Tập II – Chương IX – Tương Ưng Thí Dụ (12 lessons) – Opammasaṃyutta Connected Discourses with Similes – Song ngữ

Anh ngữ: Bhikkhu Bodhi.

Việt ngữ: Hòa thượng Thích Minh Châu.

Compile: Lotus group.

 I. The Roof Peak – Chóp Mái

 

1) Thus, have I heard.

On one occasion the Blessed One was dwelling at Sāvatthī in Jeta’s Grove, Anāthapiṇḍika’s Park…

2) There the Blessed One said this:

3) –“Bhikkhus, just as all the rafters of a peaked house lead to the roof peak and converge upon the root peak, and all are removed when the roof peak is removed.

4) So too all unwholesome states are rooted in ignorance and converge upon ignorance, and all are uprooted when ignorance is uprooted.

5) Therefore, bhikkhus, you should train yourselves thus: ‘We will dwell diligently.’ Thus, should you train yourselves.”

1) Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà Lâm), tại vườn ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc).

2) Ở đây, Thế Tôn nói như sau:

3) — Ví như, này các Tỷ-kheo, một ngôi nhà có nóc nhọn cao, phàm có những cây kèo xa nào, tất cả chúng đều đi đến góc nhọn, đều quy tựa vào góc nhọn, đều châu đầu vào góc nhọn, tất cả chúng đều đâm đầu vào một gốc.

4) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, phàm có những bất thiện pháp nào, tất cả chúng đều lấy vô minh làm cội rễ, đều lấy vô minh làm điểm tựa, đều châu đầu vào vô minh, tất cả chúng đều đâm đầu vào một gốc.

5) Do vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như sau: “Chúng ta hãy sống không phóng dật”.

 

  1. The Fingernail – Ðầu Ngón Tay

 

  • … At Sāvatthī.

2) Then the Blessed One took up a little bit of soil in his fingernail and addressed the bhikkhus thus:

3) — “Bhikkhus, what do you think, which is more: the little bit of soil that I have taken up in my fingernail or the great earth?”

4) — “Venerable sir, the great earth is more. The little bit of soil that the Blessed One has taken up in his fingernail is trifling. Compared to the great earth, it is not calculable, does not bear comparison, does not amount even to a fraction.”

5) — “So too, bhikkhus, those beings who are reborn among human beings are few. But those beings are more numerous who are reborn elsewhere than among human beings.

6) Therefore, bhikkhus, you should train yourselves thus: ‘We will dwell diligently.’

Thus, should you train yourselves.”

1) … Trú ở Sàvatthi.

2) Rồi Thế Tôn lấy một ít đất trên đầu móng tay và nói với các Tỷ-kheo:

3) — Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Cái gì nhiều hơn, chút đất này Ta lấy trên đầu móng tay, hay quả đất lớn này?

4) — Cái này, bạch Thế Tôn, là nhiều hơn, tức là quả đất lớn này và ít hơn là chút đất mà Thế Tôn lấy trên đầu móng tay. Không thể đi đến ước tính, không thể đi đến so sánh, không thể đi đến một vi phần, khi so sánh quả đất lớn với chút đất mà Thế Tôn lấy trên đầu móng tay.

5) — Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, rất ít là chúng sanh được tái sanh làm người! Còn rất nhiều là những chúng sanh phải tái sanh ra ngoài loài Người!

6) Do vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như sau: “Chúng tôi sẽ sống không phóng dật”.

Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập.

 

  1. Families – Gia Ðình

 

  • … At Sāvatthī.

2) — “Bhikkhus, just as it is easy for burglars to assail those families that have many women and few men.

3) — So too it is easy for nonhuman beings to assail a bhikkhu who has not developed and cultivated the liberation of mind by lovingkindness.

4-5) — “Just as it is difficult for burglars to assail those families that have few women and many men, so too it is difficult for nonhuman beings to assail a bhikkhu who has developed and cultivated the liberation of mind by lovingkindness.

