08. Kinh Pháp Cú – Chương 8: Phẩm Muôn Ngàn – Thousands – Song ngữ

Dhammapada Sutta (The Path of Truth)

Kinh Pháp Cú

English: Bhikkhu Khantipalo & Sister Susanna, 1993

Vietnamese: Thích Minh Châu, 1996

Illustrated Photos: Venerable-mahasi-sayadaw

Compile: Lotus group

 

Chapter 8: Sahassa Vagga – Thousands (Verse 100-115)

08. Kinh Pháp Cú – Chương 8: Giảng Lược Phẩm Muôn Ngàn (câu 100-115) – Song ngữ

 

Verse 100. One Pacifying Word Is Noble

Through a thousand speeches be

Composed of meaningless lines,

Better the single meaningful line

One hears, then comes to calm.

“Dầu nói ngàn ngàn lời,
Nhưng không gì lợi ích,
Tốt hơn một câu nghĩa,
Nghe xong, được tịnh lạc.”

Explanation:

Better than a thousand useless words is one useful word, hearing which one attains peace.

  1. Tụng [110] đến ngàn câu vô nghĩa chẳng bằng một câu có nghĩa lý, nghe xong tâm liền tịch tịnh.

 

Verse 101. One Useful Verse Is Better Than A Thousand useless Verses

 

Though a thousand verses be

Composed of meaningless lines,

Better the single line of verse

One hears, then comes to calm.
“Dầu nói ngàn câu kệ
Nhưng không gì lợi ích,
Tốt hơn nói một câu,
Nghe xong, được tịnh lạc.”

Explanation:

Better than a thousand useless verses is one useful verse, hearing which one attains peace.

  1. Tụng đến ngàn câu kệ [111] vô nghĩa, chẳng bằng một câu kệ có nghĩa lý, nghe xong tâm liền tịch tịnh.

 

Verse 102. A Dhamma-Word Is Noble

Though a thousand verses chant

Composed of meaningless lines,

Better the single Dhamma-line

One hears, then comes to calm.
“Dầu nói trăm câu kệ
Nhưng không gì lợi ích,
Tốt hơn một câu pháp,
Nghe xong, được tịnh lạc.”

Explanation:

Better than reciting a hundred meaningless verses is the reciting of one verse of Dhamma, hearing which one attains peace.

  1. Tụng đến trăm câu kệ vô nghĩa chẳng bằng một pháp cú, nghe xong tâm liền tịch tịnh.

 

Verse 103. Self-Conquest Is the Highest Victory

Though thousand times a thousand

In battle one may conquer,

Yet should one conquer just oneself

One is the greatest conqueror.

“Dầu tại bãi chiến trường
Thắng ngàn ngàn quân địch,
Tự thắng mình tốt hơn,
Thật chiến thắng tối thượng.”

Explanation:

Though one may conquer a thousand times a thousand men in battle, yet he indeed is the noblest victor who conquers himself.

  1. Thắng ngàn quân giặc ở chiến trường chẳng bằng tự thắng. Người tự thắng là chiến sĩ oanh liệt nhất.

 

Verse 104. Victory over Oneself Is Unequalled

Greater the conquest of oneself

Than subjugating others,

That one who’s always self-restrained,

That one who’s tamed of self.
“Tự thắng, tốt đẹp hơn,
Hơn chiến thắng người khác.
Người khéo điều phục mình,
Thường sống tự chế ngự.”

Explanation:

  1. Tự thắng mình còn vẻ vang hơn thắng kẻ khác. Muốn thắng mình phải luôn luôn tiết chế lòng tham dục. 

Verse 105. Victory over Self Cannot Be Undone


Neither deva nor minstrel divine,

Nor Mara together with Brahma,

Can overthrow the victory

Of such a one as this.

“Dầu Thiên Thần, Thát Bà,
Dầu Ma vương, Phạm Thiên
Không ai chiến thắng nổi,
Người tự thắng như vậy.”
Explanation:

Self-conquest is far better than the conquest of others. Not even a god, an angel, Mãra or Brahmã can turn into defeat the victory of such a person who is self-subdued and ever restrained in conduct. (104 and 105).

  1. Dù là Thiên thần, Càn thát bà [112], Ma vương, hay Phạm thiên, không một ai chẳng thất bại trước người đã tự thắng.

 

Verse 106. The Greatest Offering

Month by month for a hundred years

A thousand one might sacrifice,

But if for only a moment one

Might honour the self-developed,

Such honour were better by far

Than century of sacrifice.
“Tháng tháng bỏ ngàn vàng,
Tế tự cả trăm năm,
Chẳng bằng trong giây lát,
Cúng dường bậc tự tu.
Cùng dường vậy tốt hơn,
Hơn trăm năm tế tự.”

