Phẩm 39e: Nhập Pháp Giới (Phần sau) – Entry into the Realm of Reality – Song ngữ
The Avatamsaka Sutra
The Flower Ornament Scripture – (The Flower Garland Sutra)
Kinh Hoa Nghiêm
English: Thomas Cleary – 1984.
Việt ngữ: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh – PL 2527 – 1983.
Compile: Lotus group.
39e. Book Thirty-Nine (e): Entry into the Realm of Reality – (MsW:1398 – 1459)
39e. Phẩm 39e: Kinh Hoa Nghiêm – Nhập Pháp Giới (Phần sau) – (Hán bộ quyển 75 – 77) – Song ngữ
Gopa
Then Sudhana left the Lumbini goddess and went to the city of Kapilavastu;
cultivating that enlightening liberation of vision of miracles of birth of
enlightening beings in all objects over countless ages, entering into it,
expanding it, practicing it, purifying it, mastering it, contemplating it,
examining it, he made his way to the meeting hall of enlightening beings
reflecting the cosmos. When he went there, a goddess of the enlightening
beings’ meeting hall named Sorrowless, together with ten thousand house
goddesses, appeared before Sudhana and said to him, “Welcome is the great
person with wisdom, knowledge, and courage, who roams the grounds of
the vast palace of reality intent on cultivating the inconceivable liberations
of enlightening beings, in the presence of the city of truth, ceaselessly enter-
ing into the endless methods of enlightening beings, attaining manifesta-
tion of the ocean of virtues of those who realize Thusness, aiming for the
knowledge of how to act and speak so as to mature all people, acting and
speaking according to knowledge of the behavior of all people, mind ori-
ented toward spiritual practice, committed to increasing the flood of the
ocean of joy in the feelings of all beings, on the path of knowledge of the
Teaching of all those who arrive at thusness. As I see you, with steady gaze
on the pure realm of conduct of profound spiritual practice, before long you
will attain perfection of the supreme ornaments of body, speech, and mind
of the enlightened, and will act in the world with a body adorned with the
marks and embellishments of greatness and a mind adorned with the light of
knowledge of the ten powers. As I see your steadfast, energetic exertion,
before long you will be furnished with all the requisites for manifesting your
being in the presence of all buddhas of past, present, and future; receiving
Page 1398 – The Flower Ornament Scripture
their teachings, experiencing the delight of the tranquil palace of spiritual-
ity, with all the meditations, liberations, concentrations, and attainments of
enlightening beings, you will see into the profound liberation of buddhas.
That is because you do not tire, do not regress, do not feel pain in going to
spiritual benefactors, meeting them, associating with them, receiving
instructions, and applying the ways to virtue; and you are not overcome by
any interference or barrier or obstacle, or by any demon or deity. Therefore
you will soon become a source of joy for all beings.”
Then Sudhana said to the goddess Sorrowless, “May it be as you say — I
would find supreme joy in extinguishing the burning of all beings’ afflic-
tions, in stopping the development of their evil deeds, in making them all
happy, in getting them to act impeccably. Whenever sentient beings are
involved in evil deeds and afflictions, with scattered minds, fall into painful
or pleasurable states, and experience various forms of physical and mental
distress, enlightening beings become most unhappy at that. Just as a doting
parent would love its only child and would be most distressed at seeing the
child be dismembered, in the same way a practicing enlightening being is
most unhappy to see people fallen into miserable states because of compul-
sion by afflictions in action. Whenever sentient beings live in felicity
because of good thoughts, words, and deeds, and experience physical and
mental pleasures in celestial and human realms, enlightening beings are
delighted and become happy and joyful.
“Furthermore, enlightening beings do not seek omniscience for their
own sake, nor to produce mundane enjoyments and pleasures, nor in search
of the various enjoyments of the realm of desire, nor under the compulsion
of errors of conception, thought, and view. They live and work in the world
without being controlled by fetters, bonds, propensities, or obsessions,
without being controlled by craving or views, without their minds being
bound up in ideas of mundane enjoyments, without being taken with the
taste of pleasure of meditation, without being blocked by mental barriers.
“Furthermore, enlightening beings, giving rise to great compassion for
sentient beings suffering immeasurable miseries in the ocean of existence,
undertake a great vow to care for all beings. They appear carrying out the
practice of enlightening beings in the mundane whirl, engaged in the devel-
opment and guidance of sentient beings, by the force of the power of
carrying out the vow of great compassion. They undertake a vow to serve all
buddhas in quest of thoroughly unobstructed omniscience for all sentient
beings. By mastery of the vow to serve buddhas, they do not tire in enlight-
ening practice. While they carry on enlightening practice, seeing defiled
lands they undertake a vow to purify all buddha-lands. While purifying
oceans of lands, observing the variety of beings’ states, they undertake a vow
to purify the undifferentiated supreme reality body. Seeing sentient beings’
acts, words, and thoughts defiled, they undertake a vow to purify sentient
beings’ acts, words, and thoughts. Seeing sentient beings with incompletely
purified senses and minds, they carry on enlightening practice tirelessly,
completely purifying the mental behavior of all sentient beings.
Page 1399 – Entry into the Realm of Reality
“Thus enlightening beings are indefatigable in carrying out the infinitely
various practice of enlightening beings. Practicing in this way, they become
ornaments of heaven and earth, by producing human and celestial welfare.
They become parents, because they bring enlightening beings into exis-
tence. They become nurses, leading into the path of enlightening beings.
They become guardian spirits, giving protection from the danger of falling
into bad ways. They become great mariners, ferrying beings across the ocean
of the mundane whirl. They become refuges, eliminating the dangers of all
demons and afflictions. They become resorts, leading to the ultimate state of
coolness. They become landings leading into the ocean of enlightenment.
They become guides, leading to the island of spiritual jewels. They become
flowers, their minds blooming with the virtues of all buddhas. They become
adornments, radiating the light of great virtue and knowledge. They
become sources of supreme joy, pleasing in all ways. They become worth
visiting, because they act impeccably. They become universally good, per-
fecting themselves in all respects. They become an ever-welcome sight,
never appearing disagreeable. They become light-makers, emanating light
beams of knowledge. They become illuminators, holding the lamp of truth.
They become radiant, purifying the will for enlightenment. They become
warrior chiefs, stopping the acts of demons. They become suns, radiating
webs of light rays of wisdom. They become moons, the moon of awareness
rising in the sky. They become clouds, showering the Teaching on all
beings. Thus do enlightening beings become a joy to all living creatures as
they carry out enlightening practice.”
Then Sorrowless, goddess of the hall of assembly of enlightening beings,
with those ten thousand house goddesses, showered Sudhana with a rain of
mentally created flower garlands, aromatic powders, perfumes, and jewelry,
all superior to those in the heavens; then, surrounding him, they sang these
verses in his praise as he entered the abode of enlightening beings:
40 – (1) Bấy giờ Thiện-Tài Ðồng-Tử tư-duy tu tập môn thọ-sanh giải-thoát, tăng trưởng quảng-đại ghi nhớ chẳng bỏ. Hướng về phía thành Ca-Tỳ-La, Thiện-Tài đi lần đến giảng-đường Bồ-Tát Tập-Hội Phổ-Hiện Pháp-Giới Quang-Minh.
Trong giảng đường nầy có thần hiệu Vô-Ưu-Ðức cùng một vạn Chủ-Cung-Ðiện Thần câu hội đồng nghinh tiếp Thiện-Tài và nói rằng:
Thiện lai Trượng-Phu! Có trí-huệ lớn, có dũng-mãnh lớn khéo tu môn giải thoát tự-tại bất-tư-nghì, tâm không bao giờ bỏ thệ nguyện rộng lớn, khéo quán-sát cảnh-giới của các pháp, an-trụ nơi pháp-thành, nhập vô-lượng môn phương-tiện, thành-tựu biển công-đức rộng lớn, được biện-tài vi-diệu, khéo điều-phục chúng-sanh, được thân thánh-trí hằng thuận tu hành, biết các chúng-sanh tâm hành sai khác làm cho họ hoan-hỉ xu-hướng phật-đạo.
Chúng tôi xem ngài tu các diệu-hạnh tâm không tạm lười, oai-nghi cử chỉ thảy đều thanh-tịnh.
Chẳng bao lâu ngài sẽ được ba nghiệp vô-thượng trang-nghiêm thanh-tịnh của Như-Lai. Dùng những tướng-hảo trang-nghiêm thân mình. Dùng mười trí-lực trau sáng tâm mình, du hành nơi thế-gian.
Chúng tôi quán ngài dũng-mãnh tinh-tấn không ai sánh bằng. Chẳng bao lâu sẽ được thấy khắp tất cả chư Phật tam-thế và nghe lãnh chánh-pháp. Chẳng bao lâu sẽ được những sự vui tam-muội thiền-định giải-thoát của tất cả Bồ-Tát. Chẳng bao lâu sẽ nhập môn giải-thoát thậm-thâm của chư Phật Như-Lai.
Tại sao vậy?
Vì ngài được thấy thiện-tri-thức, thân-cận cúng-dường, nghe lãnh lời chỉ dạy ghi nhớ tu hành, chẳng lười, chẳng thối, không lo, không e ngại, ma và dân ma không làm ngăn trở được, chẳng bao lâu ngài sẽ được thành quả vô-thượng.
Thiện-Tài nói:
Như lời của chư Thánh vừa nói, nguyện tôi sẽ đều được như vậy.
Tôi nguyện cho tất cả chúng-sanh dứt những nhiệt-não, rời những ác nghiệp, sanh những an-lạc, tu những tịnh-hạnh.
Bạch chư Thánh! Tất cả chúng-sanh khởi phiền-não tạo ác nghiệp đọa ác thú, nơi thân nơi tâm hằng chịu đau khổ.
Bồ-Tát thấy như vậy trong lòng rất đau xót.
Ví như người chỉ có một eon, nên rất thương yêu. Bỗng thấy eon mình bị người chặt tay chân, thời trong lòng đau đớn biết ngần nào.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát thấy các chúng-sanh vì nghiệp phiền não mà đọa ba ác-thú chịu khổ, thời trong lòng rất đau xót.
Nếu thấy chúng-sanh phát khởi thân-ngữ-ý ba nghiệp lành sanh lên trời cõi người, được an vui, thời lòng Bồ-Tát rất hoan-hỉ.
Tại sao vậy? Vì Bồ-Tát chẳng tự vì mình mà cầu nhất-thiết-trí. Vì Bồ-Tát chẳng tham những dục lạc trong vòng sanh tử, chẳng theo thế-lực của tưởng-đảo, kiến-đảo, tâm-đảo kiết-sử tùy-miên ái-kiến mà chuyển, chẳng khởi những quan-niệm vui của chúng-sanh, chẳng ham say nơi sự vui của thiền-định, chẳng phải vì có chướng-ngại mỏi nhọc thối chuyển mà trụ tại sanh tử, chỉ vì thấy chúng-sanh ở trong tam-hữu chịu đủ mọi sự khổ nên khởi tâm đại-bi, dùng sức đại-nguyện để nhiếp thủ chúng-sanh. Vì sức bi nguyện mà tu hạnh Bồ-Tát, vì dứt tất cả phiền não của chúng-sanh, vì cầu nhất-thiết-chủng-trí của Như-Lai, vì cúng-dường tất cả chư Phật, vì nghiêm tịnh tất cả quốc-độ quảng đại, vì tịnh trị tất cả dục lạc của chúng-sanh và những hạnh nghiệp nơi thân nơi tâm cuả họ, nên Bồ-Tát ở trong sanh tử không mỏi nhàm.
Bạch chư thánh! Ðại Bồ-Tát đối với chúng-sanh: là trang-nghiêm, vì khiến họ sanh làm trời, làm người giàu sang vui sướng. Là cha mẹ, vì an lập tâm bồ-đề cho họ. Là dưỡng dục, vì làm cho họ thành-tựu đạo Bồ-Tát. Là vệ-hộ, vì làm cho họ xa rời ba ác-đạo. Là lái thuyền, vì đưa họ qua biển sanh tử. Là quy y, vì làm cho họ khỏi sợ ma phiền-não. Là cứu-cánh, vì làm cho họ vĩnh-viễn được vui thanh-lương. Là bờ bến, vì làm cho họ vào biển chư Phật. Là đạo-sự, vì đưa họ đến xứ pháp-bửu. Là diệu-hoa, vì làm nở tâm công-đức của chư Phật. Là đồ trang-nghiêm, vì thường phóng quang-minh phước đức trí-huệ. Là đáng mến, vì chỗ làm ra đều đoan chánh trang-nghiêm. Là đáng tôn trọng, vì xa rời tất cả ác-nghiệp. Là Phổ-Hiền, vì đầy đủ tất cả thân đoan-nghiêm. Là sáng lớn, vì thường phóng trí-huệ quang-minh. Là mây lớn, vì thường mưa tất cả pháp cam-lộ.
Bạch chư Thánh! Lúc Bồ-Tát tu các hạnh như vậy, làm cho tất cả chúng-sanh đều mến thích đầy đủ pháp-lạc.
Lúc đó Thiện-Tài sắp bước lên pháp-đường, Chủ-Cung-Ðiện Thần Vô-Ưu-Ðức và chúng Thần đem những hương hoa và đồ trang-nghiêm quý hơn cõi trời rải trên Thiện-Tài mà nói kệ rằng:
Buddhas emerge in the world at times.
Producing the light of knowledge,
Resolved on perfect enlightenment
Out of compassion for the world.
Hard to get to see
Even in millions of eons,
You are a sun of knowledge
For the world in the darkness of ignorance.
Seeing the world in error,
Shrouded in the darkness of nescience.
Eonceiving great compassion
You’ve set out for independence.
With pure intention you seek
Page 1400 – The Flower Ornament Scripture
The enlightenment of buddhas;
You serve spiritual benefactors
Without eoncern for yourself.
You are not attached to the world,
You are independent and aloof;
You do not dwell in the defilement of the world.
Your mind is tree as the sky.
You practice lofty deeds of enlightenment,
Beautiful light of virtues;
You appear in the world
Radiating lights of knowledge.
You do not leave the world,
Nor are you stained by worldly things;
You traverse the world unattached,
Like the wind through the sky.
Just as the holocaust
Burns constantly,
With energy like fire
You carry on enlightening practice.
Lionlike, great hero.
Progressing boldly with steadfast vigor,
Imbued with the power of knowledge,
You practice undaunted.
All the oceans
Of principles in the cosmos
You will enter, O Hero,
By serving true benefactors.
Nay Ngài xuất thế-gian
Làm đèn sáng cho đời
Vì khắp các chúng-sanh
Mà cầu vô-thượng-giác.
Vô-lượng ức ngàn kiếp
Khó được gặp thấy Ngài
Công-đức-nhật nay mọc
Trừ những tối thế-gian.
Ngài thấy các chúng-sanh
Bị điên-đảo che đậy
Mà khởi lòng đại-bi
Cầu chứng đạo vô-sư.
Ngài dùng tâm thanh-tịnh
Tầm cầu Phật bồ-đề
Kính thờ thiện-tri-thức
Chẳng tự tiếc thân mạng.
Ngài ở các thế-gian
Không tựa không chấp lấy
Tâm ngài khắp vô-ngại
Thanh-tịnh như hư-không.
Ngài tu hạnh bồ-đề
Công-đức đều viên-mãn
Phóng sáng lớn trí-huệ
Chiếu khắp cả thế-gian.
Ngài chẳng rời thế-gian
Cũng chẳng vướng thế-gian
Ði trong đời vô-ngại
Như gió thổi hư-không.
Ví như hoả-tai khởi
Không gì làm tắt được
Ngài tu hạnh bồ-tát
Lửa tinh-tấn cũng vậy.
Dũng-mãnh đại tinh-tấn
Kiên-cố chẳng lay động
Kim-cang-huệ sư-tử
Du hành vô-sở-úy.
Trong tất cả pháp-giới
Có bao nhiêu sát-hải
Ngài đều qua đến được
Thân cận thiện-tri-thức
Then the goddess Sorrowless, having eulogized Sudhana, followed him as
he went on, hound to him by love for truth. Sudhana went into the meeting
hall of enlightening beings which shone with reflections of the cosmos and
looked around, desirous of seeing the Shakyan girl Gopa. He saw her in the
middle of the hall sitting on a seat of jewels which reflected the abodes of all
enlightening beings, surrounded by eighty-four thousand maidens, all of
royal lineage, who had equally established good foundations of the practice
of enlightening beings, who had been won over by her generosity in the
past, who practiced gentle, pleasing speech, who were taken with the happi-
ness of approaching the goal of omniscience, who were thoroughly
absorbed in the common purpose of complete knowledge of buddhas and
enlightening beings, who were sustained by the loving care guided by great
Page 1401 – Entry into the Realm of Reality
compassion, who had purified great kindness, who had already developed
the inconceivable skill in means of enlightening beings. All of those eighty-
tour thousand women were irreversible in progress toward supreme perfect
enlightenment; they had comprehended enlightening beings’ means of
transcendence, and needed no one’s guidance in the studies of enlightening
beings. Their minds were free from all attachments and aloof of all mun-
dane pleasures. They had cleared the way to the unobstructed cosmos and
their minds were rapidly approaching omniscience. They were free from
the web of all obstacles and barriers, and transcended all attachments. They
acted as positive emanations of the body of reality, dedicated to leading all
beings to perfection. Their minds sprang from a vast ocean of virtue, and
they carried out the vow of the practice of universal good. They had devel-
oped tremendous energy in powers of enlightening beings, and the light of
their minds was as a sun of knowledge.
Then Sudhana went up to Gopa, paid his respects, and said, “I have set my
mind on supreme perfect enlightenment, but I do not know how enlighten-
ing beings act in the midst of the mundane whirl without being stained by
its ills; how they realize the equal essence of all phenomena without staying
in the stage of personal liberation alone; how they manifest the qualities of
buddhas without stopping the practice of enlightening beings; how they
remain in the stage of enlightening beings yet show the sphere of all bud-
dhas; how they transcend all worldly states yet act in the midst of worldly
states; how they achieve the reality-body yet produce endless physical mani-
festations; how they resort to the formless reality-body yet manifest bodies
like all beings; how they comprehend all the inexpressible truths, yet
expound the truths to sentient beings in all languages; how they know there
are no beings in the elements of existence, yet do not give up efforts to guide
all beings; how they realize all phenomena are unoriginated and
unperishing, yet do not give up the effort to serve all buddhas; how they
realize there are no results of action in phenomena, yet do not give up the
effort to perform good deeds.”
Gopa said to Sudhana, “It is very good that you think it fit to ask about the
nature of this kind of practice of enlightening beings, as this is the question
of one who is set on practicing the vow of universal good. So listen well and
think carefully, for I will tell you, by the power of Buddha.
“There are ten things by which enlightening beings fulfill this kind of
enlightening practice, the light of total knowledge, like the cosmic net of
interrelation of all things. What are the ten? Association with superior spiri-
tual friends; attainment of enormous devotion; purity of lofty good will; a
state of mind founded on oceanic virtue and knowledge; listening to the
great teaching of buddhas; associating with thought devoted to the buddhas
of past, present, and future; equally following the practices of all enlighten-
ing beings; gaining the empowerment of all buddhas; purity of intent,
greatly compassionate in nature; attainment of the basic power of mind to
stop all vicious circles. Having attained these ten things, enlightening
Page 1402 – The Flower Ornament Scripture
beings fulfill this kind of enlightening practice, like the cosmic net of inter-
relation of all things, radiating total knowledge.
“Then enlightening beings with unrelenting vigor, having attained these
things, developing and expanding them by putting them into practice in
endless ways, propitiate spiritual benefactors in ten ways: by indifference to
themselves, by not seeking worldly goods, by realizing the equality of
essence of all things, by not turning back from the commitment to omnis-
cience, by observing all the principles of the cosmos, by being mentally free
of all existents, by independence in the space of truth where there is nothing
to depend on, by freedom from obstruction in the undertaking of all
enlightening beings, by entering all lands, by perfect clarification and puri-
fication of the unobstructed sphere of knowledge of enlightening beings.”
Then, by the empowerment of Buddha, looking over the ten directions,
Gopa uttered these verses illustrating what she meant:
Thần Vô-Ưu-Ðức nói kệ xong, vì mến thích chánh-pháp nên theo luôn bên Thiện-Tài Ðồng-Tử.
Thiện-Tài vào trong giảng-đường Phổ-Hiện-Pháp-Giới-Quang-Minh tìm cô gái họ Thích. Thấy cô ấy ngồi trên tòa sư-tử bửu liên-hoa, có tám vạn bốn ngàn thể-nữ vây quanh.
Những thể-nữ nầy đều là dòng vua, thuở quá khứ đã tu hạnh bồ-tát, đồng gieo căn lành, bố-thí ái-ngữ nhiếp khắp chúng-sanh, đã thấy rõ được cảnh nhứt-thiết-trí, đã chung tu tập hạnh Phật Bồ-Ðề, hằng trụ chánh-định, thường dùng đại-bi nhiếp khắp chúng-sanh như đối với eon một, đầy đủ từ-tâm, quyến-thuộc thanh-tịnh, quá-khứ đã thành-tựu phương-tiện thiện-xảo bất-tư-nghì của Bồ-Tát, đều không thối chuyển vô-thượng bồ-đề, đầy đủ những ba-la-mật của Bồ-Tát, rời những chấp trước, chẳng thích sanh tử, dầu đi trong các cõi hữu-lậu mà lòng hằng thanh-tịnh, thường siêng quán-sát đạo nhất-thiết-trí, lìa lưới chướng cái, vượt khỏi chỗ chấp nhiễm, từ pháp-thân mà hiện hóa-thân, sanh hạnh Phổ-Hiền, lớn sức bồ-tát, trí-nhựt huệ-đăng đều đã viên-mãn.
Thiện-Tài đến đảnh lễ nơi chân của Thích-Nữ Cù-Ba, chắp cung kính thưa rằng:
Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm vô-thượng bồ-đề, mà chưa biết Bồ-Tát thế nào ở trong sanh tử mà chẳng bị lỗi sanh tử làm nhiễm? Thế nào rõ pháp tự-tánh mà chẳng trụ hàng Thanh-Văn Bích-Chi-Phật? Thế nào đầy đủ phật-pháp mà tu hạnh bồ-tát? Thế nào trụ bậc Bồ-Tát mà nhập cảnh-giới Phật? Thế nào siêu quá thế-gian mà thọ sanh nơi thế-gian? Thế nào thành-tựu pháp-thân mà thị-hiện vô-biên sắc-thân? Thế nào chứng pháp vô-tướng mà vì chúng sanh thị-hiện các tướng? Thế nào biết pháp vô-thuyết mà rộng vì chúng-sanh diễn thuyết các pháp? Thế nào biết chúng-sanh không mà hằng chẳng bỏ sự giáo-hóa chúng-sanh? Thế nào dầu biết chư Phật bất sanh bất diệt mà siêng cúng-dường không có thối-chuyển? Thế nào dầu biết các pháp không nghiệp không báo mà tu những hạnh lành luôn không thôi nghỉ.
Nàng Cù-Ba nói:
Lành thay! Lành Thay! Nầy Thiện-nam-tử! Nay ngươi có thể hỏi những việc làm của đại Bồ-Tát như vậy. Người tu tập những hạnh nguyện Phổ-Hiền mới có thể hỏi như vậy.
Ngươi lắng nghe và khéo suy gẫm ghi nhớ. Ta sẽ thừa thần-lực của Phật mà nói cho ngươi.
Nầy Thiện-nam-tử! Nếu các Bồ-Tát thành-tựu mười pháp thời có thể viên-mãn hạnh bồ-tát nhơn đà-la-võng phổ-trí quang-minh.
Ðây là mười pháp:
Vì nương thiện-tri-thức. Vì được thắng-giải quảng đại. Vì được dục lạc thanh-tịnh. Vì nhóm tất cả phước trí. Vì nghe chánh-pháp nơi chư Phật. Vì tâm hằng chẳng bỏ tam thế Phật. Vì đồng với tất cả bồ-tát hạnh. Vì được tất cả Như-Lai hộ-niệm. Vì đại bi diệu-nguyện đều thanh-tịnh. Vì có thể dùng trí-lực khắp dứt tất cả những sanh tử.
Nầy Thiện-nam-tử! Nếu thân-cận thiện-trí-thức thời Bồ-Tát có thể tinh-tấn bất thối tu tập xuất sanh vô-tận phật pháp
Nầy Thiện-nam-tử! Bồ-Tát dùng mười pháp để thừa sự thiện-tri-thức.
Ðây là mười pháp: không đoái tiếc thân mạng mình. Lòng chẳng tham cầu sự vui thế-gian. Biết tất cả pháp-tánh đều bình-đẳng. Trọn chẳng lui bỏ nguyện nhất-thiết-trí. Quán sát thiệt-tướng pháp giới. Tâm hằng bỏ rời tất cả biển hữu-lậu. Biết pháp như không, tâm không chỗ nương. Thành-tựu tất cả đại-nguyện bồ-tát. Thường có thể thị-hiện tất cả sát-hải. Tịnh tu trí-luận vô-ngại của Bồ-Tát.
Nầy Thiện-nam-tử! Nên dùng pháp nầy để kính thờ tất cả thiện-tri-thức không ttrái nghịch.
Bấy giờ nàng Thích-Ca Cù-Ba muốn tuyên lại nghĩa nầy, thừa thần-lực của Phật, quán-sát mười phương mà nói kệ rằng:
Those who set out for vast pure wisdom for the welfare of others
And serve true benefactors honestly
With tireless vigor, seeing them as teachers.
Carry out practice in the world like the cosmic net.
Those whose devotion is vast as the sky.
Embracing all worlds of past, present, and future,
All lands, beings, phenomena, and buddhas —
Theirs is this practice, producers of the light of knowledge.
When the will is infinite as the sky.
Supremely pure, free from the taint of afflictions,
Therein arise the virtues of all buddhas,
Eoncentrating the whole variety of the cosmic net of practice.
The wise who rest on great oceans of virtue.
Inconceivable, infinite, vast as omniscience.
As pure offspring of the body of all virtues
They act in the world unstained by the filth of the world.
Those who listen to the teaching of buddhas
And tirelessly catch every nuance
Are lamps shining with wisdom in accord with truth;
Theirs is this practice which lights the world.
Those who perceive in an instant of awareness
The infinite buddhas everywhere, interrelated.
Contemplate the ocean of all buddhas;
This is the way into the mind of the enlightened.
Those who see the vast audiences of the buddhas
Page 1403 – Entry into the Realm of Reality
Enter the ocean of their meditations
And their infinite ocean of vows;
This is the practice of those like the cosmic net.
Those empowered by all the buddhas
Practice universal good for endless ages,
Reflected in all lands;
This is the practice of the lights of truth.
The suns of compassion and knowledge emerge, steadfast,
Seeing the misfortune of the world,
And disperse the darkness of delusion with the light of truth;
This is the practice of those like the sun.
Seeing people revolve in the rut of existence.
The wise stand opposed to the flow of the mundane whirl;
Developing the measureless wheel of true teaching,
They practice universal higher goodness and wisdom.
Those who learn these infinite principles,
Appearing in the world according to people’s mentalities,
With their own bodies like reflected images.
Develop people in the oceans of being.
Suffusing the world with myriad expressions of love,
Showing spiritual practice to people of various interests.
Teaching them according to their mentalities,
The steadfast lead billions to enlightenment.
Bồ-Tát vì lợi các quần-sanh
Chánh-niệm thân thừa thiện-tri-thức
Kính xem như Phật tâm không lười
Là hạnh đế-võng đi trong đời.
Thắng-giải rộng lớn như hư-không
Tất cả tam-thế đều vào trong
Quốc-độ, chúng-sanh, Phật đều vậy
Ðây là phổ-trí quang-minh hạnh.
Chí nguyện như không chẳng ngằn mé
Dứt hẳn phiền-não, lìa trần cấu
Tất cả chỗ Phật tu công-đức
Là hạnh thân-vân đi thế-gian.
Bồ-Tát tu tập nhất-thiết-trí
Biển công-đức chẳng thể nghĩ bàn
Tịnh những thân phước-đức trí-huệ
Là hạnh chẳng nhiễm đi thế-gian.
Chỗ tất cả chư Phật Như-Lai
Nghe lãnh phật-pháp không nhàm đủ
Hay sanh đèn trí-huệ thiệt-tướng
Là hạnh phổ-chiếu đi thế-gian.
Mười phương chư Phật vô-số-lượng
Một niệm tất cả đều vào được
Tâm hằng chẳng bỏ các Như-Lai
Là hạnh nguyện lớn hướng chánh-giác.
Vào đại chúng hội của chư Phật
Biển tam-muội của chư Bồ-Tát
Nguyện-hải nhẫn đến phương-tiện hải
Là hạnh đế-võng đi thế-gian.
Tất cả chư Phật chỗ gia-trì
Tận thuở vị-lai vô-biên kiếp
Xứ xứ tu hành đạo phổ-hiền
Là hạnh phân-thân của Bồ-Tát.
Thấy các chúng-sanh chịu nhiều khổ
Khởi đại từ-bi hiện thế-gian
Diễn nói quang-minh trừ tối tăm
Là hạnh trí-nhựt của Bồ-Tát.
Thấy những chúng-sanh tại các loài
Vì nhóm vô-biên diệu-pháp luân
Khiến họ dứt hẳn dòng sanh tử
Ðây là tu hành Phổ-Hiền hạnh.
Bồ-Tát tu tập phương-tiện này
Tùy tâm chúng-sanh mà hiện thân
Ở khắp tất cả trong các loài
Hóa độ vô-lượng những hàm-thức.
Dùng sức phương-tiện đại từ-bi
Hiện thân cùng khắp các thế-gian
Tùy họ hiểu muốn mà thuyết pháp
Ðều khiến xu-hướng bồ-đề-đạo.
Then Gopa said to Sudhana, “I have attained an enlightening liberation
whose sphere is observation of the ocean of concentrations of all enlighten-
ing beings.”
Sudhana asked, “What is the scope of this liberation?”
Gopa replied, “Having attained this liberation, I penetrate as many
ages in this world as atoms in untold buddha-lands, and I know all the
beings in all conditions of existence therein, and I know all the deaths and
births of those beings, their developments, their accomplishments, the
variety of results of their actions; I know their undertakings — good, bad,
liberative, nonliberative, certain, uncertain, wrongly fixated, compul-
sive, noncompulsive, based on good, not based on good, fostered by good,
fostered by evil, fostered by good and evil, good by development, bad
through neglect.
“I know the oceans of names of all the buddhas in those ages as numerous
as atoms in untold buddha-lands; I know the oceans of initial inspirations of
those buddhas, the ways they set out for omniscience, their undertakings of
the oceans of all vows, their heading for previous buddhas, their oceans of
Page 1404 – The Flower Ornament Scripture
efforts in the service of previous buddhas, their oceans of fulfillment of past
enlightening practices, their oceans of arrangements of means of emancipa-
tion. I also know the oceans of those buddhas’ development and guidance of
sentient beings, and I know their oceans of attainment of enlightenment,
their majestic displays of mystic power in turning the wheel of the teaching,
and their oceans of miraculous displays of all buddhas. I also know the differ-
ences in the audiences of those buddhas, and I know the methods of
emancipation of the listeners in those audiences, as well as their past roots of
goodness, the variety of their cultivation of the path, and the difference in
the purity of their attainment of knowledge. I also know the sentient beings
who have been led to individual enlightenment by those buddhas, and I
know the past roots of goodness of those individual illuminates, as well as
their attainments of individual enlightenment, the doors of liberation
mystically developing in their peaceful states, their various spiritual trans-
formations, their development of others, their teachings, and the various
freedoms of liberation in their infinite states of concentration. I also know
the ultimate extinction of those buddhas.
“I also know the oceans of enlightening beings surrounding those bud-
dhas, and I know those enlightening beings’ first cultivation of roots of
goodness, their first inspirations and vows, the variety of their vows, the
variety of their production of arrangements of vehicles of emancipation by
all the practices of enlightening beings, the variety of their perfection of
provisions for the path of transcendence, the variety of the manifestations of
their practices of the path of enlightening beings, the variety of their provi-
sions for advancing through the states of enlightening beings, the variety of
the speed of their advance through the states of enlightening beings, the
variety of their spheres of concentration in the stages of enlightening
beings, the spiritual manifestations of their advance through the states of
enlightening beings, their spiritual states during their progress through the
states of enlightening beings, their footholds in the stages of enlightening
beings, their practices cultivating the states of enlightening beings, their
methods of purifying the stages of enlightening beings, their abodes in the
stages of enlightening beings, their characteristics in the stages of enlighten-
ing beings, their mastery of the stages of enlightening beings, their science
of entry into the stages of enlightening beings, the enlightening beings’ sci-
ence of salvation, the enlightening beings’ science of development, the
different states of enlightening beings, the mystic projections of enlighten-
ing beings’ practices, the oceans of concentrations of enlightening beings,
the oceans of methods of liberation of enlightening beings. I also know
those enlightening beings’ attainments of oceans of various concentrations
in each moment of consciousness, their discoveries of the range of omnis-
cience, their tremendous flashes of omniscience, their means of attainment
of the forbearance of enlightening beings, their plunges into omniscience. I
also know those enlightening beings’ travels to oceans of lands, their pene-
trations of the principles of oceans of phenomena, the variety of
characteristics of all things, the mystic protection of the designs of all states
Page 1405 – Entry into the Realm of Reality
of enlightening beings, the oceans of principles of various vows, and the
variety of oceans of miracles.
“Just as I penetrate the various oceans of ages past in this world, in the
same way I know the endless unbroken succession of ages of the future; and
just as I know all this in this world, so do 1 know it in all the worlds within
this world. And just as I know this in all the worlds within this world, so do I
know it in all the worlds in the atoms of this world. And just as I know it in
all the worlds in the atoms of this world, so do I know it in the worlds in the
ten directions eontiguous with this world. Andjust as I know it in the worlds
in the ten directions eontiguous with this world, so do I know it in all the
worlds in the ten directions surrounding this world. Andjust as I know it in
all the worlds in the ten directions surrounding this world, so do I know it in
all the worlds in the radiant world system of Vairocana. Andjust as I know it
in all the worlds in the radiant world system of Vairocana, I know it in all the
worlds surrounding the radiant world system of Vairocana. And just as I
know it in all the worlds surrounding the radiant world system of Vairocana,
I know it in all the places in the worlds in the oceans of worlds in the masses
of worlds in this whole flower treasury universe, and in all the structures and
features of the worlds.
“And as in this flower treasury universe, so also in all universes in the end-
less cosmos, throughout space, I know, comprehend, andrecall the oceans of
past vows of Vairocana, his oceans of past efforts, oceans of past attainments,
persistence in enlightening practice through infinite ages, methods of puri-
fying lands, means of serving past buddhas, ways of receiving the teachings
of past buddhas, methods of attaining enlightening concentrations in the
past, means of attaining control over utensils, ways of practicing the oceans
of virtues of past buddhas, oceans of ways of perfecting giving, methods of
effecting the purification of the conduct of an enlightening being, means of
attaining the forbearance of an enlightening being, oceans of force of the
vigor of an enlightening being, oceans of methods of fulfilling all elements
of meditation, oceans of ways of purification of the sphere of wisdom,
means of manifesting reflections of life in all worlds, ways of purification of
the sphere of vows of practice of universal good, pervasion of all worlds,
oceans of means of purification of all lands, oceans of light of knowledge of
all buddhas, oceans of spiritual manifestations of accession to the enlighten-
ment of all buddhas, means of attainment of the range of knowledge of all
buddhas, oceans of mystic manifestations of attainment of enlightenment,
oceans of ways of free exercise of the majestic power of turning the wheel of
teaching, oceans of various audiences, the past roots of goodness of all the
enlightening beings in all those audiences, their oceans of initial vows, their
oceans of methods of developing and guiding sentient beings, the oceans of
sentient beings matured by the Buddha as he carried out enlightening prac-
tice in the past, those enlightening beings’ oceans of means of causing roots
of goodness to grow in every moment of consciousness, their oceans of ways
of attaining concentration, oceans of means of attaining total mental com-
mand, oceans of means of purification of the sphere of expository
Page 1406 – The Flower Ornament Scripture
knowledge, oceans of mystic manifestations of accession to all stages of
enlightenment, oceans of means of effecting the network of practice, oceans
of gradual refinement, oceans of knowledge of gradual attainment entering
all worlds, and oceans of all faculties, powers, elements of enlightenment,
meditations, liberations, concentrations, attainments, and spiritual
transformations.
“And just as I comprehend, know, and realize the oceans of enlightening
practice of Vairocana Buddha in this whole cosmos, so also do I compre-
hend, know, and realize the indivisible oceans of enlightening practice of
all buddhas in all oceans of worlds throughout the cosmoses throughout all
space. In this way I comprehend the entry into the indivisible totality of all
enlightening beings’ practices, entry into the infinite web of illusion, infi-
nite cosmic pervasion, infinite instruction, and indication of entry into the
basis of endless eons, of all buddhas in all oceans of worlds throughout the
cosmos, to the furthest reaches of space. Why? Because this is the scope of
the enlightening liberation whose sphere is observation of the ocean of
concentrations of all enlightening beings; having attained this, I know the
patterns of mental behavior of all beings, the accumulations of goodness of
all beings, the means of purgation of defilements of all beings, the variety
of deeds of all beings, the doors of concentration of all buddhas’ disciples,
the stage of concentration of all buddhas’ disciples, the tranquillity, libera-
tion, and mystic transformation of all individual illuminates, the methods
of the oceans of concentrations of all enlightening beings, the ocean of
ways of liberation of all enlightening beings, and the ocean of ways of lib-
eration of all buddhas.”
Nói kệ xong, Thích-Ca Cù-Ba bảo Thiện-Tài.
Nầy Thiện-nam-tử! Ta đã thành-tựu môn giải-thoát quán-sát nhất-thiết Bồ-Tát tam-muội-hải.
Thiện-Tài thưa:
Bạch đức Thánh! Cảnh-giới của môn giải-thoát nầy thế nào?
Thích-Ca Cù-Ba nói:
Nầy Thiện-nam-tử! Ta nhập môn giải-thoát nầy, biết trong cõi Ta-Bà, trải qua phật-sát vi-trần-số kiếp có bao nhiêu chúng-sanh ở trong các loài chết đây sanh kia, làm lành làm dữ, chịu những quả báo, có cầu xuất ly, chẳng cầu xuất ly, chánh-định tà-định và bất-định, thiện-căn có phiền-não, thiện-căn không phiền-não, thiện-căn đầy đủ, thiện-căn không đầy đủ, bất-thiện-căn nhiếp lấy thiện-căn, thiện-căn nhiếp lấy bất-thiện-căn. Chúng-sanh chứa nhóm những pháp thiện và bất-thiện như vậy ta đều biết thấy.
Lại trong những kiếp ấy, có bao nhiêu đức Phật danh hiệu thử đệ ta đều biết rõ.
Chư Phật Thế-Tôn ấy từ sơ-phát-tâm, dùng phương-tiện cầu nhất-thiết-trí xuất sanh tất cả những biển đại-nguyện, cúng-dường chư Phật tu hạnh bồ-tát, thành đẳng chánh-giác, chuyển diệu pháp-luân, hiện đại thần-thông hóa độ chúng-sanh, ta đều biết rõ.
Ta cũng biết chúng-hội sai biệt của chư Phật ấy. Trong đó có chúng-sanh y nơi thanh-văn-thừa mà được xuất ly. Chúng Thanh-Văn nầy quá-khứ tu tập tất cả thiện-căn, và được những trí-huệ ta đều biết rõ.
Có những chúng-sanh y nơi độc-giác-thừa mà được xuất ly. Những Ðộc-Giác nầy có bao nhiêu thiện-căn, được bồ-đề tịch-diệt giải-thoát, thần-thông biến-hóa thành-thục chúng-sanh, nhập niết-bàn ta đều biết rõ.