6) “Therefore, bhikkhus, you should train yourselves thus: ‘We will develop and cultivate the liberation of mind by lovingkindness, make it our vehicle, make it our basis, stabilize it, exercise ourselves in it, and fully perfect it.’

Thus, should you train yourselves.”

1) … Trú ở Sàvatthi.

2) — Ví như, này các Tỷ-kheo, những gia đình nào có nhiều phụ nữ và ít đàn ông, thời những gia đình ấy rất dễ bị các đạo tặc, trộm ghè não hại.

3) — Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào không tu tập từ tâm giải thoát, không làm cho sung mãn, thời vị ấy dễ bị phi nhân não hại.

4) — Ví như, này các Tỷ-kheo, những gia đình nào có ít phụ nữ và nhiều đàn ông, thời gia đình ấy khó bị các đạo tặc, trộm ghè não hại.

5) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào tu tập từ tâm giải thoát, làm cho sung mãn, thời vị ấy rất khó bị phi nhân não hại.

6) Do vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như sau: “Chúng tôi sẽ tu tập từ tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ địa, an trú, tích lũy và khéo thực hiện”.

Như vậy, này các Tỷ-kheo các Ông cần phải học tập.

 

  1. Pots of Food – Cái Nồi

 

At Sāvatthī.

–“Bhikkhus, if someone were to give away a hundred pots of food as charity in the morning, a hundred pots of food as charity at noon, and a hundred pots of food as charity in the evening, and if someone else were to develop a mind of lovingkindness even for the time it takes to pull a cow’s udder, either in the morning, at noon, or in the evening, this would be more fruitful than the former.

3) “Therefore, bhikkhus, you should train yourselves thus: ‘We will develop and cultivate the liberation of mind by lovingkindness, make it our vehicle, make it our basis, stabilize it, exercise ourselves in it, and fully perfect it.’

Thus, should you train yourselves.”

1) … Trú ở Sàvatthi.

2) — Này các Tỷ-kheo, ai vào buổi sáng bố thí một trăm cái nồi, ai buổi trưa bố thí một trăm cái nồi, hay ai buổi chiều bố thí một trăm cái nồi, và ai buổi sáng chỉ trong thời gian bóp vú sữa con bò một lần (trong nháy mắt), tu tập từ tâm giải thoát, hay ai buổi trưa chỉ trong thời gian bóp vú sữa con bò một lần (trong nháy mắt), tu tập từ tâm giải thoát, hay ai buổi chiều chỉ trong thời gian bóp vú sữa con bò một lần (trong nháy mắt), tu tập từ tâm giải thoát, sự việc này đối với sự việc trước, quả có lớn hơn.

3) Do vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như sau: “Chúng tôi sẽ tu tập từ tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ địa, an trú, tích lũy và khéo thực hiện”.

Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập.

 

  1. The Spear – Cây Lao

 

1) … At Sāvatthī.

2) — “Bhikkhus, suppose there was a sharp pointed spear, and a man would come along thinking: ‘I will bend back this sharp-pointed spear with my hand or fist, twist it out of shape, and twirl it around.’

3) What do you think bhikkhus, would it be possible for that man to do so?”

“No, venerable sir.

4) For what reason?

Because it is not easy to bend back that sharp-pointed spear with one’s hand or fist, to twist it out of shape, or to twirl it around. That man would only experience fatigue and vexation.” 

5) — “So too, bhikkhus, when a bhikkhu has developed and cultivated the liberation of mind by lovingkindness, made it a vehicle, made it a basis, stabilized it, exercised himself in it, and fully perfected it, if a nonhuman being thinks he can overthrow his mind, that nonhuman being would only experience fatigue and vexation.

6) “Therefore, bhikkhus, you should train yourselves thus: ‘We will develop and cultivate the liberation of mind by lovingkindness, make it our vehicle, make it our basis, stabilize it, exercise ourselves in it, and fully perfect it.’ Thus should you train yourselves.”

1) … Trú ở Sàvatthi.