Explanation:

Though month after month for a hundred years one should offer sacrifices by the thousands, yet if only for a moment one should worship those of perfected minds that honour is indeed better than a century of sacrifice.

  1. Mỗi tháng bỏ ra hàng ngàn vàng để sắm vật hy sinh tế tự [113] cả đến trăm năm, chẳng bằng giây lát cúng dường bậc chân tu; cúng dường bậc chân tu trong giây lát thắng hơn tế tự quỉ thần cả trăm năm.

 

Verse 107. Even Brief Adoration of an Arahant Is Fruitful

 

One might tend for a hundred years

The forest’s sacred fire,

But if for only a moment one

Might honor the self-developed,

Such honor were better by far

Than centuries of sacrifice.
“Dầu trải một trăm năm,
Thờ lửa tại rừng sâu,
Chẳng bằng trong giây lát,
Cúng dường bậc tự tu.
Cúng dường vậy tốt hơn,
Hơn trăm năm tế tự.”

Explanation:

Though for a hundred years one should tend the sacrificial fire in the forest, yet if only for a moment one should worship those of perfected minds that worship is indeed better than a century of sacrifice.

  1. Cả trăm năm ở tại rừng sâu thờ lửa, chẳng bằng trong giây lát cúng dường bậc chân tu, cúng dường [114] bậc chân tu trong giây lát thắng hơn thờ lửa cả trăm năm.

 

Verse 108. Worshipping an Unblemished Individual Is Noble

 Whatever one who merit seeks

Should for a year make sacrifice,

All comes not to a quarter part

Of honoring the Noble.

“Suốt năm cúng tế vật,
Ðể cầu phước ở đời.
Không bằng một phần tư
Kính lễ bậc chánh trực.”

Explanation:

Whatever gifts and oblations one seeking merit might offer in this world for a whole year, all that is not worth one fourth of the merit gained by revering the Upright Ones, which is truly excellent.

  1. Suốt năm cúng dường để cầu phước, công đức chẳng bằng một phần tư sự kính lễ bậc chánh trực, chánh giác.

 

Verse 109. Saluting Venerable Yields Four Benefits

For one of respectful nature

Whoever the elders honors,

Long life and beauty, joy and strength,

These qualities increase.
“Thường tôn trọng, kính lễ
Bậc kỳ lão trưởng thượng,
Bốn pháp được tăng trưởng:
Thọ, sắc, lạc, sức mạnh.”

Explanation:

To one ever eager to revere and serve the elders, these four blessings accrue: long life and beauty, happiness and power.

  1. Thường hoan hỷ tôn trọng, kính lễ bậc trưởng lão thì được tăng trưởng bốn điều: sống lâu, đẹp đẽ, vui vẻ, khỏe mạnh.

 

Verse 110. Virtuous Life Is Noble

 Though one should live a hundred years

Foolish, uncontrolled,

Yet better is life for a single day

Moral and meditative.

“Dầu sống một trăm năm
Ác giới, không thiền định,
Tốt hơn sống một ngày,
Trì giới, tu thiền định.”

Explanation:

Better it is to live one day virtuous and meditative than to live a hundred years immoral and uncontrolled.

  1. Sống trăm năm mà phá giới, không tu thiền, chẳng bằng chỉ một ngày mà trì giới [115], tu thiền định [116].

 

Verse 111. A Wise One’s Life Is Great

Though one should live a hundred years

Foolish, uncontrolled,

Yet better is life for a single day

Wise and meditative.

“Ai sống một trăm năm,
Ác tuệ, không thiền định.
Tốt hơn sống một ngày,
Có tuệ, tu thiền định.”

Explanation:

Better it is to live one day wise and meditative than to live a hundred years foolish and uncontrolled.

  1. Sống trăm năm mà thiếu trí tuệ, không tu thiền, không bằng chỉ sống một ngày mà đủ trí tuệ, tu thiền định.

 

Verse 112. The Person of Effort Is Worthy

 

Though one should live a hundred years

Lazy, of little effort,

Yet better is life for a single day

Strongly making effort.
“Ai sống một trăm năm,
Lười nhác không tinh tấn,
Tốt hơn sống một ngày
Tinh tấn tận sức mình.”

Explanation:  

Better it is to live one day strenuous and resolute than to live a hundred years sluggish and dissipated.

  1. Sống trăm năm mà giải đãi không tinh tấn, chẳng bằng chỉ sống một ngày mà hăng hái tinh cần.

 

Verse 113. Who Knows Reality Is Great

Though one should live a hundred years

Not seeing rise and fall,

Yet better is life for a single day

Seeing rise and fall.