Ta cũng biết chư Bồ-Tát trong chúng-hội ấy, từ sơ-phát-tâm tu tập thiện-căn xuất sanh vô-lượng hạnh nguyện lớn, thành tựu đầy đủ những môn ba-la-mật, trang-nghiêm đạo bồ-tát, dùng sức tự-tại nhập bồ-tát-địa, trụ bồ-tát-địa, quán bồ-tát-địa, tịnh bồ-tát-địa, tướng của bồ-tát-địa, trí của bồ-tát-địa, trí của bồ-tát-nhiếp, trí của Bồ-Tát giáo-hóa chúng-sanh, trí của Bồ-Tát kiến lập, cảnh-giới hạnh rộng lớn của Bồ-Tát, thần-thông hạnh của Bồ-Tát, biển tam-muội của Bồ-Tát, phương-tiện của Bồ-Tát, Bồ-Tát trong mỗi niệm nhập tam-muội-hải, được quang-minh nhất-thiết-trí, được điển-quang-vân nhất-thiết-trí, được thiệt-tướng-nhẫn, thông đạt nhất-thiết-trí, trụ sát-hải, nhập-pháp-hải, biết chúng-sanh-hải, trụ phương-tiện, phát thệ nguyện, hiện thần-thông. Ta đều biết rõ cả.
Nầy Thiện-nam-tử! Cõi Ta-Bà nầy, tận thuở vị-lai có những kiếp-hải xoay vần chẳng dứt ta đều biết rõ.
Như biết cõi Ta-Bà, ta cũng biết vi-trần-số tất cả thế-giới trong cõi Ta-Bà, ta cũng biết những thế-giới trong vi-trần của cõi Ta-Bà, cũng biết mười phương thế-giới ở ngoài cõi Ta-Bà, cũng biết những thế-giới của Ta-Bà thế-giới-chủng sở-chiếp, cũng biết những thế-giới của thập phương vô-lượng thế-giới chủng sở-nhiếp trong Hoa-Tạng Thế-giới-Hải nầy:
Những là thế-giới rộng-rãi, thế-giới an lập, thế-giới luận, thế-giới-tràng, thế-giới sai biệt, thế-giới chuyển, thế-giới liên-hoa, thế-giới tu-di, thế-giới danh hiệu.
Tất cả những thế-giới trong thế-giới-hải nầy, do bổn-nguyện-lực của Tỳ-Lô-Giá-Na Thế-Tôn nên ta đều biết rõ và ghi nhớ cả.
Ta cũng nhớ những nhơn-duyên-hải thuở xưa của đức Như-Lai:
Như là tu tập phương-tiện của tất cả thừa, trụ bồ-tát-hạnh trong vô-lượng kiếp, tịnh phật quộc-độ, giáo-hóa chúng-sanh, kính thờ chư Phật, tạo lập trụ xứ, nghe pháp, được tam-muội, được tự-tại, tu đàn-ba-la-mật, nhập Phật công-đức, trì giới khổ hạnh, đầy đủ nhẫn lực, dũng mãnh tinh-tấn, thành-tựu thiền-định, viên-mãn tịnh-huệ, thị hiện thọ sanh khắp mọi nơi, hạnh nguyện Phổ-Hiền thảy đều thanh-tịnh, vào khắp các cõi, tịnh khắp phật-dộ, vào khắp phật-trí, nhiệp khắp phật bồ-đề, được đại-trí quang-minh của Như-Lai, chứng phật-trí-tánh, thành đẳng-chánh-giác, chuyển diệu-pháp-luân. Nhẫn đến tất cả đạo tràng chúng-hội của Phật, từ trước đến nay đã gieo thiện-căn, từ sơ phát tâm thành thục chúng-sanh tu hành phương-tiện, niệm niệm tăng trưởng, được những tam-muội thần-thông giải-thoát, ta đều biết rõ tất cả.
Tại sao vậy?
Vì môn giải-thoát của ta đã được đây, có thể biết tâm hành của tất cả chúng-sanh, tất cả thiện-căn của chúng-sanh tu hành, tất cả chúng-sanh tạp nhiễm thanh-tịnh, tất cả chúng-sanh sai biệt, tất cả môn tam-muội của Thanh-Văn, tất cả tam-muội thần-thông giải-thoát của Duyên-Giác, giải-thoát quang-minh của tất cả Bồ-Tát, của tất cả Như-Lai, ta đều biết rõ.
Then Sudhana asked Gopa, “How long ago did you attain this liberation?”
She replied, “As many eons ago as atoms in a hundred buddha-lands, there
was a world called Producing Fearlessness. In that world was an age called
Superior Conduct. In the middle of that world was a set of four continents
called Safe. On the southern continent was a metropolis called Magnificent
Trees, the greatest of eighty-four billion cities. Each of the cities was built on
a ground of blue lapis lazuli and was surrounded by walls made of seven pre-
cious substances and seven moats of fragrant water with gold sand on the
boftom, covered with red, white, and blue lotuses as big as cartwheels radiat-
ing brilliant webs of light and beautiful scents. They were also surrounded
by seven networks of railings made of jewels and seven rings of palm trees,
and abounded in groves of trees made of seven precious substances. Above,
they were covered with networks of clouds. The grounds of the cities were
like jeweled checkerboards, the plofs evenly divided by arrays of various jew-
els. Groups of mystic adepts lived and roamed there, and birds filled the air
with pleasing song. The cities were adorned with millions of parks, and they
were prosperous and wealthy. Hundred of thousands of happy men and
women populated them. There were eonstant showers of beautiful flowers,
stirred by the wind. Hundreds of thousands of earth spirits lived in them.
Furthermore, from the golden nets of wind chimes adorning all the trees
came happy voices saying, ‘Bathe, drink, eat, practice the Teaching, arouse
Page 1407 – Entry into the Realm of Reality
the determination for enlightenment, realize mastery of the stage of
nonregression; happiness to you!’
“At that time, in the capital city Magnificent Trees, there was a king
named Ford of Wealth, ruler of the region. He had eighty-four thousand
women in his palace. He also had five hundred ministers, and also five
hundred sons, all of whom were brave, powerful warriors, handsome and
well built. His queen, the foremost of the eighty-four thousand women,
was named Lotus Born. She had a son named Ford of Gfory, who was very
handsome and bore the thirty-two marks of a great man, pleasing to the
sight of all.
“Once, as a youth, this prince went, with the permission of his father and
mother, to go see one of the parks of the city, called Clouds of Light on a
Mountain of Fragrant Plants. He went together with twenty thousand girls,
protecting a great aura of felicity, gfory, energy, splendor, and beauty,
admired by men and women all around. They gof into a golden vehicle with
four huge diamond wheels and unbreakable diamond axles set in the finest
sandalwood. It was ribbed with well-arranged diamonds of all fragrances,
splendidly adorned with flowers of all jewels, draped with nets of all jewels,
with a lion seat set in the middle of the interior, arrayed with great jewels.
The reins, strings of jewels, were held by five hundred girls, and it was
drawn by a thousand thoroughbred horses fleet as the wind. Overhead was a
beautiful sloping canopy made of white lapis lazuli, with a flawless,
immeasurable luster, supported by tall poles of blue lapis lazuli, adorned
with all kinds of arrays of rare jewels, held by hundreds of thousands of peo-
ple surrounding the vehicle, singing and playing music, scattering flowers
and burning incense. The eight-lane road was level and free of gravel, set on
a bed of all precious substances, spread with gold sand, decorated with flow-
ers of various jewels, lined on bofh sides with rows ofjcwcl trees and railings
of various gems. Above, it was covered with nets of golden bells, adorned
with canopies of various jewels, and arrayed with many thousands ofjcwclcd
banners, pennants, and streamers. Rows of jewel buildings were arrayed on
either side.
“In some of those buildings were precious vessels fil led with various jew-
els, to be given to those in need. In some buildings were all kinds of precious
ornaments, for those in need of ornaments. In some buildings were wish-
fulfilling jewels, to fulfill the wishes of all beings. In some buildings were
vessels filled with all kinds of food and drink, to be given to whoever needed
them. In some buildings were celestial foods of all the most pleasant appear-
ances, fragrances, savors, and textures. In some buildings were various
delicious celestial fruits. In some buildings were millions of fine celestials
garments, for those in need of clothing to use as they wished. In some build-
ings were all kinds of the finest celestial fragrances, for those who wanted
perfume, to use at will. In some buildings were all kinds of utensils for peo-
ple to use as they wished.
“At that time there was a courtesan named Beautiful in that metropolis,
with whom the king eonsorted. She had a lovely daughter named Splendor
Page 1408 – The Flower Ornament Scripture
of Delight in Virtuous Conduct, who was neither too tall nor too short, nei-
ther too stout nor too lean, neither too heavy nor too light. She had black
hair and eyes, a pleasant face, and a clear voice. She spoke sweetly and kindly,
she was wise, versed in all arts and sciences, clever and diligent, dignified and
serene, kind-hearted and gentle, always pleasant to be with. She had scareely
any desire, aversion, or folly; she was modest and eonscientious, soft and sin-
cere, free from guile and deceit, self-controlled. She and her mother,
accompanied by many girls, gof in a jeweled chariot and rode out of the city
before the prince Ford of Gfory. Looking for the prince, going according to
the king’s directions, when she saw the prince she became greatly enamored
of him. Bound by the excessive affection she eonceived for the prince,
unable to control herself, she said to her mother, ‘If you do not give me to
the prince Ford of Gfory, I will die or suffer torment equal to death.’ Her
mother said, ‘Do not think this way. This prince has the marks of a supreme
ruler, and it is obvious that after his father passes a way he will succeed to the
throne and become king. At that time a special woman will appear from the
sky. Furthermore, we prostitutes give pleasure to everyone; we do not serve
one person all our lives as a rule. We have set out to attend the prince Ford of
Gfory at the command of the king Ford of Wealth. Do not hold fast to this
wish of yours, for it is unattainable.’
“Now, at that time a buddha named Supreme Sun was appearing in the
world, a saint, perfectly enlightened, complete in knowledge and conduct,
gone to felicity, supreme knower of the world, tamer of humans, teacher of
celestials and humans, awake, blessed. He was at an enlightenment site
called Light Emerging from the Cloud of Teaching in the park Cloud of
Light on a Mountain of Fragrant Plants, where he enjoyed his first seven
days since attaining enlightenment.
“The girl, who was reclining in the chariot, saw that buddha in a dream.
When she awoke, a goddess who had been a relative in a past life told her
that the buddha was in the park, in his first week of enlightenment, sur-
rounded by a group of enlightening beings, before a crowd of all kinds of
spirits, and that all the deities of earth, space, water, fire, wind, oceans, riv-
ers, mountains, night, dawn, forests, trees, plants, grain, cities, foot tracks,
sanctuaries, bodies of light, habitations, the sky, and all directions had gath-
ered to see the buddha Supreme Sun.
“Emboldened by seeing the buddha and hearing of the buddha’s vir-
tues, finding a favorable opportunity, the girl then spoke these verses
before the prince:
Thiện-Tài thưa:
Ngài được môn giải-thoát nầy đã bao lâu?
Cù-Ba nói:
Nầy Thiện-nam-tử! Thuở xưa, quá phật-sát cực-vi-trần số kiếp, có kiếp tên là Thắng-hạnh, thế-giới tên là Vô-Úy, trong thế-giới ấy có tứ thiên-hạ tên là An-Ổn. Trong Diêm-Phù- Ðề có thành vua tên là Cao-Thắng-Thọ, vương-thành nầy là thượng-thủ trong tám mươi Vương-thành. Quốc-Vương tên là Tài-Chủ, có sáu vạn Thể-Nữ, năm trăm Vương-Tử, năm trăm Ðại-Thần.
Các Vương-Tử nầy đều dũng-mãnh dẹp được oán-địch.
Thái-Tử tên là Oai-Ðức-Chủ, thân tướng đầy đủ đoan chính xinh đẹp, mọi người đều thích thấy. Vương-Tử nầy dưới bàn chân bằng đầy, đủ luân-tướng, lưng bàn chân vun cao, ngón tay ngón chân đều có màn mỏng, gót chân ngay bằng tay chân dịu mềm, bắp chân lộc-vương, bảy chỗ viên-mãn, âm-tàng ẩn kín, phần trên của thân mình như sư-tử-vương, hai vai bằng đầy, hai tay suông dài, thân tướng ngay thẳng, cổ ba ngấn, má như sư-tử, đủ bốn mươi cái răng tất cả đều bằng kín, bốn răng nanh trắng bóng, lưỡi dài rộng vang phạm âm thanh, tròng mắt xanh biếc, lông mắt như ngưu-vương, chặng mày có bạch-hào, trên đỉnh đầu có nhục-kế, da thứa mịn nhuyễn màu chơn kim, lông trên thân đều xoắn lên trên, tóc màu đế-thanh, thân tròn đầy ngay thẳng như cây ni-câu-đà.
Lúc đó Thái-Tử tuân lịnh Phụ-Vương cùng một ngàn thể-nữ vào vườn hương-nha du ngoạn. Thái-Tử ngồi trên tòa sư-tử đại-ma-ni trong xe, năm trăm thể-nữ cầm dây báu kéo xe. Trăm ngàn vạn người cầm bửu-cái. Trăm ngàn muôn người cầm bửu-tràng. Trăm ngàn muôn người cầm bửu-phan. Trăm ngàn muôn người trổi nhạc. Trăm ngàn muôn người xông hương thơm. Trăm ngàn muôn người rải hoa đẹp. Tùy tùng trước sau theo xe Thái-Tử.
Ðường xá bằng phẳng, rải đầy những hoa đẹp. Hai bên đường cây báu thành hàng, lưới báu giăng che, nhiều lầu các chứa những châu báu, hoặc trần thiết những vật trang-nghiêm, hoặc chưng dọn những thức uống ăn, hoặc treo y-phục, hoặc sắm đủ những vật tư-sanh, tùy ai cần gì đều ban cho.
Bấy giờ có bà mẹ tên là Thiện-Hiện dắt một Ðồng-nữ tên là Cụ-Túc-Diệu-Ðức. Ðồng-nữ nầy dung nhan đoan chánh, mắt và tóc xanh biếc, tiếng nói như phạm-âm, nghề khéo, luận giỏi, siêng năng kính nhường, đủ lòng từ mẫn, hổ thẹn, nhu hòa, chất trực, lìa ngu si, ít tham dục, không siểm nịnh dối phỉnh. Ðồng-nữ cùng mẫu-thân ngồi xe, các thể-nữ theo hầu, đi trước xe Thái-Tử.
Ðồng-nữ ấy thấy Thái-Tử bèn sanh lòng yêu mến, nói với mẹ rằng nàng muốn kính thờ người nầy, nếu không toại nguyện quyết sẽ tự vẫn.
Mẹ bảo chớ có vọng niệm. Ðây là Thái-Tử đủ tướng Luân-Vương. Sau đây lên ngôi sẽ làm Chuyển-Luân-Vương, có Bửu-Nữ xuất hiện, bay trên không tự tại.
Chúng ta là hàng ti-tiện chớ sanh vọng niệm, vì sự ấy khó đạt thành.
Bên cạnh khu vườn Hương-Nha có một đạo-tràng tên là Pháp-Vân Quang-Minh. Có đức Như-Lai hiệu là Thắng-Nhựt-Thân, đủ mười hiệu, xuất hiện trong đó đã được bảy ngày.
Ðồng-Nữ Diệu-Ðức ngủ gật mộng thấy Phật. Khi thức dậy, trên không có Thiên-Thần bảo Ðồng-Nữ rằng Thắng-Nhựt-Thân Như-Lai thành Ðẳng-Chánh-Giác nơi đạo-tràng Pháp-Vân Quang-Minh đã được bảy ngày, chúng Bồ-Tát vây quanh, chư Thiên, Long, bát-bộ, cùng chư Thần vì muốn thấy Phật nên đều tập hội.
Ðồng-Nữ Diệu-Ðức do mộng thấy Phật, lại nghe công đức của Phật, nên lòng nàng an-ổn không khiếp sợ, ở trước Thái-Tử mà nói kệ rằng:
I am known in the world for beauty,
Renowned everywhere for virtues.
None compares to me in the power of knowledge;
I know all arts, amusements, and magic.
Hundreds, thousands of men
Look on me with lust,
Page 1409 – Entry into the Realm of Reality
But I have no desire
For people of the world.
I have no ill-will,
Neither am I pleased by anyone.
I have neither anger nor hatred;
I delight in the welfare of all.
When I saw you, young man, excellent
In form and strength, endowed with virtue.
All my senses were delighted,
And immense joy arose in me.
Your complexion is like a pure shining jewel,
Your hair is black and curly.
You have a fine brow and nose;
I offer myself to you.
You have excellent features.
Resplendent, you are like a mountain of gold.
In your presence I do not shine;
I am like a pile of charcoal.
Your eyes are large and dark,
Your jaw is like a lion’s, your face like the full
The fine sound of your voice is irresistible;
Please take me in.
Your tongue is long and broad,
Coppery red, soft, shining like a jewel;
With your superb, clear voice
You delight people when you speak.
Your teeth are even, shining white,
Clean and well spaced;
When you show them as you smile,
You delight people, O hero.
Your body has the thirty-two marks
Of greatness, brilliantly shining, pure.
Adorned with them, you will become
A sovereign ruler of men.
Thân tôi rất đoan chánh
Tiếng đồn khắp mười phương
Trí-huệ không ai sánh
Khéo giỏi đủ các nghề.
Vô-lượng trăm ngàn chúng
Thấy tôi đều tham nhiễm
Lòng tôi đối với họ
Không một niệm ái dục.
Không sân cũng không hận
Không ghét cũng không mừng
Chỉ phát tâm quảng đại
Lợi ích các chúng-sanh.
Nay tôi thấy Thái-Tử
Ðủ những tướng công-đức
Tâm tôi rất vui mừng
Khắp thân đều thơ thới.
Màu da như minh-bửu
Tóc đẹp xoắn phía hữu
Trán rộng, mày nhỏ eong
Lòng tôi nguyện thờ Ngài.
Tôi xem thân Thái-Tử
Giống như tượng chân-kim
Cũng như đại-bửu-sơn
Tướng tốt có quang-minh.
Mắt rộng màu xanh biếc
Mặt tròn như trăng sáng
Vui-vẻ giọng nói hay
Xin thương nạp thọ tôi.
Tướng lưỡi rộng dài đẹp
Ðỏ như màu xích đồng
Phạm-âm tiếng Khẩn-Na
Ai nghe cũng vui đẹp.
Miệng vuông chẳng co rút
Răng trắng đều kín bằng
Lúc phát ngôn, hiện cười
Người thấy lòng hoan-hỉ.
Thân ly cấu thanh-tịnh
Ðủ ba mươi hai tướng
Tất sẽ ở cõi nầy
Mà làm Chuyển-Luân-Vương.
Then the prince Ford of Gfory said to the maid Splendor of Delight
Page 1410 – The Flower Ornament Scripture
Virtuous Conduct, ‘Whose daughter are you, whose ward? I cannot make
another’s ward my own.’ Then he spoke these verses:
Thái-Tử bảo Ðồng-Nữ rằng:
Nàng là eon gái của ai? Ai thủ hộ nàng? Nếu trước đã thuộc người khác, thời ta không nên sanh lòng ái nhiễm.
Thái-Tử nói kệ rằng:
0 lovely one, endowed with beauty of form,
With fine features and a pure body,
I ask you to tell me this —
Whose ward are you?
Have you father or mother,
Brother, husband, or master,
Or someone else who thinks of you
As his, treating you kindly?
I hope you are not vicious,
Do not steal.
Are not promiscuous,
And do not lie.
I hope you do not cause discord,
Do not slander others,
Do not covet others’ goods,
And are not hostile toward anyone.
May you not stand on the wasteland of views;
Let your intelligence not be taken a way by habits;
May you not exert bad influence on people
By guile or deceit.
Do you love and respect your parents,
Relatives, friends, and elders?
Does your heart reach out
To give to the poor to help them?
Are you well disposed toward spiritual benefactors
Who tell you about religion at the appropriate time?
Are you truly healthy and capable
In body and mind?
Do you respect the buddhas
And love the enlightening beings?
Do you know the supreme Teaching
From which the enlightening beings are born?
Can you abide by the supreme religion
And not do any wrong?
Page 1411 – Entry into the Realm of Reality
Do you have higher love and respect
For the infinite ocean of virtues?
Are you kind
To the helpless and lost?
Are you really compassionate
Toward evildoers?
Are you most happy
To see the success of others?
Are you indifferent, by the power of wisdom,
To those who annoy you for no reason?
Seeing people in the slumber of ignorance,
Do you firmly seek supreme enlightenment?
Would you not weary of endless ages
Of spiritual practice?
Thân nàng rất thanh-tịnh
Ðầy đủ tướng công-đức
Nay ta có lời hỏi
Hiện nàng ở với ai?
Cha mẹ nàng tên gì?
Nay nàng hệ thuộc ai?
Nếu đã thuộc người khác
Người đó nhiếp thọ nàng.
Nàng chẳng trộm của người,
Nàng không lòng giết hại,
Nàng chẳng phạm tà-dâm,
Nàng nương lời nói nào
Chẳng nói xấu người khác,
Chẳng phá thân thuộc người,
Chẳng xâm cảnh giới người,
Chẳng giận hờn người khác,
Chẳng sanh tà-hiểm-kiến,
Chẳng làm nghiệp trái nhau,
Chẳng dùng sức siểm-khúc
Phương-tiện gạt thế-gian.
Tôn trọng cha mẹ chăng?
Kính thiện-tri-thức chăng?
Thấy những người nghèo cùng
Phát tâm giúp đỡ chăng?
Nếu có thiện-tri-thức
Dạy bảo những điều hay
Nàng phát tâm kiên cố
Hoàn toàn tôn trọng chăng?
Có kính mến Phật chăng?
Có biết Bồ-Tát chăng?
Chúng tăng biển công-đức
Nàng có tôn kính chăng?
Nàng có biết pháp chăng?
Dạy được chúng-sanh chăng?
Nàng ở trong chánh-pháp
Hay ở trong phi-pháp?
Thấy những người cô-độc
Nàng có thương xót chăng?
Thấy chúng-sanh ác đạo
Nàng có bi-mẫn chăng?
Thấy người được vinh hạnh
Nàng có hoan hỉ chăng?
Người đến bức hại nàng
Nàng có phiền giận chăng?
Nàng phát tâm bồ-đề
Khai ngộ chúng-sanh chăng?
Vô-biên kiếp tu hành
Ðược không mỏi nhàm chăng?
“Then the supreme courtesan Beautiful, mother of the maid Splendor of
Delight in Virtuous Conduct, said to the prince Ford of Gfory, ‘This daugh-
ter of mine, who was spontaneously born from within a lotus, has never
before gone out of the house.’ Then she spoke these verses:
Thân-mẩu của Ðồng-Nữ nói kệ trả lời Thái-Tử:
Listen to what I say, O prince,
About my daughter, of whom you ask.
I will tell you of her birth
And how she grew up.
On the very same morn as your birth,
My daughter too was born,
Generated spontaneously in the calyx of an undefiled lotus.
All her limbs complete, with nice big eyes.
In springtime, the best of seasons,
When the crops and herbs are growing,
In my beautiful grove of sal trees
I utterly forgof myself.
The branches were blooming with most beautiful flowers.
The fruiting trees were like dense clouds;
Amid the trees with singing birds
I roamed, joyful, free from care.
I was with eight hundred girls.
Adorned with garlands of flowers,
Wearing various precious cloths.
Well versed in song and speech.
Page 1412 – The Flower Ornament Scripture
I sat on the bank of a pond
Filled with lotuses of various scents;
The area around, strewn with flowers,
Was filled by those well-cultivated girls.
In the middle of the water appeared
A supremely fine lotus with a thousand petals;
Its stem was lapis lazuli, its petals were diamond,
Its pericarp was pure gold.
It had a multitude of stamens of the finest fragrant jewels
And had a brilliant golden sheen:
The people were eonfused —
How could the sun rise at night?
Then, the night ended, from the rising sun,
Stimulating with its glow.
There emanated light and sweet sounds,
Foretelling the birth of this girl.
Then this precious girl appeared in the human world,
Pure in the best of conduct.
No deed is lost to the doer; she was the fruition
Of good actions in the past.
With dark hair, lotus-blue eyes,
A clear voice and golden complexion,
Finely clad in garlands, she emerged
From the lotus, resplendent as pure light.
Her limbs are bright, her body evenly balanced;
Her limbs are complete, her body well proportioned:
She shines like a golden statue adorned with jewels.
Illumining all directions.
The finest fragrance of sandalwood wafts from her body,
Filling the air around her;
As she speaks, with celestial sweetness,
A scent like blue lotus comes from her mouth.
Whenever she smiles.
Heavenly music plays;
This treasure of a woman should not be abandoned
To the control of the vulgar.
In the world of men no one can be found
Page 1413 – Entry into the Realm of Reality
Who is worthy to be her husband, except you,
A resplendent figure with the marks of greatness —
Therefore, please accept this girl.
For she is not short or too tall.
Not stout or too thin;
She is slender at the waist, full-breasted,
Suitable for you, with an impeccable body.
She has perfect knowledge of calculation.
Writing, symbology, and technical literature;
She has mastered all the arts and crafts
In the whole world.
She is expert in archery
And always hits her mark;
Pacifying opponents by her power of attraction.
She is ultimately successful everywhere.
All her limbs are like pure jewels;
She radiates an aura of light.
Adorned by the virtues she has accomplished,
She is fit to be your companion.
She knows the cause of all illnesses
That afflict living beings,
And she is able to cure them
By correct use of medicines.
She has mastered all the different languages
Of the people on the continent
And the variety of customary usages
Of society everywhere.
She knows the articulation of sounds
And the means of differentiation among them.
And she is expert in all
The songs and dances in the world.
She is not jealous or envious,
She is not lustful or ill-tempered;
She is taciturn, honest, and gentle.
Free from anger and harshness, very intelligent.
She is diligent, well behaved, not argumentative,
Always obedient to the worthy;
Page 1414 – The Flower Ornament Scripture
She is respectful, seeking to do whatever is good.
She will do as you ask.
She is always compassionate toward the elderly,
Toward the sick and the poor,
Toward the suffering, the blind,
And toward the helpless.
She is always thinking of the welfare of others,
And never thinks of benefit for herself;
Seeking the welfare of the whole world,
She is adorned with superior virtues of mind.
She is never careless, always mindful and aware,
Whether standing, sitting, reclining, or walking.
Whether silent or speaking;
She is always remembered and honored.
This virtuous one shines in all ways.
And is always loved by people;
None would tire of looking at her,
But she has no attachment to the world.
Respectful of spiritual friends,
She wants always to see you;
This far-seeing, uncorrupted lady has a pure mind.
Stable as the polar mountain.
Ever-adorned with her own virtues,
She has no enemies at all;
She has no peer in knowledge.
She is fit to be your bride, O prince.
Thái-Tử ngài lắng nghe
Nay tôi nói Ðồng-Nữ
Sơ-sanh đến trưởng-thành
Tất cả những nhơn-duyên:
Ngày Thái-Tử mới sanh
Nàng từ liên-hoa sanh,
Mắt nàng sáng dài rộng
Tay chân đều hoàn mỹ.
Tôi từng ở mùa xuân
Du ngoạn vườn Ta-La
Thấy khắp những dược-thảo
Mọi thứ đều tươi tốt.
Cây lạ trổ hoa đẹp
Trông đó như khánh-vân,
Chim đẹp cùng hòa hót
Trong rừng đồng hoan lạc.
Cùng đi tám trăm cô
Ðoan chánh chiếm lòng người
Y phục đều nghiêm lệ
Ca ngâm đều rất hay.
Vườn đó có ao tắm
Tên là Liên-Hoa-Tràng,
Tôi ngồi trên bờ ao
Thể-nữ hầu chung-quanh.
Trong ao sen lớn ấy
Bỗng sanh hoa ngàn cánh
Cánh báu, cọng lưu-ly,
Vàng Diêm-Phù làm đài.
Bấy giờ là hừng sáng
Mặt nhụt mới ló mọc,
Hoa ấy đương nở ra
Phóng ánh sáng thanh-tịnh.
Ánh sáng ấy rất mạnh
Dường như mặt trờ mọc
Chiếu khắp Diêm-Phù-Ðề
Mọi người đều khen lạ.
Bấy giờ thấy Ðồng-Nữ
Từ hoa sen đó sanh
Thân nàng rất thanh-tịnh
Chi Phần đều viên-mãn.
Ðây là báu nhơn-gian
Từ nơi tịnh-nghiệp sanh
Nhơn trước không hư mất
Nay thọ quả báo nầy.
Tóc biếc, mắt sen xanh,
Phạm-Thinh, da chân-kim,
Tràng hoa, những bửu-kế
Thanh-tịnh không chút nhơ.
Chi tiết đều đầy đủ
Thân nàng không khuyết giảm
Dường như tượng chơn-kim
Ðặt ở trong bửu hoa.
Chân lông mùi chiên-đàn
Xông khắp cả mọi nơi,
Miệng phát mùi thanh-liên
Thường diễn tiếng phạm-âm.
Chỗ của nàng nầy ở
Thường có âm nhạc trời,
Chẳng nên để kẻ hèn
Sánh đôi với nàng nầy.
Thế-gian không người nào
Kham làm chồng nàng nầy,
Duy ngài đủ tướng tốt
Xin nạp thọ nàng nầy.
Chẳng cao cũng chẳng thấp,
Chẳng thô cũng chẳng tế,
Toàn thân đều đoan-nghiêm
Xin Ngài nạp thọ nàng.
Văn tự pháp toán số
Tất cả những nghề khéo
Nàng đều thông suốt cả
Xin Ngài nạp thọ nàng.
Biết rành những binh pháp
Khéo phán đoán kiện tụng
Ðều được kẻ khó điều
Xin Ngài nạp thọ nàng.
Thân nàng rất thanh-tịnh
Người thấy không nhàm đủ
Công-đức tự trang-nghiêm
Ngài nên nạp thọ nàng.
Chúng-sanh có họa hoạn
Khéo rõ duyên khởi đó
Ðúng bịnh mà cho thuốc
Tất cả diệt trù được.
Những ngôn ngữ Diêm-Phù
Vô-lượng thứ sai khác
Nhẫn đến tiếng kỹ nhạc
Nàng thông suốt tất cả.
Những nghề của phụ nữ
Nàng nầy biết tất cả,
Mà không lỗi phụ nữ
Ngài nên mau nạp nàng.
Chẳng ganh cũng chẳng tiếc,
Không tham cũng không giận,
Tánh nhu nhuyến chất trực
Rời bỏ những thô ác.
Cung kính bực tôn-túc
Phụng thờ không trái nghịch
Thích tu những hạnh lành
Có thể tùy thuận ngài.
Nếu nàng thấy già bịnh
Nghèo cùng và hoạn nạn
Không ai cứu không nương
Nàng sanh lòng xót thương.
Thường quán đệ-nhất-nghĩa
Chẳng cầu tự lợi lạc
Chỉ nguyện lợi chúng-sanh
Dùng đây trang-nghiêm tâm.
Ði đứng cùng ngồi nằm
Tất cả không phóng dật
Nói năng và yên lặng
Ai thấy cũng vui mừng.
Dầu ở tất cả chỗ
Ðều không lòng nhiễm trước
Thấy người có công-đức
Hoan-hỉ không biết nhàm.
Tôn trọng thiện-tri-thức
Thích thấy người rời ác
Tâm nàng không tháo động
Xét trước sau mới làm.
Trang-nghiêm với phước trí
Tất cả không oán hận
Hơn hết trong hàng nữ
Ðáng người thờ Thái-Tử.
“Then the prince, having entered the park, said to the maid in the pres-
ence of her mother, ‘I have set out for supreme perfect enlightenment,
whereby I may gather the infinite stores of omniscience, cultivate the prac-
tice of enlightening beings for infinite eons and perfect all the transcendent
ways, serve the buddhas for endless eons, uphold the teaching of all buddhas,
purify all buddha-lands, perpetuate the lineages of all buddhas, develop all
groups of sentient beings to maturity, stop the pains of the mundane whirl
for all sentient beings, lead sentient beings to ultimate bliss, clarify the eye of
knowledge in all sentient beings, strive for the attainments of all buddhas
and enlightening beings, abide in the equanimity of all enlightening beings,
accomplish all the stages of enlightening beings, purify all sentient beings,
cultivate total giving to put an end to poverty for all sentient beings, practice
transcendent giving for endless eons and satisfy all sentient beings with gifts
Page 1415 – Entry into the Realm of Reality
of food and drink, and satisfy all beggars by giving a way all goods. As I prac-
tice total relinquishment, everything internal and external is to be given
a way — I am to give a way my sons, daughters, wife; I am to relinquish my
eyes, head, hands and feet, all my limbs. You will hinder my giving, you will
become unhappy at the relinquishment of beloved children, you will feel
much physical and mental pain, you will resent my determination to give up
everything. When I cut off my limbs to give them to beggars, you will be
pained and grieved. And there will come a time when I leave you to go forth
into the tutelage of a buddha; at that time you will be unhappy.’ Then the
prince spoke these verses to the maid:
Lúc đã vào vườn Hương-Nha, Thái-Tử bảo Ðồng-Nữ Diệu-Ðức và bà Thiện-Hiện rằng:
Nầy Thiện-Nữ! Ta cầu vô-thượng bồ-đề, sẽ tột vô-lượng kiếp thuở vị-lai chứa nhóm pháp trợ-đạo nhất-thiết-trí, tu tập vô-biên bồ-tát-hạnh, tịnh tất cả ba-la-mật, cúng-dường tất cả Như-Lai, hộ trì tất cả phật-giáo, nghiêm tịnh tất cả phật-độ, sẽ làm cho phật-chủng của tất cả Như-Lai chẳng mất, sẽ theo chủng-tánh của tất cả chúng-sanh để thành-thục họ, sẽ diệt khổ sanh tử cho chúng-sanh được ở chỗ rốt ráo an lạc, sẽ tịnh tri mắt trí-huệ cho tất cả chúng-sanh, sẽ tu tập tất cả công-hạnh của Bồ-Tát, sẽ an trụ nơi tâm bình-đẳng của tất cả Bồ-Tát, sẽ thành-tựu hành-địa của tất cả Bồ-Tát, sẽ làm cho tất cả chúng-sanh đều hoan-hỉ, sẽ xả thí tất cả vật để thật hành đàn ba-la-mật tột thuở vị-lai, làm cho tất cả chúng-sanh đều được đầy đủ, những vật uống ăn, y phục, vợ eon đến đầu mặt tay chân ta đều sẽ xả thí không hề tiếc.
Lúc đó nàng sẽ cản trở ta, lúc thí của cải nàng sẽ lẫn tiếc, lúc thí eon cái nàng sẽ buồn khổ, lúc cắt tay chân nàng sẽ sầu muộn, lúc bỏ nàng để xuất gia lòng nàng sẽ hối hận.
Thái-Tử nói kệ bảo nàng Diệu-Ðức rằng:
I am going to fulfill the immeasurable ocean
Of provisions for perfect enlightenment;
Therefore, with compassion for all,
I have set forth forever for enlightenment.
For infinite eons, measureless as air,
I will purify my vow;
For endless eons I will perform the preparations
Of the initial stage of the buddhas.
I will learn the paths of transcendence
From the buddhas of past, present, and future
And perfect the path of supreme enlightenment
By the great means of unexcelled knowledge.
I will purify all
Defiled lands everywhere;
I will remove all difficulties
And evil ways from all worlds.
I will purify all beings
Who are wrapped up in afflictions, blind with delusion;
Developing them by various means,
I will bring them into the path of omniscience.
I will accomplish the unobstructed stages
And serve the buddhas for myriad eons;
Generating kindness toward the world,
I will give all gifts.
As I am engaged in giving all
To beggars who come,
Do not become depressed
Or sad or unsympathetic.
Page 1416 – The Flower Ornament Scripture
Seeing benefit for one who wants my head,
A wise person would delight in lofty conduct;
You would be tormented.
So hear my purpose and become firm.
You would be grieved at my giving
My severed hands and feet to beggars
And speak bitterly, faint and distressed;
So hear my purpose and think about it.
I will give a way my prized possessions.
Even my children, yet 1 want you;
Hear my aim and if you do not despair,
All shall be as you wish.
Vì thương xót chúng-sanh
Ta phát tâm bồ-đề
Ở trong vô-lượng kiếp
Tu Tập nhất-thiết-trí.
Trong vô-lượng đại-kiếp
Tịnh tu những nguyện-hải
Nhập địa và trừ chướng
Ðều trải vô-lượng kiếp.
Chỗ tam thế chư Phật
Học lục ba-la-mật
Ðầy đủ hạnh phương-tiện
Thành-tựu đạo bồ-đề.
Cõi cấu uế mười phương
Ta sẽ đều nghiêm tịnh
Tất cả nạn ác-đạo
Ta sẽ khiến thoát hẳn.
Ta sẽ dùng phương-tiện
Rộng độ các quần-sanh
Khiến diệt tối ngu-si
Trụ nơi phật-trí-đạo.
Sẽ cúng tất cả Phật,
Sẽ tịnh tất cả địa,
Khởi đại từ-bi tâm
Ðều bỏ vật trong ngoài.
Nàng thấy người đến xin
Hoặc sanh lòng tham tiếc,
Tâm ta thường thích thí
Nàng chớ trái lòng ta.
Nếu thấy ta thí đầu
Chớ có sanh buồn khổ,
Nay ta bảo nàng trước
Cho lòng nàng kiên-cố.
Nhẫn đến chặt tay chân
Nàng chớ trách người xin,
Nay nàng nghe lời ta
Cần phải suy nghĩ kỹ.
Tất cả vật sở hữu
Ta đều xả tất cả,
Nếu nàng thuận lòng ta
Ta sẽ toại ý nàng.
“The maid replied to the prince, ‘Let it be as you say. I will do as you wish.
I am at your service and will accompany you wherever you want to go. I will
always stay with you and be diligent in all tasks. I will behave as you wish. I
will exert myself properly and act in harmony with you.” Then she spoke
these verses to the prince:
Ðồng-nữ thưa với Thái-Tử:
Kính vâng lời dạy của Ngài.
Ðồng-nữ liền nói kệ đáp lời Thái-Tử:
Even if my body should be burnt to death
In the fires of hell,
I would endure it for myriad lifetimes
As your companion in practice.
Even if life after life for endless lives
My body were cut asunder,
I would endure it with a steadfast mind
If you were my husband.
Even if the mountains should crush
My head for endless ages,
I would endure it unfazed
If you became my husband.
In infinite lifetimes you may cut off
Your own limbs and give them to others;
Lead me to control of my thoughts
And make me firm in my duty.
I give you my body completely,
O prince of men;
Performing spiritual practice for myriad ages.
Give me to whoever wants me, and I will be happy.
Page 1417 – Entry into the Realm of Reality
You have set out for supreme enlightenment.
With infinite compassion for beings;
Having taken all beings into your care,
Take me in too with compassion.
It is not for enjoyment
Or wealth or sensual pleasure
That I want you, best of men, for my husband.
But to share the same spiritual practice.
You look upon all beings
With clear eyes and kind heart;
Being compassionate with undefiled mind,
You will surely become a king of sages.
As you walk along, a jewellike glow
From your footsteps remains on the earth, pure;
Endowed with the marks of greatness.
You will surely become a sovereign king in the human world.
In a dream I saw the enlightenment site
Illumined by clouds of true teaching in this kingdom;
With the buddha sitting at the foot of the best of trees,
In the company of many enlightening beings.
That exalted buddha Supreme Sun
Is like a mountain of finest rose gold;
In my dream he patted my head,
And I awoke then, full of joy.
A pure-bodied goddess named Light of Delight,
Who had been a companion in the past,
Told me the buddha was here,
Staying at the supreme site of enlightenment.
I had been thinking before that I wanted
To see the prince Ford of Gfory,
And I was told by the goddess
I would see the prince soon.
Now I have seen the buddha in a dream,
And have seen you, the perfect man;
My wish is fulfilled, and I am happy;
With you now I will honor that supreme sage.
Trong vô-lượng kiếp-hải
Lửa địa-ngục đốt thân
Nếu Ngài thương nạp tôi
Cam tâm chịu khổ nầy.
Vô-lượng chỗ thọ sanh
Nát thân như vi-trần
Nếu Ngài thương nạp tôi
Cam tâm thọ khổ nầy.
Vô-lượng kiếp đầu đội
Núi kim-cang lớn rộng
Nếu Ngài thương nạp tôi
Cam tâm thọ khổ nầy.
Vô-lượng biển sanh tử
Ðem thịt tôi bố thí
Chỗ Ngài thành Pháp-Vương
Nguyện cho tôi cũng vậy.
Nếu Ngài thương nạp tôi
Cho tôi làm chủ đó
Ðời đời Ngài bố thí
Nguyện thường đem tôi thí.
Vì thương chúng-sanh khổ
Mà phát tâm bồ-đề
Ðã nhiếp chúng-sanh rồi
Cũng sẽ nhiếp thọ tôi.
Tôi chẳng cầu giầu sang
Chẳng tham vui ngũ-dục
Chỉ vì cùng tu hành
Nguyện dùng Ngài làm chủ.
Mắt rộng dài xanh biếc
Từ mẫn nhìn thế-gian
Chẳng móng tâm nhiễm trước
Quyết thành đạo Bồ-Tát.
Chỗ Thái-Tử bước đi
Ðất mọc những bửu-hoa
Tất làm Chuyển-Luân-Vương
Xin Ngài thương nạp tôi.
Tôi vừa mộng thấy Phật
Diệu-pháp bồ-đề tràng
Ðức Phật ngồi dưới cây
Vô-lượng chúng vây quanh.
Tôi mộng thấy Như-Lai
Thân như núi Chơn-kim
Tay Phật xoa đầu tôi
Thức dậy lòng hoan-hỉ.
Trời quyến-thuộc thuở xưa
Tên là Hỉ-Quang-Minh
Trời đó vì tôi nói
Ðạo tràng Phật xuất thế.
Tôi từng nghĩ như vậy
Nguyện thấy thân Thái-Tử,
Trời ấy bảo tôi rằng
Nay nàng sẽ được thấy.
Chí nguyện trước của tôi
Hôm nay đều thành mãn
Xin cùng ngài đồng đến
Cúng-dường đức Như-Lai
Then the prince, having heard the name of the buddha Supreme Sun and
Page 1418 – The Flower Ornament Scripture
having thus goften the opportunity to see the buddha, became very joyful;
he showered the maid Splendor of Delight in Virtuous Conduct with five
hundred jewels, gave her a shining crown of jewels, and covered her with a
precious robe the color of fire blazing with jewels. And she, thus honored,
neither rejoiced nor wept, nor did anything but gaze steadily at the prince
with palms joined in respect.
“Then the prominent courtesan Beautiful spoke these verses to the prince:
Thái-Tử nghe danh hiệu Thắng-Nhựt-Thân Như-Lai, rất hoan-hỉ muốn được thấy Phật.
Thái-Tử đem năm trăm châu ma-ni rải trên Ðồng-Nữ, ban mão Diệu-Tạng-Quang-Minh-Bửu và áo Hỏa-Diệm-Ma-Ni-Bửu.
Ðồng-Nữ Diệu-Ðức lòng chẳng rung động cũng không lộ vẻ mừng, chỉ chắp tay cung-kính chiêm-ngưỡng Thái-Tử mắt chẳng tạm rời.
Bà Thiện-Hiện ở trước Thái-Tử nói kệ rằng:
For a long dark time I have wished
To give this girl to you;
Now this beautiful maiden
Of virtue and quality is yours.
There is no girl in the world
Equal to her, much less superior;
By virtue of her conduct, intellect, and other qualities,
She is the best of women in the world.
Born of a lotus, there is no question of her class;
She cannot be called impure.
Her mind is free from the taint of all faults;
She is capable of sharing your practice.
Her limbs are extremely soft,
Eonveying the finest pleasures of touch;
The sick are instantly cured
By her touch.
The pure fragrance of her body
Excels all the finest perfumes;
All men who smell it
Become pure in conduct.
Her body shines like gold,
Undefiled like a lotus;
Angry and cruel people
Become kind when they have seen her.
She speaks kindly, sweetly, pleasantly,
A delight to people who hear;
When they have heard her, the darkness of evil disperses,
And none wants to do anything bad.
Her mind is pure, her heart untainted;
There is no guile at all in her.
Page 1419 – Entry into the Realm of Reality
What she says is just what she thinks.
And thus she makes people happy.
She does not fool anyone by deceit.
Nor does she lead people on for gain;
She is modest and discreet.
Always respectful to old and young.
She is not fascinated by class
Or looks or followers.
She has no conceit or arrogance;
She is always humble toward all.
Eon tôi rất đoan chánh
Thân công-đức trang-nghiêm
Xưa nguyện thờ Thái-Tử
Nay đã được toại ý.
Trì giới có trí huệ
Ðầy đủ các công-đức
Khắp tất cả thế-gian
Tối-thắng không ai bằng.
Từ liên-hoa hóa sanh
Chủng tánh không hèn xấu
Thái-Tử đồng hạnh nghiệp
Xa lìa tất cả lỗi.
Eon tôi thân nhu nhuyến
Dường như lụa cõi trời
Tay nàng rờ chạm đến
Bịnh đau đều trừ diệt.
Lỗ lông phát hương thơm
Ngào ngạt không gì bằng
Nếu ai được ngửi đến
Ðều ở nơi tịnh-giới.
Màu da như chơn-kim
Ngồi ngay trên hoa-đài
Chúng-sanh nếu được thấy
Hết oán phát tâm từ.
Lời nói rất dịu dàng
Ai nghe cũng hoan-hỉ
Chúng-sanh nếu được nghe
Ðều rời những ác-nghiệp.
Tâm tịnh không vết nhơ
Xa lìa những siểm khúc
Xứng tâm mà phát ngôn
Người nghe đều hoan-hỉ.
Ðiều nhu lòng hổ thẹn
Cung kính bậc tôn túc
Không tham cũng không dối
Thương xót các chúng-sanh.
Lòng eon tôi chẳng ỷ
Sắc tướng và quyến-thuộc
Chỉ dùng tâm thanh-tịnh
Cung Kính tất cả Phật.
“Then the prince and the maid, with her retinue of twenty thousand girls,
left the park and went to the site of enlightenment where thebuddha was, to
see, pay respects to, make offerings to, and attend the buddha. Going by
vehicle as far as the vehicle would go, the prince gof off the vehicle and
approached the buddha on foot; even at a distance he saw that the buddha
was serene, a sight to behold, senses tranquil, mind quiet, senses under eon-
trol, like a tame elephant, his heart like a clear, still pond. When he saw the
buddha, the prince’s mind became settled, and with a clear mind he devel-
oped great joy, well-being, and energy that derives from seeing a buddha.
With his mind full of great joy, energy, serenity, and rapture, he paid his
respects to the buddha, and together with his whole company, including the
young woman, covered the buddha with five hundred thousand greatjewel
lotuses, and made five hundred sanctuaries of jewels for the buddha and
adorned each one with five hundred thousand diamonds.
“Then the buddha, knowing the prince’s strong determination,
expounded a scripture called Lamp at the Door of the Universal Eye, upon
hearing which the prince attained ten oceans of concentrations absorbed in
all principles of the Teaching: he attained ways of concentration such as
those called ‘light produced from the oceans of vows of all buddhas,’ ‘path of
illumination of past, present, and future,’ ‘going forth into the circle of all
buddhas,’ ‘entry into the highest range of awareness of all beings,’ ‘attain-
ment of the scope of knowledge of the causes that produce all worlds,’ ‘lamp
illumining the oceans of faculties of all beings,’ ‘cloud of knowledge to save
all beings,’ ‘lamp leading to the development and emancipation of all
beings,’ ‘communicating the cycles of teaching of all buddhas,’ and ‘multi-
tude of undertakings to purify the practices of universal good.’ Beginning
with these, the prince attained ten oceans of concentrations absorbed in all
the principles of the Teaching. The young woman attained a meditation
called ‘filled with an ocean of invincible knowledge’ and became irreversi-
ble in progress toward supreme perfect enlightenment.
“Then the prince, paying respects to the buddha, left the presence of the
buddha with the young woman and the rest of the company and went to his
father, the king, in the city. Greeting the king respectfully, he informed him
that the buddha Supreme Sun had appeared in the world and was staying in
Page 1420 – The Flower Ornament Scripture
the king’s realm, having recently attained enlightenment. The king then
asked the prince who had told him so, and he replied that it had been the
young woman Splendor of Delight in Virtuous Conduct.
“Then the king, hearing of the emergence of the buddha, felt that he had
gained a great treasure, felt that he had found the rare jewel of Buddha; he
eonsidered the sight of a buddha to be the end of the danger of falling into
evil ways; he felt he had found a great physician who could heal all afflic-
tions. He thought of the buddha as a liberator from all the sufferings of the
mundane whirl, as one who leads to ultimate peace and felicity, as one who
reveals the unobscured light of knowledge. He thought of the buddha as the
appearance of a great torch dispelling the darkness of ignorance, and felt that
he had found a spiritual guide for a world with no guide, thinking of the
buddha as a leader to omniscience for the leaderless.
“Hearing of the emergence of the buddha with greatjoy, the king Ford of
Wealth gathered together all the warriors, priests, townspeople, ministers,
family priests, princes, and governors, as well as the gatekeepers and courti-
ers, and abdicated the throne in favor of his son Ford of Gfory, who had
brought the joyous news of the appearance of the buddha. Then, having
crowned the prince as king, he went together with ten thousand people to
the buddha, paid his respects, and sat with his retinue before the buddha.
“Then the buddha, looking at the king and the whole assembly, emitted
a light from the curl of hair between his brows, a light called ‘lamp of the
minds of all beings,’ which illumined all worlds in the ten directions, then
stopped in front of all the world leaders, displayed inconceivable buddha-
projections , clarified the minds of those beings who could be taught by the
buddha, and then, by the inconceivable mastery of Buddha, by means of
embodiment of Buddha appearing in all worlds, speaking all languages in
the voice of Buddha, expounded a medium of mental command called
‘unshaded lamp of meaning of all things,’ which was accompanied by as
many media of mental command as atoms in a buddha-land. The king
Ford of Wealth, hearing of this medium of mental command, gained an
immense spiritual perspective on all things. As many enlightening beings
there as atoms in the continent attained the mental command of the
unshaded lamp of meaning of all things. Sixty million people, freed from
eontaminations, were mentally liberated. Ten thousand people became
dispassionate and untainted, and their objective vision of things was clari-
fied. An immense number aspired to supreme perfect enlightenment for
the first time. Infinitely many beings in the ten directions, by seeing the
inconceivable mystic displays projected by the buddha, reached liberation
by way of the Three Vehicles.
“The king Ford of Wealth, having gained great illumination from the
Teaching, thought, ‘I cannot apply myself assiduously to such a teaching or
accomplish such knowledge while living at home; let me leave home to be
with the buddha.’ Then he told the buddha he wanted to receive the pre-
cepts from the buddha and leave home to become a mendicant. The buddha
assented to this.
Page 1421 – Entry into the Realm of Reality
“So then the king and ten thousand of his people left home to follow the
buddha. Not long after leaving home, he accomplished the mental com-
mand of the unshaded lamp of meaning of all things, along with its
subsidiaries, and attained that many concentrations. He also attained ten
mystic knowledges of enlightening beings and plunged into infinite oceans
of analytic knowledge. He also attained a purity of body called ‘unhindered
sphere of action’ in going to see the buddhas of the ten directions. He
received the teaching of the buddha, preserved it, and preached it, having
become a great spiritual preacher and a practitioner of the teaching. By the
power of attainment of mystic knowledge, he pervaded the whole world,
appearing to people according to their mentalities, telling them of theemer-
gence of the buddha, illuminating the nature that produces all buddhas,
explaining the accomplishment of the past practices of the buddha, praising
the miraculous power of the buddha, supporting the buddha’s teaching.
“As for the new king, the son of Ford of Wealth, on that very day, the time
of the full moon, he obtained the seven treasures of kingship. As he was sit-
ting in the upper palace surrounded by a group of women, there appeared a
great disc called ‘unobstructed momentum,’ adorned with a hundred thou-
sand jewels, made of gold, shining all over, perfectly formed. There also
appeared a great elephant named Diamond Mountain Blaze. There also
appeared a horse named Swift As the Wind in the Mountains. There also
appeared a great jewel called ‘supreme cluster of sunlight.’ There also
appeared the young woman Splendor of Delight in Virtuous Conduct, to be
his treasure of a wife. There also appeared a treasurer named Mass of Abun-
dant Wealth. There also appeared a military leader, the seventh treasure,
called Untainted Eye. Endowed with these seven treasures, he became king,
sovereign, ruler of the four continents, just, commander of the law, victori-
ous, with the power and vigor of the people. He also had a full thousand
sons, strong and valiant, destroyers of enemy armies. Under his just rule the
earth was free from war, free from evil, free from calamity, prosperous,
peaceful, pleasant, and well populated.
“In each of the eighty-four thousand main cities on the continent, he had
five hundred sanctuaries built, complete with all the finest features,
equipped with all utensils, supplies, and facilities, adorned with gardens,
buildings, promenades, and delightful groves. In each sanctuary he also had
buddha-memorials built, high and wide, adorned with many arrays ofjew-
els. And he invited the buddha Supreme Sun to all those cities, where he
presented the buddha with inconceivable offerings of all kinds. The miracle
of the entry of the buddha into the cities fostered virtue in innumerable peo-
ple, and all those with disturbed minds attained tranquillity, while those
with calm minds developed the intensejoy of seeing the buddha; those who
were full ofjoy attained purity of will for enlightenment, while those whose
will for enlightenment was pure developed great compassion; those of
goodwill became involved in the quest for all buddha-teachings, while those
who knew the principles of the buddha-teaching set their minds to medita-
tion on the intrinsic nature of all things; those who had realized the equality
Page 1422 – The Flower Ornament Scripture
of things set their minds on realizing the equality of past, present, and
future; those who had attained the scope of knowledge of past, present, and
future entered into the light of knowledge of the succession of all buddhas,
while those who had entered the knowledge of various manifestations of
buddhas set their minds on the ‘Ovation of all sentient beings; those
engaged in the salvation of all beings vowed to complete the path of enlight-
ening beings, while those who had realized the equanimity of the path
generated the light of knowledge to bring forth the cycles of teaching of all
buddhas; those who were ready for the guidance of the ocean of teachings
set their minds on pervading the network of all lands with their own bodies,
while those who realized the equality of lands undertook to know the facul-
ties of all sentient beings, and those engaged in eonsideration of the faculties
of all sentient beings in accord with their inclinations purified the determi-
nation to reach omniscience. Entering into the fulfillment of such benefits
for such people, the king Ford of Gfory had the buddha Supreme Sun enter
all the cities, to develop and guide those people by the inconceivable vision
of the miracles of the Buddha.
“Now, who do you think that prince Ford of Gfory was? You should see
him as none other than this buddha Shakyamuni, who at that time was a
prince named Ford of Gfory, who attained kingship, and was on good terms
with the buddha Supreme Sun. And who do you think the king Ford of
Wealth, father of Ford of Gfory, was? You should see him as none other than
the buddha Jewel Flower Light, who at that time was a king named Ford of
Wealth, who attained supreme perfect enlightenment at an enlightenment
site symbolized by reflection of the moon and expounded the Teaching sur-
rounded by as many enlightening beings as atoms in untold buddha-lands in
a world called Shining Lamp of the Aura of Buddha in a world system called
Family Born of a Diamond Reflecting Past, Present, and Future in the center
of an ocean of worlds called Multitude of Reflections in the Space of the
Cosmos of Realities, which was to the east past as many oceans of worlds as
atoms in a world. Furthermore, that ocean of worlds, Multitude of Reflec-
tions in the Space of the Cosmos of Realities was purified by that buddha
Jewel Flower Light in the course of his past practice as an enlightening
being, and all the past, present, and future buddhas in that ocean of worlds
were ripened for supreme perfect enlightenment by that buddha Jewel
Flower Light as he carried out the practice of enlightening beings.
“Now then, who do you think was the queen Lotus Born in that time,
mother of the prince Ford of Gfory, foremost of the eighty-four thousand
women? You should see her as none other than Lady Maya, mother of the
Blessed Buddha, progenetrix of the enlightening being Vairocana, estab-
lished in unobstructed liberation of universal light, direct witness to the
appearance of the countless multitude of all buddhas, who knows the man-
ner of manifestation of birth of all enlightening beings.
And who do you think was the great courtesan Beautiful? You should see
her as Sunetra, wife of Dandapani of the Shakya clan, who is my mother.
Page 1423 – Entry into the Realm of Reality
And who was her daughter. Splendor of Delight in Virtuous Conduct? You
should see her as me.
“Who do you think were the retinue of the king Ford of Wealth? They
were these enlightening beings seated here in this assembly, guided by the
Buddha to the fulfillment of the vows of universally good action, with a
body reflected in all worlds, mind unadulterated and unfragmented in all
concentration states of enlightening beings, eyes seeing the being and coun-
tenance of all buddhas, ears hearing the utterances of all buddhas, breath in
control of all spiritual stations, voice going to all buddha-lands, the body of
an enlightening being ceaselessly going to the audiences of all buddhas,
entering the network of all places by production of embodiments suitable to
develop and guide according to the mentalities of those to whom the
enlightening beings appear, arriving at fulfillment of the vowsof practice of
universal good unbroken throughout the ages.
“The king Ford of Gfory and I, furthermore, attended the buddha
Supreme Sun as long as he lived, providing him with the necessities of life.
After that buddha passed a way entirely, a buddha named Pure Body
emerged, in that same world, and we honored and served him. Af ter that we
served, in succession, buddhas named Moon Reflecting Knowledge in All
Limbs, King of Golden Light, Adorned with Marks of Greatness, Moon
Blazing with a Web of Brilliant Light Beams, Paragon of Observant Knowl-
edge, King Illumined with Great Knowledge, Adamantine Energy,
Invincible Power of Knowledge, All-Observing Knowledge, Cloud of Pure
Light, Crown Blazing with Lights of Knowledge, Banner of Lights of Vir-
tue, Energy of the Sun of Knowledge, Limbs Like Blooming Jewel Lotuses,
Lamp of Felicity, Radiance of Multitudes of Rays of Knowledge, Moon
Shining Everywhere, Powerful Lion Illumined by Universal Knowledge,
Moon of Cosmic Mind, Reflection in the Spacelike Mind of Beings, Tran-
quil and Well Balanced, Ubiquitous Sound of Silence, Cluster of Images in a
Network of Light Rays of Stable Knowledge, Radiance of the Mountain of
Immortality, Thunder of the Ocean of Truths, Crown of Light in the Sky of
Buddhas, Moon of Light Beams, Face of Complete Knowledge, Luster of
Flowers of Pure Knowledge, Gforious Light of a Mountain of Jewel Flow-
ers, Light of Myriad Stars of Virtue, Knowledge Emerging from the
Heights of Concentration, Jewel Moon, Circle of Flames, Sublime Jewel
Radiance, Unhesitating in Practice of Universal Knowledge, Blazing Lamp
Topped with a Sea of Flames, King Proclaiming the Mansion of Truth,
Famed for Peerless Virtue, Moon Reflecting Past Vows, Lamp of Meaning
with Spacelike Knowledge, Ford of the Sky, Born of Truth, King Filled
with Shining Light, Paragon of Spirituality, Chief in Knowledge, Lotus in
the Ocean of Truth. Beginning with these, there were sixty decillion bud-
dhas in that world whom we honored, served, and provided with food and
clothing, medicine and furniture.
“The last of those sixty decillion buddhas was one named Energy Born of
Great Zeal for Truth. When that buddha came to town, I, as wife of the
king, together with my husband, made all kinds of offerings and then heard
Page 1424 – The Flower Ornament Scripture
an exposition of the Teaching from the buddha called ‘lamp produced by the
emergence of all those who arrive at Thusness,’ on hearing which I attained
the eye of knowledge, and attained this enlightening liberation whose
sphere is observation of the oceans of concentrations of all enlightening
beings.
“Cultivating this liberation for as many eons as atoms in one hundred
buddha-lands, carrying out enlightening practice with the enlightening
being Vairocana, I associated with countless buddhas during those many
eons. In an eon I might serve one buddha or two, up to an inexpressible num-
ber of buddhas; some eons I served as many buddhas as atoms in a
buddha-land. Yet never did I know the size of the enlightening being’s body
or what it looked like; nor did I know the enlightening being’s physical, ver-
bal, or mental actions, nor his knowledge and vision, his range of
knowledge, or his realm of concentration of knowledge. As for those who,
seeing the enlightening being carrying out the practice of enlightening
beings, developed pure faith through various associations, all of them were
taken care of by the enlightening being by various worldly and
transmundane means, and became associates of the enlightening being.
Associating with the enlightening being as he carried on enlightening prac-
tice, they never regressed on the way to supreme perfect enlightenment.
“Having attained the enlightening liberation whose sphere is observation
of the oceans of concentrations of all enlightening beings when I saw the
buddha Energy Born of Zeal for Truth, as I cultivated this liberation along
with the enlightening being for as many eons as atoms in a hundred buddha-
lands, I propitiated, served, and attended all the buddhas who emerged in
those ages and heard, took up, and remembered their teachings; and I
attained this liberation from all those buddhas, by various methods, by vari-
ous enunciations of principles and systems of scriptures, by various bodies of
liberation, by various doors of liberation, by various liberative meditations
and procedures, by various ways of access, by entry into various oceans of
buddha-lands, by various visions of oceans of buddhas, by entry into various
buddhas’ assemblies, by various paths following the oceans of vows of
enlightening beings, by carrying out various paths following the oceans of
vows of enlightening beings, by carrying out various practices of enlighten-
ing beings, by accomplishing various practices of enlightening beings, by
various manifestations of the scope of the endeavor of enlightening beings:
yet I still did not enter the enlightening being’s universally good liberation.
Why? Because the ways of liberation of the universally good enlightening
beings are infinite as space, infinite as the thoughts of all sentient beings,
infinite as the ocean of time periods of past, present, and future, infinite as
the ocean of places, infinite as the ocean of structures of the cosmos; indeed,
the ways of liberation of the universally good enlightening beings are equal
to the sphere of buddhahood.
“For as many eons as atoms in a buddha-land I gazed at the enlightening
being, never tired of seeing him. Just as countless illogical thoughts and illu-
sions rise in the minds of a woman and man full of passion when they get
Page 1425 – Entry into the Realm of Reality
together, as I watched the body of the enlightening being, in every moment
of consciousness I perceived infinitely various indications from each of his
pores — the range of world systems, their various foundations, various eon-
joining arrangements, various eonfigurations, various mountain ranges,
various arrays of the ground, various arrays of clouds in the sky, various
names and numbers of eons, emergence of various buddhas and formation of
lineages of buddhas, various adornments of enlightenment sites, various
occult powers involved in the buddhas’ teaching procedures, various arrays
of buddhas’ audiences, various enunciations of scriptures, productions of
various vehicles of emancipation, and various manifestations of pure light,
the like of which I had never seen before. By ceaseless effort, from each of
his pores I saw in each moment of consciousness infinite oceans of buddhas,
various adornments of enlightenment sites, various mystic operations of the
Teaching, and various miraculous proclamations of scriptures. From each of
his pores I saw, in each moment of consciousness, infinite oceans of beings,
various houses, gardens, mountains, palaces, rivers, seas, and dwellings, vari-
ous physical bodies, various goods, various actions and efforts, and various
forms of development of faculties. From every one of his pores infinitely
various ways of entering past, present, and future became perceptible; infi-
nitely various oceans of vows of enlightening beings were purified, infinite
oceans of differences of the practices of the stages of enlightening beings
became perceptible, the infinitely various purities of the transcendent ways
of enlightening beings became perceptible, infinitely various oceans of past
efforts of enlightening beings became perceptible, infinitely various oceans
of ways of purifying buddha-lands became perceptible; infinitely various
oceans of the universal love of enlightening beings, oceans of universal love
for all beings, and oceans of heroic efforts to develop and guide all beings
descended into the world, infinite oceans of the universal compassion of
enlightening beings arose, infinite oceans of the great joy of enlightening
beings grew, and in every moment of consciousness infinitely various oceans
of efforts to take care of all sentient beings were accomplished.
“In each moment of consciousness through those eons numerous as atoms
in a hundred buddha-lands, I perceived oceans of principles of the Teaching
from each pore of the enlightening being, and never reached the end, even
though I did not go into what I had already gone into, and did not attain
what I had already attained. This I did by going into the ocean of various
ways of liberation of the enlightening being, even when he was the prince
Siddhartha in the royal palace surrounded by women; I perceived infinitely
various oceans of principles of past, present, and future through each of his
pores, by penetrating the oceans of ways into the realm of reality.
“I only know and have attained this enlightening liberation whose sphere
is observation of the oceans of concentrations of all enlightening beings.
Flow can I know the practice, tell of the qualities, or show all the oceans of
virtue of the enlightening beings who have gone into the infinitely various
oceans of liberative means, who purposely appear physically like all beings,
who appear to act in accord with the mentalities of all beings, who emanate
Page 1426 – The Flower Ornament Scripture
infinitely various appearances from all their pores, who realize the purity of
essence and nature of all bodies, who are free from discriminatory thought
because of awareness of the spacelike quality of the nature ofbeings, whose
intellect reaches everywhere with certain discernment, occupied with spiri-
tual powers equal to those who arrive at Thusness, who produce miraculous
displays of infinite spheres of liberation, who have mastered the state where
they can enter the vast cosmos of realities in a thought, who roam freely in
the ocean of liberation of the all-sided stage of all truths?
“Go to Lady Maya, mother of the enlightening being, who is sitting on a
great jewel lotus seat near the Blessed Vairocana. Go ask her how enlighten-
ing beings become undefiled by the taint of worldly things while they are
carrying out the practice of enlightening beings, how they become unflag-
ging in serving all buddhas, how they become undeviating from the ends of
the actions of enlightening beings, how they become free from all hin-
drances to entry into the liberations of enlightening beings, how they
become unfixed to all states of enlightening beings, how they come into the
presence of all buddhas and do not stop their efforts to take care of all sen-
tient beings, do not cease enlightening practice for all time, do not regress
from the undertaking of the Great Vehicle of universal enlightenment, and
do not become discouraged in maintaining and increasing the roots of good-
ness in the world.”
Then, by the empowerment of Buddha, Gopa spoke these verses illustrat-
ing this way of liberation:
Lúc đó Thái-Tử và nàng Diệu-Ðức đem một ngàn thể-nữ cùng quyến-thuộc, ra khỏi vườn Hương-Nha, đến đạo-tràng Pháp-Vân Quang-Minh, xuống xe đi bộ đến chỗ đức Phật.
Thấy đức Phật Thắng-Nhựt-Thân đoan-nghiêm tịch-tịnh, căn thân điều thuận trong ngoài đều thanh-tịnh, như ao Ðại-Long không có cặn nhơ, Thái-Tử và quyến-thuộc sanh lòng kính tin vui mừng hớn-hở đảnh lễ chân đức Phật, hữu-nhiễu vô-số vòng.
Thái-Tử và nàng Diệu-Ðức, mỗi người cầm năm trăm bông sen báu cúng-dường đức Phật.
Thái-Tử vì Phật mà kiến tạo năm trăm tinh xá bằng gỗ thơm, trang-nghiêm với những diệu-bửu xen châu ma-ni.
Ðức Phật thuyết kinh Phổ-Nhãn-Ðăng-Môn. Thái-Tử nghe xong, ở trong tất cả pháp được tam-muội-Hải:
Như là Phổ-chiếu-nhứt-thiết-phật-nguyện-hải tam-muội, phổ-chiếu tam-thế-tạng tam-muội, hiện-kiến-nhứt-thiết-phật-đạo-tràng tam-muội, phổ-chiếu-nhứt-thiết-chúng-sanh tam-muội, phổ-chiếu-nhứt-thiết-thế-gian-trí-đăng tam-muội, Phổ-chiếu-nhứt-thiết-chúng-sanh-căn-trí-đăng tam-muội, cứu-hộ-nhứt-thiết-chúng-sanh-quang-minh-vân tam-muội, phổ-chiếu-nhứt-thiết-chúng-sanh-đại-minh-đăng tam-muội, diễn-nhất-thiết-phật-pháp-luân tam-muội, cụ-túc-phổ-hiền-thanh-tịnh-hạnh tam-muội.
Nàng Diệu-Ðức được nan-thắng-hải-tạng tam-muội, trọn chẳng thối-chuyển nơi vô-thượng bồ-đề.
Thái-Tử và Diệu-Ðức cùng quyến thuộc đảnh lễ chân Phật, hữu nhiễu vô-số vòng từ tạ trở về cung, tâu cùng Phụ-Vương rằng:
Ðức Thắng-Nhựt-Thân Như-Lai gần đây xuất thế thành Ðẳng-Chánh-Giác tại đạo-tràng bồ-đề Pháp-Vân Quang-Minh nơi vườn Hương-Nha.
Phụ-Vương hỏi Thái-Tử:
Ai nói cho eon hay sự ấy.
Thái-Tử tâu:
Nàng Cụ-Túc Diệu-Ðức nói cho eon hay, và chúng eon đã đến đảnh lễ cúng-dường đức Phật.
Phụ-Vương hoan hỉ vô-lượng như người nghèo được của báu. Nhà vua tự nghĩ: đức Phật là vô-thượng-bửu khó được gặp. Nếu được thấy Phật thời. dứt hẳn sự sợ ác-đạo. Ðức Phật như Y-Vương trị lành tất cả bịnh phiền-não, có thể cứu tất cả khổ lớn sanh-tử. Ðức Phật như Ðạo-Sư, có thể làm cho chúng-sanh đến nơi an-ổn rốt ráo.
Nhà vua suy nghĩ xong, liền hội chư tiểu-vương, các quan, quyến thuộc và các sát-đế-lợi, bà-la-môn cùng tất cả quốc-dân. Nhà vua tuyên bố thối vị, nhường ngôi cho Thái-Tử.
Sau khi làm lễ quán-đảnh cho Thái-Tử, quốc-vương Tài-Chủ cùng một vạn người đến chỗ đức Phật, đảnh lễ nơi chân đức Phật, hữu nhiễu vô-số vòng, rồi cùng quyến-thuộc lui ngồi một phía.
Ðức Thắng-Nhựt-Thân Như-Lai quán-sát quốc-vương và đại-chúng, rồi phóng bạch hào quang-minh tên là nhất-thiết-thế-gian-tâm-đăng chiếu khắp vô-lượng thế-giới mười phương. Quang-minh ấy dừng ở trước tất cả Thế-Chủ, thị-hiện Như-Lai bất-khả-tư-nghì đại-thần-thông-lực, làm cho tất cả kẻ đáng được hóa-độ thân tâm thanh-lương.
Lúc đó đức Như-Lai hiện thân siêu xuất tất cả thế-gian, dùng viên-mãn-âm vì khắp đại chúng mà nói đà-la-ni tên là nhất thiết-pháp-nghĩa-ly-ám-đăng, có phật-sát vi-trần-số đà-la-ni làm quyến-thuộc.
Quốc-Vương nghe xong liền được đại-trí quang-minh.
Trong chúng-hội có diêm-phù-đề vi-trần số Bồ-Tát đồng thời chứng được môn đà-la-ni nầy.
Sáu mươi vạn na-do-tha người, sạch hữu-lậu tâm được giải-thoát.
Mười ngàn chúng-sanh xa lìa trần cấu được pháp-nhãn tịnh.
Vô-lượng chúng-sanh phát tâm bồ-đề.
Ðức Phật lại hiện thần-biến khắp mười phương vô-lượng thế-giới diễn pháp tam-thừa hóa độ chúng-sanh.
Quốc-Vương tự nghĩ: Nếu tại-gia, ta chẳng thể chứng được diệu-pháp như vậy. Nếu ta xuất-gia tu học bên Phật thời sẽ được thành-tựu.
Suy nghĩ xong, quốc-vương đến bạch Phật xin xuất gia. Ðức Phật hứa khả.
Quốc-Vương Tài-Chủ cùng một vạn quyến thuộc đồng xuất gia. Không bao lâu, nhà vua và quyến-thuộc đồng thành-tựu nhất-thiết-pháp-nghĩa-lý-ám đăng đà-la-ni, và các môn tam-muội như trên, lại được Bồ-Tát mười môn thần-thông, lại được Bồ-Tát vô biên biện-tài, lại được Bồ-Tát vô-ngại tịnh-thân đến chỗ chư Phật mười phương để nghe pháp, làm đại pháp-sư diễn nói diệu-pháp.
Quốc-Vương lại dùng thần-lực đến mười phương thế-giới tùy tâm chúng-sanh mà vì hiện thân, tán thán Phật xuất thế, nói bổn hạnh của Phật, bày bổn-duyên của Phật, tán dương thần-lực tự-tại của Như-Lai, hộ-trì phật-pháp.
Thái-Tử ở tại kim-điện, đúng ngày rằm, thất bửu tự hiện đầy đủ:
Một là luân-bửu tên là Vô-Ngại-Hành.
Hai là tượng-bửu tên là kim-Cang-Thân.
Ba là mã-bửu tên là Tốc-Tật-Phong.
Bốn là châu-bửu tên là Quang-Tạng.
Năm là nữ-bửu tên là Cụ-Túc Diệu-Ðức.
Sáu là tạng-thần-bửu tên là Ðại-Tài.
Bảy là chủ-binh-bửu tên là Ly-Cấu-Nhãn.
Ðã đủ bảy báu, Thái-Tử làm Chuyển-Luân-Vương cai trị Diêm-Phù-Ðề, nhân-dân được an lạc.
Luân-Vương có ngàn Vương-Tử đoan chánh dũng kiện, có thể dẹp oán địch.
Trong Diêm-Phù-Ðề có tám mươi Vương-Thành. Trong mỗi thành có năm trăm tăng-phường. Mỗi tăng-phường đều lập tinh-xá cao rộng xinh đẹp, trang-nghiêm với những diệu-bửu.
Mỗi Vương-Thành đều thỉnh đức Thắng-Nhựt-Thân-Như-Lai đến để cúng dường.
Lúc nhập thành đức Như-Lai hiện đại thần-lực khiến vô-lượng chúng-sanh gieo những căn lành, vô-lượng chúng-sanh tâm được thanh-tịnh, thấy Phật hoan-hỉ, phát tâm bồ-đề, khởi lòng đại-bi lợi ích chúng-sanh, siêng tu phật-pháp chứng nhập thật-nghĩa, trụ nơi pháp-tánh rõ pháp bình-đẳng, được tam-thế-trí bình-đẳng xem xét tam-thế biết tất cả Phật thứ đệ xuất thế thuyết pháp độ sanh, phát bồ-tát-nguyện, nhập bồ-tát-đạo, biết Như-Lai pháp, thành-tựu pháp-hải, có thể khắp hiện thân khắp tất cả cõi, biết căn tánh dục lạc của chúng-sanh khiến họ phát khởi chí nguyện nhất-thiết-trí.
Nàng Cù-Ba bảo Thiện-Tài rằng:
Nầy Thiện-nam-tử! Xưa kia, Thái-Tử được ngôi Chuyển-Luân-Vương cúng-dường đức Phật Thắng-Nhựt-Thân Như-Lai chính là đức Thích-Ca-Mâu-Ni Thế-Tôn hiện nay.
Quốc-Vương Tài-Chủ thuở xưa, nay là đức Bửu-Hoa-Phật hiện ngự đạo-tràng Hiện-Nhất-Thiết-Thế-Chủ-Thân ở Thế-giới Viên-Mãn-Quang trong thế-giới-chủng Phổ-Hiện-Tam-Thế-Ảnh-Ma-Ni-Vương tại thế-giới-hải Hiện-Pháp-Giới-Hư-Không-Ảnh-Tượng-Vân cách đây về phương đông quá thế-giới-hải vi-trần-số cõi Phật. Có bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số chúng Bồ-Tát vây quanh nghe pháp.
Lúc Bửu-Hoa Như-Lai tu bồ-tát-hạnh, đức Phật nghiêm-tịnh thế-giới-hải nầy. Nơi đây chư Phật quá-khứ, hiện-tại, vị-lai xuất thế, đều là những vị do Bửu-Hoa Như-Lai, lúc còn làm Bồ-Tát, giáo-hóa khiến phát tâm vô-thượng bồ-đề.
Bà Thiện-Hiện, thân-mẫu của Ðồng-Nữ Diệu-Ðức, nay là thân-mẫu của ta, bà Thiện-Mục đấy.
Quyến thuộc của nhà vua xưa kia, nay là chúng-hội của đức Như-Lai, đều tu hành đủ những hạnh phổ-hiền, thành-mãn đại nguyện. Dầu hằng ở tại đạo-tràng của đức Thích-Ca Mâu-Ni Thế-Tôn, mà có thể hiện khắp tất cả thế-gian, trụ bồ-tát bình-đẳng tam-muội, thường được hiện thấy tất cả chư Phật, đều nghe lãnh được pháp-luân của tất cả Như-Lai, đều được tự-tại nơi tất cả pháp, tiếng đồn khắp các phật-độ, đến chỗ tất cả đạo-tràng, hiện trước tất cả chúng-sanh, tùy nghi giáo hóa điều phục, tu bồ-tát-đạo tận vị-lai kiếp không gián đoạn, thành mãn những thệ nguyện quảng đại của Phổ-Hiền.
Nầy Thiện-nam-tử! Nàng Diệu-Ðức xưa kia, chính là thân ta ngày nay.
Ðức Thắng-Nhựt-Thân Như-Lai diệt độ, sau đó, trong thế-giới ấy có sáu mươi ức trăm ngàn na-do-tha đức Phật xuất thế, ta cùng Luân-Vương đều kính thờ cúng-dường.
Tối-sơ Phật hiệu là Thanh-Tịnh-Thân, theo thứ đệ có Phật Nhất-Thiết-Trí-Nguyệt-Quang-Minh-Thân, Phật Diêm-Phù-Ðàn-Kim-Quang-Minh-Vương, Phật Chư-Tướng-Trang-Nghiêm-Thân, Phật Diệu-Nguyệt-Quang, Phật Trí-Quán-Tràng, Phật Ðại-Trí-Quang, Phật Kim-Cang-Na-La-Diên-Tinh-Tấn, Phật Trí-lực-Vô-Năng-Thắng, Phật Phổ-An-Tường-Trí, Phật Ly-Cấu-Thắng-Trí-Vân, Phật Sư-Tử-Trí-Quang-Minh, Phật Quang-Minh-Kế, Phật Công-Ðức-Quang-Minh-Tràng, Phật Trí-Nhựt-Tràng, Phật Bửu-Liên-Hoa-Khai-Phu-Thân, Phật Phước-Ðức-Nghiêm-Tịnh-Quang, Phật Trí-Diệm-Vân, Phật Phổ-Chiếu-Nguyệt, Phật Trang-Nghiêm-Cái-Diệu-Âm-Thanh, Phật Sư-Tử-Dũng-Mãnh-Trí-Quang-Minh, Phật Pháp-Giới-Nguyệt, Phật Hiện-Hư-Không-Ảnh-Tượng-Khai-Ngộ-Chúng-Sanh-Tâm, Phật Hằng-Khứu-Tịch-Diệt-Hương, Phật Phổ-Chấn-Tịch-Tịnh-Âm, Phật Cam-Lộ-Sơn, Phật Pháp-Hải-Âm, Phật Kiên-Cố-Võng, Phật Ảnh-Kế Như-Lai, Phật Nguyệt-Quang-Hào, Phật Biện-Tài-Khẩu, Phật Giác-Hoa-Trí, Phật Bửu-Diệm-Sơn, Phật Công-Ðức-Tịnh, Phật Bửu-Nguyệt-Tràng, Phật Tam-Muội-Thân, Phật Bửu-Quang-Vương, Phật Phổ-Trí-Hành, Phật Diệm-Hải-Ðăng, Phật Ly-Cấu-Pháp-Âm-Vương, Phật Vô-Tỷ Ðức-Danh-Xưng-Tràng, Phật Tu-Tý, Phật Bổn-Nguyện-Thanh-Tịnh-Nguyệt, Phật Chiếu-Nghĩa-Ðăng, Phật Thâm-Viễn-Âm, Phật Tỳ-Lô-Giá-Na-Thắng-Tạng-Vương, Phật Chư-Thừa-Tràng, Phật Pháp-Hải-Diệu-Liên-Hoa. Có sáu mươi ức trăm ngàn na-do-tha đức Phật như vậy xuất thế trong thế-giới ấy, ta đều kính thờ cúng-dường.
Tối-Hậu Phật hiệu là Quảng-Ðại-Giải. Nơi đức Phật nầy ta được trí-nhãn thanh-tịnh.
Lúc đó, đức Phật Quảng-Ðại-Giải vào thành giáo-hóa, ta làm Vương-Phi, cùng Quốc-Vương kính lễ Phật, đem những diệu-vật dâng lên cúng-dường, nghe đức Phật nói pháp-môn xuất-sanh-nhật-thiết-như-lai-đăng ta liền chứng được môn giải-thoát quán-sát-nhất-thiết-bồ-tát-tam-muội-hai-cảnh-giới.
Nầy Thiện-nam-tử! Khi ta đã được môn giải-thoát nầy, cùng với Bồ-Tát trong phật-sát vi-trần-số kiếp siêng năng tu tập, kính thờ cúng-dường vô-lượng chu Phật. Hoặc trong một kiếp kính thờ một đức Phật, hoặc hai, hoặc ba, hoặc bất-khả-thuyết đức Phật, hoặc gặp phật-sát vi-trần-số đức Phật, ta đều thân cận kính thờ cúng-dường, mà chưa biết được thân hình sắc mạo thân-nghiệp tâm-hành trí-huệ cảnh-giới tam-muội của Bồ-Tát.
Nầy Thiện-nam-tử! Nếu có chúng-sanh được thấy Bồ-Tát tu hạnh bồ-đề, hoặc nghi, hoặc tin, Bồ-Tát đều dùng những phương-tiện thế-gian xuất-thế-gian để nhiếp thủ họ, dùng họ làm quyến-thuộc, khiến họ không thối-chuyển nơi vô-thượng bồ-đề.
Nầy Thiện-nam-tử! Nơi đức Phật Quảng-Ðại-Giải sau khi được môn giải-thoát nầy, ta cùng Bồ-Tát chung tu tập trong thời gian trăm phật-sát vi-trần-số kiếp, trong những kiếp ấy có bao nhiêu đức Phật xuất thế, ta đều thân cận kính thờ cúng dường, nghe Phật thuyết pháp đọc tụng thọ trì. Ở chỗ chư Như-Lai đó, ta được những môn giải-thoát nầy, biết những tam-thế, nhập những sát-hải, thấy chư Phật thành Ðẳng-Chánh-Giác, vào những chúng hội, phát những đại nguyện của Bồ-Tát, tu những diệu-hạnh của Bồ-Tát, được những giải-thoát của Bồ-Tát, nhưng chưa biết được môn phổ-hiền giải-thoát mà Bồ-Tát đã dược.
Tại sao vậy?
Vì môn phổ-hiền giải-thoát của Bồ-Tát như thái-hư-không, như tên của chúng-sanh, như tam-thế-hải, như thập-phương-hải, như pháp-giới-hải, vô-lượng vô-biên.
Môn phổ-hiền giải-thoát của Bồ-Tát đồng với cảnh giới của Như-Lai.
Nầy Thiện-nam-tử! Trong phật-sát vi-trần-số kiếp ta quán thân Bồ-Tát không biết nhàm. Như người đa dục nam nữ hội họp ái-nhiễm nhau sanh vô-lượng vọng-tưởng, cũng vậy, ta quán thân của Bồ-Tát, nơi mỗi lỗ chân lông, mỗi niệm thấy vô-lượng vô-biên thế-giới rộng lớn, những sự an-trụ, trang-nghiêm, hình trạng, những núi, đất, mây, danh hiệu, Phật xuất thế, những đạo-tràng, chúng-hội, diễn thuyết những khế-kinh, những sự quán-đảnh, các thừa, những phương tiện, những thanh-tịnh.
Lại mỗi niệm nơi mỗi lỗ lông của Bồ-Tát thường thấy vô-biên phật-hải, những sự ngồi đạo-tràng, những thần-biến, thuyết pháp, thuyết kinh hằng không gián đoạn.
Lại nơi mỗi lỗ chân lông của Bồ-Tát thấy vô-biên chúng-sanh-hải: những trụ-xứ, hình mạo, tác nghiệp, căn tánh.
Lại nơi mỗi lỗ chân lông của Bồ-Tát thấy vô-biên công-hạnh của tam-thế Bồ-Tát: vô-biên nguyện quảng đại vô-biên bậc sai biệt, vô biên ba-la-mật, vô-biên sự thuở xưa, vô-biên môn đại-từ, vô-biên mây đại-bi, vô-biên tâm đại-hỉ, vô-biên phương-tiện nhiếp thủ chúng-sanh.
Nầy Thiện-nam-tử! Trong phật-sát vi-trần-số kiếp mỗi niệm xem thấy nơi mỗi chân lông của Bồ-Tát như vậy, chỗ đã đến không còn lại đến, chỗ đã thấy không còn lại thấy, tìm biên-tế đó trọn không thể được. Nhẫn đến thấy Thái-Tử Tất-Ðạt ở trong hoàng-cung, thể-nữ vây quanh, ta dùng sức giải-thoát xem nơi mỗi chân lông của Bồ-Tát, thấy tất cả sự trong tam-thế pháp-giới.
Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ được môn giải-thoát quán-sát bồ-tát tam-muội-hải nầy.
Như chư đại Bồ-Tát rốt ráo vô-lượng những phương-tiện-hải vì tất cả chúng-sanh mà hiện tùy-loại-thân, vì tất cả chúng-sanh mà nói tùy-lạc-hạnh, nơi mỗi chân lông hiện vô-biên sắc-tướng-hải, biết các pháp-tánh lấy vô-tánh làm tánh, biết tánh chúng-sanh đồng tướng hư-không, chẳng có phân-biệt, biết thần-lực của Phật đồng với như-như, khắp tất cả chỗ thị-hiện vô-biên cảnh-giới giải-thoát. Trong một niệm có thể tự-tại nhập pháp-giới quảng đại, du hí tất cả pháp-môn của các bậc Bồ-Tát.
Ta thế nào biết được nói được công-đức-hạnh đó.
Nầy Thiện-nam-tử! Trong thế-giới nầy có Phật-Mẫu Ma Gia. Người đến đó hỏi Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh ở trong thế-gian không nhiễm trước. Cúng-dường chư Phật không thôi nghỉ. Tu Bồ-tát-nghiệp trọn chẳng thối chuyển. Lìa tất cả chướng ngại, nhập bồ-tát giải-thoát. Chẳng do người khác mà trụ tất cả bồ-tát-đạo. Ðến chỗ tất cả Như-Lai. Nhiếp tất cả chúng-sanh-giới. Tận kiếp vị-lai tu bồ-tát-hạnh, phát đại-thừa-nguyện. Tăng trưởng thiện-căn cho tất cả chúng-sanh thường không thôi nghỉ.
Bấy giờ nàng Thích-Ca Cù-Ba muốn tuyên lại nghĩa giải-thoát nầy, thừa thần-lực của Phật mà nói kệ rằng:
Those who see the best of people
Engaged in the practice of perfect enlightenment
All go to join him.
Be they friendly or inimical.
I remember as many eons as there are atoms
In a hundred lands;
There was an excellent world of outstanding light.
With an age of supreme magnificence.
In that age, in that world,
Were sixty decillion buddhas;
The last of them, best of sages,
Was a lamp of the world. Spiritual Paragon.
At the time of that buddha’s demise
There was a gforious king
Who had eonquered all enemies,
A king of kings with unobstructed knowledge.
He had five hundred sons
Who were heroic, brave, and handsome,
Page 1427 – Entry into the Realm of Reality
Physically perfect and pure.
Adorned with unexcelled splendor.
The king and his sons had faith in Buddha
And made great offerings to the enlightened;
They always followed the true teaching
And were unshakable in application of its practice.
The king had a brilliant son,
A pure being,
Adorned with the thirty-two
Marks of a great man.
Giving up his kingship, he left home
Together with five million people;
Having gone forth, he worked with firmness and energy
To preserve the teaching of the Buddha.
There was a city full of trees,
Best of a billion cities;
There was a forest there of various trees,
Quiet and most beautiful.
There the king’s son sofourned,
Experienced, intelligent, clear-minded;
He elucidated the Buddha’s teaching
To purify the spirit of defiled beings.
Gathering wise people, he entered the city.
Composed, of noble mien and serene appearance,
His gaze steady, mindful, aware.
His action profound, walking steadily.
There was an excellent town. Banner of Joy,
And a grandee there named Resounding Fame;
I was his beloved daughter.
Named Shining Light, more beautiful.
I saw the shining prince and his retinue
As I stood in the door of my house;
He was handsome, with the marks of greatness,
And I became very happy on seeing him.
When lie passed my door,
I put a pearl in his bowl;
Page 1428 – The Flower Ornament Scripture
Then, taking off all my jewelry,
Full of love I gave it to him.
With an impassioned heart
I made a gift to that enlightening being.
And for two hundred and fifty eons
Did not fall into evil states.
I was born among celestials,
Or as a human princess.
And in endless forms
I always saw the prince.
Then I was born to a courtesan,
Saw the prince and fell in love,
Made myself known to him,
And became his obedient wife.
He and I together made offerings
To the sage Supreme Sun with pure faith,
And having seen that buddha,
I was inspired to seek supreme enlightenment.
During that eon sixty decillion
Buddhas emerged in the world:
The last of those buddhas
Was Energy of Zeal for Truth.
Then my objective eye was clarified
And I became aware of the essence of things;
My continuous errant conceptions were silenced,
And I attained this illumination thenceforth.
After that I observed the stage
Of concentration of enlightening beings;
In a mental instant I see unthinkable
Oceans of lands in the ten directions.
And I see in all directions
Various pure worlds, infinitely wondrous;
Seeing them, my mind does not cling to them,
Nor is it repelled by defiled lands.
I also see the enlightenment sites in those lands
And all the buddhas there,
And I behold in one thought
Their measureless oceans of light.
Page 1429 – Entry into the Realm of Reality
In the same way I see their oceanic congregations
In an instant of awareness, unimpeded,
And know all their concentrations,
And all their immeasurable liberations.
I also keep their myriad practices in mind,
And penetrate all the principles of the stages;
And in each and every instant I enter
Into the countless oceans of their vows.
Observing the body of the True Man for endless eons
And carrying out his practice,
I have never seen an end to the mystic projections
Emanating from his every hair.
And I see oceans of lands beyond number
On the tip of a single hair,
With their masses of air and water, fire and earth,
On various foundations, with different forms,
And diverse patterns of structure,
Of various types, according to distribution of elements,
With an endless variety of adornments.
I see each of the untold realms
In the measureless oceans of lands,
And I see the buddhas therein
Guiding people by articulating truth.
I do not understand his activities,
His speech, his mind, or its action,
Or his mystic powers and miracles, or great sublime practice,
Though I have been working at this for eons.
Nếu ai thấy Bồ-Tát
Tu hành những công-hạnh
Khởi tâm thiện bất-thiện
Bồ-Tát đều nhiếp thủ.
Thuở lâu xa về trước
Quá trăm sát-trần kiếp
Có kiếp tên Thanh-Tịnh
Thế-giới tên Quang-Minh.
Kiếp nầy Phật xuất thế
Sáu mươi ngàn muôn ức
Ðức Như-Lai tối-hậu
Hiệu là Pháp-Tràng-Ðăng.
Sau khi Phật niết-ban
Có vua tên Trí-Sơn
Thống lãnh Diêm-Phù-Ðề
Thần phục không oán địch.
Có năm trăm Vương-Tử
Thân đoan-chánh dũng-kiện
Tất cả đều thanh-tịnh
Ai thấy cũng hoan hỉ.
Quốc-Vương và Vương-Tử
Kính tin cúng-dường Phật
Hộ trì phật-pháp-tạng
Cũng thích siêng tu tập.
Thái-Tử tên Thiện-Quang
Thanh-tịnh nhiều phương-tiện
Thân tướng đều viên-mãn
Người thấy không biết nhàm.
Năm trăm ức người câu hội
Xuất gia cùng học đạo
Dũng-mãnh rất tinh-tấn
Hộ-trì phật-chánh-pháp.
Vương-Ðô tên Trí-thọ
Ngàn ức thành bao quanh
Có rừng tên Tịnh-Ðức
Nhiều châu báu trang-nghiêm.
Thiện-Quang ngụ rừng nầy
Tuyên thuyết phật-chánh-pháp
Sức biện-tài trí-huệ
Khiến chúng đều thanh-tịnh.
Có lúc nhơn khất-thực
Vào Vương-Ðô Trí-Thọ
Ði đứng rất an tường
Tâm chánh-tri chẳng loạn.
Trong thành có Cư-Sĩ
Hiệu là Thiện-Danh-Xưng,
Ta là eon gái ông
Tên là Tịnh-Nhựt-Quang.
Ta ở trong Ðô-Thành
Gặp Thái-Tử Thiện-Quang
Thấy thân tướng đoan nghiêm
Lòng ta sanh luyến mến.
Khi Ngài khất nhà ta
Lòng ta càng ái nhiễm
Liền cổi ngay chuỗi ngọc
Chân-châu để vào bát.
Dầu vì tâm ái nhiễm
Cúng-dường Phật-Tử ấy
Hai trăm năm mươi kiếp
Cũng chẳng đọa ác-đạo.
Hoặc sanh nhà Thiên-Vương
Hoặc làm eon Nhơn-Vương
Hằng gặp Ngài Thiện-Quang
Thấy thân tướng diệu-nghiêm.
Sau đó quá hai trăm
Năm mươi kiếp kế tiếp
Ta sanh nhà Thiện-Hiện
Tên Cụ-Túc Diệu-Ðức.
Ta được thấy Thái-Tử
Sanh lòng rất tôn trọng
Muốn được theo hầu hạ
May mắn được nạp thọ.
Ta cùng với Thái-Tử
Ðến lễ Phật Thắng-Nhựt
Cung kính cúng-dường xong
Ta phát tâm bồ-đề.
Ở trong một kiếp đó
Có sáu mươi ức Phật
Ðức Thế-Tôn tối-hậu
Hiệu là Quảng-Ðại-Giải.
Ta được thanh-tịnh-nhãn
Biết rõ các pháp-tướng
Thấy khắp chỗ thọ sanh
Trừ hẳn tâm điên đảo.
Ta được môn giải-thoát
Quán-bồ-tát-tam-muội
Một niệm nhập mười phương
Bất-tư-nghì sát-hải.
Ta thấy các thế giới
Tịnh uế nhiều sai khác
Nơi tịnh chẳng tham ưa
Nơi uế chẳng ghét bỏ.
Thấy khắp các thế-giới
Ðức Phật ngồi đạo-tràng
Ðều ở trong một niệm
Phóng vô-lượng quanhg-minh.
Một niệm vào được khắp
Bất-khả-thuyết chúng-hội
Cũng biết những tam muội
Của chúng-hội đã được.
Một niệm đều biết rõ
Những hạnh nguyện quảng-đại
Cùng vô-lượng phương-tiện
Của tất cả chúng-hội.
Ta quán thân Bồ-Tát
Vô-biên kiếp tu hành
Mỗi mỗi lỗ chân lông
Cầu đó chẳng thể dược.
Nơi mỗi mỗi chân lông
Hiện bất-khả-thuyết cõi
Ðịa, thủy, hỏa, phong-luân
Ðều đủ cả trong đó.
Bao nhiêu sự kiến lập
Bao nhiêu thứ hình trạng
Bao nhiêu thân, danh hiệu
Vô-biên thứ trang-nghiêm.
Ta thấy các sát-hải
Bất-khả-thuyết thế-giới
Cũng thấy Phật trong đó
Thuyết pháp dạy chúng-sanh.
Chẳng biết thân Bô-Tát
Và tất cả thân-nghiệp
Cũng chẳng biết tâm-trí
Hành đạo trong nhiều kiếp.
Hán bộ quyển thứ 76
Then Sudhana paid his respects and took leave of Gopa.
41- (1) Thiện-Tài Ðồng-Tử đảnh lễ chân nàng Thích-Ca Cù-Ba, hữu nhiễu vô-số vòng, từ tạ mà đi.
Maya
Then Sudhana, turning to go to Lady Maya, having attained knowledge
from investigation of the sphere of buddhahood, thought to himself, “How
can I meet, associate with, and learn from spiritual benefactors whose senses
are detached from all worlds, who do not abide anywhere, whose bodies are
beyond all attachments, who have set out on the unimpeded path, who have
purified the spiritual body, who skillfully protect bodily forms by the illu-
sion of physical action, who observe the world as being within the illusion
of knowledge, who are physical embodiments of vows, whose bodies are
made of mind by the power of Buddha, whose bodies are not born and do
Page 1430 – The Flower Ornament Scripture
not perish, whose bodies are neither real nor unreal, whose bodies neither
come nor go, whose bodies neither become nor disintegrate, whose bodies
are of one form which is formless, whose bodies are nondual and freed from
attachments, whose bodies have no resting place, whose bodies have no
extinction, whose bodies are like reflections and have no difference, whose
bodies are like dreams in action, whose bodies are like images in a mirror,
whose bodies stand tranquilly everywhere equally, whose bodies are emana-
tions pervading all directions, whose bodies are continuous through past,
present, and future, whose bodies are neither physical nor mental and are
indivisible, whose bodies are beyond the range of vision of all worldlings,
whose seeret being can only be known to the vision of the eye of universal
good, whose realm of action is unobstructed like space?”
As he was engaged in such thoughts, a city goddess named Jewel Eyes,
surrounded by a group of sky goddesses, showed herself in the sky, her body
adorned with various adornments, holding a basket of celestial flowers of
many shapes and colors, and spoke to Sudhana in these terms as she scattered
them before him: “You should guard the city of mind, by not dwelling on
enjoyment of mundane objects. You should adorn the city of mind, by eon-
centrating on the ten powers of the enlightened. You should clean the city
of mind, by getting rid of jealousy, envy, and guile. You should extinguish
the burning of the city of mind, by meditating on all truths. You should
expand the city of mind, by increasing the flow of great energy in preparing
for omniscience. You should protect the dwellings, storehouses, and facili-
ties of the city of mind, by command of the vast spiritual palace of all
concentrations, attainments, meditations, and liberations. You should illu-
mine the city of mind, by absorbing universal transcendent wisdom in the
assemblies gathered around all buddhas. You should make the city of mind
firm, by putting the paths of means produced by all buddhas into the city of
your own mind. You should build strong walls about the city of mind, by
purification of mind in carrying out the vow of practice of universal good.
You should make the city of mind invincible and impregnable, by being
invulnerable to all afflictions and bad influences. You should light up the
city of mind, by illumining all beings with the knowledge of the enlight-
ened. You should irrigate the city of mind, by receiving the clouds of
teaching of all buddhas. You should firmly brace the city of mind, by absorb-
ing into your own mind the oceans of virtues of all buddhas. You should
broaden the city of mind, by suffusing all beings with great love. You should
provide shelter, by producing the shield of all good ways in the vast canopy
of the Teaching. You should water the city of mind, by feeling great com-
passion for all beings. You should open the doors of the city of mind, by
giving of yourself and giving goods to all beings. You should purify the city
of mind, by turning a way from passion for ephemeral things. You should
make the city of mind steadfast and strong, by excluding all unhealthy ele-
ments from your body-mind eontinuum. You should energize the city of
mind, by maintaining the energy to produce the provisions for omniscience.
You should illuminate the city of mind, by the illumination of recollection
Page 1431 – Entry into the Realm of Reality
of the spheres of the buddhas of past, present, and future. You should know
how to stock the city of mind, by examination, learning, and higher knowl-
edge of the various doors of truth in the scriptures of the cycles of teaching
of all buddhas. You should know how to govern the city of mind, by show-
ing all beings the path of entries into omniscience in various ways. You
should know how to support the city of mind, by perfection of accomplish-
ment of the vows of all buddhas of past, present, and future. You should
know how to increase the power to provide for the city of mind, by increas-
ing the great stores of virtue and knowledge from all realms of truth. You
should know how to emanate light throughout the entire city of mind, by
higher knowledge of the science of stripping a way defilements from the
minds, senses, and interests of all sentient beings. You should know how to
control the city of mind, by embracing all the principles of the realm of real-
ity. You should make the city ofmind light, by the light of mindfulness of all
buddhas. You should know the essence of the city of mind, by penetrating
the principle of nonsubstantiality of all things. You should observe the
illusoriness of the city of mind, by going to the spiritual city of omniscience.
Thiện-Tài nhất tâm muốn đến chỗ Ma-Gia Phu-Nhơn, Tức thời chứng được trí quán phật-cảnh-giới.
Thiện-Tài tự nghĩ rằng: thiện-tri-thức nầy xa lìa thế-gian an-trụ nơi vô-sở-trụ, siêu quá sáu trần, lìa tất cả chấp trước, biết đạo vô-ngại, đủ pháp thân thanh-tịnh, dùng nghiệp như-huyễn mà hiện hóa-thân, dùng trí như-huyễn mà quán thế-gian, dùng nguyện như-huyễn mà gìn giữ thân Phật. Theo thân ý-thân, không thân sanh diệt, không thân lai khứ, chẳng phải thân hư thiệt, thân chẳng biến hoại, thân không khởi tận. Có bao nhiêu tướng đều là thân một tướng, thân rời hai bên, thân không chỗ tựa nương, thân vô cùng tận, thân như ảnh hiện rời phân biệt. Biết thân như mộng, như tượng trong gương. Thân như tịnh-nhựt, thân hoá-hiện khắp mười phương. Thân ở tam thế không đổi khác. Thân chẳng phải thân tâm, dường như hư-không chỗ đi vô-ngại, siêu thế-gian-nhãn, chỉ tịnh-nhãn của Phổ-Hiền mới thấy được.
Hạng người như vậy, tôi làm sao được thân cận để kính thờ cúng-dường, để được cùng ở hầu quán-sát dung mạo, nghe tiếng nói. Suy nghĩ lời dạy và nhận lãnh.
Bấy giờ có Chủ-Thành-Thần tên là Bửu-Nhãn, quyến-thuộc vây quanh hiện thân trên không-trung, tay cầm những bửu-hoa nhiều màu rải trên mình Thiện-Tài mà bảo rằng:
Nầy Thiện-nam-tử! Phải giữ-gìn tâm-thành, nghĩa là chẳng tham tất cả cảnh-giới.
Phải trang-nghiêm tâm-thành, nghĩa là chuyên ý xu cầu Phật thập-lực.
Phải tịnh-trị tâm thành, nghĩa là dứt hẳn bỏn-sẻn, ganh ghét, dua bợ, phỉnh dối.
Phải thanh-lương tâm-thành, nghĩa là tư-duy thiệt-tánh của tất cả pháp.
Phải tăng-trưởng tâm thành, nghĩa là làm xong tất cả pháp trợ đạo.
Phải nghiêm-sức tâm-thành, nghĩa là tạo lập cung-điện thiền-định giải-thoát.
Phải chiếu-diệu tâm-thành, nghĩa là vào khắp tất cả Phật đạo-tràng nghe lãnh pháp bát-nhã-ba-la-mật.
Phải tăng-ích tâm-thành, nghĩa là nhiếp khắp tất cả Phật phương-tiện-đạo.
Phải kiên-cố tâm-thành, nghĩa là hằng siêng tu tập hạnh nguyện Phô-Hiền.
Phải phòng-hộ tâm-thành, nghĩa là thường chuyên ngăn ngừa ác-hữu và ma-quân.
Phải rỗng suốt tâm-thành, nghĩa là khai dẫn tất cả ánh sáng phật-trí.
Phải khéo bồi bổ tâm-thành, nghĩa là nghe lãnh tất cả phật-pháp.
Phải phò trợ tâm-thành, nghĩa là thâm-tín tất cả phật-công-đức-hải.
Phải quảng đại tâm-thành, nghĩa là đại-từ đến khắp tất cả thế-gian.
Phải khéo che đậy tâm-thành, nghĩa là tích tập những thiện-pháp để đậy trên tâm.
Phải rộng-rãi tâm-thành, nghiẽa là đại-bi thương xót tất cả chúng-sanh.
Phải mở cửa tâm-thành, nghĩa là đem tất cả sở-hửu tùy nghi bố-thí giúp đỡ.
Phải giữ kín tâm-thành, nghĩa là phòng những ác-dục chẳng cho vào.
Phải nghiêm-túc tâm-thành, nghĩa là đuổi những pháp ác chẳng cho ở chung.
Phải quyết định tâm-thành, nghĩa là tích tập tất cả pháp trợ-đạo hằng không thối chuyển.
Phải an lập tâm-thành, nghĩa là chánh-niệm cảnh-giới của tam-thế tất cả Như-Lai.
Phải sáng bóng tâm-thành, nghĩa là thông suốt tất cả những pháp-môn, những duyên-khởi trong khế-kinh của chư Phật đã tuyên thuyết.
Phải bộ phận tâm-thành, nghĩa là hiểu thị khắp tất cả chúng-sanh cho họ được thấy đạo nhất-thiết-trí.
Phải trụ-trì tâm-thành, nghĩa là phát những đại-nguyện-hải của tất cả tam-thế chư Như-Lai.
Phải phú-quý tâm-thành, nghĩa là chứa nhóm tất cả phước-đức lớn cùng khắp pháp-giới.
Phải làm cho tâm-thành sáng rõ, nghĩa là biết khắp những pháp căn dục của chúng-sanh.
Phải làm cho tâm-thành tự-tại, nghĩa là nhiếp khắp tất cả thập phương pháp-giới.
Phải làm cho tâm-thành thanh-tịnh, nghĩa là chánh-niệm tất cả chư Phật Như-Lai.
Phải biết tự-tánh của tâm-thành, nghĩa là biết tất cả pháp đều không tự-tánh.
Phải biết tâm-thành như huyễn, nghĩa là dùng nhất-thiết-trí biết rõ những pháp-tánh.
“By thus purifying the city of mind, an enlightening being can produce
all good. Why? Because no obstacles stand before an enlightening being
whose mind-city is thus purified — no obstacles to seeing buddhas, or obsta-
cles to hearing the Teaching, or obstacles to serving buddhas, or obstacles to
efforts to save sentient beings, or obstacles to purifying buddha-lands. Spiri-
tual friends are easily perceptible to an enlightening being looking for
spiritual friends when the mind is free from obstacles; and omniscience for
enlightening beings comes through the help of spiritual friends.”
Then a goddess. Spiritual Lotus, surrounded by innumerable goddesses
radiant with modesty and beauty, came forth from the enlightening site
praising Lady Maya and stopped in the sky in front of Sudhana, each goddess
emanating webs of light of many jewel colors, colors of pure flames of
incense of many fragrances, colors Soothing the mind, colors increasing the
flow of joy in the mind, colors cooling the fever of the body, colors showing
physical purity, webs of light produced by the motion of unattached,
unimpeded bodies. Illumining a multitude of lands, revealing to Sudhana
the forms of all buddhas everywhere, the lights then circled the whole
world and descended into Sudhana’s head, and from his head entered into all
of his pores.
As soon as the light rays of the goddesses touched Sudhana, he acquired an
eye called ‘dispassionate light,’ with which no darkness can coexist; he
acquired an eye called ‘unobscured,’ whereby he saw the essence of beings;
he acquired an eye called ‘dispassionate sovereign,’ whereby he viewed the
sphere of essence of all phenomena; he acquired an eye called ‘pure state,’
whereby he viewed the nature of all lands; he acquired an eye called ‘shining
light,’ whereby he viewed the reality body of those who arrive at Thusness;
he acquired an eye called ‘universal light,’ whereby he viewed the ineon-
ceivable perfection of the physical embodiment of those who arrive at
Thusness; he acquired an eye called ‘unobstructed light,’ whereby he viewed
Page 1432 – The Flower Ornament Scripture
the becoming and disintegration of worlds in all universes; he acquired an
eye called ‘total illumination,’ whereby he observed the manner of extrac-
tion of the principles of the scripture in the teachings of all buddhas; he
acquired an eye called ‘universal scope,’ whereby he viewed the infinite vari-
ety of mystic powers used by buddhas to guide beings; he acquired an eye
called ‘all-seeing,’ whereby he observed the emergence of buddhas in all
lands.
Then a supernatural being named Fine Eye, doorkeeper of the hall of
assembly of enlightening beings, at the head of ten thousand supernatural
beings, together with his wife and son and clan, sprinkled Sudhana with
flowers of various colors and pleasant fragrances, and said, “An enlighten-
ing being imbued with ten qualities can approach all spiritual friends.
What are these ten? A pure mind free from guile and deceit; great compas-
sion taking in all beings as a whole; meditation on the unreality of
self-existence of all beings; the willpower to proceed unswervingly toward
omniscience; the power of attention to the spheres of all buddhas; clear
perception of the purity of essence of all phenomena; great kindness to all
beings as a whole; the light of knowledge that dissolves all barriers; the
great body of teachings that acts as a shield against the miseries of the mun-
dane whirl; the eye of knowledge of all currents of reality, directed toward
the path of spiritual friends.
“Having attained these ten things, enlightening beings can approach all
spiritual friends; and by observation through ten ways of concentrated medi-
tation they can come face to face with all spiritual friends. What are the ten?
Meditation on the purity of the sky of reality; meditation viewing the ocean
of all realms; meditation without discrimination or thought of any objects;
meditation on the appearance of the multitudes of buddhas of all realms;
meditation on the multitude of virtues of omniscience; meditation with
every thought constantly on spiritual friends; meditation on the virtues of
all buddhas deriving from spiritual friends; meditation on being with all
spiritual friends forever; meditation on always going to all spiritual friends
everywhere equally; meditation devoted to tireless application of the tech-
niques of all spiritual friends. The enlightening being who has
accomplished these ten kinds of concentrated meditation comes face to face
with all spiritual friends and attains a liberation through concentration
called ‘enunciation of the teachings of all buddhas by spiritual friends,’ prac-
ticing which the enlightening being realizes the indivisible sameness of all
buddhas and finds spiritual friends everywhere in eontact.”
Having been told this by the supernatural being, Sudhana looked up to
the sky and said, “Bravo, O noble one, sympathetic one; you are trying to
help me and show me spiritual friends. Tell me, in the right way, how to pro-
ceed; where should I go? Where should I search? What should I meditate on
to see spiritual friends?”
Nầy Thiện-nam-tử! Ðại Bồ-Tát nếu có thể tịnh tu tâm-thành như vậy thời có thể tích tập tất cả thiện-pháp.
Tại sao vậy?
Vì trừ bỏ tất cả những chướng nạn: những là chướng thấy Phật, chướng nghe pháp, chướng cúng-dường Như-Lai, chướng nhiếp chúng-sanh, chướng tịnh phật-độ.
Nầy Thiện-nam-tử! Ðại Bồ-Tát do lìa những chướng nạn như vậy, nếu phát tâm mong cầu thiện-tri-thức, chẳng cần dùng công-lực, bèn được thấy. Nhẫn đến rốt ráo tất sẽ thành Phật.
Bấy giờ có Thân-Chúng-Thần tên là Liên-Hoa-Pháp-Ðức và Diệu-Hoa-Quang-Minh, vô-lượng chư thần vây quanh sau trước, ra khỏi đạo-tràng dừng ở không-trung trước mặt Thiện-Tài dùng diệu-âm-thanh ca ngợi.
Ma-Gia phu-nhơn, từ bông tai phóng lưới quang-minh vô-lượng sắc tướng chiếu khắp vô-biên thế-giới mười phương, cho Thiện-Tài thấy tất cả chư Phật.
Lưới quang-minh đó hữu nhiễu thế-gian giáp một vòng rồi xoay về chiếu đỉnh đầu Thiện-Tài và vào khắp lỗ lông trên thân Thiện-Tài.
Liền đó Thiện-Tài chứng được tịnh-quang-minh-nhãn, vì lìa hẳn tất cả tối ngu-si. Ðược ly-ế-nhãn, vì có thể rõ tánh của tất cả chúng-sanh. Ðược ly-cấu-nhãn, vì có thể quán tất cả môn pháp-tánh. Ðược tịnh-huệ-nhãn, vì có thể quán tánh tất cả phật-độ. Ðược tỳ-lô-giá-na-nhãn, vì thấy pháp-thân-phật. Ðược phổ-quang-minh-nhãn, vì thấy thân phật bình-đẳng bất-tư-nghì. Ðược vô-ngại-quang-nhãn, vì quán-sát tất cả sát-hải thành hoại. Ðược phổ-chiếu-nhãn, vì thấy thập phương Phật khởi đại phương-tiện chuyển chánh-pháp-luân. Ðược phổ-cảnh-giới nhãn, vì thấy vô-lượng Phật dùng sức tự-tại điều-phục chúng-sanh. Ðược phổ-kiến-nhãn, vì thấy tất cả cõi chư Phật xuất thế.
Bấy giờ có La-Sát Quỷ-Vương thủ hộ pháp-đường của Bồ-Tát, tên là Thiện-Nhãn, cùng quyến thuộc một vạn La-Sát câu hội, ở không trung dùng những hoa đẹp rải trên mình Thiện-Tài mà nói rằng:
Nầy Thiện-nam-tử! Bồ-Tát thành tựu mười pháp thời được thân cận chư thiện-trí-thức.
Ðây là mười pháp:
Tâm thanh-tịnh rời những dua bợ phỉnh dối.
Ðại-bi bình-đẳng nhiếp khắp chúng-sanh, biết các chúng-sanh không có thiệt.
Xu hướng nhất-thiết-trí tâm không thối chuyển.
Dùng sức tín-giải vào khắp tất cả phật đạo tràng.
Ðược tịnh-huệ-nhãn rõ các pháp tánh.
Ðại-từ bình-đẳng che chở khắp chúng-sanh.
Dùng trí quang-minh chiếu rỗng những vọng cảnh.
Dùng mưa cam-lộ xối sanh tử nóng.
Dùng mắt quảng đại soi suốt các pháp.
Tâm thường tùy thuận chư thiện-tri-thức.
Lại nầy Thiện-nam-tử! Bồ-Tát thành-tựu mười môn tam-muội thời thường hiện thấy chư thiện-tri-thức.
Ðây là mười môn tam-muội:
Thanh-tịnh luân pháp-không tam-muội.
Quán-sát thập phương hải tam muội.
Nơi tất cả cảnh-giới chẳng rời bỏ chẳng tổn giảm tam-muội.
Thấy khắp tất cả Phật xuất thế tam-muội.
Nhóm tất cả tạng công-đức tam-muội.
Tâm hằng chẳng bỏ thiện-tri-thức tam-muội.
Thường thấy tất cả thiện-tri-thức sanh phật công-đức tam-muội.
Thường chẳng rời tất cả thiện-tri-thức tam-muội.
Thường cúng-dường tất cả thiện-tri-thức tam-muội.
Thường không lỗi lầm ở chỗ tất cả thiện-tri-thức tam-muội.
Nầy Thiện-nam-tử! Bồ-Tát thành tựu mười môn tam-muội nầy thời thường được thân cận chư thiện-tri-thức. Lại được môn tam-muội thiện-tri-thức chuyển tất cả phật-pháp-luân. Ðược môn tam-muội nầy rồi thời đều biết chư Phật thể tánh bình-đẳng, gặp thiện-tri-thức mọi nơi.
Thiện-Tài ngước nhìn không-trung mà thưa rằng:
Lành thay, lành thay! Ngài vì thương xót nhiếp thọ tôi mà phương-tiện dạy cho tôi pháp thấy thiện-tri-thức.
Xin ngài vì tôi mà chỉ bảo: thế nào đến chỗ thiện-tri-thức? Tìm thiện-tri-thức ở chỗ nào?
The supernatural being said, “One may go into the presence of spiritual
friends by an attitude of universal respect, by mental focus on remembering
spiritual friends in all things, by concentration speeding everywhere by
Page 1433 – Entry into the Realm of Reality
dreamlike speed of mind, by realizing mind and body as like reflections.”
Then Sudhana, practicing as he had been taught by the supernatural being
Fine Eye, saw a great jewel lotus spring up from the ground in front of him.
In the heart of the lotus he saw a tower called ‘chamber containing the cos-
mos,’ beautifully made of gold and jewels. Inside the tower he saw a lotus
calyx throne made of wish-fulfilling jewels, set on jewel figurines of the
chiefs of all realms of being, arrayed with many kinds of precious adorn-
ments and bells which emanated sounds telling of the principle of universal
love, the names of the buddhas of past, present, and future, the teachings of
all buddhas, and the vows of all enlightening beings. It was also arrayed with
rows of jewels which reflected the manifestations of buddhas and the succes-
sion of births of all buddhas of past, present, and future, rows of radiant
jewels showing the lights of the activities in all buddha-lands throughout
space and the effecting of all miracles, emanating the auras of light of all
buddhas, emanating apparitions like the chiefs of all worlds making offer-
ings to buddhas, and jewels filling the cosmos in every moment with the
mystic projections of the universally good enlightening being. Every object
on the throne of inconceivable qualities emanated celestial eulogies of the
enlightened. The throne was also surrounded by an inconceivable number
of seats arrayed with jewels.
La-Sát-Vương nói:
Nầy Thiện-nam-tử! Ngươi nên đảnh lễ khắp mười phương để cầu thiện-tri-thức. Nên chánh-niệm tư-duy tất cả cảnh-giới để cầu thiện-thi-thức. Nên dũng-mãnh tự-tại du hành khắp mười phương để cầu thiện-tri-thức. Nên quán thân, quán tâm như mộng như ảnh để cẩu thiện-tri-thức.
Thiện-Tài y lời làm theo, tức thời thấy đại-bửu-liên-hoa từ đất vọt lên: cộng bằng kim-cang, diệu-bửu làm tạng, mi-ni làm cánh, quang-minh bửu-vương làm đài, hương báu nhiều màu làm tua, vô-số lưới báu giăng che phía trên.
Trên đài sen báu ấy có lâu các đẹp lạ tên là Phổ-Nạp-Thập-Phương-Pháp-Giới-Tạng trang-nghiêm.
Nền bằng kim-cang, ngàn cột ngay hàng đều bằng ma-ni-bửu. Vách bằng vàng Diêm-Phù-Ðàn. Bốn mặt thòng những chuỗi ngọc. Thềm bực lan-can trang-nghiêm giáp vòng.
Trong lâu các có tòa như-ý bửu-liên-hoa nghiêm-sức với những châu báu, bửu-lan bửu-y xen lẫn, bửu-trướng bửu-võng che phía trên. Những phan lụa báu thòng rủ bốn phía. Gió nhẹ thổi lay phóng ánh sáng phát âm vang. Trong tràng bửu-hoa tuôn những hoa đẹp. Trong lục-lạc báu phát âm-thanh tốt. Trong cửa báu thòng những chuỗi ngọc. Trong thân ma-ni chảy nước thơm. Trong miệng tượng-bửu xuất hiện lưới liên-hoa. Trong miệng bửu sư-tử thổi mây diệu-hương. Bửu-luân phạm-hình phát tiếng vui dạ-linh, kim-cang-bửu phát tiếng bồ-tát đại-nguyện. Trong tràng bửu-nguyệt xuất hiện hình phật-hóa. Tịnh-tạng bửu-vương hiện tam-thế Phật thứ đệ thọ sanh. Nhựt-tạng ma-ni phóng đại quang-minh chiếu khắp tất cả quốc-độ mười phương. Ma-Ni bửu-vương phóng quang-minh viên-mãn của tất cả chư Phật. Tỳ-Lô-Giá-Na ma-ni bửu-vương nổi mây đồ cúng để dâng hiến tất cả chư Phật Như-Lai. Như-ý châu-vương niệm niệm thị hiện phổ-hiền thần-biến sung-mãn pháp-giới. Tu-di bửu-vương xuất hiện thiên-cung-điện, trong đây chư thiên-nữ dùng diệu âm ca tụng công-đức vi-diệu bất-tư-nghì của đức Như-Lai.
Xung quanh bửu-tòa nầy lại có vô-lượng bửu-tòa. Ma-Gia Phu-Nhơn hiện tịnh-sắc-thân ngồi trên đại bửu-tòa ấy: những là sắc-thân siêu tam-giới, vì đã thoát tất cả loài hữu-lậu.
Sắc-thân tùy tâm sở-thích, vì với tất cả thế-gian không chấp trước.
Sắc-thân cùng khắp, vì bằng số tất cả chúng-sanh.
Sắc-thân không gì sánh bằng, vì làm cho tất cả chúng-sanh diệt trừ kiến chấp điên đảo.
Sắc-thân vô-lượng thứ, vì tùy tâm của chúng-sanh mà thị-hiện.
Sắc-thân vô-biên tướng, vì hiện khắp những hình tướng.
Sắc-thân đối hiện khắp nơi, vì dùng đại tự-tại để thị-hiện.
Sắc-thân giáo hóa tất cả, vì tùy nghi mà thị-hiện.
Sắc-thân hằng thi-hiện, vì tận chúng-sanh-giới mà vẫn vô-tận.
Sắc-thân vô-khứ, vì nơi tất cả loài vẫn không diệt.
Sắc-thân vô-lai, vì nơi tất cả thế-gian vẫn không sanh.
Sắc-thân bất-sanh, vì không sanh khởi.
Sắc-thân bất-diệt vì rời nghữ ngôn.
Sắc-thân chẳng phải thiệt, vì được như thiệt.
Sắc-thân chẳng phải hư, vì tùy thế-gian mà hiện.
Sắc-thân vô-động, vì lìa hẳn sanh diệt.
Sắc-thân bất hoại, vì pháp-tánh bất hoại.
Sắc-thân vô-tướng, vì dứt đường ngôn ngữ.
Sắc-thân một tướng, vì lấy vô-tướng làm tướng.
Sắc-thân như tượng, vì tùy tâm ứng-hiện.
Sắc-thân như huyễn, vì huyễn-trí sanh ra.
Sắc-thân như diệm, vì chỉ do tưởng mà còn.
Sắc-thân như ảnh, vì tùy nguyện hiện sanh.
Sắc-thân như mộng, vì tùy tâm mà hiện.
Sắc-thân pháp-giới, vì tánh tịnh như hư-không.
Sắc thân đại-bi, vì thường cứu hộ chúng-sanh.
Sắc-thân vô-ngại, vì niệm niệm cùng khắp pháp-giới.
Sắc-thân vô-biên, vì tịnh khắp tất cả chúng-sanh.
Sắc-thân vô-lượng, vì siêu xuất tất cả ngữ ngôn.
Sắc-thân vô-trụ, vì nguyện độ tất cả thế-gian.
Sắc-thân vô-xứ, vì hằng hóa độ chúng-sanh không thôi dứt.
Sắc-thân vô-sanh, vì huyễn-nguyện làm thành.
Sắc-thân vô-thắng, vì siêu các thế-gian.
Sắc-thân như-thật, vì định-tâm hiện ra.
Sắc-thân chẳng sanh, vì tùy nghiệp của chúng-sanh mà xuất-hiện.
Sắc-thân châu như-ý, vì khắp thỏa mãn tất cả nguyện cầu của chúng-sanh.
Sắc-thân vô-phân-biệt, vì chỉ tùy theo chúng-sanh phân-biệt mà khởi.
Sắc-thân rời phân-biệt, vì tất cả chúng-sanh chẳng biết được.
Sắc-thân vô-tận, vì tận sanh-tử-tế của các chúng-sanh.
Sắc-thân thanh-tịnh, vì đồng vô-phân-biệt với Như-Lai.
Thân như vậy chẳng phải sắc, vì bao nhiêu sắc-tướng như ảnh tượng cả.
Chẳng phải thọ, vì đã diệt hẳn khổ-thọ của thế-gian.
Chẳng phải tưởng, vì chỉ tùy theo chúng-sanh tưởng mà hiện.
Chẳng phải hành, vì nương theo nghiệp như-huyễn mà thành-tựu.
Chẳng phải thức, vì là nguyện-trí không vô-tánh của Bồ-Tát, vì ngữ ngôn của tất cả chúng-sanh đều dứt, vì đã thành-tựu thân tịch-diệt.
Sudhana saw Lady Maya sitting on that throne, her physical form tran-
scending all in the triple world, having gone beyond all states of being;
facing all beings, appearing according to their mentalities; unstained by any
world, being made of myriad virtues; in the likeness of all beings, appearing
in such a way as to please all beings; adapted to develop and guide all beings,
descending into the presence of all beings; appearing continuously to beings
at all times like the sky, appearing to all beings to be permanent; not going
anywhere, not passing a way from all worlds, not coming anywhere, not
coming into existence in any world; unoriginated, absorbed in the equanim-
ity of nonorigination; unextinguished, involved in the affairs of all worlds;
not real, having attained suchness; not false, appearing in accord with the
world; not in motion, being divorced from death and birth; not annihilated,
because of the nonannihilation of the nature of reality; undefinable, being
beyond any manner of speaking; uniform, her auspicious characteristics
issuing from indefinability; like a reflection, appearing according to the
minds of all beings; like magic, made of the magic of knowledge; like specks
of light, moment to moment sustained by the thoughts of beings; like a
shadow, bound to all beings by commitment; dreamlike, appearing to beings
according to their mentalities without being mixed up; reaching through-
out all universes, being in nature pure as space; issuing from universal
compassion, engaged in the protection of the community of beings; issuing
from the door of nonobstruction, pervading the cosmos in each instant; infi-
nite, dwelling in all worlds without defilement; measureless, transcending
all manner of verbal expression; nondwelling, manifesting to guide all
beings; unfixed, appearing magically in the body of a living being; not really
Page 1434 – The Flower Ornament Scripture
existing, made by the magic of aspiration; unsurpassed, being beyond all
worlds; unreal, being a manifestation of tranquillity; unproduced, eon-
nected to beings according to their acts; like a wish-fulfilling jewel,
fulfilling the commitment to satisfy the wishes of all beings; without dis-
crimination, based on the thoughts of all beings; beyond conception,
unknowable to all beings; based on resolve, never leaving the mundane;
pure, nonconceptual like Thusness.
In this form did Sudhana see Lady Maya, manifesting a physical body that
was not form, being a reflection of form; not feeling, being the ultimate ces-
sation of painful feelings of the world; outside the thoughts of all beings, but
appearing in their thoughts; issuing from the unfabricated nature of reality,
detached from illusory action; transcending the sphere of discriminatory
consciousness, born of the knowledge of vows of enlightening beings; hav-
ing no intrinsic essence, being beyond the range of all verbal expression; free
from the burning of the mundane whirl, having arrived at the state of
supreme coolness of the reality-body — she was appearing physically to
beings in accord with their minds by mastery of their minds, appearing in
forms resembling all beings but superior to the physical forms of all beings.
Some beings saw her in the form of a devil woman, with a form superlative
among devil women; some saw her in forms superlative among the god-
desses of various heavens; some saw her in forms superlative among the
females of the various kinds of beings; some saw her in the form of a most
beautiful human princess.
Then Sudhana, emptied of notions of the forms of all beings, penetrating
the minds of other beings, saw Lady Maya in the minds of all beings, her vir-
tue sustaining all beings, her body an accumulation of the virtues of
omniscience; she was engaged in nondiscriminatory perfect giving, impar-
tial toward all beings, having united all beings in the fellowship of universal
compassion; she had set out to actualize the virtues of all buddhas; she had
entered the ocean of all ways of tolerance; her mind was expanded with a
flood of energy of omniscience; she was indefatigable in clarification of all
spheres of truth; she was adept in meditation on the essence of all things; her
mind was accomplished in all branches of meditation; she was engaged in all
branches of meditation without confusion and had perceived the unique
sphere of meditation of those who arrive at Thusness; she was intent on vari-
ous meditations to evaporate the ocean of afflictions of all beings; she knew
how to analyze the teachings of all buddhas; she had the wisdom to eonsider
all the designs of reality; she gazed tirelessly on all buddhas; she ceaselessly
observed the succession of buddhas of past, present, and future; she faced the
door of vision of all buddhas; she knew the variety of techniques to perfectly
accomplish the path of attainment of all buddhas; she coursed in the space of
all who realize Thusness; she knew how to take care of all beings; she
appeared in an infinite variety of reflections to develop and guide beings
according to their mentalities; she comprehended the variety of purities of
all buddha-bodies; she had vowed to purify all lands; she had perfected the
vow to guide all beings to ultimate liberation; her mind pervaded the spheres
Page 1435 – Entry into the Realm of Reality
of all buddhas with respect; she had the energy to produce all the miracles of
enlightening beings; she had purified the supreme spiritual body; she mani-
fested infinite physical bodies; she crushed the power of all demons; she was
imbued with the power of great roots of goodness; with intellect born of the
power of truth she perceived the power of buddhas; she had perfected all
powers of mastery of enlightening beings; she was flooded with the power
of omniscience; her wisdom was illumined by the lightning of the knowl-
edge of all buddhas; her knowledge contemplated the infinite ocean of
minds of beings; she comprehended the myriad mentalities of beings; she
was expert in knowledge of the differences in faculties of others; she was
skilled in knowledge of the differences in interests of infinite beings; her
body pervaded infinite oceans of lands in the ten directions; she was expert
in knowledge of the differences in all worlds; she was skilled in the means of
knowing the junction and disjunction of all lands; she saw throughout all
realms by knowledge; she was aware of all times; she bowed to all buddhas;
her mind was directed toward reception of the ocean of all buddha-
teachings; she was engaged in accomplishing fulfillment of all qualities of
buddhas; her intellect was applied to the production of all the provisions for
enlightenment; she boldly eonsidered and carried out all the undertakings of
enlightening beings; she had completed all the elements of development of
the will for enlightenment; she was engaged in protecting all beings; she
undertook to be the mother of all enlightening beings and buddhas.
Beginning with these, Sudhana saw Lady Maya in as many ways as atoms
in the continent: seeing her, he magically made his body as extensive as Lady
Maya, and with this omnipresent body bowed to the ubiquitous Maya. As he
was bowing, an infinite variety of concentrations entered into him. Observ-
ing those concentrations, making them externally undetectable, cultivating
them, mastering them, remembering them, making them all-pervasive,
expanding them, watching them, increasing them, accomplishing them,
and fixing their impression, he rose from those concentrations and circled
Lady Maya, her retinue, her abode and seat, and then stood respectfully
before her and said, “Noble one, Manjushri inspired me to seek supreme
perfect enlightenment and directed me to attend spiritual benefactors. So I
have been approaching spiritual friends, benefactors, and in the course of
doing so I have come to you. Now please tell me, noble one, how an enlight-
ening being may achieve omniscience while carrying out the practice of
enlightening beings.”
She said, “I have attained an enlightening liberation, ‘magical manifesta-
tion of knowledge of great vows.’ Imbued with this liberation, I am the
mother of all the enlightening beings in their final existence in all the
worlds in this world-ocean where Vairocana Buddha’s miraculous manifes-
tation of birth as an enlightening being in the final existence takes place. All
those enlightening beings grow in my belly and come forth from my right
side. So here too in this great city of Kapilavastu, as wife of the king
Shuddhodana, I became the mother of the enlightening being Siddhartha,
by the great inconceivable miracle of the birth of an enlightening being.
Page 1436 – The Flower Ornament Scripture
“At that time I was in the house of king Shuddhodana, and when the time
of the enlightening being’s descent from the heaven of eontentment had
arrived, from every pore the enlightening being emanated as many rays of
light as atoms in untold buddha-lands, arrayed with the qualities of the birth
of all enlightening beings, known as the light originating from the qualities
of birth of all buddhas; those rays of light illumined the whole world, then
descended on my body and entered into every pore of my body, beginning
with my head. As soon as those light rays of the enlightening being, with
various names, emanating magical projections of the various miracles
attending the birth of an enlightening being, had entered me, they caused
the spheres of light at the front of the enlightening being’s light rays to be
manifest in my body, and the supernal manifestations of miracles attending
the birth of all enlightening beings were visible. And as soon as those light
rays of the enlightening being had entered my body, I saw all the enlighten-
ing beings whose birth-miracles were shown in the spheres at the front of
the enlightening being’s light rays, as they sat on the Buddha’s lion throne at
the site of enlightenment, surrounded by congregations of enlightening
beings, honored by the leaders of the worlds, turning the wheel of the teach-
ing. I also saw all the buddhas with whom those buddhas associated as they
carried out enlightening practices in the past. I also saw mystical projections
of their initial inspiration, attainment of enlightenment, turning of the
wheel of the teaching, final extinction, and the pure arrays of all buddha-
lands, as well as the multitudes of emanations of those buddhas pervading
the cosmos in each moment of consciousness. When those rays of light of
the enlightening being entered my body, my body outreached all worlds,
and my belly became as vast as space, and yet did not go beyond the human
physical size. The supernal manifestations of the enlightening beings’ abode
in the womb everywhere in the ten directions all appeared in my body.
“Upon the appearance in my body of the furnishings of the enlightening
being’s abode in the womb, the enlightening being, together with as many
enlightening beings as atoms in ten buddha-lands, all with the same vow,
the same practice, the same roots of goodness, the same state of liberation
and the same stage of knowledge, adept at the same mystic protection, hav-
ing accomplished the same endeavor, adept at the same practice, having
purified the same spiritual body, able to assume an infinite variety of physi-
cal forms, expert in the protection of the endeavors of universally good
enlightening beings, respectfully attended by chiefs of all worlds, descended
from the heaven of eontentment by the great miracle of enlightening
beings; appearing to pass a way from all heavens of eontentment, appearing
to become regenerated in all worlds, from each heaven of eontentment to
early existence, following skill in means of developing inconceivable num-
bers of sentient beings to maturity, alerting all intoxicated, deluded beings,
detaching from all attachments, emanating a great network of light beams
dispelling the darkness from all worlds, stopping all evils and miseries, put-
ting an end to all hellish ways of being, making all beings aware of their past
deeds, rescuing all beings, appearing in the presence of all beings, he
Page 1437 – Entry into the Realm of Reality
descended from the heaven of eontentment with his retinue and entered my
belly.
“Once all of them were in my belly, they walked around in strides as big as
a billion-world universe, even as big as worlds as numerous as atoms in
untold buddha-lands. Also all the untold congregations of enlightening
beings at the feet of all buddhas in all worlds in the ten directions entered my
belly in every moment of thought to see the miracle of the enlightening
being’s dwelling in the womb. The chief gods of all the heavens also came to
the enlightening being in the womb, to see and honor him, to listen to the
Teaching and hear his discourse. Yet even though it took in all those multi-
tudes, my belly was not enlarged, nor did this body of mine become any
more than a human body. Yet it received so many multitudes; and all the
celestials and humans saw the various pure arrays of the enlightening beings’
surroundings. Why was this? Because of the development of this enlighten-
ing liberation of the magic of knowledge of great vows.
“Just as I received the enlightening being in my belly in this world, so did
I likewise do so in all worlds in the billion-world universe, and with this
same miraculous manifestation; yet this body of mine is neither dual nor
nondual, neither single nor multiple; this is because of the development of
this enlightening liberation of the magic of knowledge of great vows. And
just as I was the mother of this buddha Vairocana, so was I the mother of infi-
nite buddhas before. Whenever an enlightening being was spontaneously
born in the calyx of a lotus, there I became a lotus-pond goddess and
received the enlightening being, and the world recognized me as the
progenetrix of the enlightening being; in whatever buddha-land an enlight-
ening being appeared, I became an enlightenment-site goddess there: thus
in whatever ways enlightening beings manifested birth in the world in their
final existence, in so many ways did I become the mother of the enlighten-
ing beings.
“Just as I was the mother of this buddha in this world in all his manifesta-
tions of miracles of birth as an enlightening being, so was I the mother of the
buddhas Krakucchanda, Kanakamuni, and Kashyapa; and so will I be the
mother of all the buddhas of this eon.
“When the time comes for the enlightening being Maitreya, now in the
heaven of eontentment, to manifest descent from heaven, and emanate the
lights of the manifestation of the miracles of enlightening beings abiding in
the womb whence they are born, I will see all realms in all universes which
are illumined thereby, where Maitreya will be born in a royal family in the
human world and will guide sentient beings, and everywhere therein I will
be the mother of the enlightening being.
“And just as I will be the mother of Maitreya, so will I be the mother of all
buddhas in this eon in this universe, and in all universes of the ten directions,
penetrating endless universes. And just as I will be the mother of Maitreya,
by untold virtues, so shall I be the mother of all the buddhas in this eon, and
in endless billions of eons in all the worlds in all world systems in this flower
treasury ocean of worlds, I will be the mother of all the buddhas of the future
Page 1438 – The Flower Ornament Scripture
when they are enlightening beings, carrying on the practice of universally
good enlightening beings, establishing guidance for the perfection of all
beings in all ages.”
Bấy giờ Thiện-Tài lại thấy Ma-Gia Phu-Nhơn tùy theo tâm sở-thích của các chúng-sanh mà hiện sắc-thân siêu quá tất cả thế-gian.
Những là: hoặc hiện thân siêu quá thiên-nữ nơi trời Tha-Hóa Tự-Tại, nhẫn đến siêu quá thiên-nữ nơi trời Tứ-Thiên-Vương.
Hoặc hiện thân siêu quá Long-Nữ, nhẫn đến siêu quá nhơn-nữ.
Hiện vô-lượng sắc-thân như vậy để lợi ích chúng-sanh, nhóm họp pháp trợ-đạo nhất-thiết-trí, hành bình-đẳng đàn ba-la-mật, đại-bi che khắp tất cả thế-gian, xuất sanh vô-lượng công-đức của Như-Lai, tu tập tăng trưởng tâm nhất-thiết-trí, quán sát tư duy thật-tánh của các pháp, được thâm-nhẫn, đủ định-môn, an trụ cảnh-giới tam-muội bình-đẳng, được Như-Lai định, viên-mãn quang-minh, tiêu cạn biển lớn phiền-não của chúng-sanh, tâm thường chánh-định chưa từng động loạn, hằng chuyển pháp-luân thanh-tịnh bất-thối. Khéo biết rõ tất cả phật-pháp, hằng dùng trí-huệ quán pháp thật-tướng, thấy chư Như-Lai không lòng nhàm, biết tam-thế Phật thứ đệ xuất thế tam-muội, thấy Phật thường hiện-tiền, thấu rõ Như-Lai xuất hiện nơi đời, vô-lượng vô-số những đạo thanh-tịnh, đi nơi cảnh-giới hư-không của Phật. Nhiếp khắp chúng-sanh đều theo tâm họ để giáo-hóa thành-tựu, nhập Phật vô-lượng thanh-tịnh pháp thân, thành-tựu đại nguyện nghiêm-tịnh phật-độ, rốt ráo điều phục tất cả chúng-sanh, tâm hằng vào khắp cảnh-giới của chư Phật, xuất sanh bồ tát tự-tại thần-lực, đã được pháp thân thanh-tịnh vô-nhiễm mà hằng thị-hiện vô-lượng sắc thân, xô dẹp tất cả ma-lực thành sức đại thiện-căn, xuất sanh sức chánh-pháp, đầy đủ phật-lực, được sức tự-tại của chư Bồ-Tát, mau tăng trưởng sức nhất-thiết-trí, được phật-trí-quang chiếu khắp tất cả, biết hết tâm tánh giải dục sai biệt của vô-lượng chúng-sanh, thân cùng khắp mười phương cõi, biết rõ tướng thành hoại của các cõi, dùng quảng-đại-nhãn thấy thập-phương-hải, dùng châu-biến-trí biết tam-thế-haỉ, thân khắp thừa-sự tất cả phật-hải, tâm hằng nạp thọ tất cả pháp-hải, tu tập tất cả công-đức của Như-Lai, xuất sanh tất cả trí-huệ của Bồ-Tát, thường thích quán-sát tất cả Bồ-Tát từ sơ-phát-tâm nhẫn đến thành tựu đạo bồ-tát, thường siêng thủ hộ tất cả chúng-sanh, thường thích tán dương công-đức của chư Phật, nguyện làm mẹ của tất cả Bồ-Tát.
Thiện-Tài thấy Ma-Gia Phu-Nhơn hiện diêm-phù-đề vi-trần-số môn phương-tiện như vậy. Ðúng như số thân của Ma-Gia Phu-Nhơn đã hiện, Thiện-Tài cũng tự hiện bao nhiêu thân ở trước tất cả Ma-Gia Phu-Nhơn mà cung kính lễ bái.
Tức thời Thiện-Tài chứng được vô-lượng vô-số môn tam-muội, phân biệt quan-sát tu hành chứng nhập.
Sau khi xuất định, Thiện-Tài hữu nhiễu Phu-Nhơn và quyến-thuộc của Phu-Nhơn, đứng chắp tay cung kính thưa rằng:
Bạch Ðại-thánh! Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát dạy tôi phát tâm vô-thượng bồ-đề, cầu thiện-tri-thức để thân cận cúng-dường.
Ở chỗ mỗi vị thiện-tri-thức tôi đều đến kính thờ không bỏ luống, lần lượt đến đây. Xin Dại-Thánh vì tôi mà dạy bảo Bồ-Tát thế nào học bồ-tát hạnh mà được thành-tựu?
Ma-Gia Phu-Nhơn nói:
Nầy Thiện-nam-tử! Ta đã thành-tựu môn giải-thoát bồ-tát-đại-nguyện-trí-huyễn, do đây ta thường làm mẹ của Bồ-Tát.
Nầy Thiện-nam-tử! Như ta ở tại cung vua Tịnh-Phạn nơi thành Ca-Tỳ-La nầy, từ hông bên hữu sanh Thái-Tử Tất-Ðạt hiện bất-tư-nghì thần-biến tự-tại.
Như vậy nhẫn đến tận thế-giới hải nầy, tất cả Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai đều vào thân ta mà thị-hiện đản-sanh tự-tại thần-biến.
Lại nầy Thiện-nam-tử! Lúc ta ở cung vua Tịnh-Phạn, lúc Bồ-Tát sắp hạ sanh, ta thấy thân của Bồ-Tát mỗi mỗi lỗ lông đều phóng quang-minh tên là Nhất-Thiết-Như-Lai-Thọ-Sanh-Công-Ðức-Luân. Mỗi lỗ lông đều hiện bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật sát vi-trần-số Bồ-Tát thọ sanh trang-nghiêm. Những quang-minh đó thảy đều chiếu khắp tất cả thế-giới, rồi nhập vào đảnh của ta và khắp các chân lông.
Lại trong quang-minh ấy hiện khắp tất cả danh-hiệu của Bồ-Tát, cùng thọ-sanh, thần-biến, cung-điện, quyến-thuộc, ngũ dục tự vui của Bồ-Tát.
Trong quang-minh lại thấy Bồ-Tát xuất-gia, đến đạo-tràng thành Ðẳng-Chánh-Giác, ngồi tòa sư-tử, Bồ-Tát vây quanh, các vua chúa cúng-dường, vì đại-chúng mà chuyển pháp-luân.
Lại thấy đức Như-Lai thuở xưa lúc tu hành bồ-tát-đạo, cung kính cúng-dường chư Phật, phát tâm bồ-đề, nghiêm-tịnh phật-độ, niêm niệm thị-hiện vô-lượng hóa-thân khắp thập phương thế-giới, nhẫn đến rốt sau nhập niết-bàn. Tất cả những sự như vậy đều thấy rõ cả.
Nầy Thiện-nam-tử! Lúc diệu-quang-minh ấy vào thân của ta, hình lượng của thân ta dầu chẳng hơn trước, nhưng thật ra thời đã siêu thế-gian.
Tại sao vậy?
Vì lúc đó thân của ta lượng đồng hư-không, đều có thể dung thọ những cung-điện trang-nghiêm của thập phương Bồ-Tát thọ sanh.
Lúc Bồ-Tát từ cung trời Ðâu-Suất sắp giáng thần, có mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát đồng nguyện, đồng hạnh, đồng thiện-căn, đồng trang nghiêm, đồng giải-thoát, đồng trí-huệ, trí-lực, pháp-thân, sắc-thân, nhẫn đến phổ-hiền thần-thông hạnh nguyện thảy đều đồng với Bồ-Tát. Vi-trần-số Bố-Tát nầy cùng vây quanh.
Lại có tám vạn Long-Vương và tất cả Thế-Chủ thừa cung-điện của mình đều đến cúng-dường.
Bấy giờ Bồ-Tát dùng sức thần-thông cùng chư Bồ-Tát quyến-thuộc hiện khắp tất cả Ðâu-Suất Thiên-Cung. Mỗi mỗi Thiên-Cung đều hiện hình tượng thọ sanh trong tất cả Diêm-Phù-Ðề ở thập phương thế-giới, phương-tiện giáo hóa vô-lượng chúng-sanh, khiến chư Bồ-Tát rời giải-đãi, không chấp trước.
Lại dùng thần-lực phóng đại quang-minh chiếu khắp thế-gian phá những tối tăm diệt những khổ não, làm cho các chúng-sanh đều biết những hành nghiệp đã có từ đời trước, hầu thoát hẳn ác-đạo.
Lại vì cứu hộ tất cả chúng-sanh mà hiện ra trước họ, để hiện những thần-biến.
Bồ-Tát đã hiện những sự kỳ-đặc như vậy rồi cùng quyến-thuộc đến nhập vào thân của ta.
Chư Bồ-Tát ấy ở trong bụng ta du hành tự-tại: hoặc dùng Ðại-Thiên thế giới làm một bước, nhẫn đến hoặc dùng bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số thế giới làm một bước.
Lại trong mỗi niệm, chúng hội Bồ-Tát ở chỗ chư Phật Như-Lai nơi bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tất cả thế-giới mười phương, cùng dục-giới sắc-giới chư Thiện-Vương chư Phạm-Vương vì muốn thấy thần-biến của Bồ-Tát ở trong thai mẹ để cung kính cúng-dường nghe lãnh chánh pháp nên đều đến vào thân của ta.
Dầu trong bụng của ta đều có thể dung thọ tất cả chúng-hội như vậy, mà thân ta vẫn không lớn thêm, cũng chẳng chật hẹp.
Chư Bồ-Tát và chúng-hội đều tự thấy mình ở đạo-tràng thanh-tịnh nghiêm-sức.
Nầy Thiện-nam-tử! Như trong Diêm-Phù-Ðề nầy Bồ-Tát thọ sanh, ta làm mẹ, trong tất cả trăm ức Diêm-Phù-Ðề khắp Ðại-Thiên thế-giới cũng như vậy. Nhưng thân của ta đây bổn lai không hai, chẳng phải ở một xứ, chẳng phải ở nhiều xứ.
Tại sao vậy?
Vì ta tu môn giải-thoát bồ-tát đại-nguyện trí-huyễn trang-nghiêm.
Nầy Thiện-nam-tử! Như đức Thế-Tôn hiện nay, ta làm mẹ của Ngài, bao nhiêu chư Phật thuở xưa ta cũng làm mẹ như vậy.
Nầy Thiện-nam-tử! Thuở xưa, ta từng làm Thần ao sen. Bấy giờ có Bồ-Tát bỗng nhiên hóa sanh nơi liên-hoa-tạng, ta liền bồng ẵm săn sóc nuôi nấng. Thế-gian gọi ta là mẹ của Bồ-Tát.
Lại thuở xưa, ta từng làm Thần bồ-đề-tràng. Bấy giờ có Bồ-Tát bỗng nhiên hóa-sanh trong lòng của ta. Người đời ấy cũng gọi ta là mẹ của Bồ-Tát.
Nầy Thiện-nam-tử! Có vô-lượng tối-hậu-thân Bồ-Tát phương-tiện thị-hiện thọ sanh nơi thế-giới nầy, ta đều làm mẹ của các Ngài.
Nầy Thiện-nam-từ! Như ở thế-giới Ta-Bà nầy, trong kiếp Hiền, quá khứ đức Câu-Lưu-Tôn Phật, đức Câu-Na-Hàm-Mâu-Ni-Phật, đức Ca-Diếp Phật và đức Thích-Ca-Mâu-Ni Phật, hiện nay thị hiện thọ sanh, ta đều làm mẹ, đời vị-lai, Dị-Lặc Bồ-Tát từ Thiên-Cung Ðâu-Suất lúc sắp giáng thần phóng đại quang-minh chiếu khắp pháp-giới thị-hiện thấn-biến thọ sanh cùng chúng Bồ-Tát, ta cũng sẽ lảm mẹ.
Kế đó theo thứ tự, có Sư-Tử Phật, Pháp-Tràng Phật, Thiện-Nhãn Phật, Tịnh-Hoa Phật, Hoa-Ðức Phật, Ðề-Xá Phật, Phất-Sa Phật, Thiện-Ý Phật, Kim-Cang Phật, Ly-Cấu Phật, Nguyệt-Quang Phật, Trì-Cự Phật, Danh-Xưng Phật, Kim-Cang-Thuẩn Phật, Thanh-Tịnh-Nghĩa Phật, Cám-Thân Phật, Ðáo-Bỉ-Ngạn Phật, Bửu-Diệm-Sơn Phật, Trì-Minh Phật, Liên-Hoa-Ðức Phật, Danh-Xưng Phật, Vô-Lượng-Công-Ðức Phật, Tối-Thắng-Ðăng Phật, Trang-Nghiêm-Thân Phật, Thiện-Oai-Nghi Phật, Từ-Ðức Phật, Vô-Trụ Phật, Ðại-Oai-Quang Phật, Vô-Biên-Âm Phật, Thắng-Oán-Ðịch Phật, Ly-Nghi-Hoặc Phật, Thanh-Tịnh Phật, Ðại-Quang Phật, Tịnh-Tâm Phật, Vân-Ðức Phật, Trang-nghiêm-Ðảnh-Kế Phật, Thọ-Vương Phật, Bửu-Ðăng Phật, Hải-Huệ Phật, Diệu-Bửu Phật, Hoa-Quan Phật, Mãn-Nguyện Phật, Ðại-Tự-Tại Phật, Diệu-Ðức-Vương Phật, Tối-Tôn-Thắng Phật, Chiên-Ðàn-Vân Phật, Cám-Nhãn Phật, Thắng-Huệ Phật, Quán-Sát-Huệ Phật, Xí-Thạnh-Vương Phật, Kiên-Cố-Huệ Phật, Tự-Tại-Danh Phật, Sư-Tử-Vương Phật, Tự-Tại Phật, Tối-Thắng-Ðảnh Phật, Kim-Cang-Trí-Sơn Phật, Diệu-Ðức-Tạng Phật, Bửu-Võng-Nghiêm-Thân Phật, Thiện-Huệ Phật, Tự-Tại-Thiên Phật, Ðại-Thiên-Vương Phật, Vô-Y-Ðức Phật, Thiện-Thí Phật, Diệm-Huệ Phật, Thủy-Thiên Phật, Ðắc-Thượng-Vị Phật, Xuất-Sanh-Vô-Thượng-Công-Ðức Phật, Tiên-Nhân-Thị-Vệ Phật, Tùy-Thế-Ngữ-Ngôn Phật, Công-Ðức-Tự-Tại-Tràng Phật, Quang-Tràng Phật, Quán-Thân Phật, Diệu-Thân Phật, Hương-Diệm Phật, Kim-Cang-Bửu-Nghiêm Phật, Hỉ-Nhãn Phật, Ly-Dục Phật, Cao-Ðại-Thân Phật, Tài-Thiên Phật, Vô-Thượng-Thiên Phật, Thuận-Tịch-Diệt Phật, Trí-Giác Phật, Diệt-Tham Phật, Ðại-Diệm-Vương Phật, Tịch-Chư-Hữu Phật, Tỳ-Xá-Khư-Thiên Phật, Kim-Cang-Sơn Phật, Trí-Diệm-Ðức Phật, An-Ổn Phật, Sư-Tử-Xuất-Hiện Phật, Viên-Mãn-Thanh-Tịnh Phật, Thanh-Tịnh-Hiền Phật, Ðệ-Nhất-Nghĩa Phật, Bá-Quang-Minh Phật, Tối-Tăng-Thượng Phật, Thâm-Tự-Tại Phật, Ðại-Ðịa-Vương Phật, Trang-Nghiêm-Vương Phật, Giải-Thoát Phật, Diệu-Âm Phật, Thù-Thắng Phật, Tự-Tại Phật, Vô-Thương-Y-Vương Phật, Công-Ðức-Nguyệt Phật, Vô-Ngại-Quang Phật, Công-Ðức-Tụ Phật, Nguyệt-Hiện Phật, Nhựt-Thiên Phật, Xuất-Chư-Hữu Phật, Dũng-Mãnh-Danh-Xưng Phật, Quang-Minh-Môn Phật, Ta-La-Vương Phật, Tối-Thắng Phật, Dược-Vương Phật, Bửu-Thắng Phật, Kim-Cang-Huệ Phật, Vô-Năng-Thắng Phật, Vô-Năng-Ánh-Tế Phật, Chúng-Hội-Vương Phật, Ðại-Danh-Xưng Phật, Mẫn-Trì Phật, Vô-Lương-Quang Phật, Ðại-Nguyện-Quang Phật, Pháp-Tự-Tại-Bất-Hư Phật, Bất-Thối-Ðịa Phật, Tịnh-Thiên Phật, Thiện-Sư Phật, Kiên-Cố-Khổ-Hạnh Phật, Nhất-Thiết-Thiện-Hữu Phật, Giải-Thoát-Âm Phật, Du-Hí-Vương Phật, Diệt-Tà-Khúc Phật, Chiêm-Bặc-Tịnh-Quang Phật, Cụ-Chúng-Ðức Phật, Tối-Thắng-Nguyệt Phật, Chấp-Minh-Cự Phật, Thù Diệu-Thân Phật, Bất-Khả-Thuyết Phật, Tối-Thanh-Tịnh Phật, Hữu-An-Chúng-Sanh Phật, Vô-Lượng-Quang Phật, Vô-Úy-Âm Phật, Thủy-Thiên-Ðức Phật, Bất-Ðộng-Huệ-Quang Phật, Hoa-Thắng Phật, Nguyệt-Diêm Phật, Bất-Thối-Huệ Phật, Ly-Ái Phật, Vô-Trước-Huệ Phật, Tập-Công-Ðức-Uẩn Phật, Diệt-Ác-Thú Phật, Phổ-Tán-Hoa Phật, Sư-Tử-Hống Phật, Ðệ-Nhất-Nghĩa Phật, Vô-Ngại-Kiến Phật, Phá-Tha-Quân Phật, Bất-Trước-Tướng Phật, Ly-Phân-Biệt-Hải Phật, Ðoan-Nghiêm-Hải Phật, Tu-Di-Sơn Phật, Vô-Trước-Trí Phật, Vô-Biên-Toà Phật, Thanh-Tịnh-Trụ Phật, Tùy-Sư-Hành Phật, Tối-Thượng-Thí Phật, Thường-Nguyệt Phật, Nhiêu-Ích-Vương Phật, Bất-Ðộng-Tụ Phật, Phổ-Nhiếp-Thọ Phật, Nhiêu-Ích-Huệ Phật, Trì-Thọ Phật, Vô-Diệt Phật, Cụ-Túc-Danh-Xưng Phật, Ðại-Oai-Lực Phật, Chủng-Chủng-Sắc-Tướng Phật, Vô-Tướng-Huệ Phật, Bất-Ðộng-Thiên Phật, Diệu-Ðức-Nan-Tư Phật, Mãn-Nguyệt Phật, Giải-Thoát-Nguyệt Phật, Vô-Thượng-Vương Phật, Hi-Hữu-Thân Phật, Phạm-Cúng-Dường Phật, Bất-Thuấn Phật, Thuận-Tiên-Cổ Phật, Tối-Thượng-Nghiệp Phật, Thuận-Pháp-Trí Phật, Vô-Thắng-Thiên Phật, Bất-Tư-Nghì-Công-Ðức-Quang Phật, Tùy-Pháp-Hành Phật, Vô-Lượng-Hiền Phật, Phổ-Tùy-Thuận-Tự-Tại Phật, Tối-Tôn-Thiên Phật, nhẫn đến đức Lâu-Chí Như-Lai, tất cả là một ngàn đức Phật đã và sẽ thành Phật trong Hiền-Kiếp nơi Ta-Bà thế-giới nầy, ta đều làm mẹ của các Ngài.
Cũng như ở cõi Ðại-Thiên nầy, vô-lượng thế-giới ở mười phương, trong tất cả kiếp, những bực tu hành hạnh nguyện Phổ-Hiền để hóa độ chúng-sanh, ta đều tự thấy thân mình làm mẹ của các Ngài.
Then Sudhana asked Lady Maya, “How long ago did you attain this enlight-
ening liberation of magical manifestations of knowledge of great vows?”
Maya replied, “Inconceivable eons ago, beyond the range of mind, beyond
conscious calculation, there was an age called Pure Light. In that age of Pure
Light there was a world called Elevated, which was pure with some defile-
ment, made of many jewels, with surrounding mountains, polar mountains,
and oceans, containing realms of celestials, humans, animals, ghosts, and
hells, variegated and pleasant to see. In that world were a billion sets of four
continents, in the middle of which was a group of four continents called
Supreme Lionlike Majesty, in which there were eighty billion metropolises,
among which was one called Possessed of the Best of Banners. There in that
metropolis was a king called Great Energetic Power, a sovereign ruler. There
was also an enlightenment site in that metropolis called Eonspicuous Rays
of Light, wherein there was a deity called Radiant Eyes. Furthermore, at that
enlightenment site an enlightening being named Pure Standard sat, to attain
omniscience. A demon named Golden Light, along with a great army of
cohorts, had come invisibly to prevent the enlightening being from attain-
ing omniscience; but the king Great Energetic Power, who had attained the
mastery which enlightening beings realize, issued a great magical profec-
tion, producing a great army, more numerous than and superior to that of
the demons, to surround the enlightenment site and fight off the demon
army. The demon army was thereby scattered, and the blessed Pure Standard
realized perfect enlightenment.
“The goddess of the enlightenment site, Radiant Eyes, looking upon the
king as her son, then prostrated herself before the buddha and made a vow:
‘Wherever I may be born, may the king Great Energetic Power be my son;
and when he attains supreme perfect enlightenment, I will be his mother
then too.’ Having made this vow, she attended ten decillion buddhas at that
enlightenment site during that eon.
“Now, who do you think that goddess was? It was I myself who was the
enlightenment-site goddess Radiant Eyes at that time. As for the king Great
Energetic Power, who had the mastery of an enlightening being and
destroyed the demon army by means of a magical protection, it was none
other than this present buddha, the blessed Vairocana, the saint, the per-
fectly enlightened one, who was at that time the king Great Energetic
Power. Ever since then, wherever I have been, he has come as my son, carry-
ing out the practice of enlightening beings in all buddha-lands, in all states
of being, in all lifetimes, based on all that is good, in all undertakings
through which enlightening practice is carried out. Wherever he emerged to
develop and perfect sentient beings, there I was his mother, and in his final
existence too, I was his mother, everywhere. In all modes of birth as an
enlightening being, moment to moment, however many miracles of birth as
Page 1439 – Entry into the Realm of Reality
an enlightening being he displayed, in every case I was his mother. In the
same way I was the mother of infinite buddhas of the past, and I am mother
to the infinite buddhas of the ten directions in the present. And all the bud-
dhas I was mothers to in their last existence as an enlightening being
emanated lights from their navels and illumined this great body and this
seat.
Thiện-Tài bạch rằng:
Ðại-Thánh được môn giải-thoát nầy đến nay là bao nhiêu thời-gian?
