Phẩm 39b: Nhập Pháp Giới (Phần trên) – Entry into the Realm of Reality – Song ngữ
The Avatamsaka Sutra
The Flower Ornament Scripture – (The Flower Garland Sutra)
Kinh Hoa Nghiêm
English: Thomas Cleary – 1984.
Việt ngữ: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh – PL 2527 – 1983.
Compile: Lotus group.
39b. Book Thirty-Nine (b): Entry into the Realm of Reality – (MsW: 1198 – 1263)
39b. Phẩm 39b: Kinh Hoa Nghiêm – Nhập Pháp Giới (Phần trên) – (Hán bộ quyển 60 – 70) – Song ngữ
Saradhvaja
Then Sudhana, reflecting on the instruction of the eminent Muktaka, fof-
lowing Muktaka’s direction, remembering the inconceivable liberation of
enlightening beings, remembering the inconceivable light of knowledge of
enlightening beings, following the inconceivable entrance into the realm of
reality, entering into the inconceivable principle of the communion of
enlightening beings, observing the inconceivable transformation of those
who realize Thusness, intent on the inconceivable communion of buddha-
fields, clarifying the inconceivable manifestation of the magical power of
buddhas, contemplating the magnificence of the inconceivable order of the
concentrations and liberations of enlightening beings, following the stead-
fast determination to perform the inconceivable work of enlightening
beings, eonforming to the stream of undertaking of the inconceivable deeds
of enlightening beings, gradually proceeded to Milaspharana on the tip of
the continent, where he looked all over for the monk Saradhvaja.
He saw Saradhvaja by the side of a place for walking at a retreat, sitting in
concentration, following his breath, not stirring, not thinking, his body
straight, his mindfulness on the immediate present, by the inconceivable
power of concentration producing to the left, right, and above an inconceiv-
able infinite body in each successive mental moment manifesting an infinite
variety of bodies. Sudhana saw an inconceivable miraculous display of the
liberation of enlightening beings coming forth from every pore of the
ecstatic body of Saradhvaja, who had attained such profound tranquility,
silence, and objectlessness. With this miraculous display of the medium of
liberation, Saradhvaja filled the cosmos moment to moment with endless
varieties of mystic protections, to perfect all beings, to honor all buddhas, to
purify all buddha-fields, to do away with the mass of suffering of all sentient
beings, to cut off the courses of all bad conditions, to open the door to good
conditions for all beings, to extinguish the burning of afflictions of all
beings, to dissofve all beings’ obstructions to knowledge, and to introduce
all beings into omniscience.
Sudhana saw emanating from the sofes of Saradhvaja’s feet masses of gran-
dees as numerous as atoms in countless buddha-lands, their forms like those
of the grandees in all worldly realms, wearing gorgeous clothing, variously
adorned, wearing variously crested jewel crowns, surrounded by images of
sons. He also saw priests and householders gofng throughout the ten direc-
tions caring for the poor with all kinds of food and drink, services, supplies.
Page 1198 – The Flower Ornament Scripture
clothing, flowers, garlands, fragrances, ofntments, acts of love, jewels,
dwellings, vessels, and implements, restoring life to the miserable world,
satisfying sentient beings, purifying sentient beings’ minds, developing sen-
tient beings for enlightenment.
Thiện Tài Ðồng Tử nhất tâm chánh niệm lời dạy của Giải Thoát Trưởng giả, quán sát lời dạy của Trưởng giả. Ghi nhớ môn bất tư nghì Bồ Tát Giải Thoát của Trưởng giả. Tư duy bất tư nghì Bồ Tát trí quang minh của Trưởng giả. Thâm nhập bất tư nghì pháp giới môn của Trưởng giả. Xu hướng bất tư nghì Bồ Tát phổ nhập môn của Trưởng giả. Thấy rõ bất tư nghì Như Lai thần biến của Trưởng giả. Hiểu rõ bất tư nghì phổ nhập Phật độ của Trưởng giả. Phân biệt bất tư nghì Phật lực trang nghiêm của Trưởng giả. Suy gẫm bất tư nghì Bồ Tát tam muội giải thoát cảnh giới phần vị của Trưởng giả. Rõ thấu bất tư nghì thế giới sai biệt cứu cánh vô ngại của Trưởng giả. Tu hành bất tư nghì Bồ Tát kiên cố thâm tâm của Trưởng giả. Phát khởi bất tư nghì Bồ Tát đại nguyện nghiệp của Trưởng giả.
Thiện Tài đồng tử đi lần qua phương Nam đến bờ Diêm Phù Ðề, nước Ma Lợi, tìm Hải Tràng Tỳ Kheo. Bèn thấy Hải Tràng Tỳ Kheo ngồi kiết già ở bên chỗ đi kinh hành, đang nhập tam muội, bặt hơi thở, lìa tư giác, thân tâm bất động.
Từ dưới chân của Tỳ Kheo ấy hiện ra vô số muôn ngàn ức Trưởng giả, Cư Sĩ, Bà La Môn. Ðại chúng này đều dùng nhiều đồ trang nghiêm để nghiêm sức thân mình. Tất ca đều đội bửu quan, đeo minh châu, qua khắp tất cả thế giới mười phương mưa tất cả châu bửu, tất cả chuỗi ngọc, tất cả y phục, tất cả đồ uống ăn thượng vị đúng pháp, tất cả hoa, tất cả tràng hoa, tất cả hương, tất cả hương thoa, tất cả đồ tư sanh theo sở thích. Ở tất cả chỗ cứu nhiếp những chúng sanh nghèo cùng, an ủi những chúng sanh khổ não, đều làm cho hoan hỷ. Tâm ý thanh tịnh. Thành tựu đạo Vô thượng Bồ dề.
Sudhana saw forms of warrior sages, priestly sages, worldly sages, schofars
versed in various crafts, humanistic schofars, schofars expert in knowledge
of the sciences of mundane and transmundane activities, sages eonsidered
teachers of the world, emanate from the circles on Saradhvaja’s knees and go
throughout the ten directions in many forms and guises, speaking pleasant
words, cheering up dejected sentient beings, taking care of spiritually and
materially poor beings, comforting beings in distress, uplifting the fallen,
reviving the shipwrecked, rescuing the imperiled, causing the Voice of
goodness to be heard, preaching rejection of evil, exhorting beings to virtu-
ous practices, directing beings to beneficial actions, producing joy, uttering
kind words, and showing the world the nature of cooperation.
Sudhana saw various forms of wizards, as many as there are living beings,
emanating from Saradhvaja’s navel and gofng throughout the ten directions,
wearing leather, rags, and bark, carrying staffs and pitchers, their deport-
ment extremely calm, up on the sky extofling the qualities of buddhas,
causing the Voice of the Teaching to be heard, speaking the Voice of Bud-
dhas, showing the community of enlightening beings, praising religious
conduct, directing sentient beings to guard their senses, describing the
meaning of the vofdness of intrinsic essence, introducing sentient beings
into the meaning of knowledge, teaching worldly science, showing the sci-
ence of the Path to omniscience and emancipation, guiding beings in
gradual practice.
Sudhana saw as many water spirit girls as all worldly events, in inconceiv-
ably many forms, emerging from Saradhvaja’s sides, pervading all universes
moment to moment, showing the miracle of water spirits, adorning the sky
with inconceivable fragrant clouds, adorning the whofe sky with inconceiv-
able clouds of flowers, arraying the whofe realm of space with inconceivable
adornments of clouds of garlands, covering all universes with inconceivable
adornment of bejeweled parasofs, adorning the sky with inconceivable
clouds of jeweled banners, inconceivable clouds of jeweled pennants, rain
from inconceivable endless clouds of great jewels, rain from inconceivable
clouds of jewel necklaces and various flowers, inconceivable clouds of jewel
seats with enlightening beings sitting on them teaching the ways of enlight-
enment, inconceivable clouds of troves of celestial jewels, rain of clouds of
sounds of goddesses singing praises of the Teaching, inconceivable raining
clouds of jewel lotuses adorned with nets of pearls crowned with diamonds,
inconceivable clouds of jewel crowns and rain of clouds of endless lights
adorned by all jewels, inconceivable clouds of celestial beings graced with
flowers, garlands, parasofs, and banners, inconceivable clouds of goddesses,
adornments of rain produced by clouds of songs of praise of buddhas’ quali-
ties sung by the goddesses on high standing with jofned palms or scattering
golden flowers, also covering all buddhas’ assemblies with clouds of heaps of
Page 1199 – Entry into the Realm of Reality
fragrances the cofors of all jewels and clouds of smoke of the finest incense,
adorning all worlds, delighting all beings, honoring all buddhas.
Từ hai gối của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện trăm ngàn ức Sát Ðế Lợi, Bà La Môn. Ðại chúng này đều thông huệ, nhiều sắc tướng, nhiều hình mạo, nhiều y phục thượng diệu trang nghiêm, cùng khắp tất cả thế giới mười phương, dùng ái ngữ và đồng sự nhiếp các chúng sanh.
Những là làm cho người nghèo được đầy đủ, người bệnh được lành, người nguy được an, người kinh sợ được y tựa, người ưu sầu được sung sướng. Lại dùng phương tiện để khuyến dụ họ, lám cho họ đều bỏ ác làm lành.
Từ khoảng eo lưng của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện vô lượng vô số tiên nhân : hoặc mặc y phục bằng cỏ, bằng vỏ cây. Ðều cầm bình rửa, oai nghi tịch tịnh, du hành thế giới mười phương. Ở trên hư không, dùng diệu âm ca ngợi Như Lai. Diễn thuyết các pháp: hoặc diễn thuyết đạo thanh tịnh phạm hạnh, làm cho họ tu tập điều phục các căn tánh. Hoặc nói các pháp đều không tự tánh, cho họ quán sát phát sanh trí huệ. Hoặc nói pháp tắc ngôn luận thế gian. Hoặc lại khai thị nhứt thiết trí phương tiện xuất yếu, làm cho họ theo thứ đệ đều tu tập hạnh nghiệp của riêng mình.
Từ hai bên hông của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện bất tư nghì Long, bất tư nghì Long nữ, thị hiện bất tư nghì thần biến của chư Long. Những là mưa những mây hương thơm, mây hoa, mây tràng hoa, mây bửu cái, mây bửu phan, mây diệu bửu trang nghiêm, mây như ý bửu, mây bửu anh lạc, mây bửu tọa, mây bửu cung điện, mây bửu liên hoa, mây bửu quan, mây thiên thân, mây thể nữ, tất cả đều bất tư nghì khắp hư không để trang nghiêm. Sung mãn chư Phật đạo tràng tất cả thế giới mười phương để cúng dường, làm cho các chúng sanh đều hoan hỷ.
Sudhana saw as many titan kings as atoms in countless buddha-fields
emerging from the auspicious mark on Saradhvaja’s chest and pervading the
cosmos moment to moment, displaying the inconceivable magic transfor-
mations of titans, agitating the oceans, causing hundreds of thousands of
worlds to quake, causing all the highest mountains to crash together, shak-
ing up all celestial abodes, eclipsing all hordes of demons, crushing all
armies of demons, causing all people to destroy intoxication, conceit, and
arrogance, restraining and purifying corrupt minds, restraining malicious
minds, extinguishing being’s bad qualities, shattering the mountains of
afflictions, quieting grasping for pleasure, frightening sentient beings by
exercises of titanic magical powers and scaring them away from evil, making
them wary of the mundane whirl, getting them to leave all states of condi-
tioned existence and enter into nondwelling, leading sentient beings to the
thought of enlightenment, getting them to purify the conduct of enlighten-
ing beings, establishing enlightening beings in the transcendent way,
causing them to enter the stages of enlightening beings, causing them to
produce enlightening beings’ light of the way to buddhahood, defining var-
ious principles and methods.
Từ tướng chữ “vạn” trước ngực xuất hiện vô số trăm ngàn ức A Tu La Vương, thảy đều thị hiện bất tư nghì huyễn lực tự tại, làm chấn động cả trăm thế giới. Tất cả nước biển tự nhiên sôi trào. Tất cả Sơn Vương tự nhiên xung kích. Chư Thiên cung điện đều lay động. Quang minh của chư ma đều bị che khuất. Chúng ma quân đều bị xô dẹp. Khiến khắp chúng sanh bỏ tâm kiêu mạng, trừ tâm sân hại, phá núi phiền não, dứt các pháp ác, thêm lớn pháp vô tránh, hằng hòa lành nhau. Lại dùng huyễn lực khai ngộ chúng sanh, làm cho họ diệt tội ác, sợ sanh tử, khỏi các loài, lìa nhiễm trước. Khiến họ an trụ tâm Vô Thượng Bồ Ðề, khiến họ tu tất cả hạnh Bồ Tát, khiến mạnh các môn Ba la mật, khiến nhập tất cả bực Bồ Tát, khiến quán sát tất cả pháp môn vi diệu, khiến biết tất cả phương tiện của chư Phật. Những việc làm trên đây cùng khắp pháp giới.
Sudhana saw as many bodies of Buddhist disciples and individual illumi-
nates as atoms in countless buddha-fields emerge from Saradhvaja’s spine
and pervade the cosmos, telling sentient beings attached to self and suited to
guidance by disciples or individual illuminates about selflessness and the
vofdness of the being, clarifying the impermanence of all conditioned states
to those attached to eternity, telling the lustful about the contemplation of
impurity, telling the hostile about love, telling the deluded about causality
and interdependent origination, illumining principles eonnected with the
sphere of knowledge to those who are equally lustful, hostile, and deluded,
telling those attached to objects about nondwelling, causing those inclined
to stick to tranquillity to like the superiority of undertaking vows, showing
actions beneficial to beings, in all places, in the beginning of all turnings of
the ocean of ways to truth.
Từ trên lưng của Hải Tràng Tỳ Kheo, vì người đáng dùng Nhị thừa để độ, xuất hiện vô số trăm ngàn ức Thanh Văn và Ðộc Giác. Vì người chấp ngã mà nói pháp vô ngã. Vì người chấp thường mà nói tất cả thành pháp đều vô thường. Vì người tham mà nói bất tịnh quán. Vì người sân ma nói từ tâm quán. Vì người si mà nói duyên khởi quán. Vì người đẳng phần phiền não mà nói cảnh giới pháp cùng trí huệ tương ưng. Vì người mến thích cảnh giới mà nói pháp vô sở hữu. Vì người mến thích chỗ tịch tịnh mà nói pháp phát thệ nguyện lớn khắp lợi ích tất cả chúng sanh. Những việc làm như vậy cùng khắp pháp giới.
Sudhana saw as many demigods and supernatural beings as atoms in
countless buddha-fields emerging from Saradhvaja’s shoulders and pervad-
ing the cosmos, with various physical forms, cofors, and sizes, in various
attitudes, riding various vehicles, surrounded by various retinues, striving to
profect sentient beings, showing various powers, uttering various sounds,
gofng everywhere employing various different means to guard the good
actions of all sentient beings, to guard all circles of sages, to assist all enlight-
ening beings, to profect those who are rightly oriented, to attend and honor
all buddhas with the work of thunderboft bearers, to remove all fallen sen-
tient beings from evil ways, striving to annihilate all worldly calamities and
perils such as disease, anxious to preserve the light of actions beneficial to
beings, filling the stores of knowledge and virtue, causing the wheel of the
teaching to rofl along, restraining controversy.
Từ hai vai của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện vô số trăm ngàn ức Dạ Xoa Vương, La Sát Vương: những hình mạo, những sắc tướng, hoặc cao hoặc thấp đều đáng kinh sợ. Vô lượng quyến thuộc vây quanh. Chư Vương này thủ hộ tất cả chúng sanh làm lành và các Hiền Thánh chúng hội Bồ Tát, người hướng chánh trụ và người chánh trụ. Hoặc hiện làm thần Chấp Kim Cang thủ hộ chư Phật và chỗ chư Phật ngự. Hoặc khắp thủ hộ thế gian: làm cho người hãi sợ được an ổn. Người tật bệnh được lành. Người khổ não được hết khổ. Người có lỗi lầm thời ăn năn. Người bị tai nạn thời khổ nạn. Lợi ích tất cả chúng sanh như vậy đều làm cho họ bỏ sanh tử luân mà chuyển chánh pháp luân.
Page 1200 – The Flower Ornament Scripture
Sudhana saw as many centaur chiefs as atoms in countless buddha-fields
surrounded by countless hundreds of thousands of centaurs princesses, and as
many celestial musician kings as atoms in countless buddha-fields sur-
rounded by countless hundreds of thousands of celestial musicians princesses
emerge from Saradhvaja’s abdomen and pervade the cosmos, performing
music and songs in praise of Buddha dealing with the essence of things, illu-
mining the thought of enlightenment, describing the conduct of
enlightening beings, eulogizing all ways to attainment of enlightenment,
fostering understanding of all ways of presenting the Teaching, causing
attraction to all ways of spiritual transformation, illumining all ways into
ultimate release, publicizing all buddhas’ teachings, gladdening all beings,
purifying all buddha-fields, illuminating all ways to truth, removing all
obstructions, begetting all roots of goodness.
Từ nơi bụng của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện trăm ngàn ức Khẩn Na La Vương, đều có vô số Khẩn Na La nữ trước sau vây quanh. Lại xuất hiện vô số Càn Thát Bà Vương, đều có vô số Càn Thát Bà nữ trước sau vây quanh. Ðều trổi vô số trăm ngàn thiên nhạc ca ngâm tán thán những pháp bửu tánh. Ca ngâm tán thán chư Phật Bửu. Ca ngâm tán thán phát Bồ đề tâm. Ca ngâm tán thán tu Bồ Tát hạnh. Ca ngâm tán thán môn thành Ðẳng Chánh Giác của tất cả chư Phật. Ca ngâm tán thán môn chuyển pháp luân của tất cả chư Phật. Ca ngâm tán thán môn hiện thần biến của tất cả chư Phật. Khai thị diễn thuyết môn nhập Niết bàn của tất cả chư Phật. Khai thị diễn thuyết môn thủ hộ giáo pháp của tất cả chư Phật. Khai thị diễn thuyết môn làm cho tất cả chúng sanh đều hoan hỷ. Khai thị diễn thuyết môn nghiêm tịnh tất cả Phật độ. Khai thị diễn thuyết môn hiển bài tất cả pháp vi diệu. Khai thị diễn thuyết môn bỏ lìa tất cả chướng ngại. Khai thị diễn thuyết môn phát sanh tất cả thiện căn. Tất cả như vậy đều cùng khắp thế giới mười phương.
Sudhana saw as many emperors as atoms in countless buddha-fields,
each surrounded by seven treasures and four armies, emerge from
Saradhvaja’s face, pervading the cosmos, radiating arrays of light beams of
great relinquishment, spewing forth masses of all kinds of jewels, distrib-
uting multitudes of all kinds of jewels, enriching the poor, causing people
to desist from killing, fostering kindness in sentient beings, causing them
to give up stealing, giving them countless beautifully adorned maidens,
causing them to give up sexual misconduct, establishing them in chastity,
causing them to desist from lying, enjofning on them supreme honesty,
causing them to desist from slander, causing them to speak words of ulti-
mate kindness and eonsideration, causing them to desist from harsh words
and speak pleasantly, causing people to desist from all meaningless state-
ments, statements connected with what is not beneficial and what is not
right, urging them to certainty of distinction of statements of profound
meaning, causing people to desist from all evils of speech and speak com-
passionately, removing mental defilements from people, enjofning the
excellent state of having few desires and being content, causing people to
desist from malice and urging them to be peaceful in their relations with
others, extracting people from the web of all views, causing them to break
up all kinds of uncertainties, throwing off all masses of doubts, taking away
the darkness of all confusion and hesitation, definitively analyzing the
truth for people, telling them about causality and interdependent origina-
tion, directing them to the principle of the truth about inherent existence,
dispelling all obstacles, leading into the way of nonobstruction, illuminat-
ing the meaning of enlightenment.
Từ trên mặt của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện vô số trăm ngàn ức Chuyển Luân Thánh Vương, thất bửu đầy đủ, bốn đội binh vây quanh, phóng ánh sáng đại xả, mưa vô lượng bửu làm cho người nghèo thiếu đều được no đủ và làm cho họ bỏ hẳn sự trộm cắp. Thể nữ sinh đẹp vô số trăm ngàn đều đem xả thí không tiếc, làm cho họ bỏ hẳn sự tà dâm; làm cho họ sanh lòng từ chẳng giết hại; làm cho họ rốt ráo thường nói lời chân thật, chẳng dối phỉnh, chẳng luận đàm vô ích; làm cho họ nói lời hòa giải vui thuận chẳng làm sự ly gián; làm cho họ nói lời diệu dàng không có thô ác; làm cho họ thường diễn thuyết những nghĩa thậm thâm nhất định minh liễu, chẳng nói lời vô nghĩa trau chuốt. Vì họ mà nói thiểu dục cho họ trừ tham ái lòng không nhơ bợn. Vì họ mà nói đại bi cho họ trừ sân hận tâm ý được thanh tịnh. Vì họ mà nói thật nghĩa khiến họ quán sát tất cả pháp thâm nhập nhơn duyên, khéo rõ đế lý, nhổ gai tà kiến, phá núi nghi hoặc, trừ diệt tất cả chướng ngại. Những việc làm như vậy đều đầy khắp pháp giới.
Sudhana saw as many hundreds of thousands of suns as atoms in countless
buddha-fields emanate from Saradhvaja’s eyes, lighting up all the great
hells, dispersing the great darkness in the world, removing the darkness of
sentient beings’ delusions, relieving the beings in the frigid hells from the
pains of cold, shining clear light in lands made of lotus fibers, shining lapis-
lazuli-cofored light in gold lands, shining golden light in lands of lapis
lazuli, shining golden light in silver worlds, shining crystal light in gold
lands, shining golden light in crystal lands, shining coral light in gold lands.
Page 1201 – Entry into the Realm of Reality
shining golden light in coral lands, shining golden light in ruby lands, shin-
ing ruby light in gold lands, shining golden light in emerald lands, shining
emerald light in gold lands, shining light the cofor of sun-filled jewels in
sapphire lands, shining sapphire light in lands made of sun-filled jewels,
shining light the cofor of jewels containing networks of moonbeams in red
pearl lands, shining light the cofor of red pearls in lands made of jewels con-
taining networks of moonbeams, shining light the cofors of various jewels
in lands made of one jewel, shining light the cofor of one jewel in lands
made of various jewels, thus invofved in the infinite tasks of sentient beings,
in the assemblies of all enlightening beings, pervading the universes of all
beings.
Từ hai mắt của Hải Tràng tỳ kheo xuất hiện vô số trăm ngàn ức nhật luân chiếu khắp tất cả những đại địa ngục và những ác thú ,đều làm cho họ khỏi khổ. Lại chiếu chặng giữa tất cả thế giới để trừ tăm tối. Lại chiếu chúng sanh mười phương đều làm cho họ bỏ lìa ngu si ế chướng. Nơi quốc độ cấu trược phóng thanh tịnh quang. Cõi nước bạch ngân phóng ánh sáng màu huỳnh kim. Nơi cõi nước huỳnh kim phóng ánh sáng màu bạch ngân. Nơi cõi nước lưu ly phóng ánh sáng màu pha lê. Cõi nước pha lê phóng ánh sáng màu lưu ly. Cõi nước xa cừ phóng ánh sáng màu mã não. Cõi nước mã não phóng ánh sáng màu xa cừ. Cõi nước đế thanh phóng ánh sáng màu nhật tạng ma ni vương. Cõi nước nhật tạng ma ni vương phóng ánh sáng màu đế thanh. Cõi nước xích chơn châu phóng ánh sáng nguyệt quang võng tạng ma ni vương. Cõi nước nguyệt quang võng tạng ma ni vương phóng ánh sáng màu xích chơn châu. Cõi nước một thứ bửu làm thành phóng ánh sáng màu nhiều thứ báu. Cõi nước nhiều thứ báu làm thành phóng ánh sáng màu một thứ báu. Những ánh sáng này chiếu đến tâm rừng rậm của chúng sanh, làm xong vô lượng sự nghiệp của chúng sanh, nghiêm sức tất cả cảnh giới thế gian, làm cho các chúng sanh tâm được mát mẻ rất hoan hỷ. Những sự như vậy sung mãn pháp giới.
From the circle of hair between Saradhvaja’s eyebrows Sudhana saw as
many moons as atoms in countless buddha-fields emerge, outshining all
the celestial chiefs, turning all worldlings away from lust to enjoyment of
the vision of Buddha, pervading the cosmos engaged in the guidance of
infinite beings.
Từ trong tướng bạch hào giữa chặng mày của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện vô số trăm ngàn ức Ðế Thích dều tự tại nơi cảnh giới, trên đảnh có ma ni bửu châu chiếu sáng tất cả các thiên cung điện. Chấn động tất cả Tu Di Sơn Vương, giác ngộ tất cả chư Thiên chúng, khen sức phước đức, nói sức trí huệ, sức sanh báo vui, sức trì chí, sức tịnh niệm, sức bền tâm Bồ đề đã phát, khen thích thấy Phật khiến trừ ham muốn thế gian, khen thích nghe pháp khiến nhàm cảnh thế gian, khen thích quán trí khiến tuyệt thế nhiễm, ngăn chiến trận của A Tu La, dứt phiền não đấu tranh, diệt tâm sợ chết, phát nguyện hàng ma, hưng lập chánh pháp, thành xong tất cả sự nghiệp của chúng sanh. Những việc làm như vậy cùng khắp pháp giới.
From Saradhvaja’s forehead Sudhana saw as many great Brahmas as atoms
in countless buddha-fields emerge, their deportment extremely tranquil,
murmuring prayers, asking all buddhas for instruction, praising all buddhas,
gladdening all enlightening beings, pervading all universes in the ten direc-
tions, invofved in the infinite tasks of sentient beings.
Từ trên trán của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện trăm ngàn ức Phạm Thiên sắc tướng đoan nghiêm thế gian không sánh kịp oai nghi tịch tịnh, lời nói hay diệu, khuyên Phật thuyết pháp, khen Phật công đức làm cho các Bồ Tát đều hoan hỷ, có thể làm xong vô lượng sự nghiệp cho chúng sanh, cùng khắp tất cả thế giới mười phương.
From Saradhvaja’s head Sudhana saw emerge as many enlightening
beings as atoms in countless buddha-fields, manifesting bodies of various
appearances, forms, adornments, and embellishments, emanating infinite
spheres of light, taking up the past enlightening practices of all buddhas and
protecting from every pore multitudes of forms practicing charity without
attachment to giver, receiver, or gift, showing oceans of past efforts invofved
in the various ways of transcendence, commending the act of giving to the
world, getting rid of the filth of envy, directing beings to give up all grasp-
ing, causing the world to appear adorned with all kinds of jewels,
establishing sentient beings in the practice of transcendent giving and in
command over material things, praising all virtues, and teaching the cause
of the characteristics of buddhas.
Từ trên đầu của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện vô lượng Phật sát vi trần số chư Bồ Tát đều dùng tướng hảo trang nghiêm nơi thân, phóng vô biên quang nói các công hạnh. Những là tán thán bố thí khiến bỏ xan tham được các diệu bửu trang nghiêm thế giới, xưng dương công đức trì giới khiến các chúng sanh dứt hẳn những điều ác mà an trụ nơi giới đại từ bi của Bồ Tát. Nói tất cả pháp hữu vi thảy đều như mộng, nói những dục lạc không có tư vị khiến các chúng sanh rời sự ràng buộc của phiền não. Nói sức nhẫn nhục khiến các pháp tâm được tự tại. Khen thân kim sắc khiến các chúng sanh lìa nhơ sân hận, khởi hạnh đối trị tuyệt đường súc sanh. Khen hạnh tinh tấn khiến họ xa lìa thế gian phóng dật, đều siêng tu vô lượng diệu pháp. Lại tán thán Thiền Ba la mật khiến tất cả tâm được tự tại. Lại diễn thuyết Bát Nhã Ba la mật khai thị chánh kiến, khiến các chúng sanh thích trí tự tại trừ những kiến chấp. Lại diễn thuyết những việc làm tùy thuận thế gian, khiến các chúng sanh dầu lìa sanh tử mà ở nơi các loài tự tại thọ sanh. Lại hiện thần thông biến hóa nói thọ mạng tự tại, khiến các chúng sanh phát đại thệ nguyện. Lại diễn thuyết thành tựu sức tổng trì, xuất sanh sức đại nguyện, sức tịnh trị tam muội, sức tự tại thọ sanh. Lại diễn thuyết các thứ trí: như là trí biết khắp căn tánh của các chúng sanh, trí biết khắp tất cả tâm hành, trí biết khắp Như Lai thập lực, trí biết khắp chư Phật tự tại, những sự như vậy cùng khắp pháp giới.
He also saw as many enlightening beings as atoms in countless buddha-
fields emerge praising transcendent morality, manifesting from every pore
oceans of past efforts of all buddhas invofved in transcendent morality, turn-
ing all beings away from the spheres of all mundane states and turning them
toward the sphere of the enlightened, disdaining the world of desire, dis-
persing the veil of error from the world, stopping untrue thoughts and
enjofning the way of life of enlightening beings, commending the ethic of
great compassion and leading beings into the conduct of the practice of the
path of buddhas to attain the conduct of the enlightened, showing sentient
beings that the state of existence is like a dream and guiding them into power
over afflictions caused by grasping sense objects so that they may fully enter
into the way of acting as in a dream.
He also saw as many enlightening beings as atoms in countless buddha-
Page 1202 – The Flower Ornament Scripture
fields emerge, lighting up the world with golden light, guiding beings to a
state of mind without hatred or malice, free from all corruption and defect,
emanating from every pore multitudes of past efforts ofbuddhas invofved in
transcendent toferance in order to cut off all brutal tendencies, leading sen-
tient beings into the power of toferance, showing sentient beings mastery
over phenomena.
He also saw as many enlightening beings as atoms in countless buddha-
fields emerge, engaged in miraculous displays showing the endless power of
energy of enlightening beings, commending tireless quest for the ocean of
learning by the power of nonregression in progress toward omniscience,
guiding beings to honor and attend all buddhas, leading beings to arouse
great energy to get rid of the mass of all suffering, emanating from all their
bodies multitudes of past efforts invofved in enlightening beings’ perfection
of transcendent energy, shattering sentient beings’ mountains of sloth, lead-
ing sentient beings into transcendent energy, guiding sentient beings to
mastery over action.
He also saw as many enlightening beings as atoms in countless buddha-
fields emerge guiding sentient beings into the path of mindfulness,
dissofving the darkness of all obstructions, causing sentient beings to desist
from all intoxication and leading them into sobriety, taking down the flags
of pretentiousness, arrogance, and pride, telling of the ocean of branches of
meditation ofbuddhas, describing transcendent meditation to people, ema-
nating from every pore multitudes of past efforts invofved in perfection of
transcendent meditation, guiding sentient beings to mastery of mind, per-
vading the cosmos moment to moment.
He also saw as many enlightening beings as atoms in countless buddha-
fields emerge and pervade the cosmos in every moment of thought
emanating from every pore multitudes of past efforts invofved in the
search of buddhahood, uttering multitudes of perfections of transcendent
wisdom by oceans of words, emanating the lightning of right hisight,
expressing the inherent nature of phenomena, shattering the mountainous
masses of sentient beings’ notion of self, extracting all arrows of views, dis-
persing the darkness of desire, heedlessness, and doubt, commending
controf of inclination.
He also saw as many enlightening beings as atoms in countless buddha-
fields emerge and pervade the cosmos in a mental impulse, showing the
sphere of methods of all buddhas’ skill in liberative means, emanating from
every pore multitudes of past efforts invofved in skill in means, spreading
the practice of skill in means in the world, illuminating the way of universal
emancipation, describing the sphere of all buddhas, describing and showing
the practice of enlightening beings which unites the mundane and the tran-
scendental, guiding sentient beings to enlightening beings’ perfection of
skill in means, demonstrating in the world all enlightening beings’ mastery
of regeneration.
He also saw as many enlightening beings as atoms in countless buddha-
fields emerge and pervade the cosmos in each moment of thought by various
Page 1203 – Entry into the Realm of Reality
profections of will, emanating from every pore multitudes of oceans of
names of all buddhas, radiating from every pore multitudes of past efforts
invofved in purification of transcendent vows of all enlightening beings,
commending transcendent commitment, guiding sentient beings into the
masteries of all enlightening beings, powering through the world the eter-
nally rofling chariot wheel of great vows which follows all truths and gets
rid of all afflictions and shatters the mountains of nescience.
He also saw as many enlightening beings as atoms in countless buddha-
fields emerge and ceaselessly fill the cosmos in each moment of thought,
manifesting the power of enlightening beings’ eonsummation of power,
emanating from every pore multitudes of past efforts producing the con-
summation of transcendental power, showing power which cannot be
overcome by any demons or challengers, nurturing such power that all the
adamantine mountains surrounding the earth would shatter upon contact
with their bodies, showing power such that their bodies do not even blaze up
in the ocean of fire that burns the universe at the end of each eon, showing
the power to hold all worlds in their hands while hovering in space, guiding
beings to controf of magical powers.
He also saw as many enlightening beings as atoms in countless buddha-
fields emerge and fill the cosmos in every thought illuminating the sphere
of knowledge of sentient beings, emanating from every pore multitudes of
past efforts invofved in purification of eonsummate knowledge, manifesting
in the world the stage of knowledge characterized by mystic knowledge of
all buddhas’ virtues and knowledges, showing the stage of knowledge char-
acterized by mystic knowledge of all buddhas’ perceptions, illuminating the
stage of knowledge characterized by mystic knowledge of the undertaking
of all vows, revealing the stage of knowledge characterized by mystic
knowledge of the undertaking of the vow to save all sentient beings, reveal-
ing the stage of knowledge characterized by mystic knowledge penetrating
the lack of self or independent existence in all beings, illumining the stage of
knowledge characterized by mystic knowledge observing the ocean of
minds of all sentient beings, analyzing the stage of knowledge characterized
by mystic knowledge discerning the faculties of all sentient beings, describ-
ing the stage of knowledge characterized by mystic knowledge observing
the inclinations and interests of all sentient beings, disclosing the stage of
knowledge characterized by mystic knowledge comprehending the ocean
of actions of all beings, showing the stage of knowledge characterized by
mystic knowledge penetrating the ocean of commitments of all sentient
beings, guiding sentient beings into the perfection of knowledge.
From Saradhvaja’s topknot of flesh Sudhana saw emerge as many embodi-
ments of buddhas as atoms in countless buddha-fields, adorned with the
finest characteristics and embellishments, appearing like mountains of gold,
with immeasurable auras of blazing light illumining everything in the ten
directions and Voices pervading the cosmos, suffusing all universes, showing
endless miraculous transformations of Buddha, showering rain from clouds
of teaching on all without discrimination — showering rain from a cloud of
Page 1204 – The Flower Ornament Scripture
teaching called knowledge confronting the distinction of all planes of the
cosmos on enlightening beings on the verge of enlightenment, showering
rain from a cloud of teaching called the ground of universality on coronated
enlightening beings, showering rain from a cloud of teaching called entry
into the ground of universality on enlightening beings ordained as princes
of the great teaching, showering rain from a cloud of teaching called univer-
sal arrangement on enlightening beings of youthful nature, showering rain
from a cloud of teaching called steadfast head of great compassion on
nonregressing enlightening beings, showering rain from a cloud of teaching
called diamond of knowledge distinguishing the intrinsic essence of all phe-
nomena on enlightening beings of purified intent, showering rain from a
cloud of teaching called arrangement taking in all beings on enlightening
beings accomplished in preparatory practices, showering rain from a cloud
of teaching called cloud of communication with the assemblies of all bud-
dhas of past, present, and future on regenerated enlightening beings,
showering rain from a cloud of teaching called Voice of the ground of intrin-
sic essence of all phenomena on enlightening beings engaged in concerted
practice, showering rain from a cloud of teaching called source of clouds
containing the ways and means of great compassion on enlightening beings
engaged in primary practices, showering rain from a cloud of teaching
called store of kindness on enlightening beings newly determined to see
enlightenment, showering rain from a cloud of teaching called inexhausti-
ble treasury of kindness of the buddhas’ commitment to liberation on
enlightening beings of great zeal, showering rain from a cloud of teaching
called inexhaustible treasury of the universal ground on beings in the world
of form, showering rain from a cloud of teaching called sound produced by
the measureless ocean of principles on Brahma body deities, showering rain
from a cloud of teaching called inexhaustible treasury of power producing
spiritual methods on controfling deities, showering rain from a cloud of
teaching called sound cleaning variously represented provisions for omnis-
cience on demon-body deities, showering rain from a cloud of teaching
called varied cargo of jewels of knowledge on the deities who enjoy emana-
tions, showering rain from a cloud called varied representation of the vows
of enlightening beings on deities in the heavens of happiness, showering
rain from a cloud of teaching called treasury of recoflection of all buddhas
on deities in the heavens of timely portion, showering rain from a cloud of
teaching called source of the rapture of the vision of Buddha on the abodes
of the chief deities, showering rain from a cloud of teaching called multi-
tude of transformations of Buddha pervading the space of the cosmos on the
abodes of the chief demigods, showering rain from a cloud of teaching
called sound of eulogies of the qualities of all enlightened ones on the abodes
of the chief celestial musicians, showering rain from a cloud of teaching
called indestructible sphere of ways to knowledge on the abodes of the chief
titans, showering rain from a cloud of teaching called multitude of means of
development of all enlightened ones on the abodes of the chief birds, show-
ering rain from a cloud of teaching called source of the magical utterances of
Page 1205 – Entry into the Realm of Reality
enlightening beings traveling swiftly through the states of existence on the
abodes of the chief dragons, showering rain from a cloud of teaching called
speed of increase of the ocean of joy on the abodes of the chief serpents,
showering rain from a cloud of teaching called sphere of the highest knowl-
edge of all beings on the realms of humans, showering rain from a cloud of
teaching called ornament bearing the words of the hofy path bespeaking the
extinction of all the pains of mundane existence on the hells, showering rain
from a cloud of teaching called round body of clouds of remembrance of
buddhas bespeaking the practice of impeccable action on the realms of ani-
mals, showering rain from a cloud of teaching called declaration of the
transcendence of all buddhas producing a mind of nonattachment in all sen-
tient beings on the ghost realms, showering rain from a cloud of teaching
called comforting sound effecting the cessation of all pains on beings in
distress.
Từ trên đảnh của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện vô số trăm ngàn ức thân Như Lai. Thân đó không ai bằng, đủ các tướng hảo thanh tịnh trang nghiêm, oai quang rực rỡ như tòa núi vàng vô lượng quang minh chiếu khắp mười phương, pháp diệu âm thanh sung mãn pháp giới, thị hiện vô lượng sức thần thông. Vì tất cả thế gian mà mưa pháp vũ: vì chư Bồ Tát ngồi Bồ đề đạo tràng mà mưa pháp vũ bình đẳng biết khắp. Vì chư Bồ Tát ở ngôi quán đảnh mà mưa pháp vũ nhập phổ môn. Vì chư Bồ Tát Pháp Vương Tử vị mà mưa pháp vũ phổ trang nghiêm. Vì chư Bồ Tát đồng tử vị mà mưa pháp vũ kiên cố sơn. Vì chư Bồ Tát bất thối vị mà mưa pháp vũ hải tạng. Vì chư Bồ Tát thành tựu chánh tâm vị mà mưa pháp vũ phổ cảnh giới. Vì chư Bồ Tát phương tiện cụ túc vị mà mưa pháp vũ tự tánh môn. Vì chư Bồ Tát sanh quý vị mà mưa pháp vũ tùy thuận thế gian. Vì chư Bồ Tát tu hành vị mà mưa pháp vũ khắp bi mẫn. Vì chư Bồ Tát tân học mà mưa pháp vũ tích tập tạng. Vì chư Bồ Tát sơ phát tâm mà mưa pháp vũ nhiếp chúng sanh. Vì chư Bồ Tát tín giải mà mưa pháp vũ vô tận cảnh giới khắp hiện tiền. Vì Sắc giới các chúng sanh mà mưa pháp vũ phổ môn. Vì chư Phạm Thiên mà mưa pháp vũ sanh lực. Vì chư ma chúng mà mưa pháp vũ tâm tràng. vì chư Thiên Hóa Lạc mà mưa pháp vũ tịnh niệm. Vì chư Thiên Ðâu Suất ma mưa pháp vũ sanh ý. Vì chư Thiên Dạ Ma mà mưa pháp vũ hoan hỷ. Vì chư Thiên Ðao Lợi mà mưa pháp vũ mau trang nghiêm cõi hư không. Vì chư Dạ Xoa Vương mà mưa pháp vũ hoan hỷ. Vì chư Càn Thát Ba Vương mà mưa pháp vũ kim cang luân. Vì chư A Tu La Vương mà mưa pháp vũ đại cảnh giới. Vì chư Ca Lâu La Vương mà mưa pháp vũ vô biên quang minh. Vì chư Khẩn Na La Vương mà mưa pháp vũ tất cả thế gian trí thù thắng. Vì chư Nhơn Vương mà mưa pháp vũ không say đắm. Vì chư Long Vương mà mưa pháp vũ hoan hỷ tràng. Vì chư Ma Hầu La Già Vương mà mưa pháp vũ bất hưu tức. Vì các chúng sanh địa ngục mà mưa pháp vũ chánh niệm trang nghiêm. Vì các súc sanh mà mưa pháp vũ trí huệ tạng. Vì các chúng sanh cõi Diêm La Vương mà mưa pháp vũ vô úy. Vì các chúng sanh ở xứ ách nạn mà mưa pháp vũ phổ an ủy. Ðều làm cho tất cả chúng sanh được vào chúng hội Hiền Thánh. Những sự như vậy sung mãn pháp giới.
He also saw as many orbs of webs of light beams as atoms in countless
buddha-fields emerge from every pore, countless whirling arrays of phan-
tom forms of power, manifestations of countless various works, pervading
the entire cosmos. From some orbs of webs of light beams he saw scenes of
the practice of pure giving, relinquishing everything; from some orbs of
webs of light beams he saw scenes of the procedures of all past, present and
future enlightening beings’ investiture with ethical precepts; from some
orbs of webs of light beams he saw scenes of all enlightening beings of past,
present, and future practicing forbearance, enduring dismemberment, beat-
ings, having their hearts and eyes gouged out, and he saw magically
produced images of the practices of forbearance of all enlightening beings
by the oppressed enlightening beings of past, present, and future with bodies
sundered in the search of omniscience, enduring, forgiving, and overlook-
ing all physical and mental harassment, out of great compassion; from some
orbs of webs of light beams he saw scenes of different forms of the immen-
sity of the practice of vigor of all enlightening beings, scenes of the great
prowess of enlightening beings shaking the world, agitating the seas, star-
tling sentient beings, scaring all heretics; from some orbs of webs of light
beams he saw embodiments of all deeds of enlightening beings, the forms
taken on, the perfections of physical bodies to be born in good families, the
acceptance of instructions of spiritual benefactors, the states of practice of
the teachings of spiritual benefactors, the abandonments of home, country,
and city for suitable abodes to accomplish the branches of meditation of the
enlightened, the seers, the meditation adepts, the kings, the recluses, the
manners of disciplined conduct; from some orbs of webs of light beams he
saw embodiments invofved in seeking all truths in the station of practice of
transcendent wisdom; from the orbs of webs of light beams from each and
every pore Sudhana saw the bodies by which each statement of the Teaching
was sought from the midst of all beings by relinquishing all that exists,
sought from all spiritual benefactors through attendance and service, sought
from buddhas with all the strength generated by faith and respect, and all
the statements of the Teaching related to transcendent wisdom similarly
Page 1206 – The Flower Ornament Scripture
sought by bodies manifested in the forms of all sentient beings; from some
orbs of webs of light beams he saw all enlightening beings entering the
ocean of states of being with means of development, endeavoring to save all
sentient beings; from orbs of webs of light beams from every pore he saw
enlightening beings saving sentient beings, engaged in the practice of skill
in means taken on by their original bodies, approaching each and every
being in a form resembling those beings; from some orbs of webs of light
beams he saw the conduct of the Buddha’s undertaking of vows in all past
ages, the conduct of the undertaking of the vow to perfect all beings, the
conduct of the undertaking of the vow to purify all lands, the spheres of
accomplishment of all vows effected by eachbuddhaby the specific cures for
each of the ills of the mundane whirl. Sudhana saw all this from orbs of
lights from each pore; from some orbs of webs of light beams he saw oceans
of past efforts invofved in the practice of transcendent power; from some
orbs of webs of light beams he saw oceans of past efforts invofved in the con-
templations of the practice of omniscience and the awakening of sentient
beings asleep in the slumber of ignorance.
Lại nơi tất cả lỗ lông trên thân của Hải Tràng tỳ Kheo, mỗi mỗi đều phóng ra vô số Phật sát vi trần số quang minh võng. Mỗi mỗi quang minh võng đủ vô số sắc tướng, vô số trang nghiêm, vô cảnh giới, vô số sự nghiệp, sung mãn tất cả thế giới mười phương.
Then, observing the monk Saradhvaja thus concentrated in meditation,
mindful of that sphere of concentration and liberation, contemplating the
inconceivable power of concentration of enlightening beings, entering into
that inconceivable ocean of ways of benefiting sentient beings, remember-
ing that inconceivable medium of the performance of supernal manifesta-
tions confronting all the senses, strongly focusing his attention on it,
entering that door of knowledge of purity of arrangement of the cosmos,
aspiring to that enlightened power, expanding in knowledge, recognizing
that controfling power of enlightening beings, stabilizing the power of
vows of enlightening beings, extending the power of practice of enlighten-
ing beings, Sudhana stood before Saradhavja for a day and a night, for two
days and nights, seven days and nights, a fortnight, a month, six months, and
then six more days and nights.
Lúc đó Thiện Tài đồng tử nhất tâm quán sát Hải Tràng Tỳ Kheo lòng rất khát ngưỡng. Ghi nhớ tam muội giải thoát của Tỳ kheo. Tư duy bất tư nghì Bồ Tát tam muội của Tỳ kheo. Tư duy bất tư nghì phương tiện lợi ích chúng sanh của Tỳ kheo. Tư duy bất tư nghì vô tác dụng phổ trang nghiêm môn của Tỳ kheo. Tư duy trí thanh tịnh trang nghiêm pháp giới của Tỳ kheo. Tư duy trí thọ Phật gia trì của Tỳ kheo. Tư duy sức tự tại xuất sanh Bồ Tát của Tỳ kheo. Tư duy sức đại nguyện kiên cố Bồ Tát của Tỳ kheo. Tư duy sức thêm rộng Bồ Tát hạnh của Tỳ Kheo Hải Tràng.
Thiện Tài đồng tử đứng tư duy quán sát như vậy qua một ngày đêm, nhẫn đến bảy ngày đêm, nửa tháng, một tháng, đến sáu tháng, lại qua sáu ngày nữa Hải Tràng Tỳ Kheo mới xuất tam muội.
