Bodhidharma – Tổ Bồ-Đề-Đạt-Ma
THE ZEN TEACHING OF BODHIDHARMA
Thiền Luận của Bồ Đề Đạt Ma
English: Red Pine
Việt ngữ: Red pine?
Compile: Middle Way Group
00. Mục Lục – Giới Thiệu – Contents – introduction – Song ngữ
00. Mục Lục – Giới Thiệu – Song ngữ
THE ZEN TEACHING OF BODHIDHARMA
Thiền Luận của Bồ Đề Đạt Ma
CONTENTS
Introduction
Outline of Practice
Bloodstream Sermon
Wake-up Sermon
Breakthrough Sermon
Notes
Introduction
Buddhism came to China 2,000 years ago. As early as 65 A.D, a community of Buddhist monks was reported living under royal patronage in the northern part of Kiangsu Province, not far from the birth place of Confucius, and the first monks probably arrived 100 years earlier. Since then, tens of thousands of Indian and Central Asian monks have journey (journeyed) to China, none has had the impact of Bodhidharma.
Phật giáo truyền đến Trung hoa khoảng 2000 năm về trước. Ngay từ năm 65 trước dương lịch, đã có một tập đoàn tăng sĩ sống trong vùng phía Bắc của tỉnh Kiangsu dưới sự bảo trợ của triều đình đương thời, và có lẽ những vị tăng đầu tiên đã đặt chân đến đó cả trăm năm về trước. Từ đó, hàng muôn vạn tăng sĩ từ Ấn độ và vùng Trung Á đã du hành đến Trung hoa bằng đường bộ và đường thủy, nhưng trong những vị đã truyền bá Phật pháp đến Trung hoa, không ai có một ảnh hưởng có thể sánh được với ngài Bồ Ðề Ðạt Ma (Bodhidharma).
(September 28, 551 BC – April 11, 479 BC)
Confucius was a Chinese philosopher and politician
who was considered the paragon of Chinese sages.
Unknown to all but a few disciples during his life time, Bodhidharma is
the patriarch of millions of Zen Buddhists and students of kung-fu. He’s
also the subject of many legends. Along with Zen and kung-fu,
Bodhidharma, we are told, also brought tea to China. To keep from
falling asleep while meditating, he cutting his eyelids, and where they
fell, tea bushes grew. Since then, tea has become the beverage of not
only monks but everyone in the Orient. Faithful to this tradition, artists
invariably depict Bodhidharma with bulging, lidless eyes.
Sống cuộc đời kỳ bí ít người biết đến ngoại trừ vài đệ tử thân cận, Bồ Ðề Ðạt Ma là sơ tổ của hàng triệu người tu theo thiền tông và những môn đồ võ thuật Trung hoa. Ngài cũng là đề tài của rất nhiều huyền thoại. Cùng với thiền và võ thuật, ngài còn được coi như là đã du nhập trà vào Trung hoa. Theo truyền thuyết, để giữ cho khỏi bị ngủ gục trong khi thiền, ngài đã cắt luôn mí mắt của mình, và mí mắt ngài rơi xuống gieo thành những bụi trà. Từ đó, trà trở thành một thức uống không chỉ riêng cho hàng tăng sĩ mà còn cho tất cả mọi người ở phương Ðông. Dựa theo câu truyện này, các họa sĩ thường vẽ tổ Bồ Ðề Ðạt Ma với đôi mắt lồi, không có mí trên.
Bodhidharma with bulging, lidless eyes
As often happens with legends, it’s become impossible to separate fact from fiction. Not only are his dates uncertain, I’ve met at least one Buddhist scholar who doubted that Bodhidharma ever existed. But at the risk of writing about a
man who never lived, I’ve put together a likely biography based on the earliest records available to provide a backdrop for the sermons attributed to him.
Cũng như mọi truyền thuyết, khó mà biết được đâu là thực, đâu là giả. Những thời điểm thật là mù mờ, và có một học giả Phật giáo còn cho rằng Bồ Ðề Ðạt Ma là không có thật. Nhưng mặc dù những nghi vấn về sự hiện hữu của ngài, bút giả cũng vẽ ra đây vài nét sơ lược về tiểu sử của ngài, dựa trên những tài liệu xưa cổ nhất và một vài suy diễn riêng tư, để độc giả có một cái nhìn rõ ràng hơn khi đọc những lời pháp của ngài.