Ma-Gia Phu-Nhơn nói:
Nầy Thiện-nam-tử! Thuở xưa, quá bất-tư-nghì kiếp số, chẳng phải đạo-nhãn của bực tối-hậu-thân Bồ-Tát biết được, có kiếp tên là Tịnh-Quang, thế-giới tên là Tu-Di-Ðức, dầu là năm loài ở lộn lạo, nhưng cõi đó bằng những chất báu thanh-tịnh trang-nghiêm không có sự nhơ uế xấu xí. Cõi đó có ngàn ức Tứ-Thiên-Hạ. Trong đó có một Tứ-Thiên-Hạ tên là Sư-Tử-Tràng. Nơi đây có tám mươi ức Vương-Thành. Có một Vương-Thành tên là Tự-Tại-Tràng, ngự trị bởi Chuyển-Luân-Vương tên là Ðại-Oai-Ðức.
Phía bắc Vương-Thành Tự-Tại-Tràng, có một đạo-tràng tên là Mãn-Nguyệt-Quang-Minh. Thần đạo-tràng nầy tên là Từ-Ðức.
Bấy giờ có Bồ-Tát tên là Ly-Cấu-Tràng ngồi nơi đạo-tràng nầy thành Ðẳng-Chánh-Giác.
Có một ác-ma tên là Kim-Sắc-Quang cùng quyến thuộc vô-lượng chúng câu hội đến chỗ Bồ-Tát.
Chuyển-Luân-Vương Ðại-Oai-Ðức đã được bồ-tát thần-thông tự-tại, biến hóa binh chúng đông hơn quân ma bao vây đạo-tràng. Quân ma sợ hãi tự tan rã. Do đó Bồ-Tát Ly-Cấu-Tràng thành Vô-Thượng Chánh-Giác.
Thần đạo-tràng thấy sự việc trên đây, lòng hoan hỉ vô-lượng, với Chuyển-Luân-Vương tưởng là eon trai của mình, đối trước Phật pháp nguyện rằng: Chuyển-Luân-Vương nầy chẳng luận sanh chỗ nào, nguyện tôi đều làm mẹ của Vương, nhẫn đến đời Vương thành Phật cũng vậy.
Sau khi phát nguyện, nơi đạo-tràng ấy, Thần lại từng cúng dường mười na-do-tha đức Phật.
Nầy Thiện-nam-tử! Thuở xưa ấy, Thần đạo-tràng tên Từ-Ðức chính là tiền thân của ta.
Chuyển-Luân-Vương Ðại-Oai-Ðức là tiền thân của đức Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai.
Từ lúc ta phát nguyện thuở xưa ấy, đức Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai phàm thọ sanh ở xứ nào cõi nào tu bồ-tát hạnh gieo thiện-căn giáo-hóa chúng-sanh, nhẫn đến thị-hiện tối-hậu-thân, mỗi niệm khắp tất cả thế-giới, thị-hiện thần-biến bồ-tát thọ sanh, thường làm eon trai của ta, ta thường làm mẹ của Ngài.
Nầy Thiện-nam-tử! Quá-khứ và hiện-tại thập phương thế-giới, vô-lượng chư Phật lúc sắp thành Ðẳng-Chánh-Giác, đều từ nơi rốn phóng đại-quang-minh chiếu đến thân ta và cung-diện của ta ở tối-hâu-thân của các Ngài, ta đều làm mẹ.
“I only know this enlightening liberation of magical manifestation of
knowledge of great vows — how can I know the practice or tell of the virtues
of the enlightening beings who are filled with great compassion, who never
tire of guiding to perfection of omniscience, who are able to display projec-
tions of the miracles of all buddhas from every pore?
“In the thirty-three-fold heaven of this world is a goddess named
Surendrabha, who is the daughter of a god named Smrtimati. Go ask her
how to learn and carry out the practice of enlightening beings.”
So then Sudhana paid his respects and left Lady Maya.
Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ biết môn giải-thoát bồ-tát đại-nguyện-trí-huyễn nầy.
Như chư đại Bồ-Tát có đủ tạng đại-bi giáo-hóa chúng-sanh thường không nhàm đủ, dùng sức tự-tại mỗi mỗi lỗ lông thị-hiện thần-biến của vô lượng chư Phật.
Ta thế nào biết được nói được công-đức-hạnh ấy.
Nầy Thiện-nam-tử! Ở thế-giới nầy, nơi Ðao-Lợi-Thiên, có Thiên-Vương tên là Chánh-Niệm. Thiên-Vương có người eon gái tên là Thiện Chủ-Quang.
Ngươi đến đó hỏi Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, tu bồ-tát-đạo?
Thiện-Tài Ðồng-Tử kỉnh lễ nơi chân Ma-Gia Phu-Nhơn, hữu nhiễu vô số vòng, luyến mộ chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.
Surendrabha
Then Sudhana went to the thirty-three-fold heaven, and went to the god-
dess Surendrabha. Paying his respects to the goddess, Sudhana stood before
her and said, “Noble one, I have set my mind on supreme perfect enlighten-
ment, but I do not know how to learn and carry out the practice of
enlightening beings. I hear you give instruction to enlightening beings, so
please tell me how to learn and practice.”
Surendrabha replied, “I have attained an enlightening liberation called
pure manifestation of unimpeded recollection. I am aware that there was an
age called Flowering, in which I served as many buddhas as there are grains
of sand in the Ganges River. When they went forth from their customary
surroundings, I projected them, provided for them, and made parks for their
use. And all the developmental guidance of sentient beings performed by
those buddhas — while they were enlightening beings, while in the womb
of the mother, while being born, while taking seven steps, while roaring the
lion’s roar, during childhood, during life at home, when leaving home,
when awaking at the site of enlightenment, while teaching, while display-
ing the miracles of buddhas — all that, from their first inspiration to the final
ending of their true teaching, I know and remember, recall and keep in
mind, reflect on and follow.
“There was an eon called Well-Being, in which I served as many buddhas
as sand grains in ten Ganges Rivers; there was an eon called Good Fortune, in
which I served as many buddhas as atoms in a buddha-land; there was an eon
called No Attainment, in which I served eighty-four thousand duodecillion
buddhas; there was an eon called Beautiful Light, in which I served as many
buddhas as atoms in this continent; there was an eon called Peerless Light, in
which I served as many buddhas as sand grains in twenty Ganges Rivers;
there was an eon called Blazing Gfory, in which I served as many buddhas as
sand grains in the Ganges River; there was an eon called Sunrise, in which I
Page 1440 – The Flower Ornament Scripture
served as many buddhas as sand grains in eighty Ganges Rivers; there was an
eon called Victorious March, in which I served as many buddhas as sand
grains in sixty Ganges Rivers; there was an eon called Beautiful Moon, in
which I served as many buddhas as sand grains in seventy Ganges Rivers.
“In this way, I remember as many eons as sand grains in the Ganges River,
during which I was always with buddhas, and I heard of this enlightening
liberation of pure manifestation of unimpeded recollection from those bud-
dhas, and practiced it as they told me. Thus, constantly engrossed in this
liberation, I recollect, remember, keep in mind, reflect on, and recall the
supernal manifestations of all those buddhas from their stages of enlighten-
ing to the end of the duration of their true teachings, by means of this
enlightening liberation of pure manifestation of unimpeded recollection.
“I only know this enlightening liberation — how can I know the practice,
or tell the virtues, of the enlightening beings who are free from all obscurity
and darkness, who light up the night of the mundane whirl, who are rid of
all obstacles, who do not slumber, who are rid of apathy and indolence, who
have stopped compulsive actions based on conditioning, who have purified
awareness of the essence of all things, who awaken others to the purity of the
ten powers?
“In the city of Kapilavastu there lives a boy named Vishwamitra who is
a teacher. Go ask him how to learn and carry out the practice of enlight-
ening beings.”
Then Sudhana paid his respects and left the goddess Surendrabha.
42- Thiện-Tài đến Thiên-Cung Ðao-Lợi, đảnh lễ Thiên-Nữ Thiên-Chủ-Quang, hữu nhiễu cung kính, chắp tay thưa rằng:
Ðại-Thánh! Tôi đã phát tâm vô-thượng bồ-đề mà chưa biết Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo?
Tôi nghe Ðại-Thánh khéo có thể dạy bảo, xin chỉ dạy cho.
Thiện-Nữ nói:
Nầy Thiện-nam-tử! Ta được bồ-tát giải-thoát-môn tên là vô-ngại-niệm thanh-tịnh trang-nghiêm.
Nầy Thiện-nam-tử! Ta ở nơi thế-lực của môn giải-thoát nầy, ghi nhớ quá-khứ có một kiếp tên là thanh-liên-hoa. Trong kiếp đó, ta cúng-dường hằng-hà-sa-số chư Phật Như-Lai.
Chư Như-Lai ấy từ khi mới xuất gia, ta đều săn sóc kính thờ kiến tạo tăng-già-lam, sắm sửa vật dụng.
Lại lúc chư Phật ấy làm Bồ-Tát ở thai mẹ, lúc đản-sanh, lúc đi bảy bước, lúc đại sư-tử-hống, lúc làm đồng-tử ở tại cung, lúc đến cội bồ-đề thành Ðẳng-Chánh-Giác, lúc chuyển pháp-luân hiện thần-biến giáo-hóa điều phục chúng-sanh, tất cả sự việc nhẫn đến pháp-tận, ta đều ghi nhớ rõ không sai sót.
Ta lại nhớ kiếp quá-khứ tên là Thiện-Ðịa, trong kiếp ấy ta cúng-dường mười hằng-hà-sa-số chư Phật Nhu-Lai.
Ta lại nhớ kiếp quá-khứ tên là Diệu-Ðức, trong kiếp ấy ta cúng-dường một phật-sát vi-trần-số chư Phật Như-Lai.
Ta lại nhớ kiếp quá-khứ tên là Vô-Sở-Ðắc, trong kiếp ấy ta cúng-dường tám mươi bốn ức trăm ngàn na-do-tha chư Phật Như-Lai.
Ta lại nhớ kiếp quá-khứ tên là Thiện-Quang trong kiếp ấy ta cúng-dường diêm-phù-đề vi-trần-số chư Phật Như-Lai.
Ta lại nhớ kiếp quá-khứ tên là Vô-Lượng-Quang, trong kiếp ấy ta cúng-dường hai mươi hằng-hà-sa-số chư Phật Như-Lai.
Ta lại nhớ kiếp quá-khứ tên là Tối-Thắng-Ðức, trong kiếp ấy ta cúng-dường một hằng-hà-sa-số chư Phật Như-Lai.
Ta lại nhớ kiếp quá-khứ tên là Thiện-Bi, trong kiếp ấy ta cúng-dường tám mươi hằng-hà-sa-số chư Phật Như-Lai.
Ta lại nhớ kiếp quá-khứ tên là Thắng-Du, trong kiếp ấy ta cúng-dường sáu mươi hằng-hà-sa-số chư Phật Như-Lai.
Ta lại nhớ kiếp quá-khứ tên là Diệu-Nguyệt, trong kiếp ấy ta cúng-dường bảy mươi hằng-hà-sa-số chư Phật Như-Lai.
Nầy Thiện-nam-tử! Ghi nhớ quá-khứ hằng-hà-sa-số kiếp như vậy, ta thường chẳng bỏ rời chư Phật Như-Lai Chánh-Ðẳng-Giác.
Ở chỗ chư Như-Lai như vậy ta nghe môn giải-thoát bồ-tát vô-ngại-niệm thanh-tịnh trang-nghiêm nầy thọ trì tu hành hằng chẳng quên mất.
Những kiếp trước như vậy có bao nhiêu đức Như-Lai từ sơ Bồ-Tát nhẫn đến pháp tận, tất cả sự việc của chư Phật đã làm, ta dùng sức giải-thoát thanh-tịnh trang-nghiêm, đều ghi nhớ rõ ràng như hiện trước mắt, và ta giữ gìn tùy thuận tuân hành từng không bỏ phế.
Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ biết môn giải-thoát vô-ngại-niệm thanh-tịnh trang-nghiêm nầy.
Như chư đại Bồ-Tát ra khỏi đêm sanh tử, sáng suốt rời hẳn si tối, chưa từng mê ngủ, tâm không bị che chướng, thân luôn khinh an, thanh tịnh biết rõ các pháp-tánh, thành tựu thập-lực khai ngộ quần sanh.
Ta thế nào biết được nói được công-đức-hạnh đó.
Nầy Thiện-nam-tử! Thành Ca-Tỳ-La có Ðồng-Tử-Sư tên là Biến-Hữu. Ngươi đến đó hỏi Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, tu bồ-tát-đạo.
Nhờ nghe pháp, Thiện-Tài vui mừng hớn hở thiện-căn bất-tư-nghì tự-nhiên thêm lớn rộng, bèn đảnh lễ nơi chân Thiên-Nữ Thiên-Chủ-Quang, hữu nhiễu vô-số vòng từ tạ mà đi.
Vishwamitra
Descending from the thirty-three-fold heaven, Sudhana made his way to
Kapilavastu, where he went to see the young teacher Vishwamitra. Paying
his respects, he stood before the teacher and said, “Noble one, I have set my
mind on supreme perfect enlightenment, but I do not know how to learn
and carry out the practice of enlightening beings. I hear you give enlighten-
ing beings instruction, so please tell me how to learn and practice.”
Vishwamitra said, “I learned the science of writing from a young enlight-
ening being named Shilpabhijna. Go ask him and he will tell you how the
practice of enlightening beings is to be learned and carried out.”
43- Thiện-Tài từ Thiên-Cung xuống đi lần đến thành Ca-Tỳ-La chỗ của Biến-Hữu đảnh lễ hữu-nhiễu, đứng chắp tay cung kính thưa rằng:
Ðại-Thánh! Tôi đã phát tâm vô-thượng bồ-đề, mà chưa biết Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo.
Tôi nghe Ðại-Thánh khéo dạy bảo, xin chỉ dạy cho.
Biến-Hữu nói:
Nầy Thiện-nam-tử! Nơi đây có Ðồng-Tử tên là Thiện-Tri-Chúng-Nghệ-Học-Bồ-Tát-Tự-Trí, ngươi nên đến hỏi.
Shilpabhijna
Then Sudhana went to the youth Shilpabhijna, paid his respects, and said to
him, “Noble one, I have set my mind on supreme perfect enlightenment,
but I do not know how to learn and carry out the practice of enlightening
beings. I hear you give enlightening beings instruction, so please tell me
how an enlightening being is to learn and carry out enlightening practice.”
Shilpabhijna said, “I have attained an enlightening liberation with higher
knowledge of arts. In uttering the phonemes, as I pronounce A, by the asso-
ciative power of an enlightening being I enter a door of transcendent
Page 1441 – Entry into the Realm of Reality
wisdom called sphere of totality; pronouncing Ra, I enter a door of tran-
scendent wisdom called differentiation of infinite levels; pronouncing Pa, I
enter a door of transcendent wisdom called differentiation of levels of the
cosmos of realities; pronouncing Cha, I enter a door of transcendent wisdom
called analysis of the universal sphere; pronouncing Na, I enter a door of
transcendent wisdom called independence; pronouncing La, I enter a door
of transcendent wisdom called unattached; pronouncing Da, I enter a door
of transcendent wisdom called unregressing effort; pronouncing Ba, I enter
a door of transcendent wisdom called adamantine sphere; pronouncing Da, I
enter a door of transcendent wisdom called universal sphere; pronouncing
Sa, I enter a door of transcendent wisdom called ocean womb; pronouncing
Va, I enter a door of transcendent wisdom called branching out everywhere;
pronouncing Ta, I enter a door of transcendent wisdom called sphere of
light; pronouncing Ya, I enter a door of transcendent wisdom called multi-
tude of mixtures; pronouncing Shta, I enter a door of transcendent wisdom
called light extinguishing all burning; pronouncing Ka, I enter a door of
transcendent wisdom called unified multitude; pronouncing Sha, I enter a
door of transcendent wisdom called directed rain; pronouncing Ma, I enter a
door of transcendent wisdom called crest of various currents of great force;
pronouncing Ga, I enter a door of transcendent wisdom called extending to
all levels; pronouncing Tha, I enter a door of transcendent wisdom called
unified womb of Thusness; pronouncing, I enter a door of transcendent
wisdom called plunging into purification of the mundane whirl; pronounc-
ing Swa, I enter a door of transcendent wisdom called supernal
manifestation of recollection of all buddhas; pronouncing Dha, I enter a
door of transcendent wisdom called eontemplative investigation of truths;
pronouncing Sha, I enter a door of transcendent wisdom called light of the
wheel of teaching of all buddhas; pronouncing Kha, I enter a door of tran-
scendent wisdom called womb of knowledge of the causal ground of
accomplishment; pronouncing Ksha, I enter a door of transcendent wisdom
called investigation of the treasury of the ocean in which all actions are
stilled; pronouncing Sta, I enter a door of transcendent wisdom called light
of purity dispelling all afflictions; pronouncing Na, I enter a door of tran-
scendent wisdom called access to worldly knowledge; pronouncing Tha, I
enter a door of transcendent wisdom called sphere of knowledge of the
cycles of the mundane whirl; pronouncing Bha, I enter a door of transcend-
ent wisdom called array of manifestations of spheres of existence;
pronouncing Chha, I enter a door of transcendent wisdom called division of
the encompassing sphere of practice applied to development; pronouncing
Sma, I enter a door of transcendent wisdom called turning to face all direc-
tions to see all buddhas; pronouncing Hwa, I enter a door of transcendent
wisdom called matrix of power to observe what all sentient beings cannot;
pronouncing Tsa, I enter a door of transcendent wisdom called plunging
into practice of the ocean of all virtues; pronouncing Gha, I enter a door of
transcendent wisdom called strong oceanic vessel holding the multitude of
all teachings; pronouncing Tha, I enter a door of transcendent wisdom
Page 1442 – The Flower Ornament Scripture
called going in the direction of the vows of all buddhas; pronouncing Na, I
enter a door of transcendent wisdom called Voicing the millions of eonfigu-
rations of the wheel of phonemes; pronouncing Pha, I enter a door of
transcendent wisdom called sphere of the ultimate development of all sen-
tient beings; pronouncing Sha , I enter a door of transcendent wisdom called
suffusion of the sphere of light of unimpeded intellectual powers eontained
in the stages of enlightenment; pronouncing Sya, I enter a door of tran-
scendent wisdom called sphere of exposition of all buddha-teachings;
pronouncing Shelia, I enter a door of transcendent wisdomcalledthunder of
truth filling the sky of beings; pronouncing Ta, I enter a door of transcend-
ent wisdom called lamp of the ultimate consummation of selfless work for
the benefit of sentient beings; pronouncing Dha, I enter a door of transcend-
ent wisdom called matrix of the distinction of cycles of the Teaching.
“As I pronounce the phonemes, I enter immeasurable, innumerable doors
of transcendent wisdom, beginning with these forty-two. I have attained this
enlightening liberation with higher knowledge of arts, and it is this I know.
How can I know the practice or tell the virtues of enlightening beings who
have attained perfection of all mundane and transcendental arts, in as much as
they have no barrier, no doubt, no confusion, no uncertainty, no hesitation, no
ignorance, no difficulty, no impairment, no frustration, no lack of knowl-
edge, and no misunderstanding in regard to the subject matters of all arts — all
writing and mathematics, all applied sciences of spells and herbs, all the bases
of obsession, psychotherapy, epilepsy, lameness, and insanity, the science of
compounding medicines, chemistry, mineralogy, the making of parks,
groves, villages, towns, and cities, knowledge of the vicissitudes of the world
through astronomy, physiognomy, geomancy, meteorology, agronomy, and
prediction of trends of events, and the analysis, communication, understand-
ing, and actualization of all transmundane phenomena.
“In the city of Vartanaka, in the region of Kevalaka, in this same country of
Magadha, there lives a laywoman named Bhadroftama. Go ask her how an
enlightening being is to learn and carry out the practice of enlightening beings.”
So Sudhana paid his respects and left the noble youth Shilpabhijna.
44- Thiện-Tài vâng lời đến đảnh lễ đồng-tử, cung kính thưa rằng:
Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm vô-thượng bồ-đề mà chưa biết Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo. Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin chỉ dạy cho.
Ðồng-Tử nói:
Nầy Thiện-nam-tử! Ta được bồ-tát giải-thoát-môn tên là thiện-tri-chúng-nghệ.
Ta hằng xướng trì những tự-mẫu nầy:
Lúc xướng chữ A, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là bồ-tát-oai-lực nhập vô-sai-biệt cảnh-giới.
Lúc xướng chữ ÐA, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là vô-biên-sai-biệt-môn.
Lúc xướng chữ BA, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là phổ-chiếu-pháp-giới.
Lúc xướng chữ GIẢ, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là phổ-luân-đoạn-sai-biệt.
Lúc xướng chữ NA, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là đắc-vô-y-vô-thượng.
Lúc xướng chữ LÃ, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là y-chỉ-vô-cấu.
Lúc xướng chữ ÐẢ, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là bất-thối-chuyển-phương-tiện.
Lúc xướng chữ BÀ, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là kim-cang-tràng.
Lúc xướng chữ ÐỒ, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là nhật-phổ-luân.
Lúc xướng chữ SA, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là hải-tạng.
Lúc xướng chữ PHƯỢC, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là phổ-sanh-an-trụ.
Lúc xướng chữ ÐÁ, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là viên-mãn-quang.
Lúc xướng chữ DÃ, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là sai-biệt-tích-tụ.
Lúc xướng chữ SẮC-TRA, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là phổ-quang-minh-tức-phiền-não.
Lúc xướng chữ CA, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là Vô-sai-biệt-vân.
Lúc xướng chữ TA, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là giáng-chú-đại-vũ.
Lúc xướng chữ MẠ, thời nhập bát-nhã ba-la-mật-môn tên là đại-lưu-thoan-khích-chúng-phong-tề-trĩ.
Lúc xướng chữ GIÀ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là phổ-an-lập.
Lúc xướng chữ THA, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là chơn-như-bình-đẳng-tạng.
Lúc xướng chữ XÃ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là nhập-thế-gian-hải-thanh-tịnh.
Lúc xướng chữ TOẢ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là niệm-nhứt-thiết-phật-trang-nghiêm.
Lúc xướng chữ ÐÀ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là quán-sát-giản-trạch-nhất-thiết-pháp-tụ.
Lúc xướng chữ XA, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là tùy-thuận-nhất-thiết-phật-giáo-luân-quang-minh.
Lúc xướng chữ KHƯ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là tu-nhơn-địa-trí-huệ-tạng.
Lúc xướng chữ XOA, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là tức-chư-nghiệp-hải-tạng.
Lúc xướng chữ TA-ÐA, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là quyên-chư-hoặc-chướng-khai-tịnh-quang-minh.
Lúc xướng chữ NHƯƠNG, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là tác-thế-gian-trí-huệ-môn.
Lúc xướng chữ HẠT-LÃ-ÐA, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là sanh-tử-cảnh-giới-trí-huệ-luân.
Lúc xướng chữ BÀ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là nhất-thiết-trí-cung-điện-viên-mãn-trang-nghiêm.
Lúc xướng chữ XA, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là tu-hành-phương-tiện-tạng-các-biệt-viên-mãn.
Lúc xướng chữ TA-MẠ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là tùy-thập-phương-hiện-kiến-chư-phật.
Lúc xướng chữ HA-BÀ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là quán-sát nhất-thiết vô-duyên chúng-sanh phương-tiện nhiếp-thọ linh xuất-sanh vô-ngại-lực.
Lúc xướng chữ THA, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là tu-hành-xu-nhập-nhất-thiết-công-đức-hải.
Lúc xướng chữ GIÀ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là trì-nhất thiết-pháp-vân-kiên-cố-hải-tạng.
Lúc xướng chữ TRA, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là tùy-nguyện-phổ-kiến-thập-phương-chư-Phật.
Lúc xướng chữ NÃ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là quán-sát tự-luân hữu vô-tận chư ức tự.
Lúc xướng chữ TA-PHÃ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là hóa-chúng-sanh-cứu-cánh-xứ.
Lúc xướng chữ TA-CA, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là quảng-đại-tạng-vô-ngại-biện-quang-minh-luân-biến-chiếu.
Lúc xướng chữ DÃ-TA, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là tuyên-thuyết nhất-thiết-phật-pháp cảnh-giới.
Lúc xướng chữ THẤT, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là nhất-thiết chúng-sanh-giới pháp-lôi biến-hống.
Lúc xướng chữ SÁ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là dĩ vô-ngã-pháp khai-hiểu chúng-sanh.
Lúc xướng chữ ÐÀ, thời nhập môn bát-nhã ba-la-mật tên là nhất-thiết pháp-luân sai-biệt-tạng.
Nầy Thiện-nam-tử! Lúc ta xướng những tự-mẫu như vậy, thời trước tiên ta nhập bốn mươi hai môn bát-nhã ba-la-mật đây cùng với vô-lượng vô-số môn bát-nhã ba-la-mật.
Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ biết môn giải-thoát bồ-tát thiện tri chúng nghệ nầy.
Như chư đại Bồ-Tát có thể đối với pháp thiện-xảo thế-gian và xuất-thế-gian dùng trí thông đạt đến bỉ-ngạn. Những phương-pháp lạ, những nghề nghiệp khéo đều thấu đáo không sót. Hiểu rành những văn tự toán số, Y-phương, chú-thật, trị lành bịnh tật.
Lại biết rành những chỗ sản xuất vàng, bạc, châu, ngọc, san-hô, lưu-ly, ma-ni, xa-cừ, tất cả kho tàng bửu-vật, những phẩm-loại, những giá-trị.
Những xóm làng thành ấp, cung điện vườn tược, núi, rừng, suối, ao phàm những chỗ ở của tất cả nhơn chúng, Bồ-Tát đều có thể phương-tiện nhiếp thọ.
Bồ-Tát lại khéo quán-sát thiên-văn, địa-lý, tướng người tốt xấu, tiếng của chim thú, mây ráng khí hậu, trúng mùa, thất thu, quốc độ an nguy, tất cả kỹ nghệ thế-gian Bồ-Tát đều rành rẽ tận nguyên bổn tất cả.
Bồ-Tát lại có thể phân biệt pháp xuất thế, chánh-danh biện-nghĩa quán-sát thể tướng, tùy thuận tu hành, trí nhập trong đó, không nghi ngại, không ngu tối, không ngoan độn, không ưu-não, không trầm một, đều hiện chứng tất cả.
Ta thế nào biết được, nói được công-đức-hạnh đó.
Nầy Thiện-nam-từ! Nước Ma-Kiệt-Ðề có một tụ-lạc, trong đó có thành Bà-Ðát-Na. Trong thành ấy có một ưu-bà-di tên là Hiền-thắng.
Ngươi đến đó hỏi Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, tu bồ-tát-đạo?
Thiện-Tài đảnh lễ Tri-Nghệ Ðồng-Tử, hữu-nhiễu vô-số vòng, luyến mộ chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.
Bhadrottama
Then Sudhana went to Vartanaka city in the region of Kevalaka, where he
called on the laywoman Bhadroftama. Paying his respects to her, he said,
“Noble one, I have set my mind on supreme perfect enlightenment, but I do
not know how an enlightening being is to learn and carry out the practice of
enlightening beings. I hear you give enlightening beings instruction, so
please tell me how to learn and practice.”
She said, “I know and teach a doctrine called ‘baseless sphere’ and have
attained a concentration of mystic empowerment. In that concentration
there is no foundation of any phenomenon whatsoever. Therein is produced
Page 1443 – Entry into the Realm of Reality
the mystical empowerment of the eye of omniscience, the mystical
empowerment of the ear of omniscience, the mystical empowerment of the
nose of omniscience, the mystical empowerment of the tongue of omnis-
cience, the mystical empowerment of the body of omniscience, the mystical
empowerment of the mind of omniscience, the mystical power of the waves
of omniscience, the mystical power of the lightning of omniscience, the
mystical power of the flood of omniscience, spheres illumining the world.
“It is this doctrine of the baseless sphere that I know. How can I know all
the unobstructed, unattached practices of enlightening beings? Go south —
there is a city called Bharukaccha, where there lives a goldsmith named
Muktasara. Go ask him how an enlightening being is to learn and carry out
the practice of enlightening beings.”
So then Sudhana paid his respects, took his leave, and departed.
45- Thiện-Tài đến thành Bà-Ðát-Na đảnh lễ Hiền-Thắng, hữu-nhiễu cung kính, chắp tay thưa rằng:
Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm vô-thượng bồ-đề, mà chưa biết Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo.
Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin chỉ dạy cho.
Ưu-bà-di Hiền-Thắng nói:
Nầy Thiện-nam-từ! Ta được môn bồ-tát giải-thoát tên là vô-y-xứ đạo-tràng. Nơi môn giải-thoát nầy, ta đã thông đạt và đem dạy người.
Ta lại được môn vô-tận tam-muội, vì có thể xuất sanh nhất-thiết-trí-tánh nhãn vô-tận, nhĩ vô-tận, tỹ vô-tận, thiệt vô-tân, thân vô-tận, ý vô-tận, công-đức vô-tận, trí-huệ vô-tận, thần-thông vô-tận.
Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ biết môn bồ-tát giải-thoát vô-y-xứ đạo-tràng nầy.
Như chư đại Bồ-Tát tất cả công-đức-hạnh không chắp trước, ta thế nào biết được nói được.
Nầy Thiện-nam-từ! Phương nam có thành Ốc-Ðiền. Trong thành ấy có trưởng-giả Kiên-Cố-Giải-Thoát.
Ngươi nên đến đó hỏi Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo?
Muktasara
Then Sudhana made his way south, to the goldsmith Muktasara in the city
of Bharukaccha. Paying his respects to Muktasara, Sudhana said, “Noble
one, I have set my mind on supreme perfect enlightenment, but I do not
know how an enlightening being is to learn and carry out the practice of
enlightening beings. I hear you give enlightening beings instruction, so
please tell me how to learn and practice.”
Muktasara said, “I know an enlightening liberation called supernal mani-
festation of unobstructed mindfulness, and I ceaselessly seek the Teaching at
the feet of all buddhas in the ten directions. I only know this enlightening
liberation. How can I know the practice or tell the virtue of the enlightening
beings who roar the fearless roar of the lion, who are grounded on great vir-
tue and knowledge?
“There is a householder named Suchandra living in this city, whose house
is always illuminated; go ask him how to learn and carry out the practice of
enlightening beings.”
So Sudhana paid his respects, took his leave, and departed.
46- Thiện-Tài đảnh lễ Hiền-Thắng, hữu nhiễu vô-số vòng, luyến mộ chiêm ngưỡng từ tạ mà đi qua hướng nam đến chỗ trưởng-giả đảnh lễ hữu nhiễu cung kính chắp tay thưa rằng:
Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm vô-thượng bồ-đề, mà chưa biết Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo.
Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin chỉ dạy cho.
Trưởng-giả nói:
Nầy Thiện-nam-tử! Ta được môn bồ-tát-giải-thoát tên là vô-trước-niệm-thanh-tịnh-trang-nghiêm.
Từ khi ta được môn giải-thoát nầy đến nay, ta siêng cầu chánh-pháp nơi thập phương chư Phật không thôi dứt.
Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ biết môn giải-thoát vô-trước-niệm thanh-tịnh trang-nghiêm.
Như chư đại Bồ-Tát được vô-úy sư-tử-hống, an trụ nơi phước trí quảng-đại, mà ta thế nào biết được, nói được công-đức hạnh ấy.
Nầy Thiện-nam-tử! Chính trong thành nầy có một trưởng-giả tên là Diệu-Nguyệt, nhà ông thường có quang-minh.
Ngươi đến đó hỏi Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo?
Thiện-Tài đảnh lễ trưởng-giả Kiên-Cố Giải-Thoát, hữu nhiễu vô-số vòng, từ tạ đi đến nhà trưởng-giả Diệu-Nguyệt đảnh lễ hữu nhiễu, cung kính chắp tay thưa rằng:
Suchandra
Then Sudhana went to the householder Suchandra, paid his respects, and
said, “Noble one, I have set my mind on supreme perfect enlightenment, but
I don’t know how to learn and carry out the practice of enlightening beings.
I hear you give enlightening beings instruction, so please tell me how an
enlightening being is to learn and practice.”
Suchandra said, “I have attained an enlightening liberation called light of
undefiled knowledge. I only know this liberation. How can I know the
practice or tell of the virtues of the enlightening beings who have attained
infinite liberation? South of here is a city called Roruka, where a house-
holder named Ajitasena lives. Go ask him how to learn and carry out the
practice of enlightening beings.”
Page 1444 – The Flower Ornament Scripture
So Sudhana paid his respects and left.
47- Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm vô-thượng bồ-đề mà chưa biết Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo.
Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin chỉ dạy cho.
Trưởng-giả Diệu-Nguyệt nói:
Nầy Thiện-nam-tử! Ta được bồ-tát giải-thoát tên là tịnh-trí-quang-minh.
Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ biết môn giải-thoát nầy. Như chư đại Bồ-Tát chứng được vô-lượng môn giải-thoát. Ta thế nào biết được nói được công-đức hạnh ấy.
Nầy Thiện-nam-tử! Phương nam có thành Xuất-Sanh. Nơi đó có trưởng-giả tên là Vô-Thắng-Quân.
Ngươi đến đó hỏi Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo?
Thiện-Tài đảnh lễ trưởng-giả Diệu-Nguyệt, hữu nhiễu vô-số vòng, từ tạ đi qua phương nam, đến đảnh lễ trưởng-gia Vô-Thắng-Quân, cung kính thưa rằng:
48- Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm vô-thượng bồ-đề, mà chưa biết Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo.
Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin chỉ dạy cho.
Trưởng-giả Vô-Thắng-Quân nói:
Nầy Thiệ-nam-tử! Ta được bồ-tát giải-thoát tên là vô-tận-tướng.
Ta do chứng môn bồ-tát giải-thoát nầy nên thấy vô-lượng chư Phật, được vô-tận-tạng.
Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ biết môn giải-thoát vô-tận-tướng nầy.
Như chư đại Bồ-Tát được vô-hạn-trí vô-ngại biện-tài, ta làm sao biết được nói được công-đức-hạnh ấy.
Nầy Thiện-nam-tử! Thành-nam nầy có tụ-lạc Chi-Vi-Pháp. Trong đó có một bà-la-môn tên là Tối-tịch-Tịnh.
Ngươi đến đó hỏi Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo?
Ajitasena
Then Sudhana made his way to the city of Roruka, where he called on the
householder Ajitasena. Paying his respects, Sudhana said, “Noble one, I have
set my mind on supreme perfect enlightenment, but I do not know how an
enlightening being is to learn and carry out the practice of enlightening
beings. I hear you give enlightening beings instruction, so please tell me
how to learn and practice.”
Ajitasena said, “I have attained an enlightening liberation called inex-
haustible appearance, with the attainment of which I obtained an
inexhaustible treasury of vision of buddhas. South of here is a village
called Dharma, where there lives a brahmin named Shivaragra. Go ask
him how an enlightening being is to learn and carry out the practice of
enlightening beings.”
So then Sudhana paid his respects again and left.
49- Thiện-Tài đảnh lễ Trưởng-giả Vô-Thắng-Quân hữu nhiễu vô-số vòng luyến-mộ chiêm-ngưỡng từ tạ đi đến đảnh lễ Tối-Tịch-Tịnh, hữu nhiễu cung kính chắp tay thưa rằng:
Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm vô-thượng bồ-đề, mà chưa biết Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo.
Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin chỉ dạy cho.
Bà-La-Môn nói:
Nầy Thiện-nam-tử! Ta được môn bồ-tát giải-thoát tên là Thành-Nguyện-Ngữ.
Chư Bồ-Tát quá-khứ hiện-tại và vị-lai do dùng lời nói chơn thành nầy nên được không thối-chuyển đạo vô-thượng bồ-đề, không đã thối, không hiện thối, không sẽ thối.
Do ta trụ nơi lời nói thành-nguyện nên làm điều chi cũng được toại ý.
Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ biết môn giải-thoát thành-nguyện-ngữ nầy.
Như chư đại Bồ-Tát đi đứng đều chẳng trái với thành-nguyện-ngữ, lời nói ra quyết là chơn thành chưa bao giờ hư vọng, do đây xuất sanh vô-lượng công-đức. Ta làm sao biết được nói được công-đức-hạnh đó.
Nầy Thiện-nam-tử! Phương nam đây có thành tên là Diệu-Ý-Hoa-Môn. Nơi đó có Ðồng-Tử tên là Ðức-Sanh, lại có Ðồng-Nữ tên là Hữu-Ðức.
Ngươi đến đó hỏi Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo.
Thiện-Tài đảnh lễ Tối-Tịch-Tịnh hữu nhiễu vô-số vòng, từ tạ đi qua phương nam.
Hán bộ quyển thứ 77
Shivaragra
Then Sudhana made his way to Dharma village and called on the brahmin
Shivaragra. Paying his respects, he said, “Noble one, I have set my mind on
supreme perfect enlightenment, but I do not know how an enlightening
being is to learn and carryout the practice of enlightening beings. I hear you
give enlightening beings instruction, so please tell me how to learn and
carry out the practice of enlightening beings.”
Shivaragra said, “I act on a vow of truth, that as by truth, by speaking
truth, there has never been, is not now, and never will be, a single enlighten-
ing being who has turned a way from supreme perfect enlightenment, who
is turning a way, or who will turn a way, by that vow of truthful speech this
work of mine may succeed. So whatever I wish comes to fruition. By this
vow of truth, I accomplish all my tasks. It is this vow of truth that I know.
How can I know the practice or tell the virtues of the enlightening beings
whose words and deeds mutually accord in truth?
“South of here is a city called Sumanamukha, where there live a boy named
Shrisambhava and a girl named Shrimati. Go ask them how an enlightening
being is to learn and carry out the practice of enlightening beings.”
Then, with great reverence fortheTeaching, Sudhana paid his respects to
the brahmin Shivaragra and left.
Shrisambhava and Shrimati
Then Sudhana went to the city of Sumanamukha, and there he called on the
boy Shrisambhava and the girl Shrimati; paying his respects to them, he said,
“Noble ones, I have set my mind on supreme perfect enlightenment, but I
do not know how an enlightening being is to learn and carry out the practice
Page 1445 – Entry into the Realm of Reality
of enlightening beings. I hear you give enlightening beings instruction, so
please tell me how to learn and carry out the practice of enlightening
eings.”
They said to him, “We have attained and experienced an enlightening
liberation called ‘illusory.’ Having realized this liberation, we see all worlds
as illusory, being produced by the illusion of causes and conditions. We
know all beings are illusory, by knowledge of the illusion of afflictions in
action. We see all worldlings as illusory, born of the illusion of ignorant
craving for existence. We see all phenomena as illusory, arisen f rom the illu-
sion of mutual conditioning. We see the whole triple world as illusory,
produced by the illusion of misunderstanding. We see all sentient beings,
afflicted by birth, old age, death, grief, lament, suffering, and sorrow, as illu-
sory, born of the illusion of untrue ideas. Wc see all lands as born of illusion,
produced by the delusion of ideas of substance of existence in the illusions
wrongly seen by the eonceiving mind. We see all hearers and individual
illuminates as illusory, born of illusory thoughts of knowledge and effort.
We know the succession of all enlightening beings’ practices, vows, and
developmental guidance of sentient beings as illusory, being essentially illu-
sions of action and teaching created from illusion. We see the circle of all
buddhas and enlightening beings as illusory, being essentially illusions of
the inconceivable realm, produced by the illusions of vows and knowledge.
“We know this enlightening liberation of illusoriness. How can we know
the practice or tell of the virtues of the enlightening beings who follow the
extensive network of the endless illusion of action?”
50- (1) Thiện-Tài đi lần đến thành Diệu-Ý-Hoa-Môn, đảnh lễ đồng-tử Ðức-Sanh va đồng-nữ Hữu-Ðức, hữu nhiễu cung kính chắp tay bạch rằng:
Ðức Thánh! Tôi đã phát tâm vô-thượng bồ-đề mà chưa biết Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo. Xin đức Thánh từ mẫn chì dạy.
Ðức-Sanh và Hữu-Ðức nói:
Nầy Thiện-nam-tử! Chúng ta chứng được bồ-tát giải-thoát tên là huyễn-trụ.
Vì được môn giải-thoát nầy nên thấy:
Tất cả thế-giới đều là huyễn trụ, do nhơn-duyên mà sanh khởi.
Tất cả chúng-sanh đều là huyễn trụ, do nghiệp phiền-não mà khởi.
Tất cả chúng-sanh đều là huyễn trụ do nghiệp phiền-não mà sanh khởi.
Tất cả thế-gian đều là huyễn trụ, do vô-minh, hữu, ái xoay vần làm duyên sanh khởi.
Tất cả pháp đều là huyễn trụ, do những huyễn-duyên ngã-kiến, vân vân, sanh khởi.
Tất cả tam thế đều là huyễn trụ, do những điên đảo trí ngã-kiến vân-vân sanh khởi.
Tất cả chúng-sanh sanh diệt, sanh lão bịnh tử ưu bi khổ não đều là huyễn trụ, do hư-vọng phân-biệt sanh khởi.
Tất cả quốc-độ đều huyễn trụ, do tưởng-đảo, tâm-đảo, kiến-đảo và vô-minh hiện khởi.
Tất cả Thanh-Văn và Bích-Chi-Phật đều là huyễn trụ, do trí-đoạn phân-biệt mà thành.
Tất cả Bồ-Tát đều là huyễn trụ, do những hạnh nguyện hay tự điều phục và giáo-hóa chúng-sanh mà thành.
Tất cả Phật Bồ-Tát chúng-hội biến-hoá điều-phục, những công-hạnh đều là huyễn-trụ, do nguyện-trí-huyễn mà thành.
Nầy Thiện-nam-tử! Huyễn-cảnh tự-tánh bất-tư-nghì.
Chúng ta chỉ biết môn giải-thoát huyễn-trụ nầy.
Như chư đại Bồ-Tát khéo nhập vô-biên sự huyễn. Chúng ta thế nào biết được nói được công-đức-hạnh đó.
Then the boy and girl, having showered Sudhana with an inconceivable
stream of virtue and told him of their own range of liberation, said to him,
“Go south, to a place called Samudrakaccha. There is a park called Great
Array there, wherein there is a great tower called Chamber of Adornments
of Vairocana, which has been produced by the maturation of roots of good-
ness of enlightening beings, originating f rom the thoughts of enlightening
beings, arisen from the vows of enlightening beings, based on the masteries
of enlightening beings, created by the power of mystic knowledge of
enlightening beings, made of the skill in means of enlightening beings,
completed by the power of virtue and knowledge of enlightening beings,
showing enlightening beings’ great compassionate guidance of sentient
beings, built of arrays of spiritual powers of enlightening beings, adorned by
the states of inconceivable liberation of enlightening beings. There an
enlightening being, a great being named Maitreya, lives for the purpose of
benefiting the people of his native land, developing his parents and relatives
to maturity, making those there who carry out the same practices firm in the
Great Vehicle, to develop the roots of goodness of other beings according to
their states, to show how to enter this liberation, to cultivate the power of an
enlightening being to be born anywhere and travel about, appearing in all
states of being, to perfect those beings, to develop the power of universal
compassion of enlightening beings in the desire to benefit all beings, to
become aware of the state of enlightening beings, which is detached from all
Page 1446 – The Flower Ornament Scripture
abodes and locations, and to appear to live in all states of existence while
being ultimately unattached.
“Go to Maitreya and ask how an enlightening being is to seek the prac-
tices of enlightening beings, clarify the path of enlightening beings, carry
out the studies of enlightening beings, purify the aspiration for enlighten-
ment, accomplish the vows of enlightening beings, establish the provisions
of enlightening beings, enter the stages of enlightening beings, fulfill the
transcendent ways of enlightening beings, persist in the tolerances of
enlightening beings, stabilize the qualities of achievement of enlightening
beings, and attend spiritual benefactors.
Ðồng-Tử và Ðồng-Nữ nói môn giải-thoát của mình đã chứng xong, dùng sức thiện-căn bất-tư-nghì làm cho thân Thiện-Tài được nhu nhuyến bóng sáng, mà nói rằng:
Nầy Thiện-nam-tử! Phương nam đây có nước Hải-Ngạn. Trong nước ấy có khu vườn Ðại-Trang-Nghiêm. Trong vườn có một tòa lâu các rộng lớn tên là Tỳ-Lô-Giá-Na-Trang-Nghiêm Tạng.
Lâu các nầy có ra là do bồ-tát thiện-căn quả báo, do bồ-tát niệm-lực, nguyện-lực, tự-tại-lực, thần thông-lực, do bồ-tát thiện-xảo phương-tiện, do bồ-tát phước-đức trí tuệ.
Nầy Thiện-nam-tử! Bồ-Tát trụ bất-tư-nghì giải-thoát dùng tâm đại-bi vì các chúng-sanh mà hiện cảnh-giới như vậy, chứa họp những trang-nghiêm như vậy.
Di-Lặc đại Bồ-Tát ở trong lâu các ấy để nhiếp thọ phụ mẫu quyến-thuộc và nhơn-dân làm cho họ được thành-thục. Lại muốn cho những chúng-sanh đồng thọ-sanh, đồng tu-hành ở trong đại-thừa được kiên-cố. Lại muốn cho tất cả chúng-sanh ấy, tùy bậc tùy thiện-căn, đều được thành-tựu.
Lại cũng muốn vì ngươi mà hiển-thị môn bồ-tát giải-thoát, hiển thị Bồ-Tát khắp tất cả chỗ thọ-sanh tự-tại, hiển-thị Bồ-Tát dùng nhiều thân hiện khắp nơi thường giáo hóa chúng-sanh, hiển-thị Bồ-Tát dùng sức đại-bi nhiếp tất cả tài sản thế-gian mà chẳng nhàm, hiển-thị tu đủ tất cả công-hạnh biết rõ tất cả hạnh lìa các tướng, hiển-thị Bồ-Tát thọ sanh khắp nơi vì biết rõ tất cả sanh đều vô-tướng.
Ngươi đến đó hỏi: Bồ-Tát thế nào thật hành bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo, thế nào học bồ-tát-giới, thế nào tịnh bồ-tát-tâm, thế nào phát bồ-tát-nguyện, thế nào chứa nhóm bồ-tát trợ-đạo, thế nào nhập bậc bồ-tát, thế nào thành-mãn bồ-tát ba-la-mật, thế nào được bồ-tát vô-sanh-nhẫn, thế nào đủ bồ-tát công-đức, thế nào thờ bồ-tát thiện-tri-thức?
Nầy Thiện-nam-tử! Di-Lặc Bồ-Tát thông đạt tất cả bồ-tát-hạnh, biết rõ tâm chúng-sanh, thường hiện thân trước họ để giáo hóa điều phục.
Di-Lặc Bồ-Tát đã viên-mãn tất cả ba-la-mật, đã ở tất cả bậc bồ-tát, đã chứng tất cả bồ-tát-nhẫn, đã nhập tất cả bồ-tát-vị, đã được Phật thọ ký, đã du tất cả cảnh bồ-tát, đã được thần-lực của tất cả Phật, đã được đức Như-Lai đem pháp-thủy cam-lộ nhất-thiết-trí quán đảnh.
Nầy Thiện-nam-tử! Di-Lặc Bồ-Tát có thể nhuận trạch thiện-căn của ngươi, có thể tăng trưởng tâm bồ-đề của ngươi, có thể kiên-cố chí của ngươi, có thể thêm pháp lành cho ngươi, có thể lớn căn bồ-tát cho ngươi, có thể chỉ bày pháp vô-ngại cho ngươi, có thể làm cho ngươi vào bậc phổ-hiền, có thể nói nguyện bồ-tát cho ngươi, có thể nói hạnh phổ-hiền cho ngươi, có thể vì ngươi mà nói tất cả bồ-tát-hạnh-nguyện làm thành công-đức.
Nầy Thiện-nam-tử! Ngươi chẳng nên tu một điều lành, chiếu một pháp, hành một hạnh, phát một nguyện, được một thọ-ký, trụ một nhẫn mà cho là rốt ráo.
Ngươi chớ nên đem tâm có hạn lượng mà thật hành lục-độ, trụ nơi thập-địa, tịnh phật-độ, thờ thiện-tri-thức.
“Why? Because the enlightening being Maitreya has entered into all
practices of enlightening beings; he has reached the goal of aspirations of all
enlightening beings; he has comprehended the actions of all beings; he has
confronted the developmental guidance of all beings; he has fulfilled all the
transcendent ways; he has been through all the stages of enlightening
beings; he has attained all the tolerances of enlightening beings; he has
attained the certainty of enlightening beings; he has received all the predic-
tions of buddhahood; he has roamed in all the liberations of enlightening
beings; he has held the empowerments of all buddhas; he has been anointed
by all buddhas with the consecration of the realm of omniscience. As a spiri-
tual benefactor, he will nourish your roots of goodness, increase your
determination for enlightenment, make your will firm, purify all your roots
of goodness, increase the powers of your enlightening faculties, show you
the realm of nonobstruction, bring you into conformity with the stage of
universal goodness, introduce you to the means of carrying out all the vows
of enlightening beings, describe to you the perfection of the virtues of the
practical undertakings of all enlightening beings, and tell you about the
practice of universal good.
“You should not develop just one virtue, nor concentrate on clarifying
just one doctrine, nor be satisfied with just one practice, nor concentrate on
carrying out just one vow, nor take up just one instruction, nor rest in com-
pletion, nor think of attaining the three tolerances as ultimate, nor rest upon
fulfillment of the six transcendent ways, nor stop on attainment of the ten
stages, nor vow to encompass and purify a finite buddha-land, nor be con-
tent with attendance on a limited number of spiritual benefactors.
“Why? Because an enlightening being should gather infinite roots of
goodness, assemble infinite provisions for enlightenment, produce infinite
bases of aspiration for enlightenment, learn infinite principles, extinguish
the afflictions of infinite beings, penetrate the minds of infinite beings,
know the faculties of infinite beings, work for the emancipation of infinite
beings, be aware of the conduct of infinite beings, create guidance for infi-
nite beings, destroy infinite afflictions and their eonsequences, clear a way
infinite obstacles caused by actions, put a stop to infinite views, remove infi-
nite mental afflictions, produce infinite mental purities, destroy infinite
miseries, evaporate infinite oceans of beings’ cravings, dispel infinite igno-
rance, bring down infinite mountains of pride, remove infinite bonds of the
Page 1447 – Entry into the Realm of Reality
mundane whirl, evaporate the infinite ocean of birth, cross over infinite tor-
rents of existence, extricate infinite beings stuck in the mud of desire,
emancipate infinite beings from the dungeon of the triple world, place infi-
nite beings on the path of sages, extinguish infinite lust, hatred, and
delusion, rise above infinite nets of demons, purify infinite will of enlight-
ening beings, increase infinite effort of enlightening beings, produce
infinite faculties of enlightening beings, purify infinite resolutions of
enlightening beings, enter infinite equanimity of enlightening beings, pur-
sue infinite practices of enlightening beings in their entirety, purify infinite
qualities of enlightening beings, fulfill infinite practices of enlightening
beings, accord with infinite worldly practices, show infinite adaptations to
the world, produce infinite power of faith, stabilize infinite power of vigor,
clarify infinite power of mindfulness, purify infinite power of eoncentra-
tion, arouse infinite power of wisdom, stabilize infinite power of resolution,
produce infinite power of virtue, expand infinite power of knowledge,
establish infinite power of enlightening beings, fulfill infinite power of
buddhas, ascertain infinite ways to truth, enter infinite realms of truth, clar-
ify infinite doors to truth, produce infinite lights of truth, create infinite
perspectives on truth, illumine infinite groups of faculties, clear a way infi-
nite afflictions, collect infinite spiritual medicines, cure sentient beings of
infinite sicknesses caused by afflictions, collect infinite stores of immortal-
ity elixir, enter infinite buddha-lands, honor infinite buddhas, enter infinite
assemblies of enlightening beings, remember infinite instructions of bud-
dhas, endure infinite maliciousness from sentient beings, cut off infinite
paths of misfortune, give infinite happiness to sentient beings, create infi-
nite benefit for sentient beings, purify infinite methods of mental
command, carry out infinite vows, cultivate infinite powers of universal
love and compassion, persist in infinite endeavors in search of truth, pursue
infinite powers of meditation, develop infinite mystic knowledge, purify
infinite lights of knowledge, go the ways of infinite beings, encompass infi-
nite becoming, appear in infinite different forms, know infinite different
languages, comprehend infinite differences in the minds ofbeings, enter the
vast realm of action of enlightening beings, live in the vast palace ofenlight-
ening beings, observe the profound state of enlightening beings, awaken to
the mysterious realm of enlightening beings, reach the difficult goal of
enlightening beings, sustain the hard-to-attain energy of enlightening
beings, enter the difficult-of-access certainty of enlightening beings, be
aware of the varied practice of enlightening beings, show the ubiquitous
miracle of enlightening beings, receive the united multitudes of teachings,
spread the infinitely varied network of practices of enlightening beings, ful-
fill the endless ways of transcendence, receive infinite directions for the
future, enter countless doors of tolerance, purify countless stages of enlight-
enment, purify innumerable ways of access to truth, purify untold
buddha-lands, put on spiritual armor for endless eons, serve infinite bud-
dhas, accomplish the undertakings of inconceivable vows.
“In short, the practice of enlightening beings is to perfect all sentient
Page 1448 – The Flower Ornament Scripture
beings, to live in all ages, to manifest birth everywhere in all conditions, to
awaken to knowledge of all times past, present, and future, to practice all
truths, to purify all lands, to fulfill all vows, to provide for all buddhas, to be
one with all enlightening beings in aim, to attain rapport with all spiritual
friends.
“Therefore you should not tire of seeking spiritual friends and benefac-
tors, should not weary of meeting spiritual friends and benefactors, should
not become complacent about questioning spiritual friends and benefac-
tors, should not give up the determination to eontact spiritual friends and
benefactors, should not cease striving to respectfully attend spiritual
friends and benefactors, should not miseonstrue or resist the advice or
instruction of spiritual friends and benefactors, should not be irresolute in
acquiring the qualities of spiritual friends and benefactors, should not
doubt the ways of emancipation shown by spiritual friends and benefac-
tors, should not malign the acts of spiritual triends and benefactors
adapting to the world to expedite their work, should not give up increasing
pure faith in spiritual friends and benefactors.
“What is the reason for this? It is from spiritual benefactors that enlight-
ening beings learn the practice of enlightening beings; it is through spiritual
benefactors that all enlightening beings’ virtues are perfected; spiritual ben-
efactors are the source of the streams of all enlightening beings’ vows; the
roots of goodness of all enlightening beings are produced by spiritual bene-
factors; the provisions for enlightenment are produced by spiritual
benefactors; all enlightening beings’ perceptions of truth derive from spiri-
tual benefactors; the purification of all ways to enlightenment derives from
spiritual benefactors; the accomplishment of all studies of enlightening
beings depends on spiritual benefactors; the virtuous qualities of all enlight-
ening beings are based on spiritual benefactors; the purification of all
enlightening beings’ wills is rooted in spiritual benefactors; the steadfastness
ol determination of all enlightening beings is born of spiritual benefactors;
the light of the oceanic mental command and intelligence of all enlighten-
ing beings derives from the guidance of spiritual benefactors; the treasuries
of ways of purification of enlightening beings are sustained by spiritual ben-
efactors; the lights of knowledge of all enlightening beings are generated by
spiritual benefactors; the excellence of vows of all enlightening beings is in
the hands of spiritual benefactors; single-mindedness is led by spiritual bene-
factors; the faith characteristic of the attainment of all enlightening beings
has its source in spiritual benefactors; the seerets of all enlightening beings
are in the treasury of spiritual benefactors; spiritual benefactors are mines of
principles of enlightening beings; the sprouts of power of the faculties of all
enlightening beings are fostered by spiritual benefactors; the oceans of
knowledge of all enlightening beings are expounded by spiritual benefac-
tors; the treasuries of all enlightening beings are guarded by spiritual
benefactors; the accumulations of virtues of all enlightening beings are pro-
tected by spiritual benefactors; the purities of life of all enlightening beings
are generated by spiritual benefactors; the multitude of teachings for all
Page 1449 – Entry into the Realm of Reality
enlightening beings come from spiritual benefactors; the entries into the
paths of emancipation of all enlightening beings are in the keeping of spiri-
tual benefactors; the enlightenment of all buddhas is attained by association
with spiritual benefactors; the practice of all enlightening beings is gov-
erned by spiritual benefactors; the developments of virtues of all
enlightening beings are illumined by spiritual benefactors; the directions
followed by all enlightening beings are shown by spiritual benefactors; the
greatness of will of all enlightening beings is described by spiritual benefac-
tors; the power of universal love of enlightening beings derives from
spiritual benefactors; the power of universal compassion of enlightening
beings is generated by spiritual friends; the masteries of all enlightening
beings are governed by spiritual benefactors; all elements of enlightenment
are produced by spiritual benefactors; the charitable works of all enlighten-
ing beings originate from spiritual friends.
“Sustained by spiritual benefactors, enlightening beings do not fall into
bad ways; supported by spiritual benefactors, enlightening beings do not fall
a way from the Great Vehicle; minded by spiritual benefactors, enlightening
beings do not overstep the precepts of enlightening beings; guarded by spiri-
tual benefactors, enlightening beings do not come under the sway of bad
influences; projected by spiritual benefactors, enlightening beings do not
deviate from the laws of enlightening beings; aided by spiritual benefactors,
enlightening beings go beyond the stage of sentient beings; taught by spiri-
tual benefactors, enlightening beings do not drop into the fall of those who
seek individual liberation alone; hidden by spiritual benefactors, enlighten-
ing beings rise above the world; developed by spiritual benefactors,
enlightening beings are unstained by mundane things; attended by spiritual
benefactors, enlightening beings become heedful and alert in all their prac-
tices; roused by spiritual benefactors, enlightening beings do not give up
their undertakings; assisted by spiritual benefactors, enlightening being
become invulnerable to active afflictions; based on the power of spiritual
benefactors, enlightening beings cannot be crushed by any demons; in asso-
ciation with spiritual benefactors, enlightening beings develop all the
elements of enlightenment.
“What is the reason for this? Spiritual benefactors are those who clear
a way obstructions, restrain us from evil, teach us what is not to be done,
extricate us from folly, dispel ignorance, break the bonds of views, emanci-
pate us from the mundane whirl, cut off attachments to the world, free us
from the nets of demons, extract the barbs of suffering, liberate us from the
thicket of nescience, eonvey us across the desert of views, ferry us over the
torrents of existence, pull us out of the mud of desire, extricate us from false
paths, show the path of enlightening beings, enjoin on us the undertaking of
enlightening beings, establish us in spiritual practices, lead the way to
omniscience, clarify the eye of wisdom, strengthen the determination for
enlightenment, foster universal compassion, tell about enlightening prac-
tices, give instruction in the ways of transcendence, direct us into the stages
of enlightenment, impart tolerance, engender all roots of goodness, produce
Page 1450 – The Flower Ornament Scripture
all preparations for enlightenment, bestow all virtues of enlightening
beings, deliver us to the presence of all buddhas, show all virtuous qualities,
inspire us to our goals, enhance efforts and attainments, show the ways to
emancipation, protect us from the paths of destruction, illumine the ways to
perceive truth, shower multitudes of teachings, extinguish all afflictions,
stop the formation of views, and introduce us to all aspects of
enlightenment.
“Moreover, spiritual benefactors are mothers, giving birth to the family of
buddhas; they are fathers, producing great benefit; they are nurses, protect-
ing us from all evils; they are mentors, elucidating the learning of
enlightening beings; they are guides, leading us into the path of transcen-
dence; they are physicians, relieving us of the maladies of afflictions; they
are like the Himalaya Mountains, growing the herb of knowledge; they are
heroic warriors, protecting us from all perils; they are ferrymen, ferrying us
across the torrents of the mundane whirl; they are helmsmen, delivering us
to the treasure island of omniscience.
“Therefore, thinking in this way, you should continue to approach spiri-
tual benefactors, with a mind like the earth, bearing all burdens
unbendingly; with a mind like adamant, having an unbreakable will; with a
mind like a mountain range, impenetrable to all miseries; with a mind like a
servant, doing whatever is bidden; with a mind like a student, following all
instructions; with a mind like a slave, willing to take on all tasks; with a mind
like a nurse, not overcome by afflictions; with a mind like a servant, taking
up any task obediently; with a mind like a street cleaner, getting rid of pride
and conceit; with a mind like the full moon, appearing at the proper times;
with a mind like a good horse, avoiding all unruliness; with a mind like a
vehicle, carrying a precious cargo; with a mind like an elephant, tame and
docile; with a mind like a mountain, unshakable; with a mind like a dog, not
getting angry; with a mind like an outcaste youth, free from arrogance and
egofism; with a mind like a bull with its horns cut off, stripped of all haugh-
tiness; with a mind like an apprentice, free from inflated ideas of your own
worth; with a mind like a ship, coming and going tirelessly; with a mind like
a bridge, crossing over with the directions of spiritual benefactors; with a
mind like a good son, looking up to the countenance of spiritual benefactors;
with a mind like a prince, carrying out the directives of the spiritual king.
“Think of yourself as sick, and think of spiritual benefactors as physicians;
think of their instructions as medicines, and think of the practices as getting
rid of disease. Think of yourself as a traveler, and think of spiritual benefac-
tors as guides; think of their instructions as the road, and think of the
practices as going to the land of your destination. Think of yourself as cross-
ing over to the other shore, and think of spiritual benefactors as boatmen;
think of their instructions as a ford, and think of the practices as a boat.
Think of yourself as a farmer, and think of spiritual benefactors as water spir-
its; think of their instructions as rain, and think of the practices as the
ripening of the crops. Think of yourself as a pauper, and think of spiritual
benefactors as the givers of wealth; think of their instructions as wealth, and
Page 1451 – Entry into the Realm of Reality
think of the practices as getting rid of poverty. Think of yourself as an
apprentice, and think of spiritual benefactors as mentors; think of their
instructions as arts, and think of the practices as accomplishments. Think of
yourself as fearless, and think of spiritual benefactors as heroic warriors;
think of their instructions as attack, and think of the practices as vanquish-
ing enemies. Think of yourself as a merchant, and think of spiritual
benefactors as ship captains; think of their instructions as treasure, and think
of the practices as obtaining treasures. Think of yourself as a good son, and
think of spiritual benefactors as parents; think of their instructions as the
family business, and think of the practices as the perpetuation of the family
business. Think of yourself as a prince, and think of spiritual benefactors as
the chief ministers of a spiritual king; think of their instructions as the pre-
cepts of kingship, and think of the practices as putting on the turban of truth
adorned with the crest of knowledge and overseeing the capital of the spiri-
tual sovereign.
“You should approach spiritual benefactors with these thoughts in mind.
Why? With their attitude toward spiritual benefactors purified in this way,
practicing the instructions of spiritual benefactors, enlightening beings
grow in goodness, like plants, bushes, and trees growing up the mountains;
they become vessels of all buddha-teachings, as the oceans are of water; they
become repositories of all virtues, as the seas are of pearls; they purify the
determination for enlightenment, as fire does gold; they rise above the
world, like the polar mountain over the sea; they become unstained by
things of the world, like a lotus in water; they reject all bad actions, as the
ocean throws up a corpse; they increase in good qualities, as the moon grows
brighter as it waxes; they illumine the reality realm, as the sun does the
earth; they grow the bodies of vows of enlightening beings, just as children
grow in the care of their parents.
Tại sao vậy?
Nầy Thiện-nam-tử! Vì Bồ-Tát phải gieo vô-lượng thiện-căn, phải chứa vô-lượng bồ-đề-cụ, phải tu vô-lượng bồ-đề nhơn, phải học vô-lượng xảo hồi-hướng, phải giáo hóa vô-lượng chúng-sanh-giới, phải biết vô-lượng chúng-sanh-tâm, phải biết vô-lượng chúng-sanh-căn, phải rõ vô-lượng chúng-sanh-giải, phải quán vô-lượng chúng-sanh-hạnh, phải điều-phục vô-lượng chúng-sanh, phải đoạn vô-lượng phiền-não, phải tịnh vô-lượng nghiệp tập, phải diệt vô-lượng tà kiến, phải trừ vô-lượng tâm tạp nhiễm, phải phát vô-lượng tâm thanh-tịnh, phải nhổ vô-lượng tên độc khổ, phải cạn vô-lượng biển ái dục, phải phá vô-lượng tối vô-minh, phải xô vô-lượng núi ngã mạn, phải bức đứt vô-lượng dây sanh tử, phải qua khỏi vô-lượng giòng hữu-lậu, phải khô vô-lượng biển thọ sanh, phải làm cho vô-lượng chúng-sanh ra khỏi bùn lầy ngũ-dục, phải khiến vô-lượng chúng-sanh lìa ngục tù tam-giới, phải đặt vô-lượng chúng-sanh ở trong thánh-đạo, phải tiêu diệt vô-lượng hạnh tham dục, phải trừ sạch vô-lượng hạnh sân hận, phải phá trừ vô-lượng hạnh ngu-si, phải siêu vô-lượng lưới ma, phải lìa vô-lượng nghiệp ma, phải rửa sạch bồ-tát vô-lượng dục lạc, phải tăng trưởng bồ-tát vô-lượng phương-tiện, phải xuất sanh bồ-tát vô-lượng căn tăng-thượng, phải sáng sạch bồ-tát vô-lượng quyết-định-giải, phải xu nhập bồ-tát vô-lượng bình-đẳng, phải thanh-tịnh bồ-tát vô-lượng công-đức, phải tu tập bồ-tát vô-lượng công-hạnh, phải thị-hiện bồ-tát vô-lượng hạnh tùy thuận thế-gian, phải sanh vô-lượng sức tịnh tín, phải trụ vô-lượng sức tinh-tấn, phải thanh-tịnh vô-lượng sức chánh-niệm, phải thành-mãn vô-lượng sức tam-muội, phải khởi vô-lượng sức tịnh-huệ, phải kiên-cố vô-lượng sức thắng-giải, phải tích tập vô-lượng sức phước-đức, phải lớn vô-lượng sức trí-huệ, phải phát khởi vô-lượng sức bồ-tát, phải viên-mãn vô-lượng sức Như-Lai, phải phân-biệt vô-lượng pháp-môn, phải rõ biết vô-lượng pháp-môn, phải thanh-tịnh vô-lượng pháp-môn, phải sanh vô-lượng pháp quang-minh, phải làm vô-lượng pháp chiếu-diệu, phải chiếu vô-lượng phẩm loại-căn, phải biết vô-lượng phiền-não bịnh, phải chứa vô-lượng diệu-pháp-dược, phải chữa vô-lượng bịnh của chúng-sanh, phải sắm sửa vô-lượng đồ cúng cam-lộ, phải đến vô-lượng phật-độ, phải cúng-dường vô-lượng Như-Lai, phải vào vô-lượng bồ-tát-hội, phải thọ vô-lượng phật-giáo, phải nhẫn vô-lượng tội chúng-sanh, phải diệt vô-lượng nạn ác-đạo, phải khiến vô-lượng chúng-sanh sanh về thiện-đạo, phải dùng pháp tứ-nhiếp để nhiếp vô-lượng chúng-sanh, phải tu vô-lượng môn tổng-trì, phải sanh vô-lượng môn đại-nguyện, phải tu vô-lượng sức đại-từ đại-nguyện, phải siêng cầu vô-lượng phật-pháp thường không thôi dứt, phải khởi vô-lượng sức tư-duy, phải khỏi vô-lượng sự thần-thông, phải tịnh vô-lượng trí quang-minh, phải qua đến vô-lượng loài chúng-sanh, phải thọ vô-lượng đời trong các cõi, phải hiện vô-lượng thân sai-biệt, phải biết vô-lượng pháp ngôn-từ, phải nhập vô-lượng tâm sai-biệt, phải biết bồ-tát đại cảnh-giới, phải trụ bồ-tát đại cung-điện, phải quán bồ-tát thậm-thâm diệu-pháp, phải biết cảnh-giới khó biết của Bồ-Tát, phải thật-hành những hạnh khó làm của Bồ-Tát, phải đầy đủ oai-đức tôn trọng của Bồ-Tát, phải đi theo chánh-vị khó nhập của bồ-Tát, phải biết những hạnh của Bồ-Tát, phải hiện thần-lực phổ-biến của Bồ-Tát, phải thọ pháp-vân bình-đẳng của Bồ-Tát, phải làm rộng vô-biên hạnh của Bồ-Tát, phải viên-mãn vô-biên ba-la-mật của Bồ-Tát, phải thọ vô-lượng ký-biệt của Bồ-Tát, phải nhập vô-lượng nhẫn-môn của Bồ-Tát, phải tu vô-lượng địa-vị của Bồ-Tát, phải thanh-tịnh vô-lượng pháp-môn của Bồ-Tát, phải đồng với chư Bồ-Tát, trụ vô-biên kiếp cúng-dường vô-lượng Phật, nghiêm-tịnh bất-khả-thuyết phật-độ, xuất sanh bất-khả-thuyết bồ-tát nguyện.
Nầy Thiện-nam-tử! Tóm lại, phải khắp tu bồ-tát-hạnh, phải khắp giáo-hóa chúng-sanh-giới, phải khắp vào tất cả kiếp, phải khắp sanh tất cả xứ, phải khắp biết tất cả thế, phải khắp thật hành tất cả pháp, phải khắp tịnh tất cả cõi, phải khắp mãn tất cả nguyện, phải khắp cúng tất cả Phật, phải khắp đồng tất cả bồ-tát nguyện, phải khắp thờ tất cả thiện-tri-thức.
Nầy Thiện-nam-tử! Ngươi cầu thiện-tri-thức chẳng nên nhàm mỏi. Ngươi thỉnh hỏi thiện-trí-thức chớ sợ khổ nhọc. Ngươi gần gũi thiện-tri-thức chớ có thối chuyển. Ngươi cúng-dường thiện-tri-thức chớ có thôi nghỉ. Ngươi lãnh thọ lời dạy của thiện-tri-thức chớ có lầm lộn. Ngươi học hạnh của thiện-tri-thức chớ có nghi hoặc. Ngươi nghe thiện-tri-thức diễn nói môn ly chẳng nên dụ dự. Thấy thiện-tri-thức tùy phiền-não hành chớ có hiềm lạ. Ở chỗ thiện-chi-trức phải sanh lòng thâm tín tôn kính chẳng nên biến đổi.
Tại sao vậy?
Nầy Thiện-nam-tử! Vì Bồ-Tát do nơi thiện-tri-thức mà được nghe tất cả bồ-tát-hạnh, thành-tựu tất cả bồ-tát công-đức, xuất sanh tất cả bồ-tát đại-nguyện, dẫn phát tất cả bồ-tát thiện-căn, tích tập tất cả bồ-tát trợ-đạo, khai phát tất cả bồ-tát pháp-quang-minh, hiển thị tất cả bồ-tát xuất-ly-môn, tu học tất cả bồ-tát thanh-tịnh-giới, an-trụ tất cả bồ-tát công-đức-pháp, thanh-tịnh tất cả bồ-tát quảng-đại-chí, tăng trưởng tất cả bồ-tát kiên-cố-tâm, đầy đủ tất cả bồ-tát đà-la-ni biện-tài môn, được tất cả bồ-tát thanh-tịnh-tạng, sanh tất cả bồ-tát định-quang-minh, được tất cả bồ-tát thù-thắng-nguyện, cùng tất cả Bồ-Tát đồng một nguyện, nghe tất cả bồ-tát thù-thắng-pháp, được tất cả bồ-tát bí-mật-xứ, đến tất cả bồ-tát pháp bửu sở, thêm tất cả bồ-tát mầm thiện-căn, lớn tất cả bồ-tát thân trí-huệ, hộ tất cả bồ-tát tạng thâm-mật, trì tất cả bồ-tát phước-đức-tụ, tịnh tất cả bồ-tát thọ-sanh-đạo, thọ tất cả bồ-tát chánh-pháp-vân, nhập tất cả bồ-tát đại-nguyện-lộ, đến tất cả như-lai bồ-đề-quả, nhiếp thủ tất cả bồ-tát diệu-hạnh, khai thị tất cả bồ-tát công-đức, qua tất cả phương thính thọ diệu-pháp, khen tất cả bồ-tát oai-đức quảng đại, sanh tất cả bồ-tát đại-từ-bi-lực, nhiếp tất cả bồ-tát thắng tự-tại-lực, sanh tất cả bồ-tát bồ-đề phần, làm tất cả bồ-tát lợi-ích-sự.
Nầy Thiện-nam-tử! Bồ-Tát do thiện-tri-thức nhiệm trì nên chẳng đọa ác-đạo, do thiện-tri-thức nhiếp thọ mà chẳng thối đại-thừa, do thiện-tri-thức hộ-niệm mà chẳng phạm bồ-tát-giới, do thiện-tri-thức thủ-hộ mà chẳng theo ác-tri-thức, do thiện-tri-thức dưỡng-dục mà chẳng khuyết bồ-tát-pháp, do thiện-tri-thức nhiếp thủ mà siêu-việt hạng phàm-phu, do thiện-tri-thức giáo hối mà siêu-việt bực nhị thừa, do thiện-tri-thức dìu-dắt mà được ra khỏi thế-gian, do thiện-tri-thức trưởng-dưỡng mà có thể chẳng nhiễm thế-pháp, do kính thờ thiện-tri-thức mà tu tất cả bồ-tát-hạnh, do cúng-dường thiện-tri-thức mà đủ tất cả pháp trợ-đạo, do thân-cận thiện-tri-thức mà chẳng bị nghiệp hoặc nhiếp phục, do nương dựa thiện-tri-thức mà thế-lực kiên-cố chẳng sợ ma-chúng, do y chỉ thiện-tri-thức mà tăng-trưởng tất cả pháp bồ-đề-phần.
Tại sao vậy?
Nầy Thiện-nam-tử! Vì thiện-tri-thức có thể trừ sạch các điều chướng ngại, có thể diệt các tội, có thể dứt các nạn, có thể ngăn các ác, có thể phá đêm dài tối tăm vô-minh, có thể làm sập đổ lao ngục kiên cố kiến-chấp, có thể thoát khỏi thành sanh tử, có thể bỏ nhà thế-tục, có thể cắt lưới ma, có thể nhổ tên khổ, có thể lìa chỗ hiểm nạn vô-trí, có thể ra khỏi đồng hoang rộng lớn tà-kiến, có thể qua khỏi dòng hữu-lậu, có thể lìa những tà-đạo, có thể chỉ đường bồ-đề, có thể dạy pháp bồ-tát, có thể khiến an trụ bồ-tát-hạnh, có thể khiến xu-hướng nhất-thiết-trí, có thể tịnh mắt trí-huệ, có thể lớn tâm bồ-đề, có thể sanh đại-bi, có thể diễn diệu-hạnh, có thể nói ba-la-mật, có thể tẩn ác tri-thức, có thể khiến trụ các bậc, có thể khiến được các nhẫn, có thể khiến tu tập các thiện-căn, có thể khiến thành xong tất cả đạo-cụ, có thể thí cho tất cả công-đức lớn, có thể khiến đến ngôi nhất-thiết-chủng-trí, có thể khiến hoan hỉ nhóm công-đức, có thể khiến hớn hở tu các công hạnh, có thể khiến xu-nhập nghĩa thậm-thâm, có thể khiến khai thị môn xuất ly, có thể khiến trừ tuyệt các ác-đạo, có thể dùng pháp-quang chiếu diệu, có thể dùng pháp-vũ nhuận trạch, có thể khiến tiêu diệt tất cả phiền-não, có thể khiến bỏ lìa tất cả kiến chấp, có thể khiến tăng-trưởng tất cả phật-trí-huệ, có thể khiến an-trụ tất cả phật pháp-môn.
Nầy Thiện-nam-tử! Thiện-tri-thức như từ-mẫu, vì xuất sanh phật-chủng. Như từ-phụ, vì lợi ích rộng lớn. Như nhũ-mẫu vì thủ hộ chẳng cho làm ác. Như giáo-sư, vì dạy sở-học của Bồ-Tát. Như đạo-sư, vì hay chỉ đường ba-la-mật. Như lương-y, vì hay chữa bịnh phiền-não. Như Tuyết-Sơn, vì tăng-trưởng thuốc nhất-thiết-trí. Như dũng-tướng, vì dẹp trừ tất cả sự bố-úy. Như người đưa đò, vì làm cho ra khỏi dòng sanh-tử. Như lái thuyền, vì khiến đến bửu-sở-trí-huệ.
Nầy Thiện-nam-tử! Thường phải chánh-niệm suy nghĩ thiện-tri-thức là như vậy.
Lại nầy Thiện-nam-tử! Ngươi kính thờ tất cả thiện-tri-thức phải phát tâm như đại-địa, vì gánh vác trọng-nhiệm không mỏi nhọc. Phải phát tâm như kim-cang vì chí nguyện kiên-cố chẳng hư hoại, phải phát tâm như núi Thiết-vi vì tất cả các sự khổ không lay động. Phải phát tâm như người hầu hạ, vì đều tùy thuận theo lời dạy. Phải phát tâm như đệ-tử, vì không chống trái lời dạy bảo. Phải phát tâm như tôi tớ, vì tất cả lao vụ không nhàm. Phải phát tâm như dưỡng-mẫu, vì chịu những sự cần khổ không biết nhọc. Phải phát tâm như người làm thuê, vì không trái chỗ sai bảo. Phải phát tâm như người hốt phân, vì lìa kiêu-mạn. Phải phát tâm như cây lúa đã chín, vì có thể hạ thấp. Phải phát tâm như lương-mã, vì lìa ác-tánh. Phải phát tâm như xe lớn, vì có thể chở nặng. Phải phát tâm như voi điều thuận, vì hằng phục tùng. Phải phát tâm như núi Tu-Di, vì chẳng khuynh động. Phải phát tâm như lương-khuyển, vì chẳng phản hại chủ. Phải phát tâm như chiên-đà-la, vì lìa kiêu-mạn. Phải phát tâm như kiện-ngưu, vì không hung giận. Phải phát tâm như ghe thuyền, vì qua lại chẳng mỏi. Phải phát tâm như cầu đò, vì tế độ không biết nhọc. Phải phát tâm như hiếu-tử, vì thừ thuận nhan sắc. Phải phát tâm như vương-tử, vì tuân hành giáo-mạng.
Lại nầy Thiện-nam-tử! Với tự-thân, ngươi phải tưởng là bịnh khổ. Với thiện-tri-thức, ngươi phải tưởng là y-vương. Với pháp của thiện-tri-thức dạy, ngươi phải tưởng là lương-dược. Với chỗ tu hành, tưởng trừ được bịnh.
Lại phải ở nơi tự-thân, tưởng là đi xa. Nơi thiện-tri-thức, tưởng là đạo-sư. Nơi pháp của thiện-tri-thức dạy, tưởng là eon đường chánh. Nọi chỗ tu hành, tưởng là đến được xa.
Lại phải ở nơi tự thân, tưởng cầu được độ. Nơi thiện-tri-thức, tưởng là người lái thuyền. Nơi pháp của thiện-tri-thức dạy, tưởng là thuyền, là chèo. Nơi chỗ tu hành, tưởng là đến bờ kia.
Lại phải ở nơi tự-thân, tưởng là lúa mạ. Nơi thiện-tri-thức tưởng là Long-Vương. Nơi pháp của thiện-tri-thức dạy, tưởng là mưa đúng thời tiết. Nơi chỗ tu hành tưởng là có thể thành thục.
Lại phải ở nơi tự-thân, tưởng là nghèo cùng. Nơi thiện-tri-thức tưởng là Tỳ-Sa-Môn Thiên-Vương. Nơi pháp của thiện-tri-thức dạy, tưởng là của cải châu báu. Nơi chỗ tu hành, tưởng là giàu có.
Lại phải ở nơi tự-thân, tưởng là đệ-tử. Nơi thiện-tri-thức, tưởng là thợ khéo. Nơi pháp của thiện-tri-thức dạy, tưởng là nghề khéo. Nơi chỗ tu hành, tưởng là biết rõ.
Lại phải ở nơi tự-thân, tưởng là chỗ đáng sợ hãi. Nơi thiện-tri-thức, tưởng là người dũng kiện. Nơi pháp của thiện-tri-thức dạy, tưởng là dao gậy. Nơi chỗ tu hành, tưởng là dẹp trừ được kẻ oán địch.
Lại phải ở nơi tự-thân, tưởng là người đi buôn. Nơi thiện-tri-thức, tưởng là đạo-sư. Nơi pháp của thiện-tri-thức dạy, tưởng là trân-bửu. Nơi chỗ tu hành, tưởng là lượm châu báu.
Lại phải ở nơi tự-thân, tưởng là eon cái. Nơi thiện-tri-thức, tưởng là cha mẹ. Nơi pháp của thiện-tri-thức dạy, tưởng là gia nghiệp. Nơi chỗ tu hành, tưởng là nối nghiệp nhà.
Lại phải ở nơi tự-thân, tưởng là vương-tử. Nơi thiện-tri-thức, tưởng là đại-thần. Nơi pháp của thiện-tri-thức dạy, tưởng là lịnh của vua. Nơi chỗ tu hành, tưởng là đội mão vua, mặc áo vua, cột đai vua, ngồi điện vua.
Nầy Thiện-nam-tử! Ngươi phải phát tâm như vậy, suy nghĩ như vậy để gần thiện-tri-thức.
Tại sao vậy? Vì có tâm như vậy để gần thiện-tri-thức thời chí nguyện trọn được thanh-tịnh.
Lại nầy Thiện-nam-tử! Thiện-tri-thức làm lớn các thiện-căn, như núi Tuyết sanh lớn các dược-thảo.
Thiện-tri-thức là pháp-khí của Phật, như đại-hải nhận thọ các dòng nước.
Thiện-tri-thức là chỗ công-đức, như đại-hải xuất sanh các châu báu.
Thiện-tri-thức thanh-tịnh tâm bồ-đề, như lửa hừng luyện chơn-kim.
Thiện-tri-thức vượt hơn thế-pháp như núi Tu-Di vọt lên mặt đại-hải.
Thiện-tri-thức chẳng nhiễm thế-pháp, như hoa sen chẳng dính nước.
Thiện-tri-thức chẳng thọ các điều ác, như đại-hải chẳng chứa tử-thi.
Thiện-tri-thức tăng trưởng pháp lành, như trăng tròn quang sắc viên-mãn.
Thiện-tri-thức soi sáng pháp-giới, như mặt nhựt chiếu khắp thế-gian.
Thiện-tri-thức làm lớn thân Bồ-Tát, như cha mẹ nuôi nấng eon cái.
“In short, enlightening beings who have put the instruction of spiritual
benefactors into effect embody untold virtues, purify untold resolutions,
develop untold enlightening faculties, purify untold mystic powers, perfect
untold worthy practices, get beyond untold demons, abide by untold ways to
truth, fulfill untold ways of purifying virtue and knowledge, fulfill untold
deeds, purify untold modes of conduct, carry out untold vows.
“In sum, all practices of enlightening beings, all transcendent ways of
enlightening beings, all stages of enlightening beings, all concentrations of
enlightening beings, all mystic knowledges and spiritual powers of enlight-
ening beings, all manifestations of mental command and intellectual power
of enlightening beings, all knowledge of dedication and infinity of
superknowledge of enlightening beings, all accomplishments of vows of
enlightening beings, and all perfections of attainments of all aspects of
buddhahood, derive from spiritual benefactors, are rooted in spiritual bene-
factors, are born of spiritual benefactors, are fostered by spiritual
benefactors, are based on spiritual benefactors, are caused by spiritual bene-
factors, are produced by spiritual benefactors.”
Now Sudhana, hearing about the virtues and qualities of spiritual bene-
Page 1452 – The Flower Ornament Scripture
factors, about the infinity of practice of enlightening beings, and the vast-
ness of the buddha-teaching, was thoroughly delighted and uplifted in
mind. He then paid his respects again to the boy Shrisambhava and the girl
Shrimati and took his leave.
Nầy Thiện-nam-tử! Tóm lại, Bồ-Tát nếu có thể tùy thuận lời dạy của thiện-tri-thức, thời được mười bất-khả-thuyết trăm ngàn ức na-do-tha công-đức, thời thanh-tịnh mười bất-khả-thuyết trăm ngàn ức na-do-tha thâm-tâm, thời lớn mười bất-khả-thuyết trăm ngàn ức na-no-tha bồ-tát-căn, thời thành mười bất-khả-thuyết trăm ngàn ức na-do-tha bồ-tát lực, thời dứt mười bất-khả-thuyết trăm ngàn ức a-tăng-kỳ-chướng, thời siêu mười bất-khả-thuyết trăm ngàn ức a-tăng-kỳ ma-cảnh, thời nhập mười bất-khả-thuyết trăm ngàn ức a-tăng-kỳ pháp-môn, thời mãn mười bất-khả-thuyết trăm ngàn ức a-tăng-kỳ trợ-đạo, thời tu mười bất-khả-thuyết trăm ngàn ức a-tăng-kỳ diệu-hạnh, thời phát mười bất-khả-thuyết trăm ngàn ức a-tăng-kỳ đại-nguyện.
Nầy Thiện-nam-tử! Ta lại lược nói bồ-tát-hạnh, tất cả bồ-tát ba-la-mật, tất cả bồ-tát địa, tất cả bồ-tát-nhẫn, tất cả bồ-tát tổng-trì-môn, tất cả bồ-tát tam-muội-môn, tất cả bồ-tát thần-thông-trí, tất cả bồ-tát hồi-hướng, tất cả bồ-tát nguyện, tất cả bồ-tát thành-tựu phật-pháp, đều do sức của thiện-tri-thức. Ðều dùng thiện-tri-thức làm căn-bổn. Ðều nương thiện-tri-thức mà sanh. Ðều nương thiện-tri-thức mà ra. Ðều nương thiện-tri-thức mà lớn. Ðều nương thiện-tri-thức mà trụ. Ðều do thiện-tri-thức làm nhân-duyên. Ðều do thiện-tri-thức hay phát khởi.
Bấy giờ Thiện-Tài Ðồng-Tử nghe thiện-tri-thức có công-đức như vậy, có thể khai-thị vô-lượng diệu-hạnh bồ-tát, có thể thành-tựu phật-pháp quảng đại, nên vui mừng hớn hở đảnh lễ Ðức-Sanh và Hữu-Ðức, hữu-nhiễu vô-số vòng, ân cần chiêm-ngưỡng từ tạ đi qua phương nam.
Maitreya
Then Sudhana, his mind enriched by the instructions of spiritual benefac-
tors, went to the region of Samudrakaccha, contemplating that instruction
in the conduct of enlightening beings, strengthening his body by thinking
of past activities ineonsistent with proper conduct, controlling his thoughts
by thinking of past mundane mental behavior not eonducive to purification
of body and mind, contemplating the greater common weal in the present
by thinking of the vanity of past involvement in harmful mundane activi-
ties, establishing the power of forming correct ideas of the practice of
enlightening beings by thinking of former untrue notions based on mere
fancy, strengthening the will based on the excellence of striving for the wel-
fare of all beings by thinking of the ills of past striving for his own personal
benefit, increasing the energy of his faculties with great inspiration to strive
to attain all elements of buddhahood by thinking of past indulgence in
pleasure seeking; purifying his being with the vow of enlightening beings
connected with correct perception in the present free from delusion by
thinking of past endeavors made up of error inextricably bound up with
delusion; unifying body and mind with great vigor in action by thinking of
past accomplishment of tasks through exertion of great vigor and striving
for the attainment of complete buddhahood in the present; developing great
joy and happiness by thinking how it would be to go on forever as in the
past — helpless amid the ills of unenlightened life — and instead dedicating
himself to the aid and benefit of all beings by establishing all the teachings of
enlightenment, developing energy in his faculties rooted in inconceivable
good by seeing this present life as a cause of old age, sickness, death, and
grief, an abode of assemblage and disintegration, and yet the basis and condi-
tion of carrying out the practice of enlightening beings forever, absorbing
the buddha-teachings that mature sentient beings, seeing the buddhas and
going to all their lands, attending all teachers of truth, keeping the instruc-
tions of all buddhas, seeking all truths, meeting all spiritual friends,
realizing all elements of buddhahood, and embodying the vows of enlight-
ening beings.
In this frame of mind, with these thoughts, engaged in such reasoning,
with faith in the grace of all enlightening beings, with admiration for the
determination of all enlightening beings, with respect for the determination
of all enlightening beings, with reverence for the purity of the senses of all
enlightening beings, with the powers of purity of sense derived from
attentiveness to the teachings of all enlightening beings, with clarity of
mind deriving from respecting all enlightening beings, with provisions of
roots of goodness deriving from faith in all enlightening beings, with varie-
Page 1453 – Entry into the Realm of Reality
ties of offerings deriving from the accomplishments of all enlightening
beings, with expressions of respect made equally to all enlightening beings,
with observations of the variety of eyes developed in the bodies of all beings,
with productions of arrays of descriptions of the conceptual worlds of all
beings made with the clarity of expression of all enlightening beings, with
perception of the state of presence in the abodes of all buddhas by fulfillment
of the mystic power of all enlightening beings of past and present, with
awareness of the miracles of buddhas and enlightening beings everywhere,
following the all-pervasiveness of the bodies of all buddhas and enlighten-
ing beings in every single point, with perception of the light of
superknowledge of the purity of vision of all enlightening beings, with a
mind sense comprehending the network of all places as a whole, pervading
all levels of the cosmos, with the power of accomplishment of vows, extend-
ing everywhere throughout the entirety of space, continuous through past,
present, and future, ceaselessly penetrating all truths, entering all areas illu-
mined by the instructions of all spiritual benefactors, by the penetrating
power of faith and resolve, Sudhana, his mind pursuing such thoughts of
respect, reverence, honor, submission, regard, empowerment, and determi-
nation, with the eye of knowledge intent upon the ground of the realm of
such infinite knowledge, prostrated himself in front of the door of the great
tower, chamber of the adornments of Vairocana, the illuminator.
Contemplating such application of accomplishment for a while, by the
power of effectuation of resolute vows, deriving from intense faith,
Sudhana projected himself continuously into the presence of all buddhas,
and likewise, into the presence of all enlightening beings, to the abodes of
all spiritual benefactors, to all monuments of buddhas, to all statues of bud-
dhas, to the abodes of all enlightening beings and buddhas, to the locations
of all treasures of true teaching, to the presence of all monuments to saints
and individual illuminates, to the vicinities of all groups of sages, worthies,
and parents: he continuously projected himself into the presence of all
beings, by entering into the totality of the body of knowledge, extending
everywhere, by focusing attention through knowledge of control of for-
mation of mental images.
And just as he prostrated himself before the great tower of the chamber of
the adornments of Vairocana, in the same way he prostrated himself before
all the aforementioned beings and objects throughout the cosmos.
51- Thiện-Tài được nghe lời thiện-tri-thức dạy nhuận trạch tâm mình, chánh-niệm tư-duy công-hạnh của Bồ-Tát. Tự nhớ đời trước chẳng tu hạnh lễ kính, tức thời phát tâm cố gắng tiến bước. Lại nhớ đời trước thân tâm chẳng thanh-tịnh, tức thời phát tâm chuyên tự sửa sạch. Lại nhớ đời trước làm những ác-nghiệp, tức thời phát ý chuyên tự phòng ngừa và dứt diệt. Lại nhớ đời trước khởi những vọng-tưởng, tức thời phát ý hằng suy gẫm chơn chánh. Lại nhớ đời trước tu tập chỉ vì tự-thân, tức thời phát ý khiến tâm quảng-đại lợi khắp chúng-sanh. Lại nhớ đời trước theo cầu cảnh dục thường tự tổn hao không chút lợi ích, tức thời phát ý tu hành phật-pháp nuôi lớn các căn để tự an-ổn. Lại nhớ đời trước khởi tà tư-niệm điên-đảo, tức thời phát ý sanh tâm chánh-kiến khởi nguyện bồ-tát. Lại nhớ đời trước ngày đêm siêng nhọc làm những sự ác, tức thời phát ý khởi đại tinh-tấn thành-tựu phật-pháp. Lại nhớ đời trước thọ sanh ngũ-thú, thân mình thân người đều không lợi ích, tức thời phát ý nguyện đem thân mình nhiêu ích chúng-sanh thành-tựu phật-pháp kính thờ tất cả thiện-tri-thức. Suy nghĩ như trên đây rồi trong lòng rất hoan-hỉ.
Thiện-Tài lại quán thân nầy là nhà khổ sanh lão bịnh tử. Nguyện tận kiếp vị-lai tu bồ-tát-đạo giáo-hóa chúng-sanh, gặp chư Như-Lai thành tựu phật-pháp, du hành tất cả cõi Phật, kính thờ tất cả pháp-sư, trụ-trì tất cả phật-giáo, tìm cầu tất cả pháp-lữ, thấy tất cả thiện-tri-thức, chứa họp tất cả những phật-pháp, làm nhơn-duyên cho tất cả bồ-tát nguyện-trí-thân. Lúc nghĩ như vậy, Thiện-Tài được thêm lớn vô-lượng thiện-căn. Liền ở nơi tất cả Bồ-Tát thâm tín tôn trọng, tưởng là hi-hữu, tưởng là đại-sư, các căn thanh-tịnh, pháp lành càng thêm, khởi tất cả bồ-tát cung kính cúng-dường, làm tất cả bồ-tát cúi mình chắp tay, sanh eon mắt thấy khắp thế-gian của tất cả Bồ-Tát, khởi lòng nhớ khắp chúng-sanh của tất cả Bồ-Tát, hiện vô-lượng thân nguyện-hóa của tất cả Bồ-Tát, xuất âm-thanh nói khen thanh-tịnh của tất cả Bồ-Tát, thấy tất cả chư Phật và Bồ-Tát quá-khứ, hiện-tại, thị-hiện thành đạo và thần-thông biến-hóa ở khắp mọi nơi. Nhẫn đến không có một chỗ nhỏ nào bằng đầu sợi lông mà chẳng châu biến.
Thiện-Tài lại được trí-nhãn quang-minh thanh-tịnh, thấy cảnh-giới sở-hành của tất cả Bồ-Tát, Tâm vào khắp thập phương sát-võng, nguyện rộng khắp hư-không pháp-giới, tam thế bình-đẳng không thôi nghỉ.
Tất cả những sự lợi ích lớn mà Thiện-Tài đã được, đều do tin thọ lời dạy của thiện-tri-thức cả.
Ðến nước Hải-Ngạn, Thiện-Tài dùng tâm tôn trọng như vậy, cúng-dường như vậy, xưng tán như vậy, quán-sát như vậy, nguyện lực như vậy, tưởng niệm như vậy, vô-lượng cảnh-giới trí-huệ như vậy, ở trước đại lâu-các Tỳ-Lô-Giá-Na Trang-Nghiêm-Tạng gieo năm vóc đảnh lễ, tạm thời nhiếp niệm tư duy quán-sát.
“In this way, continuously mystically manifesting the eons of the endless
future, by equanimity like the infinity of space, equanimity like the
nonobstruction of the reality realm, equanimity toward the omnipresent
ultimate limit of reality, the equanimity of absence of false notions in those
who realize Thusness, the pervasiveness of perceptions of reflectional
knowledge, equanimity toward thoughts as being like dreams, equanimity
toward the representations of all worlds as being like reflections, equanimity
toward conditional origins being like echoes, equanimity toward
nonorigination, equanimity toward formation and disintegration, and equa-
nimity toward the evolution of causal conditions as being equal to
Page 1454 – The Flower Ornament Scripture
nonexistence, believing that development takes place according to actions,
believing that results come about according to causes, believing that all
Three Vehicles come to be according to accumulation of spiritual practices,
believing that the appearance of all buddhas comes from faith, believing that
all creations of offerings to buddhas come from devotion, believing that all
projections of buddhas derive from respect, believing that the nature of all
buddhas derives from the accumulation of virtues, believing that all arrays of
mental adornments derive from wisdom and technique, believing that all
buddha-teachings derive from vows, believing all the arrays of adornments
spreading throughout the realm of realities, the sphere of omniscience, by
the practices of all enlightening beings, derive from dedication; and by elim-
ination of nihilism by knowledge of dedication, by elimination of the
notion of permanence by knowledge of nonorigination, by elimination of
erroneous views of causality by knowledge of causality, by elimination of
false views by independent knowledge, by elimination of notions of self and
others by knowledge of interdependence, by elimination of views attached
to extremes by knowledge of the reality realm without extremes or mean, by
elimination of the notion of transmigration by knowledge of the equal
extinction of all abodes, by elimination of notions of becoming and decay by
knowledge of nonorigination and nonextinction, by elimination of all
views by knowledge of the nonorigination of emptiness, by dealing with the
nonindependent nature of things with the power of knowledge of how to
accomplish vows, by detachment from all notions of appearances by knowl-
edge of the signless ultimate, due to the nature of things being unperishing
like seeds producing sprouts, due to the nature of things being like the
impression of a stamp, due to the nature of things being like seeing reflected
images, due to the nature of things as being represented by sounds that are
like echoes, due to the nature of things as arising from acts that are like illu-
sions, due to the nature of things as rousing the formless world of mind, due
to the nature of things as results eonforming to the accumulation of causes
and conditions, due to the nature of things as like developments according to
accumulation of acts, due to the nature of things as outgrowths of skill in
means, due to the nature of things as flowing into the transcendent equality
of reality and unreality — with conscious thought accomplishing entry into
knowledge thus, Sudhana prostrated himself before the great tower, the
chamber of adornments of Vairocana.
After a long while, his being flooded by the energy of inconceivable roots
of goodness, his body and mind refreshed, he rose from the doorstep of the
tower, gazed with unblinking eyes at the great tower containing the adorn-
ments of Vairocana, circled it respectfully hundreds of thousands of times,
and voiced these thoughts: “This is abode of those who dwell in the state of
emptiness, signlessness, and wishlessness; this is the abode of those who
dwell in the state of nonconceptualization of all things, those who dwell in
the state of the unity of the cosmos, those who dwell in the state of
ungraspability of the realm of beings, those who dwell in the state of the
nonorigination of all things, those who dwell in the state of nonattachment
Page 1455 – Entry into the Realm of Reality
to all worlds, those who dwell in the state of nonreliance on what all
worldlings rely on, those who dwell in the state of having shed everything,
those who dwell in the state of independence from all supports, those who
dwell in the state of independence of all bodily existence, those who dwell
in the state of annihilation of all afflictive notions, those who dwell in the
state of the essence of all things, those who dwell in the state of freedom
from false imaginings, those who dwell in the state of detachment from all
thought, those who dwell in the state of neither entering nor leaving all per-
ceptions, those who dwell in the state of entry into profound transcendent
wisdom, those who dwell in the state of capacity to penetrate the realm of
reality in all its aspects, those who dwell in the state of ability to extinguish
all afflictions, those who dwell in the higher state of wisdom free from all
views, cravings, and conceits, those who dwell in the state of freedom aris-
ing from higher knowledge of all meditations, liberations, concentrations,
and spiritual attainments, those who dwell in the state of development of all
spheres of concentration of enlightening beings, those who dwell in the
state of presence with all buddhas. This is the abode of those who dwell in
the state where one eon enters all eons and all eons enter one eon; those who
dwell in the state of the totality of one land and all lands as one land; those
who dwell in the state where one thing and all things, all things and one
thing, harmonize without conflict; those who dwell in the state of the unity
of one being and all beings as one being; those who dwell in the state of
nonduality of one buddha and all buddhas, all buddhas and one buddha;
those who dwell in the state of instantaneous penetration of all meanings;
those who dwell in the state of going to all lands in a single mental pulse;
those who dwell in the state of appearance in the abodes of all beings; those
who dwell in the state of willing welfare and happiness for all beings; those
who dwell in the state of attainment of complete independence.
“This is the abode of those who have dropped all attachments to the world
yet appear in the abodes of all beings in order to develop them to maturity;
those who are not attached to any land but travel in all lands in the service of
buddhas; those who travel in all lands to encompass the arrangement of all
buddha-lands, without leaving where they are; those who are in the pres-
ence of all buddhas while free from attachment to the conception of
Buddha; those who continue to associate with spiritual friends, even though
they have no peer in any world in terms of knowledge; those who dwell in
the abodes of all demons while yet being detached from passion; those who
dwell in the state of comprehension of all ideas while their minds are clear of
all ideas; those who adapt to all beings without duality between self and
other; those who are physically present in all worldly realms without being
cut off from the realm of reality; those who vow to remain in the world for
all time without dwelling on the idea of long or short periods; those who
appear in all worlds without moving from one spot.
“This is the abode of those who abide in the state of entering everywhere
into the recondite realms of truth; those who dwell in the state hard to
know; those who dwell in the profound state; those who dwell in the
Page 1456 – The Flower Ornament Scripture
nondual state; those who dwell in the signless state; those who dwell in the
unopposed state; those who dwell in the ungraspable state; those who dwell
in the nonconceptual state; those who dwell in the state inconceivable to all
individual illuminates; those who dwell in the state that is beyond the sphere
of all demons; those who dwell in the state that is undefiled by any worldly
objects; those who dwell in the state of the transcendent ways of enlighten-
ing beings; those who dwell in the state of conformity to the state of all
buddhas.
“This is the abode of those who dwell in the state that is void of signs yet
do not enter the unchangeability of individual illuminates; those who dwell
in the abode of nonorigination of all things and yet do not fall into the eon-
dition of nonorigination; those who dwell in contemplation of impurity yet
do not make the condition of dispassion their final realization, nor do they
live with elements of passion; those who dwell in the state of love, their
minds not stained by hatred; those who dwell on interdependent origina-
tion, ultimately free from delusion in regard to all things; those who dwell
in the four meditation states, yet do not come under the sway of meditation;
those who dwell on the four immeasurables, yet do not go to the world of
pure form, so that they may develop all sentient beings; those who dwell in
the states of the four formless attainments, yet do not go to the formless
world, because of universal compassion; those who dwell in the state of tran-
quillity and insight, yet do not realize knowledge and liberation for
themselves alone, so that they may develop all sentient beings; those who
dwell in the state of universal equanimity, yet do not abandon the realm of
sentient beings; those who dwell in the state of emptiness yet do not stick to
it as a view; those whose sphere is not in appearances yet who confront the
guidance of beings who act on appearances; those who have no wishes at all,
yet do not give up the vows of enlightening beings; those who can control
all active afflictions, yet for the sake of developing sentient beings appear to
act under the influence of afflictions; those who have ended death and birth
by perfect knowledge, yet appear to be born and die; those who are detached
from all conditions of existence, yet go into all conditions of existence by
the power to guide all beings; those who dwell in love but have no emotional
attachment; those who dwell in compassion but show no hesitation; those
who dwell in joy but are always grieving because they watch all who are suf-
fering; those who dwell in equanimity while working for others; those who
dwell in the attainments of the nine successive stages of meditation, yet do
not disdain the realm of desire; those who are independent of all becoming
yet do not dwell in the experience of the absolute; those who dwell in the
three liberations but do not dwell in the feeling of liberation of individual
saints; those who observe the four holy truths but do not dwell in the experi-
ence of the result; those who dwell in profound contemplation of
interdependent origination but do not dwell in attachment to the ultimate;
those who practice the eightfold holy path but do not dwell in ultimate
emancipation; those who transcend the states of sentient beings but do not
dwell in attachment to individual liberation; those who have perfect knowl-
Page 1457 – Entry into the Realm of Reality
edge of the five grasping clusters but do not dwell in ultimate extinction of
the clusters; those who are beyond the four demons but do not dwell on the
idea of demons; those who have transcended the senses yet do not remain
ultimately inoperative; those who dwell in Thusness, but do not dwell in the
absolute limit of reality; those who show all vehicles of emancipation but do
not leave the Great Vehicle — this is the abode of those who abide in all
virtues.”
Then Sudhana spoke these verses:
Vì sức đại-nguyện tín giải sâu nên nhập môn trí-huệ-thân bình-đẳng khắp tất cả xứ, hiện thân mình ở khắp trước chư Như-Lai, chư Bồ-Tát, chư thiện-tri-thức, chư Phật tháp miếu, chư Phật hình tượng, ở trước tất cả chỗ ở của chư Phật chư Bồ-Tát, tất cả pháp-bửu, tất cả Thanh-Văn, Bích-Chi-Phật va tháp miếu của chư vị ấy. Cũng hiện thân mình ở trước tất cả Thánh-Chúng, tất cả phụ-mẫu, tất cả chúng-sanh. Tất cả chỗ, Thiện-Tài đều tôn trọng lễ tán suốt vị-lai-tế không thôi nghỉ, khắp hư-không vì chẳng có biên-lượng, khắp pháp-giới vì không chướng-ngại, khắp thiệt-tế vì khắp tất cả, khắp Như-Lai vì vô phân-biệt, dường như bóng vì tùy trí hiện, dường như mộng vì từ tư-duy khởi, giống như tượng vì thị hiện tất cả, dường như vang vì theo duyên mà phát, không có sanh vì xoay vần khởi diệt, không có tánh vì theo duyên mà chuyển.
Lại quyết định biết tất cả báo đều do nghiệp, tất cả quả đều do nhơn, tất cả nghiệp, đều do hoặc tập, tất cả Phật xuất thế đều do đức tin, tất cả sự hóa hiện cúng-dường đều do quyết định giải, tất cả Hóa-Phật đều do tâm cung-kính, tất cả phật-pháp đều do thiện-căn, tất cả hóa-thân đều do phương tiện, tất cả phật-sự đều do đại-nguyện, tất cả Bồ-Tát tu công-hạnh đều do hồi-hướng, tất cả pháp-giới quảng-đại trang-nghiêm đều từ cảnh-giới nhất-thiết-trí.
Rời đoạn-kiến nên biết hồi-hướng, rời thường-kiến nên biết vô-sanh, rời vô nhơn-kiến nên biết chánh-nhơn, rời điên-đảo-kiến nên biết như-thật-lý, rời tự-tại-kiến nên biết chẳng do nơi khác, rời tự-tha-kiến nên biết từ-duyên-khởi, rời biên-chấp-kiến nên biết pháp-giới vô-biên, rời vãng-lai-kiến nên biết như ảnh tượng, rời hữu-vô-kiến nên biết chẳng sanh diệt, rời nhất thiết-pháp-kiến nên biết không, vô sanh, nên biết chẳng tự-tại, nên biết do nguyện lực xuất sanh, rời nhất-thiết-tướng kiến nên nhập vô-tướng-tế.
Vì biết tất cả pháp như hột giống nẩy mầm, như ấn sanh văn.
Vì biết chất như tượng, biết thanh-âm như vang, biết cảnh như mộng, biết nghiệp như huyễn, rõ đời do tâm hiện, quả do nhơn khởi, rõ báo do nghiệp tập.
Biết rõ tất cả pháp công-đức đều từ bồ-tát phương-tiện thiện-xảo mà lưu xuất
Thiện-Tài Ðồng-Tử nhập quán-trí như vậy, đoan tâm khiết niệm, ở trước lâu các mọp lạy sát đất, bất-tư-nghì thiện-căn lưu chú thân tâm mát mẻ thơ-thời. Rồi đứng dậy chiêm ngưỡng, mắt không tạm rời, chắp tay hữu nhiễu vô-lượng vòng. Tự nghĩ rằng:
Ðại lâu các nầy là chỗ ở của bậc đạt không, vô-tướng, vô-nguyện.
Là chỗ ở bực nhất-thiết-pháp vô-phân-biệt.
Là chỗ ở của bậc rõ pháp-giới vô-sai-biệt.
Là chỗ ở của bậc biết tất cả chúng-sanh bất-khả-đắc.
Là chỗ ở của bậc biết tất cả pháp vô-sanh.
Là chỗ ở của bậc chẳng tham chấp tất cả thế-gian.
Là chỗ ở của bậc chẳng tham chấp tất cả nhà của.
Là chỗ ở của bậc chẳng thích tất cả tụ-lạc.
Là chỗ ở của bậc chẳng dựa tất cả cảnh-giới.
Là chỗ ở của bậc lìa tất cả tưởng.
Là chỗ ở của bậc biết tất cả pháp không tự-tánh.
Là chỗ ở của bậc dứt tất cả nghiệp phân-biệt.
Là chỗ ở của bậc lìa tất cả tưởng, tâm, ý, thức.
Là chỗ ở của bậc chẳng xuất, chẳng nhập tất cả đạo.
Là chỗ ở của bậc nhập thậm-thâm bát-nhã ba-la-mật.
Là chỗ ở của bậc hay dùng phương-tiện trụ phổ-môn pháp-giới.
Là chỗ ở của bậc tắt dứt tất cả lửa phiền não.
Là chỗ ở của bậc dùng tăng-thượng huệ dứt trừ tất cả kiến, ái, mạn.
Là chỗ ở của bậc xuất sanh tất cả thiền, giải-thoát, tam-muội, thông-sáng và du-hí trong đó.
Là chỗ ở của bậc cảnh-giới tam-muội của tất cả Bồ-Tát.
Là chỗ ở của bậc an-trụ chỗ của tất cả Như-Lai.
Là chỗ ở của bậc đem một kiếp vào tất cả kiếp, đem tất cả kiếp vào một kiếp mà không hư tướng thời-gian.
Là chỗ ở của bậc đem một thế-giới vào tất cả thế-giới, đem tất cả thế-giới vào một thế-giới mà chẳng hoại tướng không-gian.
Là chỗ ở của bậc đem một pháp vào tất cả pháp, đem tất cả pháp vào một pháp mà chẳng hư hoại tướng của pháp.
Là chỗ ở của bậc đem một chúng-sanh vào tất cả chúng-sanh, đem tất cả chúng-sanh vào một chúng-sanh, mà không hư tướng chúng-sanh.
Là chỗ ở của bậc đem một Phật vào tất cả Phật, đem tất cả Phật vào một Phật, mà chẳng hoại tướng Phật.
Là chỗ ở của bậc ở trong một niệm mà biết tất cả tam-thế.
Là chỗ ở của bậc trong khoảng một niệm qua đến tất cả quốc-độ.
Là chỗ ở của bậc hiện thân mình ra trước tất cả chúng-sanh.
Là chỗ ở của bậc tâm thường lợi ích tất cả thế-gian.
Là chỗ ở của bậc hay đến khắp tất cả chỗ.
La chỗ ở của bậc dầu đã thoát ly tất cả thế-gian, nhưng vì hóa độ chúng-sanh nên hằng hiện thân ở trong-thế-gian.
Là chỗ ở của bậc chẳng chấp lấy tất cả cõi, nhưng vì cúng-dường chư Phật mà du hành tất cả cõi.
Là chỗ ở của bậc chẳng động bổn-xứ, mà có thể đến khắp tất cả phật-độ để trang-nghiêm.
Là chỗ ở của bậc thân cận tất cả Phật mà chẳng khởi phật-tưởng.
Là chỗ ở của bậc y chỉ tất cả thiện-tri-thức mà chẳng khởi thiện-tri-thức tưởng.
Là chỗ ở của bậc ở tất cả ma-cung mà chẳng đắm nhiễm cảnh dục.
Là chỗ ở của bậc rời hẳn tất cả tâm tưởng.
Là chỗ ở của bậc dầu hiện thân trong tất cả chúng-sanh mà không có quan niệm mình người riêng khác.
Là chỗ ở của bậc hay vào khắp tất cả thế-giới, mà đối với pháp-giới không có tưởng sai biệt.
Là chỗ ở của bậc nguyên trụ tất cả kiếp vị-lai, nhưng đối với kiếp số không có quan-niệm thời-gian dài vắn.
Là chỗ ở của bậc chẳng rời chỗ một đầu sợi lông mà hiện thân khắp tất cả thế-giới.
Là chỗ ở của bậc hay diễn thuyết những pháp khó được gặp, được nghe.
Là chỗ ở của bậc hay trụ pháp khó biết, pháp thậm thâm, pháp không hai, pháp vô-tướng, pháp không đối-trị, pháp vô-sở-đắc, pháp không hí-luận.
Là chỗ ở của bậc trụ đại-từ đại-bi.
Là chỗ ở của bậc đã vượt hẳn trí nhị-thừa, đã siêu cảnh-giới ma, đã không nhiễm thế-pháp, đã đến bờ của Bồ-Tát đã đến, đã trụ nơi chỗ trụ của Như-Lai.
Là chỗ ở của bậc dầu rời tất cả tướng mà chẳng nhập chánh-vị của Thanh-Văn, dầu rõ tất cả pháp vô-sanh mà cũng chẳng trụ pháp-tánh vô-sanh.
Là chỗ ở của bậc dầu quán bất-tịnh mà chẳng chứng pháp ly-tham cũng chẳng cùng chung với tham-dục, dầu tu hạnh từ mà chẳng chứng pháp ly-sân cũng chẳng cùng chung với sân hận, dầu quán duyên-khởi mà chẳng chứng pháp ly-si cũng chẳng cùng chung với si hoặc.
Là chỗ ở của bậc dầu trụ tứ-thiền mà chẳng tùy thiền sanh, dầu tu hành tứ-vô-lượng-tâm nhưng vì hóa độ chúng-sanh nên chẳng sanh cõi sắc, dầu tu vô-sắc-định nhưng vì đại-bi nên chẳng trụ cõi vô-sắc.
Là chỗ ở của bậc dầu siêng tu chỉ quán nhưng vì hóa độ chúng-sanh nên chẳng chứng quả giải thoát, dầu thật hành hạnh xả mà chẳng bỏ sự hóa độ chúng-sanh.
Là chỗ ở của bậc dầu quán không mà chẳng khởi không-kiến, dầu hành vô-tướng mà thường giáo-hóa chúng-sanh chấp tướng, dầu hành vô-nguyện mà chẳng bỏ hạnh nguyện vô-thượng bồ-đề.
Là chỗ ở của bậc dầu ở trong tất cả nghiệp phiền-não mà vẫn tự-tại, vì để hóa độ chúng-sanh nên tùy-thuân các nghiệp phiền-não, dầu không sanh tử mà vì hóa độ chúng-sanh nên thị hiện thọ sanh tử, dầu đã rời tất cả loài mà vì hóa độ chúng-sanh nên thị hiện vào các loài.
Là chỗ ở của bậc dầu thật hành hạnh từ mà không ái luyến chúng-sanh, dầu thật hành hạnh bi mà không chấp trước chúng-sanh, dầu thật hành hạnh hỉ mà thường ai mẫn chúng-sanh khổ, dầu thật hành hạnh xả mà chẳng bỏ sự lợi ích cho người khác.
Là chỗ ở của bậc dầu hành cửu thứ-đệ-định mà chẳng nhàm lìa thọ sanh dục-giới, dầu biết tất cả pháp vô sanh vô diệt mà chẳng tác chứng nơi thiệt-tế, dầu nhập ba môn giải-thoát mà chẳng lấy quả giải-thoát của Thanh-Văn, dầu quán tứ thánh-đế mà chẳng trụ quả tiểu-thừa, dầu quán duyên khởi thậm-thâm mà chẳng trụ rốt ráo tịch-diệt, dầu tu bát thánh-đạo mà chẳng cầu thoát hẳn thế-gian, dầu siêu phàm-phu-địa mà chẳng sa Thanh-Văn Bích-Chi-Phật-Ðịa, dầu quán ngũ-thủ-uẩn mà chẳng diệt hẳn các uẩn, dầu siêu-xuất tứ ma mà chẳng phân biệt các ma, dầu chẳng chấp lục xứ mà chẳng dứt hẳn lục xứ, dầu an-trụ chân-như mà chẳng đọa thiệt-tế, dầu nói tất cả thừa mà chẳng bỏ đại-thừa.
Bấy giờ Thiện-Tài nói kệ rằng:
Here is the compassionate, pure-minded Maitreya,
Radiant with love, striving for the good of the world;
At the stage of coronation, heir of the buddhas.
He dwells in contemplation of the enlightened realm.
This is the realm of great knowledge
Of the illustrious offspring of buddhas, seeure in liberation;
This is the abode of those unrivaled ones
Who travel the realm of reality without attachment.
This is the abode of those risen from the power of discipline, generosity, patience, and vigor.
Who have reached perfection of the power of mystic knowledge by meditations,
Who are firm in wisdom, technique, resolve, and power.
Who have reached the goal of the Great Vehicle.
This is the abode of those of unobstructed intellect and broad mind,
Enjoying the realm of space, free from dependence.
Penetrating all times, free from obstruction.
Clearly perceiving all being and becoming.
Those who understand the principle of nonorigination of all things
Realize the nature of things as of the essence of space;
They do not rest on anything, like a bird in the sky —
This is the abode of those who are perfect in knowledge.
Those who, knowing the nature of passion, hatred, and delusion
As unreal, evolving from thoughts.
Go to dispassion, free from conception —
This is their abode, who have realized peace and tranquillity.
Investigating the doors of liberation, the truths, their meanings.
The path, the clusters, the senses, beings, and relativity,
Those who do not become attached to quiescience.
Who have wisdom and skill in means — this is their abode.
This is the abode of those who have entered the realm of unobstructed
knowledge,
Page 1458 – The Flower Ornament Scripture
In whom vain imaginings and false thoughts of lands and beings have ceased.
Who have abandoned the notion of self-existence of things,
Do not grasp things, and are filled with peace.
Those who traverse this cosmos unattached and unhindered
Roam free of existents, like the wind in the sky;
Free from all dependence, acting independently.
This is their abode, those of independent wisdom.
This is the abode of the compassionate ones
Who radiate love to extinguish all the ills
Of all beings in the miserable states of views
Suffering grievous pains.
In the confines of the mundane whirl, having lost the path of the wise,
Like a troop of people born blind without a guide;
Those who seethe world like this and guide them to the path of liberation.
Like the leader of a caravan — this is their abode.
This is the abode of those invincible warriors
Who see the world in the snare of demons,
Mastered by birth, sorrow, old age, and death.
And lead the way to safety, peace, and emancipation.
Seeing this world afflicted, diseased,
They gather the medicines of immortal knowledge
And foster release, with great compassion;
This is the abode of those like master physicians.
This is the abode of those like mariners
Who make a ship of good ways
To save those fallen in the sea of death, a mass of sorrows.
Soothing troubled, helpless beings.
Those of pure minds devoted to omniscience
Who relieve beings in the sea of affliction.
Cross the ocean of existence and pull them out —
This is their abode, who are like fishers.
This is the abode of those like giant birds
Who watch the abodes of all beings
With love and compassion, based on great vows,
And pull beings out of the sea of existence.
Page 1459 – Entry into the Realm of Reality
This is the abode of those who course in the sky of reality.
As suns and moons illumining the abodes of beings.
With the orb of vows and rays of knowledge
Lighting up the world.
This is the abode of the steadfast
Who remain for eons to develop even one being.
And as for one do the same for all,
As refuges for the world.
This is the abode of those of adamant will
Who spend endless ages in a single land
Working tirelessly for the benefit of the world.
And as in one land, do the same everywhere in the ten directions.
This is the abode of those like oceans of intellect
Who imbibe the multitudes of teachings of buddhas
In the ten directions at a single sitting
And continue forever, alert and never complacent.
This is the abode of those unobstructed in action
Who go forth to untold oceans of lands.
Enter the assemblies of the Guides,
And serve the buddhas in various ways.
This is the abode of the mines of all virtue
Who have entered the infinite ocean of practice.
Steadfast, plunging into the ocean of vows.
Acting for the weal of the world for myriad eons.
This is the abode of those with unobstructed eyes
Who perceive infinite lands, buddhas, beings.
And ages, in a single point, going in and out
Without encountering any boundaries.
This is the abode of those exalted in perfection of virtue
Who perceive myriad eons, lands, buddhas, and beings
In a single moment of awareness.
Based on unobstructed knowledge.
This is the abode of those unattached and unhindered in action
Who carry out as many vows
As atoms in all lands
And drops of water in the oceans.
They enter holy undertakings, mnemonic powers, concentrations,
Sources:
Tài liệu tham khảo:
- https://thienphatgiao.wordpress.com/2013/06/02/kinh-hoa-nghiem-thich-tri-tinh-dich-tap-3-8/20/
- https://terebess.hu/zen/mesterek/avatamsaka-cleary.pdf
- https://thuvienhoasen.org/p16a565/39-pham-nhap-phap-gioi-phan-duoi