Phần 5 – Chương 4 – Book 4 – Câu hỏi về việc tự kết liễu bản thân – On suicide – Song ngữ

English: T. W. Rhys Davids – From Pali Language

Việt ngữ: Tỳ khưu Indacanda (Trương Đình Dũng)

Compile: Lotus group

Reverence be to the Blessed One, The Arahat, and the Sammâ-SamBudda.

Kính lễ đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, và đấng Chánh Biến Tri.

Book IV – Quyển IV

Chương 4 – Phần 5.

ON SUICIDE.

Câu hỏi về việc tự kết liễu bản thân.

 

  1. [195] ‘Venerable Nâgasena, it has been said by the Blessed One:

“A brother is not, O Bhikkhus, to commit suicide. Whosoever does so shall be dealt with according to the law 1.”

And on the other hand you (members of the Order) say:

“On whatsoever subject the Blessed One was addressing the disciples, he always, and with various similes, preached to them in order to bring about the destruction of birth, of old age, of disease, and of death. And whosoever overcame birth, old age, disease, and death, him did he honour with the highest praise 2.”

“Thưa ngài Nāgasena, điều này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến:

‘Này các tỳ khưu, không nên tự kết liễu bản thân;[1] vị nào tự kết liễu thì nên được hành xử theo pháp.’

Và thêm nữa, ngài nói rằng:

‘Ở bất cứ nơi nào, trong khi thuyết giảng Giáo Pháp cho các đệ tử, đức Thế Tôn thuyết giảng Giáo Pháp bằng nhiều phương tiện nhằm cắt đứt hoàn toàn đối với sanh, đối với già, đối với bệnh, đối với chết. Bởi vì bất cứ vị nào vượt qua sanh-già-bệnh-chết, Ngài ca ngợi vị ấy với lời ca ngợi cao cả nhất.’

 

Now if the Blessed One forbade suicide that saying of yours must be wrong, but if not then the prohibition of suicide must be wrong. This too is a double-edged problem now put to you, and you have to solve it.’

Thưa ngài Nāgasena, nếu điều đã được nói bởi đức Thế Tôn là: ‘Này các tỳ khưu, không nên tự kết liễu bản thân; vị nào tự kết liễu thì nên được hành xử theo pháp,’ như thế thì lời nói rằng: ‘Ngài thuyết giảng Giáo Pháp nhằm cắt đứt hoàn toàn đối với sanh, đối với già, đối với bệnh, đối với chết’ là sai trái. Nếu Ngài thuyết giảng Giáo Pháp nhằm cắt đứt hoàn toàn đối với sanh, đối với già, đối với bệnh, đối với chết, như thế thì lời nói rằng: ‘Này các tỳ khưu, không nên tự kết liễu bản thân; vị nào tự kết liễu thì nên được hành xử theo pháp’ cũng là sai trái. Câu hỏi này cũng có cả hai khía cạnh, được dành cho ngài. Nó nên được giải quyết bởi ngài.”

 

 

  1. ‘The regulation you quote, O king, was laid down by the Blessed One, and yet is our saying you refer to true. And there is a reason for this, a

 

  1. 274

 

reason for which the Blessed One both prohibited (the destruction of life), and also (in another sense) instigated us to it.’

‘What, Nâgasena, may that reason be?’

“Tâu đại vương, điều này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến: ‘Này các tỳ khưu, không nên tự kết liễu bản thân; vị nào tự kết liễu thì nên được hành xử theo pháp.’ Ở bất cứ nơi nào, trong khi thuyết giảng Giáo Pháp cho các đệ tử, đức Thế Tôn thuyết giảng Giáo Pháp bằng nhiều phương tiện nhằm cắt đứt hoàn toàn đối với sanh, đối với già, đối với bệnh, đối với chết. Tuy nhiên trường hợp ấy là có lý do, mà với lý do ấy đức Thế Tôn đã khước từ và đã khuyến khích.”  

“Thưa ngài Nāgasena, vậy thì ở đây có lý do gì mà với lý do ấy đức Thế Tôn đã khước từ và đã khuyến khích?”