After six months and six days and nights, the monk Saradhvaja rose from
concentration. Sudhana said, “It is marvelous, noble one, how profound this
concentration is, how vast, how measureless its scope, how inconceivable its
arrays of profections, how incomparable its light, how innumerable its man-
ifestations, how unsurpassable its range, how pure its sphere, how it
illumines everywhere equally, how it works for the benefit of infinite
beings, in that it is directed to the extinction of the measureless mass of suf-
fering of all sentient beings, to extinguish the sufferings of the destitute, to
end hellish states, to rescue beings from brutish states, to close the door on
all conditions inopportune for enlightenment, to lead the way to heavenly
states, to produce human and celestial pleasure and happiness, to foster expe-
rience of the pleasure of meditation, to increase happiness in the conditioned
world, to show the way out of the mundane. It is set forth to illumine the
cause of production of the aspiration of enlightenment, to develop the cause
of production of provisions of virtue and knowledge, to increase the inten-
sity of vast great compassion, to generate the power of great vows, for the
Page 1207 – Entry into the Realm of Reality
attainment of the light of the path of enlightening beings, for the arrange-
ment of the great vehicle of the transcendent ways, for the accomplishment
of the supreme attainment of the Great Vehicle, for the vision of the knowl-
edge of universally good action, for the attainment of the light of the
knowledge of the stages of enlightening beings, for accomplishment of the
purification of the array of means of emancipation in the practice of the
vows of all enlightening beings, for the empowerment of accession to the
sphere of omniscience. Noble one, what is the name of this concentration?”
Thiện Tài đồng tử khen rằng: Bạch đức Thánh! Hy hữ kỳ đặc, tam muội như thế rất là sâu xa, tam muội như vậy rất là quảng đại, tam muội như vậy cảnh giới vô lượng, tam muội như vậy thần lực khó nghĩ, tam muội như vậy quang minh không gì bằng, tam muội như vậy trang nghiêm vô số, tam muội như vậy oai lực khó chế ngự, tam muội như vậy cảnh giới bình đẳng, tam muội như vậy chiếu khắp mười phương, tam muội như vậy lợi ích vô hạn, vì có thể trừ diệt vô lượng khổ cho tất cả chúng sanh. Như là làm cho tất cả chúng sanh lìa khổ do tham, khỏi khổ địa ngục, súc sanh, đóng cửa ách nạn, mở đường nhơn thiên, làm cho nhơn thiên hoan hỷ. Làm cho họ thích thiền cảnh giới. Có thể làm cho tăng trưởng sự vui hữu vi. có thể vì họ mà hiển bày sự vui giải thoát. Có thể vì họ dẫn phát tâm Bồ đề. Có thể khiến tăng trưởng hạnh phước trí. Có thể khiến tăng trưởng tâm đại bi. Có thể làm cho sanh khởi sức đại nguyện. Có thể làm cho minh liễu đạo Bồ Tát. Có thể làm cho trang nghiêm trí cứu cánh. Có thể làm cho xu nhập cảnh Ðại thừa. Có thể làm cho chiếu liễu hạnh Phổ Hiền. Có thể làm cho chứng được trí quang minh của các bậc Bồ Tát. Có thể làm cho thành tựu các hạnh nguyện của tất cả Bồ Tát. Có thể làm cho an trụ trong cảnh giới Nhứt thiết chủng trí.
Bạch đức Thánh! Tam muội này tên là gì?
Saradhvaja said, “There is a perfection of wisdom called equanimity of the
universal eye, and this concentration is its light, called manifestation of uni-
versal purification. By the perfect accomplishment of the concentration of
manifestation of universal purification, which springs from the light of the
perfection of wisdom of equanimity of the universal eye, countless tens of
hundreds of thousands of complete concentrations, beginning with the
manifestation of universal purification, are born.”
Hải Tràng Tỳ Kheo nói:
Nầy thiện nam tử! Tam muội đây tên là “Phổ nhãn xả đắc”. Lại tên là” Bát Nhã Ba la mật cảnh giới thanh tịnh quang minh”. Lại gọi là “Phổ trang nghiêm thanh tịnh môn”.
Này thiện nam tử! Ta do tu tập Bát Nhã Ba la mật nên được tam muội phổ trang nghiêm thanh tịnh này và trăm vạn vô số tam muội.
Sudhana said, “Is this the greatest range of this concentration?”
Saradhvaja said, “One who has fully accomplished this concentration has
the power to discern worlds, to enter worlds, to travel freely in worlds, to
adorn worlds, to purify worlds, to beautify worlds, to see buddhas, to
observe the grandeur of buddhas, to know the emanations of buddhas, to
enter the powers of buddhas, to plunge into the ocean of virtues of buddhas,
to receive the teachings of buddhas, to follow the knowledge of the unity of
all buddhas’ teachings, to enter the ocean of congregations of buddhas, to go
anywhere in the ten directions, to observe the teaching activity of the bud-
dhas, to see the realms of the buddhas, to embrace all with great compassion,
to pervade everywhere with love, to plunge tirelessly into the vision of bud-
dhas everywhere, to enter into the ocean of all beings, to know the ocean of
faculties of all beings, to know the distinction of faculties of all beings.
Thiện Tài đồng tử thưa:
Bạch đức Thánh! Cảnh giới rốt ráo của tam muội này chỉ như vậy thôi ư ?
Hải Tràng Tỳ Kheo nói:
Này thiện nam tử! Lúc nhập tam muội này, thời rõ biết tất cả thế giới không chướng ngại. Qua đến tất cả thế giới không chướng ngại. Vượt qua tất cả thế giới không chướng ngại. Trang nghiêm tất cả thế giới không chướng ngại. Tu trị tất cả thế giới không chướng ngại. Nghiêm tịnh tất cả thế giới không chướng ngại. Thấy tất cả Phật không chướng ngại. Quán tất cả chư Phật oai đức quảng đại không chướng ngại. Biết tất cả chư Phật thần lực tự tại không chướng ngại. Chứng tất cả chư Phật quảng đại lực không chướng ngại. Nhập tất cả chư Phật những công đức hải không chướng ngại. Thọ tất cả chư Phật vô lượng diệu pháp không chướng ngại. Nhập trong tất cả Phật pháp tu tập diệu hạnh không chướng ngại. Chứng trí tất cả chư Phật chuyển pháp luân bình đẳng không chướng ngại. Nhập tất cả chư Phật chúng hội đạo tràng không chướng ngại. Quán Phật pháp mười phương không chướng ngại. Ðại bi nhiếp thọ chúng sanh mười phương không chướng ngại. Thường khởi đại từ sung mãn mười phương không chướng ngại. Thấy thập phương chư Phật lòng không nhàm đủ, không chướng ngại. Nhập tất cả chúng sanh hải không chướng ngại. Biết căn tánh hải của tất cả chúng sanh không chướng ngại. Biết những căn sai biệt trí của tất cả chúng sanh không chướng ngại.
“I know this state of perfection of wisdom; but how can I know the prac-
tice, tell of the virtues, show the realm, reveal the sphere, describe the power
of great vows, illumine the way of emancipation, elucidate the attainment,
shed light on the path, follow the stream of concentration, know the range
of mind, or reach equality with the knowledge, of the enlightening beings
who have entered the ocean of states of perfection of wisdom, who have
clarified the cosmic perspective, who know where all teachings lead, who
pervade an infinite sphere with vast awareness, who command the light of
great mental controf, who have purified the light of all spheres of concentra-
tion, who issue from the magical power of mystic knowledge, who have
entered the inexhaustible ocean of intelligence, who speak pleasantly of the
stages of enlightenment, who are refuges for all beings?
Này thiện nam tử! Ta chỉ biết một Bát Nhã Ba la mật tam muội quang minh này. Còn như chư Bồ Tát nhập trí huệ hải, tịnh pháp giới cảnh, đạt tất cả thú, khắp vô lượng cõi, tổng trì tự tại, tam muội thanh tịnh, thần thông quảng đại, biện tài vô tận, khéo nói các địa, làm chỗ nương cho chúng sanh, ta làm sao biết được những diệu hạnh đó, biện được công đức đó, rõ được chỗ làm đó, tỏ được cảnh giới đó, tột được nguyện lực đó, nhập được yếu môn đó, đạt được sở chứng đó, nói được đạo phần đó, trụ được tam muội đó, thấy được tâm cảnh đó, chứng được bao nhiêu trí huệ bình đẳng đó.
“Go south, to a place called Samudravetadin, where there is a park called
Samantavyuha, in front of the city Mahaprabha, where a lay woman named
Asha, wife of king Suprabha, dwells; go to her and ask her how an enlight-
ening being is to learn and apply the practice of enlightening beings.”
Này thiện nam tử! Từ dây qua phương Nam có một xứ tên là Hải Triều. Xứ đó có khu viên lâm tên là Phổ Trang Nghiêm. Trong viên lâm đó có Ưu bà di tên là Hưu Xã. Ngươi đến đó hỏi Ưu bà di : Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh? Thế nào tu Bồ Tát đạo?
Then Sudhana, pleased, uplifted, transported, overjoyed, joyful and
Page 1208 – The Flower Ornament Scripture
happy, invigorated and sustained by Saradhvaja, having entered the realm of
concentration, having attained illumined knowledge, having attained the
light of concentration, his eonsciousness illumined by the light of the prin-
ciples of teaching pursuant to purifications of interest, seeing the way to
purity, with knowledge emanating light in all directions, paid his respects to
Saradhvaja and left, looking at him again and again, bowing to him, think-
ing and meditating on him, praising him, recalling his virtues and keeping
them firmly in mind, jofning in with his vow, seeking his vision, remember-
ing his words, recalling his appearance, contemplating the excellence of his
knowledge, plunging into his sphere of concentration, fixing his mind on
his sphere of undertaking, reflecting on the scope of his experience, illu-
mined by his knowledge.
Bấy giờ Thiện Tài đồng tử ở chỗ Hải Tràng Tỳ Kheo được thân kiên cố, được của diệu pháp, nhập thâm cảnh giới, trí huệ sáng suốt, tam muội chiếu sáng, trụ thanh tịnh giải, thấy pháp thậm thâm, tâm an trụ trong các môn thanh tịnh, trí huệ quang minh sung mãn mười phương.
Thiện Tài đồng tử rất vui mừng hớn hở vô lượng. Năm vóc gieo xuống đất đảnh lễ chân Hải Tràng Tỳ Kheo, hữu nhiễu vô lượng vòng, cung kính chiêm ngưỡng tư duy quán sát ngậm ngùi luyến mộ. Nhớ danh hiệu của Hải Tràng Tỳ Kheo. Tưởng dung nhan cử chỉ của Hải Tràng Tỳ Kheo. Ghi âm thanh của Hải Tràng Tỳ Kheo. Suy gẫm tam muội của Hải Tràng Tỳ Kheo và đại nguyện cùng cảnh giới. Thọ lấy trí huệ quang minh thanh tịnh của Hải Tràng Tỳ Kheo, sao đó từ tạ mà đi.
Asha
Then Sudhana, uplifted by the virtues of the spiritual benefactor, sent forth
by the spiritual benefactor, having gained access to the vision of the spiritual
benefactor, putting the instructions of the spiritual benefactor into practice,
remembering the words of the spiritual benefactor, kindly disposed toward
spiritual benefactors, seeing spiritual benefactors as mines of the vision of
buddhas, seeing spiritual benefactors as those who show the teachings of
buddhas, seeing spiritual benefactors as teachers of the elements of omnis-
cience, seeing spiritual benefactors as eyes to see the sky of buddhahood,
gradually made his way to Samantavyuha Park in Samudravetadin.
He saw the park surrounded by fences made of all kinds of jewels, in the
midst of rows of all kinds of jewel trees, adorned throughout with beautiful
delicate flowers like sets of all kinds of jewels releasing poflen, adorned by all
kinds of jewel trees, strewn with the various blossoms of the flowers of all
kinds of jewel trees, with rows of trees of all kinds of fragrances giving off
their scents in all directions, trees of garlands of all jewels with their flower
buds bursting forth streaming a rain of garlands of various jewels, the
ground beautifully spread with various decorations made of jewels from
trees of all kinds of diamonds, the area well distributed with cloths of various
cofors hanging down from trees of flowers of various forms, with trees of all
kinds of musical histruments making beautiful sounds surpassing the heav-
ens when stirred by the wind, the ground level throughout, neither high nor
low, adorned with various trailing streamers of ornaments welling forth
from the flower buds of trees of all ornaments. In the park, furthermore,
were ten hundred thousand arrays of turrets adorned with all kinds of pre-
cious jewels, extremely pure; ten hundred thousand towers covered with
gold, ten hundred thousand mansions adorned with radiantjewels, ten hun-
dred thousand lotus ponds made of all kinds of jewels, inlaid with jewel
bricks, with varied stairways made of seven precious substances, surrounded
by benches made of various gems, fragrant as poofs of water scented with
celestial sandalwood, the bottoms covered with golden sand, spread with
ten layers of pure gold and jewels, stairways set on four sides, filled with
Page 1209 – Entry into the Realm of Reality
water of eight qualities, vibrant with the beautiful sounds of the calls of vari-
ous birds, surrounded by rows of jewel palms, covered by nets of gold bells
chiming sweetly when stirred by the wind, with canopies of great jewels
above, surrounded by enclosures of trees of various jewels, with banners and
streamers flying from jewel nets. There were also ten hundred thousand
poofs, lined with sandalwood clay, covered with lotuses of various cofors
made of all kinds of jewels, with pure water shining with lotuses of huge
gems.
In the middle of the park was a large mansion called Multicofored Banner
standing on a ground of jewels, adorned with pillars of sapphire, rooted with
gold, surfaced with arrays of world-illumining jewels, its base blazing with
webs of countless jewels, graced by the scent of unsurpassed jewels of fra-
grance, perfumed by jewels of compounded fragrances, filled with jewels of
awakening fragrance extinguishing the heat of the senses.
Khi ấy Thiện tài đồng tử nhờ sức thiện tri thức, y lời dạy của thiện tri thức, nhớ lời nói của thiện tri thức, thâm tâm mến thích thiện tri thức. Tự nghĩ rằng: Nhơn thiện tri thức, làm cho tôi được thấy Phật. Nhơn thiện tri thức làm cho tôi được nghe pháp. Thiện tri thức là thầy học của tôi, vì chỉ dạy tôi những Phật pháp. Thiện tri thức là nhãn mục của tôi, vì làm cho tôi thấy Phật như hư không. Thiện tri thức là chiếc đò của tôi, vì làm cho tôi được vào ao hoa sen của chư Phật Như Lai.
Vừa suy gẫm vừa đi lần qua phương Nam đền xứ Hải Triều, thấy vườn Phổ Trang Nghiêm, tường rào bằng các thứ bửu bao bọc. Tất cả cây báu hàng liệt trang nghiêm. Tất cả cây bửu hoa rải những diệu hoa trải trên mặt đất. Tất cả cây bửu hương mùi thơm ngào ngạt xông khắp mười phương. Tất cả cây tràng hoa báu mưa tràng hoa báu lớn rủ xuống khắp nơi. Tất cả cây ma ni bửu vương mưa báu đại ma ni rải đầy khắp nơi. Tất cả cây bửu y mưa y phục nhiều màu tùy sở nghi giăng trải quanh vườn. Tất cả cây âm nhạc gió động thành tiếng êm dụi hơn thiên nhạc. Tất cả cây đồ trang nghiêm mưa những vật trân ngoạn kỳ dụi trần thiết nghiêm sức khắp nơi. Mặt đất trong vườn thanh tịnh không có cao thấp. Trong vườn có trăm vạn điện đường xây bằng đại ma ni bửu. Có trăm vạn lâu các, vàng diêm phù đàn che trùm phía trên. Trăm vạn cung điện, tỳ lô giá na ma ni bửu xen lẫn trang nghiêm. Một vạn ao tắm các báu hiệp thành. Lan thuẫn bảy báu bao bọc giáp vòng, thềm đường bảy báu phân bố bốn phía. Nước tám công đức đứng lặng đầy ao, hơi thơm như thiên chiên đàn. Cát vàng trải đáy ao. Bửu châu thủy thanh xem lẫn khắp nơi. Nhiều loại chim đẹp du ngoạn trong đó hót tiếng, hòa nhã. Cây bửu đa la hàng liệt bao vòng, bửu võng giăng trùm, thòng những linh vàng, gió nhẹ rung thường vang tiếng dịu. Giăng màn đại bửu. Dựng vô số ma ni bửu tràng quang minh chiếu khắp trăm ngàn do tuần. Trong đó lại có trăm vạn ao, bùn hắc chiên đàn ngưng đọng đáy ao. Tất cả diệu bửu làm hoa sen nở trên mặt nước. Hoa đại ma ni màu sáng chiếu rực rở. Trong ao lại có cung điện rộng lớn tên là trang nghiêm tràng hải tạng, diệu bửu làm nền, tỳ lưu ly bửu làm cột, diêm phù đàn kim che trên, quang tạng ma ni dùng trang nghiêm, vô số bửu vương ánh sáng rực rở. Lầu nhiều từng giáp với gác nhiều thứ trang sức a lô na hương vương, giác ngộ hương vương, đều phát ra diệu hương xông khắp nơi.
In that mansion were arranged infinite seats — the calyxes of lotuses,
luminous jewel lotuses, radiant jewel lotuses, world-illumining jewel
lotuses, lotuses of various treasures, lotuses of pure jewels, lotuses inlaid with
jewels, lotuses of omnifaceted jewels, lotuses of jewels with auras of light,
lotuses of jewels shining with the radiant lights of arrays of pure jewels of
the ocean, jewel lotuses covered with diamond lions.
The many turrets of the mansion were made of inconceivably many jew-
els, arrayed with varicofored jewels, their forms resplendent with light of
inconceivably many cofors.
Trong cung điện đó lại có vô lượng tòa bửu liên hoa trần thiết giáp vòng. Như là tòa bửu liên hoa ma ni chiếu sáng mười phương. Tòa tỳ lô giá na ma ni bửu liên hoa. Tòa ma ni bửu liên hoa chiếu sáng thế gian. Tòa diệu tạng ma ni bửu liên hoa. Tòa sư tử tạng ma ni bửu liên hoa. Tòa ly cấu tạng ma ni bửu liên hoa. Tòa phổ môn ma ni bửu liên hoa. Tòa quang nghiêm ma ni bửu liên hoa. Tòa an trụ đại hải tạng thanh tịnh ma ni vương bửu liên hoa. Tòa kim cang sư tử ma ni bửu liên hoa.
Trong vườn lại có trăm vạn thứ màn. Như là màn y phục, màn tràng hoa, màn hương, màn hoa, màn cành, màn ma ni, màn chơn kim, màn đồ trang nghiêm, màn âm nhạc, màn tượng vương thần biến, màn mã vương thần biến, màn ma ni bửu của Thiên Ðế đeo.
The park was also covered above by ten hundred thousand canopies, such
as canopies of cloth, canopies of plant tendrils, canopies of flowers, canopies
of garlands, canopies of fragrances, canopies of jewels, golden canopies, can-
opies of jewels glittering like diamonds, canopies of nymphs magically
produced by the chief of the water spirits, canopies of jewels prized by the
king of gods.
It was also covered by ten hundred thousand precious nets such as nets of
bells with jewels hiside, nets of jeweled streamers, nets of jewel figures, nets
of pearls, nets of sapphires, nets of moonlike jewels, nets emanating fra-
grance, nets of jeweled crowns.
It was also illumined by ten hundred thousand great lights, such as
starlight-jewel light, sun-filled-jewel light, moonlike- jewel light, scenting-
flame-jewel light, luster-filled-jewel light, lotus-calyx-jewel light, starry-
jewel light, great blazing jewel light, radiant jewel light, and the light of
jewels like wreaths of lightning emitting great clouds of fragrance.
The park was also adorned by rain from ten hundred thousand great
clouds of ornaments; ten hundred thousand sandalwood-scented clouds
thundered; it was adorned by ten hundred thousand trailing clouds of gar-
lands surpassing those in the heavens; ten hundred thousand clouds of
varicofored cloths surpassing the celestials rained; it was adorned by ten
hundred thousand clouds of ornaments surpassing those of the heavens; it
was showered by ten hundred thousand celestial beings bowing their heads
to see; it was showered by ten hundred thousand clouds of nymphs produc-
Page 1210 – The Flower Ornament Scripture
ing beings of their own kind who did the same things in the past, with bod-
ies like their own; it was showered by ten hundred thousand clouds of
enlightening beings who had come to hear the Teaching.
Innumerable living beings in all states of existence came from the ten
directions to the laywoman Asha, who was seated on a golden throne,
adorned with a net of pearls from the ocean, wearing a tiara, her wrists
adorned with bracelets of gold more beautiful than that of the heavens, her
arms resplendent with jewels of glorious light, wearing earrings of pure
deep blue gems, her head adorned with a veil of all kinds of jewels, her neck
draped with a string of wish-fulfilling jewels. Those who came to her,
affected with various sicknesses, filled with various afflictions, immersed in
various views, covered by obstructions caused by actions, had their sick-
nesses alleviated when they saw Asha. Their minds freed from the
defilement of afflictions, the thorns of views removed, the mountains of
obstructions disintegrated, they entered the sphere of unobstructed purity,
in which sphere of purity all their roots of goodness were clarified, the
sprouts of spiritual faculties grew, and they entered the ocean of principles of
omniscience, they recited the ocean of all mystic spells leading to mental
command, came face to face with the ocean of all concentration media,
began all hofy vows, set all means of practice into operation, purified the
means of accomplishing all virtues, proceeded according to wisdom charac-
terized by all higher knowledges with unregressing breadth of mind, and
became physically unattached and unobstructed, able to go everywhere.
Then Sudhana entered the park, looking all over till he saw Asha sitting
there. He went up to her, paid his respects, and said, “Noble one, I have set
my mind on supreme perfect enlightenment, but I do not know how to
learn and carry out the practice of enlightening beings. I hear you give
instructions to enlightening beings, so please tell me how an enlightening
being is to learn and carry out the practice of enlightening beings.”
Lại có trăm vạn mành lưới đại bửu giăng che phía trên. Như là lưới bửu linh, lưới bửu cái, lưới bửu thân, lưới hải tạng chơn châu, lưới cám lưu ly ma ni bửu, lưới sư tử ma ni, lưới nguyệt quang ma ni, lưới thơm nhiều hình tượng, lưới bửu quang, lưới bửu anh lạc.
Lại có trăm vạn đại quang minh chiếu sáng. Như Lai quang minh diệm quang ma ni bửu. Quang minh nhựt ma ni bửu. Quang minh nguyệt tràng ma ni bửu. Quang minh hương diệm ma ni bửu. Quang minh thắng tạng ma ni bửu. Quang minh liên hoa tạng ma ni bửu. Quang minh diệm tràng ma ni bửu. Quang minh đại đăng ma ni bửu. Quang minh ma ni bửu chiếu khắp mười phương. Quang minh hương quang ma ni bửu.
Thường mưa trăm vạn đồ trang mghiêm, trăm vạn hương hắc chiên đàn vang ra âm thanh vi diệu, trăm vạn hoa mạn đà la hơn hoa cõi trời, trăm vạn chuỗi ngọc hơn chuỗi cõi trời để trang nghiêm, trăm vạn tràng hoa báu đẹp hơn cõi trời thòng xuống khắp nơi, trăm vạn y phục nhiều màu hơn cõi trời, trăm vạn ma ni bửu nhiều màu ánh sáng chiếu khắp nơi, trăm vạn Thiên Tử vui mừng chiêm ngưỡng đầu mặt đảnh lễ, trăm vạn Thiên nữ ở giữa hư không bay xuống, trăm vạn Bồ Tát cung kính thân cận thường thích nghe pháp.
Lúc ấy, Hưu Xả Ưu bà di ngồi tòa chơn kim, đội mão hải tạng chơn châu võng, đeo bửu xuyến chơn kim hơn cõi trời, rủ tóc xanh biếc, đại ma bửu trang nghiêm trên đầu, sư tử khẩu ma ni bửu làm bông tai, như ý ma ni bửu vương làm chuỗi ngọc, bửu võng trùm trên thân. Trăm ngàn ức na do tha chúng sanh cúi mình cung kính.
Phương Ðông có vô lượng chúng đến chỗ Ưu bà di. Như là Phạm Thiên, Phạm Chúng Thiên, Ðại Phạm Thiên, Phạm Phụ Thiên, Tự Tại Thiên, nhẫn đến tất cả hạng người và phi nhơn. Chín phương kia cũng như vậy.
Có ai thấy Ưu bà di này thời tất cả bệnh khổ đều trừ diệt, lìa phiền não hết kiến chấp, xô núi chướng ngại, nhập nơi cảnh giới vô ngại thanh tịnh, thêm lớn tất cả những thiện căn, trưởng dưỡng các căn, vào tất cả môn trí huệ, vào tất cả môn tổng trì, tất cả môn tam muội, tất cả môn đại nguyện, tất cả môn diệu hạnh, tất cả môn công đức đều được hiện tiền. Tâm họ rộng lớn đầy đủ thần thông, thân không chướng ngại đến khắp mọi xứ.
Thiện Tài đồng tử vào vườn Phổ Trang Nghiêm, xem xét khắp nơi, thấy Hưu Xả Ưu bà di ngồi diệu tòa, liền đến đảnh lễ chân Ưu bà di rồi hữu nhiễu vô số vòng, thưa rằng:
Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo?
Tôi nghe đức Thánh khéo có thể dạy bảo, xin vì tôi mà giảng giải.
She said, “I have attained an enlightening liberation called ‘characterized
by sorrowless well-being.’ It is definitely beneficial to see me, hear me,
attend me, live with me, remember me. I am not visible to those who have
not developed the bases of goodness, who are not under the tutelage of spiri-
tual benefactors, who are not in the care of the perfect buddhas. Those who
see me thereupon become irreversible in progress toward supreme perfect
enlightenment. Furthermore, the buddhas of the ten directions come here
and sit on this jewel seat and expound the truth to me. I am always seeing
buddhas, hearing the truth, and meeting enlightening beings. The eighty-
four thousand quadrillion beings who live here in this park are all
irreversible in progress toward supreme perfect enlightenment, having per-
formed the same practices as I have. Any others who live here too will all be
irreversible in progress toward supreme perfect enlightenment, as enlight-
ening beings of the same practice as I who have entered the community of
those who cannot regress.”
Ưu bà di nói:
Này thiện nam tử! Ta chỉ được một môn giải thoát của Bồ Tát.
Nếu có ai thấy nghe nhớ nghĩ đến ta, cùng ta ở chung, cung cấp cho ta thời không luống công.
Này thiện nam tử! nếu có chúng sanh chẳng gieo căn lành, chẳng được thiện hữu nhiếp thọ, chẳng được chư Phật hộ niệm, kẻ đó chẳng thấy được ta.
Này thiện nam tử! Có chúng sanh nào được thấy ta thời đều được chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề.
Này thiện nam tử! Chư Phật phương đông thường đến đây, nhự trên bửu tòa vì ta mà thuyết pháp. Chư Phật chín phương kia cũng vậy.
Này thiện nam tử! Ta thường chẳng rời thấy Phật, nghe pháp, cùng chư Bồ Tát ở chung.
Này thiện nam tử! Nơi vường này có tám muôn bốn ngàn ức na do tha đại chúng cùng ta đồng hành, đếu bất thối chuyển nơi Vô thượng bồ đề. Những chúng sanh khác ở trong vườn này cũng đều nhập bậc bất thối chuyển.
Sudhana said, “Noble one, how long ago did you set your mind on
supreme perfect enlightenment?”
Page 1211 – Entry into the Realm of Reality
She said, “I remember a past state when I cultivated religious practice in
the company of the buddha known as the Lamp, whom I served and from
whom I received teaching. Before that was a buddha named Undefiled; I
went forth from society into the tutelage of that buddha and held the wheel
of teaching of that buddha. Before that was a buddha named Star; I propiti-
ated that buddha. Before that was a buddha named Splendor of the Polar
Mountain; before that was a buddha named Lotus Calyx; before that was a
buddha named Illuminating; before that was a buddha named Universal
Eye; before that was a buddha named Purified by Spiritual Knowledge;
before that was a buddha named Diamond Navel; before that was a buddha
named Deifying the Universe. Remembering back in this way lifetime to
lifetime, age to age, as successive buddhas appeared in the world, I remember
as many buddhas as grains of sand in thirty-six Ganges Rivers whom I propi-
tiated, attended, served, and honored, from whom I heard spiritual
teaching, under whose tutelage I carried out spiritual practice. Beyond this,
only the buddhas know how many buddhas I propitiated. Enlightening
beings are infinite because of the aspiration of enlightenment, because of
pervading all universes; enlightening beings are infinite because of the guid-
ance of great compassion, because of entry into the midst of all beings;
enlightening beings are infinite because their great vows go to the end of all
universes; enlightening beings are infinite because of great love, because of
suffusing all beings with love; enlightening beings are infinite because of
the practice of enlightening beings, because of entering into all ages in all
lands; enlightening beings are infinite because of the power of concentra-
tion, because of not regressing on the path of enlightening beings;
enlightening beings are infinite because of the power of mental command,
because of attainment of the method of mystic spells able to hold the mem-
ory of truths for all beings; enlightening beings are infinite because of the
power of the light of knowledge, because of retaining the realization of the
knowledge and wisdom of past, present, and future; enlightening beings are
infinite because of the power of mystic knowledge, because of ability to pro-
duce wheels of nets of light pleasing beings according to their mentalities;
enlightening beings are infinite because of the power of intelligence,
because of satisfying all beings with one utterance; enlightening beings are
infinite because of purity of body, because of pervading all buddha-fields
with their own body.”
Sudhana said, “Noble one, when will you realize supreme perfect
enlightenment?”
Thiện Tài thưa: Bạch đức Thánh! Ngài phát tâm Vô thượng Bồ đề được bao lâu ?
Ưu bà di nói: Này thiện nam tử! Ta nhớ quá khứ ở chỗ đức Nhiên Ðăng Phật, ta tu hành phạm hạnh, cung kính cúng dường nghe pháp thọ trì.
Trước đó ở chỗ đức Ly Cấu Phật, ta xuất gia học đạo thọ trì chánh pháp.
Trước đó ở chỗ đức Diệu Tràng Phật. Trước nữa ở chỗ Thắng Tu Di Phật. Trước nữa ở chỗ đức Liên Hoa Ðức Tạng Phật. Trước nữa ở chỗ đức Tỳ Lô Giá Na Phật. Trước nữa chỗ đức Phổ Nhãn Phật. Trước nữa ở chỗ đức Phạm Thọ Phật. Trước nữa ở chỗ đức Kim Cang Tê Phật. Trước nữa ở chỗ đức Bà Lâu Na Thiên Phật.
Này thiện nam tử! Ta nhớ thuở quá khứ vô lượng kiếp, trong vô lượng đời, thứ đệ như vậy ở chỗ ba mươi sáu hằng hà sa đức Phật, ta đều thờ kính cúng dường nghe pháp thọ trì tịnh tu phạm hạnh. Quá đây về trước thời Phật trí mới biết được, chẳng phải trí của ta có thể lường đến.
Này thiện nam tử! Bồ Tát mới phát tâm không có hạn lượng, vì sung mãn tất cả pháp giới.
Bồ Tát đại bi môn không hạn lượng, vì vào khắp tất cả thế gian.
Bồ Tát đại nguyện môn không hạn lượng, vì rốt ráo mười phương pháp giới.
Bồ Tát đại từ môn không hạn lượng, vì che khắp tất cả chúng sanh.
Bồ Tát tu hành không hạn lương, vì tu tập trong tất cả cõi tất cả kiếp.
Bồ Tát tam muội lực không hạn lượng, vì làm cho Bồ Tát đạo chẳng thối chuyển.
Bồ Tát tổng trì lực không hạn lượng, vì có thể nhiếp trì tất cả thế gian.
Bồ Tát trí quang lực không hạn lượng, vì có thể chứng nhập khắp tam thế.
Bồ Tát thần thông lực không hạn lượng, vì hiện khắp tất cả cõi.
Bồ Tát biện tài lực không hạn lượng, vì một âm thanh mà tất cả đều hiểu.
Bồ Tát thanh tịnh thân không hạn lượng, vì đều khắp tất cả cõi Phật.
Thiện Tài thưa: Bạch đức Thánh! Bao Lâu nữa Ngài sẽ chứng Vô thượng Bồ đề?
Asha said, “Enlightening beings do not aspire to enlightenment with the
object of leading just one sentient being to perfection, nor for the sake of a
hundred or a thousand or a million or a billion sentient beings, nor for any
number of beings, nor for all the sentient beings in as many worlds as atoms
in untold, inexpressibly vast numbers of billion-world universes. Enlighten-
ing beings aspire to enlightenment for the sake of all sentient beings in all
worlds, to lead them to perfection. Enlightening beings do not aspire to
enlightenment to propitiate, honor, and attend one buddha, or even as many
Page 1212 – The Flower Ornament Scripture
buddhas as atoms in untold worlds, or to propitiate, honor, and attend the
lineage of buddhas in one world or the lineage of buddhas in as many worlds
as atoms in untold buddha-fields. Enlightening beings do not aspire to
enlightenment to purify one buddha-land, or even to purify as many
buddha-lands as atoms in untold, inexpressible numbers of worlds. Enlight-
ening beings do not aspire to enlightenment to preserve the teaching of one
buddha, or even to preserve the teachings of as many buddhas as atoms in
untold, inexpressible numbers of worlds. Enlightening beings do not aspire
to enlightenment to enter into the diversity of vows which are the pofnt of
departure of one buddha, nor even to enter into the diversity of vows which
are the pofnts of departure of as many buddhas as atoms in untold, inexpress-
ible numbers of buddha-fields. Enlightening beings do not aspire to
enlightenment to enter into the array of the buddha-field of one buddha,
nor even to enter into the arrays of buddha-fields of as many buddhas as
atoms in untold, inexpressible numbers of buddha-fields. Enlightening
beings do not aspire to enlightenment to take part in the assembly of one
buddha, nor even to take part in the assemblies of as many buddhas as atoms
in untold, inexpressible numbers of buddha-fields. Enlightening beings do
not aspire to enlightenment to preserve the wheel of teaching of one bud-
dha, nor to preserve the wheels of teaching of even as many buddhas as
atoms in untold, inexpressible numbers of buddha-fields. Enlightening
beings do not aspire to enlightenment to penetrate the ocean of mind of one
sentient being, nor to penetrate the oceans of mind of even as many sentient
beings as atoms in untold, inexpressible numbers of buddha-fields. Enlight-
ening beings do not aspire to enlightenment to know the sphere of faculties
of one sentient being, nor to know the faculties of even as many sentient
beings as atoms in untold, inexpressible numbers of buddha-fields. Enlight-
ening beings do not aspire to enlightenment to penetrate the ocean of
faculties of one sentient being, nor to penetrate the oceans of faculties of
even as many sentient beings as atoms in untold, inexpressible numbers of
buddha-fields. Enlightening beings do not aspire to enlightenment to enter
into the succession of ages in one world, nor to enter into the succession of
ages in even as many worlds as atoms in untold, inexpressible numbers of
buddha-fields. Enlightening beings do not aspire to enlightenment to com-
prehend the continuity of actions and habits of the sentient beings in one
world, nor to comprehend the continuity of actions and habits of the sen-
tient beings even in as many worlds as atoms in untold, inexpressible
numbers of buddha-fields. Enlightening beings do not aspire to enlighten-
ment to comprehend the ocean of afflictions of sentient beings in one world,
nor to comprehend the oceans of afflictions of the sentient beings even in as
many worlds as atoms in untold, inexpressible numbers of buddha-fields.
Enlightening beings do not aspire to enlightenment to comprehend the
ocean of all actions of the beings in one world, nor even to comprehend the
oceans of all actions of beings in as many worlds as atoms in untold, inex-
pressible numbers of buddha-fields. Enlightening beings do not aspire to
enlightenment to comprehend the ocean of all modes of behavior of all
Page 1213 – Entry into the Realm of Reality
beings in one world, nor even to comprehend the ocean of all modes of
behavior of all beings in as many worlds as atoms in untold, inexpressible
numbers of buddha-fields. Rather, enlightening beings aspire to enlighten-
ment to lead all sentient beings without exception to full development —
they wish to propitiate and honor and attend all buddhas, to propitiate and
honor and attend the successions of buddhas in all worlds; they are deter-
mined to purify all buddha-lands; they strive to hold the teachings of all
buddhas; they are zealously devoted to following the variety of vows which
are the pofnts of departure of all buddhas; they are determined to enter into
the arrays of all buddha-lands; they wish to enter the oceans of assemblies of
all buddhas; they seek to go deeply into the ocean of mind of all sentient
beings; they wish to know the spheres of faculties of all sentient beings; they
aspire to penetrate the ocean of faculties of all sentient beings; they wish to
enter into the succession of ages in all worlds; they are inspired with courage
to cut off the continuity of afflictions and habit energies of all sentient
beings; their sun of knowledge rises to evaporate the ocean of afflictions
caused by actions of all sentient beings; their light of wisdom becomes mani-
fest to know the ways of behavior of all sentient beings; their cloud of great
compassion gathers to extinguish the mass of fire of suffering of all sentient
beings.
“To put it briefly, there are ten hundred thousand incalculable numbers of
such aspects of the conduct of the practice of enlightening beings, which are
to be accomplished by an enlightening being. Furthermore, the practice of
enlightening beings enters into all things, for the attainment of knowledge;
the practice of enlightening beings enters into all lands, to thoroughly pur-
ify them. Because of this vow of mine, when the purification of the realm of
desire is finished, my commitments will be finished; when the purification
of the world is finished, my commitments will be finished; when all sen-
tient beings’ propensities to continue afflictive habits are ended, my
commitments will be ended.”
Hưu Xả Ưu bà di nói: Này thiện nam tử! Bồ Tát chẳng vì giáo hóa điều phục một chúng sanh mà phát Bồ đề tâm. Chẳng vì giáo hóa điều phục trăm chúng sanh , ngàn chúng sanh, cho đến chẳng vì giáo hóa điều phục bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sanh mà phát Bồ đề tâm.
Chẳng vì giáo hóa chúng sanh trong một thế giới nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới mà phát Bồ đề tâm.
Chẳng vì giáo hóa Diêm Phù Ðề vi trần số chúng sanh, Ðại Thiên thế giới vi trần số chúng sanh, nhẫn đến chẳng vì giáo hóa bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới vi trần số thế giới chúng sanh mà phát Bồ đề tâm.
Chẳng vì cúng dường một đức Như Lai, nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết đức Như Lai mà phát Bồ đề tâm.
Chẳng vì cúng dường chư Như Lai thứ đệ xuất thế trong một thế giới nhẫn đến trong bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới mà phát Bồ đề tâm.
Chẳng vì cúng dường chư Như Lai thứ đệ xuất thế trong Ðại Thiên thế giới vi trần số thế giới, nhẫn đến trong bất khả thuyết bất khả thuyết vi trần số thế giới mà phát Bồ đề tâm.
Chẳng vì nghiêm tịnh một số thế giới nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới mà phát Bồ đề tâm.
Chẳng vì nghiêm tịnh một Ðại Thiên thế giới vi trần số thế giới nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới vi trần số thế giới mà phát Bồ đề tâm.
Chẳng vì trụ trí giáo pháp của một đức Như Lai nhẫn đến của bất khả thuyết bất khả thuyết đức Như Lai mà phát Bồ đề tâm.
Chẳng vì trụ trì giáo pháp của một thế giới Như Lai nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới Như Lai mà phát Bồ đề tâm.
Chẳng vì trụ trì giáo pháp của một Diêm Phù Ðề vi trần số thế giới Như Lai nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới Như Lai mà phát Bồ đề tâm.
Như vậy lược nói, chẳng vì mãn thệ nguyện của một Như Lai, chẳng vì đến một Phật độ, chẳng vì nhập một Phật chúng hội, chẳng vì trì một Phật pháp nhãn, chẳng vì chuyển một Phật pháp luân, chẳng vì biết những kiếp thứ đệ trong một thế giới, chẳng vì biết một chúng sanh tâm hải, chẳng vì biết một chúng sanh căn hải, chẳng vì biết một chúng sanh nghiệp hải, chẳng vì biết một chúng sanh hạnh hải, chẳng vì biết một chúng sanh phiền não hải, chẳng vì biết một chúng sanh phiền não tập hải, nhẫn đến chẳng vì biết bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số chúng sanh phiền não tập hải mà phát Bồ đề tâm.
Mà chính vì muốn giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh không để sót thừa nên phát Bồ đề tâm.
Vì muốn cúng dường tất cả chư Phật không để sót nên phát Bồ đề tâm.
Vì muốn nghiêm tịnh tất cả Phật độ không để sót nên phát Bồ đề tâm.
Vì muốn hộ trì chánh pháp của tất cả chư Phật không để sót nên phát Bồ đề tâm.
Vì muốn thành mãn đại nguyện của tất cả Như Lai không để sót mà phát Bồ đề tâm.
Vì muốn đến tất cả Phật độ không để sót mà phát Bồ đề tâm.
Vì muốn nhập tất cả Phật chúng hội không để sót mà phát Bồ đề tâm.
Vì muốn biết những kiếp thứ đệ trong tất cả kiếp không để sót mà phát Bồ đề tâm.
Vì muốn biết tất cả chúng sanh tâm hải không sót nên phát Bồ đề tâm.
Vì muốn biết tất cả chúng sanh căn hải không sót nên phát Bồ đề tâm.
Vì muốn biết tất cả chúng sanh nghiệp hải không sót nên phát Bồ đề tâm.
Vì muốn biết tất cả chúng sanh hạnh hải không sót nên phát Bồ đề tâm.
Vì muốn diệt tất cả chúng sanh phiền não hải không sót nên phát Bồ đề tâm.
Vì muốn trừ tất cả chúng sanh phiền não tập hải không sót nên phát Bồ đề tâm.
Này thiện nam tử! Tóm lược mà nói, Bồ Tát dùng vô lượng trăm ngàn vô số phương tiện hạnh như vậy mà phát Bồ đề tâm.
Này thiện nam tử! Bồ Tát hạnh vào khắp tất cả pháp, vì đều chứng được. Vào khắp tất cả cõi, vì đều nghiêm tịnh.
Vì thế nên thiện nam tử! Khi nghiêm tịnh hết tất cả thế giới thời nguyện của tôi mới hết.
Khi dứt hết phiền não tập khí của tất cả chúng sanh thời nguyện của tôi mới mãn.
Sudhana said, “What is the name of this liberation?”
Asha said, “This liberation is called ‘characterized by sorrowless well-bei-
ng.’ I know this enlightening liberation, but how can I know the practice,
tell of the virtues, convey the inconceivable enlightening skills, or show the
infinite varieties of enlightening vows of the enlightening beings who have
oceanic minds because of seeking all the buddha-teachings, who are like the
polar mountain because of steadfast will, who are like the medicine ‘good to
see’ because they free all sentient beings from the sicknesses of afflictions,
who are like the sun because they eliminate the darkness of ignorance of all
sentient beings, whose minds are like the earth because they are a refuge for
all sentient beings, who are like air because they benefit all sentient beings,
who are lamps producing the light of knowledge for all sentient beings,
who are like clouds raining truth with a quiet sound, who are like the moon
because they radiate a web of light beams of virtue, who are like gods
because they profect all sentient beings?
Thiện Tài thưa: Bạch đức Thánh! Môn giải thoát này tên là gì?
Hưu Xả Ưu bà di nói: Này thiện nam tử! Môn giải thoát này tên là “Ly ưu an ổn tràng”.
Ta chỉ biết một môn giải thoát này. Như chư đại Bồ Tát, tâm như biển cả có thể đều dung thọ tất cả Phật pháp. Như núi Tu Di, chí ý kiên cố chẳng bị lay động. Như vị thuốc thiện kiến, hay trừ những bệnh nặng phiền não của các chúng sanh. Như mặt nhựt sáng sạch, hay phá chúng sanh vô minh ám chướng. Dường như đại địa, hay làm chỗ y tựa cho tất cả chúng sanh. Như gió tốt, hay làm lợi ích cho tất cả chúng sanh. Như đèn sáng, hay vì chúng sanh mà sanh trí huệ quang. Như đại vân, hay vì chúng sanh mà mưa đại pháp tịch diệt. Như minh nguyệt hay vì chúng sanh mà phóng phước đức quang. Như Thiên Ðế, đều hay thủ hộ tất cả chúng sanh.
“Go south — there is a district in Samudravetalya called Nalayur where a
Page 1214 – The Flower Ornament Scripture
seer named Bhishmoftaranirghosha lives. Go ask him, and he will instruct
you in the practice of enlightening beings.”
Như thế thời ta làm sao biết được hết, nói được hết những công đức đó.
Này thiện nam tử! Phương Nam Xứ Hải Triều đây có một nước tên là Na La Tố. Trong đó có tiên nhơn tên là Tỳ Mục Cù Sa. Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?
Then Sudhana left Asha, after paying his respects, reflecting on the
extreme rarity of enlightening beings, on how hard it is to get on good terms
with spiritual benefactors, on how very difficult it is to get to meet people of
truth, on how hard it is to attain the faculties of enlightening beings, how
hard it is to attain the purity of intent of enlightening beings, how hard it is
to find cofleagues, how hard it is to focus the mind accurately on enlighten-
ment, how hard it is to apply the teachings leading to the state of freedom
from distress, how hard it is to find ways to develop invincible goodness of
mind, and how hard it is to get to see ways to quickly develop omniscience.
Lúc đó Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Hưu Xả Ưu bà di, hữu nhiễu vô số vòng, ân cần chiêm ngưỡng, buồn khóc rơi lệ. Tự nghĩ rằng được Bồ đề khó, gần thiện tri thức khó, gặp thiện tri thức khó, được gặp đồng hành thiện tri thức khó, đúng lý quán sát khó, y giáo tu hành khó, Bồ Tát căn khó, tịnh Bồ Tát căn khó, gặp gở xuất sanh thiện tâm phương tiện khó, gặp gở thêm lớnNhứt thiết trí pháp quang minh khó.
Nghĩ xong, Thiện Tài từ tạ Ưu bà di mà đi.
Bấy giờ Thiện Tài đồng tử tùy thuận tư duy chánh giáo của Bồ Tát. Tùy thuận tư duy tịnh hạnh của Bồ Tát. Sanh tâm tăng trưởng phước lực của Bồ Tát, sanh tâm thấy rõ tất cả chư Phật. Sanh tâm xuất sanh tất cả chư Phật. Sanh tâm tăng trưởng tất cả đại nguyện. Sanh tâm thấy khắp các pháp mười phương. Sanh tâm chiếu rõ thiệt tánh của các pháp. Sanh tâm phá tan khắp tất cả chướng ngại. Sanh tâm quán sát pháp giới không tối. Sanh tâm thanh tịnh ý bửu trang nghiêm. Sanh tâm xô dẹp tất cả chúng ma.
Bhishmottaranirghosha
Then Sudhana, his mind on the instruction of the enlightening being, his
mind on the purification of the conduct of enlightening beings, his mind
developing the power of virtue of enlightening beings, his mind lit by the
energy of the vision of Buddha, with mental energy arising from receiving a
treasury of teaching, his mental energy increased by tbe undertaking of
great vows, all things apparent to his mind, his mind aware of the intrinsic
essence of things, his mind free from all obstructions, his mind viewing the
reality realm without obscurity, his pure will indestructible, his mind invul-
nerable and immune to the power of all demons, gradually made his way to
Nalayur and sought out the seer Bhishmoftaranirghosha.
