Tập III – Chương I – Tương Ưng Uẩn – Connected Discourses on the Aggregates – Song ngữ

Anh ngữ: Bhikkhu Bodhi.

Việt ngữ: Hòa thượng Thích Minh Châu.

Compile: Lotus group

Part III – Chapter I – 22 [Khandhasaṃyutta]

A. Division I – The Root Fifty – Năm Mươi Kinh Căn Bản.

III. THE BURDEN – Phẩm Gánh Nặng.

IV. NOT YOURS – Phẩm Không Phải Của Các Ông.

V. WITH YOURSELVES AS AN ISLAND – Phẩm Tự Mình Làm Hòn Ðảo.

 

III. THE BURDEN – Phẩm Gánh Nặng.

22 (1) The Burden – Gánh Nặng

 

1-2) At Sāvatthī… There the Blessed One said this:

3) — “Bhikkhus, I will teach you the burden, the carrier of the burden, 35 the taking up of the burden, and the laying down of the burden. Listen to that….

4) “And what, bhikkhus, is the burden? It should be said: the five aggregates subject to clinging. What five? The form aggregate subject to clinging, the feeling aggregate subject to clinging, the perception aggregate subject to clinging, the volitional formations aggregate subject to clinging, the consciousness aggregate subject to clinging. This is called the burden. 

5) “And what, bhikkhus, is the carrier of the burden? It should be said: the person, this venerable one of such a name and clan. This is called the carrier of the burden.

1-2) Ở Sàvatthi…

3) — Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Ông về gánh nặng, mang gánh nặng lên, đặt gánh nặng xuống. Hãy nghe và khéo suy nghiệm, Ta sẽ giảng.

4) Này các Tỷ-kheo, thế nào là gánh nặng? Năm thủ uẩn là câu trả lời. Thế nào là năm? Sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là gánh nặng.

5) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là kẻ mang gánh nặng? Người là câu trả lời. Vị Tôn giả này có tên như thế này, dòng họ như thế này. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là kẻ mang gánh nặng!

 

6) “And what, bhikkhus, is the taking up of the burden? It is this craving that leads to renewed existence, accompanied by delight and lust, seeking delight here and there; that is, craving for sensual pleasures, craving for existence, craving for extermination. This is called the taking up of the burden.

7) “And what, bhikkhus, is the laying down of the burden? It is the remainderless fading away and cessation of that same craving, the giving up and relinquishing of it, freedom from it, non-reliance on it. This is called the laying down of the burden.” 

8) This is what the Blessed One said. Having said this, the Fortunate One, the Teacher, further said this:

 

“The five aggregates are truly burdens,

The burden-carrier is the person.

Taking up the burden is suffering in the world,

Laying the burden down is blissful.

 

Having laid the heavy burden down

Without taking up another burden,

Having drawn out craving with its root,

One is free from hunger, fully quenched.”

6) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là mang gánh nặng lên? Chính là tham ái này đưa đến tái sanh, câu hữu với hỷ và tham, đi tìm hỷ lạc chỗ này, chỗ kia. Tức là dục ái, hữu ái, phi hữu ái. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là mang gánh nặng lên.

7) Này các Tỷ-kheo, thế nào là đặt gánh nặng xuống? Ðây là sự ly tham, đoạn diệt ái ấy một cách hoàn toàn, sự từ bỏ, sự xả ly, sự giải thoát, sự không chấp thủ. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là đặt gánh nặng xuống.

8) Thế Tôn thuyết như vậy, Thiện Thệ nói như vậy xong, bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

Năm uẩn là gánh nặng,
Kẻ gánh nặng là người;
Mang lấy gánh nặng lên,
Chính là khổ ở đời.
Còn đặt gánh nặng xuống,
Tức là lạc, không khổ,
Ðặt gánh nặng xuống xong,
Không mang thêm gánh khác.
Nếu nhổ khát ái lên,
Tận cùng đến gốc rễ,
Không còn đói và khát,
Ðược giải thoát tịnh lạc!

 

23 (2) Full Understanding – Liễu Tri (Parinna)

 

1-2) At Sāvatthī…

3) — “Bhikkhus, I will teach you things that should be fully understood and also full understanding. Listen to that….

4) “And what, bhikkhus, are the things that should be fully understood? Form, bhikkhus, is something that should be fully understood; feeling … perception … volitional formations … consciousness is something that should be fully understood. These are called the things that should be fully understood.

5) “And what, bhikkhus, is full understanding? The destruction of lust, the destruction of hatred, the destruction of delusion. This is called full understanding.”

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi…

3) — Và này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết những pháp cần phải liễu tri, phải được liễu tri. Hãy nghe và khéo suy nghiệm, Ta sẽ nói…

4) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các pháp cần phải liễu tri? Sắc, này các Tỷ-kheo, là pháp cần phải liễu tri, thọ là pháp cần phải liễu tri, tưởng là pháp cần phải liễu tri, các hành là pháp cần phải liễu tri, thức là pháp cần phải liễu tri. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là những pháp cần phải liễu tri.

5) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là liễu tri? Này các Tỷ-kheo, sự đoạn tận tham, sự đoạn tận sân, sự đoạn tận si, này các Tỷ-kheo, được gọi là liễu tri.

 

24 (3) Directly Knowing – Thắng Tri

 

1-2) At Sāvatthī…

3) — “Bhikkhus, without directly knowing and fully understanding form, without becoming dispassionate towards it and abandoning it, one is incapable of destroying suffering.

4-8) Without directly knowing and fully understanding feeling … perception … volitional formations … consciousness, without becoming dispassionate towards it and abandoning it, one is incapable of destroying suffering.

9-12) “Bhikkhus, by directly knowing and fully understanding form, by becoming dispassionate towards it and abandoning it, one is capable of destroying suffering. By directly knowing and fully understanding feeling … perception … volitional formations … consciousness, by becoming dispassionate towards it and abandoning it, one is capable of destroying suffering.”

1-2) Nhân duyên tại Sàvatthi…

3) — Này các Tỷ-kheo, do không thắng tri sắc, không liễu tri, không ly tham, không từ bỏ, nên không có thể đoạn tận khổ.

4) Này các Tỷ-kheo, do không thắng tri thọ…

5-6) Này các Tỷ-kheo, do không thắng tri tưởng… không thắng tri các hành…

7) Này các Tỷ-kheo, do không thắng tri thức, không liễu tri, không ly tham, không từ bỏ, nên không có thể đoạn tận khổ.

8) Này các Tỷ-kheo, do thắng tri sắc, liễu tri, ly tham, từ bỏ, nên có thể đoạn tận khổ.

9-11) Này các Tỷ-kheo, do thắng tri thọ… thắng tri tưởng… thắng tri các hành…

12) Này các Tỷ-kheo, do thắng tri thức, liễu tri, ly tham, từ bỏ, nên có thể đoạn tận khổ.

 

25 (4) Desire and Lust – Dục Tham

 

1-2) At Sāvatthī…

3) — “Bhikkhus, abandon desire and lust for form. Thus, that form will be abandoned, cut off at the root, made like a palm stump, obliterated so that it is no more subject to future arising.

4-7) “Abandon desire and lust for feeling … for perception … for volitional formations … for consciousness. Thus, that consciousness will be abandoned, cut off at the root, made like a palm stump, obliterated so that it is no more subject to future arising.”

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi…

3) — Dục và tham (chandaràga) đối với sắc, này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ nó. Như vậy, sắc ấy sẽ được đoạn trừ, nhổ tận gốc rễ, làm cho như thân cây ta-la, làm cho không thể tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai.

4) Dục và tham đối với thọ, này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ nó. Như vậy, thọ ấy sẽ được đoạn trừ, nhổ tận gốc rễ, làm cho như thân cây ta-la, làm cho không thể tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai.

5) Dục và tham đối với tưởng…

6) Dục và tham đối với các hành…

7) Dục và tham đối với thức, này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ nó. Như vậy, thức ấy sẽ được đoạn trừ, nhổ tận gốc rễ, làm cho như thân cây ta-la, làm cho không thể tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai.

 

26 (5) Gratification (1) – Vị Ngọt (1)

 

1-2) At Sāvatthī….

3) — “Bhikkhus, before my enlightenment, while I was still a bodhisatta, not yet fully enlightened, it occurred to me:

4) ‘What is the gratification, what is the danger, what is the escape in the case of form? What is the gratification, what is the danger, what is the escape in the case of feeling … perception … volitional formations … consciousness?’

5) “Then, bhikkhus, it occurred to me:

6) ‘The pleasure and joy that arise in dependence on form: this is the gratification in form. That form is impermanent, suffering, and subject to change: this is the danger in form. The removal and abandonment of desire and lust for form: this is the escape from form.

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi…

3) — Này các Tỷ-kheo, trước khi Ta giác ngộ, chưa chứng Chánh Ðẳng Giác, còn là Bồ-tát, Ta suy nghĩ như sau:

4) “Cái gì là vị ngọt, cái gì là sự nguy hiểm, cái gì là sự xuất ly của sắc? Cái gì là vị ngọt, cái gì là sự nguy hiểm, cái gì là sự xuất ly của thọ? Cái gì là vị ngọt, cái gì là sự nguy hiểm, cái gì là sự xuất ly của tưởng? Cái gì là vị ngọt, cái gì là sự nguy hiểm, cái gì là sự xuất ly của các hành? Cái gì là vị ngọt, cái gì là sự nguy hiểm, cái gì là sự xuất ly của thức?”

5) Rồi này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ như sau:

6) “Do duyên sắc, lạc hỷ sanh; cái ấy gọi là vị ngọt của sắc. Sự vô thường, đau khổ, chịu sự biến hoại của sắc; cái ấy gọi là sự nguy hiểm của sắc. Sự nhiếp phục dục và tham đối với sắc, sự đoạn tận dục và tham; cái ấy là xuất ly của sắc”.

 

7-10) “‘The pleasure and joy that arise in dependence on feeling … in dependence on perception … in dependence on volitional formations … in dependence on consciousness: this is the gratification in consciousness. That consciousness is impermanent, suffering, and subject to change: this is the danger in consciousness. The removal and abandonment of desire and lust for consciousness: this is the escape from consciousness.’

11) “So long, bhikkhus, as I did not directly know as they really are the gratification, the danger, and the escape in the case of these five aggregates subject to clinging, I did not claim to have awakened to the unsurpassed perfect enlightenment in this world with its devas, Māra, and Brahmā, in this generation with its ascetics and brahmins, its devas and humans.

12) But when I directly knew all this as it really is, then I claimed to have awakened to the unsurpassed perfect enlightenment in this world with … its devas and humans.

13) “The knowledge and vision arose in me: ‘Unshakable is my liberation of mind; this is my last birth; now there is no more renewed existence.’”

7) “Do duyên thọ, lạc hỷ sanh..”..

8) “Do duyên tưởng, lạc hỷ sanh..”.

9) “Do duyên các hành, lạc hỷ sanh; cái ấy gọi là vị ngọt của các hành. Sự vô thường, đau khổ, chịu sự biến hoại của các hành; cái ấy gọi là sự nguy hiểm của các hành. Sự nhiếp phục dục và tham đối với hành, sự đoạn tận dục và tham; cái ấy là sự xuất ly của các hành”.

