Tập III – Chương I – Tương Ưng Uẩn – Connected Discourses on the Aggregates – Song ngữ

Anh ngữ: Bhikkhu Bodhi.

Việt ngữ: Hòa thượng Thích Minh Châu.

Compile: Lotus group

B. Division II THE MIDDLE FIFTY – Năm Mươi Kinh Ở Giữa.

I. ENGAGEMENT – Phẩm Tham Luyến (10 lessons)

II. ARAHANTS – Phẩm A-La-Hán (10 lessons)

 

I. ENGAGEMENT – Phẩm Tham Luyến

53 (1) Engagement

 

1-2) At Sāvatthī…

3) — “Bhikkhus, one who is engaged is unliberated; one who is disengaged is liberated. Consciousness, bhikkhus, while standing, might stand engaged with form; based upon form, established upon form, with a sprinkling of delight, it might come to growth, increase, and expansion.

4) Or consciousness, while standing, might stand [engaged with feeling … engaged with perception …] engaged with volitional formations; based upon volitional formations, established upon volitional formations, with a sprinkling of delight, it might come to growth, increase, and expansion.

5) “Bhikkhus, though someone might say: ‘Apart from form, apart from feeling, apart from perception, apart from volitional formations, I will make known the coming and going of consciousness, its passing away and rebirth, its growth, increase, and expansion’—that is impossible.

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi…

3) — Này các Tỷ-kheo, tham luyến là không giải thoát. Do tham luyến sắc, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với sắc là sở duyên, với sắc là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh.

4) Hay do tham luyến thọ … tham luyến tưởng … tham luyến hành, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với hành là sở duyên, với hành là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh.

5) Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: “Ngoài sắc, ngoài thọ, ngoài tưởng, ngoài các hành, tôi sẽ chỉ rõ sự đến hay đi, sự diệt hay sanh, sự tăng trưởng, sự tăng thịnh hay sự lớn mạnh của thức”, sự việc như vậy không xảy ra.

 

6-10) “Bhikkhus, if a bhikkhu has abandoned lust for the form element, with the abandoning of lust the basis is cut off: there is no support for the establishing of consciousness.71 If he has abandoned lust for the feeling element … for the perception element … for the volitional formations element … for the consciousness element, with the abandoning of lust the basis is cut off: there is no support for the establishing of consciousness.

11) “When that consciousness is unestablished, not coming to growth, nongenerative, it is liberated. By being liberated, it is steady; by being steady, it is content; by being content, he is not agitated. Being unagitated, he personally attains Nibbāna. He understands: ‘Destroyed is birth, the holy life has been lived, what had to be done has been done, there is no more for this state of being.’”

6-10) Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với sắc giới; do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu. Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thọ giới… đối với tưởng giới… đối với hành giới… Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thức giới, do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu.

11) Không có chỗ y chỉ ấy, thức không tăng thịnh, không có hành động, được giải thoát. Do giải thoát nên được kiên trú; do kiên trú nên được tri túc; do tri túc nên không có ưu não; do không có ưu não nên tự mình cảm thấy tịch tịnh hoàn toàn. Vị ấy biết: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”.

 

54 (2) Seeds – Chủng Tử

 

1-2) At Sāvatthī…

3) — “Bhikkhus, there are these five kinds of seeds. What five? Root-seeds, stem-seeds, joint-seeds, cutting-seeds, and germ-seeds as the fifth.

4) If these five kinds of seeds are unbroken, unspoilt (virgin), undamaged by wind and sun, fertile, securely planted, but there is no earth or water, would these five kinds of seeds come to growth, increase, and expansion?”

— “No, venerable sir.”

“If these five kinds of seeds are broken, spoilt, damaged by wind and sun, unfertile, not securely planted, but there is earth and water, would these five kinds of seeds come to growth, increase, and expansion?”

— “No, venerable sir.”

5) “If these five kinds of seeds are unbroken, unspoilt, undamaged by wind and sun, fertile, securely planted, and there is earth and water, would these five kinds of seeds come to growth, increase, and expansion?”

— “Yes, venerable sir.”

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi…

3) — Này các Tỷ-kheo, có năm loại chủng tử. Thế nào là năm? Chủng tử từ rễ, chủng tử từ thân, chủng tử từ đọt, chủng tử từ quả, và chủng tử từ chủng tử là thứ năm.

4) Và này các Tỷ-kheo, nếu năm loại chủng tử này không bị hư hoại, không bị hư thối, không bị gió và nhiệt phá hoại, có lõi cứng, khéo gieo, nhưng không có đất, và không có nước, thời này các Tỷ-kheo, năm loại chủng tử này có thể tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh được không?

— Thưa không, bạch Thế Tôn.

5) — Và này các Tỷ-kheo, nếu năm loại chủng tử này không bị hư hoại, không bị hư thối, không bị gió và nhiệt phá hoại, có lõi cứng, khéo gieo, có đất và có nước, thời này các Tỷ-kheo, năm loại chủng tử này có thể tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh được không?

— Thưa được, bạch Thế Tôn.

 

6) — “Bhikkhus, the four stations of consciousness should be seen as like the earth element. Delight and lust should be seen as like the water element. Consciousness together with its nutriment should be seen as like the five kinds of seeds.

7) “Consciousness, bhikkhus, while standing, might stand engaged with form;  based upon form, established upon form, with a sprinkling of delight, it might come to growth, increase, and expansion.

8-10) Or consciousness, while standing, might stand engaged with feeling … engaged with perception … engaged with volitional formations; based upon volitional formations, established upon volitional formations, with a sprinkling of delight, it might come to growth, increase, and expansion.

11) “Bhikkhus, though someone might say: ‘Apart from form, apart from feeling, apart from perception, apart from volitional formations, I will make known the coming and going of consciousness, its passing away and rebirth, its growth, increase, and expansion’—that is impossible.

6) — Này các Tỷ-kheo, ví như đất, bốn thức trú cần phải được xem như vậy. Ví như nước, này các Tỷ-kheo, hỷ tham cần phải được xem như vậy. Ví như năm loại chủng tử, này các Tỷ-kheo, thức cùng các món ăn cần phải được xem như vậy.

7) Do tham luyến sắc, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với sắc là sở duyên, với sắc là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh.

8-10) Do tham luyến thọ… Do tham luyến tưởng… Do tham luyến các hành, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được tồn tại. Với hành là sở duyên, với hành là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh.

11) Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: “Ngoài sắc, ngoài thọ, ngoài tưởng, ngoài các hành, tôi sẽ chỉ rõ sự đến hay đi, sự diệt hay sanh, sự tăng trưởng, tăng thịnh hay sự lớn mạnh của thức”, sự việc như vậy không xảy ra.

 

12-16) “Bhikkhus, if a bhikkhu has abandoned lust for the form element, with the abandoning of lust the basis is cut off: there is no support for the establishing of consciousness. If he has abandoned lust for the feeling element … for the perception element … for the volitional formations element … for the consciousness element, with the abandoning of lust the basis is cut off: there is no support for the establishing of consciousness.

17) “When that consciousness is unestablished, not coming to growth, nongenerative, it is liberated. By being liberated, it is steady; by being steady, it is content; by being content, he is not agitated. Being unagitated, he personally attains Nibbāna. He understands: ‘Destroyed is birth, the holy life has been lived, what had to be done has been done, there is no more for this state of being.’”

12) Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với sắc giới; do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu.

13-16) Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thọ giới… đối với tưởng giới… đối với hành giới… đối với thức giới; do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu.

17) Không có chỗ y chỉ như vậy, thức không tăng thịnh, không có hành động, được giải thoát; do giải thoát nên được kiên trú; do kiên trú nên được tri túc; do tri túc nên không có ưu não; do không có ưu não nên tự mình cảm thấy tịch tịnh hoàn toàn. Vị ấy biết: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”.

 

55 (3) Inspired Utterance – Lời Cảm Hứng

 

1) At Sāvatthī…

2) There the Blessed One uttered this inspired utterance:

 

“‘It might not be, and it might not be for me;

 It will not be, [and] it will not be for me’:

Resolving thus,

A bhikkhu can cut off the lower fetters.”

 

3) When this was said, a certain bhikkhu said to the Blessed One:

— “But how, venerable sir,

 

Can a bhikkhu, resolving thus:

‘It might not be, and it might not be for me;

It will not be, [and] it will not be for me,’

Cut off the lower fetters?”

 

4) — “Here, bhikkhu, the uninstructed worldling, who is not a seer of the noble ones … regards form as self … or self as in consciousness.

5) “He does not understand as it really is impermanent form as ‘impermanent form’ … impermanent feeling as ‘impermanent feeling’ … impermanent perception as ‘impermanent perception’ … impermanent volitional formations as ‘impermanent volitional formations’ … impermanent consciousness as ‘impermanent consciousness.’

1) Nhân duyên ở Sàvatthi…

2) Ở đấy, Thế Tôn nói lên lời cảm hứng như sau:

Nếu trước, Ta không có,
Thời nay không có Ta,
Không tạo nhân sẽ có,
Tương lai sẽ không Ta.
Tỷ-kheo quyết tâm vậy,
Hạ phần kiết sử đoạn.

3) Ðược nghe nói vậy, một Tỷ-kheo bạch Thế Tôn:

— Như thế nào bạch Thế Tôn:

Nếu trước, Ta không có,
Thời nay không có Ta,
Không tạo nhân sẽ có,
Tương lai sẽ không Ta.
Tỷ-kheo quyết tâm vậy,
Hạ phần kiết sử đoạn?

4) — Ở đây, này Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu không thấy rõ các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh; không thấy rõ các bậc Chân nhân, không thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân nhân, quán sắc như là tự ngã, hay tự ngã như là có sắc, hay sắc ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong sắc, quán thọ… quán tưởng… quán các hành… quán thức như là tự ngã, hay tự ngã như là có thức, hay thức ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong thức.

5) Vị ấy không như thật biết rõ (pajànàti) sắc vô thường là sắc vô thường, không như thật biết rõ thọ vô thường là thọ vô thường, không như thật biết rõ tưởng vô thường là tưởng vô thường, không như thật biết rõ hành vô thường là hành vô thường, không như thật biết rõ thức vô thường là thức vô thường.

 

6) “He does not understand as it really is painful form as ‘painful form’ … painful feeling as ‘painful feeling’ … painful perception as ‘painful perception’ … painful volitional formations as ‘painful volitional formations’ … painful consciousness as ‘painful consciousness.’

7) “He does not understand as it really is selfless form as ‘selfless form’ … selfless feeling as ‘selfless feeling’ … selfless perception as ‘selfless perception’ … selfless volitional formations as ‘selfless volitional formations’ … selfless consciousness as ‘selfless consciousness.’

8) “He does not understand as it really is conditioned form as ‘conditioned form’ … conditioned feeling as ‘conditioned feeling’ … conditioned perception as ‘conditioned perception’ … conditioned volitional formations as ‘conditioned volitional formations’ … conditioned consciousness as ‘conditioned consciousness.’

6) Không như thật biết rõ sắc khổ là sắc khổ, không như thật biết rõ thọ khổ… tưởng khổ… hành khổ… không như thật biết rõ thức khổ là thức khổ.

7) Không như thật biết rõ sắc vô ngã là sắc vô ngã, không như thật biết rõ thọ vô ngã… tưởng vô ngã… hành vô ngã… không như thật biết rõ thức vô ngã là thức vô ngã.

8) Không như thật biết rõ sắc hữu vi là sắc hữu vi, không như thật biết rõ thọ hữu vi… tưởng hữu vi… hành hữu vi… không như thật biết rõ thức hữu vi là thức hữu vi.

 

9) “He does not understand as it really is: ‘Form will be exterminated’ … ‘Feeling will be exterminated’ … ‘Perception will be exterminated’ … ‘Volitional formations will be exterminated’ … ‘Consciousness will be exterminated.’

