;
they attain inexhaustible roots of goodness because they diligently
cultivate the work of enlightening beings; they attain inexhaustible roots
of goodness because they comprehend the past, present, and future.
Lúc đại Bồ Tát hồi hướng như vậy, đem các thiện căn thí khắp chúng sanh quyết định thành thục, bình đẳng giáo hóa, không tướng, không duyên, không cân nhắc, không hư vọng, xa lìa tất cả phân biệt chấp trước.
Ðại Bồ Tát hồi hướng như vậy rồi, được vô tận thiện căn. Những là vì niệm tam thế Chư Phật nên được vô tận thiện căn, vì niệm tất cả Bồ Tát nên được vô tận thiện căn, vì thanh tịnh Phật độ nên được vô tận thiện căn, vì tịnh chúng sanh giới nên được vô tận thiện căn, vì thâm nhập pháp giới nên được vô tận thiện căn, vì tu vô lượng tâm đồng hư không giới nên được vô tận thiện căn, vì hiểu sâu cảnh giới Phật nên được vô tận thiện căn, vì nơi Bồ Tát hạnh siêng tu tập nên được vô tận thiện căn, vì rõ thấu tam thế nên được vô tận thiện căn.
“When great enlightening beings dedicate all roots of goodness in
this way, they understand that all realms of sentient beings have no
sentient beings; they understand that all things have no life; they know
that all things have no creator; they realize all things have no personality;
they comprehend that all things have no conflict; they see that all things
come from conditions and have no abode; they know all things have no
basis; they know all lands have no location; they observe that enlighten-
ing beings’ practices also have no locus; they see that all objects have no
existence.
Lúc đại Bồ Tát đem tất cả thiện căn hồi hướng như vậy, rõ chúng sanh giới không có chúng sanh, hiểu tất cả pháp không có thọ mạng, biết tất cả pháp không có tác giả, ngộ tất cả pháp không có ngã, rõ tất cả pháp không có giận hờn tranh cãi, quán tất cả pháp đều từ duyên khởi không có trụ xứ, biết tất cả vật đều không sở y, rõ tất cả cõi đều không sở trụ, quán tất cả Bồ Tát hạnh cũng không xứ sở, thấy tất cả cảnh giới đều không sở hữu.
“When great enlightening beings practice such dedication, their eyes
ultimately never see impure buddha-lands, nor do they see sentient
beings of differing characteristics; there is not the slightest thing entered
by knowledge, nor the slightest knowledge entering things. They un-
derstand the body of the Enlightened is not like empty space, because it
is perfected by all virtues and infinite sublime qualities, and because in
all places it causes sentient beings to accumulate a sufficiency of roots of
goodness.
Lúc đại Bồ Tát hồi hướng như vậy, mắt trọn chẳng thấy Phật sát bất tịnh, cũng chẳng thấy chúng sanh dị tướng, không có chút pháp nào là sở nhập của trí, cũng không có chút trí nào nhập nơi pháp, hiểu thân Như Lai chẳng phải như hư không vì do vô lượng diệu pháp tất cả công đức mà được viên mãn, vì nơi tất cả chỗ khiến các chúng sanh chứa họp thiện căn đều đầy đủ.
“These great enlightening beings moment to moment attain unspeak-
ably unspeakable numbers of stages of the ten powers, are filled with all
virtues, fully develop pure roots of goodness, and are fields of blessings
for all sentient beings. These great enlightening beings develop treasur-
ies of virtues like wish-fulfilling jewels, obtaining all comforts as needed,
able to adorn all lands wherever they go, purifying untold numbers of
sentient beings wherever they go, because of embracing virtue, cultivat-
ing and mastering the practices.
“When great enlightening beings practice dedication in this way, they
cultivate the practices of all enlightening beings, their virtues are
extraordinary, their appearance is incomparable, their spiritual torce
and radiance surpass all worldlings, so that demons and demonic people
cannot look upon them. Their roots of goodness are complete, their
great vows are accomplished, their minds ever broadening, equal to the
omniscient. In a single moment of attention they can pervade innumera-
ble buddha-lands. The power of their knowledge is immeasurable, and
they have arrived at the sphere of all Buddhas. They have profound
faith in all Buddhas, and abide in boundless knowledge, the power of
their will for enlightenment as vast as the cosmos, as ultimate as space.
Ðại Bồ Tát này ở trong mỗi niệm được bất khả thuyết bất khả thuyết Thập lục địa, đầy đủ tất cả phước đức, thành tựu thiện căn thanh tịnh làm phước điền của tất cả chúng sanh.
Ðại Bồ Tát này thành tựu tạng công đức như ý, vì chỗ cần dùng tất cả đồ thích ý thời đều được có đủ, vì tùy chỗ nào mà Bồ Tát này đặt chân đến đều có thể nghiêm tịnh tất cả Phật độ, khiến bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sanh đều thanh tịnh cả, vì nhiếp thủ phước đức tu tập các công hạnh vậy.
Lúc đại Bồ Tát hồi hướng như vậy thời tu tất cả Bồ Tát hạnh, phước đức thù thắng, sắc tướng vô tỷ, oai lực quang minh đều siêu việt thế gian, ma và ma dân chẳng đối lập được, đầy đủ thiện căn, thành tựu đại nguyện, tâm rộng rãi đồng Nhứt Thiết trí, trong một niệm đều có thể cùng khắp vô lượng cõi Phật, trí lực vô lượng có thể rõ thấu tất cả cảnh giới Phật, với tất cả Phật được tín giải sâu, trụ nơi trí vô biên, tâm Bồ đề rộng lớn như pháp giới rốt ráo như hư không.
Ðây gọi là đại Bồ Tát vô tận công đức tạng hồi hướng thứ năm.
“When great enlightening beings abide in this dedication, they attain
ten inexhaustible treasuries: they attain an inexhaustible treasury of
seeing Buddhas, because in a single pore they see countless Buddhas
appearing in the world; they attain an inexhaustible treasury of entry
into truth, because by the power of Buddha-knowlcdge they see all
things in one truth; they attain an inexhaustible treasury of memory,
because they retain the teachings expounded by all Buddhas without
forgetting any; they attain an inexhaustible treasury of certain wisdom,
because they know the secret techniques in the teachings expounded
by all Buddhas; they attain an inexhaustible treasury of understand-
ing meaning and intent, because they know the distinctions of prin-
ciples of the teachings; they attain an inexhaustible treasury of boundless
realization, because they comprehend all things of all times by means
of spacelike knowledge; they attain an inexhaustible treasury of
felicitous virtues, because they satisfy the wishes of all sentient beings
without end; they attain an inexhaustible treasury of intrepid know-
ledge and awareness, because they are able to remove and destroy all
sentient beings’ blinders of ignorance and folly; they attain an inex-
haustible treasury of definitive powers of elucidation, because they
expound the impartial teaching of all Buddhas so that all sentient beings
understand; they attain an inexhaustible treasury of the ten powers and
four fearlessnesses, because they fulfill all practices of enlightening
beings, wrap their heads in the turban of nondefilement, and arrive
at an unobstructed omniscience. When great enlightening beings
dedicate all roots of goodness, they attain these ten inexhaustible
treasuries.”
Then the enlightening being Diamond Banner looked over the ten
directions and said in verse:
Ðại nhứt thiết trụ bực hồi hướng này được mười thứ vô tận tạng sau đây :
Ðược kiến Phật vô tận tạng vì nơi một chân lông thấy vô số Phật xuất thế.
Ðược nhập pháp vô tận tạng vì dùng Phật trí lực quán tất cả pháp đều vào một pháp.
Ðược ức trì vô tận tạng, vì thọ trì tất cả Phật pháp không quên mất.
Ðược quyết định huệ vô tận tạng vì khéo biết tất cả Phật pháp bí mật phương tiện.
Ðược giải nghĩa thú vô tận tạng, vì khéo biết tế hạn lý thú của các pháp.
Ðược vô biên ngộ giải vô tận tạng vì dùng trí như hư không thông đạt tam thế tất cả pháp.
Ðược phước đức vô tận tạng, vì làm cho ý của tất cả chúng sanh được sung mãn chẳng cùng tận.
Ðược dũng mãnh trí giác vô tận tạng vì đều có thể trừ diệt sự ngu si của tất cả chúng sanh.
Ðược quyết định biện tài vô tận tạng, vì diễn thuyết tất cả Phật pháp bình đẳng khiến chúng sanh đều hiểu rõ.
Ðược thập lực vô úy vô tận tạng, vì đầy đủ Bồ Tát hạnh, được ly cấu đến Nhứt Thiết trí vô ngại.
Kim Cang Tràng Bồ Tát thừa oai lực của Ðức Phật quán sát khắp mười phương nói kệ rằng:
Enlightening beings perfect profound mental power.
Attaining mastery of all the teachings;
The blessings of their petitions and appreciation
They dedicate by unimpeded means.
The enlightened ones of past, present, and future
Beautify buddha-lands throughout the cosmos:
Enlightening beings, fulfilling all virtues.
Dedicate them to purity lands the same way.
The teachings of Buddhas of all times
Enlightening beings ponder carefully,
Taking them all into their minds,
Thereby adorning the buddha-lands.
Be the virtues of all buddha-lands extolled
Throughout all eons of past, present, and future.
The eons of all time may be exhausted
But the virtues of buddha-lands have no end.
All such buddha-lands
Do enlightening beings see:
Therewith is adorned one buddha-land
And all buddha-lands, this way.
There are Buddha-children whose minds are pure.
All born by transformation from the enlightening teaching.
With all virtues adorning their minds,
Who fill all buddha-lands.
Those enlightening beings all are endowed
With bodies adorned with infinite signs of greatness;
With powers of clarification their teaching fills the world,
Inexhaustible as the ocean.
Enlightening beings sojourn in many concentrations
And have fulfilled all necessary practices;
Their minds are pure beyond compare
And their light illumines all worlds.
Thus are all buddha-lands
Filled with such enlightening beings:
They’ve never thought of the listeners’ vehicle
Or sought the individual illuminates’ way.
Thus are enlightening beings pure of heart,
Dedicating virtues to all living beings,
Wanting to cause all to become truly enlightened
And fully know the Buddha’s truths.
All demons and enemies in the ten directions
The enlightening beings’ awesome power subdues;
Their intrepid knowledge and wisdom are invincible
As they practice with certainty the ultimate way.
Due to enlightening beings’ great will power
Their dedications cannot be hindered;
They enter the inexhaustible treasury of virtue
Which is forever endless, throughout all time.
Enlightening beings observe all conditioned things
And understand their nature is not independent;
Thus knowing the nature of things is like this
They don’t wrongly grasp acts or results.
There are no things with form, nor formless things;
Nor are there concepts of being or nonbeing;
Existence and nonexistence — neither exist;
They realize all are ungraspable.
All things are born of causes and conditions —
Their essential nature is neither existent or nonexistent;
And m causes and conditions, what they produce
They ultimately have no attachments at all.
Of what all sentient beings say
They ultimately don’t grasp anything;
They know names and signs are all mentation
And clearly understand things are identitylcss.
As the nature of sentient beings is fundamentally null,
So do they know all things are null;
All things in past, present, and future,
Lands and deeds — all are equal.
Such knowledge do they dedicate,
Virtous action born according to their understanding:
The signs of these virtues too they understand thus,
That there’s nothing to grasp therein.
Thus their mind of dedication’s unsullied;
Never calculating the nature of things,
Comprehending their nature is not a nature,
They do not dwell in the world yet do not leave it.
The good works which they do
They dedicate to all living beings,
Not tailing to realize their true nature,
Abandoning discrimination.
All the talsc views there are
They abandon entirely;
Free from inflaming afflictions, always cool.
They abide in the unobstructed state of liberation.
Enlightening beings do not destroy anything
Or annihilate the nature of things:
They understand all things are like echoes
And have no attachment to them at all.
They know all sentient beings of all times
Come from combinations of causes and conditions:
They also know their inclinations and habits
And never annihilate anything.
They realize the nature of actions is not action
And yet do not contradict the characteristics of things,
And they do not destroy the results of deeds,
But explain the nature of things as conditional.
They understand sentient beings have no birth
And there are no sentient beings to transmigrate:
There are no real sentient beings to speak to,
But according to conventional norms they provisionally teach.
Bồ Tát thành tựu thâm tâm lực
Nơi các pháp được khắp tự tại
Do nên phước khuyến thỉnh tùy hỉ
Phương tiện vô ngại khéo hồi hướng.
Tam thế tất cả chư Như Lai
Nghiêm tịnh Phật độ khắp thế gian
Tất cả công đức đều đầy đủ
Hồi hướng tịnh độ cũng như vậy.
Tam thế tất cả những Phật pháp
Bồ Tát thảy đều tư duy kỹ
Dùng tâm nhiếp lấy không để thừa
Như vậy trang nghiêm các Phật độ.
Cùng tận tam thế tất cả kiếp
Khen những công đức một Phật độ
Những kiếp số kia còn cùng tận
Công đức Phật độ không cùng tận
Như vậy tất cả những Phật độ
Những kiếp số kia còn cùng tận
Công đức Phật độ không cùng tận.
Như vậy tất cả những Phật độ
Bồ Tát đều thấy không còn thừa
Ðều đem trang nghiêm một cõi Phật
Tất cả Phật độ đều như vậy.
Có những Phật tử tâm thanh tịnh
Ðều từ Phật pháp mà hóa sanh
Tất cả công đức trang nghiêm tâm.
Tất cả Phật độ đều sung mãn.
Chư Bồ Tát kia đều đầy đủ
Vô lượng tướng hảo trang nghiêm thân
Biện tài diễn thuyết khắp thế gian
Ví như biển cả không cùng tận.
Bồ Tát an trụ các tam muội.
Tất cả công hạnh đều đầy đủ
Tâm đó thanh tịnh không ai sánh
Quang minh chiếu khắp mười phương cõi.
Những Phật độ như vậy không thừa.
Chư Bồ Tát đây đều đầy dẫy
Chưa từng nhớ tưởng Thanh Văn thừa
Lại cũng chẳng cầu Duyên Giác đạo.
Bồ Tát tâm thanh tịnh như vậy
Thiện căn hồi hướng khắp quần sanh
Muốn khiến tất cả thành chánh đạo
Rõ biết đầy đủ các Phật pháp.
Mười phương tất cả các ma oán
Bồ Tát oai lực đều phá trừ
Trí huệ dũng mãnh không ai hơn.
Quyết định tu hành pháp rốt ráo.
Bồ Tát dùng sức đại nguyện này
Tất cả hồi hướng không chướng ngại
Vào nơi vô tận công đức tạng
Khứ, lai, hiện tại luôn vô tận.
Bồ Tát khéo quán các hành pháp
Rõ thấu tánh nó chẳng tự tại
Ðã biết các pháp tánh như vậy
Chẳng vọng lấy nghiệp và quả báo.
Không có pháp sắc pháp vô sắc
Cũng không pháp tưởng pháp vô tưởng
Pháp có pháp không thảy đều không
Rõ biết tất cả vô sở đắc.
Tất cả các pháp nhơn duyên sanh
Thể tánh chẳng có cũng chẳng không.
Mà nhơn duyên và sanh khởi
Trong đó trọn hẳn không chấp trước.
Những ngôn ngữ của các chúng sanh
Trong đó rốt ráo vô sở đắc.
Rõ biết danh tướng đều phân biệt.
Hiểu rõ các pháp đều vô ngã.
Như tánh chúng sanh vốn tịch diệt
Như vậy rõ biết tất cả pháp
Tam thế nhiếp lấy không thừa sót
Quyết định các nghiệp đều bình đẳng.
Dùng trí như vậy mà hồi hướng.
Tùy chổ ngộ hiểu phước nghiệp sanh
Những phước tướng này như chỗ hiểu
Há lại trong đó có sở đắc.
Hồi hướng như vậy tâm vô cấu
Trọn chẳng cân lường các pháp tánh
Rõ pháp tánh đó đều phi tánh.
Chẳng trụ thế gian cũng chẳng xuất.
Tất cả công hạnh những thiện nghiệp.
Ðều đem hồi hướng các quần sanh.
Ðều rõ thấu cả chơn tánh kia
Tất cả phân biệt đều trừ bỏ.
Tất cả những kiến chấp hư vọng
Thảy đều trừ bỏ không để sót
Rời những nhiệt não thường thanh lương
Trụ nơi bực giải thoát vô ngại.
Bồ Tát chẳng hoại tất cả pháp
Cũng chẳng diệt hoại các pháp tánh
Hiểu rõ các pháp như bóng vang
Ðối với tất cả đều vô trước.
Rõ những chúng sanh suốt tam thế
Ðều từ nhơn duyên hòa hiệp khởi
Cũng biết tâm thích và tập khí
Chưa hoại diệt tất cả pháp.
Rõ thấu nghiệp tánh chẳng phải nghiệp
Mà cũng chẳng trái các pháp tướng
Lại cũng chẳng hoại nghiệp quả báo
Nói các pháp tánh từ duyên khởi
Rõ biết chúng sanh không có sanh
Cũng không chúng sanh bị lưu chuyển
Không thiệt chúng sanh nói đến được
Chỉ dựa thế tục giả tuyên nói.
“What is great enlightening beings’ dedication causing all roots of
goodness to endure? Here the enlightening beings may be rulers of
great nations, their virtue extending to all, their fame shaking the
world; their enemies all submit to them, and their commands are all
based on correct principles. They hold a single canopy that gives shade
to all quarters, and travel everywhere as leaders of the land, unob-
structed wherever they turn, tying on the turban of nondefilement.
They are sovereign masters of the law, and all who sec them submit.