10) “Do duyên thức, lạc hỷ sanh; cái ấy gọi là vị ngọt của thức. Sự vô thường, đau khổ, chịu sự biến hoại của thức; cái ấy gọi là sự nguy hiểm của thức. Sự nhiếp phục dục và tham đối với thức, sự đoạn tận dục và tham; cái ấy là sự xuấy ly của thức”.

11) Này các Tỷ-kheo, cho đến khi nào đối với năm thủ uẩn này, Ta chưa như thật thắng tri vị ngọt là vị ngọt, nguy hiểm là nguy hiểm, xuất ly là xuất ly, thời này các Tỷ-kheo, Ta không tuyên bố rằng Ta đã giác ngộ vô thượng Chánh Ðẳng Giác đối với thế giới gồm có Thiên, Ma, Phạm thiên, đối với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người.

12) Nhưng này các Tỷ-kheo, khi nào đối với năm thủ uẩn này, Ta như thật thắng tri vị ngọt là vị ngọt, nguy hiểm là nguy hiểm, xuất ly là xuất ly, thời này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng Ta đã giác ngộ vô thượng Chánh Ðẳng Giác đối với thế giới gồm có Thiên, Ma, Phạm thiên, đối với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người.

13) Và tri kiến như sau khởi lên nơi Ta:

“Tâm Ta giải thoát, bất động. Ðây là đời sống cuối cùng, nay không còn tái sanh nữa”.

 

27 (6) Gratification (2) – Vị Ngọt (2)

 

1-2) At Sāvatthī…

3) — “Bhikkhus, I set out seeking the gratification in form. Whatever gratification there is in form—that I discovered. I have clearly seen with wisdom just how far the gratification in form extends.

4) “Bhikkhus, I set out seeking the danger in form. Whatever danger there is in form—that I discovered. I have clearly seen with wisdom just how far the danger in form extends.

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi…

3) — Này các Tỷ-kheo, Ta đã đi tìm cầu vị ngọt của sắc. Vị ngọt của sắc là gì, Ta đã chứng đắc. Vị ngọt của sắc như thế nào, Ta đã khéo thấy với trí tuệ.

4) Này các Tỷ-kheo, Ta đã đi tìm cầu sự nguy hiểm của sắc. Sự nguy hiểm của sắc là gì, Ta đã chứng đắc. Sự nguy hiểm của sắc như thế nào, Ta đã khéo thấy với trí tuệ.

 

5-17) “Bhikkhus, I set out seeking the escape from form. Whatever escape there is from form—that I discovered. I have clearly seen with wisdom just how far the escape from form extends.

“Bhikkhus, I set out seeking the gratification in … the danger in … the escape from feeling … from perception … from volitional formations … from consciousness. Whatever escape there is from consciousness—that I discovered. I have clearly seen with wisdom just how far the escape from consciousness extends.

5) Này các Tỷ-kheo, Ta đã đi tìm cầu sự xuất ly của sắc. Sự xuất ly của sắc là gì, Ta đã chứng đắc. Sự xuất ly của sắc như thế nào, Ta đã khéo thấy với trí tuệ.

6-8) Này các Tỷ-kheo, Ta đi tìm cầu vị ngọt của thọ…

9-11) Này các Tỷ-kheo, Ta đã đi tìm cầu vị ngọt của tưởng…

12-14) Này các Tỷ-kheo, Ta đã đi tìm cầu vị ngọt của các hành…

15) Này các Tỷ-kheo, Ta đã đi tìm cầu vị ngọt của thức. Vị ngọt của thức là gì, Ta đã chứng đắc. Vị ngọt của thức như thế nào, Ta đã khéo thấy với trí tuệ.

16) Này các Tỷ-kheo, Ta đã đi tìm cầu sự nguy hiểm của thức. Nguy hiểm của thức là gì, Ta đã chứng đắc. Nguy hiểm của thức như thế nào, Ta đã khéo thấy với trí tuệ.

17) Này các Tỷ-kheo, Ta đã đi tìm cầu sự xuất ly của thức. Xuất ly của thức là gì, Ta đã chứng đắc. Xuất ly của thức như thế nào, Ta đã khéo thấy với trí tuệ.

 

18-19) “So long, bhikkhus, as I did not directly know as they really are the gratification, the danger, and the escape in the case of these five aggregates subject to clinging, I did not claim to have awakened to the unsurpassed perfect enlightenment in this world with its devas, Māra, and Brahmā, in this generation with its ascetics and brahmins, its devas and humans. But when I directly knew all this as it really is, then I claimed to have awakened to the unsurpassed perfect enlightenment in this world with … its devas and humans.

20) “The knowledge and vision arose in me: ‘Unshakable is my liberation of mind; this is my last birth; now there is no more renewed existence.’”

18-19) Này các Tỷ-kheo, cho đến khi nào đối với năm thủ uẩn này, Ta chưa như thật biết vị ngọt là vị ngọt, nguy hiểm là sự nguy hiểm, xuất ly là xuất ly, thời này các Tỷ-kheo, Ta không tuyên bố rằng… Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người.

20) Và tri kiến như sau khởi lên nơi Ta: “Tâm Ta giải thoát, bất động. Ðây là đời sống cuối cùng, nay không còn tái sanh nữa”.

 

28 (7) Gratification (3) – Vị Ngọt (3)

 

1-2) At Sāvatthī…

3-5) — “Bhikkhus, if there were no gratification in form, beings would not become enamoured with it; but because there is gratification in form, beings become enamoured with it. If there were no danger in form, beings would not experience revulsion towards it; but because there is danger in form, beings experience revulsion towards it. If there were no escape from form, beings would not escape from it; but because there is an escape from form, beings escape from it.

1-2) Nhân duyên tại Sàvatthi…

3) — Này các Tỷ-kheo, nếu không có vị ngọt của sắc, thời các loài hữu tình không có tham đắm đối với sắc. Và vì rằng, này các Tỷ-kheo, có vị ngọt của sắc cho nên các loài hữu tình có tham đắm đối với sắc.

4) — Này Tỷ-kheo, nếu không có sự nguy hiểm của sắc, thời các loài hữu tình không có yếm ly đối với sắc. Và vì rằng, này các Tỷ-kheo, có sự nguy hiểm của sắc cho nên các loài hữu tình có yếm ly đối với sắc.

5) Này các Tỷ-kheo, nếu không có sự xuất ly đối với sắc, thời các loài hữu tình không có xuất ly đối với sắc. Và vì rằng, này các Tỷ-kheo, có sự xuất ly của sắc cho nên các loài hữu tình có sự xuất ly đối với sắc.

 

6-17) “Bhikkhus, if there were no gratification in feeling … in perception … in volitional formations … in consciousness, beings would not become enamoured with it … but because there is an escape from consciousness, beings escape from it.

 6-8) Này các Tỷ-kheo, nếu không có vị ngọt của thọ…

9-11) Này các Tỷ-kheo, nếu không có vị ngọt của tưởng…

12-14) Này các Tỷ-kheo, nếu không có vị ngọt của các hành…

15) Này các Tỷ-kheo, nếu không có vị ngọt của thức, thời các loài hữu tình không có tham đắm đối với thức. Và vì rằng, này các Tỷ-kheo, có vị ngọt của thức cho nên các loài hữu tình có tham đắm đối với thức.

16) Này các Tỷ-kheo, nếu không có sự nguy hiểm của thức, thời các loài hữu tình không có xuất ly đối với thức. Và vì rằng, này các Tỷ-kheo, có sự nguy hiểm đối với thức cho nên các loài hữu tình có yếm ly đối với thức.

17) Này các Tỷ-kheo, nếu không có sự xuất ly đối với thức, thời các loài hữu tình không có xuất ly đối với thức. Và vì rằng, này các Tỷ-kheo, có sự xuất ly đối với thức cho nên các loài hữu tình có xuất ly đối với thức.

 

18-19) “So long, bhikkhus, as beings have not directly known as they really are the gratification as gratification, the danger as danger, and the escape as escape in the case of these five aggregates subject to clinging, they have not escaped from this world with its devas, Māra, [31] and Brahmā, from this generation with its ascetics and brahmins, its devas and humans; they have not become detached from it, released from it, nor do they dwell with a mind rid of barriers. But when beings have directly known all this as it really is, then they have escaped from this world with … its devas and humans; they have become detached from it, released from it, and they dwell with a mind rid of barriers.”

18) Này các Tỷ-kheo, khi nào các loài hữu tình đối với năm thủ uẩn này không như thật thắng tri vị ngọt là vị ngọt, nguy hiểm là nguy hiểm, xuất ly là xuất ly, thời các loài hữu tình ấy, này các Tỷ-kheo, với thế giới chư Thiên, Ma, Phạm thiên, với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người, không thể sống xuất ly, thoát sự liên hệ, giải thoát, với tâm tự tại.

19) Và này các Tỷ-kheo, khi nào các loài hữu tình đối với năm thủ uẩn này, như thật thắng tri vị ngọt là vị ngọt, nguy hiểm là nguy hiểm, xuất ly là xuất ly, thời các loài hữu tình ấy, này các Tỷ-kheo, với thế giới chư Thiên, Ma, Phạm thiên, với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người, có thể sống xuất ly, thoát sự liên hệ, giải thoát, với tâm tự tại.

 

29 (8) Delight – Hoan Hỷ

 

1-2) At Sāvatthī…

3-7) — “Bhikkhus, one who seeks delight in form seeks delight in suffering. One who seeks delight in suffering, I say, is not freed from suffering. One who seeks delight in feeling … in perception … in volitional formations … in consciousness seeks delight in suffering. One who seeks delight in suffering, I say, is not freed from suffering.

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi…

3) — Này các Tỷ-kheo, ai hoan hỷ sắc, người ấy hoan hỷ khổ. Ai hoan hỷ khổ, Ta nói, người ấy không giải thoát khỏi khổ.

4) Này các Tỷ-kheo, ai hoan hỷ thọ…

5) Này các Tỷ-kheo, ai hoan hỷ tưởng…

6) Này các Tỷ-kheo, ai hoan hỷ các hành…

7) Này các Tỷ-kheo, ai hoan hỷ thức, người ấy hoan hỷ khổ. Ai hoan hỷ khổ, Ta nói, người ấy không giải thoát khỏi khổ.

 

8-12) “One who does not seek delight in form … in consciousness does not seek delight in suffering. One who does not seek delight in suffering, I say, is freed from suffering.”

8) Và này các Tỷ-kheo, ai không hoan hỷ sắc, người ấy không hoan hỷ khổ. Ai không hoan hỷ khổ, Ta nói, người ấy giải thoát khỏi khổ.

9) Và này các Tỷ-kheo, ai không hoan hỷ thọ…

10) Và này các Tỷ-kheo, ai không hoan hỷ tưởng…

11) Và này các Tỷ-kheo, ai không hoan hỷ các hành…

12) Và này các Tỷ-kheo, ai không hoan hỷ thức, người ấy không hoan hỷ khổ. Ai không hoan hỷ khổ, Ta nói, người ấy giải thoát khỏi khổ.