Bodhidharma was born around the year 440 in Kanchi, the capital of Southern Indian kingdom of Pallava. He was the third son of King Simhavarman and a Brahman by birth. When he was young, he was converted to Buddhism, and
later, he received instruction in the Dharma from Prajnatara, whom his father had invited from the ancient Buddhist heartland Magadha. It was also Prajantara who told Bodhidharma to go to China. Since the traditional overland route was blocked by Huns in the 5th century, and since Kanchi was a commercial power as well as a center for Buddhist studies, Bodhidharma left by ship from the nearby port of Mahaballiputram. After skirting the Indian coast and the Malay Peninsula for three years, he finally arrived in Southern China around 475.
Bồ Ðề Ðạt Ma sinh vào khoảng năm 440 ở Kanchi, thủ phủ của vương quốc Pallava ở miền nam Ấn độ. Ngài thuộc gia đình quý tộc Bà la môn, là con trai thứ ba của vua Simhavarman. Khi ngài còn trẻ đã quy y theo Phật giáo và sau
này được dậy dỗ từ chính tổ Bát Nhã Ða La (Prajnatara), người mà vua cha đã mời đến từ Magahdra, trung tâm điểm của Phật giáo thời bấy giờ. Chính tổ Bát Nhã Ða La (般若多羅) đã bảo ngài phải sang Trung hoa hoằng pháp. Vì những đường bộ thường được dùng xưa nay bị rợ Hung nô ngăn trở, và vì Pallava đã có những liên hệ thương mại qua toàn cõi Ðông Nam Á, Bồ Ðề Ðạt Ma đã ra đi bằng đưởng thủy từ cảng Mahaballipuran lân cận. Sau khi đi vòng qua bờ biển Ấn độ và quần đảo Mã Lai trong vòng ba năm, cuối cùng ngài đã đến được miền nam Trung quốc vào năm 475.
At that time, the country was divided into the Northern Wei and Liu Song dynasties. This division of China into a series of northern and southern dynasties began in the early third century and continued until the country was reunited under the Sui dynasty in the late six century. It was during this period of division and strife that Indian Buddhism developed into Chinese Buddhism. This political division also led to differences in the kind of Buddhism practiced in the North and South. The more military minded northerners emphasized meditation and magic. The more intellectual southerners preferred philosophical discussion and intuitive grasp of principles.
Vào lúc đó Trung quốc bị phân ra thành hai nước Bắc Ngụy và Liêu Tống. Sự phân chia lãnh thổ thành hai triều Bắc và Nam bắt đầu từ đầu thế kỷ thứ ba qua bao nhiêu thời đại cho đến khi quốc gia này được thống nhất trong đời nhà Tùy vào khoảng cuối thế kỷ thứ sáu. Cũng trong thời kỳ phân chia và hỗn loạn này mà Phật giáo Ấn độ đã phát huy thành Phật giáo đặc thù Trung hoa, với những người phương bắc chuộng võ nghệ thiên về tu thiền định và thần thông, và những người phương nam đa văn túc trí chú trọng nhiều hơn đến kinh điển và ngữ nghĩa.
When Bodhidharma arrived in the latter part of the fifth century, there were approximately 2,000 Buddhist temples and 36,000 clergy in the South. In the North, a census in 477 counted 6,500 temples and nearly 80,000 clergy. Less than fifty years later, another census conducted in the North raised these figures to 30,000 temples and 2,000,000 clergy, or about five percent of the population. This undoubtedly included many people who were trying to avoid taxes and conscription or who sought the protection of the Church for other, non-religious, reasons. But clearly, Buddhism north of the Yangze was spreading among the common people. In the South, it remained largely confined to the educated elite until well into the sixth century.
Khi Bồ Ðề Ðạt Ma đến Trung hoa trong hậu bán thế kỷ thứ năm, có khoảng 2000 ngôi chùa Phật giáo và 36000 tăng sĩ ở phía Nam. Trên phía Bắc, một cuộc kiểm tra năm 477 cho thấy có tới 6500 ngôi chùa và 80000 tăng sĩ. Không đầy 50 năm sau, một cuộc kiểm tra khác ở phương bắc đã nâng cao con số này lên 30000 ngôi chùa và 2 triệu tăng sĩ, hay khoảng 5% dân số. Chắc chắn là trong số này có nhiều kẻ giả danh để trốn thuế hay để được sự bảo hộ của giáo hội cho những mục đích ngoài tôn giáo, nhưng rõ ràng là Phật giáo đã lan rộng trong dân gian ở vùng phía bắc sông Dương tử. Ở phía nam, Phật giáo vẫn còn giới hạn phần lớn vào giai cấp thượng lưu trí thức mãi cho đến thế kỷ thứ 6.
Asia at 475 A.D.