2) — Ví như, này các Tỷ-kheo, một cây lao có lưỡi sắc bén. Rồi một người đến và nói: “Với tay hay với nắm tay, tôi sẽ bẻ gập đôi lưỡi sắc bén của cây lao này, tôi sẽ đánh phía cạnh cho nó quặp dài lại, tôi sẽ uốn cong nó lại”.

3) Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Người ấy có thể với tay hay nắm tay bẻ gập đôi lưỡi sắc bén của cây lao này, đánh phía cạnh cho nó quặp dài lại, uốn cong nó lại không?

— Thưa không, bạch Thế Tôn.

4) Vì sao?

Bạch Thế Tôn, không dễ gì, với tay hay nắm tay bẻ gập đôi lưỡi sắc bén của cây lao này, đánh phía cạnh cho nó quặp dài lại, uống cong nó lại, mà không khiến cho người ấy mệt nhọc và bị não hại.

5) — Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi một ai (vị Tỷ-kheo) tu tập từ tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ địa, an trú, tích lũy và khéo thực hiện, thời một phi nhân nào nghĩ rằng, có thể đánh ngã một tâm như vậy, kẻ phi nhân ấy ở đây sẽ mệt nhọc và bị não hại.

6) Do vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như sau: “Chúng tôi sẽ tu tập từ tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ địa, an trú, tích lũy và khéo thực hiện”.

Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập.

 

  1. The Archers – Người Bắn Cung

 

1) … At Sāvatthī.

2) — “Bhikkhus, suppose there were four firm bowed archers, trained, dexterous, experienced, standing in each of the four directions.

3) Then a man would come along, thinking: ‘I will catch the arrows shot by these four archers in each of the four directions before they reach the ground and then I will bring them back.’

4) — What do you think, bhikkhus, would this be enough to say: ‘That man is a speedster endowed with supreme speed’?”

5) — “Venerable sir, even if he could catch the arrow shot by one archer before it reached the ground and could bring it back, that would be enough to say: ‘That man is a speedster endowed with supreme speed.’ There is no need to speak about the arrows shot by all four archers!”

6) — “Bhikkhus, as swift as that man is, still swifter are the sun and moon. As swift as that man is, and as swift as are the sun and moon, and as swift as are the deities that run before the sun and moon, the vital formations perish even more swiftly than that.

7) Therefore, bhikkhus, you should train yourselves thus: ‘We will dwell diligently.’ Thus, should you train yourselves.”

1) … Trú ở Sàvatthi.

2) — Ví như, này các Tỷ-kheo, bốn người bắn cung dõng mãnh, lão luyện, thuần tay, thiện xảo về cung thuật, đứng tại bốn phương.

3) Rồi một người đến và nói rằng: “Ta sẽ nắm bắt và đem lại những mũi tên được bắn đi bốn phương, trước khi chúng rơi xuống đất, do bốn người bắn cung này bắn đi, những người dõng mãnh, lão luyện, thuần tay, thiện xảo về cung thuật”.

4) — Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Như vậy có vừa đủ chăng để gọi người nhanh nhẹn ấy đầy đủ với sự nhanh nhẹn tối thượng?

5) — Bạch Thế Tôn, nếu chỉ từ một người bắn cung dõng mãnh, lão luyện, thuần tay, thiện xảo về cung thuật, có thể nắm bắt và đem lại một mũi tên được bắn đi, như vậy là vừa đủ để gọi người nhanh nhẹn ấy, đầy đủ với sự nhanh nhẹn tối thượng. Còn nói gì từ bốn người bắn tên, dõng mãnh, lão luyện, thuần tay, thiện xảo về cung thuật!

6) — Và như vậy, này các Tỷ-kheo, là sự nhanh nhẹn của người ấy. Và như vậy là sự nhanh nhẹn của mặt trăng, mặt trời, còn nhanh hơn sự nhanh nhẹn trước. Và như vậy, này các Tỷ-kheo là sự nhanh nhẹn của người ấy, và như vậy là sự nhanh nhẹn của mặt trăng, mặt trời, và như vậy là sự nhanh nhẹn của các chư Thiên chạy trước mặt trăng, mặt trời. Còn nhanh nhẹn hơn là sự biến diệt của thọ hành (thọ mạng của các sự vật).