10) “The instructed noble disciple, bhikkhu, who is a seer of the noble ones … does not regard form as self … or self as in consciousness.

11) “He understands as it really is impermanent form as ‘impermanent form’ … impermanent consciousness as ‘impermanent consciousness.’

12) “He understands as it really is painful form as ‘painful form’ … painful consciousness as ‘painful consciousness.’

13) “He understands as it really is selfless form as ‘selfless form’ … selfless consciousness as ‘selfless consciousness.’

14) “He understands as it really is conditioned form as ‘conditioned form’ … conditioned consciousness as ‘conditioned consciousness.’

9) Không như thật biết rõ sắc sẽ biến diệt… thọ sẽ biến diệt… tưởng sẽ biết diệt… các hành sẽ biến diệt… không như thật biết rõ thức sẽ biến diệt.

10) Còn bậc Ða văn Thánh đệ tử, này các Tỷ-kheo thấy rõ các bậc Thánh, thuần thục pháp các bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh, thấy rõ các bậc Chân nhân, thuần thục pháp các bậc Chân nhân, tu tập pháp các bậc Chân nhân, không quán sắc như là tự ngã, hay tự ngã như là có sắc, hay sắc ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong sắc, không quán thọ… không quán tưởng… không quán các hành… không quán thức như là tự ngã, hay tự ngã như là có thức, hay thức ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong thức.

11) Vị ấy như thật thấy rõ sắc vô thường là vô thường, thọ vô thường… tưởng vô thường… hành vô thường… thức vô thường là thức vô thường.

12) Vị ấy như thật thấy rõ sắc khổ là sắc khổ, thọ khổ… tưởng khổ… hành khổ… như thật thấy rõ thức khổ là thức khổ.

13) Vị ấy như thật thấy rõ sắc vô ngã là sắc vô ngã, thọ vô ngã… tưởng vô ngã… các hành vô ngã… thức vô ngã là thức vô ngã.

14) Vị ấy như thật thấy rõ sắc hữu vi là sắc hữu vi, thọ hữu vi… tưởng hữu vi… các hành hữu vi… thức hữu vi là thức hữu vi.

 

15) “He understands as it really is: ‘Form will be exterminated’ … ‘Feeling will be exterminated’ … ‘Perception will be exterminated’ … ‘Volitional formations will be exterminated’ … ‘Consciousness will be exterminated.’

16) “With the extermination of form, feeling, perception, volitional formations, and consciousness, that bhikkhu, resolving thus:

 

‘It might not be,

and it might not be for me;

it will not be, [and]

it will not be for me,’

can cut off the lower fetters.”

 

17) — “Resolving thus, venerable sir, a bhikkhu can cut off the lower fetters. But how should one know, how should one see, for the immediate destruction of the taints to occur?”

18) — “Here, bhikkhu, the uninstructed worldling becomes frightened over an unfrightening matter. For this is frightening to the uninstructed worldling:

 

‘It might not be,

and it might not be for me;

it will not be, [and]

it will not be for me.’

 

19) But the instructed noble disciple does not become frightened over an unfrightening matter. For this is not frightening to the noble disciple:

 

‘It might not be,

and it might not be for me;

it will not be, [and]

it will not be for me.’

 

20) “Consciousness, bhikkhu, while standing, might stand engaged with form … engaged with feeling … engaged with perception … engaged with volitional formations; based upon volitional formations, established upon volitional formations, with a sprinkling of delight, it might come to growth, increase, and expansion.

21-23 “Bhikkhu, though someone might say: ‘Apart from form, apart from feeling, apart from perception, apart from volitional formations, I will make known the coming and going of consciousness, its passing away and rebirth, its growth, increase, and expansion’—that is impossible.

15) Vị ấy như thật thấy rõ sắc sẽ biến diệt là sắc sẽ biến diệt, thọ sẽ biến diệt… tưởng sẽ biến diệt… các hành sẽ biến diệt… thức sẽ biến diệt là thức sẽ biến diệt.

16) Do sắc biến diệt, thọ biến diệt, tưởng biến diệt, hành biến diệt, thức biến diệt, vị Tỷ-kheo nói lên lời cảm hứng:

Nếu trước, ta không có,
Thời nay không có ta,
Không tạo nhân sẽ có,
Tương lai sẽ không ta.
Tỷ-kheo quyết tâm vậy,
Hạ phần kiết sử đoạn.

17) — Dầu cho quyết tâm như vậy, bạch Thế Tôn, vị Tỷ-kheo có thể cắt đứt hạ phần kiết sử. Nhưng bạch Thế Tôn, biết như thế nào, thấy như thế nào, các lậu hoặc được đoạn tận lập tức?

18) — Ở đây, này Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu hoảng sợ tại chỗ không có gì đáng hoảng sợ; kẻ vô văn phàm phu hoảng sợ như sau:

Nếu trước, ta không có,
Thời nay không có ta,
Không tạo nhân sẽ có.
Tương lai sẽ không ta.

19) Và vị Ða văn Thánh đệ tử, này Tỷ-kheo, không hoảng sợ tại chỗ không có gì đáng hoảng sợ; vị Ða văn Thánh đệ tử không có hoảng sợ như sau:

Nếu trước, ta không có,
Thời nay không có ta,
Không tạo nhân sẽ có,
Tương lai sẽ không ta.

20) Này Tỷ-kheo, do tham luyến sắc, thức có chân đứng được an trú. Với sắc là sở duyên, với sắc là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh.

21-33) Do tham luyến thọ… do tham luyến tưởng… do tham luyến hành… do tham luyến thức, này Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với hành là sở duyên, với hành là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh.

 

24-30) “Bhikkhu, if a bhikkhu has abandoned lust for the form element, with the abandoning of lust the basis is cut off: there is no support for the establishing of consciousness. If he has abandoned lust for the feeling element … for the perception element … for the volitional formations element … for the consciousness element, with the abandoning of lust the basis is cut off: there is no support for the establishing of consciousness.

“When that consciousness is unestablished, not coming to growth, nongenerative, it is liberated. By being liberated, it is steady; by being steady, it is content; by being content, he is not agitated. Being unagitated, he personally attains Nibbāna. He understands: ‘Destroyed is birth, the holy life has been lived, what had to be done has been done, there is no more for this state of being.’

“It is, bhikkhu, for one who knows thus, for one who sees thus, that the immediate destruction of the taints occurs.”

24) Này Tỷ-kheo, ai nói như sau: “Ngoài sắc, ngoài thọ, ngoài tưởng, ngoài các hành, tôi sẽ chỉ rõ sự đến hay đi, sự diệt hay sanh, sự tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh của thức”, sự việc như vậy không xảy ra.

25) Này Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với sắc giới; do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không hiện hữu.

26) Này Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thọ giới…

27) Này Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với tưởng giới…

28) Này Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với hành giới…

29) Này Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thức giới, do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không hiện hữu.

30) Không có chỗ y chỉ như vậy thức không tăng trưởng, không có hành động, được giải thoát; do giải thoát nên được kiên trú; do kiên trú nên được tri túc; do tri túc nên không có ưu não; do không có ưu não nên tự mình cảm thấy tịch tịnh hoàn toàn. Vị ấy biết: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”.

 

56 (4) Phases of the Clinging Aggregates – Thủ Chuyển

 

1-2) At Sāvatthī…

3) — “Bhikkhus, there are these five aggregates subject to clinging. What five? The form aggregate subject to clinging, the feeling aggregate subject to clinging, the perception aggregate subject to clinging, the volitional formations aggregate subject to clinging, the consciousness aggregate subject to clinging.

4) “So long as I did not directly know as they really are the five aggregates subject to clinging in four phases, I did not claim to have awakened to the unsurpassed perfect enlightenment in this world with its devas, Māra, and Brahmā, in this generation with its ascetics and brahmins, its devas and humans.

5) But when I directly knew all this as it really is, then I claimed to have awakened to the unsurpassed perfect enlightenment in this world with … its devas and humans.

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi…

3) — Này các Tỷ-kheo, có năm thủ uẩn này. Thế nào là năm? Sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn.

4) Này các Tỷ-kheo, khi nào Ta chưa như thật thắng tri năm thủ uẩn này theo bốn chuyển, thì cho đến khi ấy, này các Tỷ-kheo, đối với thế giới chư Thiên, Ma, Phạm thiên, cùng với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người, Ta không xác chứng rằng Ta đã chứng được vô thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.

5) Nhưng này các Tỷ-kheo, khi nào Ta đã như thật thắng tri năm thủ uẩn này theo bốn chuyển, cho đến khi ấy, này các Tỷ-kheo, đối với thế giới chư Thiên, Ma, Phạm thiên, cùng với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người, Ta xác chứng rằng Ta đã chứng được vô thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.

 

6) “And how, bhikkhus, are there four phases? I directly knew form, its origin, its cessation, and the way leading to its cessation. I directly knew feeling … perception … volitional formations … consciousness, its origin, its cessation, and the way leading to its cessation.

7) “And what, bhikkhus, is form? The four great elements and the form derived from the four great elements: this is called form. With the arising of nutriment there is the arising of form. With the cessation of nutriment there is the cessation of form. This Noble Eightfold Path is the way leading to the cessation of form; that is, right view … right concentration.

8) “Whatever ascetics and brahmins, having thus directly known form, its origin, its cessation, and the way leading to its cessation, are practising for the purpose of revulsion towards form, for its fading away and cessation, they are practising well. Those who are practising well have gained a foothold in this Dhamma and Discipline.

9) “And whatever ascetics and brahmins, having thus directly known form, its origin, its cessation, and the way leading to its cessation, through revulsion towards form, through its fading away and cessation, are liberated by nonclinging, they are well liberated. Those who are well liberated are consummate ones. As to those consummate ones, there is no round for describing them.

6) Và thế nào là bốn chuyển? Ta đã thắng tri sắc, Ta đã thắng tri sắc tập khởi, Ta đã thắng tri sắc đoạn diệt, Ta đã thắng tri con đường đưa đến sắc đoạn diệt. Ta đã thắng tri thọ… tưởng… hành… Ta đã thắng tri thức, Ta đã thắng tri thức tập khởi, Ta đã thắng tri thức đoạn diệt, Ta đã thắng tri con đường đưa đến thức đoạn diệt.

7) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sắc? Bốn đại chủng và sắc do bốn đại chủng tạo thành. Này các Tỷ-kheo, đấy được gọi là sắc. Do các thức ăn tập khởi nên sắc tập khởi. Do các thức ăn đoạn diệt nên sắc đoạn diệt. Và con đường đưa đến sắc đoạn diệt là con đường Thánh đạo Tám ngành, tức là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.

8) Này các Tỷ-kheo, các vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào do thắng tri sắc như vậy; do thắng tri sắc tập khởi như vậy, do thắng tri sắc đoạn diệt như vậy, do thắng tri con đường đưa đến sắc đoạn diệt như vậy, họ hướng về thực hiện yếm ly, ly tham, đoạn diệt sắc. Những thực hiện ấy, họ khéo thực hiện. Những ai khéo thực hiện, những vị ấy có chân đứng trong Pháp và Luật này.

9) Và này các Tỷ-kheo, những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào thắng tri sắc là như vậy… thắng tri con đường đưa đến sắc đoạn diệt là như vậy; do yếm ly, ly tham, đoạn diệt sắc, họ được giải thoát, không có chấp thủ. Họ được khéo giải thoát. Những ai được khéo giải thoát, họ được vẹn toàn. Những ai được vẹn toàn, thời không thể nêu rõ sự luân chuyển của họ.