 

30 (9) Arising – Sanh Khởi

1-2) At Sāvatthī…

3-7) — “Bhikkhus, the arising, continuation, production, and manifestation of form is the arising of suffering, the continuation of disease, the manifestation of aging-and-death. The arising of feeling … of perception … of volitional formations … of consciousness is the arising of suffering, the continuation of disease, the manifestation of aging-and-death.

8-12) “The cessation, subsiding, and passing away of form … of consciousness is the cessation of suffering, the subsiding of disease, the passing away of aging-anddeath.”

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi…

3) — Này các Tỷ-kheo, cái gọi là sắc sanh, trú, khởi, hiện hữu; cái ấy là khổ sanh, bệnh tật trú, già chết hiện hữu.

4-6) Này các Tỷ-kheo, cái gọi là thọ sanh, trú, khởi, hiện hữu… tưởng sanh, trú, khởi, hiện hữu… các hành sanh, trú, khởi, hiện, hữu…

7) Này các Tỷ-kheo, cái gọi là thức sanh, trú, khởi, hiện hữu; cái ấy gọi là khổ sanh, bệnh tật trú, già chết hiện hữu.

8) Này các Tỷ-kheo, cái gọi là sắc đoạn diệt, an chỉ, biến mất; cái ấy gọi là khổ đoạn diệt, bệnh tật an chỉ, già chết biến mất.

9-11) Này các Tỷ-kheo, cái gọi là thọ đoạn diệt… tưởng đoạn diệt… các hành đoạn diệt…

12) Này các Tỷ-kheo, cái gọi là thức đoạn diệt, an chỉ, biến mất; cái ấy là khổ đoạn diệt, bệnh tật an chỉ, già chết biến mất.

 

31 (10) The Root of Misery – Cội Gốc Của Ðau Khổ

 

1-2) At Sāvatthī…

3) — “Bhikkhus, I will teach you misery and the root of misery. Listen to that….

4) “And what, bhikkhus, is misery? Form is misery; feeling is misery; perception is misery; volitional formations are misery; consciousness is misery. This is called misery.

5) “And what, bhikkhus, is the root of misery? It is this craving that leads to renewed existence, accompanied by delight and lust, seeking delight here and there; that is, craving for sensual pleasures, craving for existence, craving for extermination. This is called the root of misery.”

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi…

3) — Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết về đau khổ và cội gốc của đau khổ. Hãy lắng nghe…

4) Này các Tỷ-kheo, thế nào là đau khổ? Sắc, này các Tỷ-kheo, là đau khổ; thọ là đau khổ; tưởng là đau khổ; các hành là đau khổ; thức là đau khổ. Ðây, này các Tỷ-kheo, gọi là đau khổ.

5) Này các Tỷ-kheo, thế nào là cội gốc của đau khổ? Chính là khát ái này hướng tới tái sanh, câu hữu với hỷ và tham, tìm cầu hỷ lạc chỗ này, chỗ kia; tức là dục ái, hữu ái, phi hữu ái.

 

32 (11) The Fragile – Hoại Pháp

 

1-2) At Sāvatthī…

3) — “Bhikkhus, I will teach you the fragile and the unfragile. Listen to that….

4) “And what, bhikkhus, is the fragile, and what the unfragile?

5-9) Form is the fragile; its cessation, subsiding, passing away is the unfragile. Feeling is the fragile … Perception is the fragile …

Volitional formations are the fragile … Consciousness is the fragile; its cessation, subsiding, passing away is the unfragile.”

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi…

3) — Và này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết về hoại pháp và bất hoại pháp. Hãy lắng nghe…

4) Và này các Tỷ-kheo, cái gì là hoại pháp? Cái gì là bất hoại pháp?

5) Sắc, này các Tỷ-kheo, là hoại pháp. Sự đoạn diệt của sắc ấy, sự an chỉ, biến mất là bất hoại pháp.

6) Thọ, này các Tỷ-kheo, là hoại pháp…

7) Tưởng, này các Tỷ-kheo, là hoại pháp…

8) Hành, này các Tỷ-kheo, là hoại pháp…

9) Thức, này các Tỷ-kheo, là hoại pháp. Sự đoạn diệt của thức ấy, sự an chỉ, biến mất là bất hoại pháp.

  

  1. NOT YOURS – Phẩm Không Phải Của Các Ông

 

33 (1) Not Yours (1) – Không Phải Của Các Ông (1)

 

1-2) At Sāvatthī…

3) — “Bhikkhus, whatever is not yours, abandon it. When you have abandoned it, that will lead to your welfare and happiness.

4) And what is it, bhikkhus, that is not yours?

5-9) Form is not yours: abandon it. When you have abandoned it, that will lead to your welfare and happiness. Feeling is not yours … Perception is not yours … Volitional formations are not yours … Consciousness is not yours: abandon it. When you have abandoned it, that will lead to your welfare and happiness.

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi…

3) — Này các Tỷ-kheo, cái gì không phải của các Ông, hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho các Ông.

4) Này các Tỷ-kheo, cái gì không phải của các Ông?

5) Sắc, này các Tỷ-kheo, không phải của các Ông, hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho các Ông.

6) Thọ, này các Tỷ-kheo, không phải của các Ông, hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho các Ông.

7) Tưởng, này các Tỷ-kheo…

8) Các hành, này các Tỷ-kheo…

9) Thức, này các Tỷ-kheo, không phải của các Ông, hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho các Ông.

 

10) “Suppose, bhikkhus, people were to carry off the grass, sticks, branches, and foliage in this Jeta’s Grove, or to burn them, or to do with them as they wish. Would you think: ‘People are carrying us off, or burning us, or doing with us as they wish’?”

— “No, venerable sir. For what reason? Because, venerable sir, that is neither our self nor what belongs to our self.”

11) “So too, bhikkhus, form is not yours … consciousness is not yours: abandon it. When you have abandoned it, that will lead to your welfare and happiness.”

10) Ví như, này các Tỷ-kheo, có người mang lại cỏ, củi, cành cây, lá của Jetavana này, và đốt chúng hay tùy theo duyên sử dụng chúng. Các Ông có nghĩ rằng: “Người ấy mang chúng tôi, hay đốt, hay tùy theo duyên sử dụng chúng tôi”?

— Thưa không, bạch Thế Tôn. Vì sao như vậy? Vì cái ấy không phải chúng con. Bạch Thế Tôn, cái ấy không phải thuộc tự ngã của chúng con.

11) — Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, sắc không phải của các Ông, hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho các Ông. Thọ không phải của các Ông… Tưởng không phải của các Ông. Các hành không phải của các Ông… Thức không phải của các Ông, hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho các Ông.

 

34 (2) Not Yours (2) – Không Phải Của Các Ông (2)

 

(This sutta is identical with the preceding one except that it omits the simile.)

1-2) Nhân duyên ở Sàavatthi…

3) — Cái gì không phải của các Ông, này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho các Ông.

4) Này các Tỷ-kheo, cái gì không phải của các Ông?

5) Sắc, này các Tỷ-kheo, không phải của các Ông, hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho các Ông.

6-8) Thọ, này các Tỷ-kheo, không phải của các Ông… Tưởng, này các Tỷ-kheo… Các hành, này các Tỷ-kheo…

9) Thức, này các Tỷ-kheo, không phải của Ông, hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho các Ông.

 

35 (3) A Certain Bhikkhu (1) – Tỷ Kheo (1)

 

1) At Sāvatthī.

2) Then a certain bhikkhu approached the Blessed One, paid homage to him, sat down to one side, and said to him:

3) — “Venerable sir, it would be good if the Blessed One would teach me the Dhamma in brief, so that, having heard the Dhamma from the Blessed One, I might dwell alone, withdrawn, diligent, ardent, and resolute.”

4) — “Bhikkhu, if one has an underlying tendency towards something, then one is reckoned in terms of it. If one does not have an underlying tendency towards

something, then one is not reckoned in terms of it.”

“Understood, Blessed One! Understood, Fortunate One!” 

5) — “In what way, bhikkhu, do you understand in detail the meaning of what was stated by me in brief?”

1) Nhân duyên ở Sàvatthi.

[I]

2) Rồi một vị Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

3) — Lành thay, bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết pháp vắn tắt cho con! Sau khi nghe Thế Tôn thuyết pháp, con sẽ sống một mình, tịnh cư, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.

4) — Này Tỷ-kheo, cái gì người ta thiên chấp tùy miên, người ta sẽ được xưng danh tùy theo thiên chấp tùy miên ấy. Cái gì người ta không thiên chấp tùy miên, người ta sẽ không được xưng danh tùy theo thiên chấp tùy miên ấy.

— Bạch Thế Tôn, con đã hiểu. Bạch Thiện Thệ, con đã hiểu.

5) — Như thế nào, này Tỷ-kheo, Ông hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi điều Ta nói một cách vắn tắt?

 

6) — “If, venerable sir, one has an underlying tendency towards form, then one is reckoned in terms of it. If one has an underlying tendency towards feeling, then one is reckoned in terms of it. If one has an underlying tendency towards perception, then one is reckoned in terms of it. If one has an underlying tendency towards volitional formations, then one is reckoned in terms of them. If one has an underlying tendency towards consciousness, then one is reckoned in terms of it.

7) “If, venerable sir, one does not have an underlying tendency towards form, then one is not reckoned in terms of it. If one does not have an underlying tendency towards feeling … towards perception … towards volitional formations … towards consciousness, then one is not reckoned in terms of it. “It is in such a way, venerable sir, that I understand in detail the meaning of what was stated by the Blessed One in brief.” 

8) — “Good, good, bhikkhu! It is good that you understand in detail the meaning of what was stated by me in brief. If, bhikkhu, one has an underlying tendency towards form … (as above in full) … then one is not reckoned in terms of it. It is in such a way that the meaning of what was stated by me in brief should be understood in detail.”

9) Then that bhikkhu, having delighted and rejoiced in the Blessed One’s statement, rose from his seat, and, after paying homage to the Blessed One, keeping him on his right, he departed.

6) — Bạch Thế Tôn, nếu thiên chấp sắc, do thiên chấp ấy được xưng danh. Nếu thiên chấp thọ, do thiên chấp ấy được xưng danh. Nếu thiên chấp tưởng, do thiên chấp ấy được xưng danh. Nếu thiên chấp các hành, do thiên chấp ấy được xưng danh. Nếu thiên chấp thức, do thiên chấp ấy được xưng danh.

7) Bạch Thế Tôn, nếu không thiên chấp sắc, không do thiên chấp ấy được xưng danh. Nếu không thiên chấp thọ… Nếu không thiên chấp tưởng… Nếu không thiên chấp hành… Nếu không thiên chấp thức, không do thiên chấp ấy được xưng danh. Bạch Thế Tôn, với lời nói vắn tắt này của Thế Tôn, con hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.