At that time Bhishmoftaranirghosha was sojourning in a retreat, a pleas-
ant place with countless diverse trees and plants, shaded by the leaves of
various trees, with flowering trees perpetually blooming in various cofors
and fruit trees perpetually bearing, the ground made of the finest jewel-
fruits from various jewel trees, well distributed with great sandalwood trees,
graced with fragrance eonstantly coming from pleasant aloeswood trees,
adorned with trumpet-flower trees distributed in the four directions, with
beautifully formed fig trees, with perpetually ripe fruits raining from rose
apple trees, beautified by fresh water lilies and lotus blossoms.
Sudhana saw the seer Bhishmoftaranirghosha wearing matted hair, sit-
ting on a seat of bark, rags, fragrant grass, and antelope skin on a layer of
straw in a but built at the foot of a sandalwood tree, surrounded by ten thou-
sand seers. Seeing Bhishmoftaranirghosha, Sudhana went up to him, and
thinking he had found a true spiritual benefactor, looking upon spiritual
benefactors as the door to omniscience because they guide one on the true
path, looking upon omniscience as coming from the teaching of spiritual
benefactors because they lead to the stage of all-knowledge, looking upon
omniscience as coming from the guidance of spiritual benefactors because
they lead to the jewel land of the knowledge of the ten powers, looking
upon omniscience as illumined by the torch of spiritual benefactors because
they produce the light of knowledge of the ten powers, looking upon spiri-
tual benefactors as tbe path to omniscience leading unbroken to the city of
Page 1215 – Entry into the Realm of Reality
omniscience, looking upon spiritual benefactors as lamps on the way to
omniscience because they show the level and the uneven, looking upon spir-
itual benefactors as a bridge to omniscience because tbe peril of falling is
eliminated, looking upon spiritual benefactors as parasofs of omniscience
because they produce coofness by the power of great love, looking upon
spiritual benefactors as streams of omniscience because they give rise to great
compassion, looking upon the satisfaction of the vision of omniscience as
coming from spiritual benefactors because they illumine the principle of the
inherent nature of phenomena, Sudhana paid his respects to the seer and
said, “Noble one, I have set my mind on supreme perfect enlightenment, but
I do not know how an enlightening being is to learn and carry out the prac-
tice of enlightening beings. I have heard you give enlightening beings
instruction; please tell me how an enlightening being is to learn and carry
out the practice of enlightening beings.”
The seer Bhishmoftaranirghosha looked at the ten thousand people sur-
rounding him and said, “This youth has set his mind on supreme perfect
enlightenment and has invited all sentient beings to fearlessness. He is aim-
ing for the welfare and happiness of all beings; he is facing the ocean of
knowledge; he wants to spread the clouds of teaching of all buddhas; he
wants to plunge into the ocean of all principles of the Teaching; he wants to
live by the light of knowledge; he wants to bring tbe cloud of great compas-
sion near; he wants to cause the rain of the great Teaching to shower; he
wants to have the moon of great knowledge rise in the world and extinguish
the burning of all afflictions; he wants to develop the roots of goodness of all
sentient beings.”
Then those ten thousand people scattered beautiful fragrant flowers over
Sudhana, bowed to him, and circled him in respect, and said, “This person
will be a savior; be will extinguish all the hellish torments of all beings, he
will stop all brutish ways, he will get rid of the ways of the underworld, he
will shut the door of all conditions inopportune for enlightenment, he will
evaporate the ocean of craving, he will sever the bonds of craving, he will
remove the mass of suffering, he will dispel the darkness of ignorance, he
will surround the world with mountains of virtue, he will reveal the mine of
jewels of knowledge, he will cause the sun of knowledge to rise, he will clar-
ify the eye of truth, he will show what is good and bad in the world.”
Thiện Tài đồng tử lần lần du hành đến nước Na La Tố tìm tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa, thấy một khu rừng lớn, vô số cây trang nghiêm. Như là những cây lá rậm rợp che mát, những cây nở hoa sặc sỡ, những cây đơm trái chín tiếp nối. Lại có những cây báu mưa trái ma ni, những cây chiên đàn lớn bày hàng khắp nơi, những cây trầm thủy thường thoảng hương thơm, những cây duyệt ý hương thơm tho trang nghiêm, những cây ba tra la bao bọc bốn phía, những cây ni câu luật cao vút, những cây diêm phù đàn thường mưa trái ngọt, những bông sen xanh, bông sen đỏ trang nghiêm ao hồ.
Thiện Tài đồng tử thấy tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa trải cỏ ngồi dưới cây chiên đàn, đồ chúng mười ngàn người. Có người mặc da nai, mặc cỏ cây, có người bện cỏ làm y phục, vấn tóc, để râu trước sau vây quanh.
Thiện Tài đến mọp lạy thưa tiên nhơn rằng:
Nay tôi được gặp chơn thiện tri thức. Thiện trí thức là cửa xu hướng nhất thiết trí, vì làm cho tôi được vào đạo chân thật.
Thiện tri thức là cỗ xe xu hướng nhất thiết trí. Vì làm cho tôi được đến Như Lai địa.
Thiện tri thức là thuyền xu hướng nhất thiết trí, vì làm cho tôi được đến châu trí bửu.
Thiện tri thức là đuốc xu hướng nhất thiết trí, vì khiến tôi được sanh ánh sáng thập lực.
Thiện tri thức là đường xu hướng nhất thiết trí, vì làm cho tôi được vào thành Niết bàn.
Thiện tri thức là đèn xu hướng nhất thiết trí, vì làm cho tôi thấy được đường yên lành hay hiểm trở.
Thiện tri thức là cầu xu hướng nhất thiết trí, vì làm cho tôi qua khỏi chỗ hiểm ác.
Thiện tri thức là lọng xu hướng nhất thiết trí, vì làm cho tôi được sanh lòng đại từ mát mẻ.
Thiện tri thức là con mắt xu hướng nhứt thiết trí, vì làm cho tôi được thấy môn pháp tánh.
Thiện trí thức là nước triều xu hướng nhất thiết trí, vì làm cho tôi đầy đủ nước đại bi.
Nói xong, Thiện Tài đứng dậy hữu nhiễu vô lượng vòng đứng chắp tay thưa rằng:
Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo. Tôi nghe đức Thánh khéo dạy dỗ. Xin chỉ dạy cho tôi.
Tỳ Mục Cù Sa đoái nhìn đồ chúng mà nói: Này đại chúng ! Ðồng tử này đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, khắp ban sự vô úy cho tất cả chúng sanh, khắp ban sự lợi ích cho tất cả chúng sanh, thường quát sát trí hải của tất cả chư Phật.
Ðồng tử này muốn uống tất cả pháp vũ cam lồ, muốn lường tất cả pháp hải rộng lớn, muốn cho chúng sanh an trụ trong trí hải, muốn khắp phát khởi mây bi rộng lớn, muốn khắp mưa pháp vũ rộng lớn, muốn dùng trí nguyệt chiếu khắp thế gian, muốn diệt thế gian phiền não độc nhiệt, muốn làm lớn tất cả thiện căn cho chúng sanh.
Tiên chúng nghe lời trên đây rồi đều đem những hương hoa đẹp tốt rải trên thân Thiện Tài, làm lễ cung kính mà nòi rằng:
Ðồng tử này tất sẽ cứu hộ tất cả chúng sanh, tất cả trừ diệt khổ địa địa ngục, tất sẽ dứt hẳn loài súc sanh, tất sẽ chuyển bỏ cõi Diêm La Vương, tất sẽ đóng bít cửa chướng nạn, tất sẽ làm khô cạn biển ái dục, tất làm cho chúng sanh diệt hẳn khổ uẩn, tất sẽ phá hẳn vô minh hắc ám, tất sẽ dứt hẳn dây trói tham ái, tất sẽ dùng dãy núi phước đức bao bọc thế gian, tất sẽ đem đại bửu trí huệ hiển thị thế gian, tất sẽ xuất hiện trí nhựt thanh tịnh, tất sẽ khai thị pháp tạng thiện căn, tất làm cho thế gian biết rõ là hiểm khó hay là dễ dàng.
Then the seer Bhishmoftaranirghosha said to those people, “Whoever
aspires to supreme perfect enlightenment promotes the happiness of all sen-
tient beings, carrying out the practice of enlightening beings, and will
eventually attain omniscience. This youth has set his heart on supreme per-
fect enlightenment; he will fulfill the stage of complete buddhahood.”
Then the seer said to Sudhana, “I have attained an enlightening liberation
called ‘unsurpassed banner.’”
Sudhana said, “What is the scope of this liberation?”
Tỳ Mục Cù Sa bảo quần tiên rằng: Nếu có người hay phát tâm Vô thượng Bồ đề, tất sẽ được thành đạo Nhứt thiết trí.
Ðồng tử này đã phát tâm Vô thượng Bồ đề tất sẽ tịnh bậc tất cả công đức của chư Phật.
Tỳ Mục Cù Sa bảo Thiện Tài: Này thiện nam tử! Ta được môn Bồ Tát vô thắng tràng giải thoát.
Thiện Tài thưa: Bạch đức Thánh! Cảnh giới của Vô thắng tràng giải thoát như thế nào?
Bhishmottaranirghosha stretched forth his right hand and rubbed
Sudhana’s head, then took Sudhana by the right hand. At that moment
Sudhana saw in the ten directions as many buddha-lands as atoms in ten hun-
Page 1216 – The Flower Ornament Scripture
dred thousand buddha-lands, and in them he perceived himself at the feet of
as many buddhas as atoms in ten hundred thousand buddha-lands. He also
saw the innumerable features in the pure adornments of those buddha-lands,
and he saw the various arrays of the oceans of audiences surrounding the
buddhas therein. He also saw the radiant mass of the marks and
embellishments of the buddhas’ bodies in the midst of the congregations.
He also heard teaching from the buddhas without missing a single word,
and he remembered the cycles of teachings of those buddhas in order with-
out confusion, and he received the rain of those clouds of teaching as they
showered on beings of various mentalities. He also entered the oceans of past
vows of those buddhas, purified by zealous application of various kinds. He
also entered oceans of past attainments of the buddhas, purified by oceans of
various vows. He also saw the forms of buddhas manifested so as to please all
sentient beings according to their mentalities. He also saw the nets of light
rays of the buddhas, their various coof, pure halos. He also entered into those
buddhas’ powers by following the light of unobstructed knowledge. He
seemed to him with one buddha for a day and a night, with another for seven
days and nights, another for a fortnight, another for a month, another for a
year, another for a century, another for a millennium, another for a hundred
millennia, another for a million years, another for a hundred million years,
another for a billion years, another for a hundred billion years, another for a
trillion years, another for half an eon, another for an eon, another for a hun-
dred eons, another for a thousand eons, another for a hundred thousand
eons, another for a million eons, another for a hundred million eons,
another for a billion eons, another for a hundred billion eons, another for a
trillion eons, up to untold, inexpressible numbers of eons, or as many eons as
atoms in the continent, or as many eons as atoms in untold buddha-lands.
Thus did he perceive himself with the buddhas, illumined by the light of
knowledge of the liberation “unsurpassed banner,” imbued with the light of
the concentration filled with sunlike radiance, reaching absorption in liber-
ation of endless knowledge, imbued with the light of the mystic
formulation of the structure of the universe, his mind illumined by the mys-
tic formulation of the indestructible sphere, abiding in absorption in the
realm of well-ordered bodies of knowledge, intent on the state of transcend-
ent wisdom of the path of adornment of all planes, illumined by the light of
concentration on the sphere containing the space of the enlightened, his
mind illuminated by concentration on the circumference of the wheel of
teaching of all buddhas, imbued with the light of absorption in the inex-
haustible sphere of jewels of knowledge of past, present, and future.
Then the seer let go of Sudhana, who found himself once again standing
before the seer Bhishmoftaranirghosha. The seer said, “Do you remem-
ber?” Sudhana said, “I remember, noble one, by the empowerment of the
spiritual benefactor.”
Lúc đó Tỳ Mục Cù Sa tiên nhơn liền giơ tay hữu xoa đầu Thiện Tài, cầm tay Thiện Tài.
Thiện Tài liền thấy mình đến trong mười Phật sát vi trần thế giới mười phương, chỗ của mười Phật sát vi trần số thế giới chư Phật. Thấy chư Phật và chúng hội cùng Phật độ trang nghiêm thanh tịnh. Lại nghe chư Phật tùy sở thích của các chúng sanh mà thuyết pháp, mỗi câu mỗi văn đều thông đạt cả, đều riêng thọ trì không tạp loạn. Cũng biết đức Phật đó dùng những tri giải tịnh trị các nguyện. Cũng biết chư Phật đó dùng thanh tịnh nguyện thành tựu các lực. Cũng thấy chư Phật đó tùy chúng sanh tâm mà hiện sắc tướng. Củng thấy chư Phật đó, lưới đại quang minh nhiều màu sắc thanh tịnh viên mãn. Cũng biết chư Phật đó, trí huệ vô ngại sức đại quang minh.
Thiện Tài lại tự thấy mình ở chỗ chư Phật qua một ngày đêm, hoặc bảy ngày đêm, nửa tháng, một tháng, một năm, mười năm, trăm năm, ngàn năm, hoặc trải qua ức năm, hoặc a du đa ức năm, hoặc na do tha ức năm, hoặc trải qua nửa kiếp, hoặc một kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, hoặc trăm ngàn kiếp, nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số kiếp.
Nhờ Bồ Tát vô thắng tràng giải thoát trí quang minh chiếu đến, nên Thiện Tài đồng tử được tỳ lô giá na tạng tam muội quang minh.
Nhờ vô tận trí giải thoát tam muội quang minh chiếu đến nên Thiện Tài được phổ nhiếp chư phương đà la ni quang minh.
Nhờ kim cang luân đà la ni môn quang minh chiếu đến, nên Thiện Tài được cực thanh tịnh trí huệ tâm tam muội quang minh.
Nhờ phổ môn trang nghiêm tạng Bát nhã Ba la mật quang minh chiếu đến, nên Thiện Tài được Phật hư không tạng luân tam muội quang minh.
Nhờ nhất thiết Phật pháp luân tam muội quang minh chiếu đến, nên Thiện Tài được tam thế vô tận trí tam muội quang minh.
Bấy giờ Tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa buông tay Thiện Tài đồng tử.
Thiện Tài liền tự thấy mình ở tại chỗ cũ.
Tiên Nhơn bảo Thiện Tài: Này Thiện nam tử! Ngươi có ghi nhớ chăng?
Thiện Tài thưa: Bạch vâng! Ðây là do sức của đức Thánh thiện tri thức vậy.
Bhishmoftaranirghosha said, “I know this enlightening liberation known
as the unsurpassed invincible banner, but how can I know the practice, or tell
the virtues, or accurately express the excellence of vows, or know the struc-
Page 1217 – Entry into the Realm of Reality
ture of the lands, or plunge into the sphere of knowledge, or enter into the
realm of concentration, or attain the mystic powers, or attain to the freedom
of liberation, or take up the various physical manifestations, or reveal the
purity of Voice, or show the light of knowledge of the enlightening beings
who have attained absorption in the mystic knowledge supreme among all
creatures, who are masters of all wheels of time, who are skilled in achieve-
ment of the knowledge of the characteristics of buddhas, who are supernal
manifestations of the incarnation of the buddhas, who have comprehended
the knowledge of all objects of past, present, and future as of one characteris-
tic, whose bodies are distributed throughout all worlds, who are
embodiments of knowledge in which all realms of reality are revealed, who
appear to all sentient beings according to their inclinations, who benefit sen-
tient beings according to their ways of thought and action, who glow with a
brightness that illumines everywhere, who have purified the sphere of pure,
vast, radiant knowledge?
Tiên Nhơn nói:
Này thiện nam tử! Ta chỉ biết môn Bồ Tát vô thắng tràng giải thoát này. Như chư đại Bồ Tát thành tựu tất cả tam muội thù thắng, được tự tại trong tất cả thời gian. Trong khoảng một niệm xuất sanh chư Phật vô lượng trí huệ. Dùng đèn Phật trí làm trang nghiêm để chiếu khắp thế gian. Trong một niệm vào khắp cảnh giới tam thế. Phân thân qua khắp cõi nước mười phương. Trí thân vào khắp tất cả pháp giới. Tùy theo tâm chúng sanh mà hiện ra trước họ, xem xét căn hành của họ để làm lợi ích, phóng tịnh quang minh rất đáng mến thích.
Như thế, ta làm sao biết được tất cả, nói được tất cả công đức hạnh đó, thù thắng nguyện đó, trang nghiêm độ đó, trí cảnh giới đó, tam muội cảnh giới đó, thần thông biến hóa đó, giải thoát du hí đó, thân tướng sai biệt đó, âm thanh thanh tịnh đó, trí huệ quang minh đó.
“Go south to a land called Ishana, where there lives a priest named
Jayoshmayatana. Go ask him how an enlightening being is to learn and
apply the practice of enlightening beings.”
Then Sudhana, pleased, uplifted, transported, overjoyed, happy, paid
respects to the seer Bhishmoftaranirghosha and departed, looking back at
him again and again.
Này thiện nam tử! Phương Nam này có một tụ lạc tên là y Sa Na, có Bà La Môn tên là Thắng Nhiệt. Người đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?
Thiện Tài đồng tử vui mừng hớn hở, đảnh lễ Tiện Nhơn Tỳ Mục Cù Sa, hữu nhiễu vô số vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi qua phương Nam.
Jayoshmayatana
Then, illumined by the light of knowledge of the enlightening liberation
“unsurpassed banner,” directly witnessing the inconceivable miracles of the
realm of buddhas, endowed with mystic knowledge directly aware of the
inconceivable liberation of enlightening beings, his mind illumined by the
inconceivable knowledge of concentration of enlightening beings, imbued
with the light of knowledge of concentration comprehending all times at
once, illumined by the realm of concentration comprehending that all is in
perception, havingattained the light of the highest knowledge in all worlds,
approaching the state whose scope reaches everywhere in past, present, and
future, intent on the knowledge showing nondual equality in differentia-
tion, with the light of knowledge extending to all objects, with skillfulness
rich in zeal for the purification of toferance in the face of people’s beliefs,
having attained the light of certain knowledge of acceptance of things in
terms of their inherent nature, his mind eonstantly invofved in enlightening
beings’ practice of mystic knowledge reaching everywhere, which is medi-
tation on inherent nature, his mind progressing rapidly and irreversibly
toward omniscience, illumined by the lightning of knowledge of the ten
powers, his mind tirelessly seeking the sound of the reality realm, deter-
mined to enter the realm of omniscience, intent on accomplishing the
infinite array of practices of enlightening beings and purifying the infinite
sphere of great vows of enlightening beings, his mind directed toward end-
lessly ongofng knowledge of the infinite network of all worlds, his mind not
Page 1218 – The Flower Ornament Scripture
shrinking from guiding infinite beings to complete development, behold-
ing the infinite sphere of practice of enlightening beings, seeing the variety
of conditions in infinite worlds, seeing the variety of differentiations of infi-
nite worlds, seeing infinite worlds within microcosms and macrocosms,
seeing the variety of the webs of perceptions and conceptions on which infi-
nite worlds are based, seeing the variety of conventional terminotogy in
infinite worlds, seeing the variety of interests of infinite beings, seeing the
variety of differentiations of infinite beings, seeing the following of devel-
opmental teachings of infinite beings, seeing the variety in perceptions of
place and time of infinite beings, Sudhana, his attention on spiritual bene-
factors, gradually made his way to the priest Jayoshmayatana in the land of
Ishana.
At that time the priest was practicing an ascetic exercise of enduring fierce
heat, with his mind on omniscience; on four sides were huge bonfires like
mountains ablaze. Rising above appeared a great mountain precipice, a
razor-edge path.
Bấy giờ Thiện Tài đồng tử nhờ Bồ Tát vô thắng tràng giải thoát chiếu đến nên được trụ chư Phật bất tư nghì thần lực, được chứng Bồ Tát bất tư nghì giải thoát thần thông trí, được Bồ Tát bất tư nghì tam muội trí quang minh, được tất cả thời gian huân tu tam muội trí quang minh, được biết rõ tất cả cảnh giới đều nương tưởng mà an trụ tam muội trí quang minh, được tất cả thế gian thù thắng trí quang minh. Ðều hiện thân mình ở tất cả chỗ. Dùng trí cứu cánh nói pháp bình đẳng không hai không phân biệt. Dùng trí sáng sạch chiếu khắp cảnh giới. Phàm những pháp được nghe đều có thể nhẫn thọ tin hiểu thanh tịnh. Nơi pháp tự tánh quyết định rõ ràng. Tâm luôn chẳng bỏ Bồ Tát diệu hạnh. Cần nhứt thiết trí trọn không thối chuyển. Chứng được thập lực trí huệ quang minh. Siêng cầu diệu pháp thường chẳng nhàm đủ. Dùng chánh tu hành nhập Phật cảnh giới. Xuất sanh bồ tát vô lượng trang nghiêm, vô biên đại nguyện đều đã thanh tịnh. Dùng trí vô cùng tận mà biết vô biên thê giới võng. Dùng tâm không khiếp nhược mà độ vô lượng chúng sanh hải. Rõ vô biên công hạnh cảnh giới của Bồ Tát. Thấy vô biên thế giới những thứ sai biệt, những thứ trang nghiêm. Nhập vô biên thế giới những cảnh vi tế. Biết vô biên thế giới những danh hiệu, những ngôn ngữ. Biết vô biên chúng sanh các tri giải, các công hạnh, các hạnh thành thục, những tưởng sai biệt.
Thiện Tài nghĩ tưởng thiện tri thức đồng thời đi lần đến tụ lạc Y Sa Na, thấy Thắng Nhiệt Bà La Môn tu những khổ hạnh cầu nhứt thiết trí: bốn phía đốt lửa ngọn cao như núi lớn, ở giữa có núi đao cao nhọn vô cực. Thắng Nhiệt leo lên núi đao nhảy vào đống lửa.
Sudhana went up, paid his respects to the priest, and said, “Noble one, I
have set my mind on supreme perfect enlightenment, but I do not know
how an enlightening being is to learn and carry out the practice of enlight-
ening beings. I hear you give enlightening beings instruction; please tell me
how to learn and carry out the practice of enlightening beings.”
The priest said, “Climb this razor-edge-path mountain and jump from
there into the fire — thus will your enlightening practice be purified.”
Lúc đó Thiện Tài đến đảnh lễ chân Thắng Nhiệt mà thưa rằng:
Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo?
Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin giảng giải cho tôi.
Thắng Nhiệt nói: Này thiện nam tử! Nay ngươi có thể leo lên núi đao này, nhảy vào đống lửa này, thời những Bồ Tát hạnh sẽ được thanh tịnh.
At that pofnt Sudhana thought, “It is hard to avofd the situations that are
inopportune for enlightenment; it is hard to get to be human; it is hard to
remove error and doubt about the right opportunity; it is hard to find a bud-
dha in the world; it is hard to have all one’s faculties in order; it is hard to get
to hear the truth; it is hard to meet people of truth; it is hard to find genuine
spiritual benefactors; it is hard to get genuine guidance and instruction; it is
hard to live right in the human world; it is hard to carry out truth in all
respects. Might this not be a demon, or someone possessed by a demon, or a
cohort of the devil, or an imitation spiritual teacher, or a false enlightening
being, who has undertaken to impede my roots of goodness, who is out to
destroy my life? Does he not want to prevent me from reaching omnis-
cience? Does he not want to lead me on a wrong path? Does he not want to
prevent me from attaining buddhahood?”
While he was invofved in these thoughts, ten thousand Brahma gods
appeared in the sky and said to him, “Do not get fixed on such thoughts.
This sage has attained the light of the concentration of adamantine flame.
He has unrelenting energy and has begun the great undertaking of salvation.
He has set out to end the emofional attachments of all sentient beings. He is
striving to dissofve the webs of all views. He is determined to burn up the
deadwood of all afflictions and their actions. He is working to shed light in
the wilderness of all kinds of knowledge that is not conducive to enlighten-
ment. He is resolved upon eliminating all beings’ fears of old age and death.
He is intent on dispersing the darkness of past, present, and future. He has
Page 1219 – Entry into the Realm of Reality
undertaken to shine beams of light of all truths. As he mortifies himself with
four fires under the blazing sun, even the Brahma gods, who think them-
selves creators and lords and supreme beings, and are engrossed in various
views, do not take pleasure in their own states because of the light given off
by this priest’s peerless practice of heat austerity. Not enjoying the pleasure
of meditation, they come to the priest, and he overwhelms them by mystic
power, and through fierce austerity teaches them to get rid of all their views
and destroy all pride and arrogance. He also teaches them so that they may
suffuse all worlds with great love and compassion, make their will for
enlightenment firm, enlarge their determination for enlightenment, turn to
the vision of all buddhas, fully receive the Voice of the buddhas, and hear the
Voice of buddhas everywhere without resistance or obstruction.”
Lúc đó thiện Tài nghĩ rằng được thân người là khó, lìa các nạn là khó, được không nạn là khó, được tịnh pháp là khó, được gặp Phật là khó, đủ các căn là khó, nghe Phật pháp là khó, gặp người lành là khó, gặp chơn thiện tri thức là khó, thọ chánh giáo đúng lý là khó, được chánh mạng là khó, tùy pháp hành là khó. Ðây phải chăng là ma, bị ma sai sử chăng? Phải chăng là đồ đảng hiểm ác của ma trá hiện tướng Bồ Tát thiện tri thức mà muốn làm chướng nạn cho thiện căn của tôi, muốn làm nạn thọ mạng để chướng sự tu hành đạo nhất thiết trí của tôi. Muốn kéo tôi vào trong các ác đạo. Muốn chướng pháp môn của tôi, chướng Phật pháp của tôi chăng?
Lúc Thiện Tài suy nghĩ như vậy, mười ngàn Phạm Thiên ở trên hư không bảo rằng:
Này thiện nam tử! Chớ nghĩ như vậy, chớ tưởng như vậy. Ðức Thánh đây đã được kim cang diện tam muội quang minh, phát đại tinh tấn độ các chúng sanh tâm không thối chuyển, muốn cạn tất cả biển tham ái, muốn triệt tất cả lưới tà kiến, muốn thiêu tất cả củi phiền não, muốn sof tất cả rừng mê lầm, muốn dứt tất cả điều lo sợ về vấn đề già chết, muốn hoại tất cả chướng tam thế, muốn phóng tất cả pháp quang minh.
Này thiện nam tử! Phạm Thiên chúng tôi phần nhiều chấp tà kiến, đều tự cho mình là bậc tự tại, là đấng làm ra tất cả, là tối thắng trong thế gian.
Khi thấy Bà La Môn này dùng năm thứ lửa đốt thân, lòng chúng tôi không còn mến luyến cung điện của mình, chẳng còn tham đắm các thiền định, cùng nhau đến chỗ Bà La Môn này.
Bấy giờ Bà La Môn này dùng sức thần thông hiển thị sự khổ hạnh lớn vì chúng tôi mà thuyết pháp, có thể làm cho chúng tôi diệt tất cả sự chấp, trừ tất cả kiêu mạn, an trụ đại từ, thật hành đại bi, phát khởi tâm quảng đại, phát Bồ đề tâm, thường thấy chư Phật, hằng nghe diệu pháp, ở tất cả chỗ tâm không chướng ngại.
Ten thousand demons also stood in the sky, showered celestial jewels,
and said, “The light emitted from the flames used by this priest in his
heat mortification obscures our abodes, our ornaments, and our para-
phernalia. Terrified, we and our cohorts go to the priest, who teaches in
such a way that, coming to ourselves and getting back our right minds,
we aspire to enlightenment and become irreversible on the way to
supreme perfect enlightenment.”
Also, ten thousand controfling gods, scattering celestial flowers, said,
“While he is mortifying himself with four fires under the fiery sun, we find
no pleasure in our own abodes. We and our cohorts go to him, and he
teaches us so that we attain controf of our own minds, controf of afflictions,
ability to be born in any state we wish, power to clear away obstructions
caused by action, mastery of all concentrations, controf of paraphernalia to
purify our arrangements, and controf conforming to our wishes.”
Ten thousand gods of pleasant emanations also stood in the sky, presented
sweet sounds of celestial music and song, and said, “The fire of the priest is
producing such light that our palaces are glowing, being purified and
becoming more radiant, and so are the decorations and nymphs here. We
and our cohorts of godlings and nymphs no longer find pleasure in desires,
and we do not enjoy sensual pleasures. Our minds and bodies coofed, we go
to the priest, who teaches us so that our minds will be purified, so that our
minds will be radiant, so our minds will be good, so our minds will be malle-
able, so we will become joyful, so we may purify the realization of the
knowledge of the ten powers, so we may grow in enthusiasm for the great
Teaching, so we may purify our bodies and produce measureless buddha-
bodies, so we may purify our Voices and attain the Voice of Buddha, so we
may purify our minds and attain omniscience.”
Lại có mười ngàn chư ma ở trên hư không đem thiên ma ni bửu rải trên mình Bà La Môn mà bảo Thiện Tài đồng tử rằng:
Này thiện nam tử! Lúc Bà La Môn này dùng năm thứ lửa đốt thân, ánh sáng của lửa chiếu khuất chúng tôi, cung điện và những đồ trang nghiêm của chúng tôi đều như đống mực đen, làm cho chúng tôi không còn mến luyến.
Chúng tôi cùng quyến thuộc đến chỗ Bà La Môn. Ðức Thánh này nói pháp cho chúng tôi, làm cho chúng tôi và vô lượng Thiên Tử cùng vô lượng Thiên nữ đều chẳng thối chuyển nơi Vô thượng Bồ đề.
Lại có mười ngàn Tự Tại Thiên Vương ở trên hư không rải thiên hoa, nói rằng:
Này thiện nam tử! Lúc Bà La Môn này dùng năm thứ lửa đốt thân, ánh sáng của lửa này chiếu khuất chúng tôi, bao nhiêu cung điện và đồ trang nghiêm đều tối như đống mực, làm cho chúng tôi không còn mến luyến, bèn cùng quyến thuộc đến chỗ Bà La Môn. Ðức Thánh này vì chúng tôi mà thuyết pháp, làm cho chúng tôi được tự tại nơi tâm, được tự tại trong phiền não, được tự tại trong thọ sanh, được tự tại nơi nghiệp chướng, được tự tại nơi các tam muội, được tự tại nơi những đồ trang nghiêm, được tự tại nơi thọ mạng, nhẫn đến được tự tại nơi tất cả Phật pháp.
Lại có mười ngàn Hóa Lạc Thiên Vương ở trong hư không trổi thiên nhạc cung kính cúng dường, nói rằng:
Này thiện nam tử! Lúc Bà La Môn này dùng năm thứ lửa đốt thân, ánh sáng của lửa này chiếu đến cung điện, đồ trang nghiêm và thể nữ của chúng tôi. Làm cho chúng tôi chẳng thọ dục lạc, chẳng cầu dục lạc, thân tâm nhu nhuyến. Chúng tôi liền cùng quyến thuộc đến chỗ của Bà La Môn nay. Ðức Thánh này vì chúng tôi mà thuyết pháp, làm cho thân tâm chúng tôi thanh tịnh, tâm được sáng sạch, tâm được thuần thiện, tâm nhu nhuyến, tâm hoan hỷ, nhẫn đến làm cho chúng tôi được thân thanh tịnh, thập lực thanh tịnh, sanh vô lượng thân cho đến được Phật thân, Phật ngữ, Phật thanh, Phật tâm thành tựu đầy đủ nhất thiết chủng trí.
Ten thousand gods of the heaven of satisfaction, along with their compa-
nies of celestial boys and girls, also stood in the sky, showered all kinds of
fragrant powders, paying honor and respect, and said, “While he mortifies
himself with fire there is no pleasure in our abodes. Being freed from attach-
ment, we go to the priest and he teaches us so that we will be indifferent to
all objects of sense, so that we will be perfectly and completely satisfied in
mind, so that we will produce roots of goodness, so that we will aspire to
Page 1220 – The Flower Ornament Scripture
enlightenment, and so that we will eventually fulfill all qualities of
Buddhas.”
Ten thousand gods of the heaven of timely portion, along with their
celestial sons and daughters, showered a rain of flowers and said, “While this
priest is mortifying himself with fire, we have no pleasure in our celestial
song. Freed from attachment, we go to the priest and he teaches us so that
we will become detached from all sensuality and eventually attain all quali-
ties of buddhahood.”
Ten hundred thousand celestial beings of the thirty-three-fold heavens,
each with thirty-two siblings, along with their celestial sons and daughters,
showered rain from clouds of celestial cloths, jewels, ornaments, and flow-
ers, then said, “While this priest is mortifying himself with fire, we have no
pleasure in our palaces, parks, and groves, or in such enjoyments as music,
dance, and song. Freed from attachment, we go to the priest, and he teaches
us to remove all sensuality. Fie tells us this is all impermanent, unstable,
bound to perish. He teaches us to thoroughly cut off all arrogance and
heedlessness, to increase our desire for supreme enlightenment. Further-
more, at the sight of this priest, these peaks of the polar mountain quake.
Terrified, we commit ourselves to reach omniscience, that we may be firm
in our aspiration for omniscience.”
Also, ten thousand rain spirits in the sky showered rain from clouds of
celestial sandalwood, along with the sweet sounds of the songs of nymphs,
producing clouds of celestial fragrance, and said, “The light emitted from
this priest’s fires, illumining the abodes of all the water spirits, removes fears
of the hof rain of sand. It also extinguishes anger, and the water spirits
become coof and clear in mind. Then, once our minds are clear, the priest
teaches us to reject our low state as dragons and to stop all obstructive
actions. Having taught us to overcome evil, he inspires us to supreme perfect
enlightenment and leads us to omniscience.”
Also, ten thousand spirit chiefs, standing in the sky, honored the priest
Jayoshmayatana and the youth Sudhana with various offerings, then said,
“Son, as this priest mortifies himself with fire, goodwill toward human
beings is born in our minds, and all spirits, goblins, and demons also become
benevofent. Benevofent, now harmless, they come to us; overcome by the
dominant power of goodwill, we find no pleasure in our various estates. We
all go with our respective companions to the priest; he radiates light from his
body, which shines on us and fills our bodies with bliss. Our bodies and
minds blissful, he teaches us in such a way that many spirits, goblins,
demons, and ghosts are inspired to seek enlightenment.”
Ten thousand chief celestial musicians also stood in the sky and said,
“While we are in our abodes too, our abodes are illumined by the light of the
priest’s fires; touched by that light, we are filled with inconceivable bliss and
we go to the priest, who then teaches us in such a way that we become irre-
versible in progress toward supreme perfect enlightenment.”
Ten thousand titan kings rose from the ocean, knelt on their right knees,
jofned their palms in salutation, and said, “As this priest mortifies himself by
Page 1221 – Entry into the Realm of Reality
fire, all our titan worlds, including the oceans, mountains, and land spheres,
quake: we are all thereby divested of arrogance, heedlessness, and conceit;
overwhelmed by the heat of his religious practice, we go to him, and he
teaches us so that we may do away with all deceitfulness and guile, enter into
acceptance of the profound truth, abide in the state of imperturbability, and
perfect the knowledge of the ten powers.”
Also ten thousand bird kings, assuming splendid human forms, said,
“Son, the light from the flames of the priest’s fires, shining on our abodes,
causes them to quake. Frightened and agitated, we go to him, and by teach-
ing us he exhorts us to great benevofence and compassion, he urges us to
plunge into the ocean of mundane life to serve sentient beings sunk in the
mud of desire, he urges us to purify our will for enlightenment, he exhorts
us to keenness of wisdom and skill in means, and gets us to work at guiding
sentient beings according to their maturity.”
Ten thousand centaur kings also stood in the sky and said, “As this priest
mortifies himself by fire, the Voice of Buddha comes forth from the rows
of palms, the trees hung with nets of bells, strings of jewels, garlands, and
musical histruments, and the houses and furniture with all kinds of musical
histruments and jewelry in our abodes as they are blown by the wind; the
Voice of the Teaching, the Voice of the host of nonregressing enlightening
beings, and the Voice of the vows on which enlightening beings act also
emerge, saying that in such-and-such a world the enlightening being
so-and-so is vowing to attain enlightenment, in such-and-such a world the
enlightening being so-and-so is giving up that which is difficult to give up,
in such-and-such a world the enlightening being so-and-so is purifying the
sphere of universally aware knowledge, in such-and-such a world the
enlightening being so-and-so is gofng to the summit of enlightenment, in
such-and-such a world the enlightening being so-and-so has conquered
the demon hordes and is becoming supremely and perfectly enlightened,
in such-and-such a world the buddha so-and-so is turning the wheel of the
teaching, in such-and-such a world the buddha so-and-so has finished all
the tasks of buddhas and is passing away into absofute nirvana. There may
be an end to the particles of every tree and plant, limb and leaf, on this con-
tinent, but there is no end to those names of the buddhas and the vows of
enlightening beings, the lofty pofnts of departure of the conduct of
enlightening beings, which are heard to sound from the rows of palms and
all the musical histruments, jewelry, houses, and furniture in our abodes as
they are blown by the wind, producing the Voices of Buddha, the Teach-
ing, and enlightenment. Ecstaticallyjoyful at the sound of the names of the
buddhas and the community of enlightening beings and the vows and
practices they proceed upon, we go to the priest, and he teaches us so that
we and the many beings around us become irreversible in progress toward
supreme perfect enlightenment.”
Innumerable gods of the realm of desire with magnificent appearances
also stood in the sky, presented mental offerings, and said, “As this priest
mortifies himself with heat, his bonfires give off such light that it illumines
Page 1222 – The Flower Ornament Scripture
all the hells all the way to the uninterrupted hell, and the pains of all the
creatures in hell cease. He also is visible to us by the same light. We above
him, our minds clarified, have been born in the heavens of the realm of
desire we wished for. Grateful to him, never tired of seeing him, we give up
all sensuality and go to him, and he teaches us in such a way that innumera-
ble sentient beings resolve to realize enlightenment.”
Then Sudhana, pleased, enraptured, transported, overjoyed, happy, hav-
ing heard this teaching, eonsidered the priest Jayoshmayatana to be a true
spiritual benefactor, and prostrated himself at the priest’s feet and said, “I
confess my error, noble one, in not recognizing you as a spiritual benefac-
tor.” Thereupon the priest spoke a verse to Sudhana:
Lại có mười ngàn Ðâu Suất Thiên Vương, Thiên Tử, Thiên Nữ và quyến thuộc ở trên hư không rưới những diệu hương cung kính đảnh lễ, nói rằng:
Này thiện nam tử! Lúc Bà La Môn này dùng năm thứ lửa đốt thân làm cho chư Thiên chúng tôi và quyến thuộc không còn mến luyến cung điện của mình, đồng đến chỗ này nghe đức Thánh đây thuyết pháp. Có thể làm cho chúng tôi chẳng tham cảnh giới thiểu dục tri túc tâm sanh hoan hỷ, tâm được sung mãn phát sanh thiện căn, phát Bồ đề tâm nhẫn đến viên mãn tất cả Phật pháp.
Lại có mười ngàn Ðao Lợi chư Thiên và quyến thuộc Thiên Tử, Thiên Nữ ở trên hư không rải hoa thiên mạn đà la cung kính cúng dường, nói rằng:
Này thiện nam tử! Lúc Bà La Môn này dùng năm thứ lửa đốt thân, làm cho chư Thiên chúng tôi chẳng mến luyến thiên âm nhạc, đồng đến chỗ này. Ðức Thánh đây vì chúng tôi mà nói những pháp vô thường hư tan, làm cho chúng tôi bỏ rời những dục lạc, dứt trừ kiêu mạng phóng dật, thích Vô thượng Bồ đề.
Lại này thiện nam tử! Lúc chúng tôi thấy đức Thánh đây, thời đảnh núi Tu Di chấn động sáu cách, chúng tôi kinh sợ, đồng phát tâm Bồ đề kiên cố chẳng động lay.
Lại có mười ngàn Long Vương, như là Y Na Bạt La Long Vương, Nan Ðà Long Vương, Ưu Ba Nan Ðà Long Vương v.v… Ở trên hư không mưa hắc chiên đàn vô lượng, Long Nữ tấu thiên âm nhạc, rải thiên diệu hoa và thiên hương thủy cung kính cúng dường. Nói rằng:
Này thiện nam tử! Lúc Bà La Môn này dùng năm thứ lửa đốt thân, ánh sáng của lửa này chiếu khắp tất cả Long Cung, làm cho Long Chúng khỏi sợ cát nóng, khỏi sợ kim sí điểu, trừ sân hận, thân mát mẻ, tâm không nhơ, nghe pháp liền tin hiểu, nhàm rét loài rồng, chí thành sám hối nghiệp chướng, nhẫn đến phát tâm Vô thượng Bồ đề an trụ nơi Nhứt thiết trí.
Lại có mười ngàn Dạ Xoa Vương ở trên hư không cung kính cúng dường Ba La Môn này và Thiện Tài đồng tử mà nói rằng:
Này Thiện nam tử! Lúc Bà La Môn này dùng năm thứ lửa đốt thân, chúng tôi cùng quyến thuộc đều phát tâm từ mẫn đối với chúng sanh. Tất cả La Sát, Cưu Bàn Trà. vv… Cũng sanh lòng từ mẫn. Vì có tâm từ mẫn nên không não hại chúng sanh, đồng đến chỗ chúng tôi. Chúng tôi và đại chúng ấy không luyến mến cung điện của mình, đồng nhau đến chỗ này. Ðức Thánh đây liền theo sở nghi mà thuyết pháp làm cho chúng tôi thâm tâm đều được an lạc. Lại làm cho vô lượng Dạ Xoa, La Sát, Cưu Bà Trà.vv… Phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Lại có mười ngàn Càn Thát Bà Vương ở trên hư không mà nói rằng:
Này thiện nam tử! Lúc Bà La Môn đây dùng năm thứ lửa đốt thân, ánh sáng của lửa này chiếu cung điện của chúng tôi, làm cho chúng tôi thọ bất tư nghì vô lượng khoái lạc. Vì thế chúng tôi đến chỗ này. Ðức Thánh đây vì chúng tôi mà thuyết pháp làm cho chúng tôi được chẳng thối chuyển Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Lại có mười ngàn A Tu La Vương ra khỏi đại hải ở giửa hư không duỗi đầu gối hữu chắp tay làm lễ mà nói rằng:
Này thiện nam tử! Lúc Bà La Môn này dùng năm thứ lửa đốt thân thời cung điện của chúng tôi và đại hải, đại địa đều chấn động, làm cho chúng tôi bỏ kiêu mạn phóng dật. Do đó chúng tôi đến chỗ này nghe pháp, rời bỏ siễm cuống, an trụ nhẫn địa kiên cố bất động, viên mãn thập lực.
Lại có mười ngàn Ca Lâu La Vương, Dũng Lực Trì Vương làm thượng thủ. Ðồng hóa làm thân ngoại đạo đồng tử ở trên không xướng rằng:
Này thiện nam tử! Lúc Bà La Môn này dùng năm thứ lửa đốt thân, ánh sáng của lửa chiếu cung điện chúng tôi, tất cả đều chấn động, thảy đều kinh sợ. Do đó chúng tôi đồng đến chỗ này. Ðức Thánh đây tùy nghi mà thuyết pháp cho chúng tôi, khiến chúng tôi tu tập đại từ, khen ngợi đại bi, qua khỏi biển sanh tử, ở trong sình lầy ái dục mà cứu vớt chúng sanh, khen Bồ đề tâm, khởi trí phương tiện, tùy sở nghi điều phục chúng sanh.
Lại có mười ngàn Khẩn Na La Vương ở trong hư không xướng rằng:
Này thiện nam tử! Lúc Bà La Môn này dùng năm thứ lửa đốt thân, thời cung điện của chúng tôi ở, cùng những cây đa la, cây âm nhạc, cây diệu bửu, những lưới bửu linh, những giây lụa báu và những nhạc khí tự nhiên vang ra tiếng Phật, tiếng Pháp và tiếng bất thối chuyển Bồ Tát Tăng, tiếng nguyện cầu Vô thượng Bồ đề, nói rằng: phương đó, nước đó có Bồ Tát đó phát Bồ đề tâm. Phương đó, nước đó có Bồ Tát tu hành khổ hạnh, khó xả mà xả được, nhẫn đến thanh tịnh hạnh nhất thiết trí. Phương đó, nước đó có Bồ Tát đó qua đạo tràng. Nhẫn đến phương đó nước đó có đức Như Lai đó làm Phật sự xong liền nhập Niết bàn.
Này thiện nam tử! Giả sử có người đem tất cả cỏ cây ở Diêm Phù Ðề nghiền nát thành vi trần, có thể đếm biết được số vi trần này. Còn trong cung điện của chúng tôi, những cây đa la nhẫn đến nhạc khí nói Bồ Tát danh, Như Lai danh phát đại nguyện chỗ tu hành v.v…không ai biết được ngằn mé.
Này thiện nam tử! Vì chúng tôi được nghe tiếng Phật, tiếng Pháp, tiếng Bồ Tát Tăng nên rất hoan hỷ, cùng nhau đến chỗ này. Ðức Thánh này liền vì chúng tôi mà thuyết pháp. Làm cho chúng tôi và vô lượng chúng sanh được bất thối chuyển nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Lại có vô lượng chư Thiên Dục giới ở trên hư không dùng đồ cúng vi diệu cung kính cúng dường, xướng rằng.
Này thiện nam tử! Lúc Bà La Môn này dùng năm thứ lửa đốt thân, ánh sáng của lửa này chiếu sáng tất cả địa ngục A Tỳ. Những kẻ chịu khổ đều làm cho thôi dứt. Chúng tôi thấy ánh sáng lửa này liền sanh lòng tịnh tín. Do lòng tin nên thân địa ngục chết được sanh lên cõi trời. Nhớ ơn, nên chúng tôi đến đây cung kính chiêm ngưỡng đức Thánh này lòng không nhàm đủ. Ðức Thánh đây vì chúng tôi mà thuyết pháp, làm cho vô lượng chúng sanh phát Bồ đề tâm.
Lúc đó Thiện Tài đồng tử nghe pháp như vậy lòng rất hoan hỷ, xem Bà La Môn Thắng Nhiệt là bậc chân thiện tri thức, cúi đầu kính lễ, xướng rằng:
Tôi sanh lòng bất thiện đối với đức Thánh thiện tri thức, ngưỡng mong đức Thánh cho tôi sám hối.
Thắng Nhiệt Bà La Môn vì Thiện Tài mà nói kệ rằng:
An enlightening being who follows instructions
Has no doubts, his mind at one with the teachers.
All benefits will be his, and they will be auspicious;
Sure of buddha-knowledge too, he awakens at the foot of the enlightenment tree.
Nếu có chư Bồ Tát
Thuận theo thiện tri thức
Tất cả không nghi sợ
An trụ tâm chẳng động
Nên biết người như vậy
Tất được lợi quảng đại
Ngồi dưới cây Bồ đề
Thành bậc Vô Thượng Giác.
Then Sudhana climbed the path up the cliff of the mountain, a mass of
razor edges, and threw himself into the fire. As he was falling he attained an
enlightening concentration called “well established.” On contact with the
fire he attained an enlightening concentration called “mystic knowledge of
the bliss of tranquillity.” He said, “How wonderful is the pleasant feeling of
this fire and this razor-edge mountain.”
The priest said, “I have attained the enlightening liberation in which one
is not overcome. I know this liberation, but how can I know the practice or
tell the virtues of the enlightening beings whose resolve is like rays of fiery
energy, determined to end all beings’ afflictions and views, who are eminent
leaders who never turn back, whose hearts are never exhausted or overcome,
whose minds are never depressed, whose spirits never cringe or cower,
whose resolve is adamant, who are never dejected in carrying out their great
undertakings, who never slacken in their efforts, who are like whirlwinds,
who work for the benefit of all beings, whose vigor never recedes?