 

‘The good man, O king, perfect in uprightness, is like a medicine to men 1 in being an antidote to the poison of evil, he is like water to men in laying the dust and the impurities of evil dispositions, he is like a jewel treasure to men in bestowing upon them all attainments in righteousness, he is like a boat to men inasmuch as he conveys them to the further shore of the four flooded streams (of lust, individuality, delusion, and ignorance) 2, he is like a caravan owner to men in that he brings them beyond the sandy desert of rebirths, he is like a mighty rain cloud to men in that he fills their hearts with satisfaction, he is like a teacher to men in that he trains them in all good, he is like a good guide to men in that he points out to them the path of peace. It was in order that so good a man as that, one whose good qualities are so many, so various, so immeasurable, [196] in order that so great a treasure mine of good things, so full of benefit to all beings, might not be done away with, that the Blessed One, O king, out of his mercy towards all beings, laid down that injunction, when he said: “A brother is not, O Bhikkhus, to commit suicide. Whosoever does so shall be dealt with according to the law.” This is the reason for which the Blessed One prohibited (self-slaughter).

“Tâu đại vương, người có giới, đầy đủ về giới, giống như liều thuốc giải trong việc tiêu diệt chất độc phiền não của chúng sanh, giống như phương thuốc làm dịu xuống cơn bệnh phiền não của chúng sanh, giống như nước trong việc tẩy trừ bụi bặm phiền não của chúng sanh, giống như viên ngọc quý ma-ni trong việc ban phát tất cả các sự thành tựu cho chúng sanh, giống như chiếc thuyền trong việc vượt lên trên bốn dòng lũ của chúng sanh, giống như người hướng dẫn đoàn xe trong việc vượt qua bãi sa mạc tái sanh của chúng sanh, giống như làn gió trong việc dập tắt sức nóng của ngọn lửa gồm ba loại cho chúng sanh, giống như cơn mưa lớn trong việc làm tràn đầy tâm ý của chúng sanh, giống như người thầy trong việc rèn luyện điều tốt đẹp cho chúng sanh, giống như người hướng dẫn khéo léo trong việc chỉ ra đạo lộ an toàn cho chúng sanh. Tâu đại vương, người có hình thức như thế là có nhiều đức tính, có vô số đức tính, có vô lượng đức tính, có một khối đức tính, có một đống đức tính, là người làm lợi lạc cho chúng sanh, tâu đại vương, vì lòng thương tưởng chúng sanh (nghĩ rằng): ‘Chớ để người có giới bị tiêu hoại,’ đức Thế Tôn đã quy định điều học: ‘Này các tỳ khưu, không nên tự kết liễu bản thân; vị nào tự kết liễu thì nên được hành xử theo pháp.’ Tâu đại vương, ở đây điều này là lý do mà với lý do ấy đức Thế Tôn đã khước từ.

 

And it was said, O king,

 

  1. 275

 

by the Elder Kumâra Kassapa, the eloquent, when he was describing to Pâyâsi the Râganya the other world: “So long as Samanas and Brahmans of uprightness of life, and beauty of character, continue to exist–however long that time may be–just so long do they conduct themselves to the advantage and happiness of the great masses of the people, to the good and the gain and the weal of gods and men 1!”‘

Tâu đại vương, điều này cũng đã được vị trưởng lão Kumārakassapa, vị Pháp sư có tài hùng biện, trong lúc đang làm sáng tỏ về thế giới khác cho đức vua Pāyāsi: ‘Thưa bệ hạ, các vị Sa-môn, Bà-la-môn có giới, có thiện pháp, tồn tại thời gian dài lâu như thế nào thì họ thực hành vì sự lợi ích cho nhiều người, vì sự an lạc cho nhiều người, vì lòng tương tưởng thế gian, vì sự tốt đẹp, vì sự lợi ích, vì sự an lạc cho chư Thiên và loài người như thế ấy.’

 

 

  1. ‘And what is the reason for which the Blessed One instigated us (to put an end to life)? Birth, O king, is full of pain, and so is old age, and disease, and death. Sorrow is painful, and so is lamentation, and pain, and grief, and despair. Association with the unpleasant is painful, and separation from the pleasant 2. The death of a mother is painful, or of a father, or a brother, or a sister, or a son, or a wife, or of any relative. Painful is the ruin of one’s family, and the suffering of disease, and the loss of wealth, and decline in goodness, and the loss of insight.