8) — Lành thay, lành thay, Tỷ-kheo! Lành thay, với lời nói vắn tắt này của Ta, Ông đã hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy. Nếu thiên chấp sắc, do thiên chấp ấy được xưng danh. Nếu thiên chấp thọ… Nếu thiên chấp tưởng… Nếu thiên chấp các hành… Nếu thiên chấp thức, do thiên chấp ấy được xưng danh. Này Tỷ-kheo, nếu không thiên chấp sắc, không do thiên chấp ấy được xưng danh… Nếu không thiên chấp thọ… Nếu không thiên chấp tưởng… Nếu không thiên chấp các hành… Nếu không thiên chấp thức, không do thiên chấp ấy được xưng danh. Với lời nói vắn tắt này của Ta, này Tỷ-kheo, Ông cần phải hiểu một cách rộng rãi như vậy.

9) Rồi Tỷ-kheo ấy, sau khi hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn thuyết, từ chỗ ngồi đứng dậy, thân phía hữu hướng về Ngài rồi ra đi.

[II]

10) Then, dwelling alone, withdrawn, diligent, ardent, and resolute, that bhikkhu, by realizing it for himself with direct knowledge, in this very life entered and dwelt in that unsurpassed goal of the holy life for the sake of which clansmen rightly go forth from the household life into homelessness. He directly knew: “Destroyed is birth, the holy life has been lived, what had to be done has been done, there is no more for this state of being.”

11) And that bhikkhu became one of the arahants.

10) Rồi Tỷ-kheo ấy sống một mình, tịnh cư, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, không bao lâu chứng được mục đích mà con nhà lương gia chân chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình hướng đến: Ðó là vô thượng cứu cánh Phạm hạnh. Vị ấy ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú. Vị ấy biết: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”.

11) Và vị Tỷ-kheo ấy trở thành một vị A-la-hán nữa.

 

36 (4) A Certain Bhikkhu (2) – Vị Tỷ Kheo (2)

 

1) At Sāvatthī…

2) — Then a certain bhikkhu approached the Blessed One, paid homage to him, sat down to one side, and said to him:

3) — “Venerable sir, it would be good if the Blessed One would teach me the Dhamma in brief, so that, having heard the Dhamma from the Blessed One, I might dwell alone, withdrawn, diligent, ardent, and resolute.”

4) — “Bhikkhu, if one has an underlying tendency towards something, then one is measured in accordance with it; if one is measured in accordance with something, then one is reckoned in terms of it. If one does not have an underlying tendency towards something, then one is not measured in accordance with it; if one is not measured in accordance with something, then one is not reckoned in terms of it.”

— “Understood, Blessed One! Understood, Fortunate One!” 

5) — “In what way, bhikkhu, do you understand in detail the meaning of what was stated by me in brief?”

6) — “If, venerable sir, one has an underlying tendency towards form, then one is measured in accordance with it; if one is measured in accordance with it, then one is reckoned in terms of it. If one has an underlying tendency towards feeling … towards perception … towards volitional formations … towards consciousness, then one is measured in accordance with it; if one is measured in accordance with it, then one is reckoned in terms of it.

7) “If, venerable sir, one does not have an underlying tendency towards form, then one is not measured in accordance with it; if one is not measured in accordance with it, then one is not reckoned in terms of it. If one does not have an underlying tendency towards feeling … towards perception … towards volitional formations … towards consciousness, then one is not measured in accordance with it; if one is not measured in accordance with it, then one is not reckoned in terms of it. “It is in such a way, venerable sir, that I understand in detail the meaning of what was stated by the Blessed One in brief.” 

8-10) — “Good, good, bhikkhu! It is good that you understand in detail the meaning of what was stated by me in brief. If, bhikkhu, one has an underlying tendency towards form … (as above in full) … then one is not reckoned in terms of it. It is in such a way that the meaning of what was stated by me in brief should be understood in detail.” Then that bhikkhu, having delighted and rejoiced in the Blessed One’s words, rose from his seat …

11) And that bhikkhu became one of the arahants.

1) Nhân duyên ở Sàvatthi…

2) Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn… ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

3) — Bạch Thế Tôn, lành thay, nếu Thế Tôn thuyết pháp một cách vắn tắt cho con. Sau khi nghe Thế Tôn thuyết pháp, con sẽ sống một mình, tịnh cư, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.

4) — Này Tỷ-kheo, cái gì người ta thiên chấp (anuseti), cái ấy người ta được đo lường (anopuyti). Cái gì người ta được đo lường, cái ấy người ta được xưng danh (sankham gacchati). Cái gì người ta không thiên chấp, cái ấy người ta không được đo lường. Cái gì người ta không được đo lường, cái ấy người ta không được xưng danh.

— Con đã hiểu, bạch Thế Tôn. Con đã hiểu, bạch Thiện Thệ.

5) — Lời nói vắn tắt này của Ta, này Tỷ-kheo, Ông đã hiểu một cách rộng rãi như thế nào?

6) — Nếu thiên chấp sắc, bạch Thế Tôn, với sắc, người ta được đo lường. Với cái gì người ta được đo lường, với cái ấy, người ta được xưng danh. Nếu thiên chấp thọ… Nếu thiên chấp tưởng… Nếu thiên chấp các hành… Nếu thiên chấp thức, với thức, người ta được đo lường. Với cái gì người ta được đo lường, với cái ấy, người ta được xưng danh.

7) Nếu không thiên chấp sắc, bạch Thế Tôn, với sắc, người ta không được đo lường. Với cái gì người ta không được đo lường, với cái ấy, người ta không được xưng danh. Nếu không thiên chấp thọ… Nếu không thiên chấp tưởng… Nếu không thiên chấp các hành… Nếu không thiên chấp thức, với thức, người ta không được đo lường. Với cái gì người ta không được đo lường, với cái ấy, người ta không được xưng danh. Với lời nói vắn tắt này của Thế Tôn, bạch Thế Tôn, con hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.

8) — Lành thay, lành thay, này Tỷ-kheo! Lành thay, này Tỷ-kheo! Lời nói vắn tắt này của Ta, Ông đã hiểu một cách rộng rãi như vậy. Nếu thiên chấp sắc, này Tỷ-kheo, với sắc, người ta được đo lường. Với cái gì được đo lường, với cái ấy, người ta được xưng danh. Nếu thiên chấp thọ… Nếu thiên chấp tưởng… Nếu thiên chấp các hành… Nếu thiên chấp thức, với thức, người ta được đo lường. Với cái gì người ta được đo lường, với cái ấy, người ta được xưng danh. Nếu không thiên chấp sắc, này Tỷ-kheo, với sắc, người ta không được đo lường. Với cái gì người ta không được đo lường, với cái ấy, người ta không được xưng danh. Nếu không thiên chấp thọ… Nếu không thiên chấp tưởng… Nếu không thiên chấp các hành… Nếu không thiên chấp thức, với thức, người ta không được đo lường. Với cái gì người ta không được đo lường, với cái ấy, người ta không được xưng danh. Với lời nói vắn tắt này của Ta, này Tỷ-kheo, Ông đã hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.

9) Rồi vị Tỷ-kheo ấy, sau khi hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi ra đi.

10) Rồi vị Tỷ-kheo ấy sống một mình, tịnh cư…

11) Vị Tỷ-kheo ấy trở thành một vị A-la-hán.

 

37 (5) Ānanda (1) – Ananda (1)

 

1-2) At Sāvatthī…

3) Then the Venerable Ānanda approached the Blessed One…. The Blessed One then said to the Venerable Ānanda as he was sitting to one side:

— “If, Ānanda, they were to ask you: ‘Friend Ānanda, what are the things of which an arising is discerned, a vanishing is discerned, an alteration of that which stands is discerned?’—being asked thus, how would you answer?”

4) — “Venerable sir, if they were to ask me this, I would answer thus:

5) ‘Friends, with form an arising is discerned, a vanishing is discerned, an alteration of that which stands is discerned. With feeling … perception … volitional formations … consciousness an arising is discerned, a vanishing is discerned, an alteration of that which stands is discerned. These, friends, are the things of which an arising is discerned, a vanishing is discerned, an alteration of that which stands is discerned.’ Being asked thus, venerable sir, I would answer in such a way.”

6) — “Good, good, Ānanda! With form, Ānanda, an arising is discerned, a vanishing is discerned, an alteration of that which stands is discerned. With feeling … perception … volitional formations … consciousness an arising is discerned, a vanishing is discerned, an alteration of that which stands is discerned. These, Ānanda, are the things of which an arising is discerned, a vanishing is discerned, an alteration of that which stands is discerned. Being asked thus, Ānanda, you should answer in such a way.”

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi…

3) Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda đang ngồi một bên:

— Này Ananda, nếu có người hỏi Ông: “Này Hiền giả Ananda, những pháp nào sự sanh khởi đã được thấy rõ, sự diệt mất được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi được thấy rõ?” Nếu được hỏi vậy, này Ananda, Ông trả lời như thế nào?

4) — Bạch Thế Tôn, nếu có người hỏi con: “Này Hiền giả Ananda, những pháp nào sự sanh khởi được thấy rõ, sự diệt mất được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi được thấy rõ?” Ðược hỏi vậy, bạch Thế Tôn, con sẽ trả lời như sau :

5) “Trong sắc, này Hiền giả, sự sanh khởi được thấy rõ, sự diệt mất được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi được thấy rõ. Trong thọ… Trong tưởng… Trong các hành… Trong thức, này Hiền giả, sự sanh khởi được thấy rõ, sự diệt mất được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi được thấy rõ”. Ðược hỏi vậy, bạch Thế Tôn, con sẽ trả lời như vậy.

6) — Lành thay, lành thay, này Ananda! Này Ananda, trong sắc sự sanh khởi được thấy rõ, sự diệt mất được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi được thấy rõ. Trong thọ… Trong tưởng… Trong các hành… Trong thức, sự sanh khởi được thấy rõ, sự diệt mất được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi được thấy rõ. Này Ananda, trong những pháp này, sự sanh khởi được thấy rõ, sự diệt mất được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi được thấy rõ. Ðược hỏi vậy, này Ananda, Ông phải trả lời như vậy.

 

38 (6) Ānanda (2) – Ananda (2)

 

1-2) At Sāvatthī…. The Blessed One then said to the Venerable Ānanda as he was sitting to one side:

3) “If, Ānanda, they were to ask you: ‘Friend Ānanda, what are the things of which an arising was discerned, a vanishing was discerned, an alteration of that which stands was discerned? What are the things of which an arising will be discerned, a vanishing will be discerned, an alteration of that which stands will be discerned? What are the things of which an arising is discerned, a vanishing is discerned, an alteration of that which stands is discerned?’—being asked thus, Ānanda, how would you answer?”

4) — “Venerable sir, if they were to ask me this, I would answer thus:

5) ‘Friends, with form that has passed, ceased, changed, an arising was discerned, a vanishing was discerned, an alteration of that which stands was discerned. With feeling … perception … volitional formations … consciousness that has passed, ceased, changed, an arising was discerned, a vanishing was discerned, an alteration of that which stands was discerned. It is of these things, friends, that an arising was discerned, that a vanishing was discerned, that an alteration of that which stands was discerned.

6) “‘Friends, with form that has not been born, not become manifest, an arising will be discerned, a vanishing will be discerned, an alteration of that which stands will be discerned. With feeling … perception … volitional formations … consciousness that has not been born, not become manifest, an arising will be discerned, a vanishing will be discerned, an alteration of that which stands will be discerned. It is of these things, friends, that an arising will be discerned, that a vanishing will be discerned, that an alteration of that which stands will be discerned.