Following his arrival in the port of Nanhai, Bodhidharma probably visited Buddhist center in the South and began learning Chinese, if he hadn’t done so already on his way from India. According to Tao-yuan’s ‘Transmission of the lamp’ finished in 1002, Bodhidharma arrived in the South as late as 520 and was invited to the capital in Chienkang for an audience with Emperor Wu of the Liang dynasty, successor to the Liu Sung. During this meeting, the emperor asked about the merit of performing religious works, and Bodhidharma responded with the doctrine of emptiness. The emperor didn’t understand, and Bodhidharma left. No early records, however, mention such a meeting.
Sau khi đặt chân đến bờ biển Nam hải (Việt nam), Bồ Ðề Ðạt Ma có lẽ đã đi thăm những trung tâm phật giáo ở phía nam và bắt đầu học tiếng trung hoa, nếu ngài đã không học sẵn từ trước khi rời Ấn độ. Theo “Truyền đăng lục” của Ðạo Nguyên hoàn thành từ năm 1002, mãi đến năm 520 Bồ Ðề Ðạt Ma mới đến miền nam Trung quốc và được mời đến kinh đô Kim Lăng để gập vua Lương Vũ Ðế, người kế vị của triều đại Liêu Tống. Trong cuộc gập gỡ này, nhà vua hỏi về công đức cúng dường và phật sự, Bồ Ðề Ðạt Ma đã đem lý “không” ra để trả lời. Nhà vua không hiểu, Bồ Ðề Ðạt Ma đã bỏ đi. Tuy nhiên, những tài liệu cổ xưa nhất đã không ghi lại sự kiện này.
Bodhidharma and Emperor Wu
In any case, Bodhidharma crossed the Yangtze – according to legend, on a hollow reed – settled in the North. At first, he stayed near the Northern Wei capital of Ping Cheng. Later, in 494, Emperor Hsiao-wen moved his capital south to Loyang on the northern bank of the Lo River, and most of the monks living in the Ping Cheng area moved too, Bodhidharma among them. According to Tao-hsuan’s Further Lives of Exemplary Monks, the first draft of which was written in 645, Bodhidharma ordained a monk by the name of Seng-fu. When Bodhidharma moved to Loyang, Sheng-fu moved to the South. Since ordination normally requires a three-year apprenticeship, Bodhidharma must have already been in the North by 490 and must have been reasonably conversant in Chinese by then.
Cũng theo truyền thuyết, Bồ Ðề Ðạt Ma sau đó đã vượt sông Dương tử bằng một nhánh cây rỗng và định cư tại phía Bắc. Ðầu tiên ngài dừng lại gần kinh đô Pingcheng của Bắc Ngụy. Năm 494, khi vua Hiếu Văn dời đô xuống phía nam về Lạc Dương trên phía bắc sông Lô, hầu hết những tăng lữ đang sống ở vùng Pingcheng cũng di chuyển theo và Bồ Ðề Ðạt Ma cũng có trong số đó. Dựa theo tập “Cao tăng truyện” của Ðạo Tuyên được thảo từ năm 645, Bồ Ðề Ðạt Ma đã thọ ký cho một đệ tử tên Sheng Fu. Khi kinh đô dời về Lạc Dương, Sheng Fu di chuyển xuống phía nam. Vì sự thọ ký cần 3 năm tập sự, Bồ Ðề Ðạt Ma chắc là đã có mặt trên vùng phía bắc Trung hoa năm 490 và chắc lúc đó đã khá thông thạo tiếng trung hoa rồi.
A few years later, in 496, the emperor ordered the construction of Shaolin Temple on the highest of China’s five sacred mountains, Mount Sung, in Honan Province south of Loyang. The temple was built for Fo-t’o (Buddhata?), another meditation master from India, not for Bodhidharma. But while Zen masters have come and gone at the temple for the past 1,500 years, Bodhidharma is the only monk anyone but a Buddhist historian associates with Shaolin. It was here, on Mount Sung’s western Shaoshih Peak that Bodhidharma is said have spent nine years facing a rock wall near the temple meditating. Shaolin later became famous for training monks in in kung-fu, and Bodhidharma is honored as the founder of this art as well. Coming from India, he undoubtedly instructed his disciples in some form of yoga, but no early records mention him teaching any exercise or martial art.