 

  1. 276

 

[paragraph continues] Painful is the fear produced by despots, or by robbers, or by enemies, or by famine, or by fire, or by flood, or by the tidal wave, or by earthquake, or by crocodiles or alligators. Painful is the fear of possible blame attaching to oneself, or to others, the fear of punishment, the fear of misfortune. Painful is the fear arising from shyness in the presence of assemblies of one’s fellows, painful is anxiety as to one’s means of livelihood, painful the foreboding of death. [197] Painful are (the punishments inflicted on criminals), such as being flogged with whips, or with sticks, or with split rods, having one’s hands cut off, or one’s feet, or one’s hands and feet, or one’s ears, or one’s nose, or one’s ears and nose.

Vậy thì vì lý do gì mà đức Thế Tôn đã khuyến khích? Tâu đại vương, sanh cũng là khổ, già cũng là khổ, chết cũng là khổ, sầu muộn cũng là khổ, than vãn cũng là khổ, khổ đau cũng là khổ, ưu phiền cũng là khổ, thất vọng cũng là khổ, sự liên hệ với những gì không yêu thích cũng là khổ, sự xa lìa với những gì yêu thích cũng là khổ, cái chết của mẹ cũng là khổ, cái chết của cha cũng là khổ, cái chết của anh em trai cũng là khổ, cái chết của chị em gái cũng là khổ, cái chết của con cũng là khổ, cái chết của vợ cũng là khổ, mất mát về thân quyến cũng là khổ, mất mát vì bệnh tật cũng là khổ, mất mát về tài sản cũng là khổ, mất mát về giới cũng là khổ, mất mát về kiến thức cũng là khổ, sợ hãi vì đức vua cũng là khổ, sợ hãi vì trộm cướp cũng là khổ, sợ hãi vì kẻ thù cũng là khổ, sợ hãi vì vật thực khó khăn cũng là khổ, sợ hãi vì lửa cũng là khổ, sợ hãi vì nước cũng là khổ, sợ hãi vì sóng nước cũng là khổ, sợ hãi vì nước xoáy cũng là khổ, sợ hãi vì cá sấu cũng là khổ, sợ hãi vì cá dữ cũng là khổ, sợ hãi vì sự quở trách của bản thân cũng là khổ, sợ hãi vì sự quở trách của người khác cũng là khổ, sợ hãi vì hình phạt cũng là khổ, sợ hãi vì khổ cảnh cũng là khổ, sợ hãi vì e ngại tập thể cũng là khổ, sợ hãi vì sự nuôi mạng cũng là khổ, sợ hãi vì sự chết cũng là khổ, việc đánh đập bằng những cây gậy cũng là khổ, việc đánh đập bằng những cây roi cũng là khổ, việc đánh đập bằng những cây đoản côn cũng là khổ, việc chặt bàn tay cũng là khổ, việc chặt bàn chân cũng là khổ, việc chặt bàn tay và bàn chân cũng là khổ, việc cắt tai cũng là khổ, việc xẻo mũi cũng là khổ, việc cắt tai và xẻo mũi cũng là khổ.

 

Painful are (the tortures inflicted on traitors)–being subjected to the Gruel Pot (that is, having boiling gruel poured into one’s head from the top of which the skull bone has been removed 1)–or to the Chank Crown 2 (that is, having the scalp rubbed with gravel till it becomes smooth like a polished shell)–or to the Râhu’s Mouth 3 (that is, having one’s mouth held open by iron pins, and oil put in it, and a wick lighted therein)–or to the Fire Garland 4 or to the Hand Torch 5, (that is, being made a living torch, the whole body, or the arms only, being wrapped up in oily cloths, and set on fire)–or to the Snake Strips 6 (that is, being skinned in strips from the neck to the hips, so that the skin falls in strips round the legs)or to the Bark Dress 7 (that is, being skinned alive from the neck downwards, and having each strip of

 

  1. 277

 

skin as soon as removed tied to the hair, so that these strips form a veil around one)–or to the Spotted Antelope 1 (that is, having one’s knees and elbows tied together, and being made to squat on a plate of iron under which a fire is lit)–or to the Flesh-hooks 2 (that is, being hung up on a row of iron hooks)–or to the Pennies 3 (that is, having bits cut out of the flesh, all over the body, of the size of pennies)–or to the Brine Slits 4 (that is, having cuts made all over one’s body by means of knives or sharp points, and then having salt and caustic liquids poured over the wounds)–or to the Bar Turn 5 (that is, being transfixed to the ground by a bar of iron passing through the root of the ear, and then being dragged round and round by the leg)–or to the Straw Seat 6 (that is, being so beaten with clubs that

 

  1. 278

 

the bones are broken, and the body becomes like a heap of straw)–or to be anointed with boiling oil, or to be eaten by dogs, or to be impaled alive, or to be beheaded. Such and such, O king, are the manifold and various pains which a being caught in the whirlpool of births and rebirths has to endure.