They do not torture or punish people, yet all obey, moved by their
virtue. They deal with sentient beings with liberality, kind words,
beneficial actions, and cooperation; as universal rulers, they provide tor
everyone.
“Enlightening beings, abiding in such sovereign virtues, have a great
retinue; they cannot be undermined, they are rid of all faults. No one
ever tires of seeing them; adorned with felicitous virtues, their marks of
greatness and embellishments are fully developed. Their bodies and
limbs are well proportioned, and they have robust, healthy, ideal hu-
man bodies. Their great strength is consummate and they cannot be
constrained or overcome by anyone. They attain pure action and are
free from all barriers caused by actions.
Thế nào là đại Bồ Tát tùy thuận kiên cố nhứt thiết thiện căn hồi hướng?
Thưa Chư Phật tử! Bực Bồ Tát này hoặc làm Ðế Vương ngự nơi đại quốc, có Oai Ðức lớn danh chấn thiên hạ, phàm các oán địch đều quy thuận, hiệu lịnh ban ra đều dựa theo chánh pháp, cầm một cây lọng che mát mười phương, đi khắp cõi nước không bị trở ngại, đầu vấn lụa ly cấu, tự tại đối với các pháp, người thấy đều phục tùng. Chẳng cần đến hình phạt, chỉ dùng đức cảm hóa. Dùng pháp Tứ nhiếp, nhiếp các chúng sanh. Làm Chuyển Luân Vương châu cấp tất cả.
Ðại Bồ Tát an trụ công đức tự tại như vậy. Có đông quyến thuộc chẳng ai làm trở ngại phá hoại được. Lìa khỏi lỗi lầm người thấy không nhàm, phước đức trang nghiêm tướng hảo viên mãn. Ðược thân na la diên kiên cố có đại lực không ai khuất phục được. Ðược nghiệp thanh tịnh lìa các nghiệp chướng. Tu hành đầy đủ tất cả bố thí hoặc thí thực phẩm, hoặc thí xe cộ, hoặc thí y phục, hoặc thí tràng hoa, các thứ hương, giường ghế, nhà cửa, đèn đuốc, thuốc men, những khí cụ báu, ngựa giỏi, voi hay đều hoan hỷ bố thí. Hoặc có kẻ đến xin ghế của vua ngự, hoặc xin lọng, phan, vật báu, đồ trang nghiêm, mão vua, minh châu, cả đến ngôi vua cũng sẳn sàng bố thí không hối tiếc.
“They fully practice all giving; sometimes they give food and drink,
sometimes they give delicacies, sometimes they give conveyances, or
clofhing, or flower garlands, or incenses and perfumes, beds, scats,
houses, lamps, medicines, precious vessels, jeweled carriages, trained
elephants and horses, all magnificently adorned — they give all these
gladly. It any come and ask for their throne, or canopies or parasols,
banners, pennants, treasures, or ofher adornments, or the jeweled crowns
on their heads, or the radiant jewels in their topknots, or even the rank
of ruler itself, they begrudge nothing. It they sec sentient beings in
prison, they give up their treasures, their spouses, children, retinue, and
even their own bodies, to rescue them and free them. It they see
prisoners about to be executed, they give up their bodies in exchange
for those prisoners’ lives. Then again, if they sec anyone come begging
from them, begging tor even their flesh or hair, they gladly give them
ungrudgingly; their eyes, cars, noses, tongues, teeth, heads, hands, feet,
blood, flesh, bones, marrow, internal organs, skin, fingers, toes, and
nails, all they give with a joyful heart.
Nếu thấy người bị cầm tù, liền xả thí của cải quyến thuộc hoặc đến thân mình để giải cứu. Nếu thấy kẻ tử thù, liền xả thân thế mạng. Có ai đến xin bất luận vật gì nơi thân: Mắt, tai, mũi, lưỡi, da, thịt, xương, tủy, đầu, mặt, tay, chân, tạng, phủ v.v… đều vui lòng thí xả.
“In their quest for teachings they have never heard they would hurl
themselves into pits of fire. In order to preserve the true teaching of the
Buddhas they would endure all kinds of pain. In seeking the teaching,
tor even one word of it they can give up everything within the four
seas. They continually civilize and guide sentient beings by means of
right teaching, causing them to cultivate good practices and abandon
evil. If they see sentient beings physically harming ofhers, they kindly
rescue them and cause them to give up wrongdoing.
Hoặc vì cầu thỉnh pháp vị tằng hữu mà gieo mình vào hầm lửa. Hoặc vì hộ trì chánh pháp mà đem thân nhẫn thọ tất cả sự khổ độc. Hoặc vì cầu chánh pháp nhẫn đến một chữ mà có thể thí xả tất cả sở hữu. Thường đem chánh pháp giáo hóa chúng sanh, khiến tu hạnh lành lìa bỏ điều ác. Nếu thấy kẻ giết hại, thời dùng tâm từ cứu vớt khiến bỏ nghiệp ác.
“It they see Buddhas attain supreme enlightenment, they praise them,
causing everyone to hear and know of them. They may donate land and
provide for and attend to them. They may give their own bodies to
those who ask, or they may give them to the Buddhas. Because of their
quest tor the truth they are extremely joyful; they provide service and
support for sentient beings. They might give up their kingship, their
cities, towns, villages, palaces, gardens and groves, spouses, children,
and retinues, fulfilling all requests. Sometimes they give away all neces-
sities of life to establish great assemblies of giving, from which none are
prohibited, and provide tor the needs of all the sentient beings who
come — all kinds of fields of blessings — whether they come from afar or
nearby, whether they are intelligent or stupid, no matter what they
look like, whether they are male or female, whether human or nonhuman,
their mental patterns different, their requirements each different; the
enlightening give to all to satisfy everyone.
“When enlightening beings give in this way, they develop a mind of
good control, with which they practice dedication: controlling the body
well, controlling sensation, conception, action, and consciousness well,
controlling sovereignty well, controlling followers well, controlling
means of subsistence well, controlling generous giving well, they ac-
cordingly cause all roots of goodness to be firm and enduring.
“Whatever great enlightening beings give, their charity being boundless,
they dedicate those roots of goodness in this way: when they give fine
food to sentient beings, their minds are pure and have no covetousness
or attachment to what they give, nor do they begrudge anything; they
practice giving fully, praying that all sentient beings gain the food of
knowledge and wisdom, their minds unobstructed, comprehending the
nature of food and having no greed or attachment, only enjoying the
food of truth and the food of emancipation, filled with knowledge and
wisdom, firmly abiding by the truth, embodying roots of goodness,
with the body of reality and the body of knowledge traveling in purity;
taking pity on sentient beings, to be fields of blessing they appear to
take solid food. This is great enlightening beings’ dedication of good
roots when they give food.
Nếu thấy đức Như Lai thành Ðẳng Chánh Giác thời truyền rao ca ngợi cho mọi nơi đều được hay biết, hoặc thí đất để xây dựng Tăng đường, điện nhà, vì chúng sanh mà cúng dường thờ phụng Ðức Phật.
Lúc đại Bồ Tát bố thí như vậy, phát tâm khéo nhiếp thọ đều đem hồi hướng cả.
Những là khéo nhiếp sắc, thọ, tưởng, hành, thức tùy thuận kiên cố tất cả thiện căn. Khéo nhiếp đồ cần dùng tùy thuận kiên cố tất cả thiện căn. Khéo nhiếp huệ thí tùy thuận kiên cố tất cả thiện căn.
Ðại Bồ Tát bố thí tài vật thân mạng thứ nào cũng đến số vô lượng vô biên, đem thiện căn đó hồi hướng như vậy:
Như lúc bố thí thức ăn, lòng Bồ Tát thanh tịnh đối với vật bố thí, không tham trước, không bỏn xẻn luyến tiếc, cầu nguyện cho tất cả chúng sanh được món ăn trí huệ, tâm được vô ngại rõ biết tánh chất của thức ăn nên không tham trước, chỉ thích món ăn pháp hỷ xuất ly, đầy đủ trí huệ dùng pháp kiên trụ nhiếp thủ thiện căn, pháp thân và trí thân thanh tịnh du hành. Vì từ tâm làm phước điền cho chúng sanh mà thị hiện thọ đoàn thực. Ðây là Bồ Tát đem thiện căn hồi hướng, lúc bố thí thức ăn.
“When great enlightening beings give something to drink, they dedi-
cate these roots of goodness in this way: they pray that all sentient
beings drink of the water of the flavor of truth, diligently cultivate the
whole way of enlightening beings, cut oft thirst tor the world, always
seek enlightened knowledge, leave the realm of desire, attain the joy
and bliss of truth, produce their bodies from the pure teaching, always
tune and control their minds by means of concentration, enter the ocean
of knowledge, produce great clouds of teaching, shower great rain of
teaching. This is great enlightening beings’ dedication of roots of good-
ness when they give things to drink.
Ðại Bồ Tát lúc bố thí thức uống, đem thiện căn này hồi hướng như vầy :
Nguyện cho tất cả chúng sanh uống nước pháp vị, siêng năng tu tập đầy đủ Bồ Tát đạo, dứt sự khát ái thế gian, thường cầu Phật trí, lìa cảnh dục được sự vui pháp hỷ. Từ nơi pháp tịch tịnh sanh ra thân mình, thường dùng tam muội mà điều nhiếp tâm mình. Vào biển trí huệ, nổi mây pháp lớn, xối mưa pháp lớn. Ðây là đại Bồ Tát đem thiện căn hồi hướng, lúc bố thí thức uống.
“Great enlightening beings give various flavors — pungent, sour, salty,
bland, as well as sweet, various flavors, rich, able to cause the body’s
elements to be settled and harmonious, the skin and body well developed,
the energy strong, the heart clear and pure and always joyful; not
causing vomiting when eaten, making the senses clear and sharp, the
internal organs fully developed and impervious to poison and disease,
without distress, forever attaining comfort. These roots of goodness
they dedicate in this way: ‘May all sentient beings gain the supreme
flavor of ambrosia; may all sentient beings obtain the flavor of the
knowledge of truth, and comprehend the function of all flavors; may all
sentient beings obtain the flavor of infinite truths, know the realm of
reality, and abide at peace in the great citadel of truth in ultimate reality;
may all sentient beings produce great clouds of teachings throughout
the cosmos, shower the rain of truth everywhere, teach, edify, and
civilize all sentient beings; may all sentient beings gain the flavor of
supreme knowledge, that the unexcelled joy of truth fill their minds
and bodies; may all sentient beings obtain all the excellent flavors of
nonattachment, and not be addicted to mundane tastes, but always
diligently cultivate and practice all aspects of buddhahood; may all
sentient beings gain the flavor of one truth and realize that all Buddha
teachings are without difference; may all sentient beings gain the flavor
of supreme victory and ride on omniscience, never turning back; may
all sentient beings gain the flavor of entry into the truth of the
nondifference of all Buddhas, and be able to distinguish all faculties;
may all sentient beings attain increase of the savor of the teaching and
always be able to fulfill the Buddhas’ teaching of nonobstruction.’ This
is the great enlightening beings’ dedication of roots of goodness when
giving flavorings, to cause all sentient beings to cultivate virtue and all
be fully endowed with the body of unobstructed knowledge.
Ðại Bồ Tát lúc bố thí những thứ uống ăn thượng vị thanh tịnh có thể làm cho thân tứ đại điều hòa tráng kiện, da thứa tươi nhuần, căn khiếu minh mẫn, tạng phủ mạnh tốt, không nhiễm độc, không nhuốm bịnh, luôn được an vui, trong lòng thanh tịnh thường hoan hỷ, đem thiện căn này hồi hướng như vầy:
Nguyện cho tất cả chúng sanh được đầy đủ cam lồ tối thượng vị. Nguyện cho tất cả chúng sanh được pháp trí vị rõ biết nghiệp dụng của tất cả vị. Nguyện cho tất cả chúng sanh được vô lượng pháp vị rõ thấu pháp giới an trụ trong thành trì đại pháp thiệt tế. Nguyện cho tất cả chúng sanh làm mây đại pháp khắp tất cả pháp giới rưới pháp võ giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh. Nguyện cho tất cả chúng sanh được thắng trí vị, pháp hỷ vô thượng sung mãn thân tâm. Nguyện cho tất cả chúng sanh không tham trước tất cả thượng vị, chẳng nhiễm tất cả vị thế gian, thường siêng tu tập tất cả Phật pháp. Nguyện tất cả chúng sanh được pháp nhứt vị rõ các Phật pháp đều không sai khác. Nguyện tất cả chúng sanh được vị tối thắng trọn không thối chuyển nơi Nhứt thiết trí. Nguyện cho tất cả chúng sanh được vào pháp vị bình đẳng của Chư Phật đều có thể phân biệt được tất cả những căn tánh. Nguyện cho tất cả chúng sanh thêm lớn pháp vị thường được đầy đủ Phật pháp vô ngại. Ðây là đại Bồ Tát lúc bố thí thượng vị đem thiện căn hồi hướng, khiến tất cả chúng sanh siêng tu phước đức đều được đầy đủ trí thân vô ngại.
“When great enlightening beings give conveyances, they dedicate the
roots of goodness in this way: ‘May all sentient beings gain the vehicle
of complete omniscience, and ride in the Great Vehicle, the indestructi-
ble vehicle, the supreme vehicle, the highest vehicle, the swift vehicle,
the vehicle of great power, the vehicle replete with virtue, the vehicle
leaving mundanity, the vehicle that produces the innumerable enlighten-
ing beings.’ This is the great enlightening beings’ dedication of roots of
goodness when giving conveyances.
Ðại Bồ Tát lúc bố thí xe cộ, đem thiện căn căn hồi hướng như vầy:
Nguyện cho tất cả chúng sanh đều được đầy đủ Nhứt thiết trí ngồi xe Ðại thừa, xe bất hoại, xe tối thắng, xe tối thượng, xe tốc tật, xe đại lực, xe phước đức đầy đủ, xe xuất thế, xe xuất sanh vô lượng Bồ Tát. Ðây là đại Bồ Tát đem thiện căn hồi hướng lúc bố thí xe cộ.
“When great enlightening beings give clothing, they dedicate the
roots of goodness in this way: ‘May all sentient beings gain the raiment
of shame and conscience wherewith to cover their bodies; may they
give up the erroneous practice of heretics who expose their bodies; may
their color be lustrous and their skin fine and soft; may they attain the
foremost bliss of the Buddhas, and attain the most pure comprehensive
knowledge of ways of liberation.’ This is great enlightening beings’
dedication of roots of goodness when giving clofhing.
Ðại Bồ Tát lúc bố thí y phục đem các thiện căn hồi hướng như vầy:
Nguyện tất cả chúng sanh được y phục tàm qúy để che thân họ, bỏ lìa tà đạo ác pháp, da thứa mịn màng, nhan sắc tươi sáng, thành tựu sự vui đệ nhứt của Phật, được Nhứt thiết chủng trí. Ðây là lúc đại Bồ Tát bố thí y phục đem thiện căn hồi hướng.
“Great enlightening beings are constantly giving out various fine
flowers — flowers of subtle fragrance, flowers of various colors, innu-
merable extraordinary flowers, beautiful flowers, delightful flowers,
flowers of all seasons, celestial flowers, flowers of the human world,
highly prized flowers, extremely fragrant and delightful flowers —
innumerable such fine flowers they offer to living Buddhas and to the
shrines of extinct Buddhas, to those who expound the teaching, to
mendicants, to all enlightening beings, to good teachers, to Buddhist
disciples, to self-enlightened ones, to parents, relatives, even themselves,
as well as to all the poor and destitute. When they give, they dedicate
the roots of goodness in this way: ‘May all sentient beings attain the
flowers of concentration of the Buddhas, able to cause all the teachings
to bloom; may all sentient beings become as pleasing and endlessly
delightful to all they meet, as the Buddhas are; may all sentient beings
be satisfied by what they see, and be free front disturbance and agitation;
may all sentient beings fully carry out far-reaching pure works; may all
sentient beings always remember good associates, their minds unchanging;
may all sentient beings be like all-curing medicine, able to remove the
toxins of all afflictions; may all sentient beings fulfill great vows and all
get to be rulers of unexcelled knowledge; may all sentient beings, with
the light of the sun of knowledge and wisdom, destroy the darkness of
ignorance and folly; may all sentient beings’ pure moon of enlighten-
ment wax full; may all sentient beings enter the land of great treasures,
meet true knowers, and fully develop all roots of goodness.’ This is the
great enlightening beings’ dedication of roots of goodness when giving
flowers, to cause sentient beings to all attain pure, unobstructed
knowledge.
Ðại Bồ Tát thường đem các thứ hoa thơm đẹp cúng dường Chư Phật hiện tại, và cúng dường điện tháp thờ Phật, cũng cúng dường người thuyết pháp, Tỳ kheo Tăng, chư Bồ Tát, các thiện trí thức, hành Thanh Văn, Ðộc Giác, cha mẹ, Sư Trưởng, nhẫn đến kẻ nghèo cùng côi cút.
Lúc bố thí, Bồ Tát đem thiện căn hồi hướng như vầy:
Nguyện tất cả chúng sanh đều được hoa tam muội của Phật có thể đơm nở tất cả pháp. Nguyện tất cả chúng sanh đều được như Phật, ai xem thấy cũng đều hoan hỷ không chán. Nguyện tất cả chúng sanh tâm không động loạn, chỗ thấy đều thuận hiệp. Nguyện tất cả chúng sanh làm đủ những nghiệp hạnh rộng lớn thanh tịnh. Nguyện tất cả chúng sanh luôn nhớ thiện hữu lòng không đổi dời. Nguyện tất cả chúng sanh như thuốc A già đà có thể trừ tất cả độc phiền não. Nguyện tất cả chúng sanh trọn nên đại nguyện đều thành bực Pháp Vương vô thượng. Nguyện tất cả chúng sanh phóng trí quang phá tối ngu si. Nguyện tất cả chúng sanh đầy đủ trí giác. Nguyện tất cả chúng sanh gặp thiện trí thức thành tựu đầy đủ tất cả thiện căn. Ðây là lúc đại Bồ Tát bố thí hoa đẹp đem thiện căn hồi hướng khiến chúng sanh được trí huệ thanh tịnh vô ngại.