Ít năm sau, vào năm 496, vua ra lệnh xây dựng ngôi chùa Thiếu lâm ở Tung Sơn, thuộc tỉnh Hà nam phía đông nam Lạc Dương. Ngôi chùa, tới bây giờ vẫn còn tồn tại (tuy rằng sau này đã hầu như trở thành một địa điểm du lịch), đã được xây cất cho một vị thiền sư khác từ Ấn độ, chứ không cho Bồ Ðề Ðạt Ma. Nhưng dù cho có bao nhiêu vị thiền sư đã đến và đi với chùa này trong 1500 năm qua, Bồ Ðề Ðạt Ma là vị tổ duy nhất đã gắn liền tên tuổi với ngôi chùa Thiếu lâm trong lịch sử Phật giáo. Chính ở tại đây, trên đỉnh Shashih phía tây nùi Tung sơn, tổ Ðạt Ma đã ngồi thiền định trong suốt 9 năm liền, quay mặt vào vách đá trong một cái hang cách chùa chừng một dậm. Chùa Thiếu Lâm sau này đã nổi tiếng trong việc huấn luyện võ nghệ cho các vị sư, và Bồ Ðề Ðạt Ma được tôn xưng là người đã sáng lập ra môn võ thuật này. Xuất thân từ Ấn độ, chắc hẳn là ngài cũng có dậy lại đệ tử những phương pháp yoga nào đó, nhưng không có tài liệu nào nhắc đến tên ngài như một võ sư về võ thuật.
Bodhidharma kept silence for 9 years
and stayed in a Samadhi of clear insight.
By the year 500, Loyang was one of the largest cities in the world, with a population of over half a million. When Emperor Hsuan-wu died in 516, and the Empress Dowager Ling assumed control of the government, one of the first
things she did was order work to begin on Yong-ning temple. The construction of this temple and its 400-foot-high pagoda nearly exhausted (exhausted) the imperial treasury.
Vào năm 500, Lạc Dương là một trong những thành phố lớn nhất trên thế giới, với một dân số trên một triệu người. Khi vua Hsuan-wu chết vào năm 516 và hoàng hậu Ling lên thế quyền, một trong những việc đầu tiên bà làm là truyền lệnh xây dựng ngôi chùa Vĩnh Ninh. Việc xây cất ngôi chùa này với cái bảo tháp cao 400 bộ Anh đã khiến cho ngân quỹ quốc gia gần như kiệt quệ.
According to a record of Loyang’s temples written in 547 by Yang Hsuan-chih, golden wind – chimes that hung along the temple’s eaves could be heard for three miles, and the spire of the temple’s pagoda could be seen over 30 miles away. Yang’s account also includes the comments of a monk from the west named Bodhidharma, who calls it the most imposing structure he had ever seen. Since the temple wasn’t built until 516 and was destroyed by fire in 534, Bodhidharma must have been in the capital around 520. Early records say he travelled throughout the Loyang area, coming and going with the seasons.
Theo “Lạc Dương già lam ký” vào năm 547 của Dương Huyễn Chi, những chuông gió bằng vàng treo dọc theo mái ngôi chùa này có thể ngân vang tiếng đến 3 dậm Anh và vòng xoắn ốc của ngôi bảo tháp có thể được nhìn thấy cách đó hàng 30 dậm. Biên bản của Dương còn ghi lại lời bình phẩm của một vị tăng đến từ Thiên trúc tên Bồ Ðề Ðạt Ma rằng đây là một kiến trúc đồ sộ nhất mà ngài chưa từng thấy. Vì ngôi chùa này tới năm 516 mới được xây xong và rồi bị cháy vào năm 534, Bồ Ðề Ðạt Ma chắc hẳn đã có mặt ở kinh đô vào khoảng năm 520. Những tài liệu xưa ghi lại rằng ngài đã du hành qua khắp các vùng ở Lạc Dương, đi đi về về tuỳ theo mùa.
In the capital, though, he must have stayed at Yung-ming Temple. Not to be confused with Yung-ning Temple, Yung-ming was built a few years earlier by Emperor Hsuan-wu at the beginning of the sixth century as a headquarters for
foreign monks. Before the mass evacuation of the city during the collapse of the Northern Wei in 534, the temple reportedly housed over 3,000 monks from countries as far as Syria.
Tuy nhiên, chắc ngài đã ngụ ở trong chùa Vĩnh Minh khi về kinh đô. Ðể khỏi lẫn lộn chùa này với chùa Vĩnh Ninh, chùa Vĩnh Minh đã được xây cất vài năm trước, vào khoảng đầu thế kỷ thứ 6 do lệnh của vua Hsuan-wu để làm trụ sở chính cho những vị tăng ngoại quốc. Trước khi có cuộc di tản lớn lao của thành phố này khi Bắc Ngụy bị sụp đổ vào năm 534, ngôi chùa này đã từng chứa đến 3000 vị tăng từ khắp nơi, có khi từ xa xôi tận Syria đến.