7) “‘Friends, with form that has been born, that has become manifest, an arising is discerned, a vanishing is discerned, an alteration of that which stands is discerned. With feeling … perception … volitional formations … consciousness that has been born, that has become manifest, an arising is discerned, a vanishing is discerned, an alteration of that which stands is discerned. It is of these things, friends, that an arising is discerned, that a vanishing is discerned, that an alteration of that which stands is discerned.’

“Being asked thus, venerable sir, I would answer in such a way.”

8-10) — “Good, good, Ānanda!”

(The Buddha here repeats the entire answer of the

Venerable Ānanda, concluding:)

“Being asked thus, Ānanda, you should answer in such a way.”

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi…

3) — Này Ananda, nếu Ông được hỏi như sau: “Trong những pháp nào, này Hiền giả Ananda, sự sanh khởi đã được thấy rõ, sự diệt mất đã được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi đã được thấy rõ? Trong những pháp nào sự sanh khởi sẽ được thấy rõ, sự diệt mất sẽ được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi sẽ được thấy rõ? Trong những pháp nào, sự sanh khởi được thấy rõ, sự diệt mất được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi được thấy rõ?” Ðược hỏi như vậy, này Ananda, Ông trả lời như thế nào?

4) — Bạch Thế Tôn, nếu con được hỏi như sau: “Trong những pháp nào, này Hiền giả Ananda, sự sanh khởi đã được thấy rõ, sự diệt mất đã được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi đã được thấy rõ? Trong những pháp nào, sự sanh khởi sẽ được thấy rõ, sự diệt mất sẽ được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi sẽ được thấy rõ? Trong những pháp nào, sự sanh khởi được thấy rõ, sự diệt mất được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi được thấy rõ?” Ðược hỏi vậy, bạch Thế Tôn, con trả lời như sau:

5) “Ðối với sắc quá khứ, này Hiền giả, đã đoạn diệt, đã biến hoại, đối với sắc ấy, sự sanh khởi đã được thấy rõ, sự diệt mất đã được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi đã được thấy rõ. Ðối với thọ quá khứ, đã đoạn diệt, đã biến hoại, sự sanh khởi của thọ ấy được thấy rõ, sự diệt mất đã được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi đã được thấy rõ. Ðối với tưởng… Ðối với các hành… Ðối với thức quá khứ, đã đoạn diệt, đã biến hoại, sự sanh khởi của thức ấy đã được thấy rõ, sự diệt mất đã được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi đã được thấy rõ. Trong những pháp này, này Hiền giả, sự sanh khởi đã được thấy rõ, sự diệt mất đã được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi đã được thấy rõ.

6) Ðối với sắc chưa sanh, này Hiền giả, chưa hiện hữu, trong sắc ấy, sự sanh khởi sẽ được thấy rõ, sự diệt mất sẽ được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi sẽ được thấy rõ. Ðối với thọ chưa sanh, chưa hiện hữu, trong thọ ấy, sự sanh khởi sẽ được thấy rõ, sự diệt mất sẽ được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi sẽ được thấy rõ. Ðối với tưởng… Ðối với các hành… Ðối với thức chưa sanh, chưa hiện hữu, sự sanh khởi sẽ được thấy rõ, sự diệt mất sẽ được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi sẽ được thấy rõ. Trong những pháp này, này Hiền giả, sự sanh khởi sẽ được thấy rõ, sự diệt mất sẽ được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi sẽ được thấy rõ.

7) Ðối với sắc đã sanh, này Hiền giả, đã hiện hữu, trong sắc ấy, sự sanh khởi được thấy rõ, sự diệt mất được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi được thấy rõ. Ðối với thọ đã sanh, đã hiện hữu… Ðối với tưởng đã sanh, đã hiện hữu… Ðối với các hành đã sanh, đã hiện hữu… Ðối với thức đã sanh, đã hiện hữu, trong thức ấy, sự sanh khởi được thấy rõ, sự diệt mất được thấy rõ. Trong những pháp này, này Hiền giả, sự sanh khởi được thấy rõ, sự diệt mất được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi được thấy rõ”.

Nếu con được hỏi như vậy, bạch Thế Tôn, con sẽ trả lời như vậy.

8) — Lành thay, lành thay, này Ananda! Này Ananda, đối với sắc thuộc quá khứ đã đoạn diệt, đã biến hoại; đối với sắc ấy, sự sanh khởi đã được thấy rõ, sự diệt mất đã được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi đã được thấy rõ. Ðối với thọ… Ðối với tưởng… Ðối với các hành… Ðối với thức, thuộc quá khứ đã đoạn diệt, đã biến hoại, trong thức ấy, sự sanh khởi đã được thấy rõ, sự biến mất đã được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi đã được thấy rõ. Trong các pháp này, này Ananda, sự sanh khởi đã được thấy rõ, sự biến mất đã được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi đã được thấy rõ.

9) Ðối với sắc chưa sanh, này Ananda, chưa hiện hữu, trong sắc ấy, sự sanh khởi sẽ được thấy rõ, sự diệt mất sẽ được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi sẽ được thấy rõ. Ðối với thọ… Ðối với tưởng… Ðối với các hành… Ðối với thức chưa sanh khởi, chưa hiện hữu, trong thức ấy, sự sanh khởi sẽ được thấy rõ, sự diệt mất sẽ được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi sẽ được thấy rõ. Ðối với những pháp này, này Ananda, sự sanh khởi sẽ được thấy rõ, sự diệt mất sẽ được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi sẽ được thấy rõ.

10) Ðối với sắc đã sanh, này Ananda, đã hiện hữu, đối với sắc ấy, sự sanh khởi được thấy rõ, sự diệt mất được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi được thấy rõ. Ðối với thọ… Ðối với tưởng… Ðối với các hành… Ðối với thức đã sanh, đã hiện hữu, đối với thức ấy, sự sanh khởi được thấy rõ, sự diệt mất được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi được thấy rõ. Trong những pháp này, sự sanh khởi được thấy rõ, sự diệt mất được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi được thấy rõ. Ðược hỏi như vậy, này Ananda, Ông cần phải trả lời như vậy.

 

39 (7) In Accordance with the Dhamma (1) – Tùy Pháp (1)

 

1-2) At Sāvatthī…

3) — “Bhikkhus, when a bhikkhu is practising in accordance with the Dhamma, this is what accords with the Dhamma: he should dwell engrossed in revulsion towards form, feeling, perception, volitional formations, and consciousness. One who dwells engrossed in revulsion towards form … and consciousness, fully understands form, feeling, perception, volitional formations, and consciousness. 4) One who fully understands form … and consciousness is freed from form,  feeling, perception, volitional formations, and consciousness. He is freed from birth, aging, and death; freed from sorrow, lamentation, pain, displeasure, and despair; freed from suffering, I say.”

1-2) Nhân duyên ở Sàavatthi…

3) — Ðối với vị Tỷ-kheo thực hành pháp và tùy pháp, tùy pháp này có mặt: Ðối với sắc, vị ấy sống nhiều yếm ly; đối với thọ, vị ấy sống nhiều yếm ly; đối với tưởng, vị ấy sống nhiều yếm ly; đối với các hành, vị ấy sống nhiều yếm ly; đối với thức, vị ấy sống nhiều yếm ly.

4) Ai sống nhiều yếm ly đối với sắc… đối với thọ… đối với tưởng… đối với các hành… ai sống nhiều yếm ly đối với thức, vị ấy liễu tri sắc… liễu tri thọ… liễu tri tưởng… liễu tri các hành… liễu tri thức. Do liễu tri sắc… thọ… tưởng… các hành… do liễu tri thức, vị ấy được giải thoát khỏi sắc, giải thoát khỏi thọ, giải thoát khỏi tưởng, giải thoát khỏi các hành, giải thoát khỏi thức, giải thoát khỏi sanh, già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói vị ấy giải thoát khỏi đau khổ.

 

40 (8) In Accordance with theDhamma (2) – Tùy Pháp (2)

 

1-2) At Sāvatthī…

3-5) — “Bhikkhus, when a bhikkhu is practising in accordance with the Dhamma, this is what accords with the Dhamma: he should dwell contemplating impermanence in form … (as above) … he is freed from suffering, I say.”

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi…

3-5) — Ðối với vị Tỷ-kheo thực hành pháp và tùy pháp, tùy pháp này có mặt: Vị ấy sống tùy quán vô thường trong sắc… Ta nói vị ấy giải thoát khỏi đau khổ.

 

41 (9) In Accordance with theDhamma (3) – Tùy Pháp (3)

 

… “he should dwell contemplating suffering in form …

(as above) … he is freed from suffering, I say.”

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi…

3-5) — Ðối với vị Tỷ-kheo thực hành pháp và tùy pháp, tùy pháp này có mặt: Vị ấy sống tùy quán khổ trong sắc… Ta nói vị ấy giải thoát khỏi đau khổ.

 

42 (10) In Accordance with theDhamma (4) – Tùy Pháp (4)

 

1-4) … “he should dwell contemplating nonself in form … (as above) … he is freed from suffering, I say.”

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi…

3) — Ðối với vị Tỷ-kheo thực hành pháp và tùy pháp, tùy pháp này có mặt: Vị ấy sống tùy quán vô ngã trong sắc… trong thọ… trong tưởng… trong các hành. Vị ấy sống tùy quán vô ngã trong thức…

4) Ai sống tùy quán vô ngã trong sắc, trong thọ, trong tưởng, trong các hành, trong thức; vị ấy liễu tri sắc, liễu tri thọ, liễu tri tưởng, liễu tri các hành, liễu tri thức. Do vị ấy liễu tri sắc, liễu tri thọ, liễu tri tưởng, liễu tri các hành, liễu tri thức; vị ấy giải thoát khỏi sắc, giải thoát khỏi thọ, giải thoát khỏi tưởng, giải thoát khỏi các hành, giải thoát khỏi thức, giải thoát khỏi sanh, già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói vị ấy giải thoát khỏi đau khổ.

 

  1. WITH YOURSELVES AS AN ISLAND – Phẩm Tự Mình Làm Hòn Ðảo.

 

43 (1) With Yourselves as an Island – Tự Mình Làm Hòn Ðảo.

 

1-2) At Sāvatthī…

3) — “Bhikkhus, dwell with yourselves as an island, with yourselves as a refuge, with no other refuge; with the Dhamma as an island, with the Dhamma as a refuge, with no other refuge.

4) When you dwell with yourselves as an island, with yourselves as a refuge, with no other refuge; with the Dhamma as an island, with the Dhamma as a refuge, with no other refuge, the basis itself should be investigated thus: ‘From what are sorrow, lamentation, pain, displeasure, and despair born? How are they produced?’

5) “And, bhikkhus, from what are sorrow, lamentation, pain, displeasure, and despair born? How are they produced?

6) Here, bhikkhus, the uninstructed worldling, who is not a seer of the noble ones and is unskilled and undisciplined in their Dhamma, who is not a seer of superior persons and is unskilled and undisciplined in their Dhamma, regards form as self, or self as possessing form, or form as in self, or self as in form. That form of his changes and alters. With the change and alteration of form, there arise in him sorrow, lamentation, pain, displeasure, and despair.