 

10) “And what, bhikkhus, is feeling? There are these six classes of feeling: feeling born of eye-contact, feeling born of ear-contact, feeling born of nose-contact, feeling born of tongue-contact, feeling born of body-contact, feeling born of mind-contact. This is called feeling. With the arising of contact there is the arising of feeling.84 With the cessation of contact there is the cessation of feeling. This Noble Eightfold Path is the way leading to the cessation of feeling; that is, right view … right concentration.

11) “Whatever ascetics and brahmins, having thus directly known feeling, its origin, its cessation, and the way leading to its cessation, are practising for the purpose of revulsion towards feeling, for its fading away and cessation, they are practising well. Those who are practising well have gained a foothold in this Dhamma and Discipline.

12) “And whatever ascetics and brahmins, having thus directly known feeling … and the way leading to its cessation … As to those consummate ones, there is no round for describing them.

10) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thọ? Này các Tỷ-kheo, có sáu thọ thân này: thọ do nhãn xúc sanh, thọ do nhĩ xúc sanh, thọ do tỷ xúc sanh, thọ do thiệt xúc sanh, thọ do thân xúc sanh, thọ do ý xúc sanh. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là thọ. Do xúc tập khởi nên thọ tập khởi. Do xúc đoạn diệt nên thọ đoạn diệt. Ðây là con đường Thánh đạo Tám ngành đưa đến thọ đoạn diệt, tức là chánh tri kiến, chánh tư duy… chánh định.

11) Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào thắng tri thọ là như vậy, thắng tri thọ tập khởi là như vậy, thắng tri thọ đoạn diệt là như vậy, thắng tri con đường đưa đến thọ đoạn diệt là như vậy, họ hướng về thực hiện yếm ly, ly tham, đoạn diệt thọ. Những thực hiện ấy, họ khéo thực hiện. Những ai khéo thực hiện, những vị ấy có chân đứng trong Pháp và Luật này.

12) Và này các Tỷ-kheo, những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào thắng tri thọ là như vậy… thắng tri con đường đưa đến thọ đoạn diệt là như vậy… thời không thể nêu rõ sự luân chuyển của họ!

 

13-15) “And what, bhikkhus, is perception? There are these six classes of perception: perception of forms, perception of sounds, perception of odours, perception of tastes, perception of tactile objects, perception of mental phenomena. This is called perception. With the arising of contact there is the arising of perception. With the cessation of contact there is the cessation of perception. This Noble Eightfold Path is the way leading to the cessation of perception; that is, right view … right concentration. “Whatever ascetics and brahmins … As to those consummate ones, there is no round for describing them.

16) “And what, bhikkhus, are volitional formations? There are these six classes of volition: volition regarding forms, volition regarding sounds, volition regarding odours, volition regarding tastes, volition regarding tactile objects, volition regarding mental phenomena. This is called volitional formations. With the arising of contact there is the arising of volitional formations. With the cessation of contact there is the cessation of volitional formations. This Noble Eightfold Path is the way leading to the cessation of volitional formations; that is, right view … right concentration.

13-15) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tưởng? Này các Tỷ-kheo, có sáu tưởng thân này: sắc tưởng, thanh tưởng, hương tưởng, vị tưởng, xúc tưởng, pháp tưởng. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tưởng. Do xúc tập khởi nên tưởng tập khởi. Do xúc đoạn diệt nên tưởng đoạn diệt. Ðây là con đường Thánh đạo Tám ngành đưa đến tưởng đoạn diệt, tức là chánh tri kiến, chánh tư duy… chánh định… thời không thể nêu rõ sự luân chuyển của họ.

16) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hành? Có sáu tư thân này: sắc tư, thanh tư, hương tư, vị tư, xúc tư, pháp tư. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hành. Do xúc tập khởi nên các hành tập khởi. Do xúc đoạn diệt nên các hành đoạn diệt. Ðây là con đường Thánh đạo Tám ngành đưa đến đoạn diệt, tức là chánh tri kiến… chánh định.

 

17-19) “Whatever ascetics and brahmins … As to those consummate ones, there is no round for describing them.

“And what, bhikkhus, is consciousness? There are these six classes of consciousness: eye-consciousness, ear-consciousness, nose-consciousness, tongueconsciousness, body-consciousness, mindconsciousness. This is called consciousness. With the arising of name-and-form there is the arising of consciousness. With the cessation of name-and-form there is the cessation of consciousness. This Noble Eightfold Path is the way leading to the cessation of consciousness; that is, right view … right concentration.

17) Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào thắng tri các hành là như vậy, thắng tri các hành tập khởi là như vậy, thắng tri các hành đoạn diệt là như vậy, thắng tri con đường đưa đến các hành đoạn diệt là như vậy, họ hướng về thực hiện yếm ly, ly tham, đoạn diệt các hành. Những thực hiện ấy, họ khéo thực hiện. Những ai khéo thực hiện, những vị ấy có chân đứng trong Pháp và Luật này.

18) Và này các Tỷ-kheo, những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào thắng tri các hành là như vậy, thắng tri các hành tập khởi là như vậy, thắng tri các hành đoạn diệt là như vậy, thắng tri con đường đưa đến các hành đoạn diệt là như vậy; do yếm ly, ly tham, đoạn diệt các hành, họ giải thoát, không có chấp thủ. Họ được khéo giải thoát. Những ai được khéo giải thoát, họ được vẹn toàn. Những ai được vẹn toàn, thời không thể nêu rõ sự luân chuyển của họ.

19) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thức? Có sáu thức thân này, này các Tỷ -kheo, (tức là) nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là thức. Do danh sắc tập khởi nên thức tập khởi. Do danh sắc đoạn diệt nên thức đoạn diệt. Ðây là con đường Thánh đạo Tám ngành đưa đến thức đoạn diệt, tức là chánh tri kiến, chánh tư duy… chánh định.

 

20) “Whatever ascetics and brahmins, having thus directly known consciousness, its origin, its cessation, and the way leading to its cessation, are practising for the purpose of revulsion towards consciousness, for its fading away and cessation, they are practising well. Those who are practising well have gained a foothold in this Dhamma and Discipline.

21) “And whatever ascetics and brahmins, having thus directly known consciousness, its origin, its cessation, and the way leading to its cessation, through revulsion towards consciousness, through its fading away and cessation, are liberated by nonclinging, they are well liberated. Those who are well liberated are consummate ones. As to those consummate ones, there is no round for describing them.”

20) Này các Tỷ-kheo, những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào thắng tri thức là như vậy, thắng tri thức tập khởi là như vậy, thắng tri thức đoạn diệt là như vậy, thắng tri con đường đưa đến thức đoạn diệt là như vậy, họ hướng về thực hiện yếm ly, ly tham, đoạn diệt thức. Những thực hiện ấy, họ khéo thực hiện. Những ai khéo thực hiện, những vị ấy có chân đứng trong Pháp và Luật này.

21) Và này các Tỷ-kheo, những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào thắng tri thức là như vậy, thắng tri thức tập khởi là như vậy, thắng tri thức đoạn diệt là như vậy, thắng tri con đường đưa đến thức đoạn diệt là như vậy; do yếm ly, ly tham, đoạn diệt thức, họ được giải thoát, không có chấp thủ. Họ được khéo giải thoát. Những ai khéo giải thoát, họ được vẹn toàn. Những ai được vẹn toàn, thời không thể nêu rõ sự luân chuyển của họ.

 

57 (5) The Seven Cases – Bảy Xứ (Sattatthàna)

 

1-2) At Sāvatthī…

3) — “Bhikkhus, a bhikkhu who is skilled in seven cases and a triple investigator is called, in this Dhamma and Discipline, a consummate one, one who has fully lived the holy life, the highest kind of person.

4) “And how, bhikkhus, is a bhikkhu skilled in seven cases?

5) Here, bhikkhus, a bhikkhu understands form, its origin, its cessation, and the way leading to its cessation; he understands the gratification, the danger, and the escape in the case of form.

6-9) “He understands feeling … perception … volitional formations … consciousness, its origin, its cessation, and the way leading to its cessation; he understands the gratification, the danger, and the escape in the case of consciousness.

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi…

3) — Vị Tỷ-kheo thiện xảo trong bảy xứ, này các Tỷ-kheo, quán sát theo ba cách, được gọi là một vị toàn vẹn trong Pháp và Luật này, đã thành tựu viên mãn, một bậc tối thượng nhân.

4) Này các Tỷ-kheo, thế nào là vị Tỷ-kheo thiện xảo trong bảy xứ?

5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo biết rõ (pajànati) sắc, biết rõ sắc tập khởi, biết rõ sắc đoạn diệt, biết rõ con đường đưa đến sắc đoạn diệt, biết rõ vị ngọt của sắc, biết rõ sự nguy hiểm của sắc, biết rõ sự xuất ly của sắc.

6-8) … biết rõ thọ… biết rõ tưởng… biết rõ các hành…

9) … biết rõ thức, biết rõ thức tập khởi, biết rõ thức đoạn diệt, biết rõ con đường đưa đến thức đoạn diệt, biết rõ vị ngọt của thức, biết rõ sự nguy hiểm của thức, biết rõ sự xuất ly của thức.

 

10) “And what, bhikkhus, is form? The four great elements and the form derived from the four great elements: this is called form. With the arising of nutriment there is the arising of form. With the cessation of nutriment there is the cessation of form. This Noble Eightfold Path is the way leading to the cessation of form; that is, right view … right concentration.

11) “The pleasure and joy that arise in dependence on form: this is the gratification in form. That form is impermanent, suffering, and subject to change: this is the danger in form. The removal and abandonment of desire and lust for form: this is the escape from form.

12) “Whatever ascetics and brahmins, having thus directly known form, its origin, its cessation, and the way leading to its cessation, having thus directly known the gratification, the danger, and [63] the escape in the case of form, are practising for the purpose of revulsion towards form, for its fading away and cessation, they are practising well. Those who are practising well have gained a foothold in this Dhamma and Discipline.

10) Này các Tỷ-kheo, thế nào là sắc? Bốn đại chủng và sắc do bốn đại chủng tạo thành. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là sắc. Do các món ăn tập khởi nên sắc tập khởi. Do các món ăn đoạn diệt nên sắc đoạn diệt. Ðây là con đường Thánh đạo Tám ngành đưa đến sắc đoạn diệt, tức là chánh tri kiến… chánh định…

11) Duyên sắc khởi lên lạc hỷ gì, đây là vị ngọt của sắc. Sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại của sắc, đây là sự nguy hiểm của sắc. Sự nhiếp phục dục tham đối với sắc, sự đoạn tận dục tham đối với sắc, đây là sự xuất ly của sắc.

12) Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào thắng tri sắc là như vậy, thắng tri sắc tập khởi là như vậy, thắng tri sắc đoạn diệt là như vậy, thắng tri con đường đưa đến sắc đoạn diệt là như vậy, thắng tri vị ngọt của sắc là như vậy, thắng tri sự nguy hiểm của sắc là như vậy, thắng tri sự xuất ly của sắc là như vậy; họ hướng về thực hiện yếm ly, ly tham, đoạn diệt đối với sắc. Những thực hiện ấy, họ khéo thực hiện. Những ai khéo thực hiện, những vị ấy có chân đứng trong Pháp và Luật này.

 

13) “And whatever ascetics and brahmins, having thus directly known form, its origin, its cessation, and the way leading to its cessation, having thus directly known the gratification, the danger, and the escape in the case of form, through revulsion towards form, through its fading away and cessation, are liberated by nonclinging, they are well liberated. Those who are well liberated are consummate ones. As to those consummate ones, there is no round for describing them.

14) “And what, bhikkhus, is feeling? There are these six classes of feeling: feeling born of eye-contact … (as in preceding sutta) … feeling born of mind-contact. This is called feeling. With the arising of contact there is the arising of feeling. With the cessation of contact there is the cessation of feeling. This Noble Eightfold Path is the way leading to the cessation of feeling; that is, right view … right concentration.