7) Do vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như sau: “Chúng tôi sẽ sống không phóng dật”.

Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập.

 

  1. The Drum Peg – Cái Chốt Trống

 

1) … At Sāvatthī.

2) — “Bhikkhus, once in the past the Dasārahas had a kettle drum called the Summoner (Anaka).

3) When the Summoner (Anaka) became cracked, the Dasārahas inserted another peg. Eventually the time came when the Summoner’s original drumhead had disappeared and only a collection of pegs remained.

4) “So too, bhikkhus, the same thing will happen with the bhikkhus in the future.

5) When those discourses spoken by the Tathāgata that are deep, deep in meaning, supramundane, dealing with emptiness, are being recited, they will not be eager to listen to them, nor lend an ear to them, nor apply their minds to understand them; and they will not think those teachings should be studied and mastered.

6) But when those discourses that are mere poetry composed by poets, beautiful in words and phrases, created by outsiders, spoken by [their] disciples, are being recited, they will be eager to listen to them, will lend an ear to them, will apply their minds to understand them; and they will think those teachings should be studied and mastered. In this way, bhikkhus, those discourses spoken by the Tathāgata that are deep, deep in meaning, supramundane, dealing with emptiness, will disappear.

7) “Therefore, bhikkhus, you should train yourselves thus: ‘When those discourses spoken by the Tathāgata that are deep, deep in meaning, supramundane, dealing with emptiness, are being recited, we will be eager to listen to them, will lend an ear to them, will apply our minds to understand them; and we will think those teachings should be studied and mastered.’

Thus, should you train yourselves.”

1) … Trú ở Sàvatthi.

2)– Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, dân chúng Dasàrahà có một cái trống tên là Anaka.

3) Khi cái trống Anaka bắt đầu nứt ra, dân chúng Dasàrahà đóng vào một cái chốt khác. Cho đến một thời gian, này các Tỷ-kheo, cả cái thùng ván của trống Anaka biến mất và chỉ còn lại những cái chốt tụ tập lại.

4) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo sẽ thành trong tương lai.

5) Những bài kinh nào do Như Lai thuyết, thâm sâu, nghĩa lý thâm diệu, xuất thế gian, liên hệ đến không, họ sẽ không nghe khi các kinh ấy được thuyết giảng; họ sẽ không lóng tai; họ sẽ không an trú chánh tri tâm, và họ sẽ không nghĩ rằng các pháp ấy cần phải học thuộc lòng, cần phải thấu đáo.

6) Còn những bài kinh nào do các thi sĩ làm, những bài thơ với những danh từ hoa mỹ, với những câu văn hoa mỹ, thuộc ngoại điển, do các đệ tử thuyết giảng, họ sẽ nghe khi các kinh ấy được thuyết giảng; họ sẽ lóng tai; họ sẽ an trú chánh tri tâm và họ sẽ nghĩ rằng, các pháp ấy cần phải học thuộc lòng, cần phải học thấu đáo. Như vậy, này các Tỷ-kheo, các kinh do Như Lai thuyết, thâm sâu, nghĩa lý thâm diệu, xuất thế gian, liên hệ đến không sẽ đi đến tiêu diệt.

7) Do vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như sau: “Những bài kinh nào do Như Lai thuyết giảng, thâm sâu, nghĩa lý thâm diệu, xuất thế gian, liên hệ đến không, chúng tôi sẽ nghe khi các kinh ấy được thuyết giảng; chúng tôi sẽ lóng tai; chúng tôi sẽ an trú chánh tri tâm. Và chúng tôi sẽ nghĩ rằng, các pháp ấy cần phải học thuộc lòng, cần phải học thấu đáo”.

Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập.

 

  1. Blocks of Wood – Cỏ Rơm

 

1) Thus, have I heard.

On one occasion the Blessed One was dwelling at Vesālī in the Great Wood in the Hall with the Peaked Roof.

  • There the Blessed One addressed the bhikkhus thus: “Bhikkhus!”