7) “He regards feeling as self … perception as self … volitional formations as self … consciousness as self, or self as possessing consciousness, or consciousness as in self, or self as in consciousness. That consciousness of his changes and alters. With the change and alteration of consciousness, there arise in him sorrow, lamentation, pain, displeasure, and despair.

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi…

3) — Hãy sống tự mình làm hòn đảo cho chính mình, này các Tỷ-kheo, hãy nương tựa nơi chính mình, không nương tựa một ai khác. Hãy lấy pháp làm hòn đảo, hãy lấy pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một ai khác.

4) Với những ai sống tự mình làm hòn đảo cho chính mình, này các Tỷ-kheo, nương tựa nơi chính mình, không nương tựa một ai khác. Lấy pháp làm hòn đảo, lấy pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một ai khác, hãy như lý quán sát: “Sầu, bi, khổ, ưu, não do nguồn gốc gì sanh? Do cái gì làm cho hiện hữu?”

5) Và này các Tỷ-kheo, sầu, bi, khổ, ưu, não do nguồn gốc gì sanh? Do cái gì làm cho hiện hữu?

6) Ở đây, này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu không thấy rõ các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không thấy rõ các bậc Chân nhân, không thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân nhân; quán (samamupassati) sắc như là tự ngã, hay tự ngã như là có sắc, hay sắc ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong sắc. Sắc của vị ấy biến hoại và đổi khác. Khi sắc của vị ấy biến hoại và đổi khác thì sầu, bi, khổ, ưu, nào sẽ khởi lên.

7) Vị ấy quán thọ như là tự ngã, hay tự ngã như là có thọ…

8) Vị ấy quán tưởng như là tự ngã…

9) Vị ấy quán các hành như là tự ngã…

10) Vị ấy quán thức như là tự ngã, hay tự ngã như là có thức, hay thức ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong thức. Thức này của vị ấy biến hoại và đổi khác. Khi thức của vị ấy biến hoại và đổi khác thì sầu, bi, khổ, ưu, não sẽ khởi lên.

 

11) “But, bhikkhus, when one has understood the impermanence of form, its change, fading away, and cessation, and when one sees as it really is with correct wisdom thus: ‘In the past and also now all form is impermanent, suffering, and subject to change,’ then sorrow, lamentation, pain, displeasure, and despair are abandoned. With their abandonment, one does not become agitated. Being unagitated, one dwells happily. A bhikkhu who dwells happily is said to be quenched in that respect.

12) “When one has understood the impermanence of feeling … of perception … of volitional formations … of consciousness, its change, fading away, and cessation, and when one sees as it really is with correct wisdom thus: ‘In the past and also now all consciousness is impermanent, suffering, and subject to change,’ then sorrow, lamentation, pain, displeasure, and despair are abandoned. With their abandonment, one does not become agitated. Being unagitated, one dwells happily. A bhikkhu who dwells happily is said to be quenched in that respect.”

11) Này các Tỷ-kheo, biết sắc là vô thường, biến hoại, ly tham, đoạn diệt; vị ấy thấy tất cả sắc xưa và nay là vô thường, khổ, chịu sự biến hoại. Do thấy như thật với chánh trí tuệ như vậy, sầu, bi, khổ, ưu, não được đoạn tận. Do chúng được đoạn tận, vị ấy không bị ưu, não. Do không bị ưu, não, vị ấy sống an lạc. Do sống an lạc, vị Tỷ-kheo được gọi là (Tadanganibbuto) vị đã lắng dịu mọi tướng phần, nhứt hướng Niết-bàn.

12) Này các Tỷ-kheo, biết thọ là vô thường, biến hoại, ly tham, đoạn diệt, vị ấy thấy tất cả thọ xưa và nay là vô thường, khổ, chịu sự biến hoại. Do thấy như thật với chánh trí tuệ như vậy, các sầu, bi, khổ, ưu, não được đoạn tận. Do chúng được đoạn tận, vị ấy không bị ưu, não. Do không bị ưu, não, vị ấy sống an lạc. Do sống an lạc, vị Tỷ-kheo được gọi là vị đã lắng dịu mọi tướng phần, nhứt hướng Niết-bàn..

13) Này các Tỷ-kheo, biết tưởng là vô thường…

14) Này các Tỷ-kheo, biết các hành là vô thường…

15) Này các Tỷ-kheo, biết thức là vô thường, biến hoại, ly tham, đoạn diệt; vị ấy thấy tất cả thức xưa và nay là vô thường, khổ, chịu sự biến hoại. Do thấy như thật với chánh trí tuệ như vậy, các sầu, bi, khổ, ưu, não được đoạn tận. Do chúng được đoạn tận, vị ấy không bị ưu, não. Do không bị ưu, não, vị ấy sống an lạc. Do sống an lạc, vị Tỷ-kheo được gọi là vị đã lắng dịu mọi tướng phần, nhứt hướng Niết-bàn..

 

44 (2) The Way – Con Ðường

 

1-2) At Sāvatthī.

3-10) — “Bhikkhus, I will teach you the way leading to the origination of identity and the way leading to the cessation of identity. Listen to that….

4) “And what, bhikkhus, is the way leading to the origination of identity?

5) Here, bhikkhus, the uninstructed worldling … regards form as self … feeling as self … perception as self … volitional formations as self … consciousness as self … or self as in consciousness. This, bhikkhus, is called the way leading to the origination of identity. When it is said, ‘The way leading to the origination of identity,’ the meaning here is this: a way of regarding things that leads to the origination of suffering.

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi…

3) — Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Ông con đường đưa đến thân kiến tập khởi và con đường đưa đến thân kiến đoạn diệt. Hãy lắng nghe.

4) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là con đường đưa đến thân kiến tập khởi?

5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu không thấy rõ các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không thấy rõ các bậc Chân nhân, không thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân nhân; quán sắc như là tự ngã, hay tự ngã như là có sắc, hay sắc ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong sắc.

6-8) … quán thọ… quán tưởng… quán các hành…

9) … quán thức như là tự ngã, hay tự ngã như là có thức, hay thức ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong thức.

10) Này các Tỷ-kheo, đây gọi là con đường đưa đến thân kiến tập khởi. Con đường đưa đến thân kiến tập khởi có nghĩa là: Sự quán sát đưa đến khổ tập khởi.

 

11-17) “And what, bhikkhus, is the way leading to the cessation of identity? Here, bhikkhus, the instructed noble disciple … does not regard form as self … nor feeling as self … nor perception as self … nor volitional formations as self … nor consciousness as self … nor self as in consciousness. This, bhikkhus, is called the way leading to the cessation of identity. When it is said, ‘The way leading to the cessation of identity,’ the meaning here is this: a way of regarding things that leads to the cessation of suffering.”

11) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là con đường đưa đến thân kiến đoạn diệt?

12) Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử thấy rõ các bậc Thánh, thuần thục pháp các bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh, thấy rõ các bậc Chân nhân, thuần thục pháp các bậc Chân nhân, tu tập pháp các bậc Chân nhân; không quán sắc như là tự ngã, hay không quán tự ngã như là có sắc, hay không quán sắc ở trong tự ngã, hay không quán tự ngã ở trong sắc.

13-15) … không quán thọ… không quán tưởng… không quán các hành…

16) … không quán thức như là tự ngã, hay không quán tự ngã như là có thức, hay không quán thức ở trong tự ngã, hay không quán tự ngã ở trong thức.

17) Này các Tỷ-kheo, đây gọi là con đường đưa đến thân kiến đoạn diệt. Con đường đưa đến thân kiến đoạn diệt có nghĩa là: Sự quán sát đưa đến sự khổ đoạn diệt.

 

45 (3) Impermanent (1) – Vô Thường (1)

 

1-2) At Sāvatthī…

3) — “Bhikkhus, form is impermanent. What is impermanent is suffering. What is suffering is nonself. What is nonself should be seen as it really is with correct wisdom thus: ‘This is not mine, this I am not, this is not my self.’ When one sees this thus as it really is with correct wisdom, the mind becomes dispassionate and is liberated from the taints by nonclinging.

4-7) “Feeling is impermanent…. Perception is impermanent…. Volitional formations are impermanent…. Consciousness is impermanent. What is impermanent is suffering. What is suffering is nonself. What is nonself should be seen as it really is with correct wisdom thus: ‘This is not mine, this I am not, this is not my self.’ When one sees this thus as it really is with correct wisdom, the mind becomes dispassionate and is liberated from the taints by nonclinging.

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi…

3) — Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô thường. Cái gì vô thường là khổ. Cái gì khổ là vô ngã. Cái gì vô ngã, cần phải như thật quán với chánh trí tuệ là: “Cái này không phải của tôi; cái này không phải là tôi; cái này không phải tự ngã của tôi”. Do như thật quán với chánh trí tuệ như vậy, tâm ly tham, được giải thoát, không có chấp thủ các lậu hoặc.

4-6) Thọ, này các Tỷ-kheo, là vô thường… Tưởng, này các Tỷ-kheo… Các hành, này các Tỷ-kheo…

7) Thức, này các Tỷ-kheo, là vô thường. Cái gì vô thường là khổ. Cái gì khổ là vô ngã. Cái gì là vô ngã, cần phải như thật quán với chánh trí tuệ là: “Cái này không phải của tôi; cái này không phải là tôi; cái này không phải tự ngã của tôi”. Do như thật quán với chánh trí tuệ như vậy, tâm ly tham, được giải thoát, không có chấp thủ các lậu hoặc.

 

8) “If, bhikkhus, a bhikkhu’s mind has become dispassionate towards the form element, it is liberated from the taints by nonclinging. If his mind has become dispassionate towards the feeling element … towards the perception element … towards the volitional formations element … towards the consciousness element, it is liberated from the taints by nonclinging.

“By being liberated, it is steady; by being steady, it is content; by being content, he is not agitated. Being unagitated, he personally attains Nibbāna. He understands: ‘Destroyed is birth, the holy life has been lived, what had to be done has been done, there is no more for this state of being.’”

8) Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đối với sắc giới có tâm ly tham, giải thoát, không có chấp thủ các lậu hoặc, đối với thọ giới… đối với tưởng giới… đối với hành giới… đối với thức giới, có tâm ly tham, giải thoát, không có chấp thủ các lậu hoặc. Do giải thoát, vị ấy an trú. Do an trú, vị ấy tri túc. Do tri túc, vị ấy không ưu não. Do không ưu não, vị ấy tự mình tịch tịnh. Vị ấy biết: ” Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”.

 

46 (4) Impermanent (2) – Vô Thường (2)

 

1-2) At Sāvatthī…

3-7)  — “Bhikkhus, form is impermanent…. Feeling is impermanent…. Perception is impermanent…. Volitional formations are impermanent…. Consciousness is impermanent. What is impermanent is suffering. What is suffering is nonself. What is nonself should be seen as it really is with correct wisdom thus: ‘This is not mine, this I am not, this is not my self.’

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi…

3) — Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô thường. Cái gì vô thường là khổ. Cái gì khổ là vô ngã. Cái gì vô ngã, cần phải như thật quán với chánh trí tuệ là: “Cái này không phải của tôi; cái này không phải là tôi; cái này không phải tự ngã của tôi”.