Despite the sudden popularity of Buddhism in China, Bodhidharma found few disciples. Besides Sheng-fu, who moved to the South soon after his ordination, the only other disciples mentioned are Tao-yu and Hui-k’o, both of whom are said to have studied with Bodhidharma for five to six years. Tao-yu, we’re told, understood the Way but never taught. It was Hui-k’o that Bodhidharma entrusted the robe and bowl of his lineage and, according to Tao-hsuan, a copy of Gunabhadra’s translation of the Lankavatara sutras. In the sermons translated here, though, Bodhidharma quotes mostly from Nirvana, Avatamsaka, and Vimilakirti Sutras and uses none of the terminology characteristic of the Lankavatara. Perhaps it was Hui-k’o, not Bodhidharma, who thought so highly of this sutra.
Mặc dù có sự bừng phát của Phật giáo ở Trung hoa, Bồ Ðề Ðạt Ma cũng thu nhận rất ít đệ tử. Ngoài Sheng-fu đã dọn về miền nam không bao lâu sau khi được thọ ký, những đệ tử khác được nhắc đến tên tuổi là Ðạo Dụ và Huệ Khả, cả hai đều được nói là đã thụ giáo với ngài từ 5 đến 6 năm. Ðạo Dụ được ghi nhận như là người đã hiểu được Ðạo nhưng không bao giờ truyền lại cho ai cả. Chính Huệ Khả là người được tổ Ðạt Ma truyền y bát lại và theo Ðạo Tuyên, còn được kế thừa một bộ kinh Lăng già của Gunabhadra dịch lại. Tuy nhiên, trong những bài pháp của ngài, Bồ Ðề Ðạt Ma phần lớn trích dẫn từ kinh Niết bàn, Hoa Nghiêm, và Duy ma Cật, và không có vẻ gì là đã dùng đến kinh Lăng già. Có lẽ Huệ Khả, chứ không phải là Bồ Ðề Ðạt Ma, mới là người đã coi trọng kinh này.
Bodhidharma and Hui-K’o
In his transmission of the lamp, Tao-yuan says that soon after Bodhidharma transmitted the patriarchship of his lineage to Hui-k’o, he died in 528 on the fifth day of the tenth month, poisoned by a jealous monk. Tao-hsuan’s much earlier biography of Bodhidharma says only that he died on the banks of the Lo River. He doesn’t mention the date or cause of death. According to Tao-yuan, Bodhidharma’s remains were interred near Loyang at Tinglin Temple on the
Bear Ear Mountain. Tao-yuan adds that three years later a official met Bodhidharma walking in the mountains of Central Asia. He was carrying a staff from which hung a single sandal, and he told the official he was going back to
India. This meeting aroused the curiosity of other monks, and they agreed to open Bodhidharma’s tomb. But all they found was a single sandal, and ever since then, Bodhidharma has been pictured carrying a staff from which hangs the missing sandal.
Trong “Truyền đăng lục”, Ðạo Nguyên nói là không bao sau khi ngài đã truyền thừa lại cho Huệ Khả, Bồ Ðề Ðạt Ma viên tịch vào năm 528, ngày mùng 5 tháng 10, do một vị sư khác ganh ghét mà hạ độc. Nhưng trong sự tích Bồ Ðề Ðạt Ma do Ðạo Tuyên biên soạn không thấy nói đến thời gian và nguyên nhân cái chết của ngài, chỉ nói rằng ngài đã chết trên bờ sông Lô. Theo Ðạo Nguyên, Bồ Ðề Ðạt Ma được táng tại chùa Ðịnh Lâm gần Lạc Dương, trên núi Hùng Nhĩ. Ðạo Nguyên còn thêm rằng ba năm sau, một vị quan khi đi trên một vùng rừng núi miền Trung Á đã gập Bồ Ðề Ðạt Ma. Ngài cầm một cây gậy trên đó có treo một chiếc dép, và nói với vị quan đó rằng ngài đang trên đường trở về Ấn độ. Lời truyền tụng về cuộc gập gỡ này đã gợi lên sự tò mò của những vị sư khác, và cuối cùng họ đã đồng ý khai quật mộ của ngài. Trong đó họ không tìm thấy gì ngoài một chiếc dép đơn độc, và kể từ đó Ngài Bồ Ðề Ðạt Ma thường được vẽ mang một cây gậy trên có treo chiếc dép đã thất lạc.
In Pamir Mountains someone saw the
Master walking barefoot holding a shoe.
With the assassination of Emperor Hsiao-wu several years later in 534, the Northern Wei split into the Western and Eastern Wei dynasties, and Loyang came under attack. Since the powerful Kao family of the Eastern Wei was renowned for its patronage of Buddhism, many of the monks living in Loyang moved to the Eastern Wei capital Yeh. Hui-k’o moved to Yeh too, and eventually he met T’an-lin there. T’an-lin worked first in Loyang and later in Yeh writing prefaces and commentaries to new translations of Buddhist sutras. After meeting Hui-k’o, he became interested in Bodhidharma’s approach to Buddhism and added a brief preface to the Outline of Practice. In this preface, he says that Bodhidharma was from Southern India and that following his arrival in China, he had found only two worthy disciples, namely Hui-k’o and Tao-yu. He also says that Bodhidharma taught wall-meditation and the four practices described in the Outline.