15) “The pleasure and joy that arise in dependence on feeling: this is the gratification in feeling. That feeling is impermanent, suffering, and subject to change: this is the danger in feeling. The removal and abandonment of desire and lust for feeling: this is the escape from feeling.

13) Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào thắng tri sắc là như vậy, thắng tri sắc tập khởi là như vậy, thắng tri sắc đoạn diệt là như vậy, thắng tri vị ngọt của sắc là như vậy, thắng tri sự nguy hiểm của sắc là như vậy, thắng tri sự xuất ly của sắc là như vậy; do yếm ly, ly tham, đoạn diệt sắc, họ được giải thoát, không có chấp thủ. Họ được khéo giải thoát. Những ai được khéo giải thoát, họ được vẹn toàn. Những ai vẹn toàn, thời không thể nêu rõ sự luân chuyển của họ.

14) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thọ? Này các Tỷ-kheo, có sáu thọ thân này: Thọ do nhãn xúc sanh… thọ do ý xúc sanh. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là thọ. Do xúc tập khởi nên thọ tập khởi. Do xúc đoạn diệt nên thọ đoạn diệt. Ðây là con đường Thánh đạo Tám ngành đưa đến thọ đoạn diệt, tức là chánh tri kiến… chánh định.

15) Do duyên thọ khởi lên lạc hỷ gì, đây gọi là vị ngọt của thọ. Cảm thọ vô thường, khổ, vô ngã, đây gọi là nguy hiểm của thọ. Sự nhiếp phục dục tham, sự đoạn tận dục tham đối với thọ, đây gọi là sự xuất ly của thọ.

 

16) “Whatever ascetics and brahmins, having thus directly known feeling, its origin, its cessation, and the way leading to its cessation, having thus directly known the gratification, the danger, and the escape in the case of feeling, are practising for the purpose of revulsion towards feeling, for its fading away and cessation, they are practising well. Those who are practising well have gained a foothold in this Dhamma and Discipline.

17) “And whatever ascetics and brahmins, having thus directly known feeling … and the escape in the case of feeling … As to those consummate ones, there is no round for describing them.

16) Này các Tỷ-kheo, các vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào thắng tri thọ là như vậy, thắng tri thọ tập khởi là như vậy, thắng tri thọ đoạn diệt là như vậy, thắng tri con đường đưa đến thọ đoạn diệt là như vậy, thắng tri vị ngọt của thọ là như vậy, thắng tri sự nguy hiểm của thọ là như vậy, thắng tri sự xuất ly của thọ là như vậy; họ hướng về thực hiện yếm ly, ly tham, đoạn diệt đối với thọ. Những thực hiện ấy, họ khéo thực hiện. Những ai khéo thực hiện, những vị ấy có chân đứng trong Pháp và Luật này.

17) Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào thắng tri thọ là như vậy… thời không thể nêu rõ sự luân chuyển của họ.

 

18-21) “And what, bhikkhus, is perception? There are these six classes of perception: perception of forms … perception of mental phenomena. This is called perception. With the arising of contact there is the arising of perception. With the cessation of contact there is the cessation of perception. This Noble Eightfold Path is the way leading to the cessation of perception; that is, right view … right concentration.

22) “The pleasure and joy that arise in dependence on perception: this is the gratification in perception. That perception is impermanent, suffering, and subject to change: this is the danger in perception. The removal and abandonment of desire and lust for perception: this is the escape from perception.

18-20) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tưởng? Này các Tỷ-kheo, có sáu tưởng thân này: Sắc tưởng, thanh tưởng, hương tưởng, vị tưởng, xúc tưởng, pháp tưởng. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tưởng. Do xúc tập khởi nên tưởng tập khởi. Do xúc đoạn diệt nên tưởng đoạn diệt. Ðây là con đường Thánh đạo Tám ngành đưa đến tưởng đoạn diệt… thời không thể nêu rõ sự luân chuyển của họ.

21) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các hành? Này các Tỷ-kheo, có sáu tư thân: Sắc tư… pháp tư. Này các Tỷ-kheo, đây được gọi là các hành. Do xúc tập khởi nên các hành tập khởi. Do xúc đoạn diệt nên các hành đoạn diệt. Ðây là con đường Thánh đạo Tám ngành, tức là chánh tri kiến… chánh định.

22) Do duyên hành khởi lên lạc hỷ gì, đây là vị ngọt của hành. Các hành vô thường, khổ, vô ngã, đây là nguy hiểm của hành. Sự nhiếp phục dục tham, sự đoạn tận dục tham đối với các hành, đây là sự xuất ly của các hành.

 

23-24) “Whatever ascetics and brahmins … As to those consummate ones, there is no round for describing them.

“And what, bhikkhus, are volitional formations? There are these six classes of volition: volition regarding forms … volition regarding mental phenomena. This is called volitional formations. With the arising of contact there is the arising of volitional formations. With the cessation of contact there is the cessation of volitional formations. This Noble Eightfold Path is the way leading to the cessation of volitional formations; that is, right view … right concentration.

“The pleasure and joy that arise in dependence on volitional formations: this is the gratification in volitional formations. That volitional formations are impermanent, suffering, and subject to change: this is the danger in volitional formations. The removal and abandonment of desire and lust for volitional formations: this is the escape from volitional formations.

“Whatever ascetics and brahmins … As to those consummate ones, there is no round for describing them.

23-24) Này các Tỷ-kheo, những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào thắng tri các hành là như vậy, thắng tri các hành tập khởi là như vậy, thắng tri các hành đoạn diệt là như vậy, thắng tri con đường đưa đến các hành đoạn diệt là như vậy; họ hướng về thực hiện yếm ly, ly tham, đoạn diệt đối với các hành. Những thực hiện ấy, họ khéo thực hiện. Những ai khéo thực hiện, những vị ấy có chân đứng trong Pháp và Luật này… Những ai được vẹn toàn, thời không thể nêu rõ sự luân chuyển của họ.

 

25) “And what, bhikkhus, is consciousness? There are these six classes of consciousness: eye-consciousness … mind-consciousness. This is called consciousness. With the arising of name-and-form there is the arising of consciousness. With the cessation of name-and-form there is the cessation of consciousness. This Noble Eightfold Path is the way leading to the cessation of consciousness; that is, right view … right concentration.

“The pleasure and joy that arise in dependence on consciousness: this is the gratification in consciousness. That consciousness is impermanent, suffering, and subject to change: this is the danger in consciousness. The removal and abandonment of desire and lust for consciousness: this is the escape from consciousness.

27) “Whatever ascetics and brahmins, having thus directly known consciousness, its origin, its cessation, and the way leading to its cessation, having thus directly known the gratification, the danger, and the escape in the case of consciousness, are practising for the purpose of revulsion towards consciousness, for its fading away and cessation, they are practising well. Those who are practising well have gained a foothold in this Dhamma and Discipline.

28) “And whatever ascetics and brahmins, having thus directly known consciousness, its origin, its cessation, and the way leading to its cessation, having thus directly known the gratification, the danger, and the escape in the case of consciousness, through revulsion towards consciousness, through its fading away and cessation, are liberated by nonclinging, they are well liberated. Those who are well liberated are consummate ones. As to those consummate ones, there is no round for describing them.

29) “It is in such a way, bhikkhus, that a bhikkhu is skilled in seven cases.

30) “And how, bhikkhus, is a bhikkhu a triple investigator? Here, bhikkhus, a bhikkhu investigates by way of the elements, by way of the sense bases, and by way of dependent origination. It is in such a way that a bhikkhu is a triple investigator.

31) “Bhikkhus, a bhikkhu who is skilled in these seven cases and a triple investigator is called, in this Dhamma and Discipline, a consummate one, one who has fully lived the holy life, the highest kind of person.”

25) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thức? Này các Tỷ-kheo, có sáu thức thân này: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là thức. Do danh sắc tập khởi nên thức tập khởi. Do danh sắc đoạn diệt nên thức đoạn diệt. Ðây là con đường Thánh đạo Tám ngành đưa đến thức đoạn diệt đối với thức, tức là chánh tri kiến… chánh định.

26) Do duyên thức khởi lên lạc hỷ gì, đây là vị ngọt của thức. Thức vô thường, khổ, vô ngã, đây là nguy hiểm của thức. Sự nhiếp phục dục tham, sự đoạn tận dục tham đối với thức, đây là sự xuất ly của thức.

27) Này các Tỷ-kheo, các vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào thắng tri thức là như vậy, thắng tri thức tập khởi là như vậy, thắng tri thức đoạn diệt là như vậy, thắng tri con đường đưa đến thức đoạn diệt là như vậy, thắng tri vị ngọt của thức là như vậy, thắng tri sự nguy hiểm của thức là như vậy, thắng tri sự xuất ly của thức là như vậy; họ hướng về thực hiện yếm ly, ly tham, đoạn diệt đối với thức. Những thực hiện ấy, họ khéo thực hiện. Những ai khéo thực hiện, những vị ấy có chân đứng trong Pháp và Luật này.

28) Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào thắng tri thức là như vậy, thắng tri thức tập khởi là như vậy, thắng tri thức đoạn diệt là như vậy, thắng tri con đường đưa đến thức đoạn diệt là như vậy, thắng tri vị ngọt của thức là như vậy, thắng tri sự nguy hiểm của thức là như vậy, thắng tri sự xuất ly của thức là như vậy; do yếm ly, ly tham, đoạn diệt thức, họ giải thoát, không chấp thủ. Họ được khéo giải thoát. Những ai được khéo giải thoát, họ được vẹn toàn. Những ai được vẹn toàn, thời không thể nêu rõ sự luân chuyển của họ.

29) Này các Tỷ-kheo, như vậy là vị Tỷ-kheo thiện xảo trong bảy xứ.

30) Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là vị Tỷ-kheo quán sát theo ba cách? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo quán sát theo giới, quán sát theo xứ, quán sát theo duyên khởi. Như vậy, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo quán sát theo ba cách.

31) Này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo thiện xảo trong bảy xứ, quán sát theo ba cách, được gọi là một vị toàn vẹn trong Pháp và Luật này, đã thành tựu viên mãn, một vị tối thượng nhân.

 

58 (6) The Perfectly Enlightened One – Chánh Ðẳng Giác

 

1-2) At Sāvatthī…

3)  — “Bhikkhus, the Tathāgata, the Arahant, the Perfectly Enlightened One, liberated by nonclinging through revulsion towards form, through its fading away and cessation, is called a Perfectly Enlightened One. A bhikkhu liberated by wisdom, liberated by nonclinging through revulsion towards form, through its fading away and cessation, is called one liberated by wisdom.

4-8) “The Tathāgata, the Arahant, the Perfectly Enlightened One, liberated by nonclinging through revulsion towards feeling … perception … volitional formations … consciousness, through its fading away [66] and cessation, is called a Perfectly Enlightened One. A bhikkhu liberated by wisdom, liberated by nonclinging through revulsion towards feeling … perception … volitional formations … consciousness, through its fading away and cessation, is called one liberated by wisdom. “Therein, bhikkhus, what is the distinction, what is the disparity, what is the difference between the Tathāgata, the Arahant, the Perfectly Enlightened One, and a bhikkhu liberated by wisdom?”

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi…

3) — Như Lai, này các Tỷ-kheo, là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, do yếm ly, ly tham, đoạn diệt sắc, được gọi là bậc Giải Thoát, không có chấp thủ, Chánh Ðẳng Giác. Còn vị Tỷ-kheo, này các Tỷ-kheo, được giải thoát nhờ trí tuệ, do yếm ly, ly tham, đoạn diệt sắc, được gọi là bậc Giải Thoát, không có chấp thủ, giải thoát nhờ trí tuệ.

