Prajnà Period –
Thời Kỳ Bát Nhã
The heart of prajna paramita sutra
Bát nhã ba la mật đa tâm kinh
English: Anonimous
Việt ngữ: Thiện Tri Thức
Compile: Middle Way Group
01. Kinh Bát Nhã – The Heart Sutra – Version 1st – Song ngữ
01. Tâm Kinh – Version 1st – Song ngữ
The Heart Sutra – Version 1st
Tâm Kinh – phiên bản số 1
1. The Bodhisattva Avalokitésvara, while engaged in the practice of profound Prajñāpāramitā, perceived that the five aggregates were empty of “self-existence”; thus, he overcame all sufferings and troubles.
A- Khi tiến sâu (1) vào nguồn mạch của Tuệ giác Vô thượng (2), Người Tỉnh Thức Bình Yên (3) soi sáng như thật rằng tự tính củanăm hợp thể (4) đều là Không (5), liền thoát ly mọi khổ ách.
2. O Sāriputra, Form does not differ from Emptiness, and Emptiness does not differ from Form; Form is Emptiness, and Emptiness is Form. The same can be said of feelings, conceptions, actions, and consciousnesses.
B- Này người con dòng Sari (6), hình thể chẳng khác chân không (7), chân không chẳng khác hình thể; hình thể là chân không, chân khônglà hình thể; cảm xúc (8), niệm lự (9), tư duy (10) và ý thức (11) đều lànhư vậy.
3. O Sāriputra, the characteristics of the Emptiness of all dharmas are that they are not arising, not ceasing, not defiled, not immaculate, not increasing, and not decreasing.
C- Này người con dòng Sari, tất cả hiện hữu được biểu thị là Không; nó không sanh, không diệt; không nhơ, không sạch; không tăng, không giảm.
4. For these reasons, in Emptiness there are no forms, no feelings, no conceptions, no actions, no consciousnesses: no eyes, ears, tongue, body, or mind; no form, sound, odor, taste, touch or mind-object; no eye elements until we come to no elements of consciousnesses; no ignorance and no extinction of ignorance; no old age and death, and no extinction of old age and death; no truth of sufferings, and no truth of the causes of sufferings, of the cessation of sufferings, or of the path. There is no knowledge and no attainment whatsoever.
D- Vì thế, này người con dòng Sari, trong Không không có hình thể, không có cảm xúc, không có niệm lự, không có tư duy, không có ý thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý; không có hình thể, âmthanh, hương thơm, mùi vị, xúc chạm (12) và hiện hữu (13). Khôngcó đối tượng của mắt, cho đến không có đối tượng của ý thức; khôngcó minh, không có vô minh; không có sự chấm dứt của minh, cũngkhông có sự chấm dứt của vô minh; cho đến không có tuổi già và sựchết, cũng không có sự chấm dứt tuổi già và sự chết; không có khổđau, không có nguyên nhân của khổ đau, không có sự chấm dứt khổđau, và không có con đường đưa đến sự chấm dứt khổ đau (15); không có trí giác (16) cũng không có sự thành tựu trí giác.
5. By reason of non-attainment, the Bodhisattva dwelling in Prajñāpāramitā has no obstacles in his mind. Because there are no obstacles in his mind, he has no fear and, going far beyond all perverted views, confusions, and imaginations, reaches the ultimate Nirvāna.
E- Người Tỉnh Thức Bình Yên, do không sở đắc nên sống an lànhtrong Tuệ giác Vô thượng và thoát ly tất cả chướng ngại. Và rằng, vìkhông có những chướng ngại trong tâm nên không có sợ hãi và xarời những cuồng si mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn.
6. All the Buddhas of the past, present, and future, by relying on the Prajñāpāramitā, attain the Supreme Enlightenment.
F- Tất cả chư Phật trong ba đời (17) đều nương vào Tuệ giác Vôthượng mà thành tựu (18) chánh giác.
7. Therefore, one should know that the Prajñāpāramitā is the great incantation, the incantation of great wisdom, the unexcelled incantation, and the equal of the unequalled incantation that is capable of allaying all sufferings, true because it is devoid of falsehood. This is the incantation proclaimed in the Prajñāpāramitā. The incantation is proclaimed as follows: “Gate, gate; pāragate, parasamgate, Bodhi, svāhā!”
G- Vì thế, nên biết rằng Tuệ giác Vô thượng là sức thần (19) kỳ vĩ, làsức thần của trí tuệ vĩ đại, là sức thần cao tuyệt, là sức thần tối hậu, vô song; có thể trừ diệt tất cả khổ đau. Sức thần thoắt sinh từ Tuệgiác Vô thượng này là sự thật, là chân lý. Sức thần có năng lực tốithượng đó được tuyên nói trong kinh Trái Tim Tuệ Giác Vô Thượngrằng:
“Ði qua, đi qua,
Ði qua bờ bên kia,
Ðã đi qua đến bờ bên kia, Svāhā!”