4-6) Thọ, này các Tỷ-kheo, là vô thường… Tưởng, này các Tỷ-kheo, là vô thường… Các hành, này các Tỷ-kheo, là vô thường…

7) Thức, này các Tỷ-kheo, là vô thường. Cái gì vô thường là khổ. Cái gì khổ là vô ngã. Cái gì vô ngã, cần phải như thật quán với chánh trí tuệ là: “Cái này không phải của tôi; cái này không phải là tôi; cái này không phải tự ngã của tôi”.

 

8) “When one sees this thus as it really is with correct wisdom, one holds no more views concerning the past. When one holds no more views concerning the past, [46] one holds no more views concerning the future. When one holds no more views concerning the future, one has no more obstinate grasping.60 When one has no more obstinate grasping, the mind becomes dispassionate towards form, feeling, perception, volitional formations, and consciousness, and is liberated from the taints by nonclinging.

“By being liberated, it is steady; by being steady, it is content; by being content, one is not agitated. Being unagitated, one personally attains Nibbāna. One understands: ‘Destroyed is birth, the holy life has been lived, what had to be done has been done, there is no more for this state of being.’”

8) Do như thật quán với chánh trí tuệ như vậy, vị ấy không có các tùy kiến về quá khứ. Do không có các tùy kiến về quá khứ nên không có các tùy kiến về tương lai. Do không có các tùy kiến về tương lai, kiên trì chấp thủ không có. Do không có kiên trì chấp thủ, đối với sắc… đối với thọ… đối với tưởng… đối với các hành… đối với thức, tâm ly tham, giải thoát, không chấp thủ các lậu hoặc. Do giải thoát, vị ấy an trú. Do an trú, vị ấy tri túc. Do tri túc, vị ấy không ưu não. Do không ưu não, vị ấy tự mình được tịch tịnh một cách viên mãn. Vị ấy biết: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”.

 

47 (5) Ways of Regarding Things – Quán Kiến

 

1-2) At Sāvatthī.

3) –“Bhikkhus, those ascetics and brahmins who regard [anything as] self in various ways all regard [as self] the five aggregates subject to clinging, or a certain one among them.

4) What five? “Here, bhikkhus, the uninstructed worldling, who is not a seer of the noble ones and is unskilled and undisciplined in their Dhamma, who is not a seer of superior persons and is unskilled and undisciplined in their Dhamma, regards form as self, or self as possessing form, or form as in self, or self as in form. He regards feeling as self … perception as self … volitional formations as self … consciousness as self, or self as possessing consciousness, or consciousness as in self, or self as in consciousness.

5) “Thus, this way of regarding things and [the notion] ‘I am’ have not vanished in him. As ‘I am’ has not vanished, there takes place a descent of the five faculties —of the eye faculty, the ear faculty, the nose faculty, the tongue faculty, the body faculty.

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi…

3) — Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào quán tự ngã dưới nhiều hình thức sai khác, quán cả năm thủ uẩn hay quán một trong năm thủ uẩn.

4) Thế nào là năm? Này các Tỷ-kheo, ở đây kẻ vô văn phàm phu không được thấy rõ các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không được thấy rõ các bậc Chân nhân, không thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân nhân, quán sắc như là tự ngã, hay tự ngã như là có sắc, hay sắc ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong sắc, quán thọ… quán tưởng… quán các hành… quán thức như là tự ngã, hay tự ngã như là có thức, hay thức ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong thức. Nếu quán như vậy, thời đi đến chấp kiến: “Tôi là”.

5) Này các Tỷ-kheo, khi đi đến chấp kiến: “Tôi là”, thời năm căn nhập vào avakkanti (hiện hữu), tức là nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn.

 

6) There is, bhikkhus, the mind, there are mental phenomena, there is the element of ignorance. When the uninstructed worldling is contacted by a feeling born of ignorance-contact, ‘I am’ occurs to him; ‘I am this’ occurs to him; ‘I will be’ and ‘I will not be,’ and ‘I will consist of form’ and ‘I will be formless,’ and ‘I will be percipient’ and ‘I will be nonpercipient’ and ‘I will be neither percipient nor nonpercipient’—these occur to him.

7) “The five faculties remain right there, bhikkhus, but in regard to them the instructed noble disciple abandons ignorance and arouses true knowledge. With the fading away of ignorance and the arising of true knowledge, ‘I am’ does not occur to him; ‘I am this’ does not occur to him; ‘I will be’ and ‘I will not be,’ and ‘I will consist of form’ and ‘I will be formless,’ and ‘I will be percipient’ and ‘I will be nonpercipient’ and ‘I will be neither percipient nor nonpercipient’—these do not occur to him.”

6) Này các Tỷ-kheo, có ý, có các pháp, có vô minh giới. Cảm xúc bởi cảm thọ, cảm thọ này sanh do xúc chạm với vô minh; kẻ vô văn phàm phu đi đến chấp kiến: “Tôi là”, đi đến chấp kiến: “Cái này là tôi”, đi đến chấp kiến: ” Tôi sẽ là”, đi đến chấp kiến: “Tôi sẽ không là”, đi đến chấp kiến: “Tôi sẽ hiện hữu với sắc”, đi đến chấp kiến: “Tôi sẽ hiện hữu với vô sắc”, đi đến chấp kiến: “Tôi sẽ hiện hữu với tưởng”, đi đến chấp kiến: “Tôi sẽ hiện hữu với không tưởng”, đi đến chấp kiến: “Tôi sẽ hiện hữu với phi tưởng phi phi tưởng”.

7) Như vậy, này các Tỷ-kheo, do năm căn an trú ở đây, nhưng đối với vị Ða văn Thánh đệ tử, vô minh được đoạn trừ và minh khởi lên. Do vô minh được viễn ly, do minh sanh khởi, không đi đến chấp kiến: “Tôi là”, không đi đến chấp kiến: “Cái này là tôi”, không đi đến chấp kiến: “Tôi sẽ hiện hữu”… “Tôi sẽ không hiện hữu”… “Tôi sẽ hiện hữu với sắc”… “Tôi sẽ hiện hữu với vô sắc”… “Tôi sẽ hiện hữu với tưởng”… “Tôi sẽ hiện hữu với vô tưởng”, không đi đến chấp kiến: “Tôi sẽ hiện hữu với phi tưởng phi phi tưởng”.

 

48 (6) Aggregates – Các Uẩn

 

1-2) At Sāvatthī…

3) — “Bhikkhus, I will teach you the five aggregates and the five aggregates subject to clinging. Listen to that….

4) “And what, bhikkhus, are the five aggregates?

5) Whatever kind of form there is, whether past, future, or present, internal or external, gross or subtle, inferior or superior, far or near: this is called the form aggregate.

6-8) Whatever kind of feeling there is … this is called the feeling aggregate. Whatever kind of perception there is … this is called the perception aggregate. Whatever kind of volitional formations there are … these are called the volitional formations aggregate. Whatever kind of consciousness there is, whether past, future, or present, internal or external, gross or subtle, inferior or superior, far or near: this is called the consciousness aggregate.

10) These, bhikkhus, are called the five aggregates.

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi…

3) — Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng năm uẩn và năm thủ uẩn, hãy lắng nghe…

4) Này các Tỷ-kheo, thế nào là năm uẩn?

5) Này các Tỷ-kheo, phàm có sắc gì quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; đây gọi là sắc uẩn.

6-8) Này các Tỷ-kheo, phàm có thọ gì… phàm có tưởng gì… phàm có các hành gì…

9) Này các Tỷ-kheo, phàm có thức gì quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; đây gọi là thức uẩn.

10) Những cái này, này các Tỷ-kheo, được gọi là năm uẩn.

 

11) “And what, bhikkhus, are the five aggregates subject to clinging?

12) Whatever kind of form there is, whether past, future, or present … far or near, that is tainted, that can be clung to: this is called the form aggregate subject to clinging.

13-15) Whatever kind of feeling there is … that is tainted, that can be clung to: this is called the feeling aggregate subject to clinging. Whatever kind of perception there is … that is tainted, that can be clung to: this is called the perception aggregate subject to clinging. Whatever kind of volitional formations there are … that are tainted, that can be clung to: these are called the volitional formations aggregate subject to clinging.

16) Whatever kind of consciousness there is, whether past, future, or present, internal or external, gross or subtle, inferior or superior, far or near, that is tainted, that can be clung to: this is called the consciousness aggregate subject to clinging.

17) These, bhikkhus, are called the five aggregates subject to clinging.”

11) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là năm thủ uẩn?

12) Này các Tỷ-kheo, phàm có sắc gì quá khứ vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại… hoặc xa hay gần, có lậu hoặc, được chấp thủ; đây gọi là sắc thủ uẩn.

13-15) Này các Tỷ-kheo, phàm có thọ gì… phàm có tưởng gì… phàm có các hành gì…

16) Này các Tỷ-kheo, phàm có thức gì, quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, có lậu hoặc, được chấp thủ; đây gọi là thức thủ uẩn.

17) Này các Tỷ-kheo, đây được gọi là năm thủ uẩn.

 

49 (7) Soṇa (1) – Sona

 

1) Thus, have I heard.

On one occasion the Blessed One was dwelling at Rājagaha in the Bamboo Grove, the Squirrel Sanctuary.

2) Then Soṇa the householder’s son approached the Blessed One…. The Blessed One then said to Soṇa the householder’s son:

3-8) — “Soṇa, when any ascetics and brahmins, on the basis of form—which is impermanent, suffering, and subject to change—regard themselves thus: ‘I am superior,’ or ‘I am equal,’ or ‘I am inferior,’ what is that due to apart from not seeing things as they really are?

“When any ascetics and brahmins, on the basis of feeling … on the basis of perception … on the basis of volitional formations … on the basis of consciousness— which is impermanent, suffering, and subject to change— regard themselves thus: ‘I am superior,’ or ‘I am equal,’ or ‘I am inferior,’ what is that due to apart from not seeing things as they really are?

1) Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn ở Ràjagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm), tại chỗ nuôi dưỡng các con sóc.

2) Rồi Sona, con một gia chủ, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên.

3) Thế Tôn nói với Sona, con một gia chủ, đang ngồi một bên:

4) — Này Sona, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào quán sắc vô thường, khổ, biến hoại là: “Ta tốt đẹp hơn”, hay quán: “Ta bằng nhau”, hay quán: “Ta hạ liệt hơn”; những vị ấy đâu phải là những ai khác, nếu không phải là những người không thấy như thật!

5) … quán thọ vô thường, khổ, biến hoại…

6) … quán tưởng vô thường, khổ, biến hoại…

7) … quán các hành vô thường, khổ, biến hoại…

8) … quán thức vô thường, khổ, biến hoại là : “Ta tốt đẹp hơn”, hay quán: “Ta bằng nhau”, hay quán: “Ta hạ liệt hơn”; những vị ấy đâu phải là những ai khác, nếu không phải là những người không thấy như thật!

 

9-13) “Soṇa, when any ascetics and brahmins do not, on the basis of form—which is impermanent, suffering, and subject to change—regard themselves thus: ‘I am superior,’ or ‘I am equal,’ or ‘I am inferior,’ what is that due to apart from seeing things as they really are?