4) Như Lai, này các Tỷ-kheo, là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, do yếm ly, ly tham, đoạn diệt thọ, được gọi là bậc Giải Thoát, không có chấp thủ, Chánh Ðẳng Giác. Còn vị Tỷ-kheo, này các Tỷ-kheo, được giải thoát nhờ trí tuệ, do yếm ly, ly tham, đoạn diệt thọ, được gọi là bậc Giải Thoát, không có chấp thủ, giải thoát nhờ trí tuệ.

5-7) Như Lai, này các Tỷ-kheo, là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, do yếm ly, ly tham, đoạn diệt tưởng… đoạn diệt các hành… đoạn diệt thức, được gọi là bậc Giải Thoát, không có chấp thủ, Chánh Ðẳng Giác. Còn vị Tỷ-kheo, này các Tỷ-kheo, được giải thoát nhờ trí tuệ, do yếm ly, ly tham, đoạn diệt thức, được gọi là bậc Giải Thoát, không có chấp thủ, giải thoát nhờ trí tuệ.

8) Ở đây, này các Tỷ-kheo, thế nào là sự sai biệt, thế nào là sự đặc thù, thế nào là sự sai khác giữa bậc Như Lai, A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, và bậc Tỷ-kheo được giải thoát nhờ trí tuệ?

 

9) — “Venerable sir, our teachings are rooted in the Blessed One, guided by the Blessed One, take recourse in the Blessed One. It would be good if the Blessed One would clear up the meaning of this statement. Having heard it from him, the bhikkhus will remember it.”

— “Then listen and attend closely, bhikkhus, I will speak.”

— “Yes, venerable sir,” the bhikkhus replied.

10) The Blessed One said this:

— “The Tathāgata, bhikkhus, the Arahant, the Perfectly Enlightened One, is the originator of the path unarisen before, the producer of the path unproduced before, the declarer of the path undeclared before. He is the knower of the path, the discoverer of the path, the one skilled in the path. And his disciples now dwell following that path and become possessed of it afterwards.

11) “This, bhikkhus, is the distinction, the disparity, the difference between the Tathāgata, the Arahant, the Perfectly Enlightened One, and a bhikkhu liberated by wisdom.”

9) — Bạch Thế Tôn, đối với chúng con, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm chỉ đạo, lấy Thế Tôn làm chỗ y chỉ. Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu được Thế Tôn nói lên ý nghĩa của lời này. Sau khi nghe Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì!

— Vậy này các Tỷ-kheo, hãy nghe và khéo suy nghiệm, Ta sẽ nói:

— Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.

10) Thế Tôn nói như sau:

— Như Lai, này các Tỷ-kheo, là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, làm cho khởi lên con đường (trước kia) chưa khởi, là bậc đem lại con đường (trước kia) chưa được đem lại, là bậc tuyên thuyết con đường (trước kia) chưa được tuyên thuyết, bậc tri đạo, bậc ngộ đạo, bậc thuần thục về đạo. Còn nay, này các Tỷ-kheo, các vị đệ tử là những vị sống theo đạo, tiếp tục thành tựu (đạo).

11) Này các Tỷ-kheo, đây là sự sai biệt, sự đặc thù, sự sai khác giữa Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác và bậc Tỷ-kheo được giải thoát nhờ trí tuệ.

 

59 (7) The Characteristic of Nonself – Năm Vị (Vô ngã tưởng)

 

1) Thus, have I heard. On one occasion the Blessed One was dwelling at Bārāṇasī in the Deer Park at Isipatana.

2) There the Blessed One addressed the bhikkhus of the group of five thus: “Bhikkhus!” “Venerable sir!” those bhikkhus replied. The Blessed One said this:

3-4) — “Bhikkhus, form is nonself. For if, bhikkhus, form was self, this form would not lead to affliction, and it would be possible to have it of form: ‘Let my form be thus; let my form not be thus.’ But because form is nonself, form leads to affliction, and it is not possible to have it of form: ‘Let my form be thus; let my form not be thus.’

5-11) “Feeling is nonself…. Perception is nonself…. Volitional formations are nonself…. Consciousness is nonself. For if, bhikkhus, consciousness were self, this consciousness would not lead to affliction, and it would be possible to have it of consciousness: ‘Let my consciousness be thus; let my consciousness not be thus.’ But because consciousness is nonself, consciousness leads to affliction, and it is not possible to have it of consciousness: ‘Let my consciousness be thus; let my consciousness not be thus.’

1) Một thời Thế Tôn ở Bàrànasi (Ba-la-nại), tại Isìpatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển.

2) Ở đây Thế Tôn nói với đoàn năm vị Tỷ-kheo: “Này các Tỷ-kheo”. — “Thưa vâng bạch Thế Tôn”. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:

3) — Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Này các Tỷ-kheo, nếu sắc là ngã, thời sắc không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các sắc như sau: “Mong rằng sắc của tôi là như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!”

4) Và này các Tỷ-kheo, vì sắc là vô ngã. Do vậy sắc đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các sắc: “Mong rằng sắc của tôi như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!”

5) Thọ, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Này các Tỷ-kheo, nếu thọ là ngã, thời thọ không thể đi đến bệnh hoạn, và có thể được các thọ như sau: “Mong rằng thọ của tôi như thế này! Mong rằng thọ của tôi chẳng phải như thế này!”

6) Và này các Tỷ-kheo, vì thọ là vô ngã. Do vậy, thọ đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các thọ: “Mong rằng thọ của tôi như thế này! Mong rằng thọ của tôi chẳng phải như thế này!”

7) Tưởng là vô ngã…

8) Các hành là vô ngã, này các Tỷ-kheo, nếu các hành là ngã, thời các hành không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các hành như sau: “Mong rằng các hành của tôi như thế này! Mong rằng các hành của tôi chẳng phải như thế này!”

9) Và này các Tỷ-kheo, vì các hành là vô ngã. Do vậy, các hành đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các hành: “Mong rằng các hành của tôi như thế này! Mong rằng các hành của tôi không phải như thế này!”

10) Thức là vô ngã, này các Tỷ-kheo, nếu thức là ngã, thời thức không thể đi đến bệnh hoạn, và có thể có được các thức như sau: “Mong rằng thức của tôi như thế này! Mong rằng thức của tôi chẳng phải như thế này!”

11) Và này các Tỷ-kheo, vì thức là vô ngã. Do vậy, thức đi đến bệnh hoạn, và không có thể có được thức: “Mong rằng thức của tôi như thế này! Mong rằng thức của tôi chẳng phải như thế này!”

 

12) “What do you think, bhikkhus, is form permanent or impermanent?”

–“Impermanent, venerable sir.”

–“Is what is impermanent suffering or happiness?”

— “Suffering, venerable sir.”

— “Is what is impermanent, suffering, and subject to change fit to be regarded thus: ‘This is mine, this I am, this is my self’?”

— “No, venerable sir.”

13-16) “Is feeling permanent or impermanent?… Is perception permanent or impermanent? … Are volitional formations permanent or impermanent?… Is consciousness permanent or impermanent?” – “Impermanent, venerable sir.” – “Is what is impermanent suffering or happiness?” – “Suffering, venerable sir.” – “Is what is impermanent, suffering, and subject to change fit to be regarded thus: ‘This is mine, this I am, this is my self’?”

— “No, venerable sir.”

12) Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Sắc là thường hay vô thường?

— Là vô thường, bạch Thế Tôn!

— Cái gì vô thường là khổ hay lạc?

— Là khổ, bạch Thế Tôn.

— Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: ” Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi”?

— Thưa không, bạch Thế Tôn.

13-15) — Thọ… Tưởng… Các hành…

16) Thức là thường hay vô thường?

— Là vô thường, bạch Thế Tôn.

— Cái gì vô thường là khổ hay lạc?

— Là khổ, bạch Thế Tôn.

— Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi”?

— Thưa không, bạch Thế Tôn.

 

17-21) — “Therefore, bhikkhus, any kind of form whatsoever, whether past, future, or present, internal or external, gross or subtle, inferior or superior, far or near, all form should be seen as it really is with correct wisdom thus:

‘This is not mine, this I am not, this is not my self.’

18) “Any kind of feeling whatsoever … Any kind of perception whatsoever … Any kind of volitional formations whatsoever … Any kind of consciousness whatsoever, whether past, future, or present, internal or external, gross or subtle, inferior or superior, far or near, all consciousness should be seen as it really is with correct wisdom thus: ‘This is not mine, this I am not, this is not my self.’

17) — Do vậy, này các Tỷ-kheo, phàm sắc gì quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả sắc cần phải như thật quán với chánh trí tuệ như sau: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”.

18) Phàm thọ gì…

19) Phàm tưởng gì…

20) Phàm các hành gì…

21) Phàm thức gì quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả thức cần phải như thật quán với chánh trí tuệ như sau: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”.

 

22) “Seeing thus, bhikkhus, the instructed noble disciple experiences revulsion towards form, revulsion towards feeling, revulsion towards perception, revulsion towards volitional formations, revulsion towards consciousness. Experiencing revulsion, he becomes dispassionate. Through dispassion [his mind] is liberated. When it is liberated there comes the knowledge: ‘It’s liberated.’ He understands: ‘Destroyed is birth, the holy life has been lived, what had to be done has been done, there is no more for this state of being.’”

23) That is what the Blessed One said. Elated, those bhikkhus delighted in the Blessed One’s statement. And while this discourse was being spoken, the minds of the bhikkhus of the group of five were liberated from the taints by nonclinging.

22) Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử yếm ly đối với sắc, yếm ly đối với thọ, yếm ly đối với tưởng, yếm y đối với các hành, yếm ly đối với thức. Do yếm ly, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên: “Ta đã được giải thoát”. Vị ấy biết rõ: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”.

23) Thế Tôn thuyết như vậy. Nhóm năm vị Tỷ-kheo hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy. Trong khi lời dạy này được nói lên, tâm của nhóm năm vị Tỷ-kheo được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ.

 

60 (8) Mahāli – Mahàli

 

1) Thus, have I heard.

On one occasion the Blessed One was dwelling at Vesālī in the Great Wood in the Hall with the Peaked Roof.

2-3) Then Mahāli the Licchavi approached the Blessed One … and said to him:

— “Venerable sir, Pūraṇa Kassapa speaks thus: ‘There is no cause or condition for the defilement of beings; beings are defiled without cause or condition. There is no cause or condition for the purification of beings; beings are purified without cause or condition.’ What does the Blessed One say about this?”

4) — “There is, Mahāli, a cause and condition for the defilement of beings; beings are defiled with cause and condition. There is a cause and condition for the purification of beings; beings are purified with cause and condition.”

5) — “But, venerable sir, what is the cause and condition for the defilement of beings? How is it that beings are defiled with cause and condition?”

1) Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn trú ở Vesàli, trong rừng Ðại Lâm, tại Trùng Các đại giảng đường.

2) Rồi Mahàli, người Licchavi, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Mahàli, người Licchavi, bạch Thế Tôn:

3) — Puràna Kassapa (Phú-lan-na Ca-diếp), bạch Thế Tôn, thuyết như sau: “Không nhân, không duyên là sự nhiễm ô của chúng sanh. Không nhân, không duyên, chúng sanh bị nhiễm ô. Không nhân, không duyên là sự thanh tịnh của chúng sanh. Không nhân, không duyên, chúng sanh được thanh tịnh”. Ở đây, bạch Thế Tôn, Thế Tôn thuyết như thế nào?

4) — Này Mahàli, có nhân, có duyên là sự nhiễm ô của chúng sanh. Này Mahàli, có nhân, có duyên, chúng sanh bị nhiễm ô. Này Mahàli, có nhân có duyên là sự thanh tịnh của chúng sanh. Có nhân, có duyên, chúng sanh được thanh tịnh.

5) — Nhưng bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì là sự nhiễm ô của chúng sanh? Do có nhân gì, do có duyên gì chúng sanh bị nhiễm ô?