Việc (nhúng vào) hũ giấm chua cũng là khổ, việc cạo đầu bôi vôi cũng là khổ, việc đốt lửa ở miệng cũng là khổ, việc thiêu sống cũng là khổ, việc đốt cháy ở bàn tay cũng là khổ, việc lột da thành sợi cũng là khổ, việc mặc y phục vỏ cây cũng là khổ, việc kéo căng thân người ở trên đất cũng là khổ, việc xiên da thịt bằng lưỡi câu cũng là khổ, việc khoét thịt thành đồng tiền cũng là khổ, việc chà xát với chất kiềm cũng là khổ, việc quay tròn ở trên thập tự giá cũng là khổ, việc ngồi ở ghế rơm cũng là khổ, việc rưới bằng dầu sôi cũng là khổ, việc cho những con chó gặm cũng là khổ, việc đặt trên giáo nhọn lúc còn sống cũng là khổ, việc chặt đầu bằng gươm cũng là khổ.[2] Tâu đại vương, người bị luân hồi gánh chịu các khổ đau nhiều thứ vô số loại có hình thức như thế.

 

Just, O king, as the water rained down upon the Himâlaya mountain flows, in its course along the Ganges, through and over rocks and pebbles and gravel, whirlpools and eddies and rapids 1, and the stumps and branches of trees which obstruct and oppose its passage,–just so has each being caught in the succession of births and rebirths to endure such and such manifold and various pains. Full of pain, then, is the continual succession of rebirths, a joy is it when that succession ends. And it was in pointing out the advantage of that end, the disaster involved in that succession, that the Blessed One, great king, instigated us to get beyond birth, and old age, and disease, and death by the realisation of the final end of that succession of rebirths. This is the sense, O king, which led the Blessed One to instigate us (to put an end to life).’

‘Very good, Nâgasena! Well solved is the puzzle (I put), well set forth are the reasons (you alleged). That is so, and I accept it as you say.’

Tâu đại vương, giống như nước tích lũy ở núi Hi-mã-lạp ngập tràn ở các viên đá, sỏi, cát nhám, vực nước xoáy, ghềnh, thác, vật chướng ngại, vật ngăn cản, rễ cây, cành lá ở sông Gaṅgā, tâu đại vương, tương tợ y như thế người bị luân hồi gánh chịu các khổ đau nhiều thứ vô số loại có hình thức như thế.

Tâu đại vương, khổ đau thì bị xoay chuyển, an lạc (Niết Bàn) thì không bị xoay chuyển. Tâu đại vương, trong khi giải thích rõ về đức tính của sự không bị xoay chuyển và nguy hiểm của sự bị xoay chuyển, vì sự chứng ngộ pháp không bị xoay chuyển, vì sự vượt qua sanh-già-bệnh-chết mà đức Thế Tôn đã khuyến khích. Tâu đại vương, ở đây điều này là lý do mà với lý do ấy đức Thế Tôn đã khuyến khích.”

“Thưa ngài Nāgasena, tốt lắm! Câu hỏi đã khéo được tháo gỡ. Lý do đã được giảng giải rõ ràng. Trẫm chấp nhận điều này đúng theo như vậy.”

 

[Here ends the problem as to suicide.]

Câu hỏi về việc tự kết liễu bản thân là thứ năm.

 

 

Sources:

Tài liệu tham khảo:

  1. http://budsas.net/uni/u-kinh-mitien/mitien-00.htm
  2. http://www.tamtangpaliviet.net/VHoc/45/Mil_06.htm
  3. http://www.sacred-texts.com/bud/sbe35/sbe3515.htm
  4. http://globalbuddhismcommunity.com/vi-vn/Dictionary/AVThienPhuc/dtsr.aspx