“When great enlightening beings give garlands, they dedicate the
roots of goodness in this way: ‘May all sentient beings be a pleasure tor
all people to behold, so that all who sec them admire them, all who sec
them feel friendly toward them, all who see them like them, all who sec
them look up to them, all who sec them are relieved of anxiety, all who
sec them become joyful, all who sec them give up evil, all who sec
them may always approach the Buddhas, and all who see them are
purified and attain omniscience.’ This is the great enlightening beings’
dedication of roots of goodness when giving garlands.
Lúc bố thí tràng hoa, đại Bồ Tát đem thiện căn hồi hướng như vầy:
Nguyện cho tất cả chúng sanh được người thích thấy, người thấy đều mến kính, thân thiện, khát ngưỡng, người thấy đều trừ sự ưu phiền, được hoan hỷ, lìa ác, thường được gần gủi Chư Phật, được Nhứt thiết trí. Ðây là đại Bồ Tát lúc bố thí tràng hoa đem thiện căn hồi hướng.
“When great enlightening beings give incense, they dedicate the roots
of goodness in this way: ‘May all sentient beings be filled with the
fragrance of morality, and attain to the standards of not being heedless,
not being impure, not being defiled, having nothing to regret, becom-
ing tree from bondage, being unfrenzied, nontransgression, nonextrem-
ism, emancipation from the world, and the transcendent ways of en-
lightening beings. May all sentient beings, by these precepts, all accom-
plish the body of morality of all Buddhas.’ This is great enlightening
beings’ dedication of roots of goodness when giving incense, in order
to cause sentient beings all to be able to complete the body of unob-
structed morality.
Lúc bố thí các thứ hương, đại Bồ Tát hồi hướng như vầy:
Nguyện cho tất cả chúng sanh được đầy đủ giới hương, được giới hạnh chẳng kém thiếu, chẳng tạp, chẳng nhiễm ô, chẳng hối hận, được giới hạnh lìa triều phược, không nhiệt não, không sai phạm, được giới vô biên, giới xuất thế, giới Bồ Tát Ba la mật. Nguyện tất cả chúng sanh do giới hạnh này mà đều được thành tựu giới thân của Chư Phật. Ðây là lúc đại Bồ Tát bố thí các thứ hương đem thiện căn hồi hướng, khiến chúng sanh đều được viên mãn giới tụ vô ngại.
“When great enlightening beings give perfumes, they dedicate the
roots of goodness in this way: ‘May all sentient beings be perfumed
with the fragrance of generosity, able to give whatever they have. May
all sentient beings be perfumed with the fragrance of morality, attaining
the ultimately pure morality of the enlightened. May all sentient beings
be perfumed with the fragrance of tolerance, giving up all harmful
intentions. May all sentient beings be perfumed with the fragrance of
energy, always wearing the armor of heroic effort of the great vehicle.
May all sentient beings be perfumed with the fragrance of concentration,
abiding peacefully in the concentration in which the Buddhas appear to
them. May all sentient beings be perfumed with the fragrance of wisdom,
in a single moment becoming sovereigns of unexcelled knowledge.
May all sentient beings be perfumed with the fragrance of truth, attain-
ing fearlessness in the highest teaching. May all sentient beings be
perfumed with the fragrance of virtue, developing all knowledge of
great merit and virtue. May all sentient beings be perfumed with the
fragrance of enlightenment, attain the ten powers of buddhahood, and
reach the ofher shore. May all sentient beings be perfumed with the
sublime fragrance of pure ways and forever annihilate all bad qualities.’
This is great enlightening beings’ dedication of roots of goodness when
giving perfumes.
Lúc đại Bồ Tát bố thí hương thoa, đem thiện căn hồi hướng như vầy:
Nguyện cho tất cả chúng sanh được thí hương xông khắp đều có thể huệ xả tất cả sở hữu. Nguyện cho tất cả chúng sanh được giới hương xông khắp đều được tịnh giới rốt ráo của Như Lai.
Nguyện cho tất cả chúng sanh được nhẫn hương xông khắp lìa bỏ tâm hiểm hại. Nguyện cho tất cả chúng sanh được tinh tấn hương xông khắp thường mặc mão giáp tinh tấn Ðại thừa. Nguyện cho tất cả chúng sanh được định hương xông khắp an trụ nơi chánh định hiện tiền của Chư Phật. Nguyện cho tất cả chúng sanh được huệ hương xông khắp trong một niệm được thành Trí Vương vô thượng. Nguyện cho tất cả chúng sanh được pháp hương xông khắp nơi pháp vô thượng được vô úy. Nguyện cho tất cả chúng sanh được đức hương xông khắp thành tựu hương đại công đức. Nguyện cho tất cả chúng sanh được Bồ đề hương xông khắp được Phật Thập lực đến nơi bờ kia. Nguyện cho tất cả chúng sanh được hương bạch pháp thanh tịnh xông khắp dứt hẳn tất cả pháp bất thiện. Ðây là đại Bồ Tát lúc bố thí hương thoa đem thiện căn hồi hướng.
“When great enlightening beings give couches, they dedicate the
roots of goodness in this way: ‘May all sentient beings obtain celestial
couches and realize great knowledge and wisdom; may all sentient
beings obtain the couch of sages, give up the mentality of ordinary men
and abide in the aspiration for enlightenment; may all sentient beings
obtain the couch of peace and happiness, forever parting from all the
pains and afflictions of birth and death; may all sentient beings obtain
the couch of the ultimate and get to see the autonomous spiritual
powers of the Buddhas; may all sentient beings obtain the couch of
equanimity, and always cultivate all good ways; may all sentient beings
obtain the couch of supremacy and fulfill pure action which has no peer
in the world; may all sentient beings obtain the couch of tranquility,
realize the truth and reach ultimate reality; may all sentient beings
obtain the couch of purity, and cultivate the Buddha’s sphere of pure
knowledge; may all sentient beings obtain the couch of security and
have the constant profection of good teachers; may all sentient beings
obtain the couch of lions and lie on their right sides the way Buddhas
- ‘ Th is is the great enlightening beings’ dedication of roots of good-
ness when giving couches.
Lúc bố thí giường ghế, đại Bồ Tát đem tất cả hồi hướng như vầy:
Nguyện cho tất cả chúng sanh được giường ghế Chư Thiên và chứng trí huệ lớn. Nguyện cho tất cả chúng sanh được giường ghế Thánh Hiền bỏ ý phàm phu trụ tâm Bồ đề. Nguyện cho tất cả chúng sanh được giường ghế an lạc lìa tất cả khổ não sanh tử. Nguyện cho tất cả chúng sanh được giường ghế rốt ráo thấy thần thông tự tại của Phật. Nguyện cho tất cả chúng sanh được giường ghế bình đẳng, luôn huân tu khắp tất cả pháp lành. Nguyện cho tất cả chúng sanh được giường ghế tối thắng đủ nghiệp thanh tịnh, thế gian không sánh kịp. Nguyện cho tất cả chúng sanh được giường ghế an ổn chứng pháp chơn thiệt rốt ráo đầy đủ. Nguyện cho tất cả chúng sanh được giường ghế thanh tịnh tu tập tịnh trí của Như Lai. Nguyện cho tất cả chúng sanh được an trụ nơi giường ghế, được hành thiện tri thức luôn theo che chở. Nguyện cho tất cả chúng sanh được giường ghế sư tử thường nằm nghiêng hông mặt như Phật. Ðây là lúc đại Bồ Tát bố thí giường ghế đem thiện căn hồi hướng, khiến chúng sanh tu tập chánh niệm khéo thủ hộ các căn.
“When great enlightening beings give rooms and shelters, they dedi-
cate the roots of goodness in this way: ‘May all sentient beings gain
peaceful residence in pure buddha-lands and diligently cultivate all
virtues, abide peacefully in the realm of profound concentration and
give up all attachment to dwelling places, realize all dwelling places
have no existence, detach from all worlds, abide in omniscience, take in
the abodes of all Buddhas, live in the abode of peace and comfort of the
ultimate path, always rest on supremely pure roots of goodness, and
never leave the unexcelled abode of the Buddhas.’ This is great enlight-
ening beings’ dedication of roots of goodness when giving shelters,
because they wish to benefit all sentient beings and think of how to help
them out according to their needs.
Lúc đại Bồ Tát bố thí phòng nhà đem thiện căn hồi hướng như vầy:
Nguyện cho tất cả chúng sanh đều được an trụ Phật độ thanh tịnh, siêng năng tu tập tất cả công đức, an trụ cảnh giới tam muội thậm thâm, rời bỏ tất cả chỗ chấp trước, rõ chỗ trụ đều là vô sở hữu, lìa thế gian mà nơi Nhứt thiết trí, nhiếp lấy chỗ trụ của Phật, trụ nơi đạo rốt ráo, nơi chốn an vui, luôn trụ nơi thiện căn thanh tịnh đệ nhứt, trọn chẳng rời bỏ chỗ trụ Vô thượng của Phật. Ðây là đại Bồ Tát lúc bố thí phòng nhà đem thiện căn hồi hướng, vì muốn lợi ích tất cả chúng sanh tùy chỗ họ đáng được độ mà tư duy cứu hộ.
“When great enlightening beings give places to live, they dedicate the
roots of goodness in this way: ‘May all sentient beings obtain what is
really good tor them, that their minds be happy and at peace; may all
sentient beings live according to the Buddha, according to great
knowledge, according to good teachers, according to what is most
worthy of respect, according to good actions, according to great kindness,
according to great compassion, according to the six ways of transcen-
dence, according to the great determination for enlightenment, and
according to the path of all enlightening beings.’ This is great enlighten-
ing beings’ dedication of roots of goodness when giving places to live,
because they want to cause everyone’s virtue, ultimate state, knowledge,
path, principles, morality, aspirations, faith, vows, and all qualities of
spiritual faculties, to be pure.
Lúc đại Bồ Tát bố thí chỗ ở, đem thiện căn hồi hướng như vầy:
Nguyện cho tất cả chúng sanh thường được lợi lành lòng họ an vui. Nguyện cho tất cả chúng sanh y tựa đức Phật mà trụ, y tựa đại trí mà trụ, y tựa thiện trí thức mà trụ, y tựa tôn thắng mà trụ, y tựa thiện hạnh mà trụ, y tựa đại từ mà trụ, y tựa đại bi mà trụ, y tựa sáu môn Ba la mật mà trụ, y tựa đại Bồ đề tâm mà trụ, y tựa Bồ Tát đạo mà trụ. Ðây là đại Bồ Tát lúc bố thí chỗ ở đem thiện căn hồi hướng để cho tất cả phước đức được thanh tịnh, rốt ráo thanh tịnh, trí thanh tịnh, đạo thanh tịnh, pháp thanh tịnh, giới thanh tịnh, chí nguyện thanh tịnh, tín giải thanh tịnh, tất cả thần thông công đức thanh tịnh.
“When great enlightening beings give lamps — butter lamps, oil lamps,
jewel lamps, crystal lamps, lacquer lamps, fire lamps, aloe lamps,
sandalwood lamps, lamps of all fragrances, lamps with lights of infinite
colors — when they give innumerable such lamps, in order to benefit all
sentient beings, to include all sentient beings, they dedicate the roots of
goodness in this way: ‘May all sentient beings attain infinite light and
illumine the true teachings of all Buddhas; may all sentient beings attain
pure light, and clearly perceive the most subtle and minute forms in the
world; may all sentient beings attain unclouded light, and realize that
the realms of sentient beings are empty, without existence; may all
sentient beings attain boundless light, so their bodies emit subtle radi-
ance illumining everything; may all sentient beings attain all-illuminating
light, and their minds never retreat from the teachings of the Buddhas;
may all sentient beings attain the pure light of Buddhas, appearing in all
lands; may all sentient beings attain unobstructed light, one light illumi-
ning everything in the cosmos; may all sentient beings attain uninter-
rupted light, illuminating the buddha-lands, the light unbroken; may all
sentient beings attain the light of the banner of knowledge, illumining
the world; may all sentient beings attain light of infinite colors, shining
on all fields and manifesting spiritual powers.’ Thus enlightening beings,
when they give lamps, wishing to benefit all sentient beings, to give
peace and happiness to all sentient beings, follow all sentient beings by
these roots of goodness, embrace all sentient beings by these roots of
goodness, distribute to all sentient beings these roots of goodness, treat
all sentient beings kindly by these roots of goodness, satisfy all sentient
beings by these roots of goodness, take care of all sentient beings by
these roots of goodness, rescue all sentient beings by these roots of
goodness, focus their minds on sentient beings by these roots of goodness,
equally benefit all sentient beings by these roots of goodness, and
observe all sentient beings by these roots of goodness. This is great
enlightening beings’ dedication of roots of goodness when giving lamps.
They dedicate thus without hindrance, causing sentient beings to dwell
on roots of goodness.
Ðại Bồ Tát lúc bố thí các thứ đèn sáng: đèn tô, đèn dầu, đèn báu, đèn ma ni, đèn sơn, đèn lửa, đèn trầm thủy, đèn chiên đàn, tất cả đèn thơm, đèn vô lượng màu sắc sáng chói …, vì muốn lợi ích tất cả chúng sanh, vì muốn nhiếp thọ tất cả chúng sanh, nên đem thiện căn này hồi hướng như vầy:
Nguyện tất cả chúng sanh được vô lượng quang chiếu khắp chánh pháp của Chư Phật. Nguyện tất cả chúng sanh được thanh tịnh quang soi thấy sắc cực vi tế của thế gian. Nguyện tất cả chúng sanh được ly tế quang rõ biết chúng sanh giới rỗng không vô sở hữu. Nguyện tất cả chúng sanh được vô biên quang, thân phóng ánh sáng vi diệu chiếu khắp tất cả. Nguyện tất cả chúng sanh được phổ chiếu quang, tâm không thối chuyển đối với Phật pháp, nguyện tất cả chúng sanh được Phật tịnh quang, thảy đều hiển hiện trong tất cả cõi. Nguyện tất cả chúng sanh được vô ngại quang, một ánh sáng chiếu khắp pháp giới. Nguyện tất cả chúng sanh được vô đoạn quang, ánh sáng chiếu các Phật độ chẳng gián đoạn. Nguyện tất cả chúng sanh được trí tràng quang chiếu khắp thế gian. Nguyện tất cả chúng sanh được vô lượng sắc quang chiếu tất cả cõi thị hiện thần lực. Ðây là lúc đại Bồ Tát bố thí các thứ đèn sáng đem thiện căn hồi hướng như vậy không bị chướng ngại, khiến khắp chúng sanh an trụ trong thiện căn.
“When enlightening beings give medicines, they dedicate the roots of
goodness in this way: ‘May all sentient beings attain ultimate emancipa-
tion from all shrouds and bonds; may all sentient beings forever be rid
of the body of sickness and attain the body of the enlightened; may all
sentient beings become great medicines themselves, annihilating the
sickness of all that is not good; may all sentient beings perfect the
medicine that relieves all illness and abide securely in the enlightening
beings’ stage of nonregression; may all sentient beings develop the
medicines of enlightenment and be able to extract the poison arrows of
all afflictions; may all sentient beings draw near to worthies and sages,
annihilate afflictions, and cultivate pure practices; may all sentient beings
become great physicians, forever eliminating all illnesses and not letting
them recur; may all sentient beings be indestructible trees of medicine,
able to cure all sentient beings; may all sentient beings attain the light of
omniscience and remove the myriad arrows of sickness; may all sentient
beings know how to formulate worldly medicines, to cure the illnesses
there.’ When great enlightening beings give medicines, they dedicate
the roots of goodness in this way to cause all sentient beings to be
forever tree from sicknesses, to be ultimately at ease, to be ultimately
pure, to be free from illusion like the Buddha, to remove the arrows of
all sicknesses, to attain an inexhaustible, healthy body, to attain an
indestructible body, to attain a strong body, to attain the complete
comfort of Buddhahood, which cannot be taken away, and to attain the
independent, strong body of all Buddhas.
Lúc bố thí thuốc men, đại Bồ Tát đem thiện căn hồi hướng như vầy:
Nguyện tất cả chúng sanh rốt ráo ra khỏi những phiền não. Nguyện tất cả chúng sanh lìa hẳn thân bịnh được thân Như Lai. Nguyện tất cả chúng sanh làm thuốc hay, dứt trừ tất cả bịnh bất thiện. Nguyện tất cả chúng sanh thành thuốc A già đà an trụ bực bất thối. Nguyện tất cả chúng sanh thành thuốc Như Lai có thể nhổ tất cả tên độc phiền não. Nguyện tất cả chúng sanh gần gũi Hiền Thánh dứt trừ phiền não tu hạnh thanh tịnh. Nguyện tất cả chúng sanh làm vị Dược Vương trừ hẳn các bịnh chẳng cho tái phát. Nguyện tất cả chúng sanh làm cây thuốc bất hoại có thể chữa lành tất cả loài. Nguyện tất cả chúng sanh được ánh sáng Nhứt thiết trí nhổ tên các bịnh tật. Nguyện tất cả chúng sanh khéo hiểu phương thuốc thế gian chữa trị cho những người bịnh. Vì muốn lợi ích cho tất cả chúng sanh, nên lúc bố thí thuốc men, Bồ Tát đem thiện căn hồi hướng như vậy.