“Ai sống một trăm năm,
Không thấy pháp sinh diệt,
Tốt hơn sống một ngày,
Thấy được pháp sinh diệt.”

Explanation:

Better it is to live one day seeing the rise and fall of things than to live a hundred years without ever seeing the rise and fall of things.

  1. Sống trăm năm mà không thấy pháp vô thường sanh diệt, không bằng sống chỉ một ngày mà được thấy pháp sinh diệt vô thường.

 

Verse 114. The Seer of the Deathless Is a Worthy One

Though one should live a hundred years

Not seeing the Deathless State,

Yet better is life for a single day

Seeing Deathlessness.
“Ai sống một trăm năm,
Không thấy câu bất tử,
Tốt hơn sống một ngày,
Thấy được câu bất tử.”

Explanation:

Better it is to live one day seeing the Deathless than to live a hundred years without ever seeing the Deathless.

  1. Sống trăm năm mà không thấy đạo tịch tịnh vô vi, chẳng bằng sống chỉ một ngày mà thấy đạo vô vi tịch tịnh.

 

Verse 115. Life of One Who Knows the Teaching is Noble

 

Though one should live a hundred years

Not seeing Dhamma Supreme,

Yet better is life for a single day

Seeing Dhamma Supreme.

“Ai sống một trăm năm,
Không thấy pháp tối thượng,
Tốt hơn sống một ngày,
Thấy được pháp tối thượng.”

Explanation:

Better it is to live one day seeing the Supreme Truth than to live a hundred years without ever seeing the Supreme Truth.

  1. Sống trăm năm mà không thấy pháp tối thượng, chẳng bằng sống chỉ một ngày mà thấy pháp tối thượng.

 

Chú thích:

 

[110] Tụng kinh: Tụng có nghĩa là tụng kinh có âm điệu, có ca, có kệ, trầm bổng khác với đọc. Đọc là không cần phải có âm điệu trầm bổng.

[111] Kệ: Tiếng Phạn là Gathà, cũng đọc là Già tha, Già đà, dịch là phúng tụng, gồm 4 câu với số chữ nhất định trong một câu.

[112] Càn thát bà: Tiếng Phạn là Gandhàrva. Vị thần nầy có nhiều tên gọi khác nhau, dịch là Hương thần, là một trong 8 bộ chúng. Vị thần nầy, không uống rượu ăn thịt, chỉ tìm mùi hương để nuôi thân của mình nên toàn thân rất thơm. Vị thần nầy hầu bên trời Đế Thích lo về sửa nhạc. Thần khẩn na la lo về pháp nhạc.

[113] Tế tự: Giết những loài sinh vật để cúng tế thần linh.

[114] Cúng dường: Đọc trại âm của chữ cung dưỡng. Chữ cung có nghĩa là cung cấp. Dưỡng là nuôi nấng. Cúng dường có nghĩa là cung cấp nuôi dưỡng ngày càng tăng trưởng.

[115] Trì giới: Trì là gìn giữ. Giới là ngăn cấm. Trì giới là giữ gìn những giới luật đã lãnh thọ cho nghiêm mật, không được buông lung.

[116] Thiền Định: Có 2 nghĩa: 1/ Thiền là dịch âm tiếng Phạn Dhyàna; Định là dịch ý tiếng Phạn Samàdhi. Thiền và Định đều là để tâm chuyên chú vào một đối tượng mà đạt tới trạng thái tịch tĩnh, không tán loạn. Hoặc chỉ Thiền là dịch âm từ Dhyàna, Định là dịch ý. Phạn Hán tịnh xưng gọi là Thiền định. Còn chỉ Tứ thiền của cõi Sắc giới và Tứ định của cõi Vô sắc giới, gộp lại gọi là Tứ thiền bát định. X. Pháp Hoa kinh, Đề bà đạt đa phẩm; 2/ Đồng nghĩa với Tọa thiền. Ngũ gia tham tường yếu lô môn phụ lục: “Người tu Thiền định, trước là trải tấm bồ đoàn, sau đó ngồi kiết già ngay ngắn”.

Sources:

Tài liệu tham khảo:

  1. http://thanhtruc-thanhtrucgdth.blogspot.com/2011/02/kinh-phap-cu.html
  2. http://www.buddhanet.net/dhammapada/d_thous.htm
  3. http://dummygallery.com/funny-cat-and-dog-pictures-with-guns/
  4. Tam Tu Metta Buddhist Temple & Heritage Garden – 610 Fisher Ave, Morgan Hill, CA 95037
  5. https://quangduc.com/a29854/kinh-phap-cu-1