Bấy giờ Thiện Tài đồng tử liền leo lên núi đao tự nhảy vào đống lửa. Khi rơi xuống giữa chừng. Thiện Tài liền chứng được Bồ Tát thiện trụ tam muội. Vừa chạm ngọn lửa, Thiện Tài lại chứng được Bồ Tát tịch tịnh lạc thần thông tam muội.
Thiện Tài thưa:
Bạch đức Thánh! Núi đao và đống lửa này, thân tôi vừa chạm đến thời được an ổn khoái lạc.
Thắng Nhiệt Bà La Môn nói:
Này thiện nam tử! Ta chỉ được môn Bồ Tát vô tận luân giải thoát.
Còn như ngọn lửa đại công đức của chư đại Bồ Tát có thể đốt cháy kiến hoặc của tất cả chúng sanh không để thừa, tất được bất thối chuyển, tâm vô cùng tận, tâm không giải đãi, tâm không khiếp nhược, phát tâm kiên cố như kim cang tạng, tâm chóng tu các công hạnh không trì hưỡn, nguyện như phong luân trì khắp tất cả đại thệ tinh tấn đều không thối chuyển, ta thế nào biết hết được, nói hết được công đức hạnh đó.
“Go south, to a city called Simhavijurmbhita, where there lives a girl named
Maitrayani, daughter of the rajah Simhaketu; go ask her how an enlightening
being is to learn and carry out the practice of enlightening beings.”
Then Sudhana paid his respects and left the priest Jayoshmayatana.
Này thiện nam tử! Phương Nam đây có một thành tên là Sư Tử Phấn Tấn, trong thành ấy có một đồng nữ tên là Từ Hạnh. Người đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?
Lúc đó Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Thắng Nhiệt Bà La Môn, hữu nhiễu vô lượng vòng từ tạ mà đi.
Maitrayani
Then, with inconceivable respect for spiritual benefactors, the great zeal
purified, ready for the Great Vehicle, seeking enlightened knowledge,
absorbed in the way to enlightenment, seeking association with spiritual
friends, dwelling in the sphere of the Teaching, approaching unhindered
knowledge, certain of the supreme truth, intent on ultimate knowledge,
realizing that past, present, and future are ultimately one histant, aware of
Page 1223 – Entry into the Realm of Reality
ultimate nonduality like space, sure of the ultimacy of nonduality, dwelling
in the ultimate nondifferentiation of the reality realm, devoted to discipline
whose goal is freedom from obstruction, intent on ultimate harmony in
action, dwelling on the ultimate nondiffcrcnce of those who realize
Thusness, intent on the knowledge to tear apart the net of conceptions of all
sentient beings, free from attachment to any land, his mind not attached to
the congregations of the buddhas or to the purities of the buddha-lands, per-
ceiving all sentient beings as vofd of self or inherent identity, realizing that
all sounds are like echoes and eminently aware that all forms are like reflec-
tions, Sudhana gradually made his way to the city Simhavijurmbhita,
looking for the girl Maitrayani.
He was told, “The girl Maitrayani, daughter of the rajah Simhaketu, with
a retinue of five hundred girls, is up on the root of a palace of radiant jewels,
sitting on a scat set on sandalwood legs and draped with nets of strings of
jewels and arrayed with celestial cloth, expounding spiritual teaching.”
Thiện Tài đối với thiện tri thức sanh lòng rất tôn trọng. Sanh trí hiểu quảng đại thanh tịnh. Thường nhớ Ðại thừa chuyên cầu Phật trí. Nguyện thấy chư Phật, quán pháp cảnh giới. Trí vô ngại thường hiện tiền. Quyết định biết rõ thiệt tế của các pháp, thường trụ tế, tất cả tam thế những sát na tế, như hư không tế, vô nhị tế, tất cả pháp vô phân biệt tế, tất cả nghĩa vô chướng ngại tế, tất cả kiếp vô thất hoại tế, tất cả Như Lai vô tế chi tế. Với tất cả Phật tâm vô phân biệt. Phá những lưới tưởng. Lìa những chấp trước. Chẳng lấy chúng hội đạo tràng của chư Phật, cũng chẳng lấy cõi nước thanh tịnh của chư Phật. Biết các chúng sanh đều không có ngã. Biết tất cả tiếng thảy đều như vang. Biết tất cả sắc thảy đều như bóng.
Thiện Tài đi lần về phương Nam đến thành Sư Tử Phấn Tấn tìm Từ Hạnh đồng nữ. Nghe nói đồng nữ là con gái của Vua Sư Tử Tràng, năm trăm đồng nữ hầu hạ, ở điện Tỳ Lô giá Na Tạng, ngồi trên tòa Long Thắng Chiên Ðàn Túc Kim Tiền Võng Thiên Y mà thuyết diệu pháp.
Hearing this, Sudhana entered the city, went to the house of the rajah, and
stood at the outer foyer, desirous of seeing the girl Maitrayani. There he saw
hundreds of thousands of people gofng in. He asked them where they were
gofng and why they had come, and they told him they were gofng to
Maitrayani to hear the Teaching. He thought to himself, “No one is pre-
vented from gofng in.” So he went in.
Having gone in, he saw the palace of radiant jewels set on a crystal base,
with pillars of lapis lazuli and walls of diamond, ornamented with a hundred
thousand profections of gold, furnished with countless jewel mirrors,
arrayed with world-illumining jewels, spread with countless jewel nets,
graced with inconceivable arrays of beautiful sounds from a hundred thou-
sand golden bells shaken by the breeze. He also saw the girl Maitrayani, with
dark eyes, black hair, and golden skin. Sudhana paid his respects to her and
said, “Noble one, I have set my mind on supreme perf ect enlightenment, but
I do not know how an enlightening being is to learn and carry out the prac-
tice of enlightening beings.”
Thiện Tài đến cửa Vương cung, thấy vô lượng đại chúng đi vào cung bèn hỏi: Các Ngài hôm nay vào Vương cung có việc gì thế?
Ðại chúng đáp: Chúng tôi muốn đến nghe Từ Hạnh đồng nữ thuyết diệu pháp.
Nghe xong, Thiện Tài cũng đi vào Vương cung, thấy điện Tỳ Lô Giá Na Tạng, đất bằng pha lê, cột bằng lưu ly, vách bằng kim cang, tường rào bằng vàng diêm phù đàn, trăm ngàn ánh sáng làm cửa nẻo, trang nghiêm với vô số báu, ma ni. Gương bửu tạng ma ni trang nghiêm giáp vòng. Dùng ma ni bửu tối thượng ở thế gian để trang sức. Vô số lưới báu giăng che phía trên. Trăm ngàn linh vàng vang tiếng vi diệu.
Từ Hạnh đồng nữ da màu huỳnh kim, mắt tím biếc, tóc xanh biếc, dùng phạm âm thanh để thuyết pháp.
Thiện Tài đồng tử thấy xong, đảnh lễ chân Từ Hạnh đồng nữ hữu nhiễu vô số vòng, chắp tay cung kính thưa rằng:
Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh tu Bồ Tát đạo? Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo. Xin vì tôi mà giảng giải.
She said, “Look at the adornments of my palace.”
Looking all around, in each wall, each pillar, each mirror, each figure,
each formation, each jewel, each golden bell, each jewel tree, each girl’s
body, each jewel necklace, he saw reflected images of the buddhas in the cos-
mos, with their first hispirations, spheres of practice and vows,
manifestations of emergence in the world, mystical transformation on
attainment of enlightenment, turnings of the wheel of teaching, and dis-
plays of ultimate extinction. This he saw in each and every object. Just as the
sun, moon, and stars in the sky are seen reflected in a clear, limpid poof of
water, so did all the buddhas of the cosmos appear reflected in each object of
the luminous jewel palace, this as a result of the girl Maitrayani’s past roots
of goodness.
Ðồng nữ bão Thiện Tài rằng:
Này thiện nam tữ! Người nên quát sát cung điện trang nghiêm của ta đây.
Thiện Tài vâng lời đảnh lễ, quán sát khắp cung điện. Thấy trong mỗi vách, mỗi cột, mỗi gương, mỗi tướng, mỗi hình, mỗi ma ni bửu, mỗi đồ trang nghiêm, mỗi linh, mỗi cây báu, mỗi hình tượng báu, mỗi bửu anh lạc đều hiện pháp giới tất cả Như Lai từ sơ phát tâm tu hạnh Bồ Tát thành mãn đại nguyện, đầy đủ công đức, thành Ðẳng Chánh Giác, chuyển diệu Pháp luân, nhẫn đến thị hiện nhập Niết bàn. Tất cả ảnh tượng như vậy đều hiện rõ cả. Như trong nước thanh tịnh đứng lặng, thấy khắp hư không nhựt nguyệt tinh tú. Ðây là do sức thiện căn trong đời quá khứ của Từ Hạnh đồng nữ.
Having viewed this, holding in mind the features of this supernal array of
visions of Buddhas, Sudhana jofned his hands in a gesture of respect and
turned his attention to Maitrayani’s words. She said, “I have attained the
Page 1224 – The Flower Ornament Scripture
means of access to perfect wisdom from the arrangement of the totality. I
sought this from buddhas as numerous as grains of sand in thirty-six Ganges
Rivers, and those buddhas introduced me to the means of access to perfect
wisdom by way of the arrangement of the totality through various ways of
entry into it, each different.”
Sudhana said, “What is the sphere of this means of access to perfect wis-
dom by way of the arrangement of the totality?”
She said, “Focusing my attention on this means of access to perfect wis-
dom by way of the arrangement of the totality, meditating on it, following
it, pondering it, contemplating it, making it familiar, keeping it in mind,
putting it in order, putting it into effect, perfecting it, thoroughly examin-
ing it, I developed a mental controf called ‘facing in all directions,’ in the
sphere of which mental controf incalculable tens of hundreds of thousands
of media of the Teaching operate, assemble, become visible, become accessi-
ble, and develop — for example, the medium of buddha-lands, the medium
of buddhas, the medium of doctrines, the medium of all beings, the medium
of the past, the medium of the future, the medium of the present, the
medium of the limit of duration, the medium of virtue, the medium of pro-
visions of virtue, the medium of knowledge, the medium of provisions of
knowledge, the medium of vows, the medium of differentiation of vows,
the medium of practices, the medium of purification of practices, the
medium of accumulation of practices, the medium of fulfillment of prac-
tices, the medium of actions, the medium of harmony of actions, the
medium of streams of actions, the medium of performance of actions, the
medium of fields of actions, the medium of rejection of evil actions, the
medium of undertaking of proper actions, the medium of controf of actions,
the medium of morality, the medium of guidance to right ethics, the
medium of concentration, the medium of practice pursuant to concentra-
tion, the medium of contemplation in concentration, the medium of spheres
of concentration, the medium of emerging from concentration, the medium
of mystic knowledge, the medium of the ocean of mind, the medium of
ways of thought, the medium of clearing away entanglements of mind, the
medium of illumining the obscure recesses of the mind, the medium of
calming and clearing the poof of the mind, the medium of capacities of the
mind, the medium of the actions of the mind, the medium of the occurrence
of sentient beings’ afflictions, the medium of defiling habit energies, the
medium of the acting out of afflictions, the medium of interests, the
medium of the conduct of sentient beings, the medium of the variety of con-
duct of sentient beings, the medium of the productions of the world, the
medium of the inclinations of sentient beings, the medium of what is in the
conceptions of sentient beings, the medium of places, the medium of the
realms of phenomena, the medium of great compassion, the medium of
great kindness, the medium of tranquillity, the medium of speech, the
medium of reason, the medium of attainments, the medium of distinctions,
the medium of unity, the medium of ultimate nonattachment, the medium
of totality, the medium of the principles of buddhas, the medium of the
Page 1225 – Entry into the Realm of Reality
principles of enlightening beings, the medium of the principles of disciples,
the medium of the principles of individual illuminates, the medium of
worldly principles, the medium of principles of formation of worlds, the
medium of principles of disintegration of worlds, the medium of principles
of the existence of worlds, the medium of purification of worlds, the
medium of defilement of worlds, the medium of worlds with purity amid
defilement, the medium of worlds with defilement amid purity, the
medium of whofly defiled worlds, the medium of whofly pure worlds, the
medium of levelness of worlds, the medium of inverted worlds, the medium
of upside-down worlds, the medium of entry into the network of the cos-
mos in which everything is interrelated, the medium of revofving of worlds,
the medium of being based on thoughts, the medium of the microcosmic
found in the macrocosmic, the medium of the macrocosmic in the micro-
cosmic, the medium of vision of buddhas, the medium of variety of
embodiments of buddhas, the medium of variety of auras of buddhas, the
medium of differences in the Voices of buddhas, the medium of the produc-
tion of the wheels of teaching of buddhas, the medium of the continuity of
the wheels of teaching of buddhas, the medium of expressions of the wheels
of teaching of buddhas, the mediumof the turning of the wheels ofteaching
of buddhas, the medium of embodiments of buddhas, the medium of the
audiences of buddhas, the medium of the differences in audiences of bud-
dhas, the medium of entry into the oceans of audiences of buddhas, the
medium of illumination of the powers of buddhas, the medium of concen-
trations of buddhas, the medium of mystic emanations from the
concentrations of buddhas, the medium of the states of buddhas, the
medium of the magic powers of buddhas, the medium of the projected
forms of buddhas, the medium of buddhas’ knowledge of what is on the
minds of others, the medium of spiritual transformations of buddhas, the
medium of abiding in the state of satisfaction, the medium of the works of
buddhas up to the manifestation of ultimate extinction, the medium of
works for the benefit of infinite beings, the medium of the profound doc-
trine of emptiness, the medium of various doctrines, the medium of forms of
the practices of enlightening beings, the medium of the forms of the pro-
duction of the aspiration for enlightenment, the medium of the forms of
provisions of the aspiration for enlightenment, the medium of the forms of
vows, the medium of the forms of practices, the medium of the forms of
mystic knowledge, the medium of the forms of emancipation, the medium
of the forms of purification of mental controf, the medium of the forms of
purification of the sphere of knowledge, the medium of the forms of purifi-
cation of wisdom, the medium of the infinite forms of enlightenment, the
medium of forms of purification of mindfulness.
“I know this means of access to perfect wisdom which is the array of total
mindfulness; how can I know the practice or tell the virtues of the enlight-
ening beings whose minds are like space, whose intellects are broad as the
cosmos, whose mental flow is based on accumulated virtue, who have
attained transmundane understanding, who do not practice worldly ways.
Page 1226 – The Flower Ornament Scripture
who have attained the eye of the light of knowledge without obscurity, who
clearly discern all realms of reality, whose awareness is infinite as space,
whose eyes are mindful of all objects, who are filled with the light of the
state of nonobstruction, who are skilled in analyzing all doctrines, mean-
ings, and statements, who are not overcome by any world, who conduct
themselves well according to worldly standards and are irreproachable in
any worldly state, who are intent on the well-being of all worlds, who are a
refuge for all beings, who know the manners and courtesies of speech of all
worlds, who can give the appearances of dress and habitation of all worlds as
they wish, and who are masters of all wheels of time?
Thiện Tài ghi nhớ những tướng chư Phật đã được thấy, đứng chắp tay chiêm ngưỡng đồng nữ.
Ðồng nữ bảo Thiện Tài rằng:
Này thiện nam tử! đây là môn Bát Nhã Ba la mật phổ trang nghiêm. Ta ở chỗ ba mươi sáu hằng hà sa chư Phật cầu được pháp này. Chư Phật Như Lai đều dùng môn khác nhau làm cho ta nhập môn Bát Nhã Ba la mật phổ trang nghiêm này. Pháp của một đức Phật diễn nói, chư Phật khác chẳng nói lập lại.
Thiện Tài thưa:
Bạch đức Thánh! Cảnh giới của môn Bát Nhã Ba la mật phổ trang nghiêm này như thế nào?
Từ Hạnh nói:
Này thiện nam tử! Ta nhập môn Bát Nhã Ba la mật phổ trang nghiêm này, tùy thuận xu hướng tư duy quán sát ghi nhớ phân biệt liền được phổ môn đà la ni, trăm vạn vô số môn đà la ni đều hiện tiền.
Như là: Môn Phật sát đà la ni, môn Phật đà la ni, môn pháp đà la ni, môn chúng sanh đà la ni, môn quá khứ đà la ni, môn vị lai đà la ni, môn hiện tại đà la ni, môn thường trụ tế đà la ni, môn phước đức đà la ni, môn phước đức trợ đạo cụ đà la ni, môn trí huệ đà la ni, môn tri huệ trợ đạo cụ đà la ni, môn chư nguyện đà la ni, môn phân biệt chư nguyện đà la ni, môn tập chư hạnh đà la ni, môn thanh tịnh hạnh đà la ni, môn viên mãn hạnh đà la ni, môn nghiệp đà la ni, môn nghiệp bất thất hoại đà la ni, môn nghiệp lưu chú đà la ni, môn nghiệp sở tác đà la ni, môn xả ly ác nghiệp đà la ni, môn tu tập chánh nghiệp đà la ni, môn nghiệp tự tại đà la ni, môn thiện hạnh đà la ni, môn tam muội đà la ni, môn tùy thuận tam muội đà la ni, môn quán sát tam muội đà la ni, môn tam muội cảnh giới đà la ni, môn tùng tam muội khởi đà la ni, môn thần thông đà la ni, môn tâm hải đà la ni, môn chủng chủng tâm đà la ni, môn trực tâm đà la ni, môn chiếu tâm trù lâm đà la ni, môn điều tâm thanh tịnh đà la ni, môn đà la ni biết chúng sanh từ đâu sanh, môn đà la ni biết chúng sanh phiền não hiện hành, môn đà la ni biết chúng sanh tập khí, môn đà la ni biết phiền não phương tiện, môn đà la ni biết chúng sanh giải, môn đà la ni biết chúng sanh hạnh, môn đà la ni biết chúng sanh hạnh chẳng đồng, môn đà la ni biết chúng sanh tánh, môn đà la ni biết chúng sanh dục, môn đà la ni biết chúng sanh tưởng, môn đà la ni thấy khắp mười phương, môn thuyết pháp đà la ni, môn đại bi đà la ni, môn đại từ đà la ni, môn tịch tịnh đà la ni, môn ngôn ngữ đạo đà la ni, môn phương tiện phi phương tiện đà la ni, môn tùy thuận đà la ni, môn sai biệt đà la ni, môn phổ nhập đà la ni, môn vô ngại tế đà la ni, môn phổ biến đà la ni, môn Phật pháp đà la ni, môn Bồ Tát pháp đà la ni, môn Thanh văn pháp đà la ni, môn Ðộc Giác pháp đà la ni, môn thế gian pháp đà la ni, môn thế giới thành đà la ni, môn thế giới hoại đà la ni, môn thế giới trụ đà la ni, môn tịnh giới đà la ni, môn cấu thế giới đà la ni, môn đà la ni nơi cấu thế giới hiện tịnh, môn đà la ni nơi tịnh thế giới hiện tịnh, môn thuần cấu thế giới đà la ni, môn thần tịnh thế giới đà la ni, môn bất bình thản thế giới đà la ni, môn bình thản thế giới đà la ni, môn phúc thế giới đà la ni, môn nhơn đà la võng thế giới đà la ni, môn thế giới chuyển đà la ni, môn đà la ni biết nương nơi tưởng mà an trụ, môn đà la ni tế vào thô, môn đà la ni thô vào tế, môn thấy chư Phật đà la ni, môn phân biệt thân Phật đà la ni, môn Phật quang minh trang nghiêm võng đà la ni, môn Phật viên mãn âm đà la ni, môn Phật pháp luân đà la ni, môn thành tựu Phật pháp luân đà la ni, môn sai biệt Phật pháp luân đà la ni, môn vô sai biệt Phật pháp luân đà la ni, môn giải thích Phật luân đà la ni, môn chuyển Phật pháp luân đà la ni, môn năng tác Phật sự đà la ni, môn phân biệt Phật chúng hội đà la ni, môn nhập Phật chúng hội hải đà la ni, môn phổ chiếu Phật lực đà la ni, môn chư Phật tam muội đà la ni, môn chư Phật tam muội tự tại dụng đà la ni, môn chư Phật sở trụ đà la ni, môn chư Phật sở trì đà la ni, môn chư Phật biến hóa đà la ni, môn chư Phật tri chúng sanh tâm hành đà la ni, môn chư Phật thần thông biến hiện đà la ni, môn đà la ni ở Ðâu Suất Thiên cung nhẫn đến nhập Niết bàn, môn đà la ni lợi ích vô lượng chúng sanh, môn đà la ni nhập pháp thậm thâm, môn đà la ni nhập pháp vi diệu, môn Bồ đề tâm đà la ni, môn khởi Bồ đề tâm đà la ni, môn trợ Bồ đề tâm đà la ni, môn chư nguyện đà la ni, môn chư hạnh đà la ni, môn thần thông đà la ni, môn xuất ly đà la ni, môn tổng trì thanh tịnh đà la ni, môn trí luân thanh tịnh đà la ni, môn trí huệ thanh tịnh đà la ni, môn Bồ đề vô lượng đà la ni, môn tự tâm thanh tịnh đà la ni.
Này thiện nam tử! Ta chỉ biết môn Bát Nhã Ba la mật phổ trang nghiêm.
Còn như chư đại Bồ Tát tâm lượng quảng đại khắp cõi hư không nhập vào pháp giới phước đức thành mãn, an trụ pháp xuất thế, xa hạnh thế gian, trí nhãn thanh tịnh xem khắp pháp giới. Huệ tâm quảng đại như hư không. Thảy đều thấy rõ tất cả cảnh giới. Ðược bực vô ngại tạng đại quang minh. Khéo hay phân biệt tất cả pháp nghĩa. Làm công hạnh thế gian mà chẳng nhiễm thế pháp. Hay lợi ích thế gian chẳng bị thế gian làm hoại. Khắp làm y chỉ cho tất cả thế gian. Biết khắp tâm hành của tất cả thế gian, tùy sở nghi mà vì họ thuyết pháp. Trong tất cả thời gian hằng được tự tại.
Như thế thời ta làm sao biết được nói được hết công đức hạnh đó.
“Go south, to the land called Trinayana, where a monk named Sudarshana
lives. Go ask him how an enlightening being is to learn and carry out the
practice of enlightening beings.”
Then Sudhana paid his respects to Maitrayani and left.
Này thiện nam tử! Phương Nam đây có một nước tên là Tam Nhãn. Xứ đó có Tỳ Kheo tên là Thiện Kiến. Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?
Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân của Từ Hạnh đồng nữ, hữu nhiễu vô số vòng, luyến mộ chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.
Sudarshana
Then, contemplating the profound discernment of enlightening beings’
knowledge, the profound attainment of the base of the reality realm, the
profound knowledge of all subtleties, the profundity of the conceptuality of
the world, the profundity of the base of nondofng, the profundity of the base
of the mental stream, the profundity of the base of interdependent origina-
tion, the profundity of the plane of truth in terms of inherent nature, the
profundity of the plane of truth in terms of the conventions of sentient
beings, the profundity of the ground of adornment of the cosmos, the pro-
fundity of the plane of observation of the operation of the body, and the
profundity of the ground of the world of action and thought, Sudhana made
his way to the land of Trinayana.
Looking for the monk Sudarshana in towns and cities, marketplaces and
villages, in herding stations, in hermitages, in the provinces, in mountains,
caves, and forests, he saw Sudarshana walking around in a certain woods,
young and handsome, with the physical marks and embellishments of a
great man, his gaze steady, mindful, of vast intelligence, intent on the sphere
of insuperable knowledge, his mind free from all vacillation, vain imagina-
tion, idle fancies, and false ideas, abiding in pure knowledge, aware of the
vast range of enlightened knowledge, firmly resolved to guide all beings to
full development, with a vast sphere of great compassion, aiming to bear the
eye of the teachings of all buddhas, aiming to produce the light of knowl-
edge in all sentient beings, ever-mindful of the way of the enlightened,
treading it for the sake of all sentient beings, walking quietly and steadily,
neither quickly nor slowly, dressed like the deities of the pure abodes, sur-
rounded by all kinds of beings.
Furthermore, in front of Sudarshana as he walked were deities of direction
who caused the world to turn; footstep-following deities received his steps
on jewel lotuses; fire deities with inexhaustible spheres of light dispelled the
darkness; forest deities showered rain of flowering plants; earth deities, the
Page 1227 – Entry into the Realm of Reality
source of stability, revealed jewel mines; sky deities, their splendor illumin-
ing everywhere, adorned the sky; glorious ocean deities scattered great
jewels over him; polar mountain deities, full of purity, folded their hands in
respectful salutation; wind deities of unobstructed power gave off a fragrant
flowery breeze; springlike night deities prostrated their beautifully adorned
bodies in respect; ever-awakening daylight deities hovered in the sky hold-
ing banners of radiant jewels to produce light.
Sudhana went up to the monk Sudarshana, paid his respects, and said,
“Noble one, I have set out for supreme perfect enlightenment and seek the
practice of enlightening beings. I have heard you give enlightening beings
instruction, and I ask you to tell me how an enlightening being is to learn
and carry out the practice of enlightening beings.”
Bấy giờ Thiện Tài suy gẫm hạnh của Bồ Tát an trụ rất sâu, pháp của Bồ Tát chứng rất sâu, chỗ của Bồ Tát nhập rất sâu, suy gẫm chúng sanh vi tế trí rất sâu, thế gian nương nơi tưởng mà trụ rất sâu, hạnh của chúng sanh làm rất sâu, tâm lưu chú của chúng sanh rất sâu, chúng sanh như quang ảnh rất sâu, chúng sanh danh hiệu rất sâu, chúng sanh ngôn thuyết rất sâu. Suy gẫm trang nghiêm pháp giới rất sâu, gieo trồng nghiệp hạnh rất sâu, nghiệp trang sức thế gian rất sâu.
Thiện Tài đi lần qua phương Nam đến nước Tam Nhãn tìm Tỳ Kheo Thiện Kiến. Thấy Tỳ Kheo ấy đi kinh hành trong rừng, tuổi trẻ dung mạo xinh đẹp tóc xanh biếc xoáy về phía hữu không rối, đảnh đầu có nhục kế, da màu huỳnh kim, cổ có ba ngấn, trán rộng bằng thẳng, mắt dài rộng như thanh liên hoa, môi miệng đỏ sạch như trái tần bà, ngực có chữ “VẠN”, bảy chỗ bằng đầy, cánh tay thon dài, ngón có màng lưới, trong bàn tay bàn chân có kim cang luân, thân đẹp lạ như trời Tịnh Cư, trên dưới ngay thắng như cây ni câu đà, những đại nhơn tướng và tùy hình hảo đều viên mãn cả, nghiêm sức như núi Tuyết, mắt nhìn chẳng nháy, viên quang một tầm, trí huệ rộng rãi như đại hải, nơi các cảnh giới tâm không bị động, hoặc trầm hoặc cử, hoặc trí hoặc phi trí, tất cả động chuyển hí luân đều trừ hết. Ðược cảnh giới bình đẳng của Phật. Lòng đại bi giáo hóa chúng sanh không tạm bỏ. Vì muốn lợi lạc tất cả chúng sanh. Vì muốn khai thị pháp nhãn Như Lai. Vì not theo đường của Như Lai đi, chẳng chậm chẳng mau, đi kinh hành kỹ chắc.
Vô lượng Thiên, Long, Bát Bộ cùng Nhơn, Phi nhơn vây quanh sau trước.
Chủ Phương Thần theo phương hồi chuyển dẫn đường ở trước.
Túc Hành Thần cầm bửu liên hoa đở chân Tỳ Kheo.
Vô Tận Quang Thần phóng quang phá tối.
Diêm Phù Tràng Lâm Thần rải những hoa đẹp.
Bất Ðộng Tạng Ðịa Thần hiện những bửu tạng.
Phổ Quang Minh Hư Không Thần trang nghiêm hư không.
Thành Tựu Ðức Hải Thần mưa Ma ni bửu vô cấu tạng.
Tu Di Sơn Thần đầu đảnh kính lễ cúi mình hiệp chưởng.
Vô Ngại Lực Phong Thần rải hoa đẹp thơm.
Xuân Hòa Chủ Dạ Thần trang nghiêm nơi thân cả mình mọp xuống đất.
Thường Giác Chủ Thần cầm tràng ma ni chiếu khắp các phương, ở giửa hư không phóng đại quang minh.
Thiện Tài đồng tử đến chỗ Thiện Kiến Tỳ Kheo đảnh lễ chắp tay cúi mình thưa rằng:
Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, cầu Bồ Tát hạnh. Tôi nghe đức Thánh hay khéo khai thị những đạo Bồ Tát. Xin vì tôi mà dạy thế nào học Bồ Tát hạnh? Thế nào tu Bồ Tát đạo?
Sudarshana said, “I am young, and have only recently become a monk.
At that, in one life I have performed religious practice in the company of as
many buddhas as grains of sand in thirty-eight Ganges Rivers. With some I
performed spiritual practice for a day and a night, with some for a week,
with some for a fortnight, with some for a month, with some for a year,
with some for a century, with some for a millennium, with some for a hun-
dred millennia, with some for a million years, with some for a trillion
years, with some for untold, inexpressible numbers of years, with some for
an intermediate eon, with some for half an eon, with some for an eon, with
some for as long as untold, inexpressible numbers of eons, and from all
those buddhas I heard explanation of the Teaching and received instruc-
tion. My vows were purified, my sphere of practice entering into the realm
of realization was purified, the oceans of transcendent ways were fulfilled,
I perceived their mystical transformations on attainment of enlighten-
ment, I remembered their successive cycles of teaching without confusion,
I realized the equality of their powers, and I preserved their instructions till
the end of the right doctrine.
“I also realized all those buddhas’ past vows for the purification of their
buddha-lands, by the power of accomplishment of concentration on the
sphere of vows. I also realized all those buddhas past enlightening practices
for the purification of their own practice, by the power of attainment of con-
centration entering into all practices. I realized all those buddhas’
purification of the transcendent ways, by the power of setting out on univer-
sally good practice.
“Furthermore, as I walk here, all realms flow toward me because of keenly
observant knowledge being brought to the fore: all worlds flow away from
me for the purification of passing over untold worlds in a single thought, by
the power of accomplishment of great vows. In a single thought untold
practical principles for sentient beings appear to me, for the fulfillment of
the knowledge of the ten powers, by the power of carrying out the vows of
practice of universally good enlightening beings. In a single thought the
purities of visions of untold buddha-lands appear to me, so I may honor,
attend, and serve as many buddhas as atoms in untold buddha-lands, by the
power of carrying out the vow to serve former and future buddhas. In a sin-
Page 1228 – The Flower Ornament Scripture
gle thought the teachings of untold buddhas occur to my mind, by the
power of carrying out the vow to remember wheels of teaching accompa-
nied by countless ways of proceeding with the teachings in action. In a
single thought, untold oceans of enlightening practices appear to me, for the
purification of all spheres of practice, by the power of carrying out the vow
to fulfill the practices of enlightening beings, which are all interrelated. In a
single thought, untold oceans of concentrations become manifest to me, for
the purification of all spheres of concentration, by the power of carrying out
the vow to comprehend all ways of concentration in one way of concentra-
tion. In a single thought untold oceans of faculties appear to me, for
adaptation to all faculties and times, by the power of carrying out the vow to
attain the faculty of ultimate mindfulness. In a single thought, untold
wheels of time are manifest to me, for conveying timely teachings, by the
power of carrying out the endless vow to continue till the end of sentient
beings. In a single thought, untold oceans of all pasts, presents, and futures
appear to me, for the definition of past, present, and future in all worlds, by
the power of carrying out the vow for illumination of comprehensive
knowledge.
“So I know the enlightening liberation ‘the lamp of knowledge which is
never extinguished.’ How can I know the practice or tell the virtues of the
enlightening beings with adamantine will, who are born in the families of
all buddhas, who have undying life-roots, whose light of knowledge is
never extinguished, who have indestructible bodies, whose magical forms
are without end, who embody the principle of relativity, who appear to
sentient beings according to their mentalities, whose bodies appear like
those of all beings in cofor, form, and size, whose bodies are not harmed by
fire, pofsons, or weapons, whose beings are invulnerable as adamantine
mountains, who vitiate the power of all demons and opponents, who shine
like mountains of gold, whose bodies stand out among all beings, whose
bodies are perceived by all beings, who are heard of everywhere, who are
looked up to by all sentient beings, who are mines of the earth of all truths,
who illumine all quarters, who are seen without opposition because they
have destroyed the mountains of obstructions, who are seen as supreme
heroes because they extirpate all roots of evil, who are a welcome sight
because they are products of many virtues, who are like udumbara flowers
because they very rarely appear?
Thiện Kiến Tỳ Kheo nói:
Này thiện nam tử! Ta tuổi còn trẻ, xuất gia lại chưa được lâu.
Trong đời này, ta tịnh tu phạm hạnh ở chỗ ba mươi sáu hằng hà sa đức Phật. Hoặc có chỗ đức Phật, ta tu một ngày một đêm. Hoặc có đức Phật, ta tu bảy ngày bảy đêm. Hoặc có chỗ đức Phật, ta tu nửa tháng hoặc một tháng, một năm, trăm năm, muôn năm, ức năm, na do tha năm, nhẫn đến hoặc có chỗ đức Phật ta tu phạm hạnh bất khả thuyết bất khả thuyết năm. Hoặc một tiểu kiếp, hoặc nửa đại kiếp, hoặc một đại kiếp, trăm đại kiếp nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết đại kiếp nghe diệu pháp và thọ hành giáo pháp của chư Phật, trang nghiêm thệ nguyện, nhập chỗ sở chứng, tịnh tu công hạnh, đầy đủ sáu môn ba la mật hải.
Cũng thấy chư Phật đó thành đạo thuyết pháp, mỗi mỗi sai biệt không tạp loạn, trụ trì di giáo đến diệt tận.
Cũng biết chư Phật đó trước kia phát nguyện, dùng nguyện lực tam muội nghiêm tịnh tất cả Phật độ. Dùng sức tam muội nhập tất cả hạnh mà tịnh tu tất cả Bồ Tát hạnh. Dùng sức Phổ Hiền thừa xuất ly mà thanh tịnh tất cả Phật Ba la mật.
Lại này thiện nam tử! Lúc ta kinh hành, trong một niệm, tất cả mười phương, đều hiện tiền, vì trí huệ thanh tịnh vậy. Trong một niệm, tất cả thế giới đều hiện tiền vì đi qua bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới vậy. Trong một niệm, bất khả thuyết bất khả thuyết Phật độ thảy đều nghiêm tịnh, vì thành tựu sức đại nguyện vậy. Trong một niệm, bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sanh sai biệt hạnh thảy đều hiện tiền, vì đầy đủ mười trí lực vậy. Trong một niệm, bất khả thuyết bất khả thuyết thân Phật thanh tịnh đều hiện tiền, vì thành tựu Phổ Hiền hạnh nguyện lực vậy. Trong một niệm cung kính cúng dường bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số Như Lai, vì thành tựu tâm nhu nhuyến nguyện lực cúng dường Như Lai vậy. Trong một niệm lãnh thọ bất khả thuyết bất khả thuyết Như Lai pháp, vì được chứng vô số pháp sai biệt trụ trì pháp luân đà la ni lực vậy. Trong một niệm, bất khả thuyết bất khả thuyết Bồ Tát hạnh hải thảy đều hiện tiền, vì được nguyện lực hay tinh tu tất cả hạnh như nhơn đà la võng. Trong một niệm, bất khả thuyết bất khả thuyết những tam muội hải thảy đều hiện tiền, vì được nguyện lực nơi một môn tam muội nhập tất cả môn tam muội đều khiến thanh tịnh. Trong một niệm, bất khả thuyết bất khả thuyết chư căn hải đều hiện tiền, vì được nguyện lực rõ biết chư căn tế, ở trong một căn thấy tất cả căn vậy. Trong một niệm, bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số thời gian thảy đều hiện tiền, vì được nguyện lực trong tất cả thời gian chuyển pháp luân, chúng sanh giới tận nhưng pháp luân vô tận vậy. Trong một niệm, bất khả thuyết bất khả thuyết tất cả tam thế hải thảy đều hiện tiền, vì được nguyện lực trí quang minh biết rỏ tất cả phần vị tam thế, trong tất cả thế giới vậy.
Này thiện nam tử! Ta chỉ biết môn giải thoát Bồ Tát tùy thuận đăng này.
Còn như chư đại Bồ Tát như kim cang đăng ở nhà Như Lai chơn chánh thọ sanh, thành tựu đầy đủ mạng căn bất tử, thường thắp trí đăng không tắt mất.
Thân của các Ngài kiên cố không bị chướng hoại, hiện thân sắc tướng như huyễn, như pháp duyên khởi vô lượng sai biệt, tùy tâm chúng sanh mỗi mỗi thị hiện hình mạo sắc tướng, trong đời không gì sánh bằng, tên độc, hỏa tai không hại được. Như núi kim cang không ai phá hư được. Hàng phục tất cả chúng ma ngoại đạo. Thân các Ngài đẹp tốt như núi chơn kim. Ở trong nhơn thiên rất là thù đặc. Tiếng tốt rộng lớn không ai chẳng nghe biết. Xem các thế gian đều đối trước mắt. Diễn pháp tạng sâu như biển vô tận. Phóng đại quang minh chiếu khắp mười phương.
Nếu có ai thấy chư đại Bồ Tát này thời phá tất cả núi lớn chướng ngại, thời nhổ tất cả gốc bất thiện, thời khiến gieo trồng gốc lành quảng đại.
Những bậc như vậy rất khó thấy được rất khó xuất hiện thế gian. Ta làm sao biết được nói được công đức hạnh đó.
“South of here, in the land of Shramanamandala, is a city called Sumukha,
where a boy named Indriyeshvara lives. Go ask him how an enlightening
being is to learn and carry out the practice of enlightening beings.”
Then, intent on purifying attainment of the valor of enlightening beings,
his mind illumined by the light of the power of enlightening beings, with
the invincible energy of enlightening beings in his heart, his mind girded
with the armor of the steadfast vows of enlightening beings, the breadth of
the firm basis of intent of enlightening beings on his mind, determined to
maintain the multitude of practices of enlightening beings, never tiring of
the ways of enlightening beings, resolved to attain all qualities of enlighten-
Page 1229 – Entry into the Realm of Reality
ing beings, desiring to offer himself as a charioteer for all beings, desiring to
bring all beings across the wasteland of the mundane whirl, never tiring of
seeing, listening to, and attending spiritual benefactors, with immeasurable
respect for the Teaching, Sudhana paid his respects to the monk Sudarshana
and left.
Này thiện nam tử! Phương Nam đây có một nước tên là Danh Văn. Trong bãi sông của xứ đó có một đồng tử tên là Tự Tại Chủ. Người đến đó hỏi: Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?
Bấy giờ Thiện Tài đồng tử vì muốn rốt ráo hạnh Bồ Tát dũng mãnh thanh tịnh. Muốn được Bồ Tát đại lực quang minh. Muốn tu những hạnh công đức vô thắng vô tận của Bồ Tát. Muốn viên mãn đại nguyện kiên cố của Bồ Tát. Muốn thành thâm tâm quảng đại của Bồ Tát. Muốn trì vô lượng thắng hạnh của Bồ Tát.Với Bồ Tát phát tâm không nhàm đủ. Nguyện nhập tất cả công đức của Bồ Tát. Muốn thường nhiếp ngự tất cả chúng sanh. Muốn vượt khỏi rừng rậm hoang vu sanh tử. Với các thiện tri thức thường thích thấy nghe, thờ phụng cúng dường không nhàm đủ. Thiện Tài đảnh lễ nơi chân Thiện Kiến Kỳ Kheo, hữu nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.
Indriyeshvara
Thinking about the instruction of Sudarshana, applying it, passing it on,
investigating it, talking about it, revealing it, contemplating it, approaching
it, following it, reflecting on the principle of his teaching, entering into it,
bringing it near, analyzing it, explaining it, elucidating it, pondering it,
Sudhana, surrounded by celestial beings, spirits, and cherubim, made his
way to the city of Sumukha in the land of Shramanamandala, looking for the
boy Indriyeshvara.
Then, when Sudhana got to the city Sumukha, near a river junction, he
saw Indriyeshvara, surrounded by ten thousand boys, playing in the sand.
He went up to Indriyeshvara, paid his respects, and said, “Noble one, I
have set my mind on supreme perfect enlightenment, but I do not know
how an enlightening being is to learn and carry out the practice of
enlightening beings.”
Thiện Tài đồng tử thọ giáo nơi Thiện Kiến Tỳ Kheo, nhớ nghĩ thọ trì suy gẫm tu tập biết rõ quyết định, được ngộ nhập pháp môn đó.
Chúng Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà vây quanh trước sau đi theo Thiện Tài đồng tử.
Ðến nước Danh Văn, Thiện Tài tìm Tự Tại Chủ đồng tử. Thấy đồng tử này ở trên bải sông cùng mười ngàn đồng tử gom cát để chơi.
Thiện Tài đến đảnh lễ chân Tự Tại Chủ đồng tử hữu nhiễu vô lượng vòng, cung kính chắp tay thưa rằng:
Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo? Xin đức Thánh giảng nói cho.
Indriyeshvara said, “I have been taught writing and mathematics by
Manjushri, and have been led into the door of knowledge encompassing
higher knowledge of all practical arts. So I know all the various arts and
crafts and sciences in the world dealing with writing, mathematics and sym-
bofs, physiofogy, rhetoric, physical and mental health, city planning,
arehitecture and eonstruction, mechanics and engineering, divination, agri-
culture and commerce, conduct and manners, good and bad actions, good
and bad principles, what makes for felicity and what for misery, what is nec-
essary for the vehicles of buddhas, disciples, and individual illuminates,
what is necessary for buddhahood, and behavior linking reason and action. I
know all these sciences, and I also introduce and teach them to people, and
get people to study and practice them, to master and develop them, using
these as means to purify, refine, and broaden people.
“I myself know enlightening beings’ method of reckoning, which goes
like this: a hundred hundred thousand is a kofi; a kofi squared is an ayuta; an
ayuta squared is a niyuta; a niyuta squared is a bimbara; a bimbara squared is a
kinkara; a kinkara squared is an agara; an agara squared is a pravara; a pravara
squared is a mapara; a mapara squared is a tapara; a tapara squared is a sima; a
sima squared is a yama; a yama squared is a nema; a nema squared is an avaga;
an avaga squared is a mrgava; a mrgava squared is a viraga; a viraga squared is
a vigava; a vigava squared is a samkrama; a samkrama squared is a visara; a
visara squared is a vibhaja; a vibhaja squared is a vijangha; a vijangha squared
is a vishoda; a vishoda squared is a vivaha; a vivaha squared is a vibhakta; a
vibhakta squared is a vikhata; a vikhata squared is an ilana; an ilana squared is
an avana; an avana squared is a thavana; a thavana squared is a viparya; a
Page 1230 – The Flower Ornament Scripture
viparya squared is a samaya; a samaya squared is a viturna; a viturna squared is
a hetura; a hetura squared is a vicara; a vicara squared is a vyavasta; a vyavasta
squared is an abhyudgata; an abhyudgata squared is a vishishta; a vishishta
squared is a nilamba; a nilamba squared is a harita; a harita squared is a
vikshoba; a vikshoba squared is a halita; a lialita squared is a hari; a hari
squared is an aloka; an aloka squared is a drshvanta; a drshvanta squared is a
hetuna; a hetuna squared is an ela; an ela squared is a dumela; a dumela
squared is a kshemu; a kshemu squared is an eluda; an eluda squared is a
bhaluda; a bhaluda squared is a samata; a samata squared is a visada; a visada
squared is a pramatra; a pramatra squared is an amantra; an amantra squared
is a bhramantra; a bhramantra squared is a gamantra; a gamantra squared is a
namantra; a namantra squared is a nahimantra; a nahimantra squared is a
vimantra; a vimantra squared is a paramantra; a paramantra squared is a
shivamantra; a shivamantra squared is a delu; a delu squared is a velu; a velu
squared is a gelu; a gelu squared is a khelu; a khelu squared is a nelu; a nelu
squared is a blielu; a bhelu squared is a kelu; a kelu squared is a selu; a selu
squared is a pelu; a pelu squared is a melu; a melu squared is a sarada; a sarada
squared is a bherudu; a bherudu squared is a kheludu; a kheludu squared is a
maludu; a maludu squared is a samalu; a samalu squared is an atliava; an
athava squared is a kamala; a kamala squared is an agava; an agava squared is
an ataru; an ataru squared is a helura; a helura squared is a mirahu; a mirahu
squared is a carana; a carana squared is a dhana; a dhana squared is a pramada;
a pramada squared is a nigama; a nigama squared is an upavarta; an upavarta
squared is a nirdesha; a nirdesha squared is an akshaya; an akshaya squared is a
sambhuta; a sambhuta squared is a mamama; a mamama squared is an avada;
an avada squared is an utpala; an utpala squared is a padma; a padma squared
is a sankhya; a sankhya squared is a gati; a gati squared is an upama; an upama
squared is an aupamya; an aupamya squared is incalculable; an incalculable to
the fourth power is measureless; a measureless to the fourth power is bound-
less; a boundless to the fourth power is incomparable; an incomparable to the
fourth power is uncountable; an uncountable to the fourth power is une-
qualed; an unequaled to the fourth power is inconceivable; an inconceivable
to the fourth power is immeasurable; an immeasureable to the fourth power
is unspeakable; an unspeakable to the fourth power is unspeakably unspeaka-
ble; and unspeakably unspeakable squared is untold.”
Tự Tại Chủ đồng tử nói:
Này thiện nam tử! thuở xưa, ta ở chỗ Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử học những pháp thơ số toán ấn v.v… liền được ngộ nhập nhất thiết công xảo thần thông trí pháp môn.
Ta nhơn pháp môn này nên được biết những pháp thơ số toán ấn giới xứ ở thế gian, cũng có thể chữa lành tất cả những bịnh phong điên ốm gầy quỷ mị dực v.v… cũng có thể tạo lập thành ấp, tu lạc, vườn rừng, đền đài, cung điện, nhà cửa, cũng khéo điều luyện những tiên được, cũng khéo kinh doanh tất cả sự nghiệp ruộng nương buôn bán, lấy bỏ tiến thối đều đúng sở nghi. Ta lại khéo phân biệt biết thân tướng chúng sanh, làm lành dữ, sẽ sanh cõi lành, sẽ sanh cõi ác. Người này đáng được đạo Thanh Văn thừa, người này đáng được đạo Duyên Giác thừa, người này đáng nhập Nhứt thiết trí địa. Những sự như vậy thảy đều biết được và cũng làm cho chúng sanh học tập những pháp này tăng trưởng quyết định rốt ráo thanh tịnh.