Sau khi vua Hsiao-Wu bị thích sát chết vào năm 534, Bắc Ngụy tách ra làm Ðông và Tây Ngụy, thành Lạc Dương bị tấn công. Vì giòng họ Kao của triều Ðông Ngụy thường có truyền thống trợ đạo Phật, nhiều tăng sĩ sống ở Lạc Dương, trong đó có Huệ Khả, đã di chuyển về kinh đô Yeh của Ðông Ngụy. Tại nơi đây Huệ Khả đã gập được Tan Lin sau này. Tan Lin trước làm việc ở Lạc Dương, sau đến Yeh thường viết lời bình cho những bản dịch mới của kinh Phật. Sau khi gập Huệ Khả, ông chú ý đến lý giải của Bồ Ðề Ðạt Ma về Phật đạo và đã viết một lời bình ngắn cho bài kinh “Nhập đạo Tứ hạnh quán”. Trong đó ông nói rằng Bồ Ðề Ðạt Ma đến từ miền nam Ấn và sau khi vào Trung quốc ngài chỉ tìm được hai đệ tử xứng đáng là Huệ Khả và Ðạo Dụ. Ông cũng nói rằng Bồ Ðề Ðạt Ma dậy phép quán vách tường (bích quán) và bốn quán hạnh như trong bài kinh Nhập đạo đã nói.
If this is all we know about Bodhidharma, why is he the most famous of all the millions of monks who taught and studied the Dharma in China? For the simple reason that he is credited with bringing zen to China. Of course, Zen, as
meditation, had been taught and practiced for several hundred years before Bodhidharma arrived. And, as far as doctrine is concerned, much of what he had to say had been said before, by Tao-sheng for example, a hundred years earlier. But Bodhidharma’s approach to Zen was unique.
Nếu đây là tất cả những điều ta biết về Bồ Ðề Ðạt Ma, tại sao ngài lại là người nổi tiếng nhất trong hàng triệu những vị tăng đã đến truyền pháp ở Trung quốc? Ðó là bởi vì ngài là người duy nhất được công nhận đã đem thiền tập vào Trung quốc. Dĩ nhiên, thiền đã được truyền dậy và thực tập hàng mấy trăm năm trước khi Bồ Ðề Ðạt Ma đến Trung hoa. Những điều ngài giảng về Phật pháp cũng đã được nói cách đó hàng trăm năm, như từ ngài Tao-Sheng chẳng hạn. Nhưng sự lý giải của tổ Ðạt Ma về thiền thật là độc đáo.
As he says in these sermons, “Seeing your nature is zen. . . Not thinking about anything is Zen. . . Everything you do is Zen.” While others viewed Zen as purification of the mind or as a stage on the way to Buddhahood, Bodhidharma
equated Zen with Buddhahood – and Buddhahood with the mind, the everyday mind. Instead of telling his disciples to purify their minds, he pointed them to rock walls, to the movements of tigers and cranes, to hollow reed floating across the Yangze, to a single sandal. For Bodhidharma, Zen wasn’t meditation. Zen was the sword of wisdom.
Như ngài đã nói trong những bài pháp, “Thấy tánh tức là thiền… vô tâm tức là thiền… Tất cả những gì ta làm đều là thiền…” Trong khi những người khác xem thiền là một cách thanh lọc tâm trí hay như một chặng trên con đường đi đến quả Phật, Bồ Ðề Ðạt Ma đã bình đẳng thiền và Phật — và Phật với tâm, cái tâm hàng ngày của chúng ta. Thay vì bảo các đệ tử phải lo thanh lọc tâm mình, ngài chỉ thẳng vào những bức tường đá, vào những động tác của hổ và chim hạc, bằng nhánh cây rỗng băng vượt giòng sông Dương tử. Thiền của Bồ Ðề Ðạt Ma là thiền Ðại thừa, không phải thiền Tiểu thừa — là cây kiếm trí tuệ, không phải là cái gối tọa thiền.
As did other masters, he undoubtedly instructed his disciples in Buddhist discipline, meditation, and doctrine, but he used the sword that Prajnatara had given him to cut their minds free from rules, trances and scriptures. Such a sword, though, is hard to grasp and hard to use. Small wonder that his sole successor, Hui-k’o, was a one-armed man.