“Great enlightening beings are able to generously give all kinds of
vessels — gold vessels filled with jewels, silver vessels filled with jewels,
lapis lazuli vessels tilled with various precious substances, glass vessels
filled with innumerable jewel ornaments, mofher-of-pearl vessels filled
with red pearls, agate vessels filled with coral, white jade vessels filled
with myriad delicacies, sandalwood vessels filled with celestial raiment,
diamond vessels tilled with myriad sublime fragrances — countless pre-
cious vessels of all kinds, filled with innumerable various treasures; they
give them to Buddhas, because they believe the Buddhas’ field of
blessings is inconceivable; they give to enlightening beings, because
they know that wise teachers are hard to find; they give to holy
mendicants, to cause the Buddha teachings to remain in the world; they
give to disciples of Buddhas and to individual illuminates, because they
have pure faith in the sages; they give to their parents, out of respect;
they give to their teachers and predecessors, that they may always
teach, to induce the cultivation of virtues in accord with the injunctions
of the sages; they give to the lowly, poor, and destitute, because they
regard all sentient beings equally with the loving eye of great benevo-
lence and compassion; they give out of devofion to fulfillment of the
transcendent generosity of all enlightening beings of past, present, and
future; they give everything to everyone, because they never reject
sentient beings. When they give in this way, they have no attachment
to the gift or the receiver.
Ðại Bồ Tát lúc đem những khí cụ bằng thất bửu đựng đầy chây báu bố thí cúng dường Chư Phật, chư Bồ Tát, các Thánh Tăng, cúng dường hành Thanh Văn, Ðộc Giác, cha mẹ, Sư Trưởng, nhẫn đến bố thí cho những kẻ nghèo cùng côi cút, chẳng chấp có vật thí người lãnh, tất cả thiện căn đều hồi hướng như vầy:
Nguyện cho tất cả chúng sanh thành tạng vô biên đồng như hư không, niệm lực rộng lớn, có thể thọ trì trọn vẹn tất cả kinh sách thế gian và xuất thế gian không quên sót. Nguyện tất cả chúng sanh thành khí cụ thanh tịnh tỏ ngộ được chánh pháp thậm thâm của Chư Phật. Nguyện tất cả chúng sanh thành bửu khí vô thượng có thể thọ trì trọn vẹn tam thế Phật pháp. Nguyện tất cả chúng sanh thành tựu pháp khí rộng lớn của Như Lai dùng lòng tin bất hoại nhiếp thọ pháp Bồ đề của tam thế Phật. Nguyện tất cả chúng sanh thành tựu khí cụ bửu trang nghiêm tối thắng trụ tâm Bồ đề Oai Ðức lớn. Nguyện tất cả chúng sanh thành tựu khí cụ làm chỗ tựa cho tất cả công đức, tin hiểu thanh tịnh đối với vô lượng trí huệ của Như Lai. Nguyện tất cả chúng sanh thành tựu khí cụ nhập Nhứt thiết trí rốt ráo giải thoát vô ngại của Như Lai. Nguyện tất cả chúng sanh được khí cụ Bồ Tát hạnh có thể làm cho mọi loài đều được an trụ Nhứt thiết trí. Nguyện tất cả chúng sanh thành tựu thắng công đức tam thế Phật tánh, có thể thọ trì pháp âm của Chư Phật. Nguyện tất cả chúng sanh thành tựu khí cụ dung nạp tất cả Phật hội đạo tràng khắp pháp giới, là thượng thủ ca ngợi Phật và khuyến thỉnh chuyển pháp luân. Vì muốn tất cả chúng sanh đều được viên mãn hạnh Phổ Hiền, nên lúc bố thí khí cụ, Bồ Tát đem thiện căn hồi hướng như vầy
Hán Bộ Quyển Thứ 26
“When great enlightening beings give various precious vessels filled
with innumerable precious things like this, they dedicate the roots of
goodness in this way: ‘May all sentient beings become vessels equal to
the boundless receptacle of space, with vast recollective power able to
absorb and retain all worldly and transmundane scriptures, without
forgetting anything; may all sentient beings become vessels of purity.
able to understand the extremely profound true teaching of the Buddhas;
may all sentient beings become vessels of unexcelled jewels, able to
receive and hold the teachings of Buddhas of all times; may all sentient
beings become vast vessels of teaching of the enlightened, with inde-
structible faith taking in the methods of enlightenment of the Buddhas
of all times; may all sentient beings become vessels adorned by supreme
treasures, abiding in the most powerful will for enlightenment; may all
sentient beings become vessels which are receptacles of virtue, develop-
ing pure faith in the infinite knowledge and wisdom of the enlightened;
may all sentient beings become the vessel of approach and entry into
omniscience and ultimately attain the unhindered liberation of the
enlightened; may all sentient beings become vessels of enlightening
practices throughout the future, able to cause sentient beings to all abide
securely in the power of omniscience; may all sentient beings become
vessels of the supreme qualities of the family of Buddhas of all times,
able to receive and retain what is said by the Buddhas in their sublime
voices; may all sentient beings become vessels containing the congrega-
tions and enlightenment scenes of all Buddhas of all worlds throughout
the space of the cosmos, becoming great human beings, lenders in
praising the Buddhas and requesting them to turn the wheel of true
teaching.’ This is great enlightening beings’ dedication of roots of
goodness when giving vessels, because they want to cause all sentient
beings to be able to complete the vessel of the practice and vows of the
Universally Good enlightening being.
Ðại Bồ Tát lúc bố thí các loại xe cộ, những là xe bằng vàng bạc thất bửu, hoặc ngựa kéo hay voi kéo, trang nghiêm với những thứ châu ngọc vật báu, cúng dường lên Chư Phật, hoặc dâng lên điện tháp thờ Phật, đem công đức này hồi hướng như vầy:
Nguyện cho tất cả chúng sanh đều biết cúng dường phước điền vô thượng, tin chắc rằng cúng Phật được vô lượng quả báo. Nguyện tất cả chúng sanh nhứt tâm hướng đến Phật, thường gặp vô lượng phước điền thanh tịnh. Nguyện tất cả chúng sanh không lẫn tiếc đối với Như Lai, thành tựu trọn vẹn lòng đại xả. Nguyện tất cả chúng sanh ở chỗ Chư Phật, tu hành hạnh bố thí rời tâm Nhị thừa, đến được Nhứt thiết chủng trí vô ngại giải thoát của Như Lai. Nguyện tất cả chúng sanh chỗ Chư Phật thật hành vô tận thí vào vô lượng công đức trí huệ của Phật. Nguyện tất cả chúng sanh nhập thắng trí của Phật được thành bực trí vương thanh tịnh vô thượng. Nguyện tất cả chúng sanh được thần thông vô ngại của Phật, muốn đến nơi nào đều tự tại cả. Nguyện tất cả chúng sanh thậm nhập Ðại thừa được vô lượng trí an trụ bất động. Nguyện tất cả chúng sanh đều có thể xuất sanh pháp Nhứt thiết trí làm phước điền vô thượng của hàng Nhơn, Thiên. Nguyện tất cả chúng sanh ở chỗ Chư Phật không có tâm hiểm hận, siêng vun trồng căn lành thích cầu Phật trí. Nguyện tất cả chúng sanh nhiệm vận có thể qua đến tất cả Phật độ, trong một sát na đi khắp pháp giới mà không mỏi nhọc. Nguyện tất cả chúng sanh được Bồ Tát tự tại thần thông, phân thân khắp pháp giới thân cận cúng dường tất cả Phật. Nguyện tất cả chúng sanh được thân vô tỷ đến khắp mười phương vẫn không mỏi nhàm. Nguyện tất cả chúng sanh được thân quảng đại phi hành mau chóng, chỗ đến tùy ý trọn không lười trễ. Nguyện tất cả chúng sanh được oai lực tự tại rốt ráo của Chư Phật, trong một sát na hiện Phật thần thông biến hóa khắp hư không giới. Nguyện tất cả chúng sanh tu hạnh an lạc tùy thuận tất cả Bồ Tát đạo. Nguyện tất cả chúng sanh được mau chóng thật hành rốt ráo Thập lực trí huệ thần thông. Nguyện tất cả chúng sanh bình đẳng vào khắp pháp giới. Nguyện tất cả chúng sanh không thối chuyển hạnh Phổ Hiền đến bờ kia thành Nhứt thiết trí. Nguyện tất cả chúng sanh lên bực trí huệ vô tỷ tùy thuận pháp tánh thấy lý chơn thật. Ðây là lúc cúng dường xe cộ cho Chư Phật hoặc điện tháp thờ Phật, đại Bồ Tát đem thiện căn hồi hướng như vậy, vì muốn cho chúng sanh được Phật thừa rốt ráo giải thoát vô ngại.
“Great enlightening beings give various chariofs, adorned with jewels,
to the Buddhas, to enlightening beings, teachers, worthy companions,
disciples of Buddhas and individual illuminates, and innumerable vari-
ous such fields of blessings, including the poor and destitute. Of these
people, some come from afar, some come from nearby; some come
because they have heard of the enlightening beings, some come because
of affinities with the enlightening beings, some come because they have
heard of the vow of generosity which the enlightening beings made in
the past, some come at the request of the enlightening beings themselves.
At such a time, the enlightening beings may give jeweled chariofs or
gold chariofs, all beautifully adorned, covered with nets of chimes,
with precious streamers trailing; they may give chariofs of the finest
lapis lazuli, decorated with countless rarefies; they may give silver
chariofs, covered with golden nets, drawn by switt horses; they may
give chariofs adorned with countless mixed jewels, covered with jewel
nets, drawn by elephants; they may give sandalwood chariofs, with
wheels of sublime jewels, canopies of mixed jewels, with lion scats of
jewels set out m fine arrays with a hundred thousand girls sitting in
rows thereon, the carts driven by a hundred thousand strong men; or
they may give chariofs of clear crystal, decorated with mixtures of gems,
filled with beautiful women, covered with jeweled curtains, with ban-
ners and pennants on the sides; they may give chariofs of stores of
agate, embellished with all precious substances, perfumed with various
fragrances, adorned with all kinds of beautiful flowers, with a hundred
thousand girls holding jewel ornaments, the carts pulled by steeds
equally well-trained, able to travel over dangerous places with case; or
they may give chariofs of solid perfume, with wheels of precious
substances, with massive, beautiful adornments, covered with jeweled
drapes, trailing jewelled nets, the insides spread with various precious
robes, emitting fine, pure, pleasing fragrances, attended by countless
celestials as they move along, providing all kinds of precious substances
from time to time; they may present chariofs of luminous jewels, the
beautiful hues of the various jewels thoroughly translucent, covered
with nets of many wonderful jewels, with ornaments of mixed jewels
hanging down on all sides, sprinkled with powdered incense, fragrant
and clean inside and out, with charming men and women riding on
them.
“When great enlightening beings present such chariofs of myriad
beautiful gems to Buddhas, they dedicate the roots of goodness thus:
‘May all sentient beings be able to make offerings to the highest field of
blessings, give to Buddhas with deep faith, and attain infinite rewards;
may all sentient beings turn their whole minds to the Buddha, and
always meet infinite pure fields of blessings; may all sentient beings
begrudge nothing to the Buddhas, and fully perfect the mind of great
relinquishment; may all sentient beings practice giving to the Buddhas,
give up the aspirations of the two lesser vehicles, and attain the unob-
structed liberation and omniscient knowledge of the Buddhas; may all
sentient beings practice endless giving to the Buddhas and enter the
knowledge and wisdom of Buddhas, with infinite virtues; may all
sentient beings enter the supreme knowledge of Buddhas and be able to
become sovereigns of pure, unexcelled knowledge; may all sentient
beings attain the Buddhas’ spiritual faculty of reaching everywhere
without obstruction, and go wherever they wish freely; may all sentient
beings enter deeply into the Great Vehicle, attain immeasurable
knowledge, and be stabilized therein, imperturbable; may all sentient
beings be able to bring forth ways to omniscience and become supreme
fields of blessings for humans and celestials; may all sentient beings
have no antagonism toward the Buddhas, diligently plant roots of
goodness, and happily seek enlightened knowledge; may all sentient
beings spontaneously be able to go to all buddha-ficlds, going through-
out the cosmos in a single instant, without tiring; may all sentient
beings attain the tree spiritual faculties of enlightening beings, distribute
their bodies throughout space, approach and make offerings to all
Buddhas; may all sentient beings attain the incomparable body, going
everywhere in the ten directions, without wearying; may all sentient
beings attain a vast body flying swiftly wherever they want to go,
never flagging; may all sentient beings attain the ultimate power of
freedom of all Buddhas, in a single instant manifesting the Buddhas’
spiritual powers and mystic displays throughout space; may all sentient
beings cultivate peaceful, blissful practice, following the path of all
enlightening beings; may all sentient beings attain speed in action, and
consummate the knowledge and spiritual abilities of the ten powers;
may all sentient beings enter all lands in the cosmos, annulling the
boundaries so they are equal and without distinction; may all sentient
beings carry out the practice of universal goodness and wisdom, never
retreating, reach the ofher shore, and attain omniscience; may all sen-
tient beings climb into the vehicle of peerless knowledge and, following
the nature of things, see the truth as it really is.’ This is the great
enlightening beings’ dedication of roots of goodness when presenting
precious chariofs to all Buddhas of the present or to the memorial
shrines of Buddhas after they have passed away; this is to cause sentient
beings to gain the unobstructed vehicle of ultimate emancipation of the
enlightened.
“When great enlightening beings give precious chariofs to good
teachers such as enlightening beings, they dedicate the roots of good-
ness in this way: ‘May all sentient beings always remember the teach-
ings of the wise and concentrate diligently on preserving them so they
may not be lost; may all sentient beings share the same benefits as good
teachers, all-inclusive, and have the same roots of goodness; may all
sentient beings draw near to good teachers, respect and provide for
them, giving up all they have to please them; may all sentient beings
develop good aspirations and follow good associates, never leaving
them; may all sentient beings always get to meet good teachers,
wholeheartedly attend to them, and not oppose their instructions; may
all sentient beings like good teachers and never reject them, so there is
no alienation, no mixup, and no error; may all sentient beings be able
to give themselves to good teachers, following their instructions with-
out opposition; may all sentient beings be accepted by good teachers,
cultivate great compassion, and depart from all evils; may all sentient
beings follow good teachers and listen to the truths spoken by the
Buddhas; may all sentient beings have the same roots of goodness as the
teachers, with pure results of action, and practice the same vows as the
enlightening beings, ultimately accomplishing the ten powers; may all
sentient beings be able to accept and apply the methods of good
teachers, and reach the realms of all concentrations, knowledge, wisdom,
and spiritual powers; may all sentient beings be able to accept and hold
all right teachings, put them into practice, and reach the ofher shore;
may all sentient beings ride in the Great Vehicle, without any hindrance
or obstruction, and ultimately complete the path of omniscience; may
all sentient beings manage to climb into the vehicle of all knowledge
and reach the abode of peace, without ever turning back; may all
sentient beings know how to act according to reality, and attain the
ultimate of all the Buddha-teachings they hear, never forgetting; may
all sentient beings be accepted by the Buddhas and attain unhindered
knowledge of ultimate truth; may all sentient beings attain autonomous
spiritual powers which never fade away, and be able to go wherever
they want to in a single thought; may all sentient beings come and go
freely, widely teaching and guiding, causing ofhers to abide in the
Great Vehicle; may all sentient beings’ acts be fruitful, borne by the
vehicle of knowledge to the stage of the ultimate; may all sentient
beings gain the vehicle of nonobstruction and reach all places by unim-
peded knowledge.’ This is great enlightening beings’ dedication of
roots of goodness when giving various chariofs and cars to good
teachers; it is to cause sentient beings to be filled with virtues equal to
the Buddhas and enlightening beings.
Lúc bố thí các loại xe cộ cho chư Bồ Tát các thiện tri thức, đại Bồ Tát đem thiện căn hồi hướng như vầy:
Nguyện tất cả chúng sanh tâm thường ghi nhớ lời dạy của thiện tri thức, chuyên cần gìn giữ chẳng để quên mất. Nguyện tất cả chúng sanh đồng được lợi ích như thiện tri thức, nhiếp khắp tất cả cùng đồng một thiện căn. Nguyện tất cả chúng sanh gần thiện tri thức tôn trọng cúng dường, xả trọn sở hữu để thuận theo lòng thiện tri thức. Nguyện tất cả chúng sanh được chí muốn lành chẳng rời thiện hữu. Nguyện tất cả chúng sanh thừơng được gặp gỡ các thiện tri thức, kính thờ chẳng trái lời dạy. Nguyện tất cả chúng sanh mến thích thiện tri thức, chẳng rời, chẳng hở, chẳng lầm lỗi. Nguyện tất cả chúng sanh có thể đem thân bố thí cho thiện tri thức tùy ý sai bảo chẳng hề trái nghịch. Nguyện tất cả chúng sanh được thiện tri thức nhiếp thọ tự tại đại từ xa lìa điều ác. Nguyện tất cả chúng sanh theo thiện tri thức nghe chánh pháp của Phật dạy. Nguyện tất cả chúng sanh cùng thiện tri thức động một thiện căn đồng một nghiệp quả thanh tịnh, đồng một hạnh nguyện với chư Bồ Tát đến rốt ráo Thập lực. Nguyện tất cả chúng sanh đều có thể thọ trì pháp thiện tri thức đến được tất cả định huệ thần thông. Nguyện tất cả chúng sanh đều có thể thọ trì tất cả chánh pháp, tu tập các hạnh đến nơi bờ kia. Nguyện tất cả chúng sanh thừa nơi Ðại thừa không bị chướng ngại thành tựu rốt ráo đạo Nhứt thiết trí. Nguyện tất cả chúng sanh đều được lên xe Nhứt thiết trí đến chỗ an ổn không bị thối chuyển. Nguyện tất cả chúng sanh biết hạnh như thiệt phàm nghe Phật pháp đều được rốt ráo trọn không quên sót. Nguyện tất cả chúng sanh được Chư Phật nhiếp thọ được trí vô ngại. Nguyện tất cả chúng sanh được thần thông tự tại, phàm muốn đến chỗ nào, tùy niệm liền đến. Nguyện tất cả chúng sanh đều đi tự tại giáo hóa rộng khắp khiến đều an trụ nơi Ðại thừa. Nguyện tất cả chúng sanh chỗ thật hành chẳng luống, chở chuyên bằng xe trí đến bực rốt ráo. Nguyện tất cả chúng sanh được xe vô ngại, dùng trí vô ngại đến tất cả chỗ. Ðây là lúc bố thí xe cộ cho các thiện tri thức, đại Bồ Tát đem thiện căn hồi hướng vì muốn cho tất cả chúng sanh đầy đủ công đức đồng với Phật và Bồ Tát.