Này Thiện nam tử! Ta cũng biết Bồ Tát toán pháp. Như là một trăm lạc xoa làm một câu chi. Câu chi lần câu chi làm một a giu đa. A giu đa lần a giu đa làm na do tha. Na do tha lần na do tha làm một tần bà ta. Tần bà la lần tần bà la làm một căng yết la. Nói rộng đến ưu bát la lần ưu bát la làm một ba đầu ma. Ba đầu ma lần ba đầu ma làm một tăng kỳ. Tăng kỳ lần tăng kỳ làm một thú. Thú lần thú làm một dụ. Dụ lần dụ làm một vô số. Vô số lần vô số làm một vô số chuyển. Vô số chuyển lần vô số chuyển làm một vô lượng. Vô lượng lần vô lượng làm một vô lượng chuyển. Vô lượng chuyển lần vô lượng chuyển làm một vô biên. Vô biên làn vô biên làm một vô biên chuyển. Vô biên chuyển lần vô biên chuyển làm một vô đẳng. Vô đẳng lần vô đẳng làm một vô đẳng chuyển. Vô đẳng chuyển lần vô đẳng chuyển làm một bất khả sổ. Bất khả sổ lần bất khả sổ làm một bất khả chuyển. Bất khả số chuyển lần bất khả sổ chuyển làm một bất khả xưng. Bất khả xưng lần bất khả xưng làm một bất khả xưng chuyển. Bất khả xưng chuyển lần bất khả xưng chuyển làm một bất khả tư. Bất khả tư lần bất khả tư làm một bất khả tư chuyển. Bất khả tư chuyển lần bất khả tư chuyển làm một bất khả lượng. Bất khả lượng lần bất khả lượng làm một bất khả lượng chuyển. Bất khả lượng chuyển lần bất khả lượng chuyển làm một bất khả thuyết. Bất khả thuyết lần bất khả thuyết làm một bất khả thuyết chuyển. Bất khả thuyết chuyển lần bất khả thuyết chuyển làm một bất khả thuyết bất khả thuyết. Bất khả thuyết bất khả thuyết lần bất khả thuyết bất khả thuyết làm một bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển.
He counted out the grains of sand in the miles-wide mass of sand before
him, telling how many grains of sand there were, and how many unspeaka-
ble numbers of grains of sand there were; then, having indicated this by
these conventions of enumeration, he said, “This counting device serves
enlightening beings for the succession of worlds; by this method of count-
ing they count the multitudes of worlds in the ten directions. This method
of counting serves enlightening beings in indicating the worlds in the ten
directions in an orderly continuum. By this method of counting, enlighten-
ing beings count the string of names of the worlds in the ten directions. As in
the case of indications of the string of names of worlds, in the same way this
method of counting serves enlightening beings in indicating the successions
Page 1231 – Entry into the Realm of Reality
of names of eons, buddhas, doctrines, sentient beings, actions, and indeed
everything in the ten directions.
“I know this light of knowledge of enlightening beings which is charac-
terized by higher knowledge of all arts and sciences. How can I know the
practice, tell of the virtues, indicate the range, show the sphere, describe the
power, show the will, elucidate the preparation, explain the commitment,
show the conduct, illumine the purity of transcendent ways, expound the
purity of accomplishment, tell of the sphere of concentration, or approach
the light of knowledge of the enlightening beings who know the number of
all worlds, who know the number of all modes of spiritual practice, who
know the number of pasts, presents, and futures, who know the number of
all sentient beings, who know the number of all bodies of doctrine, who
know the number of enlightenments of all buddhas, and who command the
wheel of names of all the teachings?”
Này thiện nam tử! Ta dùng Bồ Tát toán pháp này để toán đống cát rộng lớn vô lượng do tuần, đều biết trong đó có bao nhiêu hột cát. Cũng có thể toán biết phương Ðông có tất cả bao nhiêu thế giới sai khác thứ đệ an trụ. Chín phương cũng như vậy.
Ta cũng có thể toán biết mười phương có tất cả bao nhiêu thế giới rộng hẹp lớn nhỏ và danh hiệu, trong đó bao nhiên tên của tất cả kiếp, tên của tất cả Phật, tên của tất cả chúng sanh, tên của tất cả nghiệp, tên của tất cả Bồ Tát, tên của tất cả đế lý, ta đều biết rõ.
Này thiện nam tử! Ta chỉ biết một pháp môn nhất thiết công xảo đại thần thông trí quang minh này.
Như chư đại Bồ Tát có thể biết tất cả số chúng sanh, biết tất cả số phẩm loại của các pháp, biết số sai biệt của tất cả pháp, biết số tất cả tam thế, biết danh số tất cả chúng sanh, biết danh số tất cả pháp, biết số tất cả Như Lai, biết danh số tất cả chư Phật, biết số tất cả Bồ Tát, biết danh số tất cả Bồ Tát.
Như vậy ta làm sao biết được nói được công đức đó, làm sao hiển thị được công hạnh và cảnh giới đó, làm sao khen được thắng lực đó, biện được lạc dục đó, tuyên được trợ đạo đó, bày được đại nguyện đó, khen được diệu hạnh đó, xiển dương được các Ba la mật đó, diễn nói được thanh tịnh đó, nhẫn đến làm sao phát được trí huệ quang minh thù thắng đó.
“South of here is a city called Samudrapratishthana, where lives a lay dev-
otee named Prabhuta. Go ask her how an enlightening being is to learn and
carry out the practice of enlightening beings.”
Having heard the words of the spiritual benefactor, Sudhana was
thrilled and overjoyed; he paid his respects and took leave of
Indriyeshvara, having obtained the treasure of will that is rare and most
difficult to obtain, setting out to act benevofently toward all, freely able
to perceive the succession of emergence of buddhas, intent on the wis-
dom to clarify the sphere of the Teaching, intent on showing the various
means of emancipation everywhere, aware of past, present, and future
without confusion, his mind an inexhaustible ocean of virtue, in controf
of the light of great knowledge, having broken open the doors of con-
finement in the city of mundane existence.
Này thiện nam tử! Phương Nam đây có một thành lớn tên là Hải Trụ. Trong thành ấy có một Ưu bà di tên là Cụ Túc. Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?
Thiện Tài đồng tử nghe lời trên đây, cả mình rởn ốc hoan hỷ vô lượng, được tâm tin mến hi hữu, thành tựu tâm rộng lớn lợi ích chúng sanh, đều có thể thấy rõ tất cả chư Phật thứ đệ xuất thế, đều có thể thông đạt pháp luân trí huệ thậm thâm thanh tịnh. Nơi tất cả các loài đều tùy loại hiện thân. Rõ biết cảnh giới tam thế bình đẳng. Xuất sanh vô tận công đức hải. Phóng đại trí huệ tự tại quang minh. Mở khóa cửa thành ba cõi.
Prabhuta
Then, receiving the multitude of teachings of spiritual benefactors as the
ocean receives torrential rains without being filled, the sprouts of his facul-
ties raised from clear ground and developed by the rays of light of
knowledge of sunlike spiritual benefactors, his body and mind coofed by the
aura of light of teaching of the full moon of spiritual benefactors, having
drunk the water of the teachings of spiritual benefactors like a herd of ani-
mals burnt by the heat of the summer sun, the lotuses of his mind opened
like a blooming lotus pond by the instructions of spiritual benefactors like
water flowing from the snowy mountains, his being illumined by the prac-
tice of the precious instructions of spiritual benefactors, like a treasure island
covered with jewels, successful in accumulating knowledge and virtue
according to the instructions of spiritual benefactors, like a great tree laden
with flowers and fruits, having an abundant store of learning of instructions
of spiritual benefactors, like a great cloud in the sky produced by the sport of
dragons, a radiant mountain peak of various virtues arising from the instruc-
tion of spiritual benefactors like the wonderful peak of the world of the
Page 1232 – The Flower Ornament Scripture
thirty-three heavens, full of pure qualities produced by the instructions of
spiritual benefactors, overpowering and invincible like the god Indra sur-
rounded by the deities of the thirty-three heavens who conquers the leaders
and hordes of titans, Sudhana made his way to the city Samudrapratishthana,
looking for the devotee Prabhuta. He was told by the people there that
Prabhuta was in her house in the middle of town.
Sudhana went to Prabhuta’s house and stood before the entrance with his
hands jofned in respectful salutation. He saw that her house was very large,
covered with precious ornaments, with doors on all four sides, arrayed with
countless jewels, the result of the development of inconceivable virtues.
Entering the house and looking around, he saw the devotee Prabhuta in a
jeweled chair, young, slim, fresh, in the blossom of youth, radiantly beauti-
ful, her hair hanging loose, wearing no ornaments on her body, clothed in
pure white garments. Except for buddhas and enlightening beings, no one
came to that house whom she did not overwhelm by her appearance, her
mastery of mind, her radiance, her Voice, or her splendor. All who saw
Prabhuta, whether human or celestial beings, thought of her as a teacher.
Also, in her house were arrayed ten million seats, superior to those of
celestials and humans, perfected by the deeds of enlightening beings. There
were no provisions of food or drink, or clothing or jewelry or other
accoutrements to be seen in the house, except for a vessel placed before her.
He also saw ten thousand ladies like goddesses standing before her, wearing
celestial clothing and ornaments, with pleasing Voices like goddesses. Those
ladies, her attendants, responding to her word, waited on her, watched her,
kept their attention on her, respectfully saluted her, looked at her, bowed to
her, and expressed their reverence for her. The fragrance from their bodies
perfumed the whofe city, and all who smelled the fragrance became free
from malice, free from hostility, nonviofent, free from envy and jealousy,
free from guile and deceitfulness, disciplined, mentally unobstructed, free
from depression and elation, even-minded, kind, altruistic, restrained in
mind, charitable. And whoever heard their Voices became happy, joyful, and
humble in mind. And whoever saw them felt themselves freed of lust.
Thiện Tài đảnh lễ chân Tự Tại Chủ đồng tử, hữu nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.
Bấy giờ thiện Tài quán sát tư duy lời dạy của thiện tri thức, dường như biển lớn nhận nước mưa to không nhàm đủ. Tự nghĩ rằng lời dạy của thiện tri thức như xuân nhựt, sanh trưởng tất cả gốc mầm pháp lành. Lời dạy của thiện trí thức như mãn nguyệt, phàm chỗ chiếu đến đều làm cho mát mẻ. Lời dạy của thiện tri thức như núi Tuyết mùa hạ, hay làm cho muông thú khỏi nóng khát. Lời dạy của thiện tri thức như mặt nhựt chiếu ao nước thơm, làm nở tất cả những hoa sen thiện tâm. Lời dạy của thiện tri thức như châu đại bửu, những pháp bửu sung mãn nơi tâm. Lời dạy của thiện tri thức như cây diêm phù, chứa nhóm tất cả hoa quả phước trí. Lời dạy của thiện tri thứa như đại Long Vương, du hí tự tại trên hư không. Lời dạy của thiện tri thức như núi Tu Di, Ðao Lợi Thiên vô lượng thiện pháp ở trong đó. Lời dạy của thiện tri thức dường như Ðế Thích chúng hội vây quanh, không ai chói che được, hay phục ngoại đạo và chúng ma quân.
Thiện Tài đi lần đến thành Hải Trụ tìm đến nhà Ưu bà di Cụ Túc. Nhà này rất rộng, nhiều thứ trang nghiêm, tường rào bao bọc toàn bằng những chất báu. Bốn phía đều có cửa bửu trang nghiêm.
Thiện Tài vào nhà, thấy Cụ Túc Ưu bà di ngồi trên tòa báu, tuổi lớn xinh đẹp đoan trang đáng kính, mặc y phục trắng, rũ tóc, không đeo chuỗi ngọc.
Thân tướng của Ưu bà di này oai đức quang minh, trừ Phật và đại Bồ Tát, không ai bằng được.
Trong nhà để mười ức tòa ngồi, hơn cả nhơn thiên. Ðây đều là do nghiệp lực Bồ Tát hiện thành.
Trong nhà không có y phục, đồ uống ăn và không có tất cả đồ tư sanh khác. Chỉ trước mặt Ưu bà di này để một cái bát nhỏ.
Lại có một vạn đồng nữ xinh đẹp như Thiên nữ vây quanh, những diệu bửu trang sức nơi thân, lời nói diệu dàng người nghe đều vui đẹp. Các đồng nữ này thường thân cận hai bên Ưu bà di tư duy quán sát, cúi đầu khom mình ứng chực sai khiến. Các đồng nữ này, nơi thân phát ra mùi thơm lan khắp nơi. Nếu có chúng sanh nào gặp được mùi thơm này thời đều được bất thối chuyển không lòng giận hại, không lòng oán thù, không lòng tham ganh, không lòng dua dối, không lòng hiểm độc, không lòng yêu ghét, không lòng giận hờn, không lòng hạ liệt, không lòng cao mạn, sanh lòng bình đẳng, khởi tâm đại từ, phát tâm lợi ích, trụ tâm luật nghi, rời tâm tham cầu. Người thấy thân các đồng nữ này thời đều lìa tham nhiễm. Người nghe tiếng các đồng nữ này thời đều vui mừng hớn hở.
Then Sudhana paid his respects to Prabhuta and pofitely said to her,
“Noble one, I have set my mind on supreme perfect enlightenment, but I
do not know how to learn and carry out the practice of enlightening
beings. I hear you give enlightening beings instruction, so I beg of you to
tell me how an enlightening being is to learn and carry out the practice of
enlightening beings.”
She said, “I have attained an enlightening liberation which is an inex-
haustible treasury of manifestations of good. From this one vessel I satisfy
sentient beings of various tastes with food conforming to their wishes, with
various sauces and spices, of various cofors and aromas. From this one vessel I
satisfy even a hundred beings with whatever food they wish, even a thou-
sand beings, a hundred thousand, a million, a billion; I satisfy untold
numbers of sentient beings of various tastes with whatever foods they wish,
gratifying and pleasing them and making them happy — and yet this vessel
Page 1233 – Entry into the Realm of Reality
does not diminish or run out. In this way, even if as many sentient beings as
atoms in a continent, or four continents, or a thousand-world universe, or a
million-world universe, or a billion-world universe, or even if as many sen-
tient beings as atoms in untold buddha-lands come to me with various tastes,
I satisfy, please, and delight them with foods according to their wishes, with
various sauces, spices, cofors, and aromas — yet this vessel never diminishes
or runs out, it is never depleted or exhausted. Even if all the beings in all
worlds in the ten directions, with various tastes and desires, should come to
me, I would satisfy them all with whatever food they wished. And as with
food, so also would I satisfy and please them with various kinds of drinks,
various delicacies, various couches, various clothing, various flowers, vari-
ous garlands, various fragrances, various incenses, various unguents, various
aromatic powders, various jewels, various ornaments, various conveyances,
various parasofs, various banners, various pennants, and various kinds of
utensils.
Thiện Tài đảnh lễ Ưu bà di, cung kính hữu nhiễu, chắp tay bạch rằng:
Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo?
Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin giảng nói cho.
Cụ Túc Ưu bà di nói:
Này thiện nam tử! Ta được môn giải thoát Bồ Tát vô tận công đức tạng .
Có thể ở trong một cái bát nhỏ này, tùy theo sở thích của tất cả chúng sanh, mà xuất hiện các thứ đồ uống ăn ngon lành, làm cho họ đều được no đủ cả.
Giả sử có trăm chúng sanh, ngàn chúng sanh nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sanh, giả sử có Diêm Phù Ðề vi trần số chúng sanh tứ thiên hạ vi trần số chúng sanh, Tiểu Thiên thế giới, Trung Thiên thế giới, Ðại Thiên thế giới, nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số chúng sanh, giả sử tất cả chúng sanh cùng khắp mười phương thế giới, cũng đều tùy sở thích làm cho họ được no đủ cả. Mà trong bát nhỏ này, đồ dùng không cùng tận, không giảm ít.
Như đồ uống ăn đây, các thứ thượng vị, các thứ giường tòa, các thứ y phục, các thứ chiếu nệm, các thứ xe cộ, các thứ hoa, các thứ tràng hoa, các thứ hương, các thứ hương thoa, các thứ hương đốt, các thứ hương bột, các thứ trân bửu, các thứ anh lạc, các thứ tràng, các thứ phan, các thứ lọng, các thứ đồ tư xanh thượng diệu, tùy ý tất cả chúng sanh thích đều làm cho được đầy đủ cả.
“Furthermore, any Buddhist disciples or individual illuminates in their
last embodiment in one world in the east who attain the fruit of discipleship
or individual illumination all do so after having eaten my food. And as this is
true in one world in the east, so it is true in a hundred worlds, a thousand, a
million, a billion, a trillion, a quadrillion, in as many worlds as atoms in a
continent, as many worlds as atoms in four continents, as many worlds as
atoms in a thousand-world universe, as many worlds as atoms in a million-
world universe, as many worlds as atoms in a billion-world universe, up to as
many worlds as atoms in untold buddha-lands — all those who realize the
fruit of discipleship or individual illumination do so after having eaten my
food. And as this is true in so many worlds to the east, so it is true in the
worlds in all ten directions.
“The enlightening beings in one world in the east who are bound to
attain enlightenment in one life all sit on the site of enlightenment, con-
quer the demons, and realize supreme perfect enlightenment after having
eaten my food. The same is true of the enlightening beings to realize
enlightenment in one life in up to as many worlds as atoms in untold
buddha-lands in each of the ten directions — they all sit on the site of
enlightenment, conquer the demons, and realize supreme perfect enlight-
enment after having eaten my food.”
“Do you see these ten thousand women, my companions? Beginning
with these, there are countless tens of hundreds of thousands of women
whose practice is the same as mine, who are one in vows, one in roots of
goodness, one in ways of emancipation, one in purity of devofion, equal in
purity of mindfulness, one in purity of deportment, equal in infinity of
understanding, equal in attainment of spiritual faculties, equal in pervasive
awareness, equal in range of sphere of action, equal in penetration of spiri-
tual principles, equal in ascertainment of meanings, equal in elucidation of
doctrines and meanings, equal in purity of form, equal in infinity of power,
equal in unsurpassed energy, equal in vofcing truth, equal in purity of Voice,
equal in purity of qualities in all manners by manifesting infinite virtues,
Page 1234 – The Flower Ornament Scripture
equal in purity of action by virtue of purity of results of irreproachable
actions, equal in pervasive kindness by virtue of saving all sentient beings,
equal in pervasive compassion by virtue of tirelessly developing all sentient
beings, equally pure in physical action by virtue of appearing to all sentient
beings in forms that please them, equally pure in speech in usage expressing
the realm of realities, equal in gofng to the assemblies of all buddhas, equal
in speeding to all buddha-lands to attend all the buddhas, equal in direct
knowledge in understanding the principles of all doctrines, equal in purity
of practice in attainment of all the stages of enlightening beings.
“These ten thousand women pervade the ten directions in a single histant
to present food to the enlightening beings who are bound to become
enlightened in one lifetime, giving them food from this same vessel. They
pervade the ten directions to give food and drink to the saints and individual
illuminates who are in their last existence. They go everywhere and satisfy
all hungry ghosts with food. I also satisfy all the celestial beings with celes-
tial food from this same vessel: I satisfy dragons with dragon food, spirits
with spirit food, cherubim with cherub food, titans with titan food, birds
with bird food, centaurs with centaur food, serpents with serpent food,
humans with human food, and nonhumans with nonhuman food. Come
here and in a moment you shall see with your own eyes.”
No sooner had Prabhuta said these words than immeasurable numbers of
such beings came in through the four doors of her house, invited by
Prabhuta’s standing vow. Prabhuta seated them in the places prepared and
satisfied them with whatever kind of foods they wished, pleasing and
delighting them. In the same way she also satisfied and pleased them with
various drinks, delicacies, seats, couches, conveyances, clothes, flowers and
garlands, perfumes and incenses, unguents and aromatic powders, orna-
ments, jeweled chariots, parasofs, banners, pennants, and utensils. She
satisfied all the various kinds of beings with their various kinds of food, yet
the vessel was not depleted or exhausted; it never ran out.
Then Prabhuta said to Sudhana, “I know this enlightening liberation,
which is an inexhaustible treasury of manifestations of good; how can I
know the practice or tell the virtues of enlightening beings whose goodness
is inexhaustible because of the endlessness of the ocean of good, who are like
the sky in that they have produced a vast store of good, who are like wish-
fulfilling jewels in that they fulfill the wishes of all sentient beings, who are
mountains of good because they profect the roots of goodness of all beings,
who are great clouds of good as they shower jewel rain on all beings, who are
superintendents of the great treasury of good in that they open the door of
the city of truth, who are great lamps of good in that they dispel the darkness
of destitution for all sentient beings?
Lại này thiện nam tử! Giả sử phương Ðông trong một thế giới, hàng Thanh Văn, Ðộc Giác ăn đồ ăn của ta rồi thời đều chứng quả Thanh Văn, quả Bích Chi Phật trụ tối hậu thân. Như một thế giới, trăm thế giới, ức thế giới nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới, trong đó tất cả hàng Thanh Văn và Ðộc Giác ăn thực phẩm của ta rồi, thời đều chứng quả Thanh Văn và Bích Chi Phật, trụ tối hậu thân.
Như phương Ðông, chín phương kia cũng đều như vậy.
Lại này thiện nam tử! Phương Ðông một thế giới nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát cực vi trần số thế giới, trong đó tất cả bậc nhất sanh bổ xứ Bồ Tát ăn thực phẩm của ta rồi, thời đều ngồi cội Bồ đề hàng phục ma quân thành Ðẳng Chánh Giác.
Như phương Ðông, chín phương kia cũng đều như vậy.
Này thiện nam tử! Ngươi thấy mười ngàn đồng nữ đây chăng? Ðây là những bậc thượng thủ, tất cả quyến thuộc có đến trăm vạn a tăng kỳ đồng nữ, đều cùng ta đồng hạnh, đồng nguyện, đồng thiện căn, đồng một đạo xuất ly, đồng thanh tịnh giải, đồng thanh tịnh niệm, đồng thanh tịnh thú, đồng vô lượng giác, đồng được thiện căn, đồng tâm quảng đại, đồng cảnh sở hành, đồng lý, đồng nghĩa, đồng minh liễu pháp, đồng tịnh sắc tướng, đồng vô lượng lực, đồng tối tinh tần, đồng chánh pháp âm, đồng tùy loại âm, đồng thanh tịnh đệ nhất âm, đồng tán dương vô lượng công đức thanh tịnh, đồng nghiệp thanh tịnh, đồng báo thanh tịnh, đồng đại từ cứu hộ khắp tất cả, đồng đại bi khắp thành thục chúng sanh, đồng thân nghiệp thanh tịnh tùy duyên tập khởi làm cho người thấy vui mừng, đồng khẩu nghiệp thanh tịnh tùy theo ngữ ngôn thế gian mà tuyên bố pháp hóa, đồng qua đạo tràng chúng hội của tất cả chư Phật, đồng đến tất cả Phật độ cúng dường chư Phật, đồng có thể hiện thấy tất cả pháp môn, đồng trụ Bồ Tát thanh tịnh hạnh địa.
Này thiện nam tử! Mười ngàn đồng nữ này có thể ở nơi cái bát nhỏ đây lấy thượng vị ẩm thực trong khoảng một sát na, đến khắp mười phương cúng dường tất cả tối hậu thân Bồ Tát, Thanh Văn, Ðộc Giác. Nhẫn đến bố thí các loài ngạ quỷ đều khiến no đủ.
Mười ngàn đồng nữ này đem cái bát của ta đây có thể ở trong cõi trời đầy đủ thực phẩm cõi trời, nhẫn đến ở nhơn gian đầy đủ thực phẩm loài người.
Này thiện nam tử! Chờ giây lát ngươi sẽ tự thấy.
Cụ Túc Ưu bà di nói xong, có vô lượng chúng sanh từ bốn cửa vào nhà. Ðại chúng này đều do bổn nguyện của Ưu bà di mời đến. Khi đại chúng đã đến xong, Ưu bà di trải tòa cho ngồi, tùy theo chỗ cần dùng của họ mà cấp thí đồ uống ăn đều khiến no đủ cả.
Cụ Túc Ưu bà di bảo Thiện Tài:
Này thiện nam tử! Ta chỉ biết môn giải thoát vô tận phước đức tạng này.
Như chư đại Bồ Tát, tất cả công đức dường như đại hải rất sâu vô tận, dường như hư không rộng lớn vô tế, dường như châu như ý thỏa mãn nguyện vọng của chúng sanh, như tụ lạc lớn cầu chi cũng được, như núi Tu Di nhóm đủ các báu, như áo tạng thường đựng pháp tài, như đèn sáng phá những tối tăm,như lọng cao che mát quần sanh.
Như thế ta làm sao biết được nói được công đức hạnh đó.
“South of here is a city called Mahasambhava, where a householder
named Vidvan lives. Go ask him how an enlightening being is to learn and
carry out the practice of enlightening beings.”
Then Sudhana, paying his respects to the devotee Prabhuta, looking at her
Page 1235 – Entry into the Realm of Reality
again and again without tiring of the sight of her, took his leave and
departed.
Này thiện nam tử! Phương Nam đây có một thành tên là Ðại Hưng. Trong thành có một Cư Sĩ tên là Minh Trí. Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?
Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Cụ Túc Ưu bà di, hữu nhiễu vô lượng vòng, chiêm ngưỡng không nhàm từ tạ mà đi.
Vidvan
Then, having gained the illumination of that enlightening liberation which
is an inexhaustible treasury of goodness, reflecting on that ocean of good,
gazing into that sky of good, climbing that mountain of good, gathering
that mass of good, plunging into that stream of good, crossing that bridge of
good, purifying that sphere of good, viewing that treasury of good, recalling
that principle of good, contemplating that eye of good, purifying that mul-
titude of good, Sudhana made his way to the city of Mahasambhava and
looked all around for Vidvan, seeking a spiritual benefactor.
Looking for Vidvan, his whofe being perfumed by the sight of spiritual
benefactors, finding strength in spiritual benefactors, relying on spiritual
benefactors, striving to follow spiritual benefactors, with tireless vigor in
attending spiritual benefactors, all his roots of goodness due to spiritual
benefactors, all his stores of virtue sustained by spiritual benefactors, his
practice of skill in means developed by spiritual benefactors, all his roots of
goodness growing by skill in attendance of spiritual benefactors without
depending on others, his will for enlightenment becoming purified, his
enlightening faculties developing, all his roots of goodness maturing, his
accomplishments of great vows growing, his great compassion broaden-
ing, seeing himself near omniscience, receiving the light of teaching of all
buddhas by the practice of Universally Good enlightening beings, the
manifestations of the ten powers of buddhas increasing, Sudhana saw
Vidvan at a crossroads in the middle of the city, on a seat on a high pedestal
made of innumerable jewels, set on legs of diamonds and emeralds, with a
web of white cowries on golden strings, set in pure jewels, with five hun-
dred ornamental jewel figurines, arrayed with multicofored celestial cloth,
with celestial banners and pennants flying above, covered with many nets
of jewels, overspread with a great canopy of jewels, with garlands of gold
and jewels hanging from it. A golden parasof with a handle of pure lapis
lazuli was held over Vidvan, and he was being fanned by plumes made of
pure white goose feathers while various incenses perfumed the air around
him. He was attended by ten thousand people of equally virtuous past con-
duct, finer in appearance than celestials or humans, perfect in the will of
enlightening beings, adorned with ornaments superior to those of the
gods, playing music sweeter than that of the heavens to please all the peo-
ple in the city, and showering celestial flowers.
Bấy giờ Thiện Tài đã được vô tận trang nghiêm phước đức tạng giải thoát môn, suy gẫm phước đức đại hải đó, quán sát phước đức hư không đó, đến phước đức tụ đó, lên núi phước đức đó, nhiếp tạng phước đức đó, nhập vực phước đức đó, lội ao phước đức đó, tịnh xe phước đức đo, thấy kho phước đó, vào cửa phước đức đó, đi đường phước đó, tu giống phước đức đó.
Thiện Tài đi lần đến thành Ðại Hưng tìm Cư sĩ Minh Trí. Với thiện tri thức lòng rất khát ngưỡng. Ðem thiện tri thức huân tập tâm mình. Nơi thiện tri thức chí muốn kiên cố. Phương tiện tìm thấy thiện tri thức lòng chẳng thối chuyển. Nguyện được phụng thờ chư thiện tri thức tâm không mỏi lười. Vì biết do y chỉ thiện tri thức mà được thành mãn các pháp lành. Vì biết do y chỉ thiện tri thức nên có thể sanh những phước đức. Vì biết do y chỉ thiện tri thức nên có thể thêm lớn công hạnh. Vì biết do y chỉ thiện tri thức nên chẳng do người khác dạy mà tự mình có thể thờ kính tất cả thiện hữu.
Lúc Thiện Tài tư duy như vậy, được thêm lớn thiện căn, thanh tịnh thâm tâm, thêm căn tánh, lợi đức bổn, thêm đại nguyện, rộng đại bi, gần Nhứt thiết trí, đủ đạo Phổ Hiền, chiếu sáng tất cả chánh pháp của chư Phật. Thêm lớn thập lực quanh minh của chư Phật.
Thiện Tài thấy Cư sĩ Minh Trí tại ngã tư đường chợ, trên đài thất bửu, ngồi tòa vô số bửu trang nghiêm.
Tòa đó diệu hảo bằng thanh tịnh ma ni. Chân tòa bằng kim cang đế thanh. Dây báu giao xen. Nghiêm sức với năm trăm diệu bửu. Trải bửu y cõi trời. Dựng tràng phan cõi trời. Giăng lưới đại bửu. Thiết trướng đại bửu. Vàng diêm phù đàn làm lọng. Tỳ lưu ly bửu làm cán, bảo người cầm che. Lông cánh nga vương thanh tịnh sạch đẹp dùng làm quạt. Xông những diệu hương. Mưa những thiên hoa. Hai bên năm trăm tiếng nhạc thường hòa tấu. Tiếng nhạc hay hơn hơn nhạc cõi trời. Chúng sanh nghe tiếng nhạc này đều vui đẹp.
Quyến thuộc có mười ngàn người vây quanh sau trước, hình sắc đoan nghiêm, người vui được thấy, nghiêm sức với đồ trang nghiêm cõi trời. Ở trong nhơn thiên tối thắng vô tỉ. Tất cả đều đã thành tựu chí nguyện Bồ Tát. Ðều cùng với Cư sĩ Minh Trí đồng thiện căn thuở xưa. Tất cả đều đứng hầu tuân lời sai khiến.
Seeing Vidvan, Sudhana went up to him, paid his respects, and said,
“Noble one, I have set out for supreme perfect enlightenment for the benefit
of all beings — to extinguish the sufferings of all beings, to lead them to ulti-
mate happiness, to rescue them from the ocean of the mundane whirl, to
deliver them to the island of jewels of truth, to evaporate their cravings, to
produce great compassion in them, to divert their craving for sensual pleas-
Page 1236 – The Flower Ornament Scripture
ure and arouse in them craving for enlightened knowledge, to help them all
cross over the wildness of the mundane whirl, to develop in them a taste for
the way of buddhahood, to lead them out of the city of mundane states and
lead them to the city of omniscience. But I do not know how an enlighten-
ing being is to learn and carry out the practice of enlightening beings. Noble
one, I hear that you give enlightening beings instruction, so I ask you to tell
me how an enlightening being is to learn the practice of enlightening
beings, and how enlightening beings in the course of learning become a ref-
uge for all sentient beings.”
Vidvan replied, “It is good that you have aroused the aspiration for
supreme perfect enlightenment. Rare are those who aspire to supreme per-
fect enlightenment, and rare are those who, having aspired to enlighten-
ment, are tireless in seeking the practices of enlightening beings by meeting
spiritual benefactors, who do not weary of gofng to spiritual benefactors,
who are not pained by attendance on spiritual benefactors, who are not
depressed by the difficulty of approaching spiritual benefactors, who do not
give up seeking spiritual benefactors, who do not turn away from the sight
of the countenance of spiritual benefactors, who do not get discouraged in
the path taught by spiritual benefactors, who do not tire in the service of
spiritual benefactors. Do you see my companions? I inspired them all to seek
supreme perfect enlightenment; I caused them to be born in the family of
buddhas; I nourished them by providing them with the ways of transcen-
dence; I got them to live in good ways; I developed them in the ten powers of
buddhas; I lifted them out of worldliness; I established them in the ranks of
the enlightened; I removed them from the circle of mundane states; I started
them in the cycle of enlightening teaching; I saved them from falling into
bad conditions; I led them to realization of equality of things: for thus do
enlightening beings become saviors of all sentient beings.
Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Cư sĩ, hữu nhiễu vô lượng vòng, chắp tay cung kính thưa rằng:
Bạch đức Thánh! Tôi vì lợi ích tất cả chúng sanh. Vì làm cho tất cả chúng sanh khỏi những nạn khổ. Vì làm cho tất cả chúng sanh được rốt ráo an vui. Vì làm cho tất cả chúng sanh ra khỏi biển sanh tử. Vì làm cho tất cả chúng sanh ở châu pháp bửu. Vì làm cho tất cả chúng sanh khô cạn sông ái dục. Vì làm cho tất cả chúng sanh khởi đại từ bi. Vì làm cho tất cả chúng sanh bỏ lìa ái dục. Vì làm cho tất cả chúng sanh khát ngưỡng Phật trí. Vì làm cho tất cả chúng sanh ra khỏi đồng hoang sanh tử. Vì làm cho tất cả chúng sanh thích công đức của chư Phật. Vì làm cho tất cả chúng sanh ra khỏi thành tam giới. Vì làm cho tất cả chúng sanh nhập thành Nhứt thiết trí. Nên tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh tu Bồ Tát đạo, để có thể làm chỗ y chỉ cho tất cả chúng sanh.
Cư sĩ Minh Trí bảo rằng:
Lành thay! Lành thay! Này thiện nam tử! Ngươi có thể phát được tâm Vô thượng Bồ đề.
Này thiện nam tử! Rất khó có người phát được tâm Vô thượng Bồ đề. Nếu có thể phát tâm ấy, thời người đó có thể cầu Bồ Tát hạnh gặp gỡ thiện tri thức hằng chẳng nhàm đủ. Gần gũi thiện tri thức hằng không mỏi nhọc. Cúng dường thiện tri thức hằng không biến lười. Cấp thị thiện tri thức chẳng có lòng ưu sầu. Tìm cầu thiện tri thức trọn chẳng thối chuyển. Mến nhớ thiện tri thức trọn chẳng buông bỏ. Phụng thờ thiện tri thức không tạm thôi nghỉ. Chiêm ngưỡng thiện tri thức không lúc nào ngừng ngớt. Thật hành lời dạy của thiện tri thức chưa từng lười biếng. Bẩm thọ tâm của thiện tri thức không có sai lầm.
Này thiện nam tử! Ngươi xem đại chúng của ta đây. Ta đã khiến họ phát tâm Vô thượng Bồ đề, sanh nhà Như Lai, thêm lớn pháp lành, an trụ vô lượng Ba la mật, học Phật thập lực, rời giống thế gian mà trụ giống Như Lai, bỏ sanh tử luân mà chuyển chánh pháp luân, diệt tam ác thú mà trụ chánh pháp thú, đều có thể cứu hộ tất cả chúng sanh như chư Bồ Tát.
“I have attained good works produced from the treasury of mind: to those
who need food I give food, to those who need drink I give drink, to those
who need clothing I give clothing, to those who need flowers I give flowers,
to those who want garlands I give garlands, to those who need perfumes or
incenses I give perfumes or incenses, to those who need ornaments I give
ornaments, to those who need jewels I give jewels, to those who need gold I
give gold, to those who need silver I give silver, to those who need pearls I
give pearls, to those who need chairs I give chairs, to those who need beds I
give beds, to those who need means of transportation I give means of trans-
portation, to those who need medicine I give medicine, and so on — whatever the needs, I provide them. Come here, and in a moment you will see for yourself.”
As soon as Vidvan had spoken these words, innumerable beings gathered
at his house, summoned by his past vows. They came from various regions,
various nations, various cities, various towns, and various groups, of various
conditions, various states of eonsciousness, various degrees of purity of
sense, desiring various kinds of food, having various inclinations, needing
diverse kinds of sustenance according to their states of being. They were
Page 1237 – Entry into the Realm of Reality
invited by the vow of the enlightening being, by the power oft he enlighten-
ing being, by the sounds of the drums of unattached giving; they came to
Vidvan, looked at him, and made requests of him.
Seeing them gathered there begging, Vidvan thought for a moment, then
looked at the sky. From the sky various kinds of food and drink streamed
into his hand, and this Vidvan gave to the beggars according to their various
tastes and desires, satisfying and delighting them with the food and drink
they wanted, with the best kinds of all means of subsistence. Then, after sat-
isfying them, he expounded the Teaching to them: that is, he elucidated
means of accumulating a great store of knowledge, means of eliminating all
poverty, means of producing all enjoyments, means of finding ways to
knowledge of truth, means of accumulating a vast store of virtue, means of
being able to feed on joy, means of attaining a body adorned with the marks
and embellishments of greatness, means of attaining purity of invincible
power, means of attaining knowledge of uninterrupted livelihood, and
means of attaining inexhaustible good powers overcoming the power of all
demons. As for those who came for food, once they were satisfied by the var-
ious foods from the sky, he taught them to attain intelligence for life, health,
and strength. As for those who came for drink, once they were satisfied by
the various fine, good, and pleasant drinks, he taught them to put an end to
mundane cravings and develop craving for the pleasure of the way of
enlightenment. Those who came for delicacies he satisfied with sweets, and
then taught them to attain the refined characteristics of great people. Those
who came for means of transportation he satisfied with gifts of various vehi-
cles, then taught them to get on the Great Vehicle of universal
enlightenment. Seeing those who came for clothing, he thought for a
moment and looked at the sky: then from the sky immaculate clothes of var-
ious cofors fell into his hand; giving them to the beggars, he taught them
purification by attainment of buddhas’ supreme golden complexion of mod-
esty. Having provided each of the beggars with their needs, he taught them
according to what they were fit for.
Having shown Sudhana the inconceivable scope of this enlightening lib-
eration, Vidvan said to him, “I know the liberation of the capacity of the
treasury of mind. How can I know the practice, tell the virtues, or show the
miracles of the enlightening beings who have attained controf over para-
phernalia, who have treasure-producing hands, who cover all worlds with
their hands, as treasuries of offerings to buddhas, and shower rain from
clouds of various jewels in the assemblies of all buddhas, various clouds of
ornaments, towers, clothing, celestial music and song, fragrances, incenses,
unguents, aromatic powders, robes, parasofs, banners, pennants, and all kind
of paraphernalia, raining all kinds of offerings for buddhas, in the assemblies
of all buddhas, in the abodes of all beings, to serve all buddhas and to develop
and guide all sentient beings?
Này thiện nam tử! Ta được môn giải thoát tùy ý xuất sanh phước đức tạng. Phàm chỗ cần dủng đều thỏa mãn cả.
Như là y phục, anh lạc, vof ngựa, xe cộ, hoa hương, tràng phan, bửu cái, ẩm thực, thuốc thanh, nhà phòng, giường ghế, đèn đuốc, nô tỳ, trâu, dê nà những người hầu hạ, tất cả đều đầy đủ mỗi khi cần đến, nhẫn đến vì nói diệu pháp chơn thiệt.
Này thiện nam tử! Chờ trong giây lát ngươi sẽ tự thấy.
Cư sĩ nói xong, có vô lượng chúng sanh từ các phương, các thế giới, các quốc độ, các thành ấp, hình loại khác nhau, chỗ mến thích chẳng đồng, số đông vô biên đều do Bồ Tát nguyện lực thuở xưa, đều vân tập đến, đều riêng có chỗ mong muốn mà cầu xin.
Bấy giờ cư sĩ Minh Trí biết đại chúng đã đông đủ, nhiếp niệm giây lát ngước mặt ngó lên hư không. Liền đó, theo chỗ cần dùng của đại chúng mọi đồ cầ dùng đều từ trên không rơi xuống, làm cho tất cả đại chúng đều được đầy đủ theo ý muốn.
Sau đó Cư sĩ lại vì họ mà thuyết pháp. vì những người được món ăn ngon no đủ mà nói những hạnh chứa phước đức, hạnh lìa nghèo cùng, hạnh biết các pháp, hạnh thành tựu món ăn pháp hỉ thiền duyệt, hạnh tu tập đầy đủ các tướng hảo, hạnh tăng trưởng hảo, hạnh tăng trưởng thành tựu khó khuất phục, hạnh có thể khéo rõ thấy món ăn vô thượng, hạnh thành tựu vô tận đại oai đức lực hàng phục ma oán.
Cư sĩ vì những kẻ được thức uống ngon no đủ mà thuyết pháp, làm cho họ bỏ lìa sự mến chấp sanh tử để nhập Phật pháp vị.
Cư sĩ vì những người được vị vô thượng mà thuyết pháp, làm cho họ đều được tướng thượng hảo của chư Phật Như Lai.
Cư sĩ những kẻ được xe cộ đầy đủ mà thuyết pháp, làm cho họ đều được ngồi xe Ðại thừa.
Cư sĩ vì những người được y phục thỏa mãn mà quyết pháp, làm cho họ được y phục tâm quý thanh tịnh. Nhẫn đến được diệu sắc thanh tịnh của Như Lai.
Cư sĩ đều chăm sóc hoàn bị tất cả đại chúng. Mọi người nghe pháp xong đều trở về bổn xứ.
Cư sĩ Minh Trí vì Thiện Tài đồng tử mà hiển bày cảnh giới Bồ Tát bất tư nghì giải thoát ồi bảo rằng:
Này thiện nam tử! Ta chỉ biết môn giải thoát tùy ý xuất sanh phước đức tạng này.
Như chư đại Bồ Tát thành tựu bửu thủ trùm khắp tất cả quốc độ mười phương, dùng sức tự tại mưa khắp tất cả đồ tư sanh. Như là mưa các thứ báu nhiều màu, anh lạc nhiều màu, mão báu nhiều màu, y phục nhiều màu, âm nhạc nhiều màu, hoa nhiều màu, hương nhiều màu, hương bột nhiều màu, hương đốt nhiều màu, lọng báu nhiều màu, tràng phan nhiều màu. Mưa các thức như vậy đầy khắp tất cả chỗ ở của chúng sanh và chúng hội đạo tràng của Như Lai. Hoặc để thành thục tất cả chúng sanh, hoặc để cúng dường tất cả chư Phật.
Như vậy ta làm sao biết được nói được những công đức tự tại thần lực đó.
“South of here is a city called Simhapofa. An eminent person named
Ratnachuda lives there. Go ask him how to learn and carry out the practice
of enlightening beings.”
Page 1238 – The Flower Ornament Scripture
Sudhana, pleased, elated, uplifted, overjoyed, expressing his respect for
the householder Vidvan as a disciple for a teacher, in honor of the Teaching,
seeing all qualities of buddhahood as being fostered by him, seeing omnis-
cience as coming from him, showing undying regard for spiritual
benefactors, showing the inconceivability of unlimited knowledge in spiri-
tual friends, acting in accord with the mastery of spiritual benefactors,
heeding the instructions of spiritual benefactors, meditating on the faculty
of faith deriving from spiritual benefactors, in quest of the instruction of
spiritual benefactors, his mind on propitiation of spiritual benefactors, paid
his respects to Vidvan and left.
Này thiện nam tử! Phương nam đây có một thành lớn tên là Sư tử Cung. Nơi đó có một trưởng giả tên là Pháp Bửu Kế.
Ngươi nên đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?
Thiện Tài đồng tử vui mừng hớn hở, cung kính tôn trọng giữ lễ đệ tử đối với Cư sỉ. Tự nghĩ rằng:
Do Cư sĩ này hộ niệm cho tôi, khiến tôi được thấy đạo nhất thiết trí, chẳng dứt sự mến nhớ được thấy thiện tri thức, chẳng hoại tâm tôn trọng thiện tri thức, thường hay tùy thuận lời dạy của thiện tri thức, quyết định tin sâu lời nói của thiện tri thức, hằng phát thâm tâm thờ thiện tri thức.
Thiện Tài đảnh lễ nơi chân Cư sĩ Minh Trí, hữu nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.
Ratnachuda
Then, resorting to that water of goodness, watching that field of goodness,
clearing off that mountain of goodness, plunging into that channel of good-
ness, opening that treasury of goodness, looking into that mine of goodness,
clarifying that sphere of goodness, gathering that mass of goodness, gene-
rating that power of goodness, increasing that stream of goodness, Sudhana
made his way to Simhapofa city. Looking all over for the religious eminent
Ratnachuda, he saw him in the middle of the marketplace. Sudhana went up
to him, paid his respects, and said, “Noble one, I have set my mind on
supreme perfect enlightenment, but I do not know how to learn or carry out
the practice of enlightening beings. Please teach me the path of enlighten-
ing beings, on which path I may set out for omniscience.”
Thiện Tài đồng tử ở chỗ Minh Trí Cư sĩ được nghe môn giải thoát này rồi, thời du hành biển phước đức đó, sửa sang ruộng phước đức đó, ngưỡng vọng núi phước đức đó, xu hướng bến phước đức đó, khai phát tạng phước đức đó, quán sát pháp phước đức đó, thanh tịnh xe phước đức đó, ham muốn đống phước đức đó, phát sanh sức phước đức đó, thêm thế lực phước đức đó.
Thiện Tài đi lần đến thành Sư Tử tìm Trưởng giả Bửu Kế, thấy Trưởng giả này ở trong chợ. Thiện Tài vội đến đảnh lễ nơi chân Trưởng giả, hữu nhiễu vô số vòng, chắp tay cung kính thưa rằng:
Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?
Lành thay đức Thánh! Xin vì tôi mà giảng nói các Bồ Tát đạo. Ðể tôi thừa đạo này mà đến Nhứt thiết trí.
Ratnachuda took Sudhana to his house and showed it to him, saying,
“Look at my house.” Looking it over, Sudhana saw that the house was radi-
ant, made of gold, wide and high, surrounded by silver walls, adorned with
crystal terraces, embellished with hundreds of thousands of lapis lazuli tur-
rets, on coral pillars; there was a lion seat arrayed with red pearls, flying lion
banners made of starry jewels, covered with a canopy of radiant jewels,
draped with a net of wish-fulfilling jewels, arrayed with countless gem-
stones. There was a lotus pond, with coof water, made of emeralds.
Surrounded by trees of all kinds of jewels, the house was large, ten stories
high, with eight doors.
Entering the house, Sudhana looked around. On the first floor he saw
supplies of food and drink being given away. On the second floor he saw all
kinds of clothing being given away. On the third floor he saw all kinds of
jewelry being given away. On the fourth floor he saw royal concubines, the
most talented women on earth, being given away. On the fifth floor he saw a
gathering of enlightening beings of the fifth stage, celebrating the Teaching
in song, thinking and acting for the welfare and happiness of the world,
practicing all sciences, putting into effect the method of mystic spells, the
ocean of concentration, emergence from concentration, contemplation in
concentration, and the light of knowledge. On the sixth floor he saw a gath-
ering of enlightening beings who had attained transcendent wisdom, who
had profound wisdom, who had mystic knowledge of the quiescence of all
Page 1239 – Entry into the Realm of Reality
phenomena, who were completely familiar with the comprehensive
method containing the method of concentration spells of the stages, whose
sphere of action was unimpeded, who practiced nondualism, who were
making songs of the Teaching following the process of transcendence by
wisdom, analyzing and opening it up — a door of transcendent wisdom
called matrix of equality, a door of transcendent wisdom called orderly anal-
ysis of the knowledge of all sentient beings, a door of transcendent wisdom
called unmoving, a door of transcendent wisdom called light of dispassion, a
door of transcendent wisdom called invincible matrix, a door of transcend-
ent wisdom called world-illumining sphere, a door of transcendent wisdom
called sphere of ways to attainment, a door of transcendent wisdom called
oceanic matrix, a door of transcendent wisdom called attainment of equa-
nimity of the universal eye, a door of transcendent wisdom called arrival at
the inexhaustible treasure, a door of transcendent wisdom called ocean of all
ways to truth, a door of transcendent wisdom called entry into the ocean of
all beings, a door of transcendent wisdom called unobstructed intelligence, a
door of transcendent wisdom called site of gradual descent of the clouds of
the Teaching — he saw enlightening beings in untold numbers of orderly
groups singing in chorus of countless tens of hundreds of thousands of such
doors of transcendent wisdom. On the seventh floor he saw a gathering of
enlightening beings who had attained acceptance of the fact that all sounds
are like echoes, who were completely familiar with ascertainment of knowl-
edge of means, and who took in the multitude of teachings of all buddhas.