“Venerable sir!” those bhikkhus replied. The Blessed One said this:

3-4) “Bhikkhus, now the Licchavis dwell using blocks of wood as cushions; they are diligent and ardent in exercise. King Ajātasattu of Magadha, the Videhan son, does not gain access to them; he does not get a hold on them. But in the future the Licchavis will become delicate, with soft and tender hands and feet; they will sleep until sunrise on soft beds with pillows of cotton wool. Then King Ajātasattu of Magadha will gain access to them; then he will get a hold on them.

5) “Bhikkhus, now the bhikkhus dwell using blocks of wood as cushions; they are diligent and ardent in striving. Māra the Evil One does not gain access to them; he does not get a hold on them.

6) But in the future the bhikkhus will become delicate, with soft and tender hands and feet; they will sleep until sunrise on soft beds with pillows of cotton wool. Then Māra the Evil One will gain access to them; he will get a hold on them.

7) “Therefore, bhikkhus, you should train yourselves thus: ‘Using blocks of wood as cushions, we will dwell diligent and ardent in striving.’

Thus, should you train yourselves.”

1) Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn ở Vesàli (Tỳ-xá-ly), Mahàvana (Ðại Lâm), Kuutàgàrasàlà (Trùng Các giảng đường).

2) Ở đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: “Này các Tỷ-kheo”. — “Thưa vâng, bạch Thế Tôn”.

Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:

3) — Sống trên các gối rơm, này các Tỷ-kheo, là lối sống hiện nay của dân chúng Licchavi, không phóng dật, nhiệt tâm trong nhiệm vụ. Ajàtasattu, con bà Vedehi, vua nước Magadha không có được cơ hội, không có được đối tượng để xâm lăng.

4) Trong tương lai, này các Tỷ-kheo, dân chúng Licchavi trở thành nhu nhược, tay chân mềm mỏng. Họ nằm trên những đồ nằm mềm mại. Họ ngủ cho đến mặt trời mọc trên những gối bông. Ajàtasattu, con bà Vedehi, vua nước Magadha, sẽ nắm được cơ hội, sẽ nắm được đối tượng để xâm lăng.

5) Sống trên các gối rơm, này các Tỷ-kheo, là nếp sống hiện nay của các Tỷ-kheo, không phóng dật, nhiệt tâm trong các nỗ lực. Ác ma không có cơ hội, không có đối tượng để xâm lăng.

6) Trong tương lai, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo sẽ trở thành nhu nhược, tay chân mềm mỏng. Họ nằm trên những đồ nằm mềm mại. Họ ngủ cho đến mặt trời mọc trên những gối bông. Ác ma sẽ nắm được cơ hội, sẽ nắm được đối tượng (để xâm lăng).

7) Do vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như sau: “Chúng tôi sẽ sống trên những gối rơm, không phóng dật, nhiệt tâm trong nỗ lực”.

Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập.

 

  1. The Bull Elephant – Voi

 

1) Thus, have I heard. On one occasion the Blessed One was dwelling at Sāvatthī in Jeta’s Grove, Anāthapiṇḍika’s Park.

2-3) Now on that occasion a certain newly ordained bhikkhu was approaching families excessively. The other bhikkhus told him:

— “The venerable one should not approach families excessively,” but when he was being admonished by them he said: “These elder bhikkhus think they can approach families, so why can’t I?” 

4-5) Then a number of bhikkhus approached the Blessed One, paid homage to him, sat down to one side, and reported this matter to the Blessed One.

6) [The Blessed One said:] 

— “Bhikkhus, once in the past there was a great lake in a forest, with bull elephants dwelling in its vicinity. Those elephants would plunge into the lake, pull up lotus stalks with their trunks, and, having washed them thoroughly, would chew them and swallow them free from mud. This increased their beauty and strength, and on that account, they did not meet death or deadly suffering.

 

7) “Their young offspring, emulating those great bull elephants, would plunge into the lake and pull up lotus stalks with their trunks, but without washing them thoroughly, without chewing them, they would swallow them along with the mud. This did not increase their beauty and strength, and on that account they met death or deadly suffering.

8) “So too, bhikkhus, here the elder bhikkhus dress in the morning and, taking bowl and robe, enter a village or town for alms. There they speak on the Dhamma, and the laypeople show their confidence to them. They use their gains without being tied to them, un-infatuated with them, not blindly absorbed in them, seeing the danger in them and understanding the escape. This increases their beauty and strength, and on that account, they do not meet death or deadly suffering.

9-10) “The newly ordained bhikkhus, emulating the elder bhikkhus, dress in the morning and, taking bowl and robe, enter a village or town for alms. There they speak on the Dhamma, and the laypeople show their confidence to them. They use their gains while being tied to them, infatuated with them, blindly absorbed in them, not seeing the danger in them and not understanding the escape. This does not increase their beauty and strength, and on that account, they meet death or deadly suffering.

11) “Therefore, bhikkhus, you should train yourselves thus: ‘We will use our gains without being tied to them, un-infatuated with them, not blindly absorbed in them, seeing the danger in them and understanding the escape.’

Thus, should you train yourselves.”

1) Tại ngôi vườn ở Sàvatthi.

2) Lúc bấy giờ, một vị tân Tỷ-kheo đi đến các gia đình quá nhiều thì giờ. Các Tỷ-kheo nói với Tỷ-kheo ấy:

— Tôn giả chớ có đi đến các gia đình quá nhiều thì giờ.

3) Ðược nói vậy, vị Tỷ-kheo ấy nói:

— Những Trưởng lão Tỷ-kheo này nghĩ rằng, họ có thể đi đến các gia đình. Sao không phải ta?

4) Rồi nhiều Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn… rồi ngồi xuống một bên.

5) Ngồi xuống một bên, các vị Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

— Ở đây, bạch Thế Tôn, có người tân Tỷ-kheo đi đến các gia đình quá nhiều thì giờ. Các Tỷ-kheo nói với Tỷ-kheo ấy: “Tôn giả chớ có đi đến các gia đình quá nhiều thì giờ”. Ðược các Tỷ-kheo nói vậy, Tỷ-kheo ấy nói: “Những Trưởng lão Tỷ-kheo này nghĩ rằng, họ có thể đi đến các gia đình. Sao không phải ta?”

6) — Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, gần một hồ nước lớn, tại một khu rừng, các con voi sống ở đấy. Chúng lặn xuống hồ, lấy vòi nhổ lên các củ và rễ sen, rửa chúng thật sạch, làm cho chúng sạch bùn rồi ăn chúng. Nhờ vậy, các con voi ấy được dung sắc và sức mạnh, và không vì nhân duyên ấy những con voi đi đến chết hay đi đến đau khổ gần như chết.

7) Ðược huấn luyện theo các con voi lớn ấy, này các Tỷ-kheo, các con voi trẻ và nhỏ lặn xuống hồ, lấy vòi nhổ lên các củ, rễ sen, không rửa chúng thật sạch, không làm cho chúng sạch bùn rồi ăn chúng. Do vậy, các con voi ấy không được dung sắc và sức mạnh, và vì nhân duyên ấy những con voi đi đến chết hay đi đến đau khổ gần như chết.

8) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây các Trưởng lão Tỷ-kheo vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào làng hay thị trấn để khất thực. Tại đấy họ thuyết pháp. Các gia chủ hoan hỷ làm bổn phận của mình với các vị ấy. Các Tỷ-kheo ấy thọ dụng các lợi đắc, không tham trước, không say đắm, không phạm tội, thấy những nguy hiểm, hiểu sự xuất ly với trí tuệ. Nhờ vậy, các Tỷ-kheo ấy được dung sắc và sức mạnh, và không vì nhân duyên ấy họ đi đến chết hay đi đến đau khổ gần như chết.

9) Nhưng này các Tỷ-kheo, được huấn luyện theo các Trưởng lão Tỷ-kheo, các tân Tỷ-kheo vào buổi sáng đắp y, cầm y bát đi vào làng hay thị trấn để khất thực.

10) Tại đấy, các vị thuyết pháp. Các gia chủ hoan hỷ làm bổn phận của mình. Các Tỷ-kheo ấy thọ dụng các lợi đắc, tham trước, say đắm, phạm tội, không thấy sự nguy hiểm, không hiểu sự xuất ly với trí tuệ. Do vậy, các vị Tỷ-kheo ấy không được dung sắc và sức mạnh, và vì nhân duyên ấy họ đi đến chết hay đi đến đau khổ gần như chết.

11) Do vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như sau: “Chúng tôi sẽ thọ dụng các lợi đắc, không tham đắm, không say mê, không phạm tội, thấy những nguy hiểm, hiểu rõ sự xuất ly với trí tuệ”.

Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập.

 

  1. The Cat – Con Mèo

 

1) … At Sāvatthī.

2-3) Now on that occasion a certain bhikkhu was socializing with families excessively. The other bhikkhus told him: “The venerable one should not socialize with families excessively,” but though he was admonished by them he did not desist.

4-5) Then a number of bhikkhus approached the Blessed One, paid homage to him, sat down to one side, and reported this matter to the Blessed One.

6) [The Blessed One said:] 

— “Bhikkhus, once in the past a cat stood by an alley or a drain or a rubbish bin watching for a little mouse, thinking: ‘When this little mouse comes out for food, right there I will grab it and eat it.’

7) Then that mouse came out for food, and the cat grabbed it and swallowed it hastily, without chewing it. Then that little mouse ate the cat’s intestines and mesentery, and on that account the cat met with death and deadly suffering.

8) “So too, bhikkhus, here some bhikkhu dresses in the morning and, taking bowl and robe, enters a village or town for alms with body, speech, and mind unguarded, without setting up mindfulness, unrestrained in his sense faculties. 9) He sees women there lightly clad or lightly attired and lust invades his mind. With his mind invaded by lust he meets death or deadly suffering.

10) For this, bhikkhus, is death in the Noble One’s Discipline: that one gives up the training and returns to the lower life. This is deadly suffering: that one commits a certain defiled offence of a kind that allows for rehabilitation.

11) “Therefore, bhikkhus, you should train yourselves thus: ‘We will enter a village or town for alms with body, speech, and mind guarded, with mindfulness set up, restrained in our sense faculties.’ Thus, should you train yourselves.”

1) … Trú ở Sàvatthi.

2) Lúc bấy giờ có Tỷ-kheo thường dùng quá nhiều thì giờ giữa các gia đình. Các Tỷ-kheo nói với vị ấy: “Tôn giả chớ có dùng quá nhiều thì giờ giữa các gia đình”.

3) Tỷ-kheo ấy được các Tỷ-kheo nói vậy, tâm không hoan hỷ.

4) Rồi nhiều Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn… và bạch Thế Tôn:

5) — Ở đây, bạch Thế Tôn, có Tỷ-kheo thường dùng quá nhiều thì giờ giữa các gia đình. Các Tỷ-kheo nói với vị ấy: “Tôn giả chớ có dùng quá nhiều thì giờ giữa các gia đình”. Tỷ-kheo ấy được các Tỷ-kheo nói vậy, tâm không hoan hỷ.

6) — Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, có con mèo đứng rình con chuột bên cạnh một đống rác tại một ống cống và nghĩ rằng: “Nếu có một con chuột nhắt nào đi kiếm ăn chạy ra, ta sẽ bắt lấy và ăn thịt”.

7) Rồi này các Tỷ-kheo, có con chuột nhắt vì kiếm ăn chạy ra. Và con mèo ấy bắt lấy nó, mau chóng hành động (sankharirva) và nuốt nó. Và con chuột nhắt ấy cắn ruột, cắn phủ tạng con mèo. Do nhân duyên ấy, con mèo đi đến chết hay đi đến đau khổ gần như chết.

8) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây, một số Tỷ-kheo vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào làng hay thị trấn để khất thực, thân không phòng hộ, lời nói không phòng hộ, tâm không phòng hộ, niệm không an trú, các căn không chế ngự.

9) Ở đấy, các vị ấy thấy các phụ nữ mặc không đứng đắn, hay mặc không kín đáo. Sau khi các vị ấy thấy các phụ nữ mặc không đứng đắn, hay mặc không kín đáo, tham dục não hại tâm. Các vị ấy bị tham dục não hại tâm, đi đến chết hay đi đến đau khổ gần như chết.

10) Ðây là sự chết, này các Tỷ-kheo, trong giới luật của bậc Thánh, tức là sự từ bỏ học giới và hoàn tục. Ðây là đau khổ gần như chết, này các Tỷ-kheo, tức là sự vi phạm một uế tội, một tội phạm còn có thể tuyên bố xuất gỡ được.

11) Do vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như sau: “Phòng hộ thân, phòng hộ lời nói, phòng hộ tâm, an trú chánh niệm, chế ngự các căn, chúng tôi sẽ đi vào làng hay thị trấn để khất thực”.

Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập.

 

  1. The Jackal (1) – Con Chó Rừng (1)

 

1) … At Sāvatthī.

2) — “Bhikkhus, did you hear an old jackal howling at the flush of dawn?”

— “Yes, venerable sir.”

3) — “That old jackal is afflicted with a disease called mange. Yet he still goes wherever he wants, stands wherever he wants, sits wherever he wants, lies down wherever he wants, and a cool breeze even blows upon him.

4) It would be good for a certain person here claiming to be a follower of the Sakyan son if he were to experience even such a form of individual existence.

5) “Therefore, bhikkhus, you should train yourselves thus: ‘We will dwell diligently.’

6) Thus, should you train yourselves.”

1) … Trú ở Sàvatthi.

2) — Các Ông có nghe chăng, này các Tỷ-kheo, trong ban đêm khi trời gần sáng, con giả-can đang tru lớn tiếng?

— Thưa có, bạch Thế Tôn.

3) — Ðó là con giả-can, này các Tỷ-kheo, bị mắc bệnh ghẻ lở. Chỗ nào nó muốn đi, chỗ nào nó muốn đứng, chỗ nào nó muốn ngồi, chỗ nào nó muốn nằm, gió lạnh buốt thổi lên trên nó.

4) Lành thay, này các Tỷ-kheo, nếu ở đây có người nào, tự cho là Thích tử, lại có thể cảm thọ được một trạng huống tự ngã như vậy.

5) Do vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như sau: “Chúng tôi sẽ không phóng dật”.

6) Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập.

 

  1. The Jackal (2) – Con Giả Can (2)

 

1) … At Sāvatthī.

2) — “Bhikkhus, did you hear an old jackal howling at the flush of dawn?”

— “Yes, venerable sir.”

3) — “There may be some gratitude and thankfulness in that old jackal, but there is no gratitude and thankfulness in a certain person here claiming to be a follower of the Sakyan son.  

4) “Therefore, bhikkhus, you should train yourselves thus: ‘We will be grateful and thankful, and we will not overlook even the least favour done to us.’

Thus, should you train yourselves.”

1) … Trú ở Sàvatthi.

2) — Các Ông có nghe chăng, này các Tỷ-kheo, trong ban đêm lúc gần sáng, có con giả-can già tru lớn tiếng?.

— Thưa không, bạch Thế Tôn.

3) — Rất có thể, này các Tỷ-kheo, trong con giả-can già ấy, có nhiều biết ơn, có nhiều cảm tạ, hơn là ở đây trong một người tự xưng là Thích tử về biết ơn và về cảm tạ!

4) Do vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như sau: “Chúng tôi sẽ biết ơn, cảm tạ. Dầu cho có chút ít gì làm giữa chúng tôi, chúng tôi cũng không để cho mất đi”.

Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập.

 

Sources:

Tài liệu tham khảo:

  1. http://www.budsas.org/uni/u-kinh-tuongungbo/tu2-20.htm
  2. http://lirs.ru/lib/sutra/Connected_Discourses_of_the_Buddha(Samyutta_Nikaya).Vol.I.pdf