Cũng như các vị thầy khác, chắc chắn là ngài cũng dậy các đệ tử về giới hạnh, thiền tập, và kinh điển, nhưng ngài đã dùng cây kiếm trí tuệ mà tổ Bát Nhã Ða La đã truyền lại để chặt đứt tâm của các đệ tử khỏi những chấp kiến về giới luật, về kinh, về định. Một thanh kiếm như vậy thật khó mà nắm bắt và xử dụng được. Cho nên đó cũng không phải điều lạ, khi người kế thừa duy nhất của ngài là Huệ Khả đã chỉ còn một cánh tay.
Such a sword, though, is hard to grasp
and hard to use. Small wonder that his sole
successor, Hui-k’o, was a one-armed man.
But such a radical understanding of Zen didn’t originate with Bodhidharma, nor with Prajnatara. It’s said that one day Brahma, lord of creation, offered the Buddha a flower and asked him to preach the Dharma. When the Buddha held
up the flower, his audience was puzzled. Except for Kashyapa, who smiled. This is how Zen began. And this is how it was transmitted. With a flower, with a rock wall, with a shout. This approach, once it was made known by Bodhidharma and his successors, revolutionized the understanding and practice of Zen in China.
Nhưng sự đạt lý thiền một cách rốt ráo như vậy đã không khởi đầu từ Bồ Ðề Ðạt Ma hay Bát Nhã Ða La, mà ngay từ thời Ðức Phật, khi Brahma, vị thiên vương của tạo vật, đã dâng lên Ðức Phật một cánh hoa và xin ngài chỉ dậy về Phật pháp. Ðức Phật dơ cánh hoa lên im lặng, đại chúng đều ngẩn ngơ không hiểu, duy có Ca Diếp là mỉm miệng cười. Thiền theo lối trực chỉ chân tâm đã bắt đầu từ đó. Và nó đã được truyền dậy như vậy: bằng một cành hoa, một bức tường đá, bằng một tiếng hét. Tâm truyền tâm thiền, khi được Bồ Ðề Ðạt Ma và những người kế vị của ngài đề ra, đã cách mạng hóa sự lý giải và tu tập đạo Phật ở Trung hoa.
Such an approach doesn’t come across very well in books. But in his Further Lives of Exemplary Monks, Tao-hshuan says that Bodhidharma’s teachings were written down. Most of scholar agree that the Outline of Practice is one such
record, but opinion is divided concerning the other three sermons translated here. All three have long been attributed to Bodhidharma, but in recent years, a number of scholars have suggested that these sermons are the work of later
disciples. Yanagida, for example, thinks that the Blood Stream Sermon was written by a member of the Oxen head Zen School, which flourished in the seventh and eighth centuries. He also thinks that the wake-up sermon was an
eighth-century work of the Northern Zen School and the Breakthrough Sermon was by Shen-hsiu, the seventh-century patriarch of the Northern School.
Sự lý giải như vậy không dễ gì được diễn tả tường tận nơi văn tự sách vở. Nhưng trong quyển “Cao tăng truyện”, Ðạo Nguyên nói rằng những lời giảng của Bồ Ðề Ðạt Ma đã được ghi lại. Hầu hết các học giả đều đồng ý là bài “Nhập đạo tứ hành quán” là đích thực của ngài, nhưng về ba bài kia thì có nhiều ý kiến khác nhau. Cả ba bài giảng này vẫn được coi như của tổ Ðạt Ma từ xưa nay, nhưng trong những năm gần đây một số học giả lại đưa ra rằng những bài pháp này là của những đệ tử của ngài sau này. Tỉ như, Yanagida cho rằng bài “Huyết mạch luận” là của một nhân vật thuộc phái thiền Ngưu Ðầu, một hệ phái đã phát triển mạnh trong thế kỷ thứ 7 và thứ 8, và ông còn nghĩ rằng bài “Kiến tánh” là tác phẩm của phái thiền Bắc tông và bài “Phá chấp” là của Shen-hsiu, vị tổ của phái thiền Bắc tông.
Unfortunately, documentary evidence that would conclusively prove or disprove the traditional attribution is lacking. Until the present century, the earliest copies of these sermons were fourteenth-century version of T’ang dynasty (618-907) originals in the collection of Japan’s Kanazaws Bunko. But with the discovery earlier in this century of thousands of T’ang dynasty Buddhist manuscripts in China’s unhuang caves, we now have seventh and eighth century copies of these sermons.
Ðáng tiếc là, không có tài liệu gì có thể chứng minh hay bác bỏ được những điều đã được công nhận xưa nay. Cho đến nay, những bản sao xưa cổ nhất của những bài pháp này được truyền lại là từ đời nhà Ðường (618-907), còn bản chính được lưu giữ trong văn khố Kanazawa Bunko tại Nhật bản. Nhưng cùng với sự khám phá ra hàng ngàn bản kinh Phật từ đời Ðường trong hang động Ðôn Hoàng từ đầu thế kỷ này, chúng ta hiện nay đã có những bản kinh của thế kỷ thứ 7 và thứ 8.
Clearly, they were compiled by monks who trace their ancestry to Bodhidharma at a very early date. If it wasn’t Huik’o, it might have been one of his disciples, or perhaps T’anlin who wrote them down. In any case, in the absence of convincing evidence to the contrary, I see no reason why they shouldn’t be accepted as the sermons of the man to whom they’ve been attributed for more than 1200 years.
Chắc chắn là những bản kinh này đã được soạn ra từ thời rất xa xưa bởi những hậu bối của Tổ Ðạt Ma, nếu không phải là Huệ Khả hay đệ tử của ngài đã viết lại, cũng phải là Tan Lin. Dù gì đi nữa, nếu không có một chứng cớ gì thật vững chắc để bác bỏ, ta thấy không có lý do gì để không chấp nhận những bài kinh này là của Tổ Ðạt Ma, như vẫn từng được tin tưởng từ 1200 năm nay.
Bodhidharma’s disciples were few. And the zen tradition that traced its ancestry to him didn’t begin its full flowering until nearly two hundred years after his death. Given the spontaneity and detachment fostered by Bodhidharma’s
approach to Zen, it’s easy to see why these sermons were eventually neglected by native Chinese zen masters. By comparison, Bodhidharma’s sermons seem somewhat alien and bare.
Những đệ tử của Bồ Ðề Ðạt Ma thật là ít ỏi, và sự truyền giáo thiền tông từ ngài để lại đã không được phát triển cho đến 200 năm sau khi ngài viên tịch. Xét về những lời giảng thật chân trực và siêu phàm của ngài về thiền, ta có thể hiểu tại sao những bài pháp này đã không được ngưỡng mộ nhiều như những lời giảng của những vị thiền sư Trung hoa. Nếu so sánh ta thấy những lời giảng của Bồ Ðề Ðạt Ma có vẻ vắn tắt và hơi lạ thường.
I only found them myself by accident in an edition of Huangpo’s Essentials on the transmission of Mind. That was twelve years ago. Since then, I’ve grown quite fond of their bare-bone Zen, and I’ve often wondered why they aren’t more popular. But popular or not, here there are again. Before they fade once more into the dust of time, read them through once or twice. And look for the one thing that Bodhidharma brought to China. Look for the print of the mind.
Tình cờ bút giả (Red Pine) đã tìm thấy được những lời pháp này trong tập “Truyền tâm yếu” của Hoàng Bá, 12 năm trước đây. Từ đó bút giả càng ngày càng thấy thích cái lối thiền trực chỉ này, và vẫn thường tự hỏi tại sao nó không được phổ biến hơn. Nhưng dù được phổ biến hay không, bây giờ nó cũng đã tái xuất hiện nơi đây. Trước khi nó lại bị phai mờ đi trong lớp bụi của một ngôi mộ hay một thư viện nào đó, xin độc giả hãy đọc suốt những lời pháp này một vài lần và hãy tìm kiếm điều mà Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma đã đem đến Trung hoa, ấn chứng của tâm mình.
Bamboo Lake, Taipei, Taiwan
Red Pine, Taiwan
Bamboo Lake, Taiwan
Big Cold, Year of the Tiger
Sources:
Tài liệu tham khảo:
1. THE ZEN TEACHING OF BODHIDHARMA-1.pdf
2. Zen-Teaching-of-Bodhidharma-trans-Red-Pine-clearscan.pdf
3. http://www.buddhism.org/the-zen-teaching-of-bodhidharma-translated-by-red-pine/
4. Photo 3: https://www.chinainstitute.org/product/confucius-his-life-and-legacy-in-art/#tab-description
5. Photo 4: https://www.earthstoriez.com/japan-tea-daruma-legend/
6. Photo 5: https://medium.com/invaluable/the-monk-the-butcher-and-the-incredible-origins-of-deep-counting-8c85bb2c7e77
6. Photo 6: Zen-Teaching-of-Bodhidharma-trans-Red-Pine-clearscan.pdf
7. Photo 7: http://www.awakeningtoreality.com/2018/04/
8. Photo 8: https://en.wikipedia.org/wiki/Dazu_Huike
9. Photo 9: https://www.wayofbodhi.org/bodhidharma-lifestory/
10. Photo 10: http://the-wanderling.com/hui_ko.html
11. Photo 11: https://www.stockunlimited.com/image/bamboo-lake-yangming-mountain-taipei-taiwan_2049458.html