“When any ascetics and brahmins do not, on the basis of feeling … on the basis of perception … on the basis of volitional formations … on the basis of consciousness —which is impermanent, suffering, and subject to change —regard themselves thus: ‘I am superior,’ or ‘I am equal,’ or ‘I am inferior,’ what is that due to apart from seeing things as they really are?

9) Này Sona, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào không quán sắc vô thường, khổ, biến hoại là: “Ta tốt đẹp hơn”, hay không quán: “Ta bằng nhau”, hay không quán: “Ta hạ liệt hơn”; những vị ấy đâu phải là những ai khác, nếu không phải là những vị thấy như thật!

10-12) Này Sona, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào không quán thọ… không quán tưởng… không quán các hành…

13) Này Sona, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào không quán thức vô thường, khổ, biến hoại là: “Ta tốt đẹp hơn”, hay không quán: “Ta bằng nhau”, hay không quán: “Ta hạ liệt hơn”; những vị ấy đâu phải là những ai khác, nếu không phải là những vị thấy như thật!

 

14)“What do you think, Soṇa, is form permanent or impermanent?”

— “Impermanent, venerable sir.”

— “Is what is impermanent suffering or happiness?”

— Suffering, venerable sir.”

— “Is what is impermanent, suffering, and subject to change fit to be regarded thus: ‘This is mine, this I am, this is my self’?”

— “No, venerable sir.”

15-18) — “Is feeling permanent or impermanent?… Is perception permanent or impermanent?… Are volitional formations permanent or impermanent?… Is consciousness permanent or impermanent?” –

“Impermanent, venerable sir.” – “Is what is impermanent suffering or happiness?” – “Suffering, venerable sir.” – “Is what is impermanent, suffering, and subject to change fit to be regarded thus: ‘This is mine, this I am, this is my self’?”

— “No, venerable sir.”

14) Ông nghĩ thế nào, này Sona, sắc là thường hay vô thường?

— Vô thường, bạch Thế Tôn.

— Cái gì vô thường là khổ hay lạc?

— Là khổ, bạch Thế Tôn.

— Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng nếu quán cái ấy là: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi”?

— Thưa không, bạch Thế Tôn.

15) — Thọ là thường hay vô thường?…

16) Tưởng là thường hay vô thường?…

17) Các hành là thường hay vô thường?…

18) Thức là thường hay vô thường?

— Vô thường, bạch Thế Tôn.

— Cái gì vô thường là khổ hay lạc?

— Là khổ, bạch Thế Tôn.

— Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý hay chăng nếu quán cái ấy là: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi”?

— Thưa không, bạch Thế Tôn.

 

19) — “Therefore, Soṇa, any kind of form whatsoever, whether past, future, or present, internal or external, gross or subtle, inferior or superior, far or near, all form should be seen as it really is with correct wisdom thus: ‘This is not mine, this I am not, this is not my self.’

20-23) “Any kind of feeling whatsoever … Any kind of perception whatsoever … Any kind of volitional formations whatsoever … Any kind of consciousness whatsoever, whether past, future, or present, internal or external, gross or subtle, inferior or superior, far or near, all consciousness should be seen as it really is with correct wisdom thus: ‘This is not mine, this I am not, this is not my self.’

24) “Seeing thus, Soṇa, the instructed noble disciple experiences revulsion towards form, revulsion towards feeling, revulsion towards perception, revulsion towards volitional formations, revulsion towards consciousness. Experiencing revulsion, he becomes dispassionate. Through dispassion [his mind] is liberated. When it is liberated there comes the knowledge: ‘It’s liberated.’ He understands: ‘Destroyed is birth, the holy life has been lived, what had to be done has been done, there is no more for this state of being.’”

19) — Do vậy, này Sona, phàm sắc gì quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả sắc cần phải như thật quán với chánh trí tuệ: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”.

20-22) Phàm thọ gì… phàm tưởng gì… phàm các hành gì…

23) Phàm thức gì quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả thức cần phải như thật quán với chánh trí tuệ: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”.

24) Nếu thấy vậy, này Sona, vị Ða văn Thánh đệ tử yếm ly đối với sắc, yếm ly đối với thọ, yếm ly đối với tưởng, yếm ly đối với các hành, yếm ly đối với thức. Do yếm ly, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát, khởi lên chánh trí: “Ta đã giải thoát”. Vị ấy biết rõ: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”.

 

50 (8) Soṇa (2) – Sona (2)

 

1) Thus, have I heard.

On one occasion the Blessed One was dwelling at Rājagaha in the Bamboo Grove, the Squirrel Sanctuary.

2-3) Then Soṇa the householder’s son approached the Blessed One…. The Blessed One then said to Soṇa the householder’s son:

4) — “Soṇa, those ascetics or brahmins who do not understand form, its origin, its cessation, and the way leading to its cessation; who do not understand feeling … perception … volitional formations … consciousness, its origin, its cessation, and the way leading to its cessation: these I do not consider to be ascetics among ascetics or brahmins among brahmins, and these venerable ones do not, by realizing it for themselves with direct knowledge, in this very life enter and dwell in the goal of asceticism or the goal of brahminhood.

5) “But, Soṇa, those ascetics and brahmins who understand form, its origin, its cessation, and the way leading to its cessation; who understand feeling … perception … volitional formations … consciousness, its origin, its cessation, and the way leading to its cessation: these I consider to be ascetics among ascetics and brahmins among brahmins, and these venerable ones, by realizing it for themselves with direct knowledge, in this very life enter and dwell in the goal of asceticism and the goal of brahminhood.”

1) Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagala (Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm), tại chỗ nuôi dưỡng các con sóc.

2) Rồi Sona, con vị gia chủ, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Ngài rồi ngồi xuống một bên.

3) Thế Tôn nói với Sona, con vị gia chủ, đang ngồi một bên:

4) — Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào, này Sona, không biết rõ sắc, không biết rõ (nappajananti) sắc tập khởi, không biết rõ sắc đoạn diệt, không biết rõ con đường đưa đến sắc đoạn diệt; không biết rõ thọ… không biết rõ tưởng… không biết rõ các hành… không biết rõ thức, không biết rõ thức tập khởi, không biết rõ thức đoạn diệt, không biết rõ con đường đưa đến thức đoạn diệt; những Sa-môn hay Bà-la-môn ấy, này Sona, không những không được chấp nhận là Sa-môn giữa các hàng Sa-môn, không được chấp nhận là Bà-la-môn giữa các hàng Bà-la-môn; những vị ấy trong đời sống hiện tại, cũng không tự mình chứng tri với thắng trí, chứng đạt và an trú mục đích của Sa-môn hạnh hay mục đích của Bà-la-môn hạnh.

5) Còn những Sa-môn hay Bà-la-môn nào, này Sona, biết rõ sắc, biết rõ sắc tập khởi, biết rõ sắc đoạn diệt, biết rõ con đường đưa đến sắc đoạn diệt; biết rõ thọ… biết rõ tưởng… biết rõ các hành… biết rõ thức, biết rõ thức tập khởi, biết rõ thức đoạn diệt, biết rõ con đường đưa đến thức đoạn diệt; những Sa-môn hay Bà-la-môn ấy, này Sona, không những được chấp nhận là Sa-môn giữa các hàng Sa-môn, được chấp nhận là Bà-la-môn giữa các hàng Bà-la-môn; những vị Tôn giả ấy, ngay trong đời sống hiện tại, còn tự mình chứng tri với thắng trí, chứng đạt và an trú mục đích của Sa-môn hạnh hay mục đích của Bà-la-môn hạnh.

 

51 (9) Destruction of Delight (1) – Hỷ Ðược Ðoạn Tận (1)

 

1-2) At Sāvatthī…

3) — “Bhikkhus, a bhikkhu sees as impermanent form which is actually impermanent: that is his right view. Seeing rightly, he experiences revulsion. With the destruction of delight comes the destruction of lust; with the destruction of lust comes the destruction of delight. With the destruction of delight and lust the mind is liberated and is said to be well liberated.

4-7) “A bhikkhu sees as impermanent feeling which is actually impermanent … perception which is actually impermanent … volitional formations which are actually impermanent … consciousness which is actually impermanent: that is his right view…. With the destruction of delight and lust the mind is liberated and is said to be well liberated.”

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi…

3) — Này các Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo thấy sắc vô thường là vô thường; đấy là chánh tri kiến của vị ấy. Thấy chơn chánh như vậy, vị ấy yếm ly. Do hỷ đoạn tận, tham được đoạn tận. Do tham đoạn tận, hỷ được đoạn tận. Do hỷ, tham đoạn tận, tâm được giải thoát, vị ấy được gọi là vị đã khéo giải thoát.

4-6) Này các Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo thấy thọ vô thường là vô thường… tưởng vô thường… các hành vô thường…

7) Này các Tỷ-kheo, khi vị Tỷ-kheo thấy thức vô thường là vô thường; đấy là chánh tri kiến của vị ấy. Thấy chơn chánh như vậy, vị ấy yếm ly. Do hỷ đoạn tận, tham được đoạn tận. Do tham đoạn tận, nên hỷ được đoạn tận. Do hỷ, tham đoạn tận, tâm được giải thoát, vị ấy được gọi là vị đã được khéo giải thoát.

 

52 (10) Destruction of Delight (2) – Hỷ Ðược Ðoạn Tận (2)

 

1-2) At Sāvatthī…

3) — “Bhikkhus, attend carefully to form. Recognize the impermanence of form as it really is. When a bhikkhu attends carefully to form and recognizes the impermanence of form as it really is, he experiences revulsion towards form. With the destruction of delight comes the destruction of lust; with the destruction of lust comes the destruction of delight. With the destruction of delight and lust the mind is liberated and is said to be well liberated.

4-5) “Bhikkhus, attend carefully to feeling … to perception … to volitional formations … to consciousness…. With the destruction of delight and lust the mind is liberated and is said to be well liberated.”

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi…

3) — Hãy như lý tác ý sắc, này các Tỷ-kheo, hãy như thật quán (samanupassati) sắc là vô thường. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào như lý tác ý sắc, như thật quán sắc là vô thường, vị ấy yếm ly đối với sắc. Do hỷ đoạn tận, tham được đoạn tận. Do tham đoạn tận, hỷ được đoạn tận. Do hỷ, tham đoạn tận, tâm được giải thoát, vị ấy được gọi là vị đã được khéo giải thoát.

4) Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào như lý tác ý thọ… tác ý tưởng… tác ý các hành…

5) Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào như lý tác ý thức, như thật quán thức là vô thường, vị ấy yếm ly đối với thức. Do hỷ đoạn tận, tham được đoạn tận. Do tham đoạn tận, hỷ được đoạn tận. Do hỷ, tham đoạn tận, tâm được giải thoát, vị ấy được gọi là đã được khéo giải thoát.

Sources:

Tài liệu tham khảo:

  1. http://www.budsas.org/uni/u-kinh-tuongungbo/tu3-22b.htm
  2. http://lirs.ru/lib/sutra/Connected_Discourses_of_the_Buddha(Samyutta_Nikaya).Vol.I.pdf