On the eighth floor he saw a gathering of enlightening beings who had
attained undiminishing mystic knowledge, who observed all worlds, who
were able to appear reflected in all communities, whose bodies were distrib-
uted evenly throughout all universes, who perceived the presence of all
buddhas as a unified sphere, who were united with the body of all buddhas,
who were chief interlocutors in the audiences of all buddhas. On the ninth
floor he saw a gathering of enlightening beings who were to attain
buddhahood in one lifetime. On the tenth floor he saw the oceans of first
hispirations, practices, emancipations, and vows of all buddhas, mystic dis-
plays of all ways of enlightenment, the audiences of all buddhas, the sounds
of the teachings of all buddhas, magical displays to edify all sentient beings.
Lúc đó Trưởng giả cầm tay Thiện Tài, dắt đến chỗ ông ở, chỉ nhà của ông mà bảo Thiện Tài xem.
Thiện Tài thấy nhà của Trưởng giả thanh tịnh quang minh làm bằng chơn kim, vách bằng bạch ngân, điện bằng pha lê, lưu ly bửu màu biếc dùng làm lầu gác, trụ bằng xa cừ diệu bửu, khắp nơi trang nghiêm với trăm ngàn diệu bửu, sư tử tòa bằng xích châu ma ni. Màn ma ni và lưới chơn châu giăng phía trên. Ao bằng mã não bửu đầy nước thơm. Vô lượng cây báu bày hàng khắp nơi.
Nhà đó rộng rãi mười từng, tám cửa.
Khi đã vào nhà, Thiện Tài theo thứ đệ mà quán sát.
Thấy từng dưới hết, thí những đồ uống ăn.
Thấy từng thứ hai thí những bửu y.
Thấy từng thứ ba bồ thí tất cả đồ báu trang nghiêm.
Thấy từng thứ tư thí những thế nữ và tất cả trân bửu thượng diệu.
Thấy từng thứ năm có chư Bồ Tát nhẫn đến Ngũ địa Bồ Tát vân tập, diễn nói các pháp lợi ích chúng sanh, thành tựu tất cả đà la ni môn các tam muội ấn, các tam muội hạnh, trí huệ quang minh.
Thấy từng thứ sáu có chư Bồ Tát đều đã thành tựu trí huệ thậm thâm, minh liễu thông đạt nơi pháp tánh thành tựu môn tổng trì tam muội quảng đại không chướng ngại, chỗ làm vô ngại chẳng trụ hai pháp. Ở trong bất khả thuyết diệu trang nghiêm đạo tràng mà cùng tập hội phân biệt hiển thị môn Bát Nhã Ba la mật:
Những là môn Bát Nhã Ba la mật tịch tịnh tạng. Môn Bát nhã Ba la mật khéo phân biệt trí của các chúng sanh. Môn Bát nhã ba la mật chẳng thể động chuyển. Môn Bát nhã ba la mật ly dục quang minh. Môn Bát nhã ba la mật chẳng thể hàng phục. Môn Bát nhã ba la mật chiếu chúng sanh luân. Môn hải tạng Bát nhã Ba la mật. Môn Bát nhã ba la mật phổ nhãn xả đắc. Môn Bát nhã Ba la mật nhập vô tận tạng. Môn Bát nhã ba la mật nhập tất cả phương tiện hải. Môn Bát nhã ba la mật nhập tất cả thế gian hải. Môn Bát nhã Ba la mật vô ngại biện tài. Môn Bát nhã Ba la mật tùy thuận chúng sanh. Môn Bát nhã Ba la mật vô ngại quanh minh. Môn Bát Ba la mật thường quán túc duyên mà bủa mây pháp. Diễn thuyết trăm vạn vô số môn Bát nhã Ba la mật như vậy.
Thấy từng nhà thứ bảy có chư Bồ Tát được như hưởng nhẫn, dùng phương tiện trí phân biệt quán sát mà được xuất ly, đều có thể nghe và thọ trì chánh pháp của chư Phật.
Thấy từng thứ tám có vô lượng Bồ Tát cùng hội họp trong đó, đều được thần thông không còn thối đọa. Có thể dùng một âm thanh khắp mười phương cõi. Thân của các Ngài hiện khắp tất cả đạo tràng, cùng khắp pháp giới. Vào khắp Phật cảnh, thấy khắp thân Phật. Ở trong tất cả Phật chúng hội mà làm thượng thủ, diễn thuyết các pháp.
Thấy từng lầu thứ chín chư Bồ Tát nhất sanh bổ xứ tập hội trong đó.
Thấy từng lầu thứ mười, chư Phật Như Lai ngự đầy trong đó.
Having seen this, Sudhana said to Ratnachuda, “Noble one, how did
you achieve this? Where did you plant roots of goodness resulting in such
an attainment?”
Ratnachuda said, “I remember that in the past, eons ago, more than as
many eons ago as atoms in a buddha-land, in a world called Wheel of Many
Cofors, a buddha named King of Teaching Adorning the Cosmos with Infi-
nite Rays of Light emerged in the world, tamer and leader of people, teacher
of celestials and humans, accomplished in knowledge and action, blissful,
supreme knower of the world, enlightened, blessed. Together with a billion
disciples led by Radiance of Knowledge, and a trillion enlightening beings
led by Energy of the Sun of Knowledge, he went to a royal park at the invita-
tion of the king Master of the Law. I played music for that buddha in the
Page 1240 – The Flower Ornament Scripture
middle of die marketplace of the city and burned one ball of incense as an
offering to the buddha and the enlightening beings and disciples. By the
burning of that one ball of incense, the whofe continent was covered by infi-
nitely various fragrant clouds in the forms of all sentient beings for seven
days, and from those clouds emerged such sounds as these — ‘Inconceivable
is the Buddha, possessed of a body of knowledge extensive as past, present,
and future, omniscient, free from all obstructions, rid of all afflictions and
habit energies, raised by all enlightened ones, sincere, giver of the fruits of
measureless omniscience, concentration of all knowledge.’ Such utterances
came from the incense clouds by the power of Buddha to develop my roots
of goodness to maturity and to rapidly generate roots of goodness in incon-
ceivable numbers of beings. I dedicated the root of goodness in that
miraculous vision of the Buddha’s power to three pofnts: to forever ending
all poverty, to always hearing truth, and to meeting all enlightened and
enlightening spiritual benefactors.
“I know this enlightening liberation of the supernal manifestation of the
sphere of unobstructed vows. How can I know the practice or tell the virtues
of enlightening beings who are mines of inconceivable, immeasureable vir-
tues, who have entered the indivisible ocean of buddha-bodies, who take in
the indivisible multitude of truths, who haveattained an indivisible ocean of
virtues, who have spread the net of the practice of universal good, who have
entered the realm of indivisible absorption, whose roots of goodness are one
with those of all enlightening beings, who abide in the pure
nondiscrimination of buddhas, who have entered the indivisible equality of
past, present, and future, who live continuously through all ages without
tiring, who are in the stage of the sphere of the unfragmented universal eye?
Từ sơ phát tâm tu Bồ Tát hạnh siêu xuất sanh tử, thành mãn đại nguyện và thần thông lực, tịnh Phật độ và đạo tràng chúng hội chuyển chánh pháp luân điều phục chúng sanh.
Ðều làm cho được thấy rõ tất cả như vậy.
Thiện Tài thấy sự như vậy rồi, bạch rằng:
Bạch đức Thánh! Do duyên gì mà thành chúng hội thanh tịnh này ?
Gieo căn lành gì mà được báu như vậy?
Trưởng giả nói:
Này thiện nam tử! Ta nhớ thuở quá khứ, quá Phật sát vi trần số kiếp, có thế giới tên là Viên Mãn Trang Nghiêm. Phật hiệu là Vô Biên Quang Minh Pháp Giới Phổ Trang Nghiêm Vương Như Lai, đầy đủ mười hiệu.
Ðức Phật đó vào thành, ta tấu nhạc và đốt một nén hương cúng dường. Ta đem công đức ấy hồi hướng ba chỗ.
Xa lìa tất cả nghèo cùng khốn khổ.
Thường thấy chư Phật và thiện tri thứ.
Hằng nghe chánh pháp.
Do nhơn duyên đó mà được báu này.
Này thiện nam tử! Ta chỉ biết môn giải thoát Bồ Tát vô lượng phước đức bửu tạng này.
Như chư đại Bồ Tát được bất tư nghì công đức bửu tạng, nhập vô phân biệt Như Lai thân hải, thọ vô phân biệt vô thượng pháp vân, tu vô phân biệt công đức đạo cụ, khởi vô phân biệt Phổ Hiền hạnh võng, nhập vô phân biệt tam muội cảnh giới, đồng vô phân biệt Bồ Tát thiện căn, trụ vô phân biệt sở trụ của Như Lai, chứng vô phân biệt tam thế bình đẳng, tru vô phân biệt phổ nhãn cảnh giới, trụ tất cả kiếp không có mỏi nhàm.
Ta làm sao biết được được nói được công đức hạnh đó.
“South of here is a land called Vetramulaka. A perfumer named
Samantanetra lives in a city there called Samantamukha. Go ask him how
an enlightening being is to learn and carry out the practice of enlighten-
ing beings.”
Then Sudhana paid his respects to Ratnachuda and left.
Này thiện nam tử! Phướng Nam đây có một nước tên là Ðằng Căn. Nước đó có thành tên là Phổ Môn. Trong thành có một Trưởng giả tên là Phổ Nhãn.
Ngươi đến đó hỏi: Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?
Thiện Tài đồng tử đảnh lễ nơi chân của Trưởng giả Pháp Bửu Kế, hữu nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.
Samantanetra
Immersed in the endless vision of buddhas, in communication with the end-
less congregation of enlightening beings, illumined by the endless means of
the way of enlightening beings, his mind broadened and made sure by the
endless principles of enlightening beings, pure in the endless path of devo-
tion of enlightening beings, imbued with the infinite light of the faculties of
enlightening beings, seeure in the infinite willpower of enlightening
beings, eonsciously following the infinite practice of enlightening beings,
generating the infinite power of vows of enlightening beings, characterized
by the infinite invincibility of enlightening beings, abiding in the infinite
light of knowledge of enlightening beings, aware of the infinite law of
enlightening beings, Sudhana made his way to the land called Vetramulaka,
where he looked for the city Samantamukha, searching all over, here and
Page 1241 – Entry into the Realm of Reality
there, in the highlands and the lowlands, over level and rough terrain; with
tireless determination, unceasing, single-minded, with unflagging vigor
and an inexhaustible mind, never forgetting the instructions of spiritual
benefactors, wishing always to speak with spiritual benefactors, his senses
fully aware, rid of all heedlessness, his eyes and ears open, he searched all
over for the city of Samantamukha, and finally saw it, in the middle of the
country of Vetramulaka, surrounded by ten thousand towns, with strong,
high walls, adorned in forty-eight ways. He saw the perfumer Samantanetra
in a perfumers’ shop in the city.
Seeing Samantanetra, Sudhana went up to him, paid his respects, and said,
“I have set my mind on supreme perfect enlightenment, but I do not know
how an enlightening being is to learn and carry out the practice of enlight-
ening beings.”
Lúc đó Thiện Tài được nghe môn giải thoát Bồ Tát vô lượng phước đức bửu tạng nơi Bửu Kế Trưởng giả rồi, được thâm nhập vô lượng tri kiến của chư Phật, an trụ vô lượng thắng hạnh của Bồ Tát, thấy rõ vô lượng phương tiện của Bồ Tát, mong cầu vô lượng pháp môn của Bồ Tát, thanh tịnh vô lương tín giải của Bồ Tát, minh lợi vô lượng căn của Bồ Tát, thành tựu vô lượng dục lạc của Bồ Tát, thông đạt vô lượng hạnh môn của Bồ Tát, tăng trưởng vô lượng nguyện lực của Bồ Tát, kiến lập tràng vô năng thắng của Bồ Tát, khởi trí Bồ Tát, chiếu pháp Bồ Tát.
Thiện Tài đi lần đến nước Ðằng Căn, tìm hỏi thành Phổ Môn. Dầu trải qua nhiều gian lao nhưng chẳng nệ nhọc, chỉ nhớ lời dạy của thiện tri thức, nguyện thường được thân cận để phụng thờ cúng dường, sách tấn chư căn lìa những phóng dật.
Sau đó thiện Tài đến thành Phổ Môn, thấy trăm ngàn tụ lạc bao vây chung quanh. Tường thành cao nghiêm, đường sá rộng bằng.
Thiện Tài vào thành tìm gặp Phổ Nhãn Trưởng giả, liền đảnh lễ nơi chân Trưởng giả, hữu nhiễu vô lượng vòng, chắp tay cung kính thưa rằng:
Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo?
Samantanetra said, “It is good that you aspire to supreme perfect enlight-
enment. I know the maladies of all sentient beings and how to cure those
maladies. All who come to me from the ten directions, I cure of their mala-
dies. Once they are cured, bathed, and anotnted, I satisfy them with suitable
ornaments, clothes, and food, and furnish them with immeasurable wealth.
Alter that I teach them, presenting impurity to rid them of lust, praising
great love to rid them of hatred, showing them analysis of elements to rid
them of delusion. I teach them to get rid of the afflictions of action equally
combining lust, hatred, and delusion by illuminating the ways to higher
knowledge. I clarify the means of producing the determination for enlight-
enment by talking about the virtuous qualities of all buddhas. I elucidate the
means of producing great compassion by showing the immeasurable miser-
ies of the mundane world. I elucidate the means of attaining immeasurable
virtuous qualities by describing the accumulation of vast stores of goodness
and knowledge. I elucidate the means of producing the vows of the Great
Vehicle by showing the development and guidance of all sentient beings. I
elucidate the means of attaining the practice of universally good enlighten-
ing beings by spreading out the net of practice in all lands in all times. I
elucidate the means of attaining a buddha-body of amassed distinguishing
marks and embellishments by praising transcendent generosity. I elucidate
the means of attaining buddhas’ purity in all situations by explaining tran-
scendent morality. I elucidate the means of producing the inconceivable
purity of appearance of buddhas by explaining transcendent toferance. I elu-
cidate the means of producing the invincible body of buddhas by explaining
transcendent vigor. I elucidate the unsurpassed purity of body of buddhas by
explaining transcendent meditation. I elucidate the purity of the reality-
body by explaining transcendent wisdom. I elucidate the purity of the body
of Buddha appearing before all beings by explaining transcendent skill in
means. I elucidate the purity of body invofved in entering the minds of peo-
ple in all eras and times by explaining transcendent commitment. I elucidate
the purity of body appearing in all buddha-lands by explaining transcendent
power. I elucidate the purity of body pleasing all sentient beings according to
their inclinations by explaining transcendent knowledge. I elucidate the
Page 1142 – The Flower Ornament Scripture
purification of the body of supremely pure appearance by explaining the
removal of all unwhofesome elements. Thus taking care of them with this
giving of teaching, I provide them with the support of endless treasures and
let them go.
“I also know how to compound all scents, incenses, perfumes, and
unguents. Moreover, I know the ball of fragrance making offerings on meet-
ing buddhas everywhere, pleasing to all beings. By this ball of fragrance all
wishes are fulfilled; by it 1 produce multitudes of dwelling places, and so on,
including multitudes of all kinds of offerings for buddhas. Whenever I want
to make offerings to buddhas, I produce clouds of towers of fragrance and
cause them to appear in all universes, in the assemblies of all buddhas. I
adorn all universes with purification of buddha-lands, palaces of fragrance,
walls of fragrance, turrets of fragrance, arches of fragrance, windows of fra-
grance, penthouses of fragrance, crescents of fragrance, parasofs of
fragrance, banners and pennants of fragrance, canopies of fragrance, webs of
fragrance, lights of fragrance, immaculate adornments of fragrance, and rain
showering from clouds of all fragrances.
“I know this medium of the Teaching, the ball of fragrance making
offerings on meeting buddhas everywhere, pleasing all sentient beings;
how can I know the practice or tell the virtues of the enlightening beings
who are like great medicines, whom it is beneficial to see, to hear, to associ-
ate with, to remember, to follow, and to recall their names, with the sight
of whom all sentient beings are relieved of afflictions, with the sight of
whom sentient beings leave all evil ways, with the sight of whom sentient
beings find a way to buddhahood, with the sight of whom the sufferings of
sentient beings are relieved, with the sight of whom sentient beings are
freed from fear of all mundane states, with the sight of whom sentient
beings become fearless because of being near the abode of omniscience,
with the sight of whom sentient beings no longer fall into the abyss of old
age and death, with the sight of whom sentient beings attain the bliss of
tranquillity through cosmic equanimity?
Trưởng giả nói:
Này thiện nam tử! Lành thay! Lành thay! Ngươi đã có thể phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Này thiện nam tử! Ta biết tất cả bệnh của các chúng sanh. Những bệnh phong đàm, nóng, cổ độc, quỷ mị dựa, nhẫn đến bị nước bị lửa thương hại, ta đều có thể dùng phương tiện chữa lành cả.
Này thiện nam tử! Mười phương chúng sanh, những kẻ có bệnh đến ta, ta đều chữa trị cho họ được lành mạnh. Lại lấy nước thơm tắm rửa thân thể họ. Lại ban cho họ những hương hoa, anh lạc, y phục đẹp, những đồ trang sức, đồ ăn thức uống và những vàng bạc, tất cả đều đầy đủ không ai thiếu thốn. Rồi sau mới vì họ mà tùy cơ nghi thuyết pháp.
Vì người tham dục nhiều dạy họ quán bất tịnh.
Vì người sân hận nhiều dạy họ quán từ bi.
Vì người ngu si nhiều dạy họ phân biệt các pháp tướng.
Vì người đẳng phần phiền não dạy họ pháp môn thù thắng.
Vì muốn cho họ phát bồ đề tâm , nên xưng dương công đức của tất cả chư Phật.
Vì muốn cho họ khởi lòng đại bi, nên hiển thị sanh tử vô lượng khổ não.
Vì muốn cho họ tăng trưởng công đức nên tán thán tu tập vô lượng phước trí.
Vì muốn cho họ phát đại nguyện nên xưng tán công hạnh điều phục chúng sanh.
Vì muốn cho họ tu Phổ Hiền hạnh, nên nói Bồ Tát ở tất cả cõi trong tất cả kiếp tu những công hạnh.
Vì muốn cho họ đủ tướng hảo của Phật, nên tán dương Ðàn Ba la mật.
Vì muốn cho họ được tịnh thân của Phật có thể đến khắp tất cả xứ, nên tán dương Thi Ba la mật.
Vì muốn cho họ được thân thanh tịnh bất tư nghì của Phật, nên tán dương Nhẫn Ba la mật.
Vì muốn cho họ được thân vô năng thắng của Phật, nên tán dương Tinh Tấn Ba la mật.
Vì muốn cho họ được thân thanh tịnh vô đẳng nên tán dương Thiền Ba la mật.
Vì muốn cho họ hiển hiện Như Lai thanh tịnh pháp thân, nên tán dương Bát Nhã Ba la mật.
Vì muốn cho họ hiện Phật thanh tịnh sắc thân, nên tán dương Phương Tiện Ba la mật.
Vì muốn cho họ hiện thân thanh tịnh quá tất cả Phật độ, nên tán dương Lực Ba la mật.
Vì muốn cho họ hiện thanh tịnh thân tùy tâm chúng sanh làm cho họ hoan hỷ, nên tán dương Trí Ba la mật.
Vì muốn cho họ thân rốt ráo thanh tịnh vi diệu nên tán dương lìa hẳn tất cả pháp bất thiện.
Bố thí như vậy rồi, đều bải họ trở về.
Này thiện nam tử! Ta lại khéo biết phương pháp hòa hiệp tất cả thứ hương. Những là vô đẳng hương, tân đầu ba la hương, vô thắng hương, giác ngộ hương, a lô na bạt để hương, kiên hắc chiên đàn hương, ô lạc ca chiên đàn hương, trầm thủy hương, bất động chư căn hương.
Này thiện nam tử! Ta cầm hương này để cúng dường, thấy khắp chư Phật thỏa mãn bổn nguyện. Những là nguyện cứu hộ tất cả chúng sanh. Nguyện nghiêm tịnh tất cả cõi Phật. Nguyện cúng dường tất cả Như Lai.
Này thiện nam tử! Lúc đốt thứ hương này, trong mỗi mỗi hương phát ra vô lượng hương, khắp đến mười phương tất cả pháp giới tất cả chư Phật chúng hội đạo tràng, hoặc làm hương cung, hoặc làm hương điện, hương lan can, hương tường rào, hương hào thành, hương cửa nẻo, hương lầu gác, hương bán nguyệt, hương lọng, hương tràng, hương phan, hương trướng, hương màn lưới, hương hình tượng, hương đồ trang nghiêm, hương quang minh, hương vân vũ, xứ xứ sung mãn để làm trang nghiêm.
Này thiện nam tử! Ta chỉ biết pháp môn làm cho tất cả chúng sanh thấy chư Phật hoan hỷ.
Này chư đại Bồ Tát, như đại dược vương, hoặc thấy, hoặc nghe, hoặc ghi nhớ, hoặc đồng ở, hoặc đi theo, hoặc xưng danh hiệu đều được lợ ích không luống uổng.
Nếu có chúng sanh tạm được gặp gỡ chư đại Bồ Tát tất làm cho tiêu diệt tất cả phiền não, vào Phật pháp, lìa khổ uẩn, dứt hẳn sự kinh sợ về sanh tử, đến chỗ nhất thiết trí, vô sở úy, xô dẹp tất cả núi lớn sanh tử, an trụ nơi chỗ vui bình đẳng tịch diệt.
Ta thế nào biết được nói được hạnh công đức đó ?
“South of here is a city called Taladhvaja, where there lives a king
named Anala. Go ask him how to learn and carry out the practice of
enlightening beings.”
So then Sudhana paid his respects to the eminent perfumer Samantanetra
and left.
Này thiện nam tử! Phương Nam đây có một thành lớn tên là Ða La Tràng, có một vua tên là Vô Yểm Túc. Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo?
Thiện Tài đồng tử đảnh lễ nơi chân Trưởng giả Phổ Nhãn, hữu nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng, từ tạ mà đi.
Anala
Recalling those spiritual benefactors one after another, focusing his atten-
tion on the instructions of those spiritual benefactors, rejofcing in himself at
being in the care of spiritual benefactors, reflecting that through the profec-
tion of spiritual benefactors he would never lose the way to supreme perfect
enlightenment, Sudhana became joyful, serene, pleased, happy, calm, broad-
minded; lie attained adornment of mind, nonattachment of mind,
nonobstruction of mind, aloofness of mind, unification of mind, controf of
Page 1243 – Entry into the Realm of Reality
mind, extraordinary power of mind, mental conformity with the Teaching,
mental pervasion of lands, mental beatification by the visionot Buddha, and
eonstant mental focus on the ten powers.
He made his way from country to country, village to village, place to
place, searching, till he came to the city of Taladhvaja, where he asked after
the whereabouts of King Anala. He was told, “King Anala is on the throne
carrying out his royal duties for the welfare of the populace. He governs the
communities, punishes those who should be punished, promotes those who
deserve promofion, chastises criminals, settles disputes, comforts and
encourages the wretched and dejected, subdues the wild and arrogant; he
puts a stop to the injury of living beings, theft, desire for others’ spouses,
falsehood, slander, harsh or viofent talk, and divisive talk; he frees us from
craving, malice, and false ideas.”
Then Sudhana went to King Anala and saw him sitting on a great jew-
eled lion throne brilliant with diamonds, set on legs of countless varieties
of luminous jewels, with beautiful figurines inlaid with jewels, arrayed
with cowrie shells on golden threads, lit by many jewel lamps, in a lotus
calyx made of magic gems, spread with many precious celestial robes, per-
fumed with various celestial incenses, embellished with a hundred
thousand jeweled parasofs, adorned with a hundred thousand jeweled ban-
ners, beautified by trailing flower garlands made of varicofored jewels,
covered by a canopy of various celestial jewels. The king was young and
handsome, with the marks and embellishments of a great man, wearing a
crown of wish-fulfilling jewels, his forehead adorned with golden cres-
cents, pure blue sapphire earrings hanging from his ears, a breastplate
radiant with jewels on his chest, bracelets of the finest celestial gems on his
arms, shaded by a large precious parasof with a cane of pure lapis lazuli and
a thousand ribs of jewels with a gold covering, a wreath of jewel bells
sweetly ringing, illumining all directions with its luster. The king had
great regal power; his rule was invincible to enemy armies, his sovereignty
was free of danger from enemy armies.
Sudhana saw ten thousand ministers gathered around the king conduct-
ing the affairs of state. He also saw ten thousand torturers before the king,
looking like the warders of hell, of viofent, terrifying appearance, holding
swords, axes, spears, clubs, and impaling stakes, invofved in punishing those
to be punished. He saw criminals — thieves, bandits, murderers, troublemak-
ers, rapists, and so on — brought bound before King Anala and saw the king
deal out appropriate punishments: by the king’s order, some had their hands
and feet cut off, some had their ears and noses cut off, some had their eyes
gouged out, some had their limbs or heads cut off, some had their whofe
bodies burnt by fire, some were being dismembered, crippled, burnt, sprin-
kled with acid. Sudhana watched them undergofng such harsh, injurious,
and deadly punishments and saw a mountainous heap of rendered body parts
on the execution ground and a tremendous torrent of blood. He also saw
animals and birds eating the mutilated corpses there. He also saw some of the
Page 1244 – The Flower Ornament Scripture
corpses hideously decomposing. He also heard the screams and cries of those
being mutilated and killed, as terrifying as hell.
Seeing that dreadful, horrifying butchery, Sudhana thought, “I have set
out for supreme perfect enlightenment for the sake of the welfare and happi-
ness of all beings and am devoted to pursuing the practice of enlightening
beings; I ask spiritual benefactors what good an enlightening being should
do and what evil one should avofd. This King Anala, though, is devofd of
goodness, an evildoer, malicious, a killer and oppressor, without regard for
others, doomed to a miserable fate: so how can I hear about the practice of
enlightening beings from him?”
As Sudhana was thinking this, concerned with saving all sentient beings,
his mind full of compassion, celestial beings in the sky over his head called
out, “Do you not remember the instructions of the seer Jayoshmayatana?”
Sudhana looked up and said, “I do.”
Lúc đó Thiện Tài đồng tử ức niệm tư duy lời dạy của thiện tri thức. Nghĩ rằng thiện tri thức có thể nhiếp thọ tôi, có thể thủ hộ tôi làm cho tôi không thối chuyển nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Tư duy như vậy sanh tâm hoan hỷ, tâm tịnh tín, tâm quảng đại, tâm thơ thới, tâm hớn hở, tâm mừng rở, tâm thắng diệu, tâm tịch tịnh, tâm trang nghiêm, tâm vô trước, tâm vô ngại, tâm bình đẳng, tâm tự tại, tâm trụ pháp, tâm chẳng bỏ thập lực.
Thiện Tài đi lần đến thành Ða La Tràng hỏi thăm chỗ ở của vua Vô Yểm Túc.
Mọi người bảo rằng nhà vua hiện ở chánh điện, ngồi tòa sư tử, tuyên bố pháp hóa điều ngự chúng sanh. Kẻ đáng trị tội thì trị, kẻ đáng phạt thời phạt, kẻ đáng nhiếp thời nhiếp. Phạt tội ác của họ, giải quyết sự tranh tụng của họ. Thương người cô cùng yếu đuối. Ðều làm cho nhơn dân dứt hẳn sự giết hại, trộm cướp, tà dâm. Cũng làm cho họ bỏ sự nói dối, nói thô ác, nói ly gián, nói thêu dệt. Lại làm cho họ xa lìa tham lam, sân hận, tà kiến.
Thiện Tài theo chỗ chỉ dẫn của mọi người mà đến chánh điện. Thấy nhà vua ngự tòa na la diên kim cang. Tòa này chân bằng vô số thứ báu, vô lượng hình tượng để trang nghiêm, dây vàng làm lưới giăng phía trên.
Nhà vua đầu đội bửu quan như ý ma ni. Vàng diêm phù đàn làm hình bán nguyệt để trang nghiêm nơi trán. Ðế thanh ma ni làm vòng tai hai bên đối nhau thòng xuống. Ma ni vô giá làm chuỗi đeo nơi cổ. Ma ni đẹp cõi trời làm ấn xuyến mang nơi cánh tay.
Vàng diêm phù đàn làm lọng. Các báu xen lẫn dùng làm vành cọng. Cán bằng đại lưu ly bửu. Quang vị ma ni dùng làm núm. Các báu làm linh hằng vang tiếng diệu. Phóng đại quanh minh chiếu khắp mười phương.
Lọng báu trên đây che cho nhà vua.
Vô Yểm Túc Vương có thế lực lớn có thể làm khuất phục chúng khác, không ai địch lại. Lấy lụa ly cấu vấn trên đảnh. Mười ngàn đại thần cùng xử lý quốc sự.
Trước mặt nhà vua, hai bên có mười vạn lính mạnh, hình ác, y phục xấu, tay cầm binh khí, xăn tay trợn mắt. Ai ngó thấy cũng phải kinh sợ.
Những chúng sanh phạm pháp: hoặc trộm vật của người, hoặc hại mạng người, hoặc xâm vợ người, hoặc sanh tà kiến, hoặc khởi sân hận, hoặc tham lam tật đố, thân bị ngũ phược dắt đến chỗ vua, tùy theo chỗ họ phạm mà trị tội :
Hoặc chặt tay chân, hoặc cắt tai mũi, hoặc khoét đôi mắt, hoặc chém đầu, hoặc lột da, hoặc phân thây, hoặc đem nấu, hoặc đem đốt, hoặc dắt lên núi cao xô té xuống. Vô lượng sự hành hình độc ác như vậy.
Tiếng phạm nhơn kêu khóc dường như trong địa ngục Chúng Hiệp.
Thấy thế, Thiện Tài nghĩ rằng: Tôi vì lợi ích chúng sanh mà cầu Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo.
Nay nhà vua Vô Yểm Túc này diệt pháp lành tạo đại tội, bức não chúng sanh nhẫn đến giết chết, không sợ bị đọa ác đạo sau này.
Sao tôi lại muốn ở nhà vua này mà cầu chánh pháp, phát tâm đại bi cứu hộ chúng sanh.
Lúc Thiện Tài nghĩ như vậy, trên hư không có trời bảo rằng:
Này thiện nam tử! Ngươi phải ghi nhớ lời dạy của Phổ Nhẫn Trưỡng giả.
Thiện Tài ngữa mặt nói: Tôi luôn ghi nhớ không hề tạm quên.
The celestials said, “Do not give rise to doubt about the instructions of
spiritual benefactors; they guide you on the right way. Indeed, the practical
knowledge of skill in means of enlightening beings is inconceivable. The
knowledge of how to take care of all sentient beings is inconceivable. The
knowledge of how to benefit sentient beings is inconceivable. The knowl-
edge of how to restrain sentient beings is inconceivable. The knowledge of
how to further sentient beings is inconceivable. The knowledge of how to
care for sentient beings is inconceivable. The knowledge of how to protect
sentient beings is inconceivable. The knowledge of how to purify sentient
beings is inconceivable. The knowledge of how to liberate sentient beings is
inconceivable. The knowledge of how to perfect sentient beings is incon-
ceivable. The knowledge of how to guide sentient beings is inconceivable.
Go ask the king about the practice of enlightening beings.”
Hearing the words of the celestials, Sudhana went to King Anala, paid his
respects, and said, “Noble one, I have set my mind on supreme perfect
enlightenment, but I do not know how to learn and carry out the practice of
enlightening beings. I hear that you give instruction to enlightening beings;
pray tell me how to learn and apply the practice of enlightening beings.”
King Anala, having finished his duties, got off the throne and took
Sudhana into the palace. Entering his own residence, the king seated
Sudhana on a seat of honor and said to him, “Look at the furnishings of my
house.” Sudhana looked and saw that the house was large, with walls of
seven precious substances, adorned with terraces of various jewels, embel-
lished with hundreds of thousands of jewels towers, blazing with the
radiance of inconceivable numbers of jewels, with pillars made of various
jewels. In it were hundreds of thousands of variously adorned jewel lion
chairs; jeweled regal banners flew overhead; it was covered with canopies of
radiant jewels, draped with various webs of magical gems, decorated with
countless ornaments of various jewels, complete with coof emerald lotus
ponds, surrounded by rows of trees of all kinds of jewels. He also saw the
king’s hundred million ladies, all extremely beautiful, versed in all the arts,
diligent, kindhearted, and attentive.
Page 1245 – Entry into the Realm of Reality
Then King Anala said to Sudhana, “What do you think — could such
fruits of action come to a villain? Could a villain attain such a condition,
with such a retinue, such riches, such power?”
Sudhana said, “No indeed, noble one.”
The king said, “I have attained enlightening beings’ magical liberation.
The people in my realm are given to all sorts of evildofng — murder, theft,
rape, falsehood, slander, vilification, divisive talk, covetousness, malice,
false views, villainy, viofence, cruelty. I am unable to turn them away from
evildofng by any other means, so in order to subdue them, mature them,
guide them, and seeure their welfare, out of compassion I have illusory exe-
cutioners kill and maim illusory criminals, making a display of intense
suffering and pain; seeing this, the people in my realm become afraid to do
evil. Seeing the people alarmed by this device, I have them give up evildofng
and conduct themselves virtuously; then I establish them in ultimate seeu-
rity, the end of all suffering, the bliss of omniscience. I do not harm anyone
by thought, word, or deed. I would sooner go to the deepest hell than so
much as think of hurting even a dumb animal or an hiseet, much less a
human being, who lias pofential for virtuous conduct. I do not do anything
bad even in dreams, much less while awake.
“I have attained this magical enlightening beings’ liberation. How can I
know the practice or tell the virtues of the enlightening beings who have
attained acceptance of the truth of nonorigination, who relate to all states of
being as illusions, who understand that the practices of enlightening beings
are like magical creations, who know that all worlds are like reflections,
who comprehend that the nature of things is like a dream, who conform to
the principle of the reality realm by nonattachment, who accomplish the
network of interrelated practices, who are in the sphere of unimpeded
knowledge, who know the way of universally comprehensive concentra-
tion, who are masters of endlessly progressing mental command, who are
intent on the sphere of buddhahood?”
Trời bảo:
Thiện nam tử chớ nhàm lìa lời của thiện tri thức. Thiện tri thức có thể dắt dẫn ngươi đến chỗ an ổn không hiểm nạn.
Này thiện nam tử! Bồ Tát thiện xảo phương tiện trí chẳng thể nghĩ bàn, nhiếp thọ chúng sanh trí chẳng thể nghĩ bàn, hộ niệm chúng sanh trí chẳng thể nghĩ bàn, thành tựu chúng sanh trí chẳng thể nghĩ bàn, thủ hộ chúng sanh trí chẳng thể nghĩ bàn, độ thoát chúng sanh trí chẳng thể nghĩ bàn, điều phục chúng sanh trí chẳng thể nghĩ bàn.
Thiện Tài nghe xong liển đến đảnh lễ nơi chân vua Vô Yểm Túc tâu rằng:
Bạch đại Thánh! Tôi đã phát tâm vô thượng Bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo?
Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin vì tôi mà giảng nói.
Vua Vô Yểm Túc xử lý quốc sự xong, cầm tay Thiện Tài dắt vào nội cung bảo cùng ngồi, nói rằng:
Này thiện nam tử! Người quán sát cung điện của ta ở đây.
Tuân lời nhà vua, Thiện Tài quán sát khắp cung. Thấy cung điện này rộng lớn vô tỉ đều làm bằng diệu bửu. Tường rào bao quanh bằng thất bửu, trăm ngàn thứ báu xây các lầu các, tất cả sự trang nghiêm đều diệu hảo. Màn lưới bất tư nghì ma ni giăng che phía trên.
Mười ức thị nữ đoan trang xinh đẹp khả ái. Phàm chỗ làm đều xảo diệu, lúc dậy lúc nằm đều thừa thuận ý nhà vua.
Vua Vô Yểm Túc bảo Thiện Tài:
Này thiện nam tử! Nếu ta thiệt gây ác nghiệp thời sao lại được quả báo tốt đẹp này, sắc thân như đây, quyến thuộc như vậy, giàu sang như vậy, tự tại như vậy?
Này thiện nam tử! Ta được Bồ Tát như huyển giải thoát.
Này thiện nam tử! Nước của ta, dân chúng nhiều người làm việc trộm cướp giết hại nhẫn đến tà kiến. Dùng phương tiện khác không thể làm cho họ bỏ ác nghiệp.
Này thiện nam tử! Ta vì điều phục chúng sanh đó mà hóa hiện những người ác tạo tội nghiệp bị hành hình khốn khổ. Làm cho những dân chúng làm ác nghe thấy mà kinh sợ chừa ác làm lành phát tâm Bồ đề.
Này thiện nam tử! Ta dùng phương tiện thiện xảo như vậy làm cho dân chúng bỏ mười ác nghiệp mà an trụ nơi mười hạnh lành, rốt ráo khoái lạc, rốt ráo an ổn, rốt ráo trụ ở bực Nhứt thiết trí.
Này thiện nam tử! Thân, ngữ, ý của ta chưa từng não hại đến một chúng sanh.
Như tâm ý của ta, thà ở vị lai chịu vô gián khổ, chớ trọn không móng một niệm làm khổ cho một con muỗi con kiến, huống lại làm khổ người. Vì người là phước điền có thể sanh tất cả những pháp lành.
Này thiện nam tử! Ta chỉ được môn như huyễn giải thoát này.
Như chư đại Bồ Tát được vô sanh nhẫn biết những loài hữu lậu đều như huyễn. Những hạnh Bồ Tát như hóa. Tất cả thế gian đều như bóng. Tất cả pháp đều như mộng. Nhập chân như tướng vô ngại pháp môn. Tu hành đế võng tất cả công hạnh. Dùng trí vô ngại đi trong các cảnh giới. Nhập khắp tất cả bình đẳng tam muội. Nơi đà la ni đã tự tại. Mà ta làm sao nói được biết được công đức hạnh đó.
“South of here is a city called Suprabha, where a king named
Mahaprabha lives. Go ask him how to learn and carry out the practice of
enlightening beings.”
So then Sudhana paid his respects and left King Anala.
Này thiện nam tử! Phương Nam đây có thành tên là Diệu Quang. Nhà vua tên là Ðại Quang. Ngươi qua đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?
Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân vua Vô Yểm Túc, hữu nhiễu vô số vòng, từ tạ mà đi.
Mahaprabha
Remembering that magic of knowledge, meditating on that magical libera-
tion of enlightening beings, contemplating that magical nature, realizing
the equality of the illusoriness of all actions, reflecting on the equal
illusoriness of phenomena, following the equality of didactic developmen-
tal magical creations, remembering the inconceivable light born of
knowledge, undertaking the magical performance of endless vows, purify-
ing the magical nature of unattached conduct, thinking about the magical
character of past, present, and future, Sudhana made his way from country to
country, looking everywhere, high and low, over even and rough terrain.
Page 1246 – The Flower Ornament Scripture
wet and dry places, mountains and valleys, villages, cities, towns, provinces,
and capitals, tireless in body and mind, searching everywhere till he came to
the environs of the great city Suprabha. He asked where King Mahaprabha
was, and people pofnted out the great city Suprabha and told him the king
lived there.
So then Sudhana went to the city and was delighted upon seeing it. He
thought, “Where does the spiritual benefactor live? I shall see the spiritual
benefactor today and hear from him about the practice of enlightening
beings, the way of emancipation of enlightening beings, the inconceivable
nature of enlightening beings, the inconceivable range of virtues of enlight-
ening beings, the inconceivable majesty of enlightening beings, the
inconceivable concentration of enlightening beings, the inconceivable free-
dom of enlightening beings, and the inconceivable purity of accomplish-
ment of great undertakings of enlightening beings.” With these thoughts in
mind Sudhana went into the great city Suprabha.
Once he was there, Sudhana looked around the city: it was beautiful,
made of seven precious substances — gold, silver, lapis lazuli, crystal, red
pearl, emerald, and coral. It was surrounded by deep moats made of the seven
precious substances, with gold sand on the bottom, their surfaces covered
with heavenly lotuses, and particles of sandalwood suspended in the water.
The city was also surrounded by rows of palm trees made of the seven pre-
cious substances, and enclosed by walls made of seven kinds of
diamonds — majestic, insuperable, indestructible, invincible, without obsta-
cle, blazing with light, free from impurities. Each of the diamond walls was
also inlaid with countless jewels, inset with gold posts and adorned with gar-
lands of ivory and jewels. The gates of the city, at intervals of ten leagues on
eight sides, were beautifully constructed of the seven precious substances.
The city was large, a symmetrical octagon, set on a ground of blue lapis laz-
uli. There were ten million streets in the city, each one lined on both sides
with hundreds of thousands of mansions made of various precious sub-
stances and adorned with arrays of many kinds of gems, flying jeweled
banners and flags, fully furnished, with millions of people living in them.
The city was also adorned with countless temples of gold and jewels, count-
less gold towers arrayed with innumerable jewels and covered with nets of
lapis lazuli, countless silver towers arrayed with innumerable jewels and cov-
ered with nets of red pearls, countless lapis lazuli towers arrayed with
innumerable jewels and covered with nets of varicofored jewels, countless
crystal towers arrayed with innumerable jewels and covered with nets of dia-
monds, countless luminous jewel towers arrayed with innumerable jewels
and covered with nets of sunny jewels, countless sapphire towers arrayed
with innumerable jewels and covered with nets of radiant jewels, countless
diamond towers arrayed with innumerablejewels and covered with nets of
unsurpassed jewels, countless sandalwood towers arrayed with innumerable
jewels and covered with nets of celestial flowers, countless towers of incom-
parable fragrances arrayed with innumerable jewels and covered with nets of
heavenly flowers, all adorned with turrets of many jewels, encircled with
Page 1247 – Entry into the Realm of Reality
balconies of seven precious substances, surrounded by rows of jewel trees.
The turrets of the towers and the nets of jewels were also interconnected by
jewel strings, and those strings were adorned with garlands of golden bells,
to each of which were fastened strings of various jewels, from each of which
hung circlets of small bells. Also the whofe city was covered with countless
nets of jewels, bells, celestial fragrances, heavenly flowers, and jewel figur-
ines, with countless canopies of diamonds, various jewels, jeweled parasofs,
jewel pavilions, precious cloths, and jewel flower garlands, with variously
jeweled banners and pennants flying overhead.
The house of King Mahaprabha was built in the middle of the city. It was
four leagues wide on each side. Made of the seven precious substances, it was
surrounded by arbors made of these seven precious substances in various
combinations, decorated with nets of precious bells making pleasant sweet
sounds. It was surrounded by seven rows of palm trees made of the seven pre-
cious substances and adorned with a hundred thousand towers made of
inconceivable numbers of various jewels. The house was embellished with
lotus ponds, made of jewels, their surfaces covered with celestial flowers,
their floors spread with gold sand, with steps made of jewel bricks arrayed
on four sides, graced with trees with jewel flowers and fruits. Pleasant
sounds of birds warbling filled the air. It was like the palace of a celestial
king. In the middle stood a tower of world-illumining jewels, wonderful,
beautiful, brilliant with its inconceivable arrays of countless jewels, built by
the King Mahaprabha as a treasury of good law.
Then Sudhana, not drawn by the jewel moats, not amazed by the jewel
walls, not attracted by the jewel trees, not relishing the sound of the jewel
bells, unattached to the sweet sounds of celestial songs, not paying any
attention to the various precious furnishings of the apartments and towers,
while in the midst of the joyful crowds of people enjoying the pleasure of
the way of enlightenment, detached from pleasures of the senses, intent on
contemplation of the truth, eonstantly asking everyone he met about spiri-
tual benefactors, made his way to a crossroads in the city. Looking around at
the crossroads, he saw King Mahaprabha there, not far from his venerable
abode, seated on a magnificent throne. The throne had legs of blue lapis laz-
uli and was set on a lion made of white lapis lazuli. It was arrayed with nets of
cowries on gold strings and varicofored precious cloths surpassing those of
the gods, and ornamented with countless jewel figures. It was covered with
a network of inconceivable numbers of jewels, and above was a beautiful
gold silk canopy with multicofored decorations of celestial jewels. The
throne of the great law was in the shape of the calyx of a lotus made of wish-
fulfilling gems, and the king sat cross-legged thereon, graced with the
thirty-two marks of a great person, adorned with the various
embellishments of the virtuous. He was like a mountain of gold, brilliant as a
mine of jewels, blazing with light like the orb of the sun, of placid appear-
ance like the full moon, an oceanic accumulation of endless virtues of the
profound Teaching, like a great cloud thundering the sound of inherent
nature, like the sky studded with stars of maxims of the Teaching, like the
Page 1248 – The Flower Ornament Scripture
polar mountain appearing to the minds of the ocean of sentient beings, like
an island of jewels covered with various gems of knowledge. Sudhana also
saw heaps of jewels, pearls, conch shells, camphor, coral, gold, and silver,
heaps of celestial robes, heaps of celestial jewelry, heaps of food, and heaps of
the finest delicacies arrayed before the king. He also saw millions of celestial
chariots, celestial musical histruments, mounds of celestial incenses, many
medicinal preparations, and many coflections of all kinds of utensils, suit-
able and proper for people to enjoy as they wish. He also saw hundreds of
thousands of milk cows with golden horns and hooves, provided to care for
the poor. He also saw many millions of beautiful girls, adorned with all
kinds of jewelry, dressed in heavenly clothes, limbs anotnted with sandal-
wood perfume, versed in all the arts and skilled in all manners of love play.
All the kinds of goods that were before the king were also set out in count-
less numbers on the street corners, in front of every house, along both sides
of every street, to support the population, to make everyone happy, joyful,
serene, and comfortable, to extinguish their afflictions, to introduce them to
the meaning of the nature of all things, to get them all to have omniscience
as their common aim, to rid them of malice toward others, to stop them
from all evil action and talk, to extract the thorns of views, and to purify
their course of action.
At that pofnt Sudhana went up to King Mahaprabha, paid his respects, and
said, “Noble one, I have set my mind on supreme perfect enlightenment, but
I do not know how to learn and carry out the practices of enlightening
beings. I hear you give enlightening beings instruction, and ask you to tell
me how to study and accomplish the practice of enlightening beings.”
Bấy giờ Thiện Tài nhứt tâm chánh niệm pháp môn như huyễn trí của nhà vua. Tư duy như huyễn giải thoát của nhà vua. Quán sát pháp tánh như huyễn của nhà vua. Phát như huyễn nguyện. Tịnh như huyễn pháp. Khắp ở tất cả tam thế như huyễn mà khởi những biến hóa như huyễn.