 

6) — “If, Mahāli, this form was exclusively suffering, immersed in suffering, steeped in suffering, and if it were not [also] steeped in pleasure, beings would not become enamoured with it. But because form is pleasurable, immersed in pleasure, steeped in pleasure, and is not steeped [only] in suffering, beings become enamoured with it. By being enamoured with it, they are captivated by it, and by being captivated by it they are defiled. This, Mahāli, is a cause and condition for the defilement of beings; it is thus that beings are defiled with cause and condition.

7) “If, Mahāli, this feeling was exclusively suffering … If this perception … these volitional formations …this consciousness was exclusively suffering … beings would not become enamoured with it. But because consciousness is pleasurable … beings become enamoured with it. By being enamoured with it, they are captivated by it, and by being captivated by it they are defiled. This too, Mahāli, is a cause and condition for the defilement of beings; it is thus that beings are defiled with cause and condition.”

6) — Này Mahàli, nếu sắc nhứt hướng khổ, rơi trên đau khổ, nhập cuộc với khổ, không nhập cuộc với lạc, thời chúng sanh không tham đắm đối với sắc. Và vì rằng, này Mahàli, sắc là lạc, rơi trên lạc, nhập cuộc với lạc, không nhập cuộc với khổ, cho nên chúng sanh tham đắm đối với sắc. Do tham đắm nên bị triền phược, do bị triền phược nên bị nhiễm ô. Này Mahàli, đây là nhân, đây là duyên cho sự nhiễm ô chúng sanh. Do có nhân như vậy, do có duyên như vậy, chúng sanh sẽ bị nhiễm ô.

7) Và này Mahàli, nếu thọ nhứt hướng khổ, rơi trên khổ, nhập cuộc với khổ, không nhập cuộc với lạc, thời các chúng sanh không tham đắm đối với thọ. Và vì rằng, này Mahàli, thọ là lạc, rơi trên lạc, nhập cuộc với lạc, không nhập cuộc với khổ, cho nên chúng sanh tham đắm đối với thọ. Do tham đắm nên bị triền phược, do bị triền phược nên bị nhiễm ô. Này Mahàli, đây là nhân, đây là duyên cho sự nhiễm ô của chúng sanh. Do có nhân như vậy, do có duyên như vậy, chúng sanh sẽ bị nhiễm ô.

 

8-11) “But, venerable sir, what is the cause and condition for the purification of beings? How is it that beings are purified with cause and condition?”

12)“If, Mahāli, this form was exclusively pleasurable, immersed in pleasure, steeped in pleasure, and if it were not [also] steeped in suffering, beings would not experience revulsion towards it. But because form is suffering, immersed in suffering, steeped in suffering, and is not steeped [only] in pleasure, beings experience revulsion towards it. Experiencing revulsion, they become dispassionate, and through dispassion they are purified. This, Mahāli, is a cause and condition for the purification of beings; it is thus that beings are purified with cause and condition.

8-9) Và này Mahàli, nếu tưởng nhứt hướng khổ… nếu các hành nhứt hướng khổ…

10) Và này Mahàli, nếu thức nhứt hướng khổ, rơi trên khổ, nhập cuộc với khổ, không nhập cuộc với lạc, thời chúng sanh không tham đắm đối với thức. Vì rằng, này Mahàli, thức là lạc, rơi trên lạc, nhập cuộc với lạc, không nhập cuộc với khổ, do vậy chúng sanh tham đắm đối với thức. Do tham đắm nên bị triền phược, do bị triền phược nên bị nhiễm ô. Này Mahali, đây là nhân, đây là duyên cho sự nhiễm ô của chúng sanh. Do có nhân như vậy, do có duyên như vậy, chúng sanh sẽ bị nhiễm ô.

11) — Bạch Thế Tôn, thế nào là nhân, thế nào là duyên cho sự thanh tịnh của chúng sanh? Do có nhân như thế nào, có duyên như thế nào, chúng sanh được thanh tịnh?

 

13-16) “If, Mahāli, this feeling was exclusively pleasurable … If this perception … these volitional formations … this consciousness were exclusively pleasurable … beings would not experience revulsion towards it. But because consciousness is suffering … beings experience revulsion towards it. Experiencing revulsion, they become dispassionate, and through dispassion they are purified. This too, Mahāli, is a cause and condition for the purification of beings; it is thus that beings are purified with cause and condition.”

12) — Này Mahàli, nếu sắc là nhứt hướng lạc, rơi trên lạc, nhập cuộc với lạc, không nhập cuộc với khổ, thời chúng sanh không nhàm chán đối với sắc. Và vì rằng, này Mahàli, sắc là khổ, rơi trên khổ, nhập cuộc với khổ, không nhập cuộc với lạc, do vậy chúng sanh mới yếm ly đối với sắc. Do yếm ly nên ly tham; do ly tham nên giải thoát. Này Mahàli, đây là nhân, đây là duyên cho sự thanh tịnh của chúng sanh. Do có nhân như vậy, do có duyên như vậy, chúng sanh được thanh tịnh.

13) Này Mahàli, nếu thọ là nhứt hướng lạc…

14) Này Mahàli, nếu tưởng là nhứt hướng lạc…

15) Này Mahàli, nếu các hành là nhứt hướng lạc…

16) Này Mahàli, nếu thức là nhứt hướng lạc, rơi trên lạc, nhập cuộc với lạc, không nhập cuộc với khổ, thời chúng sanh không nhàm chán đối với thức. Và vì rằng, này Mahàli, thức là khổ, rơi trên khổ, nhập cuộc với khổ, không nhập cuộc với lạc, do vậy chúng sanh mới yếm ly đối với thức. Do yếm ly nên ly tham, do ly tham nên giải thoát. Này Mahàli, đây là nhân, đây là duyên cho sự thanh tịnh của chúng sanh. Do có nhân như vậy, do có duyên như vậy, chúng sanh được thanh tịnh.

 

61 (9) Burning – Lửa Cháy

 

1-2) At Sāvatthī.

3) — “Bhikkhus, form is burning, feeling is burning, perception is burning, volitional formations are burning, consciousness is burning.

4) Seeing thus, bhikkhus, the instructed noble disciple experiences revulsion towards form, revulsion towards feeling, revulsion towards perception, revulsion towards volitional formations, revulsion towards consciousness. Experiencing revulsion, he becomes dispassionate. Through dispassion [his mind] is liberated. When it is liberated there comes the knowledge: ‘It’s liberated.’

5) He understands: ‘Destroyed is birth, the holy life has been lived, what had to be done has been done, there is no more for this state of being.’”

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi…

3) — Sắc, này các Tỷ-kheo, đang bốc cháy; thọ đang bốc cháy; tưởng đang bốc cháy; hành đang bốc cháy; thức đang bốc cháy!

4) Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử nhàm chán đối với sắc… đối với thọ… đối với tưởng… đối với các hành… nhàm chán đối với thức. Do nhàm chán nên ly tham; do ly tham nên giải thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên: “Ta đã được giải thoát”.

5) Vị ấy biết: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”.

 

62 (10) Pathways of Language – Ngôn Lộ

 

1-2) At Sāvatthī…

3) — “Bhikkhus, there are these three pathways of language, pathways of designation, pathways of description, that are unmixed, that were never mixed, that are not being mixed, that will not be mixed, that are not rejected by wise ascetics and brahmins. What three?

4) “Whatever form, bhikkhus, has passed, ceased, changed: the term, label, and description ‘was’ applies to it, not the term ‘is’ or the term ‘will be.’

5-8) “Whatever feeling … Whatever perception … Whatever volitional formations …Whatever consciousness has passed, ceased, changed: the term, label, and description ‘was’ applies to it, not the term ‘is’ or the term ‘will be.’

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi…

3) — Này các Tỷ-kheo, có ba loại này, ngôn lộ, danh ngôn lộ, thi thiết lộ, không có lẫn lộn, trước không lẫn lộn, nay không lẫn lộn, tương lai không lẫn lộn, không bị các Sa-môn, Bà-la-môn có trí quở trách. Thế nào là ba?

4) Này các Tỷ-kheo, phàm sắc gì đã qua, đã đoạn diệt, đã biến hoại; sắc ấy được xác nhận là “đã có”, được xưng danh là “đã có”, được thi thiết là “đã có”. Sắc ấy không được xác nhận là “hiện có”, không được xác nhận là “sẽ có”.

5) Phàm thọ gì đã qua, đã đoạn diệt, đã biến hoại; thọ ấy được xác nhận là “đã có”, được xưng danh là “đã có”, được thi thiết là “đã có”. Thọ ấy không được xác nhận là “hiện có”, không được xác nhận là “sẽ có”.

6) Phàm tưởng gì đã qua…

7) Phàm các hành gì đã qua…

8) Phàm thức gì đã qua, đã đoạn diệt, đã biến hoại; thức ấy được xác nhận là “đã có”, được xưng danh là “đã có”, được thi thiết là “đã có”. Thức ấy không được xác nhận là “hiện có”, không được xác nhận là “sẽ có”.

9) “Whatever form, bhikkhus, has not been born, has not become manifest: the term, label, and description ‘will be’ applies to it, not the term ‘is’ or the term ‘was.’

10-13) “Whatever feeling … Whatever perception … Whatever volitional formations … Whatever consciousness has not been born, has not become manifest: the term, label, and description ‘will be’ applies to it, not the term ‘is’ or the term ‘was.’

9) Phàm sắc gì chưa sanh, chưa hiện hữu; sắc ấy được xác nhận là “sẽ có”, được xưng danh là “sẽ có”, được thi thiết là “sẽ có”. Sắc ấy không được xác nhận là “hiện có”, không được xác nhận là “đã có”.

10) Phàm thọ gì chưa sanh, chưa hiện hữu; thọ ấy được xác nhận là “sẽ có”, được xưng danh là “sẽ có”, được thi thiết là “sẽ có”. Thọ ấy không được xác nhận là “hiện có”, thọ ấy không được xác nhận là “đã có”.

11) Phàm tưởng gì…

12) Phàm các hành gì…

13) Phàm thức gì chưa sanh, chưa hiện hữu; thức ấy được xác nhận là “sẽ có”, được xưng danh là “sẽ có”, được thi thiết là “sẽ có”. Thức ấy không được xác nhận là “hiện có”, thức ấy không được xác nhận là “đã có”.

 

14-18) “Whatever form, bhikkhus, has been born, has become manifest: the term, label, and description ‘is’ applies to it, not the term ‘was’ or the term ‘will be.’

“Whatever feeling … Whatever perception … Whatever volitional formations … Whatever consciousness has been born, has become manifest: the term, label, and description ‘is’ applies to it, not the term

‘was’ or the term ‘will be.’

14) Này các Tỷ-kheo, phàm sắc gì đã sanh, đã hiện hữu; sắc ấy được xác nhận là “hiện có”, được xưng danh là “hiện có”, được thi thiết là “hiện có”. Sắc ấy không được xác nhận là “đã có”, không được xác nhận là “sẽ có”.

15) Phàm thọ gì đã sanh, đã hiện hữu; thọ ấy được xác nhận là “hiện có”, được xưng danh là “hiện có”, được thi thiết là “hiện có”. Thọ ấy không được xác nhận là “đã có”, không được xác nhận là “sẽ có”.

16) Phàm tưởng gì…

17) Phàm các hành gì…

18) Phàm thức gì đã sanh, đã hiện hữu ; thức ấy được xác nhận là “hiện có”, được xưng danh là “hiện có”, được thi thiết là “hiện có”. Thức ấy không được xác nhận là “đã có”, thức ấy không được xác nhận là “sẽ có”.

 

19) “These, bhikkhus, are the three pathways of language, pathways of designation, pathways of description, that are unmixed, that were never mixed, that are not being mixed, that will not be mixed, that are not rejected by wise ascetics and brahmins.

20) “Bhikkhus, even Vassa and Bañña of Ukkalā, proponents of noncausality, of the inefficacy of action, and of nihilism, did not think that these three pathways of language, pathways of designation, pathways of description should be criticized or scorned. For what reason? Because they fear blame, attack, and condemnation.”

19) Này các Tỷ-kheo, có ba loại này, ngôn lộ, danh ngôn lộ, thi thiết lộ, không có lẫn lộn, trước không lẫn lộn, nay không lẫn lộn, tương lai không lẫn lộn, không bị các Sa-môn, Bà-la-môn có trí quở trách.

20) Tuy vậy, dân chúng ở Ukkali, những vị thuyết pháp trong thời an cư mùa mưa, các vị vô nhân luận giả, các vị vô tác luận giả, các vị vô hữu luận giả, những vị ấy cũng không có nghĩ rằng ngôn lộ, danh ngôn lộ, thi thiết lộ này không đáng quở trách, không đáng khinh miệt. Vì sao? Vì rằng, họ sợ quở trách, công kích, phẫn nộ, chỉ trích.

 

 

  1. ARAHANTS – Phẩm A-La-Hán

 

63 (1) In Clinging – Chấp Trước

 

1) Thus, have I heard. On one occasion the Blessed One was dwelling at Sāvatthī, in Jeta’s Grove, Anāthapiṇḍika’s Park.

2-3) Then a certain bhikkhu approached the Blessed One, paid homage to him, sat down to one side, and said to him:

— “Venerable sir, it would be good if the Blessed One would teach me the Dhamma in brief, so that, having heard the Dhamma from the Blessed One, I might dwell alone, withdrawn, diligent, ardent, and resolute.”

4) — “Bhikkhu, in clinging one is bound by Māra; by not clinging one is freed from the Evil One.”

— “Understood, Blessed One! Understood, Fortunate One!” 

5) “In what way, bhikkhu, do you understand in detail the meaning of what was stated by me in brief?”

— “In clinging to form, venerable sir, one is bound by Māra; by not clinging to it one is freed from the Evil One. In clinging to feeling … to perception … to volitional formations … to consciousness one is bound by Māra; by not clinging to it one is freed from the Evil One. “It is in such a way, venerable sir, that I understand in detail the meaning of what was stated by the Blessed One in brief.” 

1) Như vầy tôi nghe.

Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc).

2) Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.

3) Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

— Lành thay, bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết pháp tóm tắt cho con. Sau khi nghe Thế Tôn thuyết pháp, con sẽ sống một mình, tịnh cư, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.

4) — Ai chấp trước, này Tỷ-kheo, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không chấp trước, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma.

— Bạch Thế Tôn, con đã hiểu, bạch Thiện Thệ, con đã hiểu.

5) — Như thế nào, này Tỷ-kheo, Ông hiểu một cách rộng rãi ý nghĩa lời Ta nói một cách vắn tắt?

— Ai chấp trước sắc, bạch Thế Tôn, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không chấp trước, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma. Ai chấp trước thọ, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không chấp trước, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma. Ai chấp trước tưởng… Ai chấp trước các hành… Ai chấp trước thức, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không chấp trước, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma. Bạch Thế Tôn, lời nói vắn tắt này của Thế Tôn, con hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.

 

6) — “Good, good, bhikkhu! It is good that you understand in detail the meaning of what was stated by me in brief. In clinging to form, bhikkhu, one is bound by Māra … (as above in full) … by not clinging to it one is freed from the Evil One. It is in such a way that the meaning of what was stated by me in brief should be understood in detail.”

7) Then that bhikkhu, having delighted and rejoiced in the Blessed One’s words, rose from his seat, and, after paying homage to the Blessed One, keeping him on his right, he departed.

8) Then, dwelling alone, withdrawn, diligent, ardent, and resolute, that bhikkhu, by realizing it for himself with direct knowledge, in this very life entered and dwelt in that unsurpassed goal of the holy life for the sake of which clansmen rightly go forth from the household life into homelessness. He directly knew: “Destroyed is birth, the holy life has been lived, what had to be done has been done, there is no more for this state of being.” And that bhikkhu became one of the arahants.

6) — Lành thay, lành thay, này Tỷ-kheo! Lành thay, này Tỷ-kheo! Như vậy Ông hiểu một cách rộng rãi ý nghĩa lời nói vắn tắt này của Ta. Ai chấp trước sắc, này Tỷ-kheo, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không chấp trước, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma. Ai chấp trước thọ… Ai chấp trước tưởng… Ai chấp trước các hành… Ai chấp trước thức, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không chấp trước, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma. Này Tỷ-kheo, lời nói vắn tắt này của Ta cần phải hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.

7) Rồi Tỷ-kheo ấy, sau khi hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài và ra đi.

8) Rồi Tỷ-kheo ấy sống một mình, tịnh cư, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, không bao lâu, vì mục đích gì mà các thiện nam tử chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, mong cầu chính là vô thượng cứu cánh Phạm hạnh; vị ấy, ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú. Vị ấy chứng tri: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”. Tỷ-kheo ấy trở thành một vị A-la-hán nữa.

 

64 (2) In Conceiving – Suy Tưởng

 

1-2) At Sāvatthī…

3) Then a certain bhikkhu approached the Blessed One … and said to him: 

— “Venerable sir, it would be good if the Blessed One would teach me the Dhamma in brief….”

4) — “Bhikkhu, in conceiving one is bound by Māra; by not conceiving one is freed from the Evil One.”

— “Understood, Blessed One! Understood, Fortunate One!” 

5) “In what way, bhikkhu, do you understand in detail the meaning of what was stated by me in brief?”

6) — “In conceiving form, venerable sir, one is bound by Māra; by not conceiving it one is freed from the Evil One. In conceiving feeling … perception … volitional formations … consciousness one is bound by Māra; by not conceiving it one is freed from the Evil One. “It is in such a way, venerable sir, that I understand in detail the meaning of what was stated by the Blessed One in brief.” 

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi…

3) Rồi một Tỷ-kheo… bạch Thế Tôn:

— Bạch Thế Tôn, lành thay, Thế Tôn hãy thuyết pháp tóm tắt cho con… nhiệt tâm, tinh cần.

4) — Ai suy tưởng, này Tỷ-kheo, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không suy tưởng, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma.

— Bạch Thế Tôn, con đã hiểu. Bạch Thiện Thệ, con đã hiểu.

5) — Như thế nào, này Tỷ-kheo, Ông hiểu một cách rộng rãi ý nghĩa lời Ta nói một cách vắn tắt:

6) — Ai suy tưởng sắc, bạch Thế Tôn, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không suy tưởng, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma. Ai suy tưởng thọ… tưởng… hành… thức, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không suy tưởng, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma. Bạch Thế Tôn, lời nói vắn tắt này của Thế Tôn, con hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.

 

7) “Good, good, bhikkhu! It is good that you understand in detail the meaning of what was stated by me in brief. In conceiving form, bhikkhu, one is bound by Māra … (as above in full) … by not conceiving it one is freed from the Evil One. It is in such a way that the meaning of what was stated by me in brief should be understood in detail.”

8-9) … And that bhikkhu became one of the arahants.

7) — Lành thay, lành thay, này Tỷ-kheo! Lành thay, này Tỷ-kheo! Như vậy Ông hiểu một cách rộng rãi ý nghĩa lời nói vắn tắt này của Ta. Này Tỷ-kheo, ai suy tưởng sắc, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không suy tưởng, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma. Ai suy tưởng thọ… tưởng… các hành… Ai suy tưởng thức, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không suy tưởng, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma. Này Tỷ-kheo, lời nói vắn tắt này của Ta cần phải hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.

8-9) Rồi Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy… Vị Tỷ-kheo ấy trở thành một vị A-la-hán nữa.

 

65 (3) In Seeking Delight – Hoan Hỷ

 

1-2) At Sāvatthī…

3) … Then a certain bhikkhu approached the Blessed One … and said to him:

— “Venerable sir, it would be good if the Blessed One would teach me the Dhamma in brief….”

4) — “Bhikkhu, in seeking delight one is bound by Māra; by not seeking delight one is freed from the Evil One.” “Understood, Blessed One! Understood, Fortunate One!” 

5) — “In what way, bhikkhu, do you understand in detail the meaning of what was stated by me in brief?”

6) — “In seeking delight in form, venerable sir, one is bound by Māra; by not seeking delight in it one is freed from the Evil One. In seeking delight in feeling … in perception … in volitional formations … in consciousness one is bound by Māra; by not seeking delight in it one is freed from the Evil One. “It is in such a way, venerable sir, that I understand in detail the meaning of what was stated by the Blessed One in brief.” 

7) — “Good, good, bhikkhu! It is good that you understand

in detail the meaning of what was stated by me in brief. In seeking delight in form, bhikkhu, one is bound by Māra … (as above in full) … by not seeking delight in it one is freed from the Evil One. It is in such a way that the meaning of what was stated by me in brief should be understood in detail.”

8-9) … And that bhikkhu became one of the arahants.

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi…

3). .. Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

— Lành thay, bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết pháp tóm tắt cho con… con sẽ sống một mình, tịnh cư, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.

4) — Ai hoan hỷ, này Tỷ-kheo, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không hoan hỷ, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma.

— Bạch Thế Tôn, con đã hiểu. Bạch Thiện Thệ, con đã hiểu.

5) — Như thế nào, này Tỷ-kheo, Ông hiểu một cách rộng rãi ý nghĩa lời Ta nói một cách vắn tắt?

6) — Ai hoan hỷ sắc, bạch Thế Tôn, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không hoan hỷ, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma. Ai hoan hỷ thọ… tưởng… các hành… Ai hoan hỷ thức, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không hoan hỷ, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma. Bạch Thế Tôn, lời nói vắn tắt này của Thế Tôn con đã hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.

7) — Lành thay, lành thay, này Tỷ-kheo! Lành thay, này Tỷ-kheo! Như vậy Ông đã hiểu một cách rộng rãi ý nghĩa lời Ta nói một cách vắn tắt. Ai hoan hỷ sắc, này Tỷ-kheo, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không hoan hỷ, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma. Ai hoan hỷ thọ… tưởng… các hành… Ai hoan hỷ thức, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không hoan hỷ, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma. Này Tỷ-kheo, lời nói vắn tắt này của Ta cần phải hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.

8-9) Rồi Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy… Vị Tỷ-kheo ấy trở thành một vị A-la-hán nữa.

 

66 (4) Impermanent – Vô Thường

 

1-3) At Sāvatthī. Then a certain bhikkhu approached the Blessed One … and said to him: “Venerable sir, it would be good if the Blessed One would teach me the Dhamma in brief….”

4) — “Bhikkhu, you should abandon desire for whatever is impermanent.”

 — “Understood, Blessed One! Understood, Fortunate One!”

5) — “In what way, bhikkhu, do you understand in detail the meaning of what was stated by me in brief?”

6) — “Form, venerable sir, is impermanent; I should abandon desire for it. Feeling is impermanent … Perception is impermanent … Volitional formations are impermanent … Consciousness is impermanent; I should abandon desire for it. “It is in such a way, venerable sir, that I understand in detail the meaning of what was stated by the Blessed One in brief.” 

7) — “Good, good, bhikkhu! It is good that you understand in detail the meaning of what was stated by me in brief. Form is impermanent … Consciousness is impermanent; you should abandon desire for it. It is in such a way that the meaning of what was stated by me in brief should be understood in detail.” [77]

8-9) … And that bhikkhu became one of the arahants.

1-3) Nhân duyên ở Sàvatthi. Rồi một Tỷ-kheo… bạch Thế Tôn:

— Lành thay, bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết pháp vắn tắt cho con… con sẽ sống một mình, tịnh cư, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần…

4) — Cái gì vô thường, này Tỷ-kheo, ở đây, Ông phải đoạn trừ lòng dục.

— Bạch Thế Tôn, con đã hiểu. Bạch Thiện Thệ, con đã hiểu.

5) — Lời Ta nói một cách vắn tắt, này Tỷ-kheo, Ông đã hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như thế nào?

6) — Sắc là vô thường, bạch Thế Tôn, ở đây, con phải đoạn trừ lòng dục. Thọ… Tưởng… Các hành… Thức là vô thường, ở đây, con phải đoạn trừ lòng dục. Lời nói vắn tắt này của Thế Tôn, con đã hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.

7) — Lành thay, lành thay, này Tỷ-kheo! Lành thay, này Tỷ-kheo! Như vậy lời Ta nói một cách vắn tắt, Ông đã hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi. Sắc là vô thường, này Tỷ-kheo, ở đây Ông cần phải đoạn trừ lòng dục. Thọ là vô thường… Tưởng là vô thường… Các hành là vô thường… Thức là vô thường, ở đây, Ông cần phải đoạn trừ lòng dục. Lời nói vắn tắt này của Ta, này Tỷ-kheo, Ông cần phải hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.

8-9) Rồi Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy… Tỷ-kheo ấy trở thành một vị A-la-hán nữa.

 

67 (5) Suffering – Khổ

 

1-9) (Opening as in preceding sutta:)

… “Bhikkhu, you should abandon desire for whatever is suffering.” …

1-3) Nhân duyên ở Sàvatthi. Rồi một Tỷ-kheo… bạch Thế Tôn:

— Lành thay, bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết pháp vắn tắt cho con… con sẽ sống một mình, tịnh cư, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.

4) — Cái gì khổ, này các Tỷ-kheo, ở đây, Ông cần phải đoạn trừ lòng dục.

— Bạch Thế Tôn, con đã hiểu. Bạch Thiện Thệ, con đã hiểu.

5) — Lời Ta nói một cách vắn tắt, này Tỷ-kheo, Ông đã hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như thế nào?

6) — Sắc là khổ, bạch Thế Tôn. Ở đây, con phải đoạn trừ lòng dục. Thọ… Tưởng… Các hành… Thức là khổ, ở đây, con phải đoạn trừ lòng dục. Bạch Thế Tôn, lời nói vắn tắt này của Thế Tôn, con đã hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.

7) — Lành thay, lành thay, này Tỷ-kheo! Lành thay, này Tỷ-kheo! Lời Ta nói một cách vắn tắt, Ông đã hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi. Sắc là khổ, này Tỷ-kheo, ở đây, Ông cần phải đoạn trừ lòng dục… Thọ… Tưởng… Các hành… Thức là khổ, ở đây, Ông cần phải đoạn trừ lòng dục. Lời nói vắn tắt này của Ta, này Tỷ-kheo, Ông cần phải hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.

8-9) Rồi Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy… Tỷ-kheo ấy trở thành một vị A-la-hán nữa.

 

68 (6) Nonself – Vô Ngã

 

1-9) … “Bhikkhu, you should abandon desire for whatever is nonself.” …

1-3) Nhân duyên ở Sàvatthi. Rồi một Tỷ-kheo… bạch Thế Tôn:

— Lành thay, bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết pháp vắn tắt cho con… con sẽ sống một mình, tịnh cư, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.

4) — Cái gì vô ngã, này Tỷ-kheo, ở đây Ông cần phải đoạn trừ lòng dục.

— Bạch Thế Tôn, con đã hiểu. Bạch Thiện Thệ, con đã hiểu.

5) — Lời Ta nói một cách vắn tắt, này Tỷ-kheo, Ông đã hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như thế nào?

6) — Sắc là vô ngã, bạch Thế Tôn, ở đây, con phải đoạn trừ lòng dục. Thọ… Tưởng… Các hành… Thức là vô ngã, ở đây, con phải đoạn trừ lòng dục. Bạch Thế Tôn, lời nói vắn tắt này của Thế Tôn, con đã hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.

7) — Lành thay, lành thay, này Tỷ-kheo! Lành thay, này Tỷ-kheo! Lời Ta nói một cách vắn tắt, Ông đã hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi. Sắc là vô ngã, này Tỷ-kheo, ở đây, Ông cần phải đoạn trừ lòng dục. Thọ… Tưởng… Các hành… Thức là vô ngã, này Tỷ-kheo, ở đây, Ông cần phải đoạn trừ lòng dục. Lời nói vắn tắt này của Ta, Ông cần phải hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.

8-9) Rồi Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy… Tỷ-kheo ấy trở thành một vị A-la-hán nữa.

 

69 (7) What Does Not Belong to Self – Không Ðáng Thuộc Tự Ngã

 

1-9) … “Bhikkhu, you should abandon desire for whatever does not belong to self.”…

1-3) Nhân duyên ở Sàvatthi… Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

— Lành thay, bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết pháp vắn tắt cho con….

4) — Cái gì không đáng thuộc tự ngã, ở đây, Ông cần phải đoạn trừ lòng dục.

— Con đã hiểu, bạch Thế Tôn! Con đã hiểu, bạch Thiện Thệ.

5) — Lời Ta nói một cách vắn tắt, này Tỷ-kheo, Ông đã hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như thế nào?

6) — Sắc không đáng thuộc tự ngã, bạch Thế Tôn, ở đây, con cần phải đoạn trừ lòng dục. Thọ… Tưởng… Các hành… Thức không đáng thuộc tự ngã, ở đây, con cần phải đoạn trừ lòng dục. Bạch Thế Tôn, lời dạy vắn tắt này của Thế Tôn, con hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.

7) — Lành thay, lành thay, này Tỷ-kheo! Lành thay, này Tỷ-kheo! Lời nói vắn tắt này của Ta, Ông đã hiểu một cách rộng rãi. Sắc không đáng thuộc tự ngã, này Tỷ-kheo, ở đây, Ông cần phải đoạn trừ lòng dục. Thọ.. Tưởng… Các hành…Thức không đáng thuộc tự ngã, ở đây, Ông cần phải đoạn trừ lòng dục. Lời nói vắn tắt này của Ta, này Tỷ-kheo, Ông cần phải hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.

8-9) Rồi Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy… Tỷ-kheo ấy trở thành một vị A-la-hán nữa.

 

70 (8) Whatever Appears Tantalizing – Chỉ Trú Cho Ô Nhiễm

 

1-9) … “Bhikkhu, you should abandon desire for whatever appears tantalizing.”…

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi…

3) Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

— Lành thay, bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết pháp vắn tắt cho con….

4) — Cái gì làm chỗ chỉ trú cho sự ô nhiễm, này Tỷ-kheo, ở đây, Ông cần phải đoạn trừ lòng dục.

— Con đã hiểu, bạch Thế Tôn! Con đã hiểu bạch Thiện Thệ.

5) — Lời Ta nói một cách vắn tắt, này Tỷ-kheo, Ông hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như thế nào?

6) — Sắc làm chỗ chỉ trú cho sự ô nhiễm, bạch Thế Tôn, ở đây con cần phải đoạn trừ lòng dục. Thọ… Tưởng… Các hành… Thức làm chỗ chỉ trú cho sự ô nhiễm, ở đây, con cần phải đoạn trừ lòng dục. Bạch Thế Tôn, lời nói vắn tắt này của Thế Tôn, con hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.

7) — Lành thay, lành thay, này Tỷ-kheo! Lành thay, này Tỷ-kheo. Lời Ta nói một cách vắn tắt, Ông đã hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi. Sắc là chỗ chỉ trú cho sự ô nhiễm, này Tỷ-kheo, ở đây, Ông cần phải đoạn trừ lòng dục. Thọ… Tưởng.. Các hành… Thức là chỗ chỉ trú cho sự ô nhiễm, này Tỷ-kheo, ở đây, Ông cần phải đoạn trừ lòng dục. Lời nói vắn tắt này của Ta, này Tỷ-kheo, Ông cần phải hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.

8-9) Rồi Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy… Tỷ-kheo ấy trở thành một vị A-la-hán nữa!

 

71 (9) Rādha – Ràdha

 

1) At Sāvatthī…

2-3) Then the Venerable Rādha approached the Blessed One, paid homage to him, sat down to one side, and said to him:

— “Venerable sir, how should one know, how should one see so that, in regard to this body with consciousness and in regard to all external signs, I-making, minemaking, and the underlying tendency to conceit no longer occur within?”

4) — “Any kind of form whatsoever, Rādha, whether past, future, or present, internal or external, gross or subtle, inferior or superior, far or near—one sees all form as it really is with correct wisdom thus: ‘This is not mine, this I am not, this is not my self.’

5-8) “Any kind of feeling whatsoever … Any kind of perception whatsoever … Any kind of volitional formations whatsoever … Any kind of consciousness whatsoever, whether past, future, or present, internal or external, gross or subtle, inferior or superior, far or near —one sees all consciousness as it really is with correct wisdom thus: ‘This is not mine, this I am not, this is not my self.’

9) “When one knows, and sees thus, Rādha, then in regard to this body with consciousness and in regard to all external signs, I-making, mine-making, and the underlying tendency to conceit no longer occur within.”

10) Then the Venerable Rādha … became one of the arahants.

1) Nhân duyên ở Sàvatthi.

2-3) Rồi Tôn giả Ràdha đi đến Thế Tôn sau khi đến… bạch Thế Tôn:

— Biết như thế nào, bạch Thế Tôn, thấy như thế nào đối với thân thể có thức này, và đối với tất cả tướng ở ngoài, không có tư tưởng: “Ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tùy miên”?

4) — Này Ràdha, phàm có sắc gì quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả sắc cần được thấy như thật với chánh trí tuệ là: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”.

5) Phàm có thọ…

6) Phàm có tưởng…

7) Phàm có các hành…

8) Phàm có thức gì quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả thức cần được thấy như thật với chánh trí tuệ là: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”.

9) Này Ràdha, do biết vậy, do thấy vậy, đối với thân có thức này, và đối với tất cả tướng ở ngoài, không có tư tưởng: “Ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tùy miên”.

10)… Tôn giả Ràdha trở thành một vị A-la-hán nữa.

 

72 (10) Surādha – Suràdha

 

1) At Sāvatthī.

2-3)  Then the Venerable Surādha approached the Blessed One … and said to him:

— “Venerable sir, how should one know, how should one see so that, in regard to this body with consciousness and in regard to all external signs, the mind is rid of Imaking, mine-making, and conceit, has transcended discrimination, and is peaceful and well liberated?”

4) — “Any kind of form whatsoever, Surādha, whether past, future, or present … far or near—having seen all form as it really is with correct wisdom thus: ‘This is not mine, this I am not, this is not my self,’ one is liberated by nonclinging.

5-8) “Any kind of feeling whatsoever … Any kind of perception whatsoever … Any kind of volitional formations whatsoever … [81] Any kind of consciousness whatsoever, whether past, future, or present, internal or external, gross or subtle, inferior or superior, far or near—having seen all consciousness as it really is with correct wisdom thus: ‘This is not mine, this I am not, this is not my self,’ one is liberated by nonclinging.

9) “When one knows, and sees thus, Surādha, then in regard to this body with consciousness and in regard to all external signs, the mind is rid of I-making, minemaking, and conceit, has transcended discrimination, and is peaceful and well liberated.”

10) Then the Venerable Surādha … became one of the arahants.

 

Sources:

Tài liệu tham khảo:

  1. http://www.budsas.org/uni/u-kinh-tuongungbo/tu3-22c.htm
  2. http://lirs.ru/lib/sutra/Connected_Discourses_of_the_Buddha(Samyutta_Nikaya).Vol.I.pdf