Lúc Bồ Tát bố thí xe báu cho Chư Tăng, liền khởi tâm học tất cả hạnh bố thí, tâm trí huệ khéo rõ biết, tâm công đức thanh tịnh, tâm tùy thuận hạnh xả, tâm Tăng Bửu khó gặp, tâm tin sâu Tăng Bửu, tâm nhiếp trì Chánh pháp, trụ nơi chí muốn thù thắng được chưa từng có làm hội đại thí, xuất sanh vô lượng công đức rộng lớn, tin sâu Phật pháp không bị ngăn trở phá hoại. Ðem thiện căn này hồi hướng như vầy:
Nguyện tất cả chúng sanh vào khắp Phật pháp ghi nhớ chẳng quên. Nguyện tất cả chúng sanh rời pháp phàm ngu, vào chỗ Thánh Hiền. Nguyện tất cả chúng sanh mau vào ngội Thánh có thể đem Phật pháp tuần tự dạy bảo. Nguyện tất cả chúng sanh được toàn thể thế gian tôn trọng, lời nói tất được tin dùng. Nguyện tất cả chúng sanh khéo vào tất cả pháp bình đẳng rõ biết pháp giới tự tánh không hai. Nguyện tất cả chúng sanh từ nơi trí cảnh Như Lai mà sanh, những người điều thuận theo làm quyến thuộc. Nguyện tất cả chúng sanh trụ pháp ly nhiễm dứt trừ tất cả trần cấu phiền não. Nguyện tất cả chúng sanh đều được thành tựu Tăng Bửu vô thượng lìa hạng phàm vào hàng Thánh. Nguyện tất cả chúng sanh siêng tu pháp lành được trí vô ngại đủ công đức vô thượng. Nguyện tất cả chúng sanh được tâm trí huệ chẳng chấp trước nơi thế gian, ở giữa chúng được tự tại như vua chúa. Nguyện tất cả chúng sanh ngồi xe trí huệ chuyển chánh pháp luân. Nguyện tất cả chúng sanh có đủ thần thông, trong khoảng một niệm có thể qua đến bất khả thuyết, bất khả thuyết thế giới. Nguyện tất cả chúng sanh thừa thân hư không được trí huệ vô ngại thấu suốt tất cả thế gian. Nguyện tất cả chúng sanh vào khắp chúng hội của Chư Phật trong tất cả hư không giới và thành tựu đệ nhứt Ba la mật. Nguyện tất cả chúng sanh được trí huệ thù thắng thân thể nhẹ nhàng có thể đến khắp tất cả Phật độ. Nguyện tất cả chúng sanh được thần túc thiện xảo vô biên tế, trong khoảng sát na hiện thân khắp mọi nơi. Nguyện tất cả chúng sanh được thân vô sở y dùng thần lực hiện khắp mọi nơi như bóng. Nguyện tất cả chúng sanh được thần lực tự tại bất tư nghì, tùy kẻ đáng được độ liền hiện ra trước họ mà giáo hóa điều phục. Nguyện tất cả chúng sanh được phương tiện vô ngại nhập pháp giới khoảng một niệm đi khắp cõi nước mười phương. Ðây là lúc bố thí xe báu cho Chư Tăng đại Bồ Tát đem thiện căn hồi hướng, vì muốn cho chúng sanh đều ngồi xe vô thượng trí thanh tịnh, chuyển pháp luân trí huệ vô ngại nơi tất cả thế gian.
Lúc đại Bồ Tát bố thí xe báu cho Thanh Văn và Ðộc Giác, liền khởi những tâm phước điền, công đức, tôn kính, tâm xuất sanh công đức trí huệ, tâm từ thế lực công đức của Như Lai sanh ra, tâm tu tập từ trăm ngàn ức na do tha kiếp, tâm có thể tu Bồ Tát hạnh nơi bất khả thuyết kiếp, tâm giải thoát tất cả sự hệ phược của ma, tâm trừ diệt tất cả ma quân, tâm huệ quang chiếu rõ pháp vô thượng.
Ðem thiện căn này hồi hướng như vầy:
Nguyện tất cả chúng sanh được thế gian tin là phước điền đệ nhứt trọn đủ Ðàn Ba la mật vô thượng. Nguyện tất cả chúng sanh rời bỏ lời nói vô ích thích ở một mình, tâm không có hai niệm. Nguyện tất cả chúng sanh thành phước điền thanh tịnh đệ nhứt, nhiếp các chúng sanh khiến tu phước nghiệp. Nguyện tất cả chúng sanh thành vực sâu trí huệ có thể đem lại vô lượng vô số thiện quả cho chúng sanh. Nguyện tất cả chúng sanh trụ hạnh vô ngại trọn đủ phước điền thanh tịnh đệ nhứt. Nguyện tất cả chúng sanh trụ pháp vô tránh, rõ tất cả pháp đều vô sở tác, đều lấy vô tánh làm tánh. Nguyện tất cả chúng sanh thường được gần gũi phước điền vô thượng tu hành trọn đủ vô lượng phước đức. Nguyện tất cả chúng sanh có thể hiện vô lượng thần thông tự tại dùng phước điền thanh tịnh nhiếp các hàm thức. Nguyện tất cả chúng sanh trọn đủ vô tận công đức phước điền có thể đem quả Phật thừa đệ nhứt cho các chúng sanh. Nguyện tất cả chúng sanh là phước điền chơn thiệt thành Nhứt thiết trí và phước tụ vô tận. Nguyện tất cả chúng sanh được pháp diệt tội, trọn thọ trì được cú nghĩa Phật pháp chưa từng nghe. Nguyện tất cả chúng sanh thường siêng nghe thọ tất cả Phật pháp và đều tỏ ngộ tất cả. Nguyện tất cả chúng sanh thường siêng nghe lãnh tất cả Phật pháp, tùy thuận diễn nói đúng như chỗ đã nghe. Nguyện tất cả chúng sanh tin hiểu tu hành theo Phật pháp, bỏ lìa tất cả chín mươi sáu phái ngoại đạo tà kiến. Nguyện tất cả chúng sanh thường gặp Hiền Thánh tăng trưởng những thiện căn tối thắng. Nguyện tất cả chúng sanh tâm thường tin ưa bực trí huệ, cùng ở cùng vui với các đấng Thánh triết. Nguyện tất cả chúng sanh nghe danh hiệu Phật đều được tận mắt thấy Phật không bỏ luống. Nguyện tất cả chúng sanh khéo phân biệt biết Phật pháp và đều có thể giữ gìn thọ trì tất cả. Nguyện tất cả chúng sanh luôn thích nghe tất cả Phật pháp thọ trì, đọc tụng, khai thị rõ ràng. Nguyện tất cả chúng sanh tin hiểu công đức chơn thật của Phật pháp, trọn bỏ sở hữu để cung kính cúng dường.
Ðây là lúc bố thí xe báu cho Thanh Văn, Ðộc Giác, đại Bồ Tát đem thiện căn hồi hướng, vì muốn cho chúng sanh đều được thành tựu trí huệ Thần thông thanh tịnh đệ nhứt, tinh tấn tu hành được trí lực vô úy.
“When great enlightening beings give precious chariofs to mendicants,
they engender the will to practice all giving, the will to comprehend
thoroughly by knowledge, the will to purity virtuous qualities, the
mind which accords with relinquishment, the thought that true Bud-
dhist mendicants are hard to meet, a mind of deep faith in the religious
community, and the will to uphold right teaching. They abide in
supreme aspiration, to an unprecedented degree. They hold great assem-
blies of giving, producing immeasurably great merit, with profound
faith in the Buddha’s teaching which cannot be undermined. They
dedicate the roots of goodness in this way: ‘May all sentient beings
enter comprehensively into the Buddha-teachings and keep them in
mind; may all sentient beings leave the state of ordinary ignorant people
and enter the realm of sages; may all sentient beings quickly enter the
ranks of the sages and be able to use the Buddha-teachings to awaken
and guide step-by-step; may all sentient beings be respected and trusted
by all the world; may all sentient beings enter into the equality of all
things and know that the inherent nature of things is nondual; may all
sentient beings be born from the realm of enlightened knowledge and
be surrounded by docile harmonious people; may all sentient beings
abide by the methods tor removing defilement, getting rid of the stains
of all afflictions; may all sentient beings be able to form a supreme
religious community, leave the state of ordinary people and enter the
congregation of worthies and sages; may all sentient beings diligently
practice good principles, attain unhindered knowledge, and be endowed
with sagelike qualities; may all sentient beings attain wisdom, not be
attached to the past, present, or future, and be tree as kings among the
masses; may all sentient beings ride the vehicle of knowledge and
wisdom and turn the wheel of right teaching; may all sentient beings be
endowed with spiritual faculties and be able to go to innumerable
worlds m a single thought; may all sentient beings ride the body of
space, their knowledge unobstructed in any world; may all sentient
beings enter all congregations of Buddhas throughout cosmic space,
and accomplish the foremost practices of transcendence; may all sen-
tient beings attain physical lightness and comfort and extraordinary
knowledge and wisdom, and be able to enter all buddha-fields; may all
sentient beings attain unbounded skillful power of psychic travel, mani-
festing their bodies in all lands; may all sentient beings attain a body
which relics on nothing at all, appearing everywhere like a reflection,
by spiritual faculties; may all sentient beings attain inconceivable autono-
mous spiritual powers, whereby they appear before those who may be
taught, to edify and civilize them; may all sentient beings attain unhin-
dered means of entry into the reality realm, in a single thought travel-
ing throughout all lands in the ten directions.’ This is great enlightening
beings’ dedication of roots of goodness when giving precious chariofs
to mendicants; it is to cause sentient beings to all ride the vehicle of
pure, unsurpassed knowledge, and in all worlds turn the unobstructed
wheel of knowledge of truth.
Ðại Bồ Tát đem xe báu nhẫn đến bố thí cho những kẻ nghèo cùng côi cút, tùy họ cầu xin đều đem cho cả, lòng luôn hoan hỷ không nhàm mỏi mà còn bảo họ rằng đáng lẽ tôi phải tự mình mang đến phân phát cho các Ngài, không dám để các Ngài phải nhọc nhằn tìm đến. Ðem thiện căn này hồi hướng như vầy:
Nguyện tất cả chúng sanh ngồi xe pháp luân quảng đại vô ngại bất thối thẳng đến dưới cội cây Bồ đề bất tư nghì. Nguyện tất cả chúng sanh ngồi xe pháp trí thanh tịnh lớn, mãi mãi tu Bồ Tát không thối chuyển. Nguyện tất cả chúng sanh ngồi xe tất cả pháp vô sở hữu lìa hẳn sự phân biệt chấp trước mà thường tu tập đạo Nhứt thiết trí. Nguyện tất cả chúng sanh ngồi xe chánh trực, không dua dối, qua đến các Phật độ tự tại vô ngại. Nguyện tất cả chúng sanh tùy thuận an trụ nơi xe Nhứt thiết trí cùng nhau hoan lạc nơi Phật pháp. Nguyện tất cả chúng sanh ngồi xe Bồ Tát thạnh thanh tịnh đầy đủ mười đạo xuất ly của Bồ Tát và vui nơi tam muội. Nguyện tất cả chúng sanh ngồi xe bốn bánh : nghĩa là ở quốc độ tốt, y tựa bực Thiện nhơn, họp phước đức thù thắng, phát thệ nguyện lớn, dùng bốn điều này thành tựu viên mản tất cả Bồ Tát hạnh thanh tịnh. Nguyện tất cả chúng sanh được xe pháp quang chiếu khắp mười phương, tu học Phật trí lực. Nguyện tất cả chúng sanh ngồi xe Phật pháp rốt ráo đến bờ kia. Nguyện tất cả chúng sanh ngồi xe pháp chở những phước lành hiển bày đạo chơn chánh an ổn khắp mười phương. Nguyện tất cả chúng sanh ngồi xe đại thí bỏ lòng bỏn xẻn. Nguyện tất cả chúng sanh ngồi xe tịnh giới trì vô biên giới hạnh thanh tịnh. Nguyện tất cả chúng sanh ngồi xe nhẫn nhục, rời lòng sân hận. Nguyện tất cả chúng sanh ngồi xe tinh tấn lớn, bền tu tập công hạnh thù thắng đến đạo Bồ đề. Nguyện tất cả chúng sanh ngồi xe thiền định mau đến đạo tràng chứng trí Bồ đề. Nguyện tất cả chúng sanh ngồi xe trí huệ phương tiện khéo Hóa thận khắp cả Phật độ trong pháp giới. Nguyện tất cả chúng sanh ngồi xe Pháp Vương thành tựu vô úy luôn ban bố pháp Nhứt thiết trí khắp tất cả. Nguyện tất cả chúng sanh ngồi xe trí huệ vô trước đều có thể vào khắp tất cả mười phương mà chẳng động chơn pháp tánh. Nguyện tất cả chúng sanh ngồi xe Phật pháp thị hiện thọ sanh khắp mười phương cõi mà chẳng hư mất đạo Ðại Thừa. Nguyện tất cả chúng sanh ngồi xe báu Nhứt thiết trí vô thượng, trọn đủ hạnh nguyện Phổ Hiền. Ðây là đại Bồ Tát lúc bố thí các loại xe báu cho tất cả phước điền, đem thiện căn hồi hướng vì muốn cho chúng sanh đủ vô lượng trí, vui mừng hớn hở rốt ráo đều được xe Nhứt thiết trí.
“When great enlightening beings give precious chariofs to Buddhist
disciples and individual illuminates, they engender these frames of
mind: consciousness of fields of blessings; honor and respect; conscious-
ness of oceans of virtues; consciousness of ability to produce virtue and
wisdom; consciousness of birth from the power of the virtues of the
enlightened; consciousness of myriad eons of cultivation; consciousness
of ability to cultivate enlightening practices over innumbcrablc eons;
consciousness of escape from the bondage of all delusion; consciousness
of destruction of all demons; consciousness of the light of wisdom
illumining the unexcelled truth. The roots of goodness in this giving of
chariofs they dedicate in this way: ‘May all sentient beings be supreme
fields of blessings, believed in by the world, fulfilling unexcelled
transcendent generosity; may all sentient beings give up useless talk,
always enjoy solitude, and have no second thoughts; may all sentient
beings become most excellent pure fields of blessings, taking in all
sentient beings and inducing them to cultivate acts which produce felicity;
may all sentient beings become fonts of wisdom and be able to bestow on
living beings immeasurable, innumerable rewards of roots of goodness;
may all sentient beings persist in unhindered action, fully developing a
pure, excellent field of blessings; may all sentient beings abide in non-
contention, realizing that all things do nothing and have cssencelessness
tor their essence; may all sentient beings always get to be near the supreme
field of blessings, fully cultivating immeasurable virtues; may all sentient
beings be able to manifest immeasurable spiritual powers and include all
conscious beings in a pure field of blessings; may all sentient beings be
endowed with a field of blessings of inexhaustible virtues, able to
bestow on beings the ten powers of the enlightened, the fruit of the
foremost vehicle; may all sentient beings become fruitful, genuine fields
of blessings, and develop the inexhaustible collection of blessings of all
knowledge; may all sentient beings attain the way to extinguish
wrongdoing, and be able to receive and hold the expressions and
meanings of Buddhas’ teachings which they have never heard; may all
sentient beings always diligently listen to and absorb all Buddha-tcachings,
and understand everything they hear, so that it is not in vain; may all
sentient beings hear the principles of the Buddhas, comprehend their
ultimate import, and be able to expound them according to what they
have learned; may all sentient beings believe and practice the instruc-
tions of the enlightened, and forever give up all the false views of
erroneous philosophies; may all sentient beings always see worthies and
sages and develop all the most excellent foundations of goodness; may
all sentient beings always trust people who act wisely, and associate
with and respect the sages; may all sentient beings, hearing the names of
Buddhas, not let it go to waste, but all get to see with their eyes those
they have heard of; may all sentient beings analyze and know well the
right doctrines of the Buddhas, and be able to profect those who hold
the Buddha-tcaching; may all sentient beings always enjoy listening to
all Buddha-tcachings, absorb and hold them, read and recite them,
expound upon them, illumine them, and comprehend them; may all
sentient beings believe and understand the true virtues of the Buddha’s
teachings, and give whatever they have in respectful offerings,’ This is
the dedication of roots of goodness of great enlightening beings when
giving various chariofs and cars to disciples of Buddhas or individual
illuminates, to cause all sentient beings to attain fulfillment of pure,
supreme knowledge and spiritual powers, to cultivate practice diligently,
and attain omniscience, power, and fearlessness.
“When great enlightening beings give precious chariofs to fields of
blessings including the poor, the destitute, and the orphaned, they
joyfully and tirelessly give whatever is needed, and even apologize to
those people, ‘I should have gone to offer you provisions, rather than
trouble you to come so tar and wear yourself out.’ Then they bow and
kneel before them, ask about their health, and give them whatever they
need. Sometimes they give crystal chariofs with the finest women in
the land; sometimes they give gilded chariofs with women prized in
society; sometimes they give lapis lazuli chariofs with dancing girls;
sometimes they give chariofs of various extraordinary jewels with
maidens like goddesses; sometimes they give chariofs adorned with
innumerable jewels, with bejewelled women, gentle and bright, elo-
quent and intelligent; sometimes they give sandalwood chariofs to ride;
sometimes they give crystal chariofs with bejewelled women in them,
incomparably beautiful, dressed in sumptuous robes, a delight to all
who see; sometimes they give agate chariofs, with crown princes riding
in them; sometimes they give chariofs of aromatic resins with all their
sons and daughters in them; sometimes they give chariofs adorned with
all precious substances, with their relatives and good friends, so hard to
give up, riding in them.
“Great enlightening beings respectfully give innumerable such pre-
cious chariofs when they are asked tor, to satisfy all wishes and make
people happy and content. They dedicate these roots of goodness in this
way: ‘May all sentient beings ride the universal vehicle, which rolls
unimpeded and never turns back, to reach inconceivable trees of
enlightenment; may all sentient beings ride the vehicle of knowledge of
the great teaching, based on pure causes, and cultivate enlightening
practice throughout the future, never turning back; may all sentient
beings ride the vehicle of the nonexistence of all things, forever part
from all conceptual clinging, and always practice the path of omniscience;
may all sentient beings ride the vehicle of truthfulness and honesty,
without flattery or deception, and go to all buddha-ficlds freely, with-
out hindrance; may all sentient beings follow and abide by the vehicle
of omniscience, pleasing each ofher with the principles of buddhahood;
may all sentient beings all ride the vehicle of pure practices of enlighten-
ing beings and fulfill all the ways of emancipation and the bliss of
concentration of enlightening beings; may all sentient beings ride a
vehicle of four wheels — that is, living in a good land, staying with good
people, building up excellent virtues, and making great vows — hereby
fulfilling the pure religious practice of all enlightening beings; may all
sentient beings obtain the vehicle of the light of truth illumining every-
where throughout the ten directions, and cultivate the power of knowl-
edge of all enlightened ones; may all sentient beings ride the vehicle of
Buddha-teaching, and arrive at the ofher shore of all things; may all
sentient beings ride the vehicle of the inconceivable teaching of myriad
felicitous virtues, and show the right path of peace and serenity through-
out the ten directions; may all sentient beings ride the vehicle of great
generosity, sloughing off the dirt of stinginess; may all sentient beings
ride the vehicle of pure morality, maintaining pure precepts as bound-
less as the cosmos; may all sentient beings ride the vehicle of forbearance,
and always be free of the pollution of anger toward sentient beings;
may all sentient beings ride the nonregressing vehicle of great diligence,
steadfastly cultivate excellent practices, and proceed on the path of
enlightenment; may all sentient beings ride the vehicle of meditation
concentration, quickly reach the site of enlightenment, and realize en-
lightened knowledge; may all sentient beings ride the vehicle of wis-
dom and skill in means, and emanate bodies filling the realms of the
Buddhas in all universes; may all sentient beings ride the vehicle of
mastery of the teaching, develop fearlessness, and constantly distribute
to all people teachings of methods to attain omniscience; may all sen-
tient beings ride the vehicle of knowledge without attachment and be
able to enter everywhere in the ten directions into the real nature of
things, and not be disturbed by anything; may all sentient beings ride
the vehicle of the teachings of all Buddhas, appearing to be born in all
lands throughout the ten directions, without losing the path of the
Great Vehicle; may all sentient beings ride the vehicle of the supreme
treasury of omniscience, and fulfill the practices and vows of the Uni-
versally Good enlightening being, without growing weary of it.’ This
is the great enlightening beings’ dedication of roots of goodness when
giving precious chariofs to fields of blessings, including the poor and
the orphaned, to cause sentient beings to have immeasurable knowledge,
to be joyful and buoyant, and to all ultimately attain the vehicle of
universal knowledge.
“Great enlightening beings give prize elephants, which are docile,
physically complete and in their prime years, with six tusks, pure and
clean, lofushke mouths red in color, bodies pure white, like mountains
of snow; they are ornamented with golden banners, covered with nets
of jewels, with various exquisite gems adorning their trunks; all find
endless delight in looking at them; they can walk thousands of miles
without tiring. Also, enlightening beings give trained prize horses with
all the characteristics of celestial steeds, with moonlikc discs of exqui-
site jewels as luminous ornaments, covered with nets of gold bells,
stepping evenly and straight so that the riders are comfortable, going
wherever wished as fast as the wind, traveling freely and unimpeded
throughout the four continents. Enlightening beings give these prize
elephants and horses to their parents, teachers, and to poor, suffering
beings; their hearts are broad and without regret or grudge, only
increasing in joy and feeling more and more compassion and pity as they
cultivate the virtues of enlightening beings and purify the enlightening
mind. They dedicate these roots of goodness in this way: ‘May all
sentient beings abide in the vehicle of harmony and docility and in-
crease in all the virtuous qualities characteristic of enlightening beings;
may all sentient beings attain the vehicle of liberative skills and be able
to produce all enlightening teachings as necessary; may all sentient
beings obtain the vehicle of resolute faith, universally illumining the
power of unhindered knowledge of the enlightened; may all sentient
beings attain the vehicle of inspiration, and be able to conceive all great
vows; may all sentient beings fulfill the impartial vehicle of the ways of
transcendence, and completely fulfill all impartial roots of goodness;
may all sentient beings perfect the vehicle of treasures, bearing the
unexcelled treasure of knowledge of all verities of Buddhahood; may all
sentient beings perfect the vehicle of adornment by the practices of
enlightening beings, causing the flowers of the meditations of enlighten-
ing beings to bloom; may all sentient beings obtain the vehicle of
unbounded swiftness, purifying the enlightening mind and earnestly
contemplating for countless cons, comprehending all things; may all
sentient beings perfect the great vehicle of supreme self-mastery, with
skill in means fulfilling the stages of enlightening beings; may all
sentient beings perfect the highest, broadest, sturdiest Great Vehicle,
able to carry all sentient beings to the state of all-knowledge.’ This is
great enlightening beings’ dedication of roots of goodness when giving
elephants and horses, to cause sentient beings to all ride the vehicle of
unobstructed knowledge, the vehicle to perfect completion and arrival
at Buddhahood.
“When great enlightening beings give scats or lion thrones to sit on,
those scats are high and wide and extremely beautiful, with lapis lazuli
legs, spread with soft, supple raiment made of gold thread, arrayed
with jeweled banners, perfumed with various delicate fragrances, decor-
ated with ornaments of innumerable various jewels, covered overhead
with golden nets and jewel chimes rustling in the breeze and producing
exquisite sounds, magnificently embellished all around with adorn-
ments of myriad unusual designs, looked up to by all people, occupied
only by crowned monarehs proclaiming the law respectfully followed
by all states. Those monarehs are also adorned with beautiful jewels —
luminous jewels, sapphires, giant sapphires, jewel crystals from the
finest mines, bright and clear as the sun, pure and cool as the moon;
surrounding in profusion, like myriad stars, are ornaments of supreme
beauty, incomparable jewels of the sea, solid banner-like treasures of
the sea, with extraordinary patterns and unusual appearances; their
heads are crowned with turbans of finest gold and pure jewels, they
receive the rank of coronation, reign over the continent Jambu, en-
dowed with immeasurable charismatic power, making kindness principal,
conquering all those who are hostile and inimical, obeyed wherever
their commands reach. Great enlightening beings, becoming such
monarehs, then give such jewel-adorned thrones to Buddhas, the fore-
most fields of blessings, and to enlightening beings, genuine teachers,
wise and holy mendicants, preachers of the teaching, parents, relatives,
Buddhist disciples and individual illuminates, as well as those setting
out on the vehicle of enlightening beings, and also to monuments of
Buddhas, and to all the poor and destitute, the orphaned and homeless —
they give everything according to need. These roots of goodness they
dedicate in this way; ‘May all sentient beings sit on the scat of enlight-
enment and thoroughly awaken to the truth realized by all Buddhas;
may all sentient beings sit on the scat of freedom and attain indepen-
dence of things, which even diamond mountains could not break, and
be able to smash and conquer all the hordes of delusions; may all
sentient beings gain the Buddha’s lion throne of freedom, looked up to
by all beings; may all sentient beings obtain chairs adorned with un-
speakably unspeakable numbers of various exquisite jewels, become
masters of the teachings, and guide sentient beings; may all sentient
beings attain the throne which is supreme in all worlds, adorned by
extensive great foundations of goodness; may all sentient beings obtain
scats which pervade unspeakably unspeakable numbers of worlds, such
as could not be fully eulogized in immeasurable eons; may all sentient
beings obtain the seat of profound mystic virtues, and their bodies fill
all universes; may all sentient beings obtain scats of inconceivable
numbers of all kinds of jewels, and extensively carry out the giving of
teaching to whatever sentient beings are considered in their past vows;
may all sentient beings obtain scats of refined subtlety and manifest the
spiritual powers of untold Buddhas; may all sentient beings obtain scats
of all jewels, of all incenses, of all flowers, of all robes, of all garlands,
of all crystals, and so on — seats of inconceivably many various precious
things, scats of innumerable worlds, pure scats of the adornments of all
worlds, seats of all diamonds, and manifest the powers and freedom of
Buddhas, and fulfill most perfect enlightenment.’ This is great enlight-
ening beings’ dedication of roots of goodness when giving seats of
precious things, to cause sentient beings to obtain the seat of great
enlightenment beyond the world and spontaneously become aware of
the truths realized by all Buddhas.
Lúc bố thí các thứ tòa ngồi, hoặc bửu tòa sư tử vô lượng trang nghiêm dâng lên Ðức Phật, chư Bồ Tát, Thiện tri thức, Thánh Tăng, Pháp sư, cha mẹ, tôn nhân, Thanh Văn, Ðộc Giác, người xu hướng Bồ Tát thừa, hoặc tháp miếu của Như Lai, nhẫn đến kẻ nghèo cùng, tùy họ cần dùng thứ chi đều ban cho cả, Bồ Tát đem công đức này hồi hướng như vầy:
Nguyện tất cả chúng sanh ngồi tòa Bồ đề đều có thể giác ngộ chánh pháp của Chư Phật. Nguyện tất cả chúng sanh ngồi tòa tự tại được pháp tự tại có thể trừ dẹp các quân ma. Nguyện tất cả chúng sanh được tòa sư tử tự tại của Phật, được tất cả chúng sanh chiêm ngưỡng. Nguyện tất cả chúng sanh được bất khả thuyết bất khả thuyết tòa trang nghiêm báu đẹp tự tại giáo hóa chúng sanh. Nguyện tất cả chúng sanh được tòa thù thắng trong tất cả thế gian do thiện căn rộng lớn nghiêm sức. Nguyện tất cả chúng sanh được tòa rộng khắp bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới vô số kiếp khen ngợi vô tận. Nguyện tất cả chúng sanh được mãn tất cả pháp giới. Nguyện tất cả chúng sanh được bửu tòa bất tư nghì tùy bổn nguyện của họ mà ban bố pháp thí cho chúng sanh. Nguyện tất cả chúng sanh được tòa thiện diệu hiện bất khả thuyết thần thông của Chư Phật. Nguyện tất cả chúng sanh được tòa tất cả bửu, tòa tất cả hượng, tòa tất cả hoa, tòa tất cả y phục, tòa tất cả tràng hoa, tòa tất cả ma ni, tòa tất cả lưu ly v.v… bất tư nghì bửu tòa, tòa vô lượng thế giới, tòa trang nghiêm thanh tịnh, tòa Kim Cang thị hiện Oai Ðức tự tại thành vô thượng chánh giác. Ðây là đại Bồ Tát lúc bố thí bửu tòa đem thiện căn hồi hướng vì muốn cho chúng sanh được tòa đại Bồ đề xuất thế gian tự nhiên giác ngộ tất cả Phật pháp.
Ðại Bồ Tát thí tượng bửu cùng mã bửu, trang nghiêm với bành vàng,
“Great enlightening beings give various precious canopies, these cano-
pies extraordinary, used by nobles, adorned with various great jewels,
most excellent among billions of fine canopies, with supports made of
all precious substances, covered with fine meshes, with golden bells on
jeweled strings hanging down all around and draped with crystal neck-
laces making elegant sounds in harmony with the stirring of the breeze,
all decorated with treasuries of pearls and jades, filled with innumerable
various rarefies, scented with sandalwood and aloe, fully embellished
with infinite precious substances like radiantly pure gold: such canopies
they give with pure hearts to Buddhas, or to monuments of Buddhas
after their extinction, or, for the sake of the teaching, they give them to
enlightening beings, good teachers, famous ministers of the teaching; or
they give them to parents, or to mendicants, or to ail the Buddhist
teachings, or to various sentient beings as fields of blessings, or to
religious leaders or venerable adepts, or those who have just set their
minds on enlightenment, and to all the poor, destitute, orphaned, and
homeless — to all who seek, they give. These roots of goodness they
dedicate in this way: ‘May all sentient beings cultivate foundations of
goodness whereby to cover their bodies, and always be profected by
the Buddhas; may all sentient beings make virtue and wisdom their
canopies and forever part from all the afflictions of the world; may all
sentient beings shade themselves with virtues and get rid of the dust
and dirt and searing afflictions of the world; may all sentient beings
attain a treasury of knowledge and wisdom, causing everyone to always
enjoy seeing them; may all sentient beings shade themselves with the
pure way of dispassionate tranquility, and all attain the indestructible
state of Buddhahood; may all sentient beings shield their bodies with
good and ultimately attain the pure body of reality of the Buddhas; may
all sentient beings become universal canopies and cover the whole
world with the knowledge of the ten powers; may all sentient beings
attain sublime wisdom, transcending the world, tree from attachments;
may all sentient beings gain the canopy of worthiness, become superla-
tive fields of blessings, and receive all offerings; may all sentient beings
obtain the supreme canopy, attain unsurpassed knowledge, and natu-
rally realize enlightenment.’ This is great enlightening beings’ dedica-
tion of roots of goodness when giving canopies, umbrellas, and parasols,
to cause all sentient beings to obtain the canopy of freedom and be able
to uphold all good ways; to cause all sentient beings to be able to cover
all fields and lands in all realms in space, and manifest the tree spiritual
powers of the Buddhas, without regressing; to cause all sentient beings
to be able to adorn all worlds in the ten directions with one canopy, and
offer it to the Buddha; to cause all sentient beings to offer beautiful
banners, pennants, and jeweled canopies to all the enlightened ones; to
cause all sentient beings to obtain a canopy of universal adornment and
cover the lands of all the Buddhas; may all sentient beings obtain a vast
canopy to cover sentient beings everywhere and cause them all to
engender faith in the Buddha; to cause all sentient beings to ofter
innumerable canopies of wonderful precious adornments to one Buddha,
and to do the same tor innumerable Buddhas; to cause all sentient
beings to attain the high, wide canopy of the enlightenment of Buddhas,
covering all the enlightened ones; to cause all sentient beings to obtain
canopies adorned with all jewels, canopies adorned with all jewelry,
canopies adorned with all solid perfumes, canopies with pure adorn-
ments of various jewels, canopies with pure adornments of innumerable
jewels, immense canopies with adornments of pure jewels, covered
with jewel nets, hung with jewel bells waving in the breeze producing
sublime sounds, covering the bodies of the Buddhas in all worlds in the
space of the cosmos; to cause all sentient beings to obtain canopies
adorned with unhindered, unimpeded knowledge, covering all the en-
lightened ones; also because they want to cause all sentient beings to
attain the highest knowledge and wisdom; and because they want to
cause all sentient beings to attain the adornment of the virtues of
buddhahood; because they want to cause all sentient beings to attain the
immeasurable, boundless treasures of the tree mind; because they want
to cause all sentient beings to be filled with the independent knowledge
of all truths; because they want to cause all sentient beings to cover all
with virtues; because they want to cause all sentient beings to perfect
the canopy of supreme knowledge; because they want to cause all
sentient beings to perfect the all-covering canopy of the ten powers;
because they want to cause all sentient beings to be able to cover all
buddha-ficlds in the cosmos; because they want to cause all sentient
beings to be masters of all the enlightening teachings; because they
want to cause all sentient beings to attain the tree mind of great mystic
power; because they want to cause all sentient beings to attain vast
knowledge permanently; because they want to cause all sentient beings
to attain immeasurable ultimate virtues, covering all; because they want
to cause all sentient beings to cover their minds with virtuous qualities;
because they want to cause all sentient beings to shield all living
creatures with an impartial mind; because they want to cause all sentient
beings to attain skillful means of dedication; because they want to cause
all sentient beings to attain pure minds of supreme aspiration; because
they want to cause all sentient beings to attain pure wills with good
intentions; and because they want to cause all sentient beings to attain
great dedication covering all living beings.
“Great enlightening beings may give various splendid banners and
pennants, their poles made of various jewels, pennants made of pre-
cious silk, banners of various mixed colors and patterns, draped with
jeweled nets, shining colors filling everywhere, jewel bells gently stirring,
ringing in harmony, with rare jewels shaped like the half moon and
gold more radiant than the sun placed atop each banner, decorated with
various wonderful things caused to appear by results of actions in
various worlds — such marvelous banners and pennants, uncountable
millions of billions of them, their radiance joining and highlighting each
ofher, the light pure, covering the ground, filling all buddha-lands in
the realms in space in ten directions, the great enlightening beings, with
pure-hearted faith give to Buddhas currently existing, or to their monu-
ments after death, or to the treasury of the teaching, or to the religious
community, or to enlightening beings, or to Buddhist disciples, or to
self-enlightened beings, or to good teachers, or to Buddhist disciples,
or to self-enlightened ones, or to the masses, or to particular peo-
ple — to all who come seeking they give, and dedicate these roots of
goodness in this way; ‘May all sentient beings be able to set up banners
of virtue on all foundations of goodness, so that they cannot be de-
stroyed; may all sentient beings set up the banner of mastery of all the
teachings, respecting, admiring, and diligently preserving them; may all
sentient beings write down the true teachings on precious silk, preserv-
ing the treasury of teachings of Buddhas and enlightening beings; may
all sentient beings set up high, outstanding banners, and light the lamp
of wisdom, illuminating all the world; may all sentient beings set up
the banner of steadfastness and be able to destroy all delusive actions
and manias; may all sentient beings set up the banner of the power of
knowledge, which no delusion can damage; may all sentient beings
attain the banner of great knowledge and wisdom, destroying all the
flags of worldly pride; may all sentient beings gain the banner of great
light of the sun of knowledge, and illumine the whole realm of reality
with the light of the sun of knowledge; may all sentient beings be
endowed with banners adorned with innumerable jewels, filling all
worlds in the ten directions, and offer them to the Buddhas; may all
sentient beings obtain the banner of realization of thusness, and destroy
all the erroneous views of misleading paths.’ This is great enlightening
beings’ dedication of roots of goodness when giving banners and pen-
nants, to cause all sentient beings to attain the pure paths of the
banner of the extremely profound, lofty, and wide-ranging practices of
enlightening beings, and the banner of the action of spiritual powers of
enlightening beings.
“Great enlightening beings open up storehouses of myriad treasures
and hundreds of billions of trillions of fine, rare jewels to all the
countless sentient beings, giving whatever they wish unbegrudgingly.
They dedicate the roots of goodness in this way: ‘May all sentient
beings always see the treasure of the Buddha, give up folly and cultivate
right mindfulness; may all sentient beings be fully endowed with the
light of the treasure of the Teaching and preserve the treasury of
teachings of all Buddhas; may all sentient beings be able to support the
entire treasure of the community, tirelessly providing for its needs; may
all sentient beings attain the highest treasure of mind, omniscience, and
may their pure aspiration for enlightenment never recede; may all
sentient beings attain the treasure of knowledge, entering into all things
without doubt or confusion; may all sentient beings be endowed with
the treasure of virtuous qualities of enlightening beings, reveal and
expound immeasurable knowledge; may all sentient beings attain a
treasure of immeasurable sublime qualities, cultivate and attain the
knowledge of the ten powers of true awareness; may all sentient beings
attain the treasure of the sixteen knowledges of refined meditation, and
ultimately fulfill broad, great knowledge and wisdom; may all sentient
beings develop the treasure of the supreme field of blessings, and
awaken to the unexcelled knowledge and wisdom of the enlightened;
may all sentient beings become masters of the most excellent treasure,
and expound all truths with inexhaustible discernment.’ This is great
enlightening beings’ dedication of roots of goodness when giving
treasures, to cause all sentient beings to obtain the jewel of complete,
supreme knowledge, the treasure of the unobstructed pure eye of the
enlightened.
Ðại Bồ Tát thí tượng bửu cùng mã bửu, trang nghiêm với bành vàng, yên ngọc, giây vàng, lục lạc báu, cho cha mẹ, thiện hữu, nhẫn đến kẻ nghèo cùng, không chút hối tiếc, đem thiện căn này hồi hướng như vầy:
Nguyện tất cả chúng sanh ngồi xe điều thuận thêm lớn công đức của Bồ Tát. Nguyện tất cả chúng sanh được xe thiện xảo, có thể tùy ý xuất sanh tất cả Phật pháp. Nguyện tất cả chúng sanh được xe tín giải chiếu khắp trí lực vô ngại của Như Lai. Nguyện tất cả chúng sanh được xe phát thu, có thể khắp phát hưng tất cả đại nguyện. Nguyện tất cả chúng sanh đầy đủ xe Ba la mật bình đẳng, trọn nên tất cả thiện căn bình đẳng. Nguyện tất cả chúng sanh thành tựu xe báu xuất sanh bửu trí vô thượng. Nguyện tất cả chúng sanh được xe Bồ Tát hạnh trang nghiêm nở bông tam muội của Bồ Tát. Nguyện tất cả chúng sanh được xe mau chóng vô biên trong vô số kiếp thanh tịnh tâm Bồ Tát, siêng tư duy rõ thấu các pháp. nguyện tất cả chúng sanh thành tựu đại thừa điều thuận tối thắng dùng phương tiện khéo trọn đủ Bồ Tát địa. Nguyện tất cả chúng sanh thành tựu Ðại thừa kiên cố rất cao rộng có thể khắp chuyên chở tất cả chúng sanh đều được đến bực Nhứt thiết trí. Ðây là lúc bố thí voi, ngựa, đại Bồ Tát đem thiện căn hồi hướng, vì muốn cho chúng sanh đều được ngồi nơi xe vô ngại trí viên mãn Phật thừa.
Lúc bố thí các thứ tòa ngồi, hoặc bửu tòa sư tử vô lượng trang nghiêm dâng lên Ðức Phật, chư Bồ Tát, Thiện tri thức, Thánh Tăng, Pháp sư, cha mẹ, tôn nhân, Thanh Văn, Ðộc Giác, người xu hướng Bồ Tát thừa, hoặc tháp miếu của Như Lai, nhẫn đến kẻ nghèo cùng, tùy họ cần dùng thứ chi đều ban cho cả, Bồ Tát đem công đức này hồi hướng như vầy:
Nguyện tất cả chúng sanh ngồi tòa Bồ đề đều có thể giác ngộ chánh pháp của Chư Phật. Nguyện tất cả chúng sanh ngồi tòa tự tại được pháp tự tại có thể trừ dẹp các quân ma. Nguyện tất cả chúng sanh được tòa sư tử tự tại của Phật, được tất cả chúng sanh chiêm ngưỡng. Nguyện tất cả chúng sanh được bất khả thuyết bất khả thuyết tòa trang nghiêm báu đẹp tự tại giáo hóa chúng sanh. Nguyện tất cả chúng sanh được tòa thù thắng trong tất cả thế gian do thiện căn rộng lớn nghiêm sức. Nguyện tất cả chúng sanh được tòa rộng khắp bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới vô số kiếp khen ngợi vô tận. Nguyện tất cả chúng sanh được mãn tất cả pháp giới. Nguyện tất cả chúng sanh được bửu tòa bất tư nghì tùy bổn nguyện của họ mà ban bố pháp thí cho chúng sanh. Nguyện tất cả chúng sanh được tòa thiện diệu hiện bất khả thuyết thần thông của Chư Phật. Nguyện tất cả chúng sanh được tòa tất cả bửu, tòa tất cả hượng, tòa tất cả hoa, tòa tất cả y phục, tòa tất cả tràng hoa, tòa tất cả ma ni, tòa tất cả lưu ly v.v… bất tư nghì bửu tòa, tòa vô lượng thế giới, tòa trang nghiêm thanh tịnh, tòa Kim Cang thị hiện Oai Ðức tự tại thành vô thượng chánh giác. Ðây là đại Bồ Tát lúc bố thí bửu tòa đem thiện căn hồi hướng vì muốn cho chúng sanh được tòa đại Bồ đề xuất thế gian tự nhiên giác ngộ tất cả Phật pháp.
Lúc đại Bồ Tát với tâm thanh tịnh đem vô lượng bửu cái trang nghiêm thù thắng dâng cúng Chư Phật, tháp miếu của Chư Phật, hoặc vì pháp mà dâng cúng chư Bồ Tát, các thiện tri thức, đại Pháp sư, Chư Tăng, cha mẹ, dâng cúng Phật pháp, bực phát Bồ đề tâm, nhẫn đến kẻ nghèo cùng, tất cả thiện căn này đều hồi hướng như vầy:
Nguyện tất cả chúng sanh siêng tu thiện căn luôn được Chư Phật che chở. Nguyện tất cả chúng sanh dùng công đức trí huệ làm lọng lìa hẳn tất cả phiền não. Nguyện tất cả chúng sanh dùng thiện pháp để tự che trừ diệt trần cấu nhiệt não thế gian. Nguyện tất cả chúng sanh được tạng trí huệ khiến đại chúng thích thấy tâm không nhàm đủ. Nguyện tất cả chúng sanh dùng pháp lành tịch tịnh để tự che chở rốt ráo chẳng hoại Phật pháp. Nguyện tất cả chúng sanh khéo che thân mình rốt ráo được pháp thân thanh tịnh. Nguyện tất cả chúng sanh làm lọng to rộng che trùm thế gian với thập trí lực. Nguyện tất cả chúng sanh được diệu trí huệ không hề nhiễm trước. Nguyện tất cả chúng sanh được lọng ứng cúng thành phước điền thọ tất cả sự cúng dường. Nguyện tất cả chúng sanh được lọng tối thượng được vô thượng trí tự nhiên giác ngộ. Ðây là đại Bồ Tát lúc bố thí lọng báu đem thiện căn hồi hướng khiến tất cả chúng sanh được lọng tự tại có thể giữ gìn tất cả thiện pháp, có thể dùng một cây lọng che trùm tất cả, hư không pháp giới, tất cả cõi nước, thị hiện thần thông tự tại không thối chuyển, có thể trang nghiêm mười phương thế giới để cúng dường Phật, có thể dùng tràng phan tốt và bửu cái đẹﰠcúng dường tất cả Phật, có thể được bửu cái phổ trang nghiêm che khắp trọn vẹn tất cả Phật độ, được bửu cái quảng đại che khắp chúng sanh khiến họ đối với Phật sanh lòng tín giải, khiến tất cả chúng sanh dùng bất khả thuyết bửu cái cúng dường một Ðức Phật, với bất khả thuyết Ðức Phật, cũng cúng dường như vậy, khiến tất cả chúng sanh được bửu cái Bồ đề rộng lớn che khắp tất cả Phật, khiến tất cả chúng sanh được bửu cái ma ni trang nghiêm, bửu cái tất cả hương trang nghiêm, bửu cái tất cả trang nghiêm, bửu cái thanh tịnh trang nghiêm, lưới báu giăng che, linh báu treo thòng gió động reo tiếng vi diệu che khắp Phật thân trong tất cả thế giới, khiến tất cả chúng sanh được bửu cái trí huệ trang nghiêm vô chướng vô ngại che khắp tất cả Phật.
Lại vì muốn khiến tất cả chúng sanh được trí huệ đệ nhứt, được Phật công đức trang nghiêm, có chí nguyện thanh tịnh đối với công đức của Phật, được vô lượng vô biên tâm bửu tự tại, được toàn vẹn trí huệ tự tại. Lại muốn khiến chúng sanh dùng những thiện căn che trùm tất cả, thành tựu bửu cái trí huệ tối thắng, thành tựu bửu cái Thập lực, với tất cả pháp được tự tại làm đấng Pháp Vương.
Lại muốn khiến chúng sanh được tâm tự tại Oai Ðức lớn, được trí rộng lớn không gián đoạn, được vô lượng công đức che khắp tất cả đều trọn vẹn.
Lại muốn khiến tất cả chúng sanh dùng lọng công đức che tâm mình, dùng tâm bình đẳng che chúng sanh, được trí huệ lớn bình đẳng, được phương tiện thiện xảo hồi hướng lớn, được tâm nguyện thanh tịnh thù thắng, được tâm nguyện thanh tịnh thuần thiện, được đại hồi hướng che khắp tất cả chúng sanh.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát với tâm tín giải thanh tịnh, đem vô lượng tràng phan cực tốt đẹp vi diệu trang nghiêm toàn vàng ngọc, châu báu dâng lên hiện tại Chư Phật và tháp miếu của Chư Phật đã diệt độ, hoặc dâng lên Pháp bửu, Tăng bửu, hoặc dâng cho chư Bồ Tát thiện tri thức, hàng Thanh Văn, Ðộc Giác, hoặc thí cho đại chúng, cùng tất cả người đến cầu xin.
Ðại Bồ Tát dùng thiện căn này hồi hướng như vầy:
Nguyện tất cả chúng sanh đều có thể kiến lập tràng phan thiện căn phước đức kiên cố chẳng hư hoại, kiến lập tràng phan tự tại nơi tất cả pháp tôn trọng mến thích siêng năng giữ gìn, thường dùng lụa báu biên chép chánh pháp hộ trì pháp tạng của Chư Phật Bồ Tát.
Nguyện tất cả chúng sanh kiến lập tràng cao hiển thắp đèn trí huệ soi khắp thế gian.
Nguyện tất cả chúng sanh kiến lập tràng kiên cố trừ dẹp tất cả nghiệp ma, kiến lập tràng trí huệ tất cả loài ma không phá hư được, kiến lập tràng Kim Cang đại trí huệ trừ dẹp tất cả sự ngạo mạn của thế gian.
Nguyện tất cả chúng sanh được tràng trí huệ đại quang chiếu khắp pháp giới.
Nguyện tất cả chúng sanh có đủ vô lượng tràng báu trang nghiêm sung mãn thập phương tất cả thế giới cúng dường Chư Phật.
Nguyện tất cả chúng sanh được tràn Như Lai xô dẹp tất cả chín mươi sáu phái ngoại đạo tà kiến.
Ðây là lúc đại Bồ Tát bố thí tràng phan đem thiện căn hồi hướng khiến tất cả chúng sanh được tràng Bồ Tát hạnh cao rộng thậm thâm và được tràng thanh tịnh đạo hạnh thần thông của Bồ Tát.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát khai những bửu tạng đem trăm ngàn ức na do tha thứ trân bửu cấp cho vô số chúng sanh, tùy theo ý của họ muốn không hề lẫn tiếc.
Ðại Bồ Tát đem thiện căn này hồi hướng như vầy :
Nguyện tất cả chúng sanh thường thấy Phật Bửu rời bỏ ngu si mà tu hành chánh niệm.
Nguyện tất cả chúng sanh được đầy đủ Pháp Bửu sáng chói hộ trì pháp tạng của Chư Phật.
Nguyện tất cả chúng sanh đều có thể nhiếp thọ tất cả Tăng Bửu châu cấp cúng dường luôn không hề nhàm.
Nguyện tất cả chúng sanh được Nhứt thiết trí tâm bửu vô thượng, tâm Bồ đề thanh tịnh bất thối.
Nguyện tất cả chúng sanh được trí bửu vào khắp tất cả pháp tâm không nghi hoặc.
Nguyện tất cả chúng sanh đầy đủ những công đức bửu của Bồ Tát, khai thị diễn thuyết vô lượng trí huệ.
Nguyện tất cả chúng sanh được vô lượng công đức bửu vi diệu tu thành Chánh giác mười trí lực.
Nguyện tất cả chúng sanh được diệu tam muội mười sáu trí bửu rốt ráo thành tựu trí huệ rộng lớn.
Nguyện tất cả chúng sanh thành tựu báu phước điền đệ nhứt, ngộ nhập trí huệ vô thượng của Như Lai.
Nguyện tất cả chúng sanh được thành bửu vương vô thượng đệ nhứt dùng biện tài vô tận khai diễn các pháp.
Ðây là đại Bồ Tát lúc bố thí các châu báu đem thiện căn hồi hướng khiến tất cả chúng sanh thành tựu trí bửu đệ nhứt và nhãn bửu thanh tịnh của Như Lai.
“Great enlightening beings may give various beautiful decorations —
decorations for all bodies, causing the body to be beautiful and pleasing
to all. Great enlightening beings regard all creatures in the world
equally, like an only child, and want to cause them all to have adorn-
ments purifying their bodies, to attain supreme peace and comfort, to
attain the bliss of enlightened knowledge, abide by the Buddha-teachings
and benefit living beings. With innumerable, various exquisite jewel
ornaments such as these they diligently practice giving, and when they
are giving they dedicate the roots of goodness in this way: ‘May all
sentient beings develop unexcelled, wonderful adornments and adorn
humans and celestials with pure virtue and knowledge; may all sentient
beings attain features of pure adornment, adorning themselves with
pure felicitous virtues; may all sentient beings attain features of most
sublime adornment, and array themselves with all marks of virtue; may
all sentient beings attain features of unconfused adornments, adorning
themselves with all marks of Buddhahood; may all sentient beings
attain the features of adornment by good, pure speech, endowed with
all kinds of unlimited intellectual powers; may all sentient beings attain
the features of adornment by voices with all good qualities, their voices
pure and clear, pleasing to all who hear; may all sentient beings attain
the feature of adornment by the delightful speech of the Buddhas,
causing living beings to hear the teaching, rejoice in it, and cultivate pure
practice; may all sentient beings attain the features of adornment of
mind, entering deep meditative concentration and seeing the Buddhas;
may all sentient beings attain the features of adornment by tofal mental
command, illumining the true teachings of all Buddhas; may all sentient
beings attain the features of adornment by wisdom and knowledge,
adorning their minds with the wisdom and knowledge of buddhahood.’
This is great enlightening beings’ dedication of roots of goodness when
generously giving all kinds of ornaments, to cause sentient beings to be
endowed with the adornments of the complete fulfillment of all the
innumerable qualities of Buddhas, complete virtue and knowledge, and
to forever shed all conceit and self-indulgence.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát xem tất cả chúng sanh ở thế gian như con một, muốn cho họ đều được thân thanh tịnh trang nghiêm, thành tựu sự an lạc tối thượng ở thế gian và sự vui trí huệ của Phật, an trụ Phật pháp lợi ích chúng sanh, nên đem vô lượng thứ trang nghiêm cụ báu đẹp chuyên cần bố thí, mà hồi hướng như vầy:
Nguyện tất cả chúng sanh thành tựu đồ nghiêm sức tốt đẹp vô thượng dùng các công đức trí huệ thanh tịnh trang nghiêm Nhơn, Thiên.
Nguyện tất cả chúng sanh được tướng trang nghiêm thanh tịnh dùng phước đức thanh tịnh trang nghiêm thân mình.
Nguyện tất cả chúng sanh được tướng trang nghiêm thượng diệu dùng tướng trăm phước trang nghiêm thân mình.
Nguyện tất cả chúng sanh được tướng trang nghiêm chẳng tạp loạn dùng tất cả tướng trang nghiêm thân mình.
Nguyện tất cả chúng sanh được tướng ngôn ngữ trang nghiêm thuần thiện thanh tịnh đầy đủ biện tài vô tận.
Nguyện tất cả chúng sanh được tướng tiếng trang nghiêm đủ công đức, thinh âm thanh tịnh người nghe vui mừng.
Nguyện tất cả chúng sanh được tướng ngôn ngữ trang nghiêm khả ái của Phật, khiến các chúng sanh nghe pháp vui mừng tu hạnh thanh tịnh.
Nguyện tất cả chúng sanh được tướng tâm trang nghiêm, nhập thâm thiền định thấy khắp Chư Phật.
Nguyện tất cả chúng sanh được tướng tổng trì trang nghiêm chiếu sáng tất cả Phật pháp. Nguyện tất cả chúng sanh được tướng trí huệ trang nghiêm, dùng trí huệ của Phật trang nghiêm tâm mình.
Ðây là bố thí các thứ trang sức đại Bồ Tát đem thiện căn hồi hướng, khiến tất cả chúng sanh đầy đủ vô lượng Phật pháp, công đức trí huệ đều viên mãn trang nghiêm rời hẳn tất cả sự kiêu mạn, phóng dật.
“Great enlightening beings give to all sentient beings the jeweled
crowns and topknot jewels they received when crowned as indepen-
dent kings, without regret in their hearts, always cultivating themselves
diligently to be generous donors, learning the wisdom of giving, devel-
oping the faculty of relinquishment; with knowledge and skill in means,
their minds broad and magnanimous, they give to all, and dedicate
those roots of goodness in this way: ‘May all sentient beings be crowned
by the Buddha-teachings and achieve universal knowledge; may all
sentient beings attain the foremost knowledge and reach the ofher
shore; may all sentient beings save living beings with the treasure of
sublime knowledge and cause them all to fulfill the summit of virtue;
may all sentient beings attain completion of the precious crown of
knowledge and wisdom and be worthy of the honor of the world; may
all sentient beings’ heads be graced with the crown of knowledge and
become autonomous monarehs and masters of the law; may all sentient
beings tie the clear jewel of knowledge to their heads, invisible to all
worldlings; may all sentient beings be worthy of the obeisance of the
world, perfect the peak of wisdom, and illumine the Buddha-teachings;
may all sentient beings be crowned with the crown adorned by the ten
powers, filled with the purity of the ocean of jewels of knowledge and
wisdom; may all sentient beings reach the summit of the great stages of
enlightenment, attain omniscience, fulfill the ten powers, and destroy
the bands of maniacs at the peak of the realm of desire; may all sentient
beings manage to attain the highest summit of sovereignty, and attain
the peak of radiance of omniscience, which cannot be outshone.’ This is
great enlightening beings’ dedication of roots of goodness when giving
jeweled crowns, to cause sentient beings to attain the realm of utmost
purity of supreme knowledge, and the crown of jewels of wisdom.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát đem bửu quang ma ni và bửu châu trong búi tóc thí cho chúng sanh không lòng lẫn tiếc, thường siêng tu tập làm đại thí chủ, tu học thí huệ, tăng trưởng xả căn, trí huệ thiện xảo, tâm lượng quảng đại.
Ðại Bồ Tát đem thiện căn này hồi hướng như vầy:
Nguyện tất cả chúng sanh được pháp quán đảnh của Chư Phật thành bực Nhứt thiết trí.
Nguyện tất cả chúng sanh tròn đủ đảnh tướng được trí đệ nhứt đến bờ kia.
Nguyện tất cả chúng sanh dùng tri` bửu vi diệu nhiếp khắp mọi loài đều khiến rốt ráo đảnh công đức.
Nguyện tất cả chúng sanh đều được thành tựu bửu đảnh trí huệ kham thọ sự lễ kính của thế gian.
Nguyện tất cả chúng sanh dùng mão trí huệ trang nghiêm đầu mình làm Pháp Vương tự tại.
Nguyện tất cả chúng sanh dùng minh châu trí huệ cột trên đảnh đầu mình, tất cả thế gian không ai thấy đến được.
Nguyện tất cả chúng sanh đều kham thọ sự đảnh lễ của thế gian, thành tựu huệ đảnh chiếu sáng Phật pháp.
Nguyện tất cả chúng sanh đầu đội mão Thập lực trang nghiêm, đầy đủ trí huệ thanh tịnh.
Nguyện tất cả chúng sanh đến đảnh đại địa, được Nhứt thiết trí rốt ráo Thập lực phá các loài ma ở đảnh cõi Dục.
Nguyện tất cả chúng sanh được thành đảnh vương vô thượng đệ nhứt, được đảnh Nhứt thiết trí sáng chói, không gì là lu mờ được.
Ðây là lúc bố thí mão báu, đại Bồ Tát đem thiện căn hồi hướng khiến chúng sanh được bực trí huệ thanh tịnh đệ nhứt, dùng trí huệ làm bửu quang ma ni vi diệu vậy.
“When great enlightening beings see sentient beings in prisons or
dungeons, dark and dim, shackled and chained, unable to rise or sit in
comfort, assailed by myriad pains, without relatives or friends, without
refuge or salvation, naked, hungry, emaciated, suffering unbearable
torture, the enlightening beings, having seen this, give what they have,
all their wealth, their spouses, children, and households, and even their
own bodies, to rescue those creatures in prison, like the enlightening
being Great Compassion and the enlightening being King of Wondrous
Eyes did; and, having rescued them, they give them whatever they
need, relieving their suffering, enabling them to gain peace and comfort —
after that, they give them the supreme treasure of the teaching, cause
them to give up indulgence, firmly establish roots of goodness, and not
shrink away or withdraw from the Buddhist teaching. When great
enlightening beings rescue sentient beings from prison, they dedicate
the roots of goodness in this way: ‘May all sentient beings be ultimately
liberated from the bonds of covetousness and craving; may all sentient
beings cut off the stream of birth and death and climb up onto the shore
of wisdom; may all sentient beings do away with ignorance and folly,
develop knowledge and wisdom, and shed the tetters of afflictions; may
all sentient beings destroy the bonds of the worlds of desire, form, and
formlessness, attain universal knowledge and be ultimately emancipated;
may all sentient beings forever cut off all the bonds of afflictions and
reach the ofher shore of knowledge and wisdom, the ground of
nonobstruction, where there are no afflictions; may all sentient beings
be free from stirring thoughts, musing, and vain discrimination, and
enter the realm of cquanimous, imperturbable knowledge; may all
sentient beings shed the bonds of desires, forever leaving behind all
mundane cravings, and have no attachments in the worlds of desire,
form, or formlessness; may all sentient beings attain supreme aspiration
and always have the Buddhas teach them; may all sentient beings attain
liberated minds, with no attachments and no bondage, broad and vast
as the cosmos, comprehensive as space; may all sentient beings attain
the spiritual powers of enlightening beings, taming sentient beings in all
worlds, causing them to detach from the mundane and abide in the
Great Vehicle.’ This is great enlightening beings’ dedication of roots of
goodness when saving sentient beings suffering in prison, to enable
sentient beings to enter the realm of knowledge and wisdom of the
enlightened.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát thấy có chúng sanh bị gian cầm cùm xiềng nơi lao ngục tối tăm quá khổ sở không ai cứu vớt, liền liều bỏ của cải vợ con nhẫn đến tự thân mà vào ngục tù cứu các chúng sanh ấy, như Ðại Bi Bồ Tát, Diệu Nhãn Vương Bồ Tát. Khi đã cứu độ rồi, tùy theo chỗ cần dùng của họ mà cung cấp đầy đủ, khiến họ được an ổn. Sau đó mới ban cho họ pháp bửu vô thượng, khiến họ tu hành rời phóng dật, gieo căn lành, chẳng thối chuyển nơi Phật pháp.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát lúc cứu chúng sanh như vậy, đem công đức này hồi hướng như vầy:
Nguyện tất cả chúng sanh giải thoát rốt ráo sự triền phược của tham ái. Nguyện tất cả chúng sanh dứt giòng sanh tử lên bờ trí huệ. Nguyện tất cả chúng sanh trừ diệt ngu si sanh trưởng trí huệ dứt hẳn phiền não. Nguyện tất cả chúng sanh dứt sự trói buộc của ba cõi được Nhứt thiết trí giải thoát rốt ráo. Nguyện tất cả chúng sanh dứt hẳn tất cả phiền não đến nơi bờ trí huệ vô ngại kia. Nguyện tất cả chúng sanh lìa động niệm tư duy phân biệt vào nơi trí địa Bồ đề bất động. Nguyện tất cả chúng sanh xa lìa tất cả sự tham dục của thế gian và không nhiễm trước trong ba cõi. Nguyện tất cả chúng sanh được chí nguyện thù thắng, luôn được Chư Phật thuyết pháp cho. Nguyện tất cả chúng sanh được tâm giải thoát không nhiễm trước, không hệ phược, rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không. Nguyện tất cả chúng sanh được Bồ Tát thần thông, đến tất cả thế giới điều phục chúng sanh khiến lìa thế gian trụ nơi Ðại thừa. Ðây là đại Bồ Tát lúc cứu độ chúng sanh thoát khổ ngục tù đem thiện căn hồi hướng, khiến chúng sanh khắp vào bực trí huệ của Như Lai vậy.
“Great enlightening beings, seeing prisoners bound hand and foof,
suffering all sorts of pain, beaten and oppressed by their jailers, on the
brink of death, having given up all earthly comforts, forever parted
from their relatives and friends, laid out on butchering blocks to be
dismembered, or impaled on wooden stakes, or doused with oil and set
afire, the enlightening beings, having seen them oppressed by such
tortures, give up their own bodies to take their places, as did the
enlightening beings Invincible, King of Most Excellent Action, and
ofher great enlightening beings who gave up their own lives to spare
ofhers, bearing cruel suffering in their stead. At that time the enlighten-
ing beings say to the wardens, ‘I wish to give up my body in exchange
for their lives. You may apply those tortures to me. Just as you are
doing to those people, you may do what you want, even more, to
me — I will endure even incalculable times as much, so that they may be
freed. If I sec them about to be killed and do not give up my life to
redeem them from their misery, then I cannot be said to be dwelling in
the mind of an enlightening being. Why? Because I have made the
determination tor omniscient enlightenment tor the purpose of saving
all beings.’
“When great enlightening beings give up their own lives to save
sentient beings, they dedicate the roots of goodness in this way: ‘May
all sentient beings attain endless, ultimate life and be forever free from
disaster, oppression, and affliction; may all sentient beings stay with the
Buddhas, receive universal knowledge, fulfill the ten powers, and re-
ceive the prediction of enlightenment; may all sentient beings rescue
conscious beings everywhere, cause them to be tree from fear and to
forever leave the states of woe; may all sentient beings attain tofal life
and enter the realm of undying knowledge; may all sentient beings be
forever free from hostility and enmity, have no calamities, and always
be in the care of Buddhas and good teachers; may all sentient beings
abandon all weapons and instruments of evil and suffering, and practice
all kinds of pure, good action; may all sentient beings be free from all
tears and crush the armies of demons at the tree of enlightenment; may
all sentient beings be free from terrors, their hearts pure and fearless in
regard to the highest teaching, and be able to make the supreme lion’s
roar; may all sentient beings attain unobstructed lionic knowledge and
wisdom and cultivate right action in all worlds; may all sentient beings
reach the realm of fearlessness and always attend to the salvation and
profection of suffering sentient beings.’ This is great enlightening beings;
dedication of roots of goodness when giving up their own lives to save
prisoners about to be executed, to cause sentient beings to be tree from
the pains of birth and death and to attain the sublime bliss of the
enlightened.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát thấy có chúng sanh bị gian cầm cùm xiềng nơi lao ngục tối tăm quá khổ sở không ai cứu vớt, liền liều bỏ của cải vợ con nhẫn đến tự thân mà vào ngục tù cứu các chúng sanh ấy, như Ðại Bi Bồ Tát, Diệu Nhãn Vương Bồ Tát. Khi đã cứu độ rồi, tùy theo chỗ cần dùng của họ mà cung cấp đầy đủ, khiến họ được an ổn. Sau đó mới ban cho họ pháp bửu vô thượng, khiến họ tu hành rời phóng dật, gieo căn lành, chẳng thối chuyển nơi Phật pháp.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát lúc cứu chúng sanh như vậy, đem công đức này hồi hướng như vầy:
Nguyện tất cả chúng sanh giải thoát rốt ráo sự triền phược của tham ái. Nguyện tất cả chúng sanh dứt giòng sanh tử lên bờ trí huệ. Nguyện tất cả chúng sanh trừ diệt ngu si sanh trưởng trí huệ dứt hẳn phiền não. Nguyện tất cả chúng sanh dứt sự trói buộc của ba cõi được Nhứt thiết trí giải thoát rốt ráo. Nguyện tất cả chúng sanh dứt hẳn tất cả phiền não đến nơi bờ trí huệ vô ngại kia. Nguyện tất cả chúng sanh lìa động niệm tư duy phân biệt vào nơi trí địa Bồ đề bất động. Nguyện tất cả chúng sanh xa lìa tất cả sự tham dục của thế gian và không nhiễm trước trong ba cõi. Nguyện tất cả chúng sanh được chí nguyện thù thắng, luôn được Chư Phật thuyết pháp cho. Nguyện tất cả chúng sanh được tâm giải thoát không nhiễm trước, không hệ phược, rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không. Nguyện tất cả chúng sanh được Bồ Tát thần thông, đến tất cả thế giới điều phục chúng sanh khiến lìa thế gian trụ nơi Ðại thừa. Ðây là đại Bồ Tát lúc cứu độ chúng sanh thoát khổ ngục tù đem thiện căn hồi hướng, khiến chúng sanh khắp vào bực trí huệ của Như Lai vậy.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát thấy tù nhơn: cổ mang gông, tay chơn bị trói, sắp bị xử tử, hoặc lóc thịt, hoặc giáo đâm, hoặc hỏa thiêu, hoặc bêu đầu, phải xa bỏ gia đình thân tộc mà bị mọi điều thống khổ. Bồ Tát liền đem thân mình chịu khổ thay thế cho họ, như A Dật Ða Bồ Tát, Thù Thắng Hạnh Vương Bồ Tát v.v…
Chư Phật tử! Lúc đại Bồ Tát tự xả thân mạng cứu chúng sanh, đem thiện căn này hồi hướng như vầy:
Nguyện tất cả chúng sanh được thân mạng rốt ráo tận, lìa hẳn tất cả tai hoạnh bức não. Nguyện tất cả chúng sanh y Chư Phật mà trụ được thọ ký sẽ thành Phật. Nguyện tất cả chúng sanh cứu khắp hàm thức khiến lìa bố úy thoát hẳn ác đạo. Nguyện tất cả chúng sanh được tất cả thọ mạng vào cảnh trí huệ bất tử. Nguyện tất cả chúng sanh lìa hẳn oán địch nạn khổ, luôn được Chư Phật, và thiện hữu nhiếp thọ. Nguyện tất cả chúng sanh lìa bỏ tất cả dao gươm, võ khí nghiệp ác, tu hành những nghiệp lành thanh tịnh. Nguyện tất cả chúng sanh lìa khỏi sự bố úy, dưới cội Bồ đề phá quân ma. Nguyện tất cả chúng sanh lìa đại bố úy, nơi pháp vô thượng tâm thanh tịnh vô úy có thể làm bực đại sư tử hống vô thượng. Nguyện tất cả chúng sanh được trí vô ngại tu hành chánh nghiệp nơi các thế gian. Nguyện tất cả chúng sanh đến chỗ vô úy, thường nhớ cứu hộ những chúng sanh khổ. Ðây là đại Bồ Tát lúc tự xả thân cứu những tử tù sắp bị hành hình mà đem thiện căn hồi hướng, muốn cho chúng sanh lìa khổ sanh tử được sự vui vi diệu vô thượng của Như Lai.
Sources:
Tài liệu tham khảo:
- https://thienphatgiao.wordpress.com/2013/06/02/kinh-hoa-nghiem-thich-tri-tinh-dich-tap-3-8/5/
- https://terebess.hu/zen/mesterek/avatamsaka-cleary.pdf
- https://thuvienhoasen.org/p16a546/25-pham-thap-hoi-huong-phan