Tư duy như vậy, Thiện Tài đi lần qua phương Nam, hoặc đến thành ấp tụ lạc, hoặc đi qua đồng hoang hang hố hiểm nạn, vẫn không mỏi lười, chưa từng ngơi nghỉ. Sau đó mới đến thành Diệu Quang hỏi người thành Diệu Quang ở tại đâu.
Người đáp chính là thành Diệu Quang, là chỗ ngự của vua Ðại Quang.
Thiện Tài đồng tử hoan hỉ vô lượng nghĩ rằng thiện tri thức của tôi ở trong thành này. Nay tôi chắc sẽ được thân cận, được nghe công hạnh của chư Bồ Tát, được nghe môn xuất yếu của chư Bồ Tát, được nghe pháp của chư Bồ Tát đã chứng được, nghe công đức bất tư nghì của chư Bồ Tát, được nghe bất tư nghì tự tại của chư Bồ Tát, được nghe bình đẳng bất tư nghì của chư Bồ Tát, được nghe dũng mãnh bất tư nghì của chư Bồ Tát, được nghe cảnh giới quảng đại thanh tịnh bất tư nghì của chư Bồ Tát.
Thiện Tài nghĩ như vậy rồi nhập Diệu Quang thành. Thấy thành này xây bằng thất bửu : kim, ngân, lưu ly, pha lê, chân châu, xa cừ, mã não. Hào sâu bằng thất bửu bảy lớp bao quanh, nước bát công đức đầy trong đó, đáy trải cát chân kim, hoa sen bốn màu xanh, vàng, đỏ, trắng nở đầy mặt nước. Cây đa la báu bảy lớp thẳng hàng. Bảy thứ kim cang làm tường rào bao quanh.
Những là tường bằng sư tử quang minh kim cang. Tường rào bằng vô năng siêu thắng kim cang. Tường rào bằng bất khả trở hoại kim cang. Tường rào bằng bất khả hủy khuyết kim cang. Tường rào bằng kiên cố vô ngại kim cang. Tường rào bằng thắng diệu võng tạng kim cang. Tường rao bằng ly trần thanh tịnh kim cang. Tất cả đều dùng vô số ma ni diệu bửu xen lẫn trang nhgiêm. Các thứ báu xây thành tháp gác.
Thành đó ngang rộng mười do tuần, có tám cửa đều dùng bảy báu nghiêm sức khắp nơi. Ðất bằng tỳ lưu ly bửu, nhiều thứ trang nghiêm rất đáng mến thích.
Trong thành có mười ức đường sá. Mỗi hai bên đường đều có vô lượng nhân dân ở. Có vô số lầu gác bằng vàng diêm phù đàn, lưới tỳ lưu ly ma ni che phía trên. Vô số lầu gác bằng bạch ngân, lưới xích chơn châu ma ni giăng phía trên. Vô số lầu gác bằng tỳ lưu ly, lưới diệu tạng ma ni giăng phía trên. Vô số lầu gác bằng pha lê, lưới vô cấu tạng ma ni vương giăng phía trên. Vô số lầu gác bằng quang chiếu thế gian ma ni bửu, lưới nhựt tạng ma ni vương giăng phía trên. Vô số lầu gác bằng đế thanh ma ni bửu, lưới diệu quang ma ni vương giăng phía trên. Vô số lầu gác bằng chúng sanh hải ma ni vương, lưới diệm quang ma ni vương giăng phía trên. Vô số lầu gác bằng kim cang bửu, lưới vô năng thắng tràng ma ni vương giăng phía trên. Vô số lầu gác bằng hắc chiên đàn, lưới thiên mạn đà la hoa giăng phía trên. Vô số lầu gác bằng vô đẳng hương vương, lưới nhiều thứ hoa giăng phía trên.
Thành Diệu Quang còn có vô số lưới ma ni, vô số lưới bửu linh, vô số lưới thiên hương, vô số lưới thiên hoa, vô số lưới bửu hình tượng, vô số lưới bửu y trướng, vô số bửu cái trướng, vô số bửu lâu các trướng, vô số bửu hoa man trướng giăng che.
Khắp nơi kiến lập bửu cái tràng phan.
Trong thành Diệu Quang có một lâu các tên là chánh pháp tạng, trang nghiêm với vô số bửu vật chói sáng rực rở không gì sánh bằng, nhìn xem không chán.
Vua Ðại Quang thường ở trong lầu này.
Thiện Tài đồng tử đối với những vật trân bửu đẹp và các nam nữ đến lục trần cảnh giới này đều không mến luyến. Chỉ nhất tâm chánh niệm tư duy pháp cứu cánh. Nhứt tâm thích muốn được thấy thiện tri thức.
Thiện Tài đi lần vào thành thấy Ðại Quang Vương ở giữa ngã tư đường cách lầu chánh pháp tạng không xa ngồi trên tòa sư tử quảng đại trang nghiêm như ý ma ni bửu liên hoa tạng. Chân tòa này bằng lưu ly bửu màu biếc, lụa vàng làm màn, các báu làm lưới, thiên y thượng diệu làm nệm.
Thân nhà vua có hai mươi tám tướng tốt, đủ tám mươi tùy hảo. Xem như tòa núi chơn kim, màu sắc và ánh sáng rực rỡ. Như mặt nhựt trên không oai quang chói mắt. Như mặt trăng tròn làm mát mẻ người ngó thấy. Như Phạm Thiên Vương ở giửa Phạm Chúng. Như đại hải công đức pháp bửu không cùng tận. Như núi Tuyết nghiêm sức với rừng cây tướng hảo. Như mây lớn hay chấn pháp lôi cảnh tỉnh mọi loài. Như hư không hiển hiện những tinh tướng pháp môn. Như núi Tu Di bốn màu hiện khắp trong tâm hải của chúng sanh. Như bửu đảo đầy những trí bửu.
Trước tòa của vua ngự có từng khối vàng bạc, lưu ly, ma ni, chơn châu, san hô, hổ phách, kha bối, bích ngọc, y phục, anh lạc và những đồ ăn thức uống.
Lại thấy vô lượng trăm ngàn muôn ức xe báu thượng diệu, trăm ngàn muôn ức những kỹ nhạc cõi trời. Trăm ngàn muôn ức những hương thơm cõi trời. Trăm ngàn muôn ức thuốc men và đồ tư sanh. Vô lượng bò sữa, móng sừng màu chơn kim. Vô lượng ngàn ức nữ nhơn đoan chánh, chiên đàn thượng diệu thoa trên thân, trang sức với thiên y anh lạc, đều giỏi rành sáu mươi bốn nghề hiểu rõ thế tình lễ phép, tùy theo tâm của chúng sanh mà cung cấp bố thí.
Bốn bên ngã tư đường đều để đầy những đồ tư sanh.
Có hai mươi ức Bồ Tát đem những vật này thí cho các chúng sanh. Vì muốn nhiếp khắp chúng sanh. Vì muốn chúng sanh hoan hỷ. Vì muốn chúng sanh hớn hở. Vì muốn cho chúng sanh tâm thanh tịnh. Vì muốn cho chúng sanh được thanh lương. Vì diệt trừ phiền não cho chúng sanh. Vì làm cho chúng sanh biết tất cả nghĩa lý. Vì làm cho chúng sanh nhập đạo Nhứt thiết trí. Vì làm cho chúng sanh bỏ tâm oác thù. Vì làm cho chúng sanh lìa sự ác nơi thân ngữ. Vì làm cho chúng sanh dứt các tà kiến. Vì làm cho chúng sanh tịnh các nghiệp đạo.
Thiện Tài đảnh lễ nơi chân Ðại Quang Vương, hữu nhiễu vô lượng vòng chắp tay đứng tâu rằng:
Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm Vô Thượng Bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?
Tôi nghe đức Thánh hay khéo chỉ bảo, xin dạy cho.
The king said, “I purify and fulfill the enlightening beings’ practice,
which is characterized by great benevofence. This practice I have asked
about, purified, ordered, observed, carried out, pursued, entered into, diver-
sified, and expanded in the company of hundreds, thousands, millions —
indeed, untold numbers — of buddhas. Based on this enlightening practice
of great benevofence, I command kingship justly, I treat the world justly, I
pass through the world justly, I lead the peoplejustly, I bring justice to peo-
ple and turn them to the sphere of right, I give them right guidance, I
saturate them with justice, I direct them to attainment of what is right, I get
them to contemplate the nature of things. I establish people in kindness, in
the command of great kindness, in the power of kindness, in altruism, in
goodwill, in sympathy, in friendliness, in hospitality, in determination to
get rid of all suffering, in conduct conducive to ultimate happiness. I coof
their minds and remove their mental tangles by producing the bliss of cessa-
tion. I divert their continuity of mind attached to delight in mundane
routines and purify it in enjoyment of the pleasures of truth. I purify them of
all unwhofesome qualities and turn them away from what is not good. I turn
back the flow of the mundane whirl. I destroy their ignorance in the ocean
of principles of the reality realm, to cut off rebirth in all states of being. I
inspire them to attain omniscience. I calm the ocean of their minds, to gen-
Page 1249 – Entry into the Realm of Reality
erate the indestructible power of faith. Thus do I govern righteously based
on this enlightening practice of great benevofence.
“Furthermore, no one goes away from me intimidated, threatened, or
frightened. If any poor people lacking in means of subsistence come to me
seeking food or drink or clothing or any other need, I open the royal store-
house to them and allow them to take from there, or from the streets and
crossroads of the city, whatever they need, things they would otherwise get
invofved in wrongdofng to get.
“All the inhabitants of this city are enlightening beings established in the
Great Vehicle. They see this city according to the purity of their minds.
Some see it small, some large; some see a ground of earth, some see a ground
spread with lapis lazuli; some see clay walls, some see it surrounded by walls
covered with the finest cloth, banners, and jewels; some see it full of gravel
and sand, uneven, with a lof of ravines; some see the ground spread with
large jewels, decorated and flat as the palm of the hand; some see it beauti-
fully arrayed with mansions and palaces, with round windows, nets,
crescents, jewels, and various other adornments. Even among those who live
outside the city, those whose minds are pure, who have made roots of good-
ness, who have attended many buddhas, who are aiming for omniscience,
and who make omniscience their ultimate goal, see it as made of jewels.
Those whom I took care of in the course of past enlightening practice by
means of charity, kindness, assistance, and cooperation see it this way, while
others see it as made of clay.
“Whenever the inhabitants of my domain want to do anything wrong in
the degenerate world, their natures disturbed by the times, in order to save
them I go into an enlightening concentration guided by great benevofence
called ‘adapting to the faculties of the world,’ whereupon their fears, misfor-
tunes, animosities, quarrels, agitations, and hostilities cease. That happens as
a matter of course by the achievement of the nature of the enlightening con-
centration adapting to the faculties of the world, which is guided by great
benevofence. Come here and you shall see for yourself in a moment.”
At that pofnt the king entered that concentration, whereupon the whofe
city as well as the provinces of the kingdom quaked. As they shook, the jewel
walls, jewel temples, jewel treasuries, jewel houses, jewel mansions, jewel
palaces, jewel towers, jewel windows, jewel balconies, jewel arehes, jewel
crescents, jewel domes, jewel statues, jewel canopies, jewel bells, jewel ban-
ners, and jewel trees gave off beautiful, pleasant sounds and bowed toward
King Mahaprabha. The inhabitants of the city Suprabha, ecstatic, prostrated
themselves in the king’s direction. The inhabitants of the rest of the domain,
refreshed and joyful, bowed toward the king. Even the animals, in friendship
and harmony with each other, bowed toward the king. Even the mountains
and hills all bowed toward the king. All the trees and plants also bowed
toward the king. All the lakes, ponds, streams, and rivers in the domain
flowed toward the king. Ten thousand water spirits sent subtly aromatic
rains from clouds of fragrant water, with thunder and lightning. Ten thou-
sand celestial beings adorned the sky with countless clouds of celestial
Page 1250 – The Flower Ornament Scripture
music, goddesses sweetly singing, clouds raining celestial jewel flowers,
clouds raining various celestial fragrances, garlands, aromatic powders, jew-
elry, robes, parasofs, banners, and pennants blazing with the radiance of
jewels, presenting these to the king as tokens of respect. The chief of the
water spirits also adorned the sky with a covering of countless clouds of
celestial jewel lotuses, countless trailing ornaments of celestial jewel neck-
laces, streamers, garlands, ornaments, and leis, countless clouds of
all-pervading celestial fragrances, countless clouds raining celestial cloths,
incense balls, and aromatic powders, and countless clouds of nymphs play-
ing sweet music and singing hymns of praise, producing these in the sky by
the inconceivable power of the chief water spirit. Also, countless hundreds
of thousands of sea and land goblins, malevofent beings who feed on flesh
and blood and eonsume the vitality of fish, birds, animals, and humans, all
became benevofent, placid, intent on not harming any creatures, and sympa-
thetic to other beings; they jofned their hands in respect and most joyfully
bowed to the king, experiencing mental and physical bliss. Hundreds of
thousands of other kinds of fiends and malevofent spirits, also becoming
benevofent, placid, intent on not harming any creature, and sympathetic to
other beings, jofned their hands in respect and most joyfully bowed to the
king, experiencing physical and mental bliss.
In this way all the fears, misfortunes, animosities, quarrels, agitations,
and hostilities of all creatures on earth ceased. And as this happened on
earth, so did it also happen throughout the galaxy, in as many as ten
duodecillion worlds. This was by the achievement of the nature of the
enlightening concentration adapting to the faculties of the world, which is
guided by great benevofence.
Then King Mahaprabha came out of that concentration and said to
Sudhana, “I know this medium of the light of knowledge of practice of
enlightening beings which is characterized by great benevofence. How can I
know the practice, tell the virtues, measure the mountain of merit, view the
myriad stars of virtuous qualities, encompass the atmosphere of great vows,
measure the power of impartiality toward things, clarify the forms of
arrangements of the vehicle of universal salvation, express the excellences of
the principles of universally good practice, open the doors of cultivation of
great enlightening concentrations, or describe the clouds of great compas-
sion, of the enlightening beings who are like immeasurable umbrellas of
great benevofence, filling all beings with happiness; who are hiseparable
companions to all beings; who have set out to save all beings, working
equally with the superior, inferior, and middling; whose benevofence is as
impartial as the earth, supporting all beings; who are impartial as the full
moon, shining the light of virtue and knowledge equally on all beings; who
are impartial as the sun, illumining the world with knowledge of all that can
be known; who are like great lamps, dispelling the darkness in the recesses of
all beings’ minds; who are like water-clarifying jewels, removing the
turbidity of deceit and guile from the water of beings’ minds; who are like
wish-fulfilling jewels, fulfilling the aspirations of all beings; who are like a
Page 1251 – Entry into the Realm of Reality
gale, driving all beings into the citadel of omniscience with its houses of
concentration and equilibrium?
Vua nói:
Này thiện nam tử! Ta tịnh tu Bồ Tát đại từ tràng hạnh. Ta đầy đủ Bồ Tát đại từ tràng hạnh.
Này thiện nam tử! Ta ở chỗ vô lượng trăm ngàn muôn ức nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết đức Phật hỏi han pháp này, tư duy quán sát tu tập trang nghiêm.
Này thiện nam tử! Ta dùng pháp này làm vua, dùng pháp này dạy bảo, dùng pháp này nhiếp thọ, dùng pháp này mà ở thế gian, dùng pháp này dẩn đạo chúng sanh, dùng pháp này khiến chúng sanh tu hành, dùng pháp này khiến chúng sanh xu nhập, dùng pháp này cho chúng sanh phương tiện, dùng pháp này khiến chúng sanh huân tập, dùng pháp này khiến chúng sanh khởi hạnh, dùng pháp này khiến chúng sanh an trụ tư duy tự tánh của các pháp. Dùng pháp này khiến chúng sanh an trụ từ tâm, lấy từ làm chủ, đầy đủ từ lực. Như vậy, khiến họ an trụ tâm lợi ích, tâm an lạc, tâm ai mẫn, tâm nhiếp thọ, tâm thủ hộ chúng sanh không rời bỏ rời, tâm cứu chúng sanh khổ không thôi nghỉ.
Ta dùng pháp này làm cho chúng sanh rốt ráo khoái lạc, hằng tự vui thích, thân không khổ, tâm mát mẻ dứt ái nhiễm sanh tử, mến chánh pháp vui, rửa nhơ phiền não, phá chướng ác nghiệp, tuyệt dòng sanh tử, vào biển chơn pháp, dứt những loài hữu lậu, cầu nhất thiết trí, tịnh những biển tâm, phát sanh đức tin bất hoại.
Này thiện nam tử! Ta đã an trụ nơi hạnh đại từ tràng này, có thể dùng chánh pháp giáo hóa thế gian.
Này thiện nam tử! Trong quốc độ của ta, tất cả chúng sanh, đối với ta, không có sự kinh sợ.
Này thiện nam tử! Nếu có chúng sanh nghèo cùng khốn thiếu đến ta để cầu xin, ta mở cửa kho, cho họ tha hồ mà lấy. Tao bảo họ rằng:
Chớ làm điều ác, chớ hại chúng sanh, chớ sanh tà kiến, chớ có chấp trước. Các người có thiếu thốn thứ gì, cứ đến ta hoặc các ngã tư đường, có đủ tất cả vật dụng, tùy ý mà lấy khỏi phải nghi ngại.
Này thiện nam tử! Thành Diệu Quang này tất cả chúng sanh đều là Bồ Tát phát tâm Ðại thừa, tùy ý muốn nên chỗ thấy chẳng đồng. Hoặc có kẻ thấy thành này nhỏ hẹp. Có kẻ thấy thành này rộng lớn. Có kẻ thấy là đất cát. Có kẻ thấy là các báu trang nghiêm. Có kẻ thấy đắp đất làm tường rào. Có kẻ thấy tường bao quanh toàn bằng chất báu. Hoặc có kẻ thất mặt đất đầy những ngói đá cao thấp. Có kẻ thấy là đại ma ni bửu xen lẫn trang nghiêm bằng phẳng. Có kẻ thấy nhà cửa bằng gổ đất. Có kẻ thấy là điện đường lầu gác thềm bực cửa nẻo đều bằng diệu bửu.
Này thiện nam tử! nếu có chúng sanh, tâm họ thanh tịnh từng gieo trồng căn lành, cúng dường chư Phật, phát tâm xu hướng đạo nhất thiết trí lấy nhất thiết trí làm chỗ cứu cánh và được ta thuở xưa, lúc tu Bồ Tát hạnh từng nhiếp thọ họ, thời những chúng sanh này thấy thành đây bằng diệu bửu trang nghiêm. Ngoài ra, những kẻ khác lại thấy là thô xấu.
Này thiện nam tử! Trong quốc độ đây lúc đời ngũ trược, tất cả chúng sanh phần nhiều thích làm ác. Ta vì thương họ, muốn cứu độ họ mà nhập môn tam muội đại từ tùy thuận thế gian.
Lúc ta nhập tam muội này những chúng sanh làm ác kia, có những tâm bố úy, tâm não hại, tâm oán thù, tâm tránh luận, đều tiêu diệt tất cả.
Tại sao vậy?
Vì khi nhập tam muội đại từ tùy thuận thế gian thời công năng của tam muội này tất nhiên là như vậy.
Này thiện nam tử! Chờ giây lát ngươi sẽ tự thấy.
Bấy giờ Ðại Quang Vương liền nhập tam muội này. Cả thành Diệu Quang, trong ngoài đều chấn động sáu cách. Những bửu địa, bửu tường, bửu đường, bửu điện, bửu đài quán, bửu lâu các, thềm bực, cửa nẻo, tất cả đều phát ra tiếng diệu âm, đều hướng về phía vua Ðại Quang.
Trong thành Diệu Quang tất cả cư dân đồng thời vui mừng hớn hở, đều hướng về phía nhà vua mà gieo mình đảnh lễ.
Tất cả nhơn chúng trong thôn dinh thành ấp đều đến ra mắt vua, đều hoan hỉ kính lễ.
Gần chỗ vua ở, những loài điểu thú đều yêu mến săn sóc nhau, đều có lòng mến kính nhà vua.
Tất cả núi đồi và cây cỏ đều xoay hướng về phía nhà vua.
Tất cả ao, suối, sông, biển thảy đều tràn nước chảy đến phía trước chỗ vua ngự.
Có mười ngàn Long Vương nổi mây lớn thơm, nhoáng chớp nổ sấm mưa nhỏ pháy pháy.
Có mười ngàn Thiên Vương , như là Ðao Lợi Thiên Vương, Dạ Ma Thiên Vương, Ðâu Suất Thiên Vương, Thiện Biến Hóa Thiên Vương, Tha Hóa Tự Tại Thiên vương v.v… Ở trên hư không tấu nhạc. Vô số Thiện nữ ca ngâm khen ngợi, mưa vô số mây thơm, vô số mây hoa, vô số mây tràng hoa, vô số mây bửu y, vô số mây bửu cái, vô số mây bửu tràng, vô số mây bửu phan, để trang nghiêm cúng dường nhà vua.
Ðại Tượng Vương Y La Bà Noa dùng sức tự tại ở trên hư không rải vô số bửu liên hoa, thòng vô số bửu anh lạc, vô số bửu đới, vô số bửu man, vô số bửu trang nghiêm cụ, vô số bửu hoa, vô số bửu hương, các thứ kỳ diệu để nghiêm sức, vô số thế nữ ca ngâm khen ngợi.
Trong Diêm Phù Ðề lại có vô lượng trăm ngàn vạn ức La Sát Vương, Dạ Xoa Vương, Cưu Bàn Trà Vương, Tỳ Xá Xà Vương, hoặc ở đại hải, hoặc ở lục địa, uống huyết ăn thịt tàn hại chúng sanh, tất cả đều sanh từ tâm, nguyện làm lợi ích, biết rõ đời sau nên chẳng tạo điều ác, cung kính chắp tay đảnh lễ Ðại Quang Vương.
Như Diêm Phù Ðề, ba thiên hạ khác, nhẫn đến Ðại Thiên thế giới, trong mười phương bá thiên vạn ức na do tha thế giới có bao nhiêu chúng sanh độc ác đều cũng phát từ tâm như vậy.
Bấy giờ Ðại Quang Vương xuất định bảo Thiện Tài rằng:
Này thiện nam tử! Ta chỉ biết môn tam muội Bồ Tát đại từ tùy thuận thế gian. Như chư đại Bồ Tát làm lọng cao, vì từ tâm che khắp các chúng sanh. Chuyên tu hành, vì những hạnh hạ trung thượng đều bình đẳng thật hành. Làm đại địa, vì có thể dùng từ tâm nhiệm trì tất cả những chúng sanh. Làm mặt trăng tròn, vì phước đức quang minh ở trong thế gian bình đẳng hiển hiện. Làm mặt nhật sáng, vì dùng trí quang minh chiếu diệu tất cả cảnh sở tri. Làm đèn sáng, vì có thể phá những hắc ám trong tâm của tất cả chúng sanh. Làm thủy thanh châu, có thể lóng trong những chất đục siểm cuống trong tâm của tất cả chúng sanh. Làm như ý bửu, vì có thể thỏa mãn tâm sở nguyện của tất cả chúng sanh. Làm đại phong, vì mau làm cho chúng sanh tu tập tam muội nhập đại thành Nhứt thiết trí.
Ta làm sao biết được hạnh đó, nói được đức đó, làm sao cân lượng được núi lớn phước đức đó, làm sao chiêm ngưỡng được ngôi sao sáng công đức đó, làm sao quán sát được phong luân đại nguyện đó, làm sao xu nhập được pháp môn thậm thâm đó, làm sao hiển thị được đại hải trang nghiêm đó, làm sao xiển minh được hạnh môn Phổ Hiền đó. Làm sao khai thị được hang tam muội. Làm sao tán thán được mây đại bi đó.
“South of here is a kingdom called Sthira where a devotee named
Achala lives. Go ask her how to learn and carry out the practice of
enlightening beings.”
So Sudhana paid his respects to King Mahaprabha and left.
Này thiện nam tử! Phương Nam đây có một vương đô tên là An Trụ, có Ưu bà di tên là Bất Ðộng.
Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo?
Thiện Tài đồng tử đảnh lễ nơi chân Ðại Quang Vương, hữu nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.
Achala
Then Sudhana left Suprabha city and shortly set forth on the road; reflect-
ing on the teaching of King Mahaprabha, remembering the principle of
enlightening practice of great benevofence, thinking of the light of that
method of great concentration adapting to the faculties of the world,
developing the inconceivable power commanding the goodness of the
vows of enlightening beings, stabilizing the inconceivable wisdom of
enlightening beings, knowing how to develop and perfect sentient beings,
contemplating the inconceivable unique greatness of experience of
enlightening beings, aiming for the inconceivable measurelessness of
enlightening beings, remembering enlightening beings’ inconceivable
purity of development of sentient beings, thinking ofthe inconceivability
of the purity of company of enlightening beings, focusing on enlightening
beings’ inconceivable way of eonsidering and seeing what to do for sen-
tient beings, Sudhana became joyful and happy, his mind became clear,
light, steadfast, broad, and invincible. Weeping as he thought of his mem-
ories of spiritual benefactors, he thought, “Meeting spiritual benefactors is
a mine of jewels of all virtues; it brings about the purification and fulfill-
ment of all enlightening practices; it purifies the mindfulness of all
enlightening beings; it purifies all enlightening beings’ sphere of mental
command; it generates the light of concentration of all enlightening
beings; it fosters accomplishments of the vision of all buddhas; it causes the
clouds of teachings of all buddhas to rain; it reveals the principles of the
vows of all enlightening beings; it generates the inconceivable light of wis-
dom and knowledge; it strengthens and develops the sprouting faculties of
enlightening beings. Spiritual benefactors save me from falling into evil
ways; they guide me according to the principle of equality of things; they
show me which paths are safe and which dangerous; they elucidate the way
of universal enlightenment; they explain to me universally good enlight-
ening conduct; they tell me the way to the citadel of omniscience; they
lead me into the stronghold of omniscience; they plunge me into the ocean
of principles of the cosmos; they illumine for me the way into the ocean of
what can be known in past, present, and future; they show me the multi-
tude of spheres of all goals; they cause me to develop all good qualities.”
As Sudhana wept, a group of celestial enlightening beings in the sky,
envoys of the buddhas who were always following Sudhana to inspire him,
said, “The buddhas are pleased with an enlightening being who puts the
instruction of spiritual benefactors into practice. An enlightening being
Page 1252 – The Flower Ornament Scripture
who obeys the word of spiritual benefactors is close to omniscience. An
enlightening being who does not doubt the word of spiritual benefactors
becomes near to spiritual benefactors. An enlightening being who always
pays attention to spiritual benefactors is within sight of all goals. Go to the
devotee Achala in the kingdom of Sthira, and you will hear from her of the
practice of enlightening beings.”
Then Sudhana emerged from the light of concentration knowledge and
made his way to the kingdom of Sthira, looking for the devotee Achala. Peo-
ple told him, “The devotee Achala is a girl living at home with her parents
and relatives; she gives spiritual teaching to a large group of people.” Filled
with joy, Sudhana went to Achala’s house. Standing in the door, he saw the
whofe house lit up with a soothing golden light. The moment Sudhana was
touched by the light, five hundred subtle trances descended upon him,
beginning with a trance characterized by power over all sensations, trance
absorption in the realm of tranquillity, absorption in the welfare of all
beings, absorption in the equanimity of the universal eye, and absorption in
the matrix of realization of Thusness. The feeling of those trances was as
subtle as the eonsciousness of a half-day old embryo.
He also smelled a scent more beautiful than that of any gods or goddesses
or humans or any other creatures of the world, and there was to be found in
all the world no one even equal to, much less more beautiful than, that girl
Achala. The radiance of her complexion, the proportions of her body, and
the magnificence of her aura were such that none in the world, save buddhas
and coronated enlightening beings, even equaled, much less surpassed them.
Her scent was unequaled and unsurpassed by any celestial, preternatural, or
human beings. The furnishings of her abode were unequaled and unsur-
passed in all the world, except by the accoutrements of buddhas and
coronated enlightening beings. Her company was also unequaled and
unsurpassed by any in the world, except for the companies of buddhas and
coronated enlightening beings. There was no one in all the world who
could look upon Achala with lust — there was no one in the world whose
afflictions did not cease the moment he beheld her. Just as gods with con-
trofling power who live in the realm of desire do not activate afflictions,
similarly people who saw Achala did not act on afflictions. There was no
one in the world who became satiated with the sight of Achala, except those
who were sated with wisdom.
Then Sudhana, in an attitude of reverence, seeing Achala’s inconceivable
physical majesty, her inconceivable appearance, and her inconceivable aura
of light, which could not be blocked by all the cities and mountains on the
face of the earth, sensing the inconceivable beneficial fragrance coming
from her pores, looking over her endless company of followers, noticing the
matchless adornment of her abode, immersed in the measureless ocean of
her virtues, eulogized Achala with this verse:
Lúc đó Thiện Tài đồng tử ra khỏi thành Diệu Quang đi theo đường lớn về phía Nam, chánh niệm tư duy ý nghĩa của vua Ðại Quang đã dạy, nhớ môn Bồ Tát đại từ tràng hạnh, tư duy môn Bồ Tát tùy thuận thế gian tam muội quang minh. Tăng trưởng sức phước đức tự tại nguyện bất tư nghì đó. Kiên cố trí bất tư nghì thành tựu chúng sanh đó. Quán sát đại oai đức bất tư nghì cộng thọ dụng đó. Ghi nhớ tướng bất tư nghì sai biệt đó. Suy gẫm quyến thuộc thanh tịnh bất tư nghì đó. Suy xét công hạnh bất tư nghì đó sanh tâm hoan hỉ, tâm tịnh tín, tâm mãnh lợi, tâm hân duyệt, tâm dũng dước, tâm khánh hạnh, tâm vô trược uế, tâm thanh tịnh, tâm kiên cố, tâm quảng đại, tâm vô tận.
Thiện Tài tư duy như vậy buồn khóc rơi lệ, nghĩ thiện tri thức thiệt là hi hữu, là chỗ xuất sanh tất cả công đức, xuất sanh tất cả Bồ Tát hạnh, xuất sanh tất cả Bồ Tát tịnh niệm, xuất sanh tất cả đà la ni luân, xuất sanh tất cả tam muội quang minh, xuất sanh tất cả chư Phật tri kiến, mưa khắp tất cả chư Phật pháp vũ, hiển thị tất cả Bồ Tát nguyện môn, xuất sanh nan tư trí huệ quang minh, tăng trưởng gốc mầm tất cả Bồ Tát.
Thiện Tài lại nghĩ rằng: Thiện tri thức có thể cứu hộ khắp tất cả ác đạo, có thể diễn thuyết khắp các pháp bình đẳng, có thể hiển thị khắp những đường bằng đường hiểm, có thể khai xiển khắp áo nghĩa Ðại thừa, có thể khắp khuyên phát những hạnh Phổ Hiền, có thể khắp dẫn đến thành Nhất thiết trí, có thể làm cho vào khắp pháp giới đại hải, có thể làm cho thấy khắp tam thế pháp hải, có thể khắp trao cho chúng Thánh đạo tràng, có thể khắp tăng trưởng tất cả bạch pháp.
Lúc Thiện Tài bi ai tư niệm như vậy, đức Như Lai khiến Thiên Vương hiện trên hư không bảo rằng:
Này thiện nam tử! Có ai tu hành đúng lời dạy của thiện tri thức, chư Phật Thế Tôn thảy đều hoan hỷ. Có ai tùy thuận theo lời của thiện tri thức thời được gần bậc Nhứt thiết trí. Có ai đối với lời của thiện tri thức không nghi hoặc thời thường gặp gỡ tất cả thiện hữu. Có ai phát tâm nguyện thường chẳng rời thiện trì thức thời được đầy đủ tất cả nghĩa lợi.
Này thiện nam tử! Ngươi nên đến Vương đô An Trụ sẽ được gặp Bất Ðộng Ưu bà di đại thiện tri thức.
Thiện Tài từ tam muội trí quang minh dậy, đi lần đến thành An Trụ tìm hỏi Bất Ðộng Ưu bà di.
Ðại chúng bảo rằng Bất Ðộng Ưu bà di là đồng nữ ở nhà với cha mẹ, mẹ cùng với quyến thuộc vô lượng nhơn chúng diễn nói diệu pháp.
Thiện Tài nghe nói lòng rất hoan hỷ như được gặp cha mẹ, liền đến nhà Bất Ðộng Ưu ba di.
Vào trong nhà thấy ánh sáng màu chơn kim chiếu khắp nơi, người gặp ánh sáng này thời thân tâm mát mẻ.
Ánh sáng chiếu đến thân, Thiện Tài liền chứng được năm trăm môn tam muội. Như là môn tam muội rõ tất cả tướng hy hữu, môn tam muội nhập tịch tịnh, môn tam muội xa lìa tất cả thế gian, môn tam muội phổ nhãn xả đắc, môn tam muội Như Lai tạng, v.v…
Do được năm trăm môn tam muội nên thân tâm nhu nhuyến như thai bảy ngày.
Lại nghe mùi hương, cõi trời cõi người không có được.
Thiện Tài đến chỗ Ưu bà di cung kính chắp tay nhất tâm quán sát, thấy hình sắc của Ưu bà di đoan trang xinh đẹp. Tất cả nữ nhơn trong mười phương thế giới không ai sánh kịp huống là có người hơn. Chỉ trừ đức Như Lai và chư quán đảnh Bồ Tát. Miệng Ưu bà di phát ra diệu hương.
Cung điện rất trang nghiêm và quyến thuộc của Ưu bà di này không đâu sánh bằng.
Tất cả chúng sanh không ai sanh tâm nhiễm trước đối với Ưu bà di này.
Nếu ai được tạm thời thấy Ưu bà di này thời tất cả phiền não thãy đều tự tiêu diệt, ví như trăm ngàn Ðại Phạm Thiên Vương, quyết định chẳng sanh phiền não cõi Dục.
Thập phương chúng sanh nhìn xem Ưu bà di này đều không nhàm chán. Chỉ trừ bậc đầy đủ đại trí tuệ.
Lúc đó Thiện Tài đồng tử cung kính chắp tay chánh niệm quán sát, thấy thân hình bất động Ưu bà di tự tại bất tư nghì, sắc tướng dung nhan thế gian không sánh kịp, quang minh chiếu suốt không vật gì ngăn được, vì khắp chúng sanh mà làm lợi ích. Lỗ lông nơi thân Ưu bà di thường phát ra diệu hương. Quyến thuộc vô biên, cung điện đệ nhất, công đức vô lượng không ngằn mé.
Thiện Tài vui mừng hớn hở nói kệ tán thán:
Who keeps conduct pure.
Develops great toferance,
Page 1253 – Entry into the Realm of Reality
And makes vigor enduring as diamond
Stands out in the world like a mountain of light.
Giử gìn giới thanh tịnh
Tu hành nhẫn rộng lớn
Tinh tấn chẳng thối chuyển
Quang minh chiếu thế gian.
Then Sudhana said to her, “Noble one, I have set my mind on supreme
perfect enlightenment, but I do not know how to learn and carry out the
practice of enlightening beings. I hear that you give instruction to enlight-
ening beings, so I ask you to tell me how an enlightening being is to learn
and carry out the practice of enlightening beings.”
Nói kệ xong, Thiện Tài thưa:
Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo?
Tôi nghe đức Thánh khéo chỉ bảo, xin dạy cho.
In the affectionate, pleasing, charming words of an enlightening being,
Achala greeted Sudhana and said, “It is good that you aspire to supreme per-
fect enlightenment. I have an enlightening liberation containing invincible
knowledge, and I cultivate enlightening beings’ way of practice of firm
resolve. I have also attained mental command of the stage of equanimity in
all things, and I am imbued with the light of knowledge to clarify the true
state of all phenomena. I have also attained concentration of tireless search
for truth.”
Bất Ðộng Ưu bà di dùng lời nhu nhuyến duyệt ý của Bồ Tát an ủi Thiện Tài rằng:
Lành thay, lành thay! Thiện nam tử đã phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Này thiện nam tử! Ta được môn giải thoát Bồ Tát nan tồi phục trí huệ tạng. Ta được Bồ Tát kiên cố thọ trì hạnh giải thoát môn. Ta được Bồ Tát nhất thiết pháp bình đẳng địa tổng trì môn. Ta được Bồ Tát chiếu minh nhất thiết pháp biện tài môn. Ta được Bồ Tát cầu nhất thiết pháp vô bì yểm tam muội môn.
Sudhana asked her about the sphere of these attainments, and she said her
state was hard to believe. Sudhana urged her to tell him, assuring her that by
the power of Buddha and the help of spiritual benefactors he would believe
in it, enter into it, investigate, contemplate, follow, and cultivate it, and
would not quarrel or make up arbitrary ideas or assumptions about it, but
would strive to equal it.
Thiện Tài thưa: Bạch đức Thánh! Cảnh giới của Bồ Tát nan tồi phục trí huệ tạng giải thoát môn nhẫn đến cảnh giới của Bồ Tát cầu nhất thiết pháp vô bì yểm tam muội môn như thế nào?
Bất Ðộng đồng nữ nói: Này thiện nam tử! Chỗ này khó biết.
Thiện Tài thưa: Mong đức Thánh thừa Phật thần lực giảng giải cho. Tôi sẽ nhơn thiện tri thức mà tin được, thọ được, biết được, rõ được, có thể xu nhập, quán sát, tu tập, tùy thuận, rời các phân biệt rốt ráo bình đẳng.
Achala then said to Sudhana, “A long time ago, in a past con called
Undefiled Light, a buddha named Arms Extended Downward appeared in
the world. I was the daughter of a king named Vidyuddatta. One quiet
night, as my parents slept in the inner apartments of the palace, and the men
and women of the court were fast asleep, and the sounds of music had all
stopped, and my five hundred girl companions were all in bed, as I gazed up
at the starry night sky I saw up there the Buddha, like the polar mountain,
surrounded by many celestial beings, spirits, preternatural creatures, and
countless enlightening beings, his body pervading everywhere with an aura
of unobstructed light. From his pores came a fragrance that soothed my
body and mind and made me happy. Getting up from bed, I saluted the Bud-
dha; looking at him, I found I could not determine any limit to the extent of
his height and breadth. As I reflected on his marks and embellishments of
greatness, I thought, ‘By performing what kind of action is such a body
obtained? How are the marks and embellishments of greatness attained?
How is the aura of light attained? How does the retinue of followers
develop? How do the mentally produced dwelling and furniture appear?
How is virtue developed? How is knowledge purified? How are the incon-
ceivable meditative profections accomplished? How is mental command
perfected? How is eloquence mastered?’
Bất Ðộng nói: Này thiện nam tử! Quá khứ có một kiếp tên là Ly Cấu, Phật hiệu Tu Tý.
Thuở đó có Quốc Vương tên là Ðiển Thọ chỉ sanh một gái, chính là tiền thân của ta.
Một đêm khuya kia, lúc dẹp âm nhạc, vương phụ, vương mẫu, vương huynh, vương đệ và năm trăm đồng nữ đều đã ngủ.
Công nương ở trên lầu ngước xem tinh tú, ở trong hư không thấy đức Tu Tý Như Lai như tòa bửu sơn hai bên có vô lượng vô biên Thiên, Long, Bát Bộ và chúng Bồ Tát hầu hạ.
Thân Phật phóng đại quang minh chiếu khắp mười phương không chướng ngại. Toàn thân Phật, các lỗ lông đều phát diệu hương.
Công nương nghe diệu hương của Phật thân thể nhu nhuyến, lòng hoan hỷ, bèn xuống lầu đứng trên đất, chắp mười ngón tay đảnh lễ đức Phật. Công nương lại quán sát vô kiến đảnh tướng của đức Phật, thấy thân Phật phía tả phía hữu không biết được ngằn mé. Tư duy các tướng tùy hảo của Phật không nhàm chán. Tự nghĩ thầm:
Ðức Phật Thế Tôn đây thật hành công hạnh gì mà được thân tướng tốt đẹp viên mãn quang minh đầy đủ, quyến thuộc thành tựu, cung điện trang nghiêm tốt đẹp, phước đức trí huệ thảy đều thanh tịnh, tổng trì tam muội chẳng thể nghĩ bàn, thần thông tự tại, biện tài vô ngại.
“Reading my mind, that Buddha said to me, ‘Daughter, you should pro-
duce an invincible mind to destroy afflictions, an indomitable mind to get
rid of all clinging, an intrepid mind to enter into the profound truth, a mind
unshakable while descending into the whirlpoof of the ocean of sentient
Page 1254 – The Flower Ornament Scripture
beings who are attached to objects, a mind undeluded in the midst of all
states of being, a mind tireless in seeking vision of all buddhas, a mind
receiving the multitudes of teachings of all buddhas without complacence, a
contemplative mind to attain the light of wisdom of all buddha-teachings, a
retentive mind remembering the cycles of teaching of all buddhas, a mind
free from forgetfulness even in regard to conventional terms, to say nothing
of knowledge arising from the word of buddhas; and you should develop a
mind of sharing, to distribute the jewels of the Teaching to all sentient
beings according to their mentalities.’
“Having heard such principles of the Teaching from the Buddha, desiring
omniscience, aiming for the development of the ten powers, seeking the
eloquence of a buddha, wishing to purify in myself the aura of light of a bud-
dha, wishing to perfect a body like a buddha, desiring the purity of marks
and embellishments of greatness of a buddha, aiming to gain a congregation
like a buddha, seeking purification of a buddha-land, wishing to accomplish
the deportment of a buddha, wanting to attain the span of life of a buddha,
developing a mind that neither afflictions nor anyone concerned with self-
liberation alone could break down, like indestructible adamant, I do not
remember the arising of a single thought of enjoyment of desires — much
less engaging in sexual intercourse — for as many eons thereafter as atoms in
this continent. I do not remember a single thought of anger toward my rela-
tives, much less toward innocent others. I do not remember a single thought
related to the idea of self, much less having eonsidered anything my own. I
do not remember any confusion, or any notion of difference, or yet any
indifference, even while in the womb between death and birth, much less
while focusing my attention. In all those eons I did not forget a single vision
of a buddha, not even a dream vision, much less those appearing to the ten
eyes of an enlightening being. Ever since that original hispiration I have
been imbibing the ocean of the Teaching, contemplating and reflecting on
every single statement, even in the context of worldly phenomena. There is
not a single facet of the Teaching that I have not become absorbed in, even in
the context of worldly arts and sciences. Ever since that first hispiration,
while holding the wheel of teaching of the buddhas, I have never omitted
even a single word as I learned it, even in following logic, except to regulate
the guidance of others. There is not a single vow I have not undertaken in
the presence of the buddhas I have met since then to purify the ocean of all
sentient beings, even carrying out vows made to phantom buddhas. There is
not a single enlightening practice from the ocean of past enlightening prac-
tices of the oceans of buddhas that I have not undertaken to purify my own
practice. There is not a single sentient being I have seen since then that I
have not established in the determination for supreme enlightenment. I do
not remember even having a thought of individual liberation since then. I do
not remember ever conceiving any doubt, any notion of duality, any false
discriminations, any notion of variety, any idea of grasping or rejection, any
concept of inferior or advanced, or any thought of attachment or resistance,
Page 1255 – Entry into the Realm of Reality
in regard to so much as even a single word or letter of the Teaching, for as
many eons as atoms in this continent.
“Ever since then I have never been apart from buddhas, enlightening
beings, and true spiritual benefactors. I have always been hearing of the vows
of buddhas, the practices of enlightening beings, the transcendent ways of
enlightening beings, the light of knowledge of the stages of enlightening
beings, the inexhaustible treasury of mental command and concentration of
enlightening beings, the way to enter the infinite network of worlds, the
original causes of the infinite realms of sentient beings. I have never left the
light of knowledge removing the web of afflictions of all beings. I have
always been acquiring knowledge of the productive causes of the roots of
goodness of all beings. I have always been appearing to all beings according
to their mentalities. I have always been purifying the verbal range to instruct
all beings.
“Having attained this enlightening liberation containing invincible
knowledge and this concentration of tireless searches for all truths, accumu-
lating this enlightening way of practice of firm resolve, contemplating this
method of mental command of the stage of equanimity in all things and this
medium of the light of knowledge clarifying the basis of all things, I am
capable of inconceivable miracles. Do you want to witness them?”
Sudhana said, “I do.”
Ðức Phật biết tâm niệm của Công nương nên bảo rằng: Ngươi nên phát tâm bất khả hoại, diệt các phiền não. Nên phát tâm vô năng thắng, phá các chấp trước. Nên phát tâm không thối khiếp, nhập các pháp môn. Nên phát tâm nhẫn nại, cứu chúng sanh ác. Nên phát tâm không mê hoặc, thọ sanh khắp các loài. Nên phát tâm không nhàm đủ, cầu thấy chư Phật không thôi ngớt. Nên phát tâm không biết đủ, lãnh thọ tất cả pháp vũ của Như Lai. Nên phát tâm chánh tư duy, sanh khắp tất cả Phật pháp quang minh. Nên phát tâm đại trụ trì, chuyển khắp tất cả chư Phật pháp luân. Nên phát tâm rộng lưu thông, tùy sở thích của chúng sanh mà ban cho pháp bửu.
Công nương nghe Phật dạy những pháp như vậy liền phát tâm cầu Nhứt thiết trí, cầu Phật thập lực, cầu Phật biện tài, cầu Phật quang minh, cầu Phật sắc thân, cầu Phật tướng hảo, cầu Phật chúng hội, cầu Phật quốc độ, cầu Phật oai nghi, cầu Phật thọ mạng.
Tâm của Công nương như kim cang, tất cả phiền não nhẫn đến Nhị thừa đều không phá hoại được.
Này thiện nam tử! Từ đời làm Công nương phát tâm như vậy đến nay, trải qua Diêm Phù Ðề vi trần số kiếp, ta còn chẳng móng một tâm niệm ái dục, huống là làm sự ấy. Trong những kiếp ấy, đối với quyến thuộc chẳng khởi một niệm sân hận, huống là với chúng sanh khác. Trong những kiếp ấy, đối với tự thân không có một niệm ngã kiến, huống là có niệm ngã sở đối với đồ vật. Từ những kiếp ấy, lúc chết lúc sanh và lúc ở trong bào thai chưa từng mê muội sanh trưởng chúng sanh và tâm vô ký, huống là những lúc khác. Trong những kiếp đó, tùy thấy một đức Phật nào, chưa từng quên mất, huống là Bồ Tát thập nhãn ngó thấy. Trong những kiếp ấy, thọ trì tất cả Như Lai chánh pháp, chưa từng quên sót một chữ một câu, nhẫn đến tất cả ngôn từ của thế tục còn chẳng quên mất, huống là lời từ kim khẩu của đức Như Lai. Trong những kiếp ấy, thọ trì tất cả Như Lai pháp hải, không một câu một chử nào mà chẳng tư duy quán sát nhẫn đến tất cả pháp thế tục cũng như vậy. Trong những kiếp ấy, thọ trì tất cả pháp hải như vậy chưa từng ở trong một pháp mà chẳng được tam muội, nhẫn đến những kỹ thuật thế gian, mỗi mỗi pháp cũng đều như vậy. Trong những kiếp ấy, trụ trì tất cả Như Lai pháp luân, tùy pháp đã trụ trì chưa từng bỏ một chữ một câu, nhẫn đến chưa sanh thế trí, chỉ trừ khi vì muốn điều phục chúng sanh. Trong những kiếp ấy, thấy chư Phật hải chưa từng ở chỗ một đức Phật nào mà chẳng thành tựu đại nguyện thanh tịnh, nhẫn đến ở chỗ Hóa Phật cũng như vậy. Trong những kiếp ấy, thấy chư Bồ Tát tu hành diệu hạnh không có một hạnh nào mà chẳng thành tựu. Trong những kiếp ấy, có bao nhiêu chúng sanh, không có một chúng sanh nào mà ta chẳng khuyên phát tâm Vô thượng Bồ đề, chưa từng khuyên ai phát tâm Thanh Văn, Bích Chi Phật. Trong những kiếp ấy, nơi tất cả Phật pháp, nhẫn đến chẳng nghi hoặc có một câu một chữ. Cũng chẳng có tưởng sai khác, chẳng có tưởng phân biệt, chẳng có các thứ tưởng chẳng có tưởng chấp trước, chẳng có tưởng thắng liệt, chẳng có tưởng yêu ghét.