Chú thích đặc biệt của bản dịch tiếng Việt:
(1) Cụm từ “tiến sâu” trong bản dịch này mang ý nghĩa: sự “thểnhập” hay “thể nghiệm” của dòng tâm thức trong “thiền quán”. Trạng thái của dòng tâm thức này dĩ nhiên được vận hành trên cănbản của tâm thức an định.
(2) “Nguồn mạch của Tuệ giác Vô thượng” được dịch từ cụm từ“thâm Bát nhã-profound Prajñāparamitā”; ở đây, “trí tuệ bên kia bờ” hay “trí tuệ đáo bỉ ngạn” — trí tuệ (prajñā), bên kia bờ(pāramitā) có thể được hiểu là “tuệ giác vô thượng”. Vì lẽ, chỉ cóhàng đại Bồ tát từ Bát Địa (trong Thập địa) trở lên mới phát huy trítuệ đặc biệt này. Từ “nguồn mạch” được thêm vào trong bản tiếngViệt để nhấn mạnh yếu tố “thẳm sâu” của tuệ giác, một loại tuệ giácđầu nguồn mang tính cách uyên nguyên và vô phân biệt.
(3) “Người Tỉnh Thức Bình Yên” trong nguyên văn của bản kinh làBồ Tát Avalokitésvara (Bodhisattva Avalokitésvara). Ở đây, Avalokitésvara được dịch theo hai cách: Quán Thế Âm và Quán TựTại. Trong bản dịch chữ Hán của Ngài Huyền Trang, danh từ nàyđược dịch là Quán Tự Tại. Từ kép Sanskrit này được kết hợp bởi: Avalokita có nghĩa là quán, chiếu kiến, hay nhìn khắp nơi; và isvaracó nghĩa là chúa tể, hay bậc siêu nhân có quyền năng hành xử mộtcách tự do. Vấn đề này cũng được bàn đến trong Bát Nhã Tâm Kinh Tán của Viên Trắc (Wonch’uk). Trong bản tiếng Việt, danh từ nàyđược dịch là “Người Tỉnh Thức Bình Yên” nhằm mô tả trạng thái“an tịnh” trong tâm thức của Bồ Tát, người đang trú trong thiền địnhvà kiến chiếu đương thể (năm hợp thể) tức không.
(4) “Năm hợp thể” là năm uẩn (skandhas).
(5) “Không” tức là Śūnyatā.
(6) Mẹ của Sāriputra là người rất thông minh nên có hiệu là Sari. Trung Hoa dịch chữ Sariputra là Xá Lợi Tử, hay Xá Lợi Phất nghĩalà, đứa con dòng Xá Lợi (Sari). Do đó, ở đây dịch là: Người con dòng Sari, lối dịch này đã được sử dụng trong bản dịch “Kinh RuộtTuệ Giác Siêu Việt” của Thi Vũ, do Trí Quang giới thiệu, xuất bảnnăm 1973, tại Paris.
(7) “Hình thể và chân không” là hai từ biểu thị cho sắc và không. Cảhai từ này đều mang tính cách giả định. Ví dụ: khi nói đến sắc tức lànói đến một hình thể, một vật hữu hình, một vật chất…mà nó đốinghịch lại với không: như chân không, không hình thù, không hiệnhữu hay không thực có. Dĩ nhiên, không trong đối lập với sắc ở đâyđược hiểu là giả định; nhưng Không trong tinh yếu của Bát Nhã làŚūnyatā, nó vượt lên trên mọi phân biệt, đối lập giữa sắc và không.
(8) “Cảm xúc” tức là Thọ uẩn (vedanayā).
(9) “Niệm lự” là một cách diễn dịch về Tưởng uẩn (samjñā: nhữngniệm lự hay các ấn tượng của tri giác).
(10) “Tư duy” tức là Hành uẩn (samskāra-mental formations). Tưduy là yếu tố căn bản trong đời sống tâm thức, nó nổi bật trong mọisự tạo tác và tựu thành của nghiệp (karmic formations).
(11) “Ý thức” (vijñāna) là Thức uẩn, bao gồm cả ba yếu tố: cảm xúc(thọ), niệm lự (tưởng), và tư duy (hành).
(12) “Xúc” (sparśa) trong (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp). Xúc làtiếp xúc, giao thoa giữa các căn và trần.
(13) Hiện hữu được dùng đồng nghĩa với pháp (dharma).
(14) Vô minh (avidyayā), nguồn gốc của sự khổ đau.
(15) Tứ đế (Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Ðạo đế).
(16) Trí giác dịch từ “Vô trí diệc vô đắc“.
(17) Ba đời: quá khứ, hiện tại, vị lai.
(18) Thành tựu ở đây có nghĩa là đã giải thoát khỏi thế giới sinh tửcủa nhị nguyên.
(19) “Sức thần” tức là năng lực phi thường được sinh khởi linh ngữhay thần chú (mantra).
Sources:
Tài liệu tham khảo:
3. https://tienvnguyen.net/a433/tam-kinh-tri-tue