Này thiện nam tử! Từ ấy đến nay, ta thường thấy chư Phật, thường thất Bồ Tát, thường thấy chơn thiện tri thức, thường nghe chư Phật nguyện, thường nghe Bồ Tát hạnh, thường nghe Bồ Tát na la mật môn, thường nghe Bồ Tát địa trí quang minh môn, thường nghe Bồ Tát vô tận tạng môn, thường nghe nhập vô biên thế giới võng môn, thường nghe xuất sanh vô biên chúng sanh giới nhơn môn. Thường dùng trí huệ quang minh thanh tịnh diệt trừ tất cả chúng sanh phiền não. Thường dùng trí huệ sanh trưởng tất cả chúng sanh thiện căn. Thường tùy chúng sanh sở thích mà hiện thân. Thường dùng ngôn âm thượng diệu thanh tịnh khai ngộ pháp giới tất cả chúng sanh.
Này thiện nam tử! Ta được Bồ Tát cầu nhất thiết pháp vô yểm túc trang nghiêm môn. Ta được nhất thiết pháp tổng trì môn hiện bất tư nghì tự tại thần biến. Ngươi muốn thấy chăng?
Thiện Tài thưa:
Vâng! Bạch đức Thánh! Tôi muốn được thấy.
Then, as she sat there, Achala looked into, passed through, followed, and
meditated on ten hundred thousand doors of concentration, beginning with
the door of enlightening liberation containing invincible knowledge, the
door of concentration of tireless searches for all truths, the door of concen-
tration on the arrangement of the sphere of efficacy, the door of
concentration on the sphere of the ten powers, and the door of liberation
through concentration on the inexhaustible source of all buddhas. As soon
as Achala had reach these concentrations, Sudhana saw as many worlds as
atoms in ten inexpressible numbers of buddha-lands quaking, and appearing
made of clear lapis lazuli. He also saw in each world a billion sets of four con-
tinents and a billion buddhas. He saw some of the buddhas in the heaven of
satisfaction, some descending to be born on earth, some in the womb, some
first-born, some leaving home for ascetic practice, some sitting under the
tree of enlightenment, some defeating the demons, some realizing enlight-
enment, some teaching, some entering final extinction — this was because
there was no obstruction to vision in the worlds made of clear lapis lazuli. He
also saw the aura of light of each buddha pervading all universes, and he saw
the orderly congregations of each buddha. He also heard the Voice of the
individual buddha communicating all the cycles of the Teaching to all sen-
tient beings.
Then Achala emerged from concentration and said to Sudhana, “Did you
see? Did you hear? Did you understand?”
Sudhana said, “I saw, I heard, I understood.”
Achala said, “In this way, learning enlightening beings’ practice of firm
resolve, absorbed in tireless search for all truths, established in enlightening
Page 1256 – The Flower Ornament Scripture
beings’ way of liberation by invincible knowledge, I satisfy all sentient
beings with good explanation by following mental command of the stage of
equanimity in all things, using the skill of the light of knowledge of how to
elucidate the basis of all things. How can I know the practice or tell the vir-
tues of the enlightening beings who are imbued with inconceivable,
measureless virtues, who are like eagles soaring independently through the
sky, who plunge into the sea of sentient beings to take out the mature
enlightening beings, who search the treasure island of omniscience for the
jewels of knowledge of the ten powers, who go like strong fishers into the
sea of the mundane whirl with the net of the Teaching to mature beings
born amid craving and pull them out of it, who go like titan kings through-
out all realms of existence quelling the titanic disturbances and agitations of
afflictions, who rise like the sun in the sky of the reality realm to evaporate
the water of beings’ cravings and dry up the mud of afflictions, who rise like
the full moon in the sky to awaken the water lilies of the minds of the teach-
able, who support all beings equally, whether friendly or hostile, high or
low, to plant and grow the sprouts of roots of goodness in all sentient beings,
who go everywhere unhindered like the wind to uproot the afflictions and
views of all sentient beings, who go through the world like sovereigns unit-
ing all beings with generosity, kindness, assistance, and cooperation?
Lúc đó Bất Ðộng Ưu bà di ngồi trên tòa long tạng sư tử, nhập cầu nhất thiết pháp vô yểm túc trang nghiêm tam muội môn, bất không luân trang nghiêm tam muội môn, thập lực trí luân hiện tiền tam muội môn, Phật chủng vô tận tạng tam muội môn, nhập một vạn tam muội môn như vậy.
Lúc Ưu bà di nhập tam muội môn này, mười phương đều có bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới chấn động sáu cách, đều bằng lưu ly đều thanh tịnh.
Trong mỗi mỗi thế giới có trăm ức ức tứ thiên hạ, trăm ức Như Lai, hoặc trụ Ðâu suất Thiên, nhẫn đến nhập Niết bàn, mỗi mỗi Như Lai phóng quang minh võng chiếu khắp pháp giới, đạo tràng chúng hội thanh tịnh vây quanh chuyển diệu pháp luân khai ngộ quần sanh.
Bất Ðộng Ưu bà di xuất tam muội, hỏi Thiện Tài:
Ngươi có thấy chăng?
Thiện Tài thưa:
Vâng! Tôi đã thấy.
Bất Ðộng Ưu bà di nói:
Ta chỉ được” cầu nhứt thiết pháp vô yểm túc tam muội quang minh” này, vì tất cả chúng sanh mà nói vi diệu pháp đều làm cho hoan hỷ.
Như chư đại Bồ Tát du hành hư không vô ngại như Kim Sí Ðiểu, có thể vào tất cả chúng sanh đại hải, thấy có ai thiện căn đã thành thục, liền bắt lấy để trên bờ Bồ đề.
Lại như thương gia vào đại bửu đảo lượm lấy Như Lai thập lực trí bửu.
Lại như nhà chài lưới cầm lưới chánh pháp vào biển sanh tử ở trong nước ái lược bắt chúng sanh.
Như A Tu La Vương có thể khắp khuấy động khắp tam hữu đại thành những biển phiền não.
Lại như mặt nhựt xuất hiện hư không chiếu nước ái dơ làm cho khô cạn.
Lại như mặt trăng tròn xuất hiện hư không làm cho người đáng hóa độ, tâm hoa được khai nở.
Lại như đại địa đều bình đẳng với tất cả, tất cả chúng sanh nương ở nơi đó được tăng trưởng gốc mầm tất cả pháp lành.
Lại như đại phong thổi vô ngại, có thể nhổ trốc tất cả cây lớn kiến chấp.
Như Chuyển Luân Vương du hành thế gian, dùng Tứ nhiếp pháp nhiếp các chúng sanh.
Ta thế nào biết được nói được công đức hạnh ấy.
“South of here is a city called Tosala in a land called Amitatosala. There is
a mendicant named Sarvagamin living there. Go ask him how to learn and
carry out the practice of enlightening beings.”
So then Sudhana paid his respects to Achala and left.
Này thiện nam tử! Phương Nam đây có một đại thành tên là Vô Lượng Ðô Tát La. Trong thành đó có một xuất gia ngoại đạo tên là Biến Hành.
Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo?
Thiện Tài đồng tử đảnh lễ nơi chân Bất Ðộng Ưu bà di, hữu nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng, từ tạ mà đi.
Sarvagamin
His mind on the devotee Achala, remembering her teaching, absorbing
what she had shown him, what she had told him, what she had described to
him, what she had enjofned on him, what she had shared with him, what
she had disclosed to him, what she had set forth to him, following it, reflect-
ing on it, entering into it, cultivating it, embodying it, contemplating it,
clarifying it, living up to it, Sudhana made his way from place to place,
finally reaching the land of Amitatosala. There he sought out and found the
city of Tosala.
Entering the city at sunset, he went from block to block, street to street,
looking for the mendicant Sarvagamin. In the still of the night, he saw a
mountain called Sulabha, north of the city. The mountain peak was adorned
with thickets and groves of various plants and trees and was as bright as the
sun. Seeing that light, Sudhana was ecstatic: he thought to himself, “I will
undoubtedly see the spiritual benefactor on this mountaintop.”
Sudhana went out of the city to the mountain and climbed to the shining
peak, where he saw the mendicant Sarvagamin from afar. The appearance of
the mendicant was superior to that of the great god Brahma, glorious and
radiant; he was walking around surrounded by ten thousand brahmic gods.
Sudhana went up to Sarvagamin, paid his respects, and said, “Noble one, I
Page 1257 – Entry into the Realm of Reality
have set my mind on supreme perfect enlightenment, but I do not know
how an enlightening being is to learn and carry out the practice of enlight-
ening beings. I hear that you give enlightening beings instruction, so please
tell me how to learn and carry out the practice of enlightening beings.”
Thiện Tài Ðồng tử được nghe pháp nơi Bất Ðộng Ưu bà di rồi, chuyên tâm nghĩ nhớ lời dạy thảy đều tin thọ tư duy quán sát, đi lần đến thành Ðô Tát La. Lúc vào thành mặt trời đã lặn, Thiện Tài đi khắp phố phường, khắp các ngã đường tìm Biến Hành.
Thành đông có núi tên là Thiện Ðức. Giửa đêm Thiện Tài thấy đỉnh núi ấy, có cây đồi gộp đều sáng chói như mặt trời mới mọc.
Thiện Tài mừng rỡ nghĩ rằng: Tôi chắc được gặp thiện tri thức nơi núi ấy.
Thiện Tài liền ra khỏi thành lên núi ấy, thấy Biến Hành ngoại đạo, đi kinh hành chậm rải nơi khoảng đất bằng trên núi. Dung sắc viên mãn, oai quang chiếu sáng hơn cả Ðại Phạm Thiên Vương. Có mười ngàn trời Phạm Chúng vây quanh.
Thiện Tài đến đảnh lễ nơi chân Biến Hành, hữu nhiễu vô lượng vòng chắp tay cung kính thưa:
Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo?
Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin vì tôi mà giảng nói:
Sarvagamin said, “It is good that you have set out for supreme perfect
enlightenment. I am established in the enlightening practice of gofng
everywhere, I have attained concentration of all-observing vision, and I am
imbued with the light of knowledge of transcendent wisdom which distin-
guishes all planes of the cosmos without effort, based on nonbeing. In
wandering through all worlds of living beings and inanimate objects, in
wandering through the realms of existence ofall beings, in the occasions of
death of all sentient beings, in the occasions of birth of all sentient beings, in
all kinds of conditions of existence, in the various places of birth, the worlds
and abodes, of sentient beings of various appearances, forms, and sizes,
bound to various kinds of existence, with various aims, wedded to various
views and courses of action, believing in various forms of religion, I work for
the benefit of sentient beings by various means and various applications of
knowledge. Some I help by teaching various worldly arts, by means of the
light of mental command of all kinds of arts. Some I help by charity, kind-
ness, assistance, and cooperation, to lead them to omniscient knowledge.
Some I help by describing the ways of transcendence, generating the light of
knowledge of dedication to omniscience. Some I help by praising the aspira-
tion for enlightenment, producing a basis for preservation of the seed of
enlightenment. Some I help by describing all facets of the practices of
enlightening beings, fostering the commitment to purify all buddha-lands
and perfect all beings. Some I help by frightening them, showing them the
misery and pain resulting from evil actions. Some I help by delighting them,
telling them about the fruit of omniscience ultimately developing from giv-
ing gifts to all buddhas. Some I help by describing the virtues and qualities of
all buddhas, to generate desire for the qualities of buddhas and determina-
tion for omniscience. Some I help by eulogizing the greatness of buddhas, to
generate the desire to embody buddhahood and be eonstantly engaged in
spontaneous, ceaseless buddha-work. Some I help by showing the mastery
of buddhas, to generate the desire to attain supreme buddhahood.
Biến Hành nói:
Lành thay! Lành thay! Này thiện nam tử! Ta đã an trụ chí nhất thiết xứ Bồ Tát hạnh, đã thành tựu phổ quán thế gian tam muội môn, đã thành tựu vô y vô tác thần thông lực, đã thành tựu phổ môn Bát Nhã Ba la mật.
Này thiện nam tử! Ta ở khắp nơi trong thế gian, những hình mạo, những hạnh giải những chết sống, tất cả các loài: Loài Trời, loài Rồng, loài Dạ Xoa, loài Càn Thát Bà, loài A Tu La, loài Ca Lâu La, loài Khẩn Na La, loài Ma Hầu La Già, Ðịa ngục, Súc sanh, Diêm La Vương, loài Phi Nhơn, loài Người.
Tất cả các loài hoặc trụ kiến chấp, hoặc tin Nhị thừa, hoặc có kẻ tin ưa đạo Ðại thừa. Trong tất cả chúng sanh như vậy, ta dùng những phương tiện, những trí môn mà làm lợi ích cho họ.
Như là hoặc vì họ mà diễn nói tất cả kỹ nghệ thế gian cho họ được đầy đủ trí đà la ni tất cả xảo thuật.
Hoặc vì họ mà diễn nói tứ nhiếp phương tiện cho họ đầy đủ đạo Nhứt thiết trí.
Hoặc vì họ mà diễn nói các môn Ba la mật, cho họ hồi hướng về Nhứt thiết trí.
Hoặc vì họ mà tán dương tâm đại Bồ đề, cho họ chẳng mất tâm Vô thượng đạo.
Hoặc vì họ mà tán dương những hạnh Bồ Tát, cho họ được hoàn mãn nguyện tịnh Phật độ, cứu chúng sanh.
Hoặc vì họ mà diễn nói hể tạo nghiệp ác thời bị những khổ báo địa ngục vv… cho họ nhàm lìa những ác nghiệp.
Hoặc vì họ mà diễn nói cúng dường chư Phật trồng các căn lành, quyết định được quả Nhứt thiêt trí, cho họ phát sanh tâm hoan hỷ.
Hoặc vì họ mà diễn nói những công đức của Như Lai Ðẳng Chánh Giác, cho họ thích thân Phật, cầu Nhứt thiết trí.
Hoặc vì họ mà diễn nói oai đức của chư Phật cho họ ưa thích thân bất hoại của Phật.
Hoặc vì họ mà diễn nói thân tự tại của Phật, cho họ cầu thân đại oai đức của Như Lai.
“Furthermore, in every street, every block, every house, every district,
every family and group, I assume forms like the men and women, boys and
girls, and expound the Teaching to them according to their dispositions,
aims, powers, and thoughts; they do not know who is teaching them or
where I am from; they just practice truthfully what they have heard. And I
go everywhere on this continent to those who are immersed in the views of
false doctrines, in order to mature those who cling to various views. And just
as I do so throughout the continent, so also do I work for the benefit of all
beings on earth, in the galaxy, in the universe, in infinite worlds, in the paths
of all beings, in the abodes of all beings, in the thoughts in which all beings
rest, in the groups of all beings, in the masses of all beings, in all races of
beings, among all types of beings, wherever they be, helping them accord-
Page 1258 – The Flower Ornament Scripture
ing to their mentalities and inclinations, through various means, various
methods, various approaches, various efforts, various devices, various expe-
dients, various activities, assuming various forms, and speaking in various
languages.
“I know this enlightening practice of gofng everywhere. How can I know
the practice or tell of the virtues of the enlightening beings with bodies
equal to all beings, who have attained concentration in which their own
bodies and all bodies are indivisible, whose vast sphere of emanation adapts
to all states of existence, who pass through existence in all worlds in their
own bodies, who are intent on mystical profections pleasing to the sight of
all beings, who appear to be born in all races, who carry out their vows
unimpeded in all ages, who can manifest the interrelated cosmic network of
practices, who are devoted to working for the welfare of all beings while liv-
ing together with them without becoming defiled, who realize the basic
equality of the worlds of past, present, and future, who are imbued with end-
less great compassion appearing in the realm of selfless knowledge, who aim
to foster good in all beings?
Lại này thiện nam tử! Trong thành Ðô Tát La này khắp mọi nơi, tất cả tộc loại, trong nhơn chúng hoặc nam hoặc nữ, ta đều dùng phương tiện thị hiện đồng thân hình như họ, để tùy cơ nghi mà thuyết pháp độ họ.
Chúng nhơn ấy đều chẳng biết ta là ai, từ đâu đến, chỉ làm cho người nghe như thiệt tu hành.
Này thiện nam tử! Như sự làm lợc ích chúng sanh trong thành này, khắp cõi Diêm Phù Ðề, những thành ấp tụ lạc chỗ có người ở, ta cũng đều làm lợi ích cho mọi người như vậy.
Này thiện nam tử! Trong Diêm Phù Ðề có chín mươi sáu chúng đều sanh kiến chấp khác nhau. Ở trong những chúng đó, ta phương tiện đều phục cho họ bỏ lìa những kiến chấp.
Như ở Diêm Phù Ðề, ba thiên hạ kia cũng vây.
Như tứ thiên hạ, khắp Ðại Thiên thế giới cũng vậy.
Ðến mười phương vô lượng thế giới các chúng sanh hải, ta đều ở trong đó tùy tâm sở thích của các chúng sanh, dùng những phương tiện, những pháp môn mà hiện những sắc thân dùng các thứ ngôn âm mà vì họ thuyết pháp cho họ được lợi ích.
Này thiện nam tử! Ta chỉ biết” Chí nhất thiết xứ Bồ Tát hạnh” này.
Như chư đại Bồ Tát, thân cùng đồng với số chúng sanh, được cùng chúng sanh không thân sai khác, dùng thân biến hóa, vào khắp các loài, nơi tất cả xứ đều hiện thọ sanh, hiện ở khắp chỗ chúng sanh thanh tịnh quang minh sof sáng thế gian, dùng vô ngại nguyện trụ tất cả kiếp, được những hạnh vô đẳng như đế võng, thường siêng lợi ích tất cả chúng sanh, hằng ở chung với họ mà không chấp trước, khắp tam thế thảy đều bình đẳng, dùng trí vô ngã sof khắp mọi nơi, dùng đại bi tạng quán sát tất cả.
Ta thế nào biết được nói được công đức hạnh đó.
“South of here is a land called Prthurashtra, where there lives an eminent
perfumer named Utpalabhuti. Go ask him how to learn and carry out the
practice of enlightening beings.”
So Sudhana paid his respects to the mendicant Sarvagamin and left.
Này thiện nam tử! Phương nam đây có một nước tên là Quảng Ðại, nơi đó có Trưởng giả buôn hương tân là Ưu Bát La Hoa.
Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?
Thiện Tài đồng nử đảnh lễ nơn chân Biến Hành, hữu nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.
Utpalabhuti
Unconcerned with body and life, unconcerned with any material things,
unconcerned with enjoyment of any people or places, unconcerned with
objects of the senses, unconcerned with enjoying the experiences that go
along with having followers, unconcerned with kingship, dominion, or
power, concerned with developing, guiding, and purifying all sentient
beings, with achieving supreme purity of a buddha-land, with tirelessly
attending and serving all buddhas, with knowing and according with the
inherent nature of all things, with permanently attaining the virtues of all
enlightening beings, with carrying out the vows of enlightening beings
through all ages, with entering the ocean of congregations of all buddhas,
with entering all concentrations of enlightening beings in each particular
mode of concentration by mystic transformation, with tirelessly receiving
the light of knowledge of all truths through the cycles of teachings of all
buddhas, pondering these and other virtues of all enlightening beings,
Sudhana made his way to Prthurashtra, where he sought and found the emi-
nent perfumer Utpalabhuti.
Seeing the perfumer, Sudhana went up to him, paid his respects, and said,
“Noble one, I have set out for supreme perfect enlightenment, seeking the
knowledge common to all buddhas, wishing to fulfill the vows fulfilled by
all buddhas, wishing to see the embodiments of all buddhas, wishing to
attain the reality body of all buddhas, wishing to know the body of knowl-
edge of truths of all buddhas, wishing to purify all enlightening practices,
Page 1259 – Entry into the Realm of Reality
wishing to manifest the sphere of concentration of all enlightening beings, wish-
ing to master the sphere of mental command of all enlightening beings, wishing
to disperse all obstructions, wishing to travel through all lands. But I do not know how an enlightening being is to learn and carry out the practice of enlightening beings. How does an enlightening being gain access to omniscience?”
Nhờ thiện tri thức dạy bảo, Thiện Tài chẳng đoái thân mạng, chẳng ham của báu, chẳng thích nhơn chúng, chẳng mê ngũ dục, chẳng luyến quyến thuộc, chẳng trọng ngôi vua.
Chỉ nguyện cứu độ tất cả chúng sanh, chỉ nguyện nghiêm tịnh tất cả Phật độ, chỉ nguyện cúng dường tất cả chư Phật, chỉ nguyện chứng biết thật tánh của các pháp, chỉ biết nguyện tu tập biển công đức lớn của tất cả của Bồ Tát, chỉ nguyện tu hành tất cả công đức trọn không thối chuyển, chỉ nguyện hằng ở trong tất cả kiếp dùng đại nguyện lực tu Bồ Tát hạnh, chỉ nguyện vào khắp tất cả chư Phật chúng hội đạo tràng, chỉ nguyện nhập một môn tam muội mà hiện khắp tất cả môn tam muội tự tại thần lực, chỉ nguyện ở trong một lỗ lông của Phật, thấy tất cả Phật tâm không nhàm đủ, chỉ nguyện được tất cả pháp trí huệ quang minh, có thể thọ trì pháp tạng của chư Phật.
Thiện Tài chuyên cầu công đức của tất cả chư Phật và Bồ Tát như vậy, đi lần qua thành Quảng Ðại, đến chỗ Trưởng giả Ưu Bát La Hoa, đảnh lễ chân Trưởng giả hữu nhiễu vô lượng vòng, chắp tay cung kính thưa rằng:
Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề muốn cầu trí huệ bình đẳng của tất cả Phật. Muốn đủ vô lượng đại nguyện của tất cả Phật. Muốn tịnh sắc thân tối thượng của tất cả Phật. Muốn thấy pháp thân thanh tịnh của tất cả Phật. Muốn biết trí thân quảng đại của tất cả Phật. Muốn tịnh trị những hạnh của tất cả Bồ Tát. Muốn chiếu sáng tam muội của tất cả Bồ Tát. Muốn an trụ tổng trì của tất cả Bồ Tát. Muốn diệt trừ tất cả chướng ngại. Muốn du hành tất cả thế giới mười phương. Mà tôi chưa biết thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo, để có thể xuất sanh Nhứt thiết chủng trí.
Utpalabhuti said, “It is good that you aspire to supreme perfect enlighten-
ment. I know about all fragrances — perfumes, incenses, ofntments, and
aromatic powders — and how they are compounded and used. I also know
the sources of all fragrances. I know celestial fragrances, and I also know the
fragrances of other types of beings, human and nonhuman. Indeed, I know
various kinds of fragrances. I know fragrances that cure illness, I know fra-
grances that remove depression, I know fragrances that produce mundane
joy, I know fragrances that incite passions, I know fragrances that extinguish
passions, I know fragrances that produce pleasure in enjoyment of various
created things, I know fragrances that produce rejection of all created
things, I know fragrances that remove arrogance and heedlessness, I know
fragrances that produce thoughts of Buddha, I know fragrances that accord
with the principles of the Teaching, fragrances enjoyable to sages, the vari-
ety of fragrances of enlightening beings, and the fragrances of the
arrangement of all stages of enlightening beings. I also know the external
appearance of all these fragrances, as well as their source, production, mani-
festation, perfection, purification, removal, application, use, sphere of
action, efficacy, nature, and root.
“In the human world there is a fragrance said to come from the agitation
of water spirits: one grain the size of a sesame seed will cause this whofe
country to be covered with fragrant clouds that shower fine fragrant rain for
seven days. Those on whose bodies or clothing that fragrant water falls
become as brilliant as golden flowers, and any houses or buildings on which
it falls become as brilliant as golden flowers. And any who smell the scent of
that fragrant water wafting in on the breeze become ecstatic for seven days
and experience many kinds of physical and mental pleasure and delight. Fur-
thermore, no illness — whether due to constitutional upset or external
trauma — occurs in their bodies, nor do they suffer any mental distress or
depression, nor do they have any fear, anxiety, fright, agitation, or ill will.
They become kind to one another, happy, and joyful. When they have
become happy and joyful, I begin to purify their minds and teach them in
such a way that they become certain of supreme enlightenment.
“There is a kind of sandalwood that comes from the mountains which
will profect those anotnted with its essence from burning even if they fall
into a fire. The sound of kettledrums or conches smeared with it will drive
away all enemy armies. There is a kind of aloe called ‘lotus calyx’ from the
banks of the lake Heatless; a grain of it the size of a sesame seed will fill the
whofe continent with fragrance such that all who smell it gain a disciplined
mind rejecting evil. There is a kind of fragrance from the Himalaya Moun-
tains which is such that all who smell it become dispassionate; then I teach
Page 1260 – The Flower Ornament Scripture
them in such a way that they attain a concentration called ‘sphere of
dispassion.’ There is a kind of fragrance from the world of spirits called
‘ocean storehouse’ which is produced for the use of sovereign rulers; per-
fumed by it, the ruler and the ruler’s armies stand in the sky. There is a kind
of incense called ‘beautiful array’ originating in the celestial hall of the good
doctrine; when it is burned, celestial beings gain awareness of the scent of
enlightenment. There is a kind of incense from the pure treasuries in the
palace of the heaven of timely portion; when it is burned, inhabitants of that
heaven all go to the ruler of the heaven of timely portion, who then talks to
them about the Teaching. There is a kind of incense in the heaven of satis-
faction which, when burned before an enlightened being destined to
become a buddha in one lifetime who is sitting on the throne of the Teach-
ing, fills the whofe cosmos at once with a great fragrant cloud and causes
rain from the great cloud of the Teaching to shower in many arrays on the
audiences of all buddhas. There is a kind of incense called ‘fascinating’ in the
palace of the king of the heaven of beautiful emanations which, when
burned, causes rain to shower from the cloud of the inconceivable Teaching
for seven days.
“I know this art of perfuming. How can I know the practice, tell of the
virtues, elucidate the method of purification of conduct, convey the irre-
proachable action, or explain the malice-free words, thoughts, and deeds of
the enlightening beings who are free from foulness, who are vofd of lusts,
who are free from the snares of the demon of afflictions, who have tran-
scended all conditions of existence, who proceed with material form as
being something in the magic of knowing, who are unstained by any world,
whose way of life is free from attachment, who have purified the sphere of
unobstructed knowledge, who are in the realm of unimpeded knowledge,
who do not take refuge in any abode or rely on anything in existence?
Trưởng giả nói:
Lành thay, Lành thay! Thiện nam tử có thể phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Này thiện nam tử! Ta khéo biết rõ tất cả những thứ hương, cũng biết phương pháp điều hiệp tất cả thứ hương. Như là tất cả thứ hương, tất cả hương đốt, tất cả hương thoa, tất cả hương bột.
Ta cũng biết chỗ xuất sanh tất cả thứ hương như vậy.
Ta lại khéo biết Thiên hương, Long hương, Dạ Xoa hương, Càn Thát Bà hương, A Tu La hương, Ca Lâu La hương, Khẩn Na La hương, Ma Hầu La Già hương, Nhơn hương, Phi Nhơn hương.
Ta lại khéo biết các thứ hương trị bịnh. Như là hương dứt ác, hương sanh hoan hỷ, hương thêm phiền não, hương diệt phiền não, hương làm cho ở nơi pháp hữu vi sanh ưa mến, hương làm cho sanh lòng nhàm lìa pháp hữu vi, hương bỏ những kiêu mạn phóng dật, hương phát tâm niệm Phật, hương chứng hiểu pháp môn, hương Thánh thọ dụng, hương tất cả Bồ Tát sai biệt, hương tất cả địa vị Bồ Tát. Các thứ hương như vậy, hình tướng sanh khởi, xuất hiện thành tựu cảnh giới phương tiện thanh tịnh an ổn, oai đức nghiệp dụng và cùng căn bổn, ta đều biết rõ cả.
Này thiện nam tử! Ở nhơn gian có thứ hương tên là Tượng Tạng, nhơn rồng đấu nhau mà sanh. Nếu đốt một hoàn, liền nổi mây hương che trùm vương đô, trong bảy ngày mưa thơm pháy pháy. Nếu đeo trên thân thời thân thành màu chơn kim. Nếu giắt trong y phục, cung điện, lầu gác, cũng đều màu chơn kim. Nếu gió thổi vào trong cung điện, chúng sanh ngửi được, thời trọn bảy ngày đêm hoan hỷ thơ thới, khoái lạc không bịnh chẳng xâm hại nhau, lìa các ưu khổ, chẳng kinh chẳng sợ, chẳng loạn chẳng giận, thương mến nhau, chí ý thanh tịnh. Ta biết như vậy rồi bèn vì họ mà thuyết pháp, cho họ quyết định phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Này thiện nam tử! Núi Ma la Gia xuất sanh chiên đàn hương tên là Ngưu Ðầu. Nếu dùng hương này thoa trên thân, thời dầu vào hầm lửa cũng chẳng bị cháy.
Này thiện nam tử! Trong biển có hương tên là Vô Năng Thắng, nếu đem thoa trống và các loa ốc, lúc phát tiếng lên thời tất cả quân địch đều tự thối tán.
Này thiện nam tử! Ở bên ao A Nậu Ðạt xuất sanh trầm thủy hương tên là Liên Hoa Tạng, nếu đốt chừng bằng hạt mè, thời hơi hương lan khắp Diêm Phù Ðề chúng sanh ngửi hương này thời lìa tất cả tội, giới phẩm thanh tịnh.
Này thiện nam tử! Núi Tuyết có hương tên là A Lô Na, nếu có chúng sanh ngửi hương này thời tâm họ quyết định lìa những nhiễm trước, ta vì họ mà thuyết pháp, tất cả đều được ly cấu tam muội.
Này thiện nam tử! Trong cõi La Sát có thứ hương tên là Hải Tạng. Hương này chỉ có Chuyển Luân Vương được dùng. Nếu đốt một viên hương này để xông, thời Vương và bốn bộ binh đều bay đi trên không.
Này thiện nam tử! Trong Trời Thiện Pháp có thứ hương tên là Tịnh Trang Nghiêm, nếu đốt lên một viên, liền khiến khắp chư Thiên đều niệm Phật.
Này Thiện Nam Tử! Trời Dạ Ma có thứ hương tên là Tịnh Tạng, nếu đốt lên một viên, thời tất cả trời Dạ Ma đều vân tập đến chỗ Dạ Ma Thiên Vương để nghe pháp.
Này thiện nam tử! Trong trời Ðâu Suất có thứ hương tên là Tiên Ðà Bà, nếu đốt lên một viên trước chỗ ngồi của đức Nhứt sanh bổ xứ Bồ Tát, thời nổi mây hương lớn khắp pháp giới, khắp mưa tất cả những đồ cúng dường, để cúng dường tất cả chư Phật, Bồ Tát.
Này thiện nam tử! Cõi trời Thiện Biến Hóa có thứ hương tên là Ðoạt Ý nếu đốt lên một viên thời trong bảy ngày khắp mưa tất cả những đồ trang nghiêm.
Này thiện nam tử! Ta chỉ biết phương pháp điều hòa các thứ hương đây.
Như chư đại Bồ Tát xa lìa tất cả tập khí của các pháp, chẳng nhiễm thế dục, dứt hẳn nơm rọ của chúng ma phiền não, thoát khỏi cõi hữu lậu, dùng hương trí huệ để tự trang nghiêm. Nơi các thế gian đều không nhiễm trước. Thành tựu đầy đủ giới vô trước, thanh tịnh trí vô trước, đi trong cảnh vô trước, ở tất cả xứ đều không chấp trước. Tâm của các Ngài bình đẳng, không chấp trước, không y tựa.
Ta thế nào biết được diệu hạnh đó, nói được công đức đó, hiểu được giới môn thanh tịnh của các Ngài, thị được công hạnh không sai lầm của các Ngài làm, biện được thân khẩu ý lìa nhiễm của các Ngài.
“South of here is a city called Kutagara, where there lives a mariner
named Vaira. Go ask him how to learn and carry out the practice of
enlightening beings.”
So then Sudhana paid his respects to Utpalabhuti and left.
Này thiện nam tử! Phương Nam đây có một thành lớn tên là Lâu Các, trong thành có một người lái thuyền tên là Bà Thi La.
Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?
Thiện Tài đồng tử đảnh lễ nơi chân Trưởng giả, Ưu Bát La Hoa, hữu nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.
Vaira
On the way to the city Kutagara, Sudhana observed where the road was vari-
ously low and high, even and uneven, dusty and dust-free, safe and perilous,
impassable and unobstructed, crooked and straight. As he went along he
thought, “My gofng to that spiritual benefactor will be a means of accom-
plishment of the path of enlightening beings, a means of accomplishment of
the path of knowledge to assist sentient beings; it will be a means of accom-
plishment of the path of transcendence, a means of accomplishment of the
path of knowledge to assist sentient beings. It will become a means of stop-
ping all beings from falling into attachment and rejection, arrogance and
servility; a means of turning all beings away from bad inclinations; a means
of ridding all beings of the dust of afflictions; a means of removing the
Page 1261 – Entry into the Realm of Reality
thorns and grit of wrong views from all sentient beings; a means of absorp-
tion in the unobstructed reality realm; a means of leading to the eternal
citadel of omniscience. Why is that? Spiritual benefactors are mines of all
that is good, sources of omniscience.”
With these thoughts in mind, with a purpose rarely encountered, he
made his way to Kutagara city looking for the mariner Vaira. When he got
there, he saw the mariner surrounded by hundreds of thousands of mer-
chants and hundreds of thousands of other people who wished to hear him
talk, explaining to them the oceans of virtues of buddhas by talking about
the ocean.
Sudhana went up to Vaira, paid his respects, and said, “Noble one, I have
set my mind on supreme perfect enlightenment, but I do not know how to
learn and carry out the practice of enlightening beings. I hear that you give
enlightening beings instruction, and I hope you will tell me how one is to
learn and carry out the practice of enlightening beings.”
Bấy giờ Thiện Tài đi về phía thành Lâu Các, quán sát đường sá. Như là xem đường cao thấp, xem đườngg bằng hiễm, đường sạch dơ, đường cong ngay. Tự nghĩ rằng: Tôi phải thân cận thiện tri thức đó. Thiện tri thức là nhơn thành tựu tu hành những đạo Bồ Tát, là nhơn thành tựu tu hành đạo Ba la mật, là nhơn thành tựu tu hành đạo nhiếp chúng sanh, là nhơn thành tựu tu hành đạo vào khắp pháp giới vô ngại, là nhơn thành tựu tu hành đạo khiến tất cả chúng sanh trừ ác huệ, là nhơn thành tựu tu hành đạo khiến các chúng sanh lìa kiêu mạn, là nhơn thành tựu tu hành đạo khiến các chúng sanh diệt trừ phiền não, là nhơn thành tựu tu hành đạo khiến tất cả chúng sanh bỏ những kiến chấp, là nhơn thành tựu tu hành đạo khiến các chúng sanh nhỗ tất cả gai ác độc, là nhơn thành tựu tu hành đạo khiến tất cả chúng sanh đến thành Nhứt thiết trí.
Tại sao vậy?
Vì ở chỗ thiện tri thức được tất cả thiện pháp. Vì nương sức thiện tri thức được đạo Nhứt thiết trí.
Thiện tri thức rất là khó thấy khó gặp.
Thiện Tài đồng tử suy nghĩ như vậy, đi lần đến thành Lâu Các, thấy Bà Thi La đương đứng trên bở biển ở ngoài cửa thành. Trăm ngàn thương gia và vô lượng nhơn chúng vây quanh ông.
Bà Thi La vì họ mà nói đại hải pháp phương tiện khai thị Phật công đức hải.
Thiện Tài đến lễ chân Bà Thi La hữu nhiễu vô lượng vòng, chắp tay cung kính thưa rằng:
Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?
Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo. Xin vì tôi mà nói.
Vaira said, “It is good that you aspire to supreme perfect enlightenment
and ask about the means of attaining great knowledge, about the cause of
the various miseries of the mundane whirl, about the means of arriving at
the island of omniscience, about the means of producing the indestructible
vehicle of universal salvation, about the means of attaining the path lead-
ing away from the danger of falling into the state of individual liberation,
about the source of the path of knowledge of the way to attain all kinds of
tranquil concentrations, about the source of the unobstructed path of the
chariot of vows carrying the practice of enlightening beings which goes
everywhere, about the means of development and purification of the path
guided by the nature of enlightening practice adorned with all waves of
energy, about the means of development and purification of the endless
path facing all things, the means of development and purification of the
path into the ocean of omniscience.
“I live in this coastal metropofis of Kutagara, purifying enlightening prac-
tice characterized by great compassion. Observing those on this continent
who are poor, I practice such spiritual exercises as will cause their wishes to
be fulfilled: I will take care of their mundane needs, and I will satisfy them
with spiritual enjoyments; I will teach them the way to accumulate virtue, I
will foster knowledge in them, I will promote the growth of the power of
roots of goodness, I will inspire them to seek enlightenment, I will purify
their aspiration for enlightenment, I will firmly establish their power of
great compassion, I will get them to extinguish the misery of the mundane
whirl, I will firmly establish their power to act in the mundane world with-
out tiring, and I will get them to care for all living beings. I will set them at
the gate of entry into the ocean of virtue, I will produce in them the light of
knowledge of the ocean of truths, I will turn them toward the ocean of all
buddhas, and I will plunge them into the ocean of omniscience.
“With these thoughts in mind I roam this city on the edge of the ocean.
Thus committed to the welfare and happiness of the world, I know all the
treasure islands in the ocean. I know all the deposits of precious substances.
Page 1262 – The Flower Ornament Scripture
all the types of precious substances, and all the sources of precious sub-
stances. I know how to refine, bore out, extract, and produce all precious
substances, and I know all precious vessels, toofs, and objects, and the light
of all precious substances. I know the abodes of all water spirits, the agita-
tions of all water spirits, the abodes of all sprites, the agitations of all sprites,
the abodes of all goblins, how to alleviate the danger of goblins, the abodes
of all ghosts, and how to put an end to obstacles caused by ghosts. I know
how to avofd all the whirlpoofs and billows, and I know the cofors and
depths of all the waters. I know the cycles of the sun, moon, stars, and plan-
ets, and the lengths of the days and nights. I know when to travel and when
not to; I know when it is safe and when it is dangerous. I know the perform-
ance and soundness of the hull and rigging of ships. I know how to controf
and steer ships, I know how to catch the wind, I know where the winds rise
from, I know how to direct the ship and how to turn it around, I know when
to anchor and when to sail.
“With this knowledge, always engaged in working for the benefit of
beings, with a sturdy ship, safe, peaceful, without anxiety, I convey mer-
chants to the treasure islands of their chofce, pleasing them with spiritual
conversation. Having enriched them with all kinds of jewels, I bring them
back to this continent. And I have never lost a single ship. All who see me or
hear my spiritual instruction are freed from all fears of sinking in the ocean
of the mundane whirl; they become aware of the knowledge of how to go
into the ocean of omniscience, they learn how to evaporate the ocean of
craving, they are illumined with knowledge of the ocean of past, present,
and future, they become capable of annihilating the ocean of suffering of all
sentient beings, they undertake to clear the turbidity of the ocean of minds
of all sentient beings, they begin the herofc effort to purify the ocean of all
lands, they never turn back from gofng throughout the ocean of all places,
they penetrate the variety in the ocean of faculties of all sentient beings, they
adapt to the ocean of actions of all sentient beings, and they appear in the
ocean of the world intentionally according to the mental set.
“I have attained this enlightening liberation which is characterized by
great compassion and the sound of flowing water, and it is beneficial to see
me, hear me, live with me, and remember my name; but how can I know the
practice or tell of the virtues of the enlightening beings who traverse all the
oceans of the mundane whirl, who are unaffected by the ocean of afflictions,
who are free from the danger of being engulfed by the ocean of views, who
travel the water of inherent nature of the ocean of all phenomena, who
travel the ground of inherent nature of the ocean of all beings, who hold the
net of means of salvation of all creatures from the oceans of the mundane,
who abide in the ocean of omniscience, who pull all sentient beings out of
the ocean of attachments, who remain continuously through the ocean of
all times, who have true higher knowledge to perfect the ocean of all sen-
tient beings, who do not miss the right occasions to guide the ocean of all
sentient beings?
Bà Thi La nói:
Lành thay, lành thay! Thiện nam tử đã có thể phát tâm Vô thượng Bồ đề nay lại có thể hỏi nhơn duyên sanh đại trí, nhơn duyên dứt trừ tất cả khổ sanh tử, nhơn duyên đến châu đại bửu nhất thiết trí.
Nhơn duyên thành tựu đại thừa bất hoại. Nhơn duyên xa lìa sự bố úy sanh tử an trụ trong những vòng tam muội tịch tịnh của hàng Nhị thừa. Nhơn duyên ngồi xe đại nguyện đi khắp mọi nơi thật hành Bồ Tát hạnh vô ngại thanh tịnh. Nhơn duyên dùng Bồ Tát hạnh trang nghiêm nhất thiết trí thanh tịnh. Nhơn duyên quán sát khắp tất cả các pháp mười phương đều vô ngại thanh tịnh. Nhơn duyên mau có thể xu nhập biển nhất thiết trí thanh tịnh.
Này thiện nam tử! Ta ở trong đường trên bờ biển ngoài cửa thành Lâu Các này mà tịnh tu hạnh Bồ Tát đại bi tràng.
Này thiện nam tử! Ta xe thấy chúng sanh nghèo cùng ở Diêm Phù Ðề này mà tu các khổ hạnh để lợi ích họ. Làm cho họ được thỏa mãn theo sở nguyện của họ. Trước đem thế lợi cho họ được đầy đủ rồi ban cho họ chánh pháp, cho họ hoan hỷ, cho họ tu phước hạnh, cho họ đạo sanh trí, cho họ thêm sức thiện căn, cho họ phát Bồ đề tâm, cho họ tịnh Bồ đề nguyện, cho họ vững chắc sức đại bi, cho họ tu đạo diệt sanh tử, cho họ chẳng nhàm hạnh sanh tử, cho họ nhiếp tất cả chúng sanh hải, cho họ tu tất cả công đức hải, cho họ chiếu rõ tất cả pháp hải, cho họ thấy tất cả Phật hải, cho họ vào Nhứt thiết chủng trí hải.
Này thiện nam tử! Ta ở nơi đây suy gẫm như vậy, nghĩ tưởng như là, lợi ích như vậy, cho tất cả chúng sanh.
Này thiện nam tử! Ta biết trong biển, tất cả đảo châu báu, tất cả chỗ có châu báu, tất cả loại châu báu, tất cả thứ châu báu. Ta biết trao dồi tất cả châu báu, xof xỏ tất cả châu báu, sản xuất tất cả châu báu, làm tất cả châu báu. Ta biết tất cả bửu khí, tất cả bửu dụng, tất cả bửu cảnh giới, tất cả bửu quang minh. Ta biết tất cả chỗ cung điện của rồng, tất cả chỗ cung điện của Dạ Xoa, tất cả chỗ cung điện của Bộ Ða. Ta đều khéo xa tránh những chỗ đó để khỏi những tai nạn. Ta cũng biết rõ chỗ nước xoáy, chỗ cạn sâu sóng mòi xa gần, màu nước tốt xấu. Ta cũng biết rõ nhựt, nguyệt, tinh tú vận hành độ số, ngày đêm sớm chiều, thời tiết dài ngắn. Ta cũng biết rõ trên thuyền, sắt, gỗ, cứng chắc, mềm yếu, máy móc rít trơn, nước lớn nhỏ, gió nghịch thuận. Tất cả những sự tướng an nguy như vậy, ta đều biết rõ cả, nên đi thời đi, nên đậu thời đậu.
Này thiện nam tử! Ta dùng trí huệ đã thành tựu đó để thường lợi ích tất cả chúng sanh.
Này thiện nam tử! Ta dùng thuyền tốt chở các thương gia đi đường yên ổn, lại thuyết pháp cho họ hoan hỷ. Ta đưa họ đến chỗ châu báu, cho họ đầy đủ châu báu. Rồi ta đưa họ về bổn xứ.
Này thiện nam tử! Ta đem thuyền lớn qua lại như vậy, chưa có lần nào bị tổn thất.
Nếu ai thấy thân ta, nghe ta thuyết pháp, thời họ trọn chẳng còn sợ biển sanh tử, mà được vào biển nhất thiêt trí, tất có thể tiêu diệt những biển ái dục, có thể dùng trí quang chiếu sáng biển tam thế, có thể làm hết biển khổ của tất cả chúng sanh, có thể làm sạch tâm hải của tất cả chúng sanh, có thể nghiêm tịnh tất cả sát hải, có thể qua đến khắp biển lớn mười phương, có thể biết khắp căn hải của tất cả chúng sanh, rõ biết khắp hạnh hải của tất cả chúng sanh, có thể thuận khắp tâm hải của tất cả chúng sanh.
Này thiện nam tử! Ta chỉ được đại bi tràng hạnh này.
Nếu cò ai thấy ta, nghe đến ta, cùng ta đồng ở, nhớ tưởng đến ta, thời đều chẳng phí uổng.
Như chư đại Bồ Tát khéo du hành trong biển lớn sanh tử, chẳng nhiễm tất cả những biện phiền não, có thể bỏ tất cả những biển vọng kiến, có thể quán sát những biển pháp tánh, có thể dùng tứ nhiếp để nhiếp biển chúng sanh, đã khéo an trụ biển nhất thiết trí, có thể diệt trừ biển chấp trước của tất cả chúng sanh, có thể bình đẳng trụ nơi biển tất cả thời gian, có thể dùng thần thông độ biển chúng sanh, có thể theo thời nghi điều phục biển chúng sanh.
Ta thế nào biết được nói được công đức hạnh đó.
“South of here is a city called Nandihara. An eminent man named
Page 1263 – Entry into the Realm of Reality
Jayoftama lives there. Go ask him how to learn and carry out the practice of
enlightening beings.”
Then Sudhana paid his respects and reluctantly left the mariner Vaira.
Này thiện nam tử! Phương Nam đây có thành tên là khả Lạc. Trong thành ấy có Trưởng giả tên là Vô Thượng Thắng.
Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo?
Thiện Tài đồng tử đảnh lễ nơi chân Bà Thi La, hữu nhiễu vô lượng vòng, buồn khóc rơi lệ, ân cần chiêm ngưỡng, tâm thiết tha cầu thiện tri thức từ ta mà đi.
Sources:
Tài liệu tham khảo: