Phẩm 39a: Nhập Pháp Giới (Phần trên) – Entry into the Realm of Realit – Song ngữ

The Avatamsaka Sutra

The Flower Ornament Scripture – (The Flower Garland Sutra)

Kinh Hoa Nghiêm

English: Thomas Cleary – 1984.

Việt ngữ: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh – PL 2527 – 1983.

Compile: Lotus group.

39a. Book Thirty-Nine (a): Entry into the Realm of Reality – (MsW: 1135 – 1198)

39a. Phẩm 39a: Kinh Hoa Nghiêm – Nhập Pháp Giới (Phần trên) – (Hán bộ quyển 60 – 70) – Song ngữ

 

Thus, have I heard. At one time the Blessed One was in Sravasti, in a mag-

nificent pavilion in the garden of Anathapindada in the Jeta grove, together

with five thousand enlightening beings, led by Samantabhadra, the univer-

sally good enlightening being, and Manjushri. The names were Endowed

with Perspicacious Knowledge, Endowed with Essential Knowledge,

Endowed with Unattached Knowledge, Endowed with Blossoming

Knowledge, Endowed with Sunlike Knowledge, Endowed with Moonlike

Knowledge, Endowed with Undefiled Knowledge, Endowed with Ada-

mantine Knowledge, Endowed with Unemofional Knowledge, Endowed

with Radiant Knowledge, Starlike, Mountainlike, Jewellike, Unattached,

Flowerlike, Undefiled, Sunlike, Resplendent, Dispassionate, Radiant, Jewel

Energy, Great Energy, Knowledge Thunderboft Energy, Undefiled Energy,

Energy of the Sun of Truth, Virtue Mountain Energy, Energy of the Light of

Knowledge, Universal Glorious Energy, Universal Light Energy, Earth

Matrix, Sky Matrix, Lotus Calyx, Jewel Matrix, Sun Matrix, Matrix of Vir-

tues, Matrix of the Ocean of Truths, Matrix of Radiance, Matrix of

Origination, Matrix of Lotus Splendor, GoodEye, Pure Eye, Undefiled Eye,

Unobstructed Eye, All-Seeing Eye, Perceptive Eye, Observant Eye, Lotus

Eye, Adamantine Eye, Jewel Eye, Space Eye, Universal Eye, Celestial

Crown, Crown of jewels Which Give Birth to All Buddhas, Crown Beyond

All Worlds, All-illumining Crown, Invincible Crown, Crown of Jewels

Illuminating All Things in the Cosmos, Crown of the Essence of Enlighten-

ment, Radiant Crown, Crown of jewels Hiset with the Lion Thrones of All

Buddhas, Crown Illuminating the Space of the Whofe Cosmos, Crest of

Lord Brahma, Crest of the Lord of Dragons, Crest of Lights Emanated by

All Buddhas, Crest of the Essence of Enlightenment, Crest of Most Excel-

lent Jewels of the Sound of the Ocean of All Vows, Crest of a Spew of jewels

Emanating the Halos of All Buddhas, Crest Adorned with Jewels Showing

the Nondifferentiation of All Surfaces of Space, Crest Covered with a Net

of the Finest Jewels Representing the Lights Magically Produced by All

Buddhas, Crest of Sounds of the Wheel of Teaching of All Buddhas, Crest

Uttering the Names of Everything in Past, Present, and Future, Great Light,

Undefiled Light, Light of Undefiled Energy, Jewel Light, Dispassionate

 

Page 1135 – 1136 – The Flower Ornament Scripture

 

Light, Star Light, Light of Truth, Light of Peace, Sun Light, Magical Light,

Celestial Light, Torch of Virtue, Torch of Knowledge, Torch of Truth,

Torch of Superknowledge, Torch of Light, Flower Torch, Torch of Enlight-

enment, Torch of Brahma, Torch of Universal Illumination, Jewel Torch,

Brahma Sound, Ocean Sound, Earth Roaring Sound, Voice of a World

Leader, Sound of Mountains Cofliding, Voice Pervading All Universes,

Sound Emitted by the Ocean of All Universes, Sound of Crushing All

Armies of Demons, Sound Emitted by All Didactic Devices of Great Com-

passion, Sound of Stopping the Sufferings of All Worlds and Giving

Comfort, Born of Truth, Born of Excellence, Born of Knowledge, Born of a

Polar Mountain of Virtue, Born of Radiance of Virtues, Born of Splendor,

Born of Universal Illumination, Born of Great Kindness, Born of a Store of

Knowledge, Born of the Family of Buddhas, Glowing Splendor, Preemi-

nent Splendor, Exalted Splendor, Radiant Splendor, Splendor of Truth,

Splendor of the Moon, Splendor of the Sky, Jewel Splendor, Splendor of

Brilliance, Splendor of Knowledge, Mountain Lord, Lord of Truth, Lord of

the World, Lord Brahma, Lord of the Masses, Lord of Gods, Lord of Peace,

Immutable Lord, Mighty Lord, Eminent Lord, Supremely Tranquil Voice,

Unobstructed Voice, Voice of Earth, Voice of the Ocean, Voice of Thunder,

Voice of the Light of Truth, Voice of Space, Voice of the Roots of Goodness

of All Beings, Voice of Encouragement of All Past Vows, Jewel Awareness,

Knowing Awareness, Spacelike Awareness, Unattached Awareness,

Undefiled Awareness, Purified Awareness, Awareness of All Times, Power-

ful Awareness, All-Observing Awareness, Awareness of Ways to the Reality

Realm.

Bấy giờ đức Thế Tôn ở nước Thất La Phiệt, trong trùng các Ðại Trang Nghiêm, tại rừng Thệ Ða, vườn Cấp Cô Ðộc.

Câu hội với năm trăm đại Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát và Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát làm thượng thủ. Tên của các ngài là:

Quang Diệm Tràng Bồ Tát, Tu Di Tràng Bồ Tát, Bửu Tràng Bồ Tát, Vô Ngại Tràng Bồ Tát, Hoa Tràng Bồ Tát, Ly Cấu Tràng Bồ Tát, Nhựt Tràng Bồ Tát, Diệu Tràng Bồ Tát, Ly Trần Tràng Bồ Tát, Phổ Quang Tràng Bồ Tát, Ðịa Oai Lực Bồ Tát, Bửu Oai Lực Bồ Tát, Kim Cang Trí Oai Lực Bồ Tát, Ly Trần Cấu Oai Lực Bồ Tát, Chánh Pháp Nhựt Oai Lực Bồ Tát, Công Ðức Sơn Oai Lực Bồ Tát, Trí Quang ảnh Oai Lực Bồ Tát, Phổ Kiết Tường Oai Lực Bồ Tát, Ðịa Tạng Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Liên Hoa Tạng Bồ Tát, Tịnh Ðức Tạng Bồ Tát, Pháp Ấn Bồ Tát, Quang Minh Tạng Bồ Tát, Tê Tạng Bồ Tát, Liên Hoa Ðức Tạng Bồ Tát, Thiện Nhãn Bồ Tát, Tịnh Nhãn Bồ Tát, Ly Cấu Nhãn Bồ Tát, Vô Ngại Nhãn Bồ Tát, Phổ Hiền Nhãn Bồ Tát, Phổ Quán Nhãn Bồ Tát, Thanh Liên Hoa Nhãn Bồ Tát, Kim Cang Nhãn Bồ Tát, Bửu Nhãn Bồ Tát, Hư Không Nhãn Bồ Tát, Hỉ Nhãn Bồ Tát, Phổ Nhãn Bồ Tát, Thiên Quan Bồ Tát, Phổ Chiếu Pháp Giới Trí Huệ Quan Bồ Tát, Ðạo Tràng Quan Bồ Tát, Phổ Chiếu Thập Phương Quan Bồ Tát, Nhứt Thiết Phật Tạng Quan Bồ Tát, Siêu Xuất Nhứt Thiết Thế Gian Quan Bồ Tát, Phổ Chiếu Quan Bồ Tát, Bất Khả Hoại Quan Bồ Tát, Trì Nhứt Thiết Như Lai Sư Tử Toà Quan Bồ Tát, Phổ Chiếu Pháp Giới Hư Không Quan Bồ Tát, Phạm Vương Kế Bồ Tát, Long Vương Kế Bồ Tát, Nhứt Thiết Hoá Phật Quang Minh Kế Bồ Tát, Ðạo Tràng Kế Bồ Tát, Nhứt Thiết Nguyện Hải Âm Bửu Vương Kế Bồ Tát, Nhứt Thiết Phật Quang Minh Ma Ni Kế Bồ Tát, Thị Hiện Nhứt Thiết Hư Không Bình Ðẳng Tướng Ma Ni Vương Trang Nghiêm Kế Bồ Tát, Thị Hiện Nhứt Thiết Như Lai Thần Biến Ma Ni Vương Tràng Võng Thuỳ Phúc Kế Bồ Tát, Xuất Nhứt Thiết Phật Chuyển Pháp Luân Âm Kế Bồ Tát, Thuyết Tam Thế Nhứt Thiết Danh Tự Âm Kế Bồ Tát, Ðại Quang Bồ Tát, Ly Cấu Quang Bồ Tát, Diệm Quang Bồ Tát, Pháp Quang Bồ Tát, Tịch Tịnh Quang Bồ Tát, Nhựt Quang Bồ Tát, Tự Tại Quang Bồ Tát, Thiên Quang Bồ Tát, Phước Ðức Tràng Bồ Tát, Trí Huệ Tràng Bồ Tát, Thần Thông Bồ Tát, Quang Tràng Bồ Tát, Hoa Tràng Bồ Tát, Ma Ni Tràng Bồ Tát, Bồ Ðề Tràng Bồ Tát, Phạm Tràng Bồ Tát, Phổ Quangtràng Bồ Tát, Phạm Âm Bồ Tát, Hải Âm Bồ Tát, Ðại Ðịa Âm Bồ Tát, Thế Chủ Âm Bồ Tát, Sơn Tướng Kích Âm Bồ Tát, Biến Nhứt Thiết Pháp Giới Âm Bồ Tát, Chấn Nhứt Thiết Pháp Hải Lôi Âm Bồ Tát, Hàng Ma Âm Bồ Tát, Ðại Bi Phương Tiện Vân Lôi Âm Bồ Tát, Tức Nhứt Thiết Thế Gian Khổ An Uỷ Âm Bồ Tát, Pháp Thượng Bồ Tát, Thắng Thượng Bồ Tát, Trí Thượng Bồ Tát, Phước Ðức Tu Di Thượng Bồ Tát, Công Ðức San Hô Thượng Bồ Tát, Danh Xưng Thượng Bồ Tát, Phổ Quang Thượng Bồ Tát, Trí Hải Thượng Bồ Tát, Phật Chủng Thượng Bồ Tát, Quang Thắng Bồ Tát, Ðức Thắng Bồ Tát, Thượng Thắng Bồ Tát, Phổ Minh Thắng Bồ Tát, Pháp Thắng Bồ Tát, Nguyệt Thắng Bồ Tát, Hư Không Thắng Bồ Tát, Bửu Thắng Bồ Tát, Tràng Thắng Bồ Tát, Trí Thắng Bồ Tát, Ta La Tự Tại Vương Bồ Tát, Pháp Tự Tại Vương Bồ Tát, Tương Tự Vương Bồ Tát, Phạm Tự Tại Vương Bồ Tát, Sơn Tự Tại Vương Bồ Tát, Húng Tự Tại Vương Bồ Tát, Tốc Tật Tự Tại Vương Bồ Tát, Tịch Tịnh Tự Tại Vương Bồ Tát, Bất Ðộng Tự Tại Vương Bồ Tát, Thế Lực Tự Tại Vương Bồ Tát, Tối Thắng Tự Tại Vương Bồ Tát, Tịch Tịnh Âm Bồ Tát, Vô Ngại Âm Bồ Tát, Ðịa Chấn Âm Bồ Tát, Hải Chấn Âm Bồ Tát, Vân Âm Bồ Tát, Pháp Quang Âm Bồ Tát, Hư Không Âm Bồ Tát, Thuyết Nhứt Thiết Chúng Sanh Thiện Căn Âm Bồ Tát, Thị Nhứt Thiết Ðại Nguyện Âm Bồ Tát, Ðạo Tràng Âm Bồ Tát, Tu Di Quang Giác Bồ Tát, Hư Không Giác Bồ Tát, Ly Nhiễm Giác Bồ Tát, Vô Ngại Giác Bồ Tát, Thiện Giác Bồ Tát, Phổ Chiếu Tam Thế Giác Bồ Tát, Quảng Ðại Giác Bồ Tát, Phổ Minh Giác Bồ Tát, Pháp Giới Quang Minh Giác Bồ Tát.

 

Beginning with these, there were five thousand great enlightening

beings, all of whom had undertaken the acts and vows of universally good

enlightening beings and were unhindered in their sphere of action, pervad-

ing all buddha-lands. They manifested boundless bodies, gofng to all

buddhas. The sphere of their unobstructed eye was pure, seeing the miracles

of all buddhas. They had attained to infinity in revelations, ceaselessly

approaching the entries into enlightenment of all buddhas. Their illumina-

tion was measureless, having attained the light of knowledge of principles

and didactic devices of the ocean of teachings of all buddhas. They could

explain virtues forever, through purity of intellectual powers. They were

unfettered in the purity of the realm of knowledge vaster than space, being

able to appear in the world in any physical form they wished. They were

clear-sighted, knowing the realm of beings to be vofd of beings or souls.

They had spacelike knowledge, pervading all universes with a net of lights.

 

There were also five hundred hearers with great spiritual powers, all of

them perfectly aware of the essence of true reason and the principles of

truth. They had arrived at direct witness of the limit of reality, had pene-

trated the nature of phenomena, had gotten out of the ocean of existence

and into the realm of space of those who have arrived at suchness, had

stopped their propensities and habits and were beyond regression, dwelled in

the abode of nonattachment and nonobstruction, were in a state as tranquil

 

Page 1137 – Entry into the Realm of Reality

 

as space, had cut off all doubt in Buddha, and had entered the path intent on

the ocean of buddha-knowledge.

 

There were also world rulers, who had served past buddhas, who had

accomplished the welfare and happiness of all beings, who were unsoficited

benefactors, who had accomplished the protection of others, who had

entered into the bliss of the highest knowledge in the world, who were

never indifferent toward sentient beings, who issued from the realm of the

buddha-teaching, who had accomplished the preservation of the buddha-

teaching, who vowed to sustain the lineage of buddhas, who were oriented

toward birth in the family of buddhas, who sought omniscient knowledge.

 

At that time it occurred to those enlightening beings and their compan-

ions, to those hearers of great spiritual powers, and to those world rulers and

their companions, “It is not possible for celestials or humans to understand

or enter into or focus on or know or cognize or think about or perceive

clearly or distinguish or elucidate or establish in the body and mind of other

beings the sphere of the enlightened, the realm of knowledge of the enlight-

ened, the basis, the power, the fearlessness, the concentration, the state, the

mastery, the body, or the knowledge of the enlightened, except by the sup-

port, the magic, the empowerment, and the past vows of the enlightened, by

having the qualities of roots of goodness perfected by past buddhas, by being

in the charge of spiritual benefactors, by purification of faith, liberative

means, and knowledge, by attainment of illumination of higher devotion,

by purification of the higher will of enlightening beings, and by the pro-

ceeding of the higher will on the undertaking of realizing omniscience.

May the Buddha show us, enlightening beings and sentient beings —

according to our dispositions, different mental capacities, different

orientations, different perceptions, different languages, different attain-

ments, different masteries, different stages, different purity of faculties,

different mental efforts, different realms of thought, focus on different

qualities of buddhahood, and orientation toward various teachings — his

past procedure toward omniscience, and show us his past undertaking of the

vows of enlightening beings, his past purification of the spheres of the tran-

scendent ways of enlightening beings, the wonder of his past accession to

the stages of enlightening beings, his past fulfillment of the undertakings of

the spheres of practices of enlightening beings, the appearance of his past

accomplishment of the vehicle of enlightening beings, his past purification

of the embellishment of the path of enlightening beings, the arrays of his

past accomplishments of the ocean of ways of emancipation of enlightening

beings, the splendors of the ocean of spiritual transformations he experi-

enced in the past as an enlightening being, the oceans of his past efforts as an

enlightening being, the oceans of his spiritual transformations on the

threshold of perfect enlightenment, the power of his spiritual manifesta-

tions in turning the wheel of truth as a buddha, the oceans of spiritual

transformations invofved in buddha-land purification, the Buddha’s meth-

ods of guiding sentient beings to liberation, the Buddha’s lordship of the

city of principles of omniscience, the Buddha’s revelations of the paths of all

 

Page 1138 – The Flower Ornament Scripture

 

sentient beings, the Buddha’s transfigurations entering into the states of all

beings, the Buddha’s receiving of gifts from beings, the Buddha’s presenta-

tions of teachings on right giving to all sentient beings, the Buddha’s

protection of the image of Buddha into the mental states of all beings, the

Buddha’s displays of miracles to sentient beings, the Buddha’s miracles of

teaching and admonishing sentient beings, and the Buddha’s inconceivable

manifestations of the realms of concentration of Buddha to all beings — may

the Buddha show us these things.”

Năm trăm đại Bồ Tát như vậy câu hội.

Những Bồ Tát này thảy đều thành tựu hạnh nguyện Phổ Hiền Cảnh Giới Vô Ngại, vì cùng khắp tất cả cõi Phật. Hiện thân vô lượng, vì thân cận tất cả chư Như Lai. Tịnh nhãn vô ngại, vì thấy tất cả sự thần biến của chư Phật. Xứ đến vô hạn vì hằng khắp đến chỗ của tất cả Như Lai thành chánh giác. Quang minh vô tế, vì trí huệ quang chiếu khắp tất cả thiệt pháp hải. Thuyết pháp vô tận, vì thanh tịnh biên tài vô biên tế kiếp không cùng tận. Khắp hư không giới, vì trí huệ ra làm đều thanh tịnh. Không chỗ y chỉ, vì tùy tâm chúng sanh hiện sắc thân. Diệt trừ mê lòa, vì rõ chúng sanh giới không chúng sanh. Trí khắp hư không, vì dùng lưới đại quang minh chiếu pháp giới.

Hàng Thanh Văn năm trăm vị câu hội. Những vị này đều giác ngộ chơn đế, đều chứng thiệt tế, thâm nhập pháp tánh, thoát hẳn biển hữu lậu, nương Phật công đức, lìa sự trói buộc của kiết sử, trụ chỗ vô ngại. Tâm Các ngài tịch tịnh như hư không. Ở chỗ chư Phật, dứt hẳn nghi lầm. Nơi trí chư Phật, tin sâu xu nhập.

Vô Lượng Thế Chủ câu hội. Những Thế Chủ này đều đã từng cúng dường vô lượng Chư Phật. Thường hay lợi ích tất cả chúng sanh, làm bất thỉnh hữu. Hằng siêng thủ hộ thệ nguyện chẳng bỏ chúng sanh. Ðã nhập thế gian thù thằng trí môn. Từ Phật giáo sanh. Hộ Phật chánh pháp. Phát đại nguyện chẳng để dứt Phật chủng. Sanh nhà Như Lai cầu nhứt thiết trí.

Bấy giờ chư đại Bồ Tát, đại đức Thanh Văn, những chủ thế gian và quyến thuộc đều nghĩ rằng: cảnh giới của Như Lai, trí hạnh của Như Lai, gia trì của Như Lai, lực của Như Lai, vô úy của Như Lai, tam muội của Như Lai, sở trụ của Như Lai, tự tại của Như Lai, thân của Như Lai, trí của Như Lai, tất cả thế gian chư Thiên cùng người đời không thông đạt được, không xu nhập được, không tín giải được, không rõ biết được, không nhẫn thọ được, không quán sát được, không giảng trạch được, không khai thị được, không tuyên minh được. Không ai có thể làm cho chúng sanh hiểu rõ. Chỉ trừ sức gia bị của Chư Phật, sức thần thông của Phật, sức oai đức của Phật, sức bổn nguyện của Phật, và sức thiện căn đời trước của họ, sức nhiếp thọ của thiện tri thức, sức tinh tín sâu, sức minh giải lớn, sức tâm thanh tịnh xu hướng Bồ đề, sức nguyện rộng lớn cầu nhứt thiết trí. Cúi xin đức Thế Tôn tùy thuận chúng tôi và những dục giải của các chúng sanh, những trín những ngôn ngữ, những tự tại, những trụ đại, những căn thanh thịnh, những ý phương tiện, những tâm cảnh giới, những y chỉ công đức của Như Lai, những pháp đã được nghe thọ của chúng tôi và các chúng sanh mà hiển thị đức Như Lai : thuở xưa xu cầu tâm Nhứt thiết trí, thuở xưa phát khởi đại nguyện Bồ Tát, thuở xưa tu tịnh, những môn Ba La Mật, thuở xưa đã nhập những bực Bồ Tát, thuở xưa viên mãn những hạnh Bồ Tát, thuở xưa thành tựu phương tiện, thuở xưa tu hành những đạo, thuở xưa chứng được pháp xuất ly, thuở xưa đã làm những sự thần thông, thuở xưa đã có bổn sự nhơn duyên, đến thành Ðẳng Chánh Giác, chuyển diệu pháp luân, tịnh Phật quốc độ, điều phục chúng sanh, mở thành pháp Nhứt thiết trí, chỉ đường tất cả chúng sanh, thọ sự cúng dường của tất cả chúng sanh, vì tất cả chúng sanh mà nói công đức bố thí, vì tất cả chúng sanh mà hiện ảnh tượng của Chư Phật. Những pháp như vậy, xin đức Phật vì chúng tôi mà giải thuyết.

 

Then the Buddha, knowing what the enlightening beings were thinking,

entered the concentration known as “the coming forth of the lion,” a world-

illumining manifestation, of which the body is great compassion, the

entryway is great compassion, the guide is great compassion, the means of

access to the sky of truth is great compassion. As soon as the Buddha had

entered this concentration, the magnificent pavilion became boundlessly

vast: the surface of the earth appeared to be made of indestructible diamond,

the surface of the ground covered with a net of all the finest jewels, strewn

with flowers of many jewels, with enormous gems strewn all over; it was

adorned with sapphire pillars, with well-proportioned decorations of

world-illumining pearls of the finest water, with all kinds of gems, com-

bined in pairs, adorned with heaps of gold andjewels, with a dazzling array

of turrets, arehes, chambers, windows, and baleonies, made of all kinds of

precious stones, arrayed with jewels in the forms of all world rulers, and

embellished with oceans of worlds of jewels, covered with all kinds ofjew-

els, with Hags, banners, and pennants Hying in front of all the portals, the

adornments pervading the cosmos with a network of light. Outside the

grounds where the inexpressibly vast circle of the assembly was, there was a

magnificent array of balustrades, and in each direction was a stairway eon-

sisting of a mass of jewels, adorned superbly in a well-ordered fashion.

Bấy giờ đức Thế Tôn biết tâm niệm của chư Bồ Tát, liền dùng đại bi làm thân, đại bi làm môn, đại bi làm đầu, dùng pháp đại bi mà làm phương tiện, đầy khắp hư không, nhập sư tử tần thân tam muội.

Khi đức Thế Tôn nhập tam muội này rồi, tất cả thế gian đều khắp nghiêm tịnh.

Liền đó, lâu các đại trang nghiêm bỗng nhiên rộng rải không có ngằn mé, kim cang làm đất, bửu vương che phía trên, vô lượng bửu hoa và những châu ma ni rải đầy khắp trong lầu, lưu ly làm cột, các thứ báu hiệp thành, trang nghiêm với đại quang ma ni, vàng diêm phù đàn, như ý bửu vương trùm khắp phía trên nghiêm sức. Lầu cao thành dãy, đường gác kèm bên. Kèo máy thừa nhau, cửa nghạch chói nhau. Thềm, bực, hiên, bao lơn đều đầu đủ. Tất cả đều trang nghiêm với diệu bửu. Những bửu ấy đều là hình tượng nhơn thiên, kiên cố đẹp lạ đệ nhứt thế gian. Lưới báu ma ni che khắp phía trên. Bên cửa đều dựng tràng phan, đều phóng quang minh cùng khắp giới. Ngoài đạo tràn, thềm cấp lan can nhiều vô lượng không thể kể nói, đều bằng ngọc ma ni.

 

Also the Jeta grove and buddha-fields as numerous as atoms in untold

buddha-fields all became coextensive, vastly expanded, by the power of

Buddha. There appeared varied arrays of all kinds of jewels, plains variously

set with untold jewels, fences of uncountable jewels set around, and palm

trees of various jewels arrayed in rows. Also in those lands were innumerable

rivers of fragrant water, winding endlessly, filled with perfumed water, with

turbulent rapids of flowers of all jewels, whirling to the right, producing the

sounds of the sayings of all buddhas. There were also inconceivable rows of

jewel white lotuses, trees adorned with arrays of lotus blossoms made ofjew-

els, as well as inconceivable numbers of rows of towers of various gems,

enveloped in nets of all kinds of jewels, arrays of countless jewels radiating

webs of light, countless arrays of all kinds of jewels, of celestial chariots of

jewels, and arrays of chests of all kinds of incense releasing banks of all fra-

grances. There also stood innumerable emblems of jewels, emblems of

cloth, emblems surfaced with jewels, emblems of flowers, emblems of orna-

ments, emblems of garlands, emblems of nets of small bells made of all kinds

of jewels, emblems of parasofs of the finest gems, emblems of jewels pervad-

ing everywhere with their radiance, emblems of the finest jewels

 

Page 1139 – Entry into the Realm of Reality

 

resounding with the names of all buddhas, emblems of the finest jewels of

leonine splendor, emblems of the finest jewels bespeaking the past efforts of

all buddhas, emblems of reflections of all objects, arrays of emblems of the

finest jewels, well-distributed arrays of ornaments of all kinds of emblems,

standing in all quarters.

 

The entire sky of the Jeta grove was also adorned with inconceivable

celestial cloud-palaces, countless clouds of trees of all fragrances, untold

mountains of all kinds of magnificent arrays, untold sweet sounds of clouds

of music and songs of praise of all buddhas, untold clouds of jewel lotuses,

untold jewel bon thrones spread with celestial jeweled cloth with enlighten-

ing beings sitting on them singing beautiful eulogies of buddhas, individual

pearly clouds in the forms of celestial lords facing the earth, untold clouds of

webs of brilliant white pearls, untold clouds of towers of ruddy pearls, and

untold clouds of diamond-raining ornaments.

Lúc đó lại do thần lực của Phật, rừng Thệ Ða bỗng nhiên rộng rãi đồng với bất khả thuyết Phật sát vi trần số quốc độ. Tất cả diệu bửu xen lẫn trang nghiêm. Bất khả thuyết bửu trải khắp mọi nơi. Vô số bửu làm tường rào. Cây đa la báu trang nghiêm bên đường.

Trong rừng lại có vô lượng hương hà, đầy những nước thơm sóng gợn xoay quanh. Tất cả hoa báu theo dòng chuyển về phía hửu, tự nhiên diễn ra âm thanh Phật pháp. Bất tư nghì bạch liên hoa báu búp nở thơm tho giăng bày trên mặt nước. Những cây bông báu trồng hàng bên bờ sông. Bất tư nghì những đài, nhà mát xếp hàng trên bờ sông, lưới báu ma ni che trùm. Vô số báu phóng đại quang minh. Ðốt những diệu hương mùi thơm ngào ngạt.

Lại dựng vô lượng bửu tràng. Những là: bửu hương tràng, bửu y tràng, bửu phan tràng, bửu thắng tràng, bửu hoa tràng, bửu anh lạc tràng, bửu man tràng, bửu linh tràng, ma ni bửu cái tràng, đại ma ni bửu tràng, quang minh biến chiếu ma ni bửu tràng, xuất nhứt thiết Như Lai danh hiệu âm thanh ma ni vương tràng, sư tử ma ni vương tràng, thuyết nhứt thiết Như Lai bổn sự hải ma ni vương tràng, hiện nhứt thiết pháp giới ảnh tượng ma ni vương tràng. Những bửu tràng này bày hàng trang nghiêm cùng khắp mười phương.

Bấy giờ trong hư không trên rừng Thệ Ða có bất tư nghì thiên cung điện vân, Vô số hương thọ vân, bất khả thuyết Tu Di sơn vân, bất khả thuyết kỹ nhạc vân phát ra tiếng hay diệu ca ngợi đức Như Lai, bất khả thuết bửu liên hoa vân, bất khả thuyết bửu tòa vân trải thiên y Bồ Tát ngồi trên đó ca ngợi công đức của Phật, bất khả thuyết thiên vương hình tượng ma ni bửu vân, bất khả thuyết bạch chơn châu vân, bất khả thuyết xích châu lâu các trang nghiêm cụ vân, bất khả thuyết vũ kim cang kiên cố châu vân. Những bửu vân này đều dừng ở hư không bao vòng cùng khắp để trang nghiêm.

 

What was the reason for that? So inconceivable is the virtue of the Bud-

dha, the mass of pure qualities of Buddha, the mighty power of Buddha, the

miracle of Buddha’s pervasion of all worlds with one body, the display by all

buddhas of the array of all buddha-lands in one body, the buddhas’ display of

the reflections of all phenomena in a single atom, the buddhas’ display of the

succession of all buddhas of past ages in one pore, the buddhas’ illumination

of the stream of atoms in all worlds with a single beam of light, the buddhas’

pervasion of all buddha-lands with clouds as numerous as atoms in all worlds

emitted from one pore, and the buddhas’ display of the ages of becoming

and decay of all worlds in a single pore: as the Jeta grove was in this way puri-

fied as a buddha-field, so were all worlds in the ten directions, throughout

the space of the cosmos, likewise purified, appearing adorned, decorated,

with the body of the Buddha clearly manifest therein, all together in the Jeta

grove, filled with enlightening beings, with the ocean of Buddha’s audience

standing in orderly ranks, clouds raining all kinds of adornments, lights of

energy of all jewels, decorations raining from clouds of all jewels, decora-

tions covered with clouds of arrays of all lands, ornaments raining from

clouds of all celestial bodies, ornaments raining from clouds of all flowers,

flowery ornaments pervading space, clouds of all kinds of cloth raining

robes of various cofors, ornaments Continuously showering densely from

clouds of all kinds of garlands and wreaths, ornaments showering in the

forms of all beings from clouds of various incenses hovering everywhere,

ornaments of fine powders, dense webs of jewels, raining from clouds of

webs of flowers made of all jewels, ornaments of clouds of all kinds of pre-

cious banners and pennants held by celestial maidens and carried around the

sky, ornaments of lotuses of all jewels with circles of leaves of various gems

set atop pofes with filaments hanging down, their rustling producing sweet

sounds, and ornaments of garlands of various jewels on the body of Buddha,

a network of images of all jewels — all of these appeared there.

Tại sao vậy?

Vì thiên căn của đức Như Lai bất tư nghì. Vì bạch pháp của đức Như Lai bất tư nghì. Vì oai lực của đức Như Lai bất tư nghì. Vì đức Như Lai có thể dùng một thân tự tại biến hóa khắp tất cả thế giới bất tư nghì. Vì đức Như Lai có thể dùng thần lực làm cho tất cả Phật và Phật quốc trang nghiêm đều nhập vào thân mình bất tư nghì. Vì đức Như Lai có thể ở trong một vi trần hiện khắp ảnh tượng tất cả pháp giới bất tư nghì. Vì đức Như Lai có thể ở trong một lỗ lông thì hiện quá khứ tất cả chư Phật bất tư nghì. Vì đức Như Lai tùy phóng mỗi một quang minh đều có thể chiếu khắp tất cả thế giới bất tư nghì. Vì đức Như Lai có thể ở trong một lỗ lông phát ra tất cả Phật sát vi trần số biến hóa vân đầy khắp tất cả chư Phật quốc độ bất tư nghì. Vì đức Như Lai có thể ở trong một lỗ lông hiện khắp tất cả thế giới mười phương : thành trụ hoại kiếp bất tư nghì.

Như ở tại rừng Thệ Ða vườn cấp Cô Ðộ thấy Phật quốc thanh tịnh trang nghiêm, mười phương tất cả pháp giới hư không giới, tất cả thế giới cũng đều thấy như vậy.

Những là thấy thân đức Như Lai ở rừng Thệ Ða, chúng hội Bồ Tát thảy đều cùng khắp. Thấy khắp nơi mưa những mây trang nghiêm. Thấy khắp nơi mưa những mây bửu quang minh chiếu sáng. Thấy khắp nơi mưa những mây ma ni bửu. Thấy khắp nơi mưa những mây lọng trang nghiêm che trùm cõi Phật. Thấy khắp nơi mưa những mây thiên thân. Thấy khắp nơi mưa những mây hoa thọ. Thấy khắp nơi mưa những mây y thọ. Thấy khắp nơi mưa những mây bửu man anh lạc nối tiếp chẳng dứt cùng khắp tất cả đại địa. Thấy khắp nơi mưa những mây đồ trang nghiêm. Thấy khắp nơi mưa những mây thơm hình chúng sanh. Thấy khắp nơi mưa những mây lưới hoa báu vi diệu tiếp nỗi chẳng ngớt. Thấy khắp nơi mưa những mây chư Thiên nữ cầm tràng phan báu đi qua lại ở trong hư không. Thấy khắp nơi mưa những mây bữu liên hoa, ở trong cánh hoa tự nhiên phát ra những tiếng nhạc. Thấy khắp nơi mưa những mây tòa sư tử lưới báu anh lạc dùng trang nghiêm.

 

As soon as the Buddha had entered this “coming forth of the lion” eon-

centration of buddhas, from the buddha-land of a buddha named King of

Splendorous Illuminating Radiance, in the world Golden Cloud Lamp

 

Page 1140 – The Flower Ornament Scripture

 

Emblem, which was to the east, beyond as many oceans of worlds as atoms in

untold buddha-lands, a great enlightening being named Light from the Ori-

gin of the Vows of the Illuminator, given leave by that buddha, left that vast

assembly and came to this world Endurance along with as many enlighten-

ing beings as atoms in untold buddha-lands, adorning the sky with clouds of

various magnificent arrays, showering a rain of clouds of celestial flowers,

celestial perfumes, celestial jewel lotuses, celestial garlands, celestial gems,

celestial ornaments, celestial jewel parasofs, and fine celestial robes of vari-

ous cofors, setting up clouds of celestial jewel banners and pennants in the

sky, filling the sky with beautiful arrays of clouds of all jewels; having come

to the buddha with these, the great enlightening being and the company of

enlightening beings paid respects to the Buddha, then, gofng to the east,

magically produced towers covered with nets of jewels arranged all around,

and lion thrones hiside of lotuses made of the finest radiant gems, and sat on

them, after having covered their bodies with ornamental webs of wish-

fulfilling jewels.

Lúc đó phương Ðông qua khỏi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới hải, có thế giới tên là Kim Ðăng Vân Tràng. Ðức Phật nơi đó hiệu là Tỳ Lô Giá Na Thắng Ðức Vương.

Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ Tát hiệu là Tỳ Lô Giá Na Nguyện Quang Minh, cùng bất khả thuyết Phật sát vi trần số Bồ Tát câu hội đến chỗ đức Phật, đều dùng thần lực hiện những lùm mây : mây thiên hoa, mây thiên hương, mây thiên mạt hương, mây thiên man, mây thiên bửu, mây thiên trang nghiêm cụ, mây thiên bửu cái, mây thiên vi diệu y, mây thiên bửu tràng phan, mây những diệu bửu trang nghiêm đầy dẫy hư không.

Ðến chỗ đức Phật rồi, chư Bồ Tát đảnh lễ chân Phật. Liền ở nơi phương Ðông hóa làm lâu các bửu trang nghiêm và tòa sư tử bửu liên hoa tạng chiếu khắp mười phương. Lưới như ý bửu choàng trên thân. Rồi cùng quyến thuộc ngồi kiết già trên đó.

 

From the south, beyond as many oceans of worlds as atoms in untold

buddha-lands, from the land of the buddha King of the Treasury of All-

Illumining Radiance, in the world of Diamond Ocean Womb, a great

enlightening being named King of Invincible Energy, together with a com-

pany of as many enlightening beings as atoms in untold buddha-lands, given

leave by that buddha and having disappeared from that assembly, came to

this world Endurance, causing all oceans of worlds to appear decked with

webs of all fragrances, causing every place in all buddha-lands to appear

decked with webs of garlands of all jewels, causing all groups of lands to

appear decked with webs of garlands of all flowers, causing the locations of

all buddha-lands to appear decked with webs of braids of all kinds of gar-

lands, causing the eongregations in all buddha-lands to be supported by a

diamond ground, causing the structures of all buddha-lands to be jofned

with webs of all kinds of jewels, causing all worlds to appear swathed in all

kinds of cloth, conjuring up images of all buddha-lands decked with webs of

bundles of garlands bearing images of all jewels, causing all lands to appear

decked with webs of strings of the finest radiant jewels illumining all their

adornments, and causing all worlds to appear held by a foundation of webs

of strings of the most excellent jewels. The great enlightening being and

company came and presented all this to the Buddha, then went to the south,

magically produced towers of world-illumining jewels with lion thrones

hiside radiant jewel lotuses, and sat thereon, covering the enlightening

beings’ bodies with ornamental webs of flowers made of all kinds of jewels.

 

From the west, beyond as many oceans of worlds as atoms in untold

buddha-lands, from the land of the buddha Lamp of Knowledge of the

Realms of the World and the Realm of Reality, in the world Lamp Repre-

senting the Radiance of a Polar Mountain of Jewels, a great enlightening

being named King of Fiery Energy of Universal Splendor, together with a

company of as many enlightening beings as atoms in untold oceans of

worlds, given leave by that buddha and having disappeared from that assem-

 

Page 1141 – Entry into the Realm of Reality

 

bly, came to this world Endurance, filling all universes with clouds of moun-

tains of fragrant banners of various cofors, as many as atoms in untold

buddha-lands, filling all universes with clouds of flowers of various scents,

mountainous clouds of aromatic smoke of many kinds of incense, clouds of

fragrances of various kinds, mountainous clouds of the finest jewels formed

by lights from every hair in the shapes of all utensils, mountainous clouds of

jewels like stars adorned with various spheres of light, mountainous clouds

of spheres of various arrays of diamonds, mountainous clouds of jewels illu-

mining all worlds, mountainous clouds of the finest jewels reflecting the

elements of all mountains covering the sky, mountainous clouds of the fin-

est jewels reflecting the appearances of all buddhas, mountainous clouds of

jewels resounding with the practices of enlightening beings showing the

images of the past efforts of all buddhas, and mountainous clouds of the fin-

est jewels reflecting the summits of enlightenment of all buddhas, all these

clouds as numerous as atoms in untold buddha-lands, filling all universes.

These the great enlightening being and company brought and presented to

the Buddha; they then went to the west and magically produced towers of

the finest fragrances covered with nets of pearls, and lion thrones in lotuses

made of jewels presenting the appearances of the lord of gods, and sat

thereon, having covered their bodies with gold and jewels and put on

crowns of wish-fulfilling gems.

Phương Tây qua khởi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới hải, có thế giới tên là Ma Ni Bửu Ðăng Tu Di Sơn Tràng. Ðức Phật nơi đó hiệu là Pháp Giới Trí Ðăng.

Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ Tát hiệu là Phổ Thắng Vô Lượng Oai Ðức Vương, cùng thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu hội đồng đến chỗ Ðức Phật. Ðều dùng thần lực hiện bất khả thuyết Phật sát vi trần số những hương thoa, hương thắp, mây Tu Di sơn, những mây Tu Di sơn hương thủy nhiều màu, những mây Tu Di sơn quang minh ma ni bửu vương, những mây Tu Di sơn quang diệm luân trang nghiêm tràng, những mây Tu Di sơn kim cang tạng ma ni vương trang nghiêm nhiều màu, những mây Tu Di sơn diêm phù đàn ma ni bửu tràng chiếu khắp tất cả thế giới, những mây Tu Di sơn ma ni bửu hiện tất cả pháp giới, những mây Tu Di sơn ma ni bửu vương hiện tất cả chư Phật tướng hảo, những mây Tu Di sơn ma ni bửu vương hiện bổn sự nhơn duyên của chư Phật nói tất cả công hạnh tu hành của chư Bồ Tát, những mây Tu Di sơn ma ni bửu vương hiện tất cả Phật ngồi Bồ đề đề tràng. Những mây này đầy khắp pháp giới.

Ðến chỗ đức Phật rồi, chư Bồ Tát đảnh lễ chân đức Phật, liền ở phương Tây hóa lâu các nhứt thiết hương vương, lưới báu chơn châu giăng trùm trên đó, và hóa toà sư tử bửu liên hoa tạng tràng bóng Thiên Ðế, dùng lưới ma ni diệu sắc choàng nơi thân, trên đầu trang nghiêm với mão tâm vương bửu, cùng các quyến thuộc ngồi kiết già trên trên tòa đó.

 

From the north, beyond as many oceans of worlds as atoms in untold

buddha-lands, from the land of the buddha Glorious Illuminator of the

Space of the Cosmos, in the world Luminous Banner of Jewel Cloth, a great

enlightening being named King of Unobstructed Splendor, together with a

company of as many enlightening beings as atoms in untold oceans of

worlds, given leave by that buddha and having disappeared from that assem-

bly, came to this world Endurance, producing in the sky ornamental clouds

of diadems of all jewels, ornamental clouds of jeweled robes of yellow cofor,

with a yellow glow, ornamental showers from clouds ofjeweled robes emit-

ting various fragrances, ornamental clouds of robes of the finest sunlike jew-

els, ornamental clouds of robes of jewels blazing with golden splendor,

ornamental clouds of robes of fiery jewels, ornamental clouds of robes of

various jewels reflecting all the stars, clouds of robes of jewels of pale radi-

ance bursting into view everywhere, clouds of robes of the finest jewels

blazing with radiant splendor bursting into view everywhere, and clouds of

robes of the finest jewels illumining everywhere with a radiant glow burst-

ing into view everywhere, causing the sky to appear veiled in clouds of robes

of jewels in oceanic arrays. These the great enlightening being and company

offered to the Buddha; they then went to the north and magically produced

towers made of the finest pearls from the sea, as well as lion thrones hiside

jewel lotuses, and sat thereon, having covered their bodies with nets of

majestic jewels and tied starlike pearls in their topknots.

Phương Bắc qua khởi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới, có thế giới tên là Bửu Y Quang Minh Tràng. Ðức Phật nơi đó hiệu là Chiếu Hư Không Pháp Giới Ðại Quang Minh. Trong chúng hội của Ðức Phật đó, có Bồ Tát hiệu là Vô Ngại Thắng Tạng Vương cùng thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu hội đồng đến chỗ đức Phật đều dùng thần lực hiện những mây bửu y. Những là mây bửu y quang minh màu vàng, những mây bửu y ướp hương, mây bửu y nhựt tràng ma ni vương, mây bửu y kim sắc xí nhiên ma ni, những mây bửu y quang diệm, những mây bửu y ma ni thượng diệu tượng tinh tú, những mây bửu y ma ni bạch ngọc quang, những mây bửu y ma ni thù thắng quang minh biến chiếu, những mây bửu y ma ni oai thế quang minh biến chiếu, những mây bửu y ma ni trang nghiêm hải. Những mây bửu y này đầy khắp hư không.

Khi đến chỗ đức Phật, chư Bồ Tát đảnh lễ chân Phật, liền ở phương Bắc hóa làm lâu các ma ni bửu hải trang nghiêm, và toà sư tử liên hoa tạng tỳ lưu ly bửu. Dùng lưới ma vi vương sư tử oai đức choàng trên thân. Dùng bửu vương thanh tịnh minh châu trang nghiêm trên đầu. Cùng chư quyến thuộc ngồi kiết già trên tòa đó.

 

From the northeast, beyond as many oceans of worlds as atoms in untold

buddha-lands, from the land of the buddha Independent Eye, in the world

Emanating Webs of Light Beams from All the Finest Jewels of the Earth, a

 

Page 1142 – The Flower Ornament Scripture

 

great enlightening being named Supreme Moon of Vows Emanated

through the Cosmos, together with a company of as many enlightening

beings as atoms in untold oceans of worlds, given leave by that buddha and

having disappeared from that assembly, came to this world Endurance, caus-

ing all worlds to he completely covered with clouds of sandalwood towers,

clouds of flower towers, clouds of pearl towers, clouds of diamond towers,

clouds of gold towers, clouds of towers of robes, and clouds of lotus towers.

The great enlightening being and company presented these to the Buddha,

then went to the northeast and magically produced towers of enormous jew-

els, with turrets with doors looking on all things, and lion thrones in jewel

lotuses of incomparable fragrance, and sat thereon, having covered their

bodies with nets of the finest flowers and put on crowns of various interlaced

jewels.

Phương Ðông Bắc qua khởi bất khả thyuết Phật sát vi trần số thế giới, có thế giới tên là Nhất Thiết Hoan Hỉ Thanh Tịnh Quang Minh Võng. Ðức Phật nơi đó hiệu là Vô Ngại Nhãn.

Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ Tát hiệu là Hoá Hiện Pháp Giới Nguyện Nguyệt Vương, cùng thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu hội đồng đến chỗ đức Phật, đều dùng thần lực hiện mây lâu các báu, mây lâu các hương, mây lâu các hương đốt, mây lâu các hoa, mây lâu các chiên đàn, mây lâu các kim cang, mây lâu các ma ni, mây lâu các huỳnh kim, mây lâu các bửu y, mây lâu các liên hoa, che khắp thế giới mười phương.

Khi đã đến chỗ Phật, chư Bồ Tát đảnh lễ chân đức Phật, liền ở phương Ðông Bắc hóa làm lâu các đại ma ni pháp giới môn, và tòa sư tử liên hoa tạng vô đẳng hương vương, dùng lưới ma ni hoa choàng trên thân, đội mão diệu bửu tạng ma ni vương, cùng chư quyến thuộc ngồi kiết già trên tòa đó.

 

From the southeast, beyond as many oceans of worlds as atoms in untold

buddha-lands, from the land of the buddha Dragon King, in the world Ban-

ner of Arrays of Clouds of Fragrance, an enlightening being named King of

Fiery Energy of Truth, together with as many enlightening beings as atoms

in untold oceans of worlds, given leave by that buddha and having disap-

peared from that assembly, came to this world Endurance, covering the

whofe sky with clouds of spheres of golden light, clouds of spheres of light

of jewels of infinite cofors, clouds of spheres of light the cofor of the curl of

hair between the Buddha’s eyebrows, clouds of spheres of light of various

jewel cofors, clouds of spheres of light the cofor of the hiside of lotuses,

clouds of spheres of light the cofor of superbjewels like circles ofbranches of

jewel trees, clouds of spheres of light like the knot on the head of Buddha,

clouds of spheres of light the cofor of fine gold, clouds of spheres of light the

cofor of the sun, and clouds of forms of the discs of the sun and moon and

stars. The great enlightening being and company brought and presented

these to the Buddha, then went to the southeast and magically produced

towers of flowers of coofly shining pearly radiance, and lion thrones in

lotuses of excellent diamonds, and sat there, having covered their bodies

with the finest pearls blazing with jewel light.

Phương Ðông Nam qua khởi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới, có thế giới hiệu là Hương Vân Trang Nghiêm Tràng. Ðức Phật nơi đó hiệu là Long Tự Tại Vương.

Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ Tát hiệu là pháp Huệ Quang Diệm Vương, cùng thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu hội đồng đến chỗ đức Phật, đều dùng thần lực hiện mây kim sắc viên mãn quang minh, mây vô lượng bửu sắc viên mãn quang minh, mây Như Lai hào tướng viên mãn quang minh, mây những bửu sắc viên mãn quang minh, mây liên hoa tạng viên mãn quang minh, mây bửu thọ chi viên mãn viên quang minh, mây Như Lai đảnh kế viên mãn quang minh, mây diêm phù đàn kim sắc viên mãn quang minh, mây nhựt sắc viên mãn quang minh, mây tinh nguyệt sắc viên mãn quang minh, đầy khắp hư không.

Ðến chỗ đức Phật rồi Chư Bồ Tát đảnh lể chân đức Phật, liền ở Phương Ðông Nam hóa làm Lâu các tỳ lô giá na tối thượng bửu quang minh, và tòa sư tử kim cang ma ni liên hoa tạng lưới bửu quang diệm ma ni vương choàng trên thân, cùng các quyến thuộc ngồi kiết già trên tòa đó.

 

From the southwest, beyond as many oceans of worlds as atoms in untold

buddha-lands, from the land of the buddha King of Universal Light of

Knowledge of the Moon of Truth, in the world Filled with Jewel Sunlight, a

great enlightening being named Standard of Knowledge Scattering All

Bands of Demons, together with a company of as many enlightening beings

as atoms in untold oceans of worlds, given leave by that buddha and having

disappeared from that world, came to this world Endurance, from every

pore issuing, to the farthest reaches of space, shining clouds of flowers, shin-

ing clouds of all kinds of music, shining clouds of jewels, shining clouds of

precious robes emitting aromatic vapors of various scents, shining clouds of

lightning produced by water spirits, shining clouds of radiant jewels, shin-

ing clouds of blazing gold jewels, shining clouds of the blaze of diamonds

from splendorous mines, and shining clouds of eye-jewels illumining the

seeds of events of past, present, and future, like the ocean of memory of the

 

Page 1143 – Entry into the Realm of Reality

 

enlightened. The great enlightening being and company presented these to

the Buddha, then withdrew to the southwest and magically produced tow-

ers of great jewels illumining the cosmos, particles of a web of light beams

radiating in all directions, and lion thrones in lotuses of shining jewels like

fragrant lamps, whereon they sat, having covered their bodies with nets of

the finest jewels from pure mines and put on crowns of the finest jewels

reverberating with the sounds of the abodes of all beings.

Phương Tây Nam qua khỏi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới, có thế giới tên là Nhựt Quang Ma Ni Tạng. Ðức Phật nơi đó hiệu là Phổ Chiếu Chư Pháp Trí Nguyệt Vương.

Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ Tát hiệu là Tồi Phá Nhứt Thiết Ma Quân Trí Tràng Vương, cùng thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu hội, đồng đến chỗ đức Phật. Ở trong tất cả lỗ lông hiện ra mây hoa diệm khắp hư không giới, mây hương diệm, mây bửu diệm, mây kim cang diệm, mây thiêu hương diệm, mây điển quang diệm, mây tỳ lô giá na ma ni bửu diệm, mây nhứt thiết kim quang diệm, mây thắng tạng ma ni vương quang diệm, mây đồng tam thế Như Lai hải quang diệm, mỗi mỗi đều từ những lỗ lông hiện ra khắp hư không giới.

Khi đã đến chỗ đức Phật chư Bồ Tát đảnh lễ chân đức Phật, liền ở phương Tây Nam hóa làm lưới phổ hiện thập phương pháp giới quang minh lâu các đại ma ni bửu, và tòa sư tử hương đăng diệm bửu liên hoa tạng, dùng lưới ly cấu tạng ma ni choàng trên thân, đội mảo xuất nhứt thiết chúng sanh phát thu âm ma ni vương nghiêm sức, cùng các quyến thuộc ngồi kiết già trên tòa đó.

 

From the northwest, beyond as many oceans of worlds as atoms in untold

buddha-lands, from the land of the buddha Majestic King of Radiant Splen-

dor, in the world Containing Vows of Illumination, a great enlightening

being named Flame of Knowledge of Vows of Illumination, together with a

company of as many enlightening beings as atoms in untold oceans of

worlds, given leave by that buddha and having disappeared from that assem-

bly, came to this world Endurance, emanating from every physical

characteristic, every pore, every part of the body, clouds of physical images

of the buddhas of past, present, and future, clouds of physical images of the

enlightening beings of past, present, and future, clouds of physical images of

the audiences of the buddhas of past, present, and future, clouds of images of

the spheres of emanations of the buddhas of past, present, and future, clouds

of embodiments of images of the past efforts of the buddhas of past, present,

and future, clouds of physical images of all hearers and individual illumi-

nates of past, present, and future, clouds of images of the bodies of the

buddhas of all times and the forms of the trees at their sites of enlighten-

ment, clouds of embodiments of images of the miracles of the buddhas of

past, present, and future, clouds of physical images of the rulers of the

worlds of past, present, and future, and clouds of all the purified buddha-

lands of past, present, and future, these all pervading space from moment to

moment. The great enlightening being and company came to the Buddha,

presented these, then withdrew to the northwest and magically produced

towers containing the finest jewels illumining all quarters and lion thrones

in lotuses made of jewels illuminating the world, and sat thereon, having

covered their bodies with nets emanating unstoppable light and put on

crowns of jewels whose radiance illumined everywhere.

Phương Tây Bắc qua khởi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới, có thế giới tên là Tỳ Lô Giá Na Nguyện Ma Ni Vương Tạng.

Ðức Phật nơi đó hiệu là Phổ Quang Minh Tối Thắng Tu Di Vương.

Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ Tát hiệu là Nguyện Trí Quang Minh Tràng, cùng thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu hội đồng đến chỗ đức Phật. Trong khoảng mỗi niệm, nơi tất cả tướng hảo, tất cả lỗ lông, tất cả thân phần đều hiện ra mây hình tượng tất cả tam thế Như Lai, mây hình tượng tất cả Bồ Tát, mây hình tượng chúng hội của tất cả Như Lai, mây hình tượng thân biến hoá của tất cả Như Lai, mây hình tượng thân bổn sanh của tất cả Như Lai, mây hình tượng tất cả Thanh văn, Bích Chi Phật, mây hình tượng Bồ đề tràng của tất cả Như Lai, mây hình tượng thần biến của tất cả Như Lai, mây hình tượng tất cả thế gian chủ, mây hình tượng tất cả quốc độ thanh tịnh, đầy khắp hư không.

Khi đã đến chỗ đức Phật, chư Bồ Tát đảnh lễ chân Phật, liền ở phương Tây Bắc hóa làm lâu các ma ni bửu trang nghiêm phổ chiếu thập phương và toà sư tử bửu liên hoa tạng phổ chiếu thế giang. Dùng lưới chơn châu vô năng thắng quang minh choàng trên thân, đội mão phổ quang minh ma ni bửu, cùng các quyến thuộc ngồi kiết già trên tòa đó.

 

From the nadir, beyond as many oceans of worlds as atoms in untold

buddha-lands, from the land of the buddha King of the Banner of the Torch

of Unobstructed Knowledge, in the world Radiance of the Flalos of All

Buddhas, a great enlightening being named Valiant One with Knowledge

to Dissofve All Barriers, together with a company of as many enlightening

beings as atoms in untold oceans of worlds, given leave by that buddha and

having disappeared from that assembly, came to this world Endurance, emit-

ting f rom every pore the sounds of utterances of the ocean of all incantations

in the world, the sounds of the clouds of the oceans of instruction of the

enlightening beings of past, present, and future, sounds of the ocean of

vows, undertakings, and methods of all enlightening beings, sounds of the

ocean of enlightening beings’ means of pervading all lands with their

spheres of action, sounds of the clouds of the oceans of all enlightening

 

Page 1144 – The Flower Ornament Scripture

 

beings’ means of purification and fulfillment of the ways of transcendence,

sounds of the ocean of means of the accomplishments and spiritual effects of

all enlightening beings, oceans of expressions of the spiritual transforma-

tions by means of which all buddhas go to the summit of enlightenment,

disperse the opposition of demons, and realize enlightenment, clouds of

sounds of the ocean of words used by all buddhas in turning the wheel of the

teaching, expressions of the expedient means of teaching and training used

to guide all people at the appropriate times, sounds of the ocean of means of

teaching using methods appropriate to the aspiration, excellence of roots of

goodness, and time, in order to lead to all-knowledge. Emanating these

sounds, the great enlightening being and company came to the Buddha and

offered them in respect, then withdrew to the nadir, magically produced

towers of various mines of all kinds of jewels from the matrix of light of the

palaces of all buddhas, as well as lion thrones in spaces held by lotuses hiset

with all jewels, upon which they sat, having put on crests of jewel emblems

reflecting images of all sites of enlightenment and covered their bodies with

nets of the finest jewels illumining all lands.

Hạ phương qua khỏi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới, có thế giới tên là Nhứt Thiết Như Lai Viên Mãn Quang Phổ Chiếu. Ðức Phật nơi đó hiệu là Hư Không Vô Ngại Tướng Trí Tràng Vương.

Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ Tát hiệu là Phá Nhứt Thiết Chướng Dũng Mãnh Trí Vương, cùng thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu hội đồng đến chỗ đức Phật. Trong tất cả lỗ lông hiện ra mây âm thanh nói ngữ ngôn hải của tất cả chúng sanh mây âm thanh nói tu hành phương tiện hải của tất cả tam thế Bồ Tát, mây âm thanh nói phát nguyện phương tiện hải của tất cả Bồ Tát, mây âm thanh nói tất cả Bồ Tát thành mãn thanh tịnh Ba la mật phương tiện hải, mây âm thanh nói tất cả Bồ Tát viên mãn hạnh khắp tất cả cõi, mây âm thanh nói tất cả Bồ Tát thành tựu tự tại dụng, mây âm thanh nói tự tại dụng của tất cả Như Lai qua ngồi đạo tràng phá chúng ma quân thành Ðẳng Chánh Giác, mây âm thanh nói tất cả Như Lai chuyển pháp luân khế kinh : môn danh hiệu hải, mây âm thanh nói tất cả pháp phương tiện hải tùy cơ giáo hóa đều phục chúng sanh, mây âm thanh nói tất cả phương tiện hải tùy thời tùy thiện căn tùy nguyện lực khiến khắp chúng sanh chứng được trí huệ.

Khi đã đến chỗ đức Phật, chư Bồ Tát đảnh lễ chư Phật, liền ở Hạ phương hóa làm lâu các chúng bửu trang nghiêm hiện hình tượng cung điện của tất cả Như Lai, và toà sư tử bửu liên hoa tạng, đội mão phổ hiện đạo tràng ảnh ma ni bửu, cùng các quyến thuộc ngồi kiết già trên toà đó.

 

From the zenith, beyond as many. oceans of worlds as atoms in untold

buddha-lands, from the land of the buddha Voice Revealing the Sphere of

Universal Knowledge, in the world Description of the Inexhaustible Line-

age of Buddhas, a great enlightening being named Revealing the Base of

Cosmic Aspiration, together with a company of as many enlightening

beings as atoms in untold oceans of worlds, given leave by that buddha and

having disappeared from that assembly, came to this world Endurance, from

every physical feature, every pore, every part of the body, every limb and

jofnt, every utterance, every article of clothing and adornment, showing

images of the oceans of past efforts of all buddhas past, present, and future

eonnected with transcendent giving which took place in all lands of the ten

directions, as well as images of the receivers and the gifts, reflected in every

mark and embellishment, every pore, every part of the body, every limb and

jofnt, every utterance, every article of clothing and adornment of the com-

pany of enlightening beings as well as the buddha Vairocana; showing

reflections of the oceans of their past ef forts invofved in transcendent moral-

ity, in transcendent toferance — even invofving showing amputation of

limbs, in the transcendent energy of all enlightening beings, surging boldly

forward, in the seeking and attainment of the ocean of meditations of all

buddhas, in the seeking of the ultimate truth to which the wheel of teaching

of all buddhas leads, in the manifestation of the embodiment of great deter-

mination which relinquishes all there is, in the joy of the vision of all

buddhas, the path of all enlightening beings, and pleasing all beings, in the

arrangements of purification of means of accomplishment of the ocean of

vows of all enlightening beings, in the purification of the strength of the

attainment of transcendent power of all enlightening beings; and showing

images of the oceans of past efforts invofved in the sphere of knowledge of

all enlightening beings — all these reflected images bursting into plain view

by clouds of all kinds of miraculous displays throughout the cosmos. The

 

Page 1145 – Entry into the Realm of Reality

 

great enlightening being and company offered these to the Buddha, then

went to the zenith, magically produced towers of various arrays of diamonds

as well as lion thrones of the universally good enlightening being hiside

emerald lotuses, and sat thereon, having covered their bodies with nets of

fiery jewels and put on crowns of jewels with crests of trailing strings of dia-

monds vibrating with the names of the buddhas of past, present, and future.

Thượng phương qua khởi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới hải, có thế giới tên là Thuyết Phật Chủng Tánh Vô Hữu Tận. Ðức Phật nơi đó hiệu là Phổ Trí Luân Quang Minh Âm.

Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ Tát hiệu là Pháp Giới Sai Biệt Nguyện, cùng thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu hội đồng đến chỗ đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Nơi tất cả tướng hảo, tất cả lỗ lông, tất cả thân phần, tất cả chi tiết, tất cả đồ trang nghiêm, tất cả y phục hiện ra tất cả chư Phật quá khứ như đức Tỳ Lô Giá Na v.v… tất cả chư Phật vị lai hoặc đã được thọ ký hay chưa được thọ ký, hiện tại mười phương tất cả quốc độ tất cả chư Phật và chúng hội. Cũng hiện ra những bổn sự hải thật hành Ðàn Ba la mật và tất cả người thọ bố thí thuở quá khứ. Cũng hiện ra những bổn sự hải thật hành Thi Ba la mật thuở quá khứ. Cũng hiện những bổn sự hải thuở quá khứ thật hành nhẫn nhục Ba La mật cắt dứt chi thể tâm không động loạn. Cũng hiện những bổn sự hải thuở quá khứ thật hành Tinh tấn Ba la mật dũng mãnh bất thối. Cũng hiện những bổn sự hải thuở quá khứ cầu Như Lai Thiền Ba la mật hải mà được thành tựu. Cũng hiện những bổn sự hải thuở quá khứ cầu chư Phật chuyển pháp luân mà được thành tựu pháp phát tâm dũng mãnh tất cả đều xả bỏ. Cũng hiện những bổn sự hải thuở qúa khứ thích thấy chư Phật, thích hành Bồ Tát đạo, thích giáo hoá chúng sanh. Cũng hiện những bổn sự hải thuở quá khứ những Bồ Tát đại nguyện thanh tịnh trang nghiêm. Cũng hiện những bổn sự hải thuở quá khứ chư Bồ Tát thanh lực Ba la mật dũng mãnh thanh tịnh. Cũng hiện những bổ sự hải thuở quá khứ tất cả Bồ Tát tu viên mãn trí Ba la mật. Tất cả những bổ sự hải như vậy thảy đều đầy khắp quảng đại pháp giới.

Khi đã đến chỗ đức Phật, chư Bồ Tát đảnh lễ chân đức Phật, liền ở Thượng phương hóa làm lâu các kim cang tạng trang nghiêm, và toà sư tử liên hoa tạng đế thanh kim cang vương, dùng lưới bửu quang minh ma ni vương choàng trên thân dùng ma ni bửu vương diễn thuyết tam thế Như Lai danh hiệu làm minh châu trên mão, cùng các quyến thuộc ngồi kiết già trên tòa đó.

 

All those enlightening beings, with their retinues, were born of the prac-

tices and vows of the Universally Good enlightening being; they had the

pure eye of knowledge to see all buddhas face to face; they were endowed

with the acute ears to hear the ocean of teachings of all buddhas; they had

reached the ultimate transcendent attainment of the masteries of all enlight-

ening beings; from moment to moment they issued manifestations of gofng

to all buddhas; they were in the range of pervading all worlds with one body;

they had luminous bodies appearing in the circles of the eongregations of all

buddhas; they were in the realm of showing the reflections of all worlds and

one world eontained in each other in a single atom; they had the power to

guide and develop all people with appropriate timing; they were in the

realm of emitting clouds of teachings of all buddhas from every pore; they

had attained the knowledge that all realms of beings are like illusions; they

had realized that all buddhas are like reflections; they knew that all exis-

tence, states of beings, and births are like dreams; they had pure knowledge

that all developments of actions are like images in a mirror; they were

intensely aware that all becoming is like a mirage; they perceived that all

worlds are like emanations; they had attained the illumination of the knowl-

edges of the ten powers of buddhas; they were fearless and mighty, able to

roar the lion’s roar; they had entered the inexhaustible ocean of analytic

knowledge; they had attained knowledge of expressions of principles of the

ocean of histruments of thought of all people; they coursed in the knowl-

edge of the unobstructed space of the reality realm; they had attained

unimpeded knowledge of all things; they had purified the spheres of

superknowledges of all enlightening beings; they had the rigor to roust out

all bands of demons; they stood firm in the power of knowledge of past,

present, and future; they had attained unobstructed omniscience; they

coursed in the space of independence; they were powerful in the space of the

effortless stage of omniscience; they coursed in knowledge of the

ungraspability of al 1 existence; they had exposed the knowledge of the ocean

of principles of all realms of reality; they had entered the door of

nondiscriminatory knowledge of all worlds; they demonstrated the mutual

interpenetration of all worlds; they manifested incarnation in all realms of

being; they knew the various forms of all worlds, subtle and gross, broad and

narrow; they had attained knowledge of the interpenetration of minute

objects and immense lands; they could reach all buddhas in a single moment

of thought; they had the body of knowledge of all buddhas; they had

attained unconfused knowledge of all regions; they could pervade the ocean

of all locations in a single moment of thought by mystic metamorphosis.

 

Page 1146 – The Flower Ornament Scripture

 

The whofe Jeta grove became hilled with enlightening beings of such

immeasurable attainments, by the power of the buddhas.

Mười phương tất cả Bồ Tát và quyến thuộc đều từ trong hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát mà sanh, dùng trí nhãn thanh tịnh thấy tam thế Phật, khắp nghe tu đa la hải của chư Phật chuyển pháp luân, đã được đến nơi tất cả Bồ Tát tự tại bĩ ngạn. Trong mỗi niệm hiện đại thần biến. Gần gũi tất cả chư Phật Như Lai. Một thân đầy khắp tất chúng hội đạo tràng của tất cả Như Lai trong tất cả thế giới. Trong mỗi vi trần, hiện khắp tất cả cảnh giới thế gian. Giáo hóa thành tựu tất cả chúng sanh chưa từng lỗi thời. Trong một lỗ lông phát ra âm thanh thuyết pháp của tất cả Như Lai. Biết tất cả chúng sanh thảy đều như huyễn. Biết tất cả đức Phật thảy đều như ảnh. Biết tất cả loài thọ sanh thảy đều như mộng. Biết tất cả nghiệp báo thảy đều như tượng trong gương. Biết tất cả những gì có sanh khởi thảy đều như ánh nắng gắt. Biết tất cả thế giới đều như biến hóa. Thành tựu Thập lực vô uý của đức Như Lai. Dũng mãnh tự tại hay sư tử hống. Vào sâu trong biển cả vô tận biện tài. Ðược ngôn từ hải của tất cả chúng sanh. Những pháp trí nơi hư không pháp giới, việc làm vô ngại. Biết tất cả pháp không chướng ngại. Tất cả Bồ Tát thần thông cảnh giới đều đã thanh tịnh. Dũng mãnh tinh tấn xô dẹp ma quân. Hằng dùng trí huệ thấu rõ tam thế. Biết tất cả pháp dường như hư không, chẳng có nghịch trái cũng không chấp lấy. Dầu siêng tinh tấn mà biết nhứt thiết trí trọn không chỗ đến. Dầu quán cảnh giới mà biết tất cả những gì có đều là bất khả đắc. Dùng trí phương tiện nhập tất cả pháp giới. Dùng trí bình đẳng nhập tất cả quốc độ. Dùng sức tự tại khiến tất cả thế giới xoay vần nhập nhau. Xứ xứ thọ sanh trong tất cả thế giới. Thấy những loại hình tướng của tất cả thế giới. Nơi cảnh vi tế hiện cõi quảng đại. Nơi cảnh quảng đại hiện cõi vi tế. Nơi một chỗ đức Phật, trong khoảng một niệm được tất cả đức Phật oai thần gia hộ. Thấy khắp mười phương không bị mê lầm. Trong khoảng sát na đều có thể qua đến.

Tất cả Bồ Tát có công đức trí huệ vô biên như vậy ngồi đầy trong rừng Thệ Ða. Ðây là nương thần lực của đức Như Lai.

 

The great disciples, however — Shariputra, Maudgalyayana,

Mahkashyapa, Revata, Subhuti, Aniruddha, Nandika, Kapphina,

Katyayana, Purnamaitrayaniputra, and so so — did not see the transfigura-

tion of the Buddha in the Jeta grove, the adornments of the Buddha, the

majesty of the Buddha, the freedom of the Buddha, the magic of the Bud-

dha, the mastery of the Buddha, the miracle performed by the Buddha, the

light of the Buddha, the power of the Buddha, or the Buddha’s purification

of the land; nor did they see the inconceivable sphere of the enlightening

beings, the descent of the enlightening beings, the gathering of the enlight-

ening beings, the descent of the enlightening beings, the approach of the

enlightening beings, the miracle of the enlightening beings, the magic of

the enlightening beings, the circles of the enlightening beings, the locations

of the enlightening beings, the array of lion thrones of the enlightening

beings, the mansions of the enlightening beings, the deportment of the

enlightening beings, the enlightening beings’ mastery of concentration, the

enlightening beings’ observation, the enlightening beings’ emergence, the

enlightening beings’ vigor, the enlightening beings’ offerings to the Bud-

dha, the enlightening beings’ bequest of enlightenment, the enlightening

beings’ development, the enlightening beings’ strength, the enlightening

beings’ clarification of the reality-body, the enlightening beings’ fulfill-

ment of the body of knowledge, the enlightening beings’ manifestation of

the body of vows, the enlightening beings’ perfection of the physical body,

the enlightening beings’ purification of excellence of attributes, the

enlightening beings’ array of spheres of light of eternal power, the enlight-

ening beings’ radiation of networks of light beams, the enlightening beings’

emission of clouds of emanations, the enlightening beings’ pervasion of the

network of all regions, or the transfiguration of the sphere of actions of

enlightening beings.

Lúc đó chư thượng thủ đại Thanh Văn các Trưởng lão : Xá Lợi Phất, Ðại Mục Kiền Liên, Ma Ha Ca Diếp, Ly Bà Ða, Tu Bồ Ðề, A Nâu Lâu Ðà, Na Ðà, Kiếp Tân Na, Ca Chiên Diên, Phú Lâu Na v.v… Chư đại Thanh Văn này ở tại rừng Thệ Ða mà đều chẳng thấy thần lực của Như Lai. Chẳng thấy sự nghiêm hảo của Như Lai. Chẳng thấy cảnh giới của Như Lai. Chẳng thấy sự du hí của Như Lai. Chẳng thấy sự thần biến của Như Lai. Chẳng thấy sự tôn thắng của Như Lai. Chẳng thấy sự diệu hạnh và oai đức của Như Lai. Chẳng thấy sự trụ trì của Như Lai. Chẳng thấy cõi thanh tịnh của Như Lai. Lại cũng chẳng thấy cảnh giới Bồ Tát bất tư nghì, Bồ Tát đại hội, Bồ Tát phổ nhập, Bồ Tát phổ chí, Bồ Tát phổ nghệ, Bồ Tát thần biến, Bồ Tát du hí, Bồ Tát quyến thuộc, Bồ Tát phương sở, Bồ Tát trang nghiêm sư tử tòa, Bồ Tát cung điện, Bồ Tát trụ xứ, Bồ Tát nhập tam muội tự tại, Bồ Tát quán sát, Bồ Tát tần thân, Bồ Tát dũng mãnh, Bồ Tát cúng dường, Bồ Tát thọ ký, Bồ Tát thành thục, Bồ Tát dũng kiện, Bồ Tát pháp thân thanh tịnh, Bồ Tát trí thân viên mãn, Bồ Tát nguyện thân thị hiện, Bồ Tát sắc thân thành tựu, Bồ Tát tướng hảo cụ túc thanh tịnh, Bồ Tát quang minh thường nhiều màu trang nghiêm, Bồ Tát phóng lưới đại quang minh, Bồ Tát khởi mây biến hóa, Bồ Tát thân khắp mười phương, Bồ Tát các hạnh viên mãn. Những sự như vậy, tất cả Thanh Văn đại A La Hán thảy đều không thấy.

 

Why didn’t the disciples see any of this? Because of lack of corresponding

roots of goodness. For they had not accumulated the roots of goodness eon-

ducive to vision of the transfiguration of all buddhas, and they had not had

the purifications of the arrays of qualities of all buddha-lands in the ten

directions described to them, and they had not had the various wonders of all

buddhas described to them by the buddhas, and they had not established

beings in supreme perfect enlightenment while they were invofved in the

world, and they had not histilled in others’ minds the determination for

enlightenment, and they were not capable of perpetuating the lineage of

buddhas, and they were not engaged in the salvation of all beings, and they

had not exhorted enlightening beings to practice transcendent ways, and

while they were invofved in the world they had not focused their minds on

the stage of knowledge superior to all worldlings, and they had not devel-

oped the foundations of goodness eonducive to omniscience, and they had

not perfected the transmundane roots of goodness of buddhas, and they had

not realized the miraculous superknowledge to purify all buddha-lands, and

 

Page 1147 – Entry into the Realm of Reality

 

they did not know the source of the great vow of enlightening beings,

which is the good root of concentration on unique world-transcending

enlightenment that represents the range of vision of enlightening beings,

and they were not born of the magical essence emanating from the power of

the enlightened, and because hearers and individual illuminates do not share

in the knowledge of enlightening beings’ controf over holding various per-

ceptions as in dreams, the growth of the current of joy of enlightening

beings, and the manifestations of the range of the eye of knowledge of the

universally good enlightening being.

Tại sao vậy?

Vì thiện căn chẳng đồng. Vì vốn không tu tập thiện căn thấy Phật tự tại. Vì vốn chẳng khen nói công đức thanh tịnh của tất cả Phật độ ở mười phương. Vì vốn chẳng ca ngợi những thần biến của chư Phật Thế Tôn. Vì vốn chẳng ở trong sanh tử phát tâm Vô thượng Bồ đề. Vì vốn chẳng làm cho kẻ khác phát tâm Bồ đề. Vì vốn chẳng có thể làm cho chủng tánh Như Lai không đoạn tuyệt. Vì vốn chẳng nhiếp thọ chúng sanh. Vì vốn chẳng khuyên kẻ khác tu hạnh Ba La mật của Bồ Tát. Vì lúc ở trong sanh tử lưu chuyển, vốn chẳng khuyên bảo chúng sanh cầu đại trí nhãn tối thắng. Vì vốn chẳng tu tập thiện căn phát sanh Nhứt thiết trí. Vì vốn chẳng thành tựu thiện căn xuất thế của Như Lai. Vì vốn chẳng được trí thần thông nghiêm tịnh Phật độ. Vì vốn chẳng được cảnh sở tri của Bồ Tát nhãn. Vì vốn chẳng cầu những thiện căn siêu xuất thế gian bất cộng Bồ đề. Vì vốn chẳng phát Bồ Tát đại nguyện. Vì sanh ra vốn chẳng từ sự gia bị của đức Như Lai. Vì vốn chẳng biết tất cả pháp như huyễn, chư Bồ Tát như mộng. Vì vốn chẳng được sự hoan hỷ quảng đại của chư đại Bồ Tát. Những điều trên đây đều là cảnh giới trí nhãn Phổ Hiền Bồ Tát chẳng cùng chung với tất cả hàng Nhị thừa. Do cớ này, nên chư đại Thanh văn không thấy được, chẳng biết được, chẳng nghe được, chẳng nhập được, chẳng chứng được, chẳng niệm được, chẳng quán sát được, chẳng tính lường được, chẳng tư duy được, chẳng phân biệt được. Thế nên dầu cũng ở trong rừng Thệ Ða mà chẳng thấy được những đại thần biến của Như Lai.

 

Because of that, those great disciples, who were the best of the best, did

not see the miracle of the Buddha, did not hear it, know it, realize it, pene-

trate it, did not fix their minds on it, did not notice it, did not focus their

attention on it, did not observe it, did not examine it, did not reflect on it,

did not contemplate it. Why? Because that is the sphere of buddhas, not the

sphere of disciples.

 

Therefore even though the disciples were in the very same Jeta grove,

they did not see those miracles of the Buddha. For indeed they did not have

the corresponding roots of goodness, they did not have that purity of the eye

of knowledge, whereby they could have seen the miracles of Buddha. They

did not know the concentration whose minute pofnt of focus would have

given them access to those vast magical manifestations. They did not know

that liberation or that spiritual capacity or that might or that power or that

mastery or that state or that perception or that power of vision whereby they

might recognize or see or penetrate or approach or discover or head for or

observe or experience or reveal to others or explain or show or describe or

make visible or arrive at or produce or lead beings into the cultivation and

realization of the realities of the miracles of Buddha. That knowledge did

not belong to them.

Lại vì chư đại Thanh Văn không có thiện căn như vậy, không có trí nhãn như vậy, không có tam muội như vậy, không có giải thoát như vậy, không có thần thông như vậy, không có oai đức như vậy, không có thế lực như vậy, không có tự tại như vậy, không có trụ xứ như vậy, không có cảnh giới như vậy, vì thế nên ở nơi đây không biết được không thấy được, không nhập được, không chứng được, không trụ được không hiểu được, không quán sát được, không nhẫn thọ được, không xu hướng được, không not theo được.

Lại cũng vì chẳng có thể vì người khác mà khai diễn giải thoát, tán thán thị hiện dắt dìu khuyến tấn, cho họ xu hướng, cho họ tu tập, cho họ an trụ, cho họ chứng nhập.

 

Why? Because they were emancipated by the vehicle of hearers, they had

realized the path of hearers, they had fulfilled the sphere of practices of

hearers, they were fixed in the fruit of hearers; they rested on the knowledge

of the light of truth, they were fixed at the limit of reality, they had gone to

the state of eternal peace, they had no thought of great compassion and had

no pity for the beings of the world; they had accomplished what they had to

do for themselves.

 

They had gathered in the Jeta grove and were sitting there, in front of,

behind, and to the left and right of the Buddha, in his presence, yet they did

not see the miracles of the Buddha in the Jeta grove. Why? It is not possible

for those who have not developed omniscient knowledge, have not accom-

plished omniscient knowledge, have not set out for omniscient knowledge,

have not resolved on omniscient knowledge, have not undertaken omnis-

cient knowledge, have not penetrated omniscient knowledge, have not

purif ied omniscient knowledge, to understand or become aware of or see or

discover the miraculous manifestation of the concentration of the Buddha.

Why? Because that is discernible only to the range of the vision of devel-

oped enlightening beings, not to the range of the vision of hearers. That is

 

Page 1148 – The Flower Ornament Scripture

 

why the great disciples, the great hearers, though in the Jeta grove, did not

see the transfiguration of the Buddha, the magical appearances of the Bud-

dha, the purifications of the buddha-land, the gathering of the enlightening

beings.

Tại sao vậy? Vì chư đại đệ tử y theo Thanh Văn thừa mà xuất ly, thành tựu Thanh Văn đạo, đầy đủ Thanh Văn hạnh, an trụ Thanh Văn qủa. Nơi chơn đế vô hữu được quyết định trí, trụ luôn nơi thiệt tế rốt ráo tịch tịnh, lìa xa đại bi, bỏ các chúng sanh an trụ nơi việc của mình. Nơi trí huệ kia chẳng chứa nhóm được, chẳng tu hành được, chẳng an trụ được, chẳng nguyện cầu được, chẳng thành tựu được, chẳng thanh tịnh được, chẳng xu nhập được, chẳng thông đạt được, chẳng thấy biết được, chẳng chứng đắc được. Vì thế nên dầu ở trong rừng Thệ Ða mà chẳng thấy được thần biến quảng đại của đức Như Lai.

 

The situation was like that of hundreds of thousands of ghosts gathered

on the bank of the great river Ganges, hungry and thirsty, naked, without

shelter, emaciated, dehydrated by the wind and heat, attacked by flocks of

crows, terrorized by wofves and jackals — they do not see the Ganges River,

or they may see it as dry, without water, or full of ashes, because they are

shrouded by actions that blind them. In the same way the old great disci-

ples there in the Jeta grove did not see or penetrate the transfigurations of

the Buddha, because they rejected omniscience and their eyes were veiled

by ignorance.

Chư Phật tử! Như ở bờ sông Hằng, có trăm ngàn ức vô lượng ngạ quỷ lõa lồ đói khát, khắp mình lửa cháy. Những quạ, kên kên, chó sói đua nhau rượt bắt. Các ngạ quỷ này vì quá khát muốn tìm nước uống, nhưng dầu ở bên sông mà chẳng thấy nước. Cũng có kẻ thấy sông nhưng lại thấy khô cạn.

Tại sao vậy? Vì các ngạ quỷ này bị nghiệp chướng sâu nặng che mờ.

Cũng vậy, chư đại Thanh Văn dầu đến ở trong rừng Thệ Ða mà chẳng thấy thần lực quảng đại của đức Như Lai. Vì bỏ Nhứt thiết chủng trí, bị màn vô minh che loà đôi mắt. Vì chẳng từng gieo trồng những thiện căn Nhứt thiết chủng trí.

 

It was like the case of a man who has dozed off in the daytime in the midst

of a large group of people and while asleep sees a celestial city with beautiful

mansions appearing there in his dream, and sees the whofe summit of the

polar mountain, with groves and gardens, with innumerable nymphs all

around, innumerable godlings living there, and various celestial flowers

scattered about, and sees wish-fulfilling trees providing various celestial

garments, jewel ornaments, and flower garlands, and sees musical trees pro-

ducing all kinds of sweet celestial sounds, and many kinds of forms of

pleasure and diversion, and hears the sweet sounds of the music and singing

of the heavenly nymphs, and perceives himself as being there, seeing the

adornment of the celestial arrays all over the place. The group of people who

are there in the same place do not see this, are not aware of it, do not observe

it, because it is the vision of the man in his dream, not the vision of the group

of people in the same place. In the same way the enlightening beings and the

world rulers on the verge of enlightenment, by virtue of the tremendous

power of the Buddha, by the attainment of their own roots of goodness, by

their own undertaking of the vow for omniscience, by development of the

qualities of all buddhas, by stabilization in the magnificent path of enlight-

ening beings, by accomplishment of the outgrowths of the teachings of all

aspects of omniscient knowledge, by fulfillment and purification of the

higher aspirations of the acts of the Universally Good enlightening being,

by entering the spheres of knowledge of all the stages of enlightening

beings, by mastery of all the states of concentration of enlightening beings,

and by unhindered contemplation of all the spheres of knowledge of

enlightening beings, saw the inconceivable power and mastery of the Bud-

dha, understood and comprehended, whereas the great disciples, the best of

the best, did not see or understand, because they did not have the eye of

enlightening beings.

Ví như có người ở giữa đại hội ngủ say chiêm bao thấy trên đảnh núi Tu Di, Thiên Ðế ngự nơi thành Thiện Kiến, cung điện vườn cây các thứ nghiêm tốt. Ngàn muôn ức Thiên Tử Thiên nữ. Thiên hoa rải khắp mọi nơi. Những y thọ sanh ra y phục đẹp. Những hoa thọ đơm nở hoa đẹp. Những âm nhạc thọ trổi thiên âm nhạc. Những thiên thể nữ ca ngâm tiếng tốt. Vô lượng chư thiên ở trong đó vui chơi. Người nằm mộng này tự thấy mặc thiên y đi dạo khắp Thiên cung.

Ở trong đại hội tất cả mọi người dầu đồng ở một chỗ mà chẳng thấy chẳng biết cảnh giới Thiên cung như vậy.

Cũng vậy, tất cả Bồ Tát vì từ lâu chứa nhóm thiện căn, vì phát nguyện quảng đại cầu Nhứt thiết chủng trí, vì học tập tất cả Phật công đức, vì tu hành đạo trang nhgiêm của Bồ Tát, vì viên mãn pháp Nhứt thiết chủng trí, vì đầy đủ những hạnh nguyện Phổ Hiền, vì xu nhập trí địa của tất cả Bồ Tát, vì du hí những tam muội sở trụ của tất cả Bồ Tát, vì đã có thể quán sát Cảnh giới trí huệ của tất cả Bồ Tát không chướng ngại. Do đây nên đều thấy thần biến tự tại bất tư nghì của Như Lai Thế Tôn.

Tất cả Thanh Văn đều chẳng thấy được, đều chẳng biết được, vì không có thanh tịnh nhãn của Bồ Tát.

 

On the snowy king of mountains are many medicinal herbs, which some-

one who is expert in secret lore and medicine, knowing all the principles of

herbal medicine, may go and pick, while herders and hunters on the same

mountain, ignorant of herbal medicine, do not know the essence, energy,

results, efficacy, or method of application of the herbs. In the same way.

 

Page 1149 – Entry into the Realm of Reality

 

those enlightening beings who had entered the sphere of knowledge of bud-

dhas and produced the transformed perceptions of enlightening beings were

aware of the transfigured perceptions of the concentration of Buddha, while

the great disciples, even though they were there in the same Jeta grove,

being satisfied with their own task and having no desire to work for others,

being indifferent, dwelt in the feeling of bliss because they were in a condi-

tion of bliss in their present state and so were not aware of the perceptions of

the concentration and miraculous transfiguration of Buddha.

 

This earth is abundantly endowed with mines of jewels of all kinds, with

hundreds of thousands of deposits, filled with endless supplies of various

jewels. Someone who has acquired knowledge of precious substances, sees

where the deposits are, has thoroughly studied the appropriate science and

technotogy, and is supported by immense virtue and strength, then can take

jewels and enjoy himself as he wishes, properly honor his parents, support

his wife and children, and also distribute them evenly to the old, the poor,

the destitute, the unfortunate, those without food and clothing. On the

other hand, those who do not know about the deposits of jewels, who have

not done good works, and have not clarified the eye of knowledge of the

precious, do not discover the jewel mines in spite of the fact that they are

walking on them — they do not take the jewels and do not do what can be

done with jewels. Similarly, the enlightening beings in the Jeta grove who

had clarified the eye of knowledge of the inconceivable sphere of Buddha

and who had entered the sphere of the inconceivable knowledge of Buddha

saw the miraculous transfigurations of Buddha, entered the oceans of princi-

ples of the Buddha teachings, attained oceans of concentrations, engaged in

the service of the buddhas, took to embracing all truths, took all beings into

their care with the four means of integration. The great disciples, however,

did not see or notice the transfigurations of the Buddha or the great assem-

bly of the enlightening beings.

 

It was, again, as if a man came to a land of jewels with his eyes blindfolded

by a rag: he might walk around, stand, sit, and lie there, but he would not see

the masses of jewels, he would not see the jewel trees, jewel clothes, jewel

fragrances, or any of the other jewels. Furthermore, he would not know the

use, value, or enjoyment of those jewels. He would not take the jewels and

would not know what to do with the jewels. Someone whose eyes were

uncovered, however, would see and distinguish them all. In the same way,

those enlightening beings, having come to the land of jewels of truth, where

the unsurpassed jewel of the enlightened, adornment of all worlds, was right

before them, standing in the Jeta grove, saw the Buddha displaying incon-

ceivable miraculous transfigurations. The great disciples, however, were

standing at the Buddha’s feet and gazing at the Buddha, but they did not see

the miraculous occurrence emanating from the sphere of the Buddha’s eon-

centration, and did not see the great treasury of jewels which was the great

assembly of enlightening beings. Why? They were inimical to omniscience,

their eyes covered with the rag of ignorance, and they had not clarified the

eye of unobstructed knowledge of enlightening beings, and they did not

 

Page 1150 – The Flower Ornament Scripture

 

 

realize that all things interpenetrate, which is how they could have seen the

miracle produced by the inconceivable power of the Buddha’s

concentration.

Ví như núi Tuyết đủ những dược thảo. Lương y đến đó đều có thể phân biệt biết. Còn những thợ săn, những người chăn súc vật thường ở trên đó mà chẳng thấy biết được thuốc.

Ðây cũng như vậy, bởi chư Bồ Tát nhập trí cảnh giới đủ sức tự tại, có thể thấy thần biến quảng đại của đức Như Lai.

Chư Thanh Văn đại đệ tử chỉ cầu tự lợi chẳng muốn lợi tha, chỉ cầu tự an chẳng muốn an tha, nên dầu ở trong rừng Thệ Ða mà chẳng thấy chẳng biết.

Ví như trong đất có mỏ thất bảo. Nhà bác học trí huệ sáng suốt, có thể khéo phân biệt biết thấy những mõ báu đó. Người này có đại phước đức nên tùy ý lấy dùng tự tại : Phụng dưỡng cha mẹ, cung cấp kẻ nghèo bịnh cơ hàn cô độc.

Những người không trí huệ không phước đức dầu cũng đến chỗ mõ báo mà chẳng biết chẳng thấy chẳng được lợi ích.

Cũng vậy, chư đại Bồ Tát có trí nhãn thanh tịnh có thể nhập cảnh giới thậm thâm bất tư nghì, thấy được thần lực của Phật, nhập được các pháp môn, du hành được tam muội hải, hay cúng dường chư Phật, hay dùng chánh pháp khai ngộ chúng sanh, hay dùng Tứ nhiếp pháp nhiếp thọ chúng sanh.

Chư đại Thanh Văn chẳng thấy được thần lực của Chư Phật, cùng chẳng thấy được chúng Bồ Tát.

Ví như người mù đến chỗ châu bảo, hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm vẫn chẳng thấy được châu bảo. Vì không thấy nên không lấy được, chẳng dùng được.

Ðây cũng như vậy, chư đại đệ tử Thanh Văn dầu ở rừng Thệ Ða thân cận đức Thế Tôn mà chẳng thấy thần lực tự tại của đức Thế Tôn, cũng chẳng thấy được đại hội Bồ Tát, vì không có tịnh nhãn vô ngại của đại Bồ Tát, nên chẳng có thể thứ đệ ngộ nhập pháp giới thấy thần lực tự tại của đức Như Lai.

 

Again, it is as if there is an eye-purifier called “possessed of undefiled bril-

liance,” which is incompatible with any darkness or obscurity: suppose

someone obtained it and with that eye-clarifier “possessed of undefiled bril-

liance” went in the dark of night among a huge crowd of people in various

postures unable to see in the darkness, and walked around, stood there, sat

down, and so on — those people would not see this person or distinguish

what he was dofng. On the other hand, this person would see the crowd of

people, their various postures, positions, locations, appearances, and dress.

In the same way, the Buddha, together with his company of enlightening

beings, having the pure unobstructed eye of knowledge, discerns and sees all

beings. Buddha shows the miracle emanated from the great concentration of

Buddha, but the great disciples did not see the miracle emanated from the

concentration of great knowledge of Buddha, or the great company of the

assembly of enlightening beings.

 

Also, it is as if a monk in the midst of a large group of people attained the

concentration of total absorption in earth or water or fire or wind, or total

absorption in blue, yellow, red, or white, or total absorption in heaven, or in

the bodies of various beings, or in all sounds, or in all objects, that group of

people would not see the body of water, would not see the realm of fire,

would not see the various bodies or totality of objects in which the monk’s

mind was absorbed, except for those who had themselves attained those

states of concentration. In the same way, the great disciples did not see the

Buddha’s revelation of the inconceivable wonder of the sphere of the eon-

centration of Buddha, while the enlightening beings who had attained the

path of the Buddha entered into the sphere of the Buddha.

Ví như có người được thanh tịnh nhãn gọi là ly cấu quang minh, tất cả màu tối không làm chướng được. Bấy giờ ở trong đêm tối có vô lượng ức người, hoăc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, hình tướng oai nghi. Người này ở trong đại chúng đó đều thấy biết rõ ràng. Còn đại chúng đó lại không thấy biết oai nghi tấn thối của người minh nhãn này.

Cũng vậy, đức Phật thành tựu trí nhãn thanh tịnh vô ngại thấy rõ tất cả thế gian.

Ðức Phật thị hiện thần thông biến hóa, chúng đại Bồ Tát câu hội. Hàng đại đệ tử Thanh Văn đều chẳng thấy được.

Ví như Tỳ Kheo ở giữa đại chúng nhập biến xứ định. Những là địa biến xứ định, thủy biến xứ định, hỏa biến xứ định, phong biến xứ định, thanh biến xứ định, huỳnh biến xứ định, xích biến xứ định, bạch biến xứ định, thiên biến xứ định, chúng sanh thân biến xứ định, ngữ ngôn âm thanh biến xứ định, cảnh duyên biến xứ định. Người nhập định này thấy những cảnh đó. Những người khác không thấy được. Chỉ trừ người trụ trong chánh định này.

Cũng vậy, đức Như Lai hiện Phật cảnh giới bất tư nghì, Bồ Tát thấy cả, Thanh Văn chẳng thấy.

 

Again, it is as it there were an ofntment, which simply by being applied to

one’s eyes makes one invisible to others while one is able to see others. In the

same way Buddha, beyond the world, beyond the spheres of all beings, hav-

ing entered the sphere of omniscience, can be discerned by the eye of

knowledge of enlightening beings, and sees all beings in the world, but the

great disciples could not see those miracles of the Buddha.

 

It is also like the case of the celestial spirit born together with a person and

always associated with the person — the spirit sees the person, but the person

does not see the spirit. In the same way, the Buddha, in the sphere of omnis-

cience, manifested great miraculous transfigurations of Buddha in the midst

of the great assembly of enlightening beings, but the great disciples did not

see, did not notice, the miracle of the transfiguration of the Buddha or the

magical manifestation of the circle of enlightening beings.

Ví có người dùng thuốc ẩn thân tự thoa lên mắt, ở trong chúng hội tới lui ngồi đứng, không ai thấy được. Người này thời thấy tất cả những sự trong đại chúng.

Cũng vậy, đức Như Lai siêu quá thế gian, thấy khắp thế gian. Chẳng phải hàng Thanh Văn thấy được. Chỉ trừ chư đại Bồ Tát xu hướng cảnh giới Nhứt thiết trí.

Như người khi đã sanh ra thời có hai Thiên thần hằng theo kề. Một Thiên thần hiệu Ðồng Sanh. Một Thiên thần hiệu Ðồng Danh. Thiên thần thường thấy người. Người thời chẳng thấy được Thiên thần.

Cũng vậy đức Như Lai ở trong đại hội Bồ Tát hiện đại thần thông. Chư đại Thanh Văn đều chẳng thấy được.

 

Again, it is like the case of a monk who has attained perfect controf of

mind and has reached extinction of perception and sensation: he neither per-

ceives nor cognizes and does nothing with his six sense organs, but still is not

totally extinct. All the ordinary events of the world are gofng on there

where he is, but he does not perceive or cognize them, because of the

 

Page 1151 – Entry into the Realm of Reality

 

overmastery of the power of his concentration. In the same way, the great

disciples were in the Jeta grove and had the six sense faculties, but they did

not see, penetrate, perceive, or discern the miracle of the power emanated

from the concentration of the Buddha, nor did they gain access to, see, or

cognize the great gathering of the enlightening beings, the miracle of the

enlightening beings, the transfiguration of the enlightening beings. Why?

The sphere of Buddha is indeed profound, vast, immeasurable, difficult to

see, difficult to realize, difficult to plunge into, completely beyond all

worldlings: for all disciples and individual illuminates, the sphere of Buddha

is unthinkable and ungraspable. Therefore, the great disciples, even though

they were there in the Jeta grove at the feet of the Buddha, did not see the

transfigurations of the Buddha, and they did not see or apprehend the great

gathering of enlightening beings or their concentration of the arrays of

qualities of enlightening beings or their concentration of the arrays of quali-

ties of inconceivable, innumerable purified worlds in the Jeta grove, because

they did not have the capacity to do so.

 

At that time the enlightening being Light from the Origin of the Vows of

the Illumination, by the power of Buddha, looked over the ten directions

and then spoke these verses:

Ví như Tỳ Kheo được tâm tự tại nhập diệt tận định, sáu căn chẳng hiện hành, chẳng hay chẳng biết tất cả ngữ ngôn. Vì định lực chấp trì nên chẳng nhập diệt.

Cũng vậy, tất cả đại Thanh Văn dầu ở tại rừng Thệ Ða, đủ cả sáu căn mà đối với những sự tự tại của Như Lai cùng chúng hội Bồ Tát, chẳng biết chẳng thấy, chẳng hay chẳng nhập.

Tại sao vậy? Vì cảnh giới của đức Như Lai thậm thâm quảng đại, khó thấy, khó biết, khó suy, khó lường. Siêu xuất thế gian chẳng thể nghĩ bàn, chẳng gì làm hoại được. Chẳng phải cảnh giới của hàng Nhị thừa. Vì thế nên Như Lai tự tại thần lực và chúng hội Bồ Tát cùng rừng Thệ Ða, cùng khắp tất cả thanh tịnh thế giới. Những sự như vậy, chư đại Thanh Văn đều chẳng thấy biết, vì họ chẳng phải căn khí này.

Lúc đó, Tỳ Lô Giá Na Nguyện Quang Minh Bồ Tát, thừa Phật thần lực, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng:

 

See how inconceivable is the enlightenment of Buddha, the best of beings:

In the Jeta grove he shows the Victor’s transfiguration of the enlightened.

 

He exercises incalculable independent power.

Whereat the world is confused, not knowing Buddha’s qualities.

 

Profound is the miracle worked by the Spiritual Sovereign,

Infinite, inconceivable, beyond the range of the world.

 

The buddhas are adorned with infinite attributes.

But the truths revealed by the buddhas are signless.

 

The Victor shows transfigurations in the Jeta grove,

Boundlessly deep, most hard to put into words.

 

The enlightening beings do not look at the assembly of saints.

Having come from innumerable lands to see the Buddha.

 

They have attained the sphere of unobstructed, unattached action

By their determination; no one in the world can know their will.

 

All those enlightened on their own and the disciples all around

Do not know their dofngs or their state of mind.

 

The enlightening beings, great in wisdom, are invulnerable, invincible,

Paragons of herofsm, undefiled, certain of the stage of knowledge;

 

Page 1152 – The Flower Ornament Scripture

 

Beyond measure, of great fame, they have attained concentration

And display a miracle extending throughout the cosmos.

Các ngài nên quán sát

Phật đạo bất tư nghì

Nơi rừng Thệ Ða này

Thị hiện thần thông lực.

Oai thần lực của Phật

Biến hiện vô ương số

Tất cả các thế gian

Mê lầm chẳng rõ được.

Pháp vương pháp thâm diệu

Vô lượng khó nghĩ bàn

Hiện ra những thần thông

Thế gian chẳng lường được.

Vì biết pháp vô tướng

Thế nên gọi là Phật

Mà đủ tướng trang nghiêm

Xưng dương chẳng kể hết.

Nay ở trong rừng này

Thị hiện đại thần lực

Rất sâu vô biên lượng

Ngôn từ không biện được.

Ngài xem đại oai đức

Vô lượng chúng Bồ Tát

Mười Phương những quốc độ.

Mà đến thấy Thế Tôn.

Chỗ nguyên đều đầy đủ

Chỗ làm không chướng ngại

Tất cả các thế gian

Không ai suy lường được.

Tất cả chư Duyên Giác

Và đại Thanh Văn kia.

Thảy đều chẳng biết được

Bồ Tát hạnh cảnh giới.

Bồ Tát đại trí huệ

Các địa đều rốt ráo

Dựng cao tràng dũng mãnh

Khó xô khó động được.

Những bực Ðại Danh xưng

Vô lượng tam muội lực

Hiện ra những thần biến

Pháp giới đều sung mãn.

 

Then the enlightening being King of Invincible Energy, by the power of

Buddha, looked over the ten directions and spoke these verses:

Bấy giờ, Bất Khả Hoại Tinh Tấn Vương Bồ Tát thừa Phật thần lực, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng:

 

Full of virtue and great knowledge, gone to the goal of enlightening practice,

Givers of security to all worlds — behold these, the offspring of Buddha,

Intelligent, with boundless wisdom and well-concentrated minds,

In the realm of boundlessly deep and broad knowledge.

 

The great grove called Jeta, where the perfect Buddha sojourns.

Is adorned with magnificent arrays and filled with enlightening beings.

 

See the Great Oceans, nonreliant, independent,

Sitting on lotus thrones, having come from the ten directions:

Not resting on anything, not grasping, free from falsehood, without abode,

With unattached minds, dispassionate, set on the reality realm.

 

Exemplars of knowledge, great heroes, with unshakable adamant minds,

In the midst of unperishing truths, they make a show of nirvana.

 

They have come together from countless worlds in the ten directions.

Come to the Buddha, without any notions of duality.

 

They see the miraculous transfiguration of the autonomous Buddha,

By the power of which these enlightening beings have come.

 

They are nondiscriminatory in regard to Buddha teachings and the plane of realities;

The offspring of Buddha have thoroughly realized that distinctions are merely mundane conventions.

 

The buddhas stand in the undifferentiated ultimate limit of the reality realm,

Yet show the differentiation of things by inexhaustible sayings.

Ngài xem các Phật tử

Trí tuệ tạng công đức

Rốt ráo hạnh Bồ đề

An ổn các thế gian.

Tâm Ngài vốn minh đạt

Khéo nhập những tam muội

Trí huệ vô biên tế

Cảnh giới không lường được.

Nay rừng Thệ Ða này

Mọi sự đều nghiêm sức

Chúng Bồ Tát vân tập

Thân cận bên Như Lai

Ngài xem vô lượng chúng

Những bực vô sở trước

Mười phương đến chỗ này

Ngồi toà bửu liên hoa.

Không đến cũng không ở

Không dựa không hí luận

Tâm ly cấu vô ngại

Rốt ráo nơi pháp giới

Kiến lập tràng trí huệ

Kiên cố chẳng động lay

Biết pháp không biến hoá

Mà hiện sự biến hoá

Mười phương vô lượng cõi

Tất cả chỗ chư Phật

Ðồng thời đều qua đến

Mà cũng chẳng phân thân

Ngài xem Thích Sư Tử

Sức thần thông tự tại

Hay khiến chúng Bồ Tát

Tất cả đều đến họp

Tất cả những Phật pháp

Pháp giới đều bình đẳng

Ngôn thuyết nên chẳng đồng

Chúng này đều thông đạt.

Chư Phật thường an trụ

Pháp giới bình đẳng tế

Diễn nói pháp sai biệt

Ngôn từ vô cùng tận.

 

Then the enlightening being King of Fiery Energy of Universal Splen-

dor, by the power of Buddha, looked over the ten directions and spoke

these verses:

Bấy giờ, Phổ Thắng vô Thượng Oai Ðức Vương Bồ Tát thừa Phật thần lực, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng:

 

See the immense sphere of knowledge of the best of beings;

Knowing when is the right time and when not, he teaches the truth to people.

 

Page 1153 – Entry into the Realm of Reality

 

Destroying the various arguments marshaled by heretics.

He shows beings’ spiritual transfigurations according to their dispositions.

 

Buddha is not finite or infinite:

The great sage has transcended finitude and infinity.

 

Like the sun coursing through the sky giving light every day.

So does the sagacious guide appear, independent of past, present, and future.

 

As the sphere of the full moon shines at night.

So does one see the guide, full of pure qualities.

 

As the globe of the sun courses through space without stopping,

Such is the transfiguration of the Buddha.

 

Just as space is independent of all land.

So is the Buddha transfiguration of the Lamp of the World to be known.

 

As the earth is the support of all corporeal beings in the world.

In the same way is the wheel of teaching of the Lamp of the World steadfast.

 

As the wind blows swiftly through the sky, not sticking to anything.

In the same way does the nature of Buddha operate in the world.

 

Just as all lands are founded on a mass of water.

So are the buddhas of all times founded on a mass of knowledge.

Ngài xem vô thượng Sĩ

Trí quảng đại viên mãn

Khéo đạt thời phi thời

Vì chúng diễn thuyết pháp.

Xô dẹp chúng ngoại đạo

Tất cả những dị luận

Khắp tùy tâm chúng sanh

Vì hiện thần thông lực

Chánh Giác chẳng hữu lượng

Cũng lại chẳng vô lượng

Hoặc lượng, hoặc vô lượng

Mâu Ni đều siêu việt.

Như mặt nhựt trên không

Sof đến tất cả xứ

Phật trí cũng như vậy

Rõ thấu tam thế pháp.

Ví như chính đêm rằm

Vầng trăng không thiếu khuyết

Như Lai cũng như vậy

Bạch pháp đều viên mãn.

Như mặt nhựt trên không

Vận hành không tạm ngừng

Như Lai cũng như vậy

Thần biến thường tương tục.

Như mười phương quốc độ

Hư không chẳng chướng ngại

Thế đăng hiện biến hóa

Nơi thế cũng như vậy

Ví như đất thế gian

Chỗ nương của muôn loại

Chiếu thế đăng pháp luân

Làm chỗ nương cũng vậy

Ví như gió lốc mạnh

Thổi đi không chướng ngại

Phật pháp cũng như vậy

Mau khắp ở thế gian.

Ví như đại thủy luân

Thế giới nương trên đó

Trí huệ luân cũng vậy

Chỗ nương của chư Phật.

 

Then the enlightening being King of Unobstructed Splendor, by the

power of Buddha, looked over the ten directions and spoke these verses:

Bấy giờ, Vô Ngại Thắng Tạng Vương Bồ Tát thừa thần lực của Phật, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng:

 

Like a lofty mountain made of diamond

Does Buddha emerge in the world, savior of all beings.

 

Like the water of the ocean, immeasurable, pure.

Does the sight of Buddha stop the thirst of the world.

 

Just as the polar mountain emerges from the ocean water.

So does the Light of the World emerge from the ocean of truth.

 

Like an ocean filled with deposits of jewels

Is the Independent One’s histant awareness of endless knowledge.

 

Profound is the Guide’s knowledge, incalculable, infinite,

 

Page 1154 – The Flower Ornament Scripture

 

By which he shows infinite inconceivable Buddha transfigurations.

 

As an expert magician shows illusory forms,

Buddha, master of knowledge, displays transfigurations.

 

As a pure wish-fulfilling jewel grants what is desired.

The Victor fulfills the aspirations of those whose intentions are pure.

 

Like a luminous jewel shining,

Omniscience, pure, illumines beings’ minds.

 

Like an octagonal jewel facing all directions.

The Unobstructed Lamp illumines the cosmos.

 

Like a water-clarifying light purifying water.

Vision of Buddha purifies people’s senses.

Ví như đại bửu sơn

Lợi ích các hàm thức

Phật sơn cũng như vậy

Lợi ích khắp thế gian.

Ví như, đại hải thủy

Ðứng sạch không nhơ bợn

Thấy Phật cũng như vậy

Trừ được những khát ái

Ví như, Tu Di sơn

Ở ngay giữa đại hải

Thế Gian Ðăng cũng vậy

Có từ nơi pháp hải.

Như biển đủ châu báu

Người cầu đều đầy đủ

Vô sư trí cũng vậy

Người thấy đều khai ngộ.

Như Lai trí thậm thâm

Vô lượng cũng vô số

Thế nên thần thông lực

Thị hiện khó nghĩ bàn

Ví như, nhà huyễn giỏi

Thị hiện những sự vật

Phật trí cũng như vậy

Hiện những tự tại lực.

Ví như, như ý bửu

Hay thỏa mãn ý muốn

Ðấng tối thắng cũng vậy

Làm mãn nguyện thanh tịnh

Ví như, minh tịnh bửu

Chiếu khắp tất cả vật

Phật trí cũng như vậy

Chiếu khắp tâm quần sanh.

Ví như, bát diện bửu

Sof khắp cả các phương

Vô Ngại Ðăng cũng vậy

Chiếu khắp cả pháp giới

Ví như, thủy thanh châu

Hay làm trong nước đục

Thấy Phật cũng như vậy

Sáu căn đều thanh tịnh.

 

Then the enlightening being Supreme Moon of Vows Emanated

throughout the Cosmos, by the power of Buddha, looked over the ten directions and spoke these verses:

Bấy giờ, Hóa Hiện Pháp Giới Nguyện Nguyệt Vương Bồ Tát thừa Phật thần lực quán sát mười phương rồi nói kệ rằng:

 

As everywhere is made one hue by an emerald,

Vision of Buddha makes beings the hue of enlightenment.

 

In each atom Buddha shows transformation of various kinds.

Beyond measure, purifying the enlightening beings.

 

That is extremely profound, unlimited, hard to approach,

In the realm of knowledge of the wise, inaccessible to worldlings.

 

The full arrays of adornments purified by the works of Buddha

Are perceived by enlightening beings entering the reality realm.

 

The inconceivable buddha-lands where the Victor appears

Are filled with buddhas surrounded by the wise, everywhere.

 

The Teacher, master of all truths, the Hero of the Shakyas, has come forth:

It is his immeasurable miracle that has appeared.

 

You see the variety of the infinite deeds of the resofute:

The one of infinite splendor shows endless transformations.

 

The Leader of the World teaches the oftspring of Buddha about the reality realm;

 

Page 1155 – Entry into the Realm of Reality

 

And they develop the range of knowledge unattached in all things.

 

Buddha’s wheel of teaching turns by spiritual power.

Filled with hundreds of miracles, purifying all worlds.

 

In the realm of the Best of Beings, their sphere of knowledge purified,

The Great Dragons, rich in wisdom, liberate all beings.

Ví như đế thanh bửu

Hay làm xanh các màu

Người thấy Phật cũng vậy

Ðều phát hạnh Bồ đề.

Trong mỗi mỗi vi trần

Phật hiện thần thông lực

Khiến vô lượng vô biên

Bồ Tát đều thanh tịnh

Sức thậm thâm vi diệu

Vô biên chẳng thể biết

Cảnh giới của Bồ Tát

Thế gian chẳng lường được.

Ðức Như Lai hiện thân

Tướng thanh tịnh trang nghiêm

Vào khắp những pháp giới

Thành tựu các Bồ Tát

Nan tư Phật quốc độ

Trong đó thành Chánh giác

Tất cả chư Bồ Tát

Thế chủ đều đầy dẫy.

Ðấng Thích Ca vô thượng

Nơi pháp đều tự tại

Thị hiện thần thông lực

Vô biên chẳng lường được.

Bồ Tát những công hạnh

Vô lượng cùng vô tận.

Như Lai tự tại lực

Vì Bồ Tát mà hiện

Phật tử khéo tu học

Những pháp giới thậm thâm

Thành tựu trí vô ngại

Biết rõ tất cả pháp.

Thiện thệ oai thần lực

Vì chúng chuyển pháp luân

Thần biến khắp sung mãn

Khiến thế gian thanh tịnh.

Như Lai trí viên mãn

Cảnh giới cũng thanh tịnh

Ví như đại Long Vương

Giúp khắp các quần sanh.

 

Then the enlightening being King of Fiery Energy of Truth, by the

power of Buddha, looked over the ten directions and spoke these verses:

 

The disciples trained in past, present, and future, foremost sages,

Do not even know a footstep of a perfect buddha.

 

Even all individual illuminates

Do not know a footstep of the Profector.

 

How much less could ordinary beings know the Guide,

As they are bound in chahis and wrapped in the dark of ignorance.

 

Unquantifiable, the Victor cannot be known by any scales;

Endowed with unobstructed knowledge, Buddha transcends the path of words.

 

Radiant as the full moon, steady, adorned with a multitude of qualities.

He passes infinite eons creating transformations.

 

Thinking of the Buddha in every way with perfect concentration.

Even after untold billions of eons Buddha would still be inconceivable.

 

One cannot understand the limit of even a single attribute of the Independent,

Even while gazing on Buddha, for the qualities of Buddha are inconceivable.

 

Those who are intent on this, and whose minds delight therein,

Will attain these realms, which are so hard to see.

 

Valiant ones of great resources, intelligent, pure-minded, stable,

Enter into this teaching, made of endless virtue and knowledge.

 

Great is their aspiration, great their discipline of mind;

They will attain great enlightenment, having arrived at the sphere of the Victor.

Tam thế chư Như Lai

Thanh Văn đại đệ tử

Ðều chẳng biết được Phật

Sự cất chân hạ chân.

Quá khứ, hiện, vị lai

Tất cả hàng Duyên Giác

Cũng chẵng biết Như Lai

Sự cất chân hạ chân

Huống là các phàm phu

Kiết sử luôn buộc ràng

Vô minh che tâm thức

Mà biết được Ðạo Sư

Chánh Giác trí vô ngại

Siêu quá đường ngữ ngôn

Lượng kia chẳng lường được

Có ai thấy biết được.

Ví như minh nguyệt sáng

Không lường biên tế được

Phật thần thông cũng vậy

Chẳng thấy chung tận được,

Mỗi mỗi những phương tiện

Niệm niệm chỗ biến hoá

Ðều trong vô lượng kiếp

Tư duy chẳng biết được

Suy gẫm nhứt thiết trí

Pháp chẳng thể nghĩ bàn

Mỗi mỗi môn phương tiện

Chẳng biết được biên tế.

Nếu ai ở pháp này

Mà phát nguyện rộng lớn

Ở nơi cảnh giới này

Thấy biết chẳng khó lắm.

Dũng mãnh siêng tu tập

Biển pháp lớn khó nghĩ

Tâm đó không chướng ngại

Vào môn phương tiện này.

Tâm ý đã đều phục

Chí nguyện cũng rộng rãi

Sẽ được đại Bồ đề

Cảnh giới rất tối thắng.

 

Then the enlightening being Standard of Knowledge Scattering All

 

Page 1156 – The Flower Ornament Scripture

 

Bands of Demons, by the power of Buddha, looked over the ten directions

and spoke these verses:

Bấy giờ, phá Nhứt Thiết Ma Quân Trí Tràng Vương Bồ Tát thừa thần lực của đức Phật, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng:

 

Being the body of unobstructed knowledge, the Independent is incorporeal;

In the realm of inconceivable knowledge, that cannot be conceived.

 

The buddha-body is realized by inconceivable pure deeds;

Undefiled by the triple world, it shines with distinctive embellishments.

 

Universal light of the world, having clarified the reality realm.

It is also the door of enlightenment, the mine of all knowledge.

 

Dispassionate, free from falsehood, having shed all hindrances.

As the sun of the world Buddha radiates lights of knowledge.

 

That which removes the fears of existence and purifies those in the triple world,

The development of enlightening beings is thus the mine of buddhas’ enlightenment.

 

Buddha shows infinite forms without sticking to any form,

And shows those inconceivable forms through all living creatures.

 

No one can reach the end of the knowledge of Buddha,

By which inconceivable enlightenment is histantly clarified.

 

Inexhaustible exposition of knowledge, wherein are the buddhas of all times.

Is produced in a single histant, without any change in essence.

 

The wise seeker of enlightenment, engaged in endless action, should always think —

Although it be thought, no thought is born in this thought.

 

The inconceivable elements of buddhahood realized by the perfectly enlightened

Are profound beyond all telling, beyond the scope of words.

Trí thân chẳng phải thân

Vô ngại khó nghĩ bàn,

Dầu có ai nghĩ bàn

Tất cả không đến được.

Từ bất tư nghì nghiệp

Khởi thân thanh tịnh này

Thù đặc diệu trang nghiêm

Chẳng chấp nơi ba cõi

Quang Minh chiếu tất cả

Pháp giới đều thanh tịnh

Nghe Phật Bồ đề môn

Xuất sanh những trí huệ.

Như mặt nhựt thế gian

Phóng ánh sáng trí huệ

Xa rời những trần cấu

Diệt trừ tất cả chướng.

Thanh tịnh khắp ba cõi

Tuyệt hẳn dòng sanh tử

Thành tựu đạo Bồ đề

Xuất sanh Vô Thượng Giác.

Thị hiện vô biên sắc

Sắc này không sở y

Sở hiện dầu vô lượng

Tất cả bất tư nghì.

Bồ đề khoảng một niệm

Hay giác ngộ các pháp

Sao lại muốn nghĩ lường

Như Lai trí biên tế.

Một niệm đều thấu rõ

Tất cả pháp tam thế

Nên nói Phật trí huệ

Vô tận cũng vô hoại.

Người trí phải như vậy

Chuyên gẫm Phật Bồ đề

Gẫm này khó nghĩ bàn

Suy đó chẳng thể được

Bồ đề không thể nói

Siêu quá đường ngữ ngôn

Chư Phật từ đây sanh

Pháp này khó nghĩ bàn.

 

Then the enlightening being Flames of Knowledge of Vows of the Illu-

minator, by the power of Buddha, looked over the ten directions and spoke

these verses:

Bấy giờ Nguyện Trí Quang Minh Tràng Vương Bồ Tát, thừa thần của đức Phật, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng:

 

Those of unerring recoflection, pure, born of truth, of certain mind

 

Page 1157 – Entry into the Realm of Reality

 

And inconceivable wisdom, are inexhaustible oceans of enlightenment.

 

This is the sphere of action of those whose minds are resolved here on;

Their knowledge is unshakable, they have ended doubt.

 

They do not become depressed or dejected;

Their minds are on the way to buddhahood.

 

Filled with good qualities realized over countless eons.

The peerless seekers of knowledge dedicate them all.

 

They think about the course of life but do not take refuge in it —

They take refuge in the Buddha teachings, sporting in the realm of Buddha.

 

Whatever mundane fortune takes place in the world of sentient beings,

The resofute relinquish it all, for they are set on the attainment of buddhahood.

 

Vainly clinging, the world is always fettered —

There, those of unobstructed action are always set on the welfare of beings.

 

Unequaled in their action, inconceivable to all beings,

They eonsider the happiness of the world, whereby suffering is repelled.

 

They have purified knowledge of enlightenment and are sympathetic to all beings,

As lights of the world, emancipating all beings.

Nếu khéo quán sát được

Bồ đề vô tận hải

Thời lìa được niệm si

Quyết định thọ trì pháp.

Nếu được tâm quyết định

Thời hay tu diệu hạnh

Thiền tịch tự tư lự

Dứt hẳn những nghi hoặc.

Tâm đó chẳng mỏi mệt

Lại cũng chẳng biến lười

Lần lượt tăng tấn tu

Rốt ráo những Phật pháp

Tín trí đã thành tựu

Niệm niệm khiến tăng trưởng

Thường thích thường quán sát

Pháp vô đắc vô y.

Vô lượng ức ngàn kiếp

Tu những công đức hạnh

Tất cả đều hồi hướng

Ðạo vô thượng của Phật.

Dầu ở nơi sanh tử

Mà tâm không nhiễm trước

An trụ trong Phật pháp

Thường thích Như Lai hạnh.

Những sự có thế gian

Những pháp uẩn, xứ giới

Tất cả đều bỏ lìa

Chuyên cầu Phật công đức.

Phàm phu bị mê lầm

Thường lưu chuyển thế gian

Bồ Tát tâm vô ngại

Cứu họ được giải thoát.

Bồ Tát hạnh khó nói

Thế gian chẳng suy được

Trừ khắp tất cả khổ

Khắp ban quần sanh vui.

Ðã được Bồ đề trí

Lại thương các chúng sanh

Quang Minh chiếu thế gian

Ðộ thoát tất cả chúng.

 

Then the enlightening being Valiant One with Knowledge to Disperse

All Barriers, by the power of Buddha, looked over the ten directions and

spoke these verses:

Bấy giờ, Phá Nhứt Thiết Chướng Dũng Mãnh Trí Vương Bồ Tát, thừa Phật thần lực, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng:

 

The name of Buddha is hard to come by even in a billion eons —

How much more so the sight of Buddha, supreme, which ends all desires.

 

Buddha appears as the light of the world, gone to the goal of all truth.

Worthy of the offerings of the three worlds, purifier of all beings.

 

Those who regard the physical form of the impeccable best of beings

Never tire of it even in countless eons.

 

Offspring of the Victor looking at the form body of the Lord of Humans,

 

Page 1158 – The Flower Ornament Scripture

 

Unattached, dedicate themselves purely to enlightenment, seeking the highest goal.

 

This is the door to enlightenment, the corporeal embodiment of the Great Sage,

Whence issue unhindered, inexhaustible analytic intellectual powers.

 

Having illumined infinite beings, the Great Sage foretells their supreme

Enlightenment, having led them into the Great Vehicle.

 

The great field of blessings, a sphere of knowledge, has emerged

And illuminates infinite beings, increasing the mass of virtue.

 

There is no fear of evil ways for those who associate now with Buddha,

The one who cuts through the net of misery and purifies the mass of knowledge.

 

A great mind is born in those who see the Buddha,

Immeasurable wisdom and power is born, radiant as the moon.

 

They will be sure of enlightenment, having seen the Buddha,

And will be certain that they will become buddhas themselves.

Vô lượng ức ngàn kiếp

Phật danh khó được nghe

Huống lại được thân cận

Dứt hẳn những nghi lầm

Như Lai thế Gian Ðăng

Thông đạt tất cả pháp

Khắp sanh phước tam thế

Khiến chúng đều thanh tịnh.

Như Lai diệu sắc thân

Tất cả chúng kính khen

Ức kiếp thường chiêm ngưỡng

Tâm họ không nhàm đủ.

Nếu có càc Phật tử

Quán Phật diệu sắc thân

Tất bỏ luyến thế gian

Hướng về Bồ đề đạo.

Như Lai diệu sắc thân

Hằng diễn quảng đại âm

Biện tài không chướng ngại

Khai Phật Bồ đề môn.

Hiểu ngộ các chúng sanh

Vô lượng chẳng nghĩ bàn

Khiến vào môn trí huệ

Ðược thọ ký Bồ đề.

Như Lai xuất thế gian

Làm phước điền thế gian

Dắt dẫn các hàm thức

Khiến họ tu phước hạnh.

Nếu có cúng dường Phật

Trừ hẳn sợ ác đạo

Diệt trừ tất cả khổ

Thành tựu thân trí huệ.

Nếu thấy Lưỡng Túc Tôn

Hay phát tâm quảng đại

Người này hằng gặp Phật

Tăng trưởng sức trí huệ.

Nếu thấy Nhơn Trung Tôn

Quyết ý hướng Bồ đề

Người này tự biết được

Tất sẽ thành Chánh Giác.

 

Then the enlightening being King of Superknowledge Discerning the

Differentiations of the Plane of the Cosmos, by the power of Buddha,

looked over the ten directions and spoke these verses:

Bấy giờ, Pháp giới Sai Biệt Nguyện Trí Thần Thông Vương Bồ Tát, thừa Phật thần lực, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng:

 

Having seen the Sage endowed with infinite virtues,

The minds of those dedicated to the Great Vehicle are purified.

 

The buddhas appear for the welfare of all beings.

Universally compassionate, steadfast, turning the wheel of the teaching.

 

How can all creatures requite the buddhas’

Countless eons of dedication to their welfare?

 

It is better to burn in the fearsome three evils for eons

Than not to see the Teacher, who quells all attachments.

 

All the mass of suffering that takes place in all realms of being

Is toferable, but not deprivation of the sight of Buddha.

 

It is better to live long in every miserable way in the world

Than not to hear the buddhas.

 

Each eon spent even in hell is better

 

Page 1159 – Entry into the Realm of Reality

 

Then elsewhere apart from Buddha, distant from enlightenment.

 

What is the reason for wanting to live long amid calamities?

It is to see the Buddha and increase in Knowledge.

 

All miseries are ended once the Buddha has been seen.

And entry into knowledge takes place, into the sphere of the enlightened.

 

All obstructions are removed when Buddha is seen.

Increasing measureless virtue, whereby enlightenment is attained.

 

Sight of Buddha severs all doubts of sentient beings

And fulfills all purposes, mundane and transcendental.

Thích Ca Vô Thượng Tôn

Ðủ tất cả công đức

Người thấy tâm thanh tịnh

Hồi hướng đại trí huệ

Như Lai đại từ bi

Xuất hiện ở thế gian

Khắp vì các quần sanh

Chuyển pháp luân vô thượng.

Như Lai vô số kiếp

Cần khổ vì chúng sanh

Thế nào các thế gian

Báo được ơn đức Phật

Thà trong vô lượng kiếp

Thọ những khổ ác đạo

Trọn chẳng bỏ Như Lai

Mà cầu nơi xuất ly.

Thà thay các chúng sanh

Chịu đủ tất cả khổ

Trọn chẳng bỏ Như Lai

Mà cầu được an lạc.

Thà tại các ác thú

Hằng được nghe Phật danh

Chẳng muốn sanh thiện đạo

Tạm thời chẳng nghe Phật.

Thà sanh các địa ngục

Mỗi mỗi vô số kiếp

Trọn chẳng xa rời Phật

Mà cầu thoát ác thú

Cớ sao nguyện ở lâu

Tất cả các ác đạo?

Vì được thấy Như Lai

Trí huệ được trăng trưởng.

Nếu được thấy đức Phật

Diệt trừ tất cả khổ

Vào được cảnh đại trí

Của chư Phật Thế Tôn.

Nếu thấy được đức Phật

Bỏ rời tất cả chướng

Trưởng dưỡng phước vô tận

Thành tựu đạo Bồ đề.

Như Lai dứt hẳn được

Tất cả chúng sanh nghi

Tùy tâm họ sở thích

Ðiều khiến khắp đầy đủ.

 

Then the great enlightening being Universally Good, having looked over

the host of enlightening beings everywhere, to further analyze, discuss in

detail, explain, reveal, elucidate, bring to light, illumine, and pofnt out, by

means of the cosmos of truths, equal to the realm of space, equal to past,

present, and future, equal to the realm of realities, equal to the realm of

beings, equal to the realm of all worlds, equal to all sets of actions, equal to

the dispositions of beings, equal to the interests of beings, equal to the spe-

cific illustrations of truth, equal to the appropriate times for the maturation

of beings, and equal to the faculties of all beings, elucidated this “lion emer-

gence” concentration of Buddha by means of ten indications: indication of

the succession of all buddhas and the succession of lands in the atoms of the

buddha-lands throughout all universes; indication of the seeking and fof-

lowing of virtues of the buddhas in all buddha-lands in space throughout the

future; indication of buddhas emerging in all buddha-lands and showing the

ocean of infinitely various doors of enlightenment; indication of the hosts of

enlightening beings in the circles of the buddhas in the buddha-lands

throughout space facing the terrace of enlightenment; indication of pervad-

ing the cosmos in a moment of thought with emanations in the forms of the

buddhas of past, present, and future, emitted from every pore; indication of

the light of magical pervasion of all multitudes of lands in all the oceans in

all directions equally with one body; indication of revelation of the power of

concentration of all pasts, presents, and futures of the transfigurations of the

state of buddhahood in the surfaces of all objects; indication of manifestation

of the oceans of eons of various successive transfigurations of Buddha in the

lands of past, present, and future, equal to the atoms in all lands; indication

of the birth of enlightening beings from the endless power emanating from

every pore by the ocean of vows of all buddhas of past, present, and future;

indication of endless manifestation of varied expositions of truth amid equal

adornments of sites of enlightenment with circles of enlightening beings

around lion thrones equal in extent to the cosmos: “These ten, O offspring

of the Victor,” said Samantabhadra, the Universally Good enlightening

being, “are the first ten of as many expressions of the ‘lion emergence’ con-

 

Page 1160 – The Flower Ornament Scripture

 

centration as atoms in untold buddha-lands, which I follow. However, these

are the sphere of knowledge of those who arrive at Thusness.”

 

Then the enlightening being Universally Good, illuminating the expres-

sion of the meaning of the “lion emergence” concentration of Buddha, by

the empowerment of Buddha, while gazing on the face of Buddha, observ-

ing the ocean of assemblies everywhere, observing the infinitely various

transfigurations of the concentration of Buddha in the inconceivable sphere

of the enlightened, observing the magical nature of inconceivable knowl-

edge, and observing all teachings expressed in an inconceivably infinite

variety of manners of speaking, then uttered these verses:

Bấy giờ đức Phổ Hiền Bồ Tát quán sát khắp tất cả chúng hội Bồ Tát, dùng phương tiện đồng pháp giới, phương tiện đồng hư không giới, phương tiện đồng chúng sanh giới, đồng tam thế, đồng tất cả kiếp, đồng tất cả chúng sanh nghiệp, đồng tất cả chúng sanh dục, đồng tất cả chúng sanh giải, đồng tất cả chúng sanh căn, đồng lúc tất cả chúng sanh thành thục, phương tiện đồng tất cả pháp quang ảnh, vì chư Bồ Tát, dùng mười thứ pháp cú, khai phát hiển thị, chiếu rõ diễn thuyết sư tử tần thân tâm muội này.

Ðây là mười:

Diễn thuyết pháp cú có thể thị hiện đồng trong pháp giới tất cả Phật sát vi trần, chư Phật thứ đệ xuất thế, các cõi thứ đệ thành hoại.

Diễn thuyết pháp cú có thể thị hiện đồng trong hư không giới tất cả cõi Phật, tận vị lai kiếp âm thanh tán thán công đức của Như Lai.

Diễn thuyết pháp cú có thể thị hiện đồng trong hư không giới tất cả cõi Phật, Như Lai xuất thế vô lượng vô biên thành Chánh Giác môn.

Diễn thuyết pháp cú có thể thị hiện đồng trong hư không giới tất cả cõi Phật, đức Như Lai ngồi đạo tràng giữa chúng hội Bồ Tát.

Diễn thuyết pháp cú nơi tất cả lỗ lông niệm niệm xuất hiện đồng tam thế thân biện hóa của tất cả Chư Phật đầy khắp pháp giới.

Diễn thuyết pháp cú có thể làm cho một thân đầy khắp mười phương sát hải bình đẳng hiển hiện.

Diễn thuyết pháp cú có thể làm cho trong tất cả những cảnh giới hiện kháp tam thế Chư Phật thần biến.

Diễn thuyết pháp cú có thể làm cho trong tất cả Phật sát vi trần hiện khắp tam thế tất cả Phật sát vi trần số Phật, những thần trải qua vô lượng kiếp.

Diễn thuyết pháp cú có thể làm cho tất cả lỗ lông xuất sanh âm tahnh đại nguyện hải của tất cả tam thế Chư Phật, tận vị lai kiếp, khai phát hóa đạo tất cả Bồ Tát.

Diễn thuyết pháp cú có thẩ làm cho tòa sư tử củ Phật lượng đồng pháp giới, chúng hội Bồ Tát, đạo tràng trang nghiêm, tận vị lai kiếp chuyển những pháp luân vi diệu.

Chư Phật tử! Mười Pháp cú này làm đầu, có bất khả thuyết Phật sát vi trần số pháp cú đều là cảnh giới trí huệ của đức Như Lai.

Lúc đó đức Phổ Hiền muốn tuyên lại nghĩa này, thừa Phật thần lực, quán sát đức Như Lai, quan sát chúng hội, quán sát cảnh giới khó nghĩ bàn của Phật, quán sát vô biên tam muội của Chư Phật, quán sát những thế giới hải bất tư nghì, quán sát pháp trí như huyễn bất tư nghì, quán sát tam thế Chư Phật bất tư nghì thảy đều bình đẳng, quán sát vô lượng vô biên tất cả những pháp ngôn từ, rồi nói kệ rằng:

 

Like the atoms of all lands are the oceanic buddha-lands on a single hairtip:

Surrounded by a circle of enlightening beings, there Buddha rests on the throne of the enlightened.

 

In the ocean of buddha-lands on a single hair, on a lotus throne at the site of enlightenment

Extended throughout the cosmos, the Guide is seen at the trees of enlightenment.

 

Like the atoms in all lands are the buddhas assembled on a single hair:

Surrounded by a host of enlightening beings, they expound all good actions.

 

Buddha sits in one land pervading all lands;

Endless hosts of enlightening beings go there from everywhere.

 

Like atoms in countless lands, enlightening beings, radiant seas of virtue,

Should appear in the audiences of the Teachers, throughout the cosmos.

 

Appearing like reflections in all lands, oceans of knowledge of buddhas,

Established in good practices, they arrive in the assemblies of all buddhas.

 

Assembled everywhere in all lands, in the realm of the joy of enlightening practice,

Delighted in hearing the myriad teachings, they pass millions of eons in each land.

 

Enlightening beings carry out their practices coursing in the ocean of truth, emanating light;

They enter the oceans of vows, established in the sphere of buddhahood.

 

Born of the teachings of the buddhas, acting with universal good in mind,

They enter the oceans of qualities of buddhas, in vast transfigurations.

 

Page 1161 – Entry into the Realm of Reality

 

Pervading the refuge of the reality realm, they eonstantly emanate a cloud of bodies.

Many as atoms in all lands, with the rain of truth, for enlightenment.

Trong mỗi mỗi lỗ lông

Vi trần số sát hải

Ðều có đức Phật ngồi

Ðều đủ chúng Bồ Tát.

Trong mỗi mỗi lỗ lông

Vô lượng những sát hải

Phật ngự tòa Bồ đề

Khắp pháp giới như vậy.

Trong mỗi mỗi lỗ lông

Tất cả sát trần Phật

Chúng Bồ Tát vây quanh

Phật nói hạnh Phổ Hiền.

Phật ngồi một cõi nước

Ðầy khắp mười phương cõi

Vô lượng chúng Bồ Tát

Ðều vân tập chỗ Phật.

Ức cõi vi trần số

Bồ Tát công đức hải

Ðều từ trong hội khởi

Ðầy khắp mười phương cõi.

Ðều trụ hạnh Phổ Hiền

Ðều đi biển pháp giới

Hiện khắp tất cả cõi

Ðồng nhập hội chư Phật.

Ngồi an tất cả cõi

Lắng nghe tất cả pháp

Trong mỗi mỗi quốc độ

Ức kiếp tu các hạnh.

Bồ Tát chỗ tu hành

Khắp rõ pháp đại hải hạnh

Vào nơi đại nguyện hải

Trụ cảnh giới của Phật.

Thấu rõ hạnh Phổ Hiền

Xuất sanh các Phật pháp

Ðủ Phật công hải

Rộng hiện sự thần thông.

Thân vân khắp trần số

Ðầy khắp tất cả cõi

Khắp mưa pháp cam lộ

Cho chúng trụ Phật đạo.

 

Then the blessed Buddha, wanting to establish those enlightening beings

in this lion emergence concentration of buddhas, went on to emanate from

the circle of hair between his brows a light called “illumining past, present,

and future, showing all ways into the reality realm,” accompanied by as

many beams of light as atoms in untold buddha-lands, with which he illu-

mined all lands in all oceans of worlds in the ten directions.

Bấy giờ đức Thế tôn, vì muốn cho chư Bồ Tát an trụ trong Như Lai sư tử tần thân quảng đại tam muội, nên từ tướng bạch hào giữa chặng mày, phóng ra quang minh lớn gọi là phổ chiếu tam thế pháp giới môn, dùng bất khả thuyết Phật sát vi trần số quang minh mà làm quyến thuộc, chiếu khắp chư Phật quốc độ trong tất cả thế giới hải ở mười phương.

 

Then the enlightening beings who had gathered at the Jeta grove saw, in

every buddha-land in all universes throughout the farthest reaches of space,

in groups of buddha-lands within atoms of buddha-lands as numerous as

atoms in all buddha-lands, in buddha-lands of various powers, various puri-

ties, various locations, and various conditions, an enlightening being at the

summit of enlightenment sitting on a lion throne, attended by all world rul-

ers, surrounded by a multitude of enlightening beings, attaining unexcelled

supreme perfect enlightenment, here teaching in circles as vast as untold

buddha-lands with a sphere of sound pervading the cosmos, there gone to

the various realms of existence, or in the cities, towns, communities, and

nations of the human world, teaching the truth by means of various mira-

cles, various modes of conduct, various embodiments, various indications of

ways of concentration, various superknowledges from concentration,

appearing in various castes and races, with various auras of light, radiating

various webs of light beams, with various spheres of sound, in various con-

gregations, setting up various interlocutors, setting up various instructions,

in various words and expressions.

 

And, as those enlightening beings saw the transfigurations of the pro-

found concentration of the Buddha in all those assemblies, they saw

transfigurations of Buddha throughout the cosmos, in all worlds through-

out space, in the arrays of the ten directions, in the sets of cycles in all places,

in the confluence of all spaces, in the media of principles in the various

regions, in the various realms of conception, in the conjunctions of the vari-

ous regions, in the specific spaces of the various regions, in the oceans of all

regions — that is, in the north, south, east, west, northeast, southeast, south-

west, northwest, nadir, and zenith — in the places of the body of lands, in the

places of the body of beings, in the places that are in the conceptions of

beings, in the regions of past ages, in the regions of the present in the ten

directions, in every pofnt in all realms of space, in the locus of each and every

atom of all lands, in the pofnts of entry of all spaces, in the locations of

occurrence of performance of various actions, in the eonceptual locations of

infinite surfaces of space in a pofnt the size of a hairtip, those transfigura-

tions reflected in the minds of all living beings, using their languages, in the

perceptions of all living beings, without discrimination among beings,

equal in past, present, and future, coming forth equally everywhere as a

whofe, with physical forms coming to all assemblies, descending into the

 

Page 1162 – The Flower Ornament Scripture

 

presence of all bodies of beings, with the same knowledge in all ages, appear-

ing to all beings according to their mentalities, equally, everywhere in all

lands, elucidating the teachings of buddhas and guiding sentient beings

ceaselessly.

Lúc đó tại rừng Thệ Ða, Bồ Tát đại chúng đều thấy tất cả cõi Phật khắp pháp giới hư không giới. Trong mỗi mỗi vi trần đều tất cả Phật sát vi trần số Phật độ những danh, những sắc, những thanh tịnh, những trụ xứ, nhưng hình tướng.

Trong tất cả Phật độ như vậy đều có đại Bồ Tát ngồi đạo tràng trên tòa sư tử thành Ðẳng Chánh Giác. Ðại chúng Bồ Tát trước sau vây quanh. Các Thế Gian Chủ thời cúng dường.

Hoặc thấy ở trong bất khả thuyết Phật sát chúng hôi phát ra âm thanh vi diệu đầy khắp pháp giới chuyển chánh pháp luân.

Hoặc thấy tại Thiên cung điện, Long cung điện, dạ xoa cung điện, trong những cung điện của Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Nhơn Phi Nhơn v.v…

Hoặc thấy tại nhơn gian: Thôn ấp, tụ lạc, vương đô, đại xứ mà hiện những họ, những tên, những thân, những tướng, những quang minh. Trụ những oai nghi, nhập những tam muội, hiện những biến. Hoặc có lúc tự dùng những ngôn âm, hoặc làm cho những Bồ Tát ở trong những đại hội, dùng những ngôn từ thuyết những chánh pháp.

Trong hội này, đại chúng Bồ Tát thấy thậm thâm tam muội đại thần thôn lực, của chư Phật Như Lai như vậy.

Khắp pháp giới hư không giới, trong tất cả mười phương, nương nơi tâm tưởng của chúng sanh mà an trụ. Bắt đầu từ tiền tế nhẫn đến hiện tại nay, tất cả quốc độ thân, tất cả chúng sanh thân, tất cả hư không đạo, trong đó, nơi chỗ bằng đầu lông, mỗi mỗi đều có vi trần số cõi, do những nghiệp mà có ra, thứ đệ an trụ. Cũng đều có đạo tràng. Bồ Tát chúng hội như vậy mà thấy thần lực của Phật, chẳng hoại tam thế, chẳng hoại thế gian, ở trong tâm của tất cả chúng sanh mà hiện hình tượng. Tùy theo tâm sở thích của tất cả chúng sanh mà phát ra ngôn âm vi diệu vào khắp trong tất cả chúng hội, hiện khắp trước tất cả chúng sanh. Sắc tướng có khác mà trí huệ không khác. Tùy sở nghi mà khai thị Phật pháp, giáo hoá điều phục tất cả chúng sanh chưa lúc nào nghĩ.

 

All of them were united by the blessed Vairocana Buddha, by the four

integrative methods, by equality of past virtuous actions; they were fully

developed by seeing, hearing, and remembering; they had already set their

minds on supreme enlightenment; gofng to the buddhas here and there,

they were united by fundamental virtues: in accord with the sameness of

their roots of goodness and adoption of means of developing omniscience,

the enlightening beings gained access to the protections of the eoncentra-

tion of the blessed Vairocana, which extended throughout the cosmos, to

the farthest reaches of space. Some comprehended the reality-body, some

the form-body, some the past attainment of Vairocana as an enlightening

being, some the fulfillment of the ways of transcendence, some the pure

adornment of the sphere of action, some the mystic protection of the stages

of enlightening, some the mystical protection of perfect enlightenment,

some the unconfused mystical protection of the concentrations in which

buddhas sojourn, some the powers and fearlessnesses of buddhas, and some

comprehended the ocean of analytic powers of buddhas — they entered into

as many such oceans of mystical protections of Buddha as there are atoms in

ten inexpressible numbers of buddha-lands. They entered those oceans of

mystical protections of Buddha by way of various devotions, various paths,

various doors, various entries, various penetrations, various methods, vari-

ous approaches, various directions, various capacities, various places, various

worlds, various attainments, various provisions, various transformations,

various means, and various concentrations. Those enlightening beings

gained access to the mystical protections, the miraculous transfigurations, of

the blessed Buddha Vairocana by means of such enlightening beings; eon-

centrations as these — adornment of the entire cosmos, illumination of the

realm of unobstructed knowledge of all times, light of knowledge of the

continuity of the planes of the cosmos, entry into the plane of the sphere of

those who realize Thusness, illumination of the plane of space, free access to

the ten powers of buddhas, bold emergence adorned by the fearlessness of

the enlightened, whirlpoof of the principles of the reality realm, moon per-

vading all universes with unhindered sound, and light of principles of

universal order.

 

Those enlightening beings also entered the oceans of mystical protections

of buddhahood of the blessed Vairocana by way of such enlightening eon-

centrations as those known as emblem of the king of truth crowned by

nonattachment, seeing oceans of buddhas in all objects, emblem of reflec-

tion of the different bodies of all realms of being, entry into the unalloyed

sphere of the body of those who arrive at Thusness, eontainer of compassion

gofng along with the whirl of all worlds, founded on the power based on all

truths, sphere of revelation of ultimately quiescent indifferent equality, uni-

versally projected reflection emanated purely without attachment, occult

 

Page 1163 – Entry into the Realm of Reality

 

manifestation of the unity of all lands, effectuation of the manifestation of

attainment of enlightenment in all buddha-lands, comprehension of

embodiment of all oceanic virtues, endless spiritual power to effect the mys-

tical transfiguration of all objects, entry into the ocean of past practices of all

buddhas, basis of eternal preservation of the lineage of Buddhas, power of

devotion to purification of the ocean of all lands in the ten directions of the

present, illumination of the states of all buddhas in a single moment of

thought, entry into ultimate freedom from attachment to all objects, caus-

ing all worlds to appear in one buddha-field, production of emanations of all

embodiments of buddhas, adamantine knowledge of the ocean of all facul-

ties, causing all buddhas to appear within a single body, histantaneous state

of discovering the principle of all things in the pofnt of a moment of

thought, spiritual power of manifesting nirvana in all realms in the cosmos,

power to roam on the highest plane, magical manifestation of the differenti-

ation of the bodies of beings in all buddha-lands, entry into the presence of

the whirl of all knowledge, complete knowledge and differentation of past,

present, and future in a single histant, containing the body of principles of

the cosmos in every moment of thought, lion following the lineage of all

buddhas, sphere of the eye of wisdom seeing the cosmos in all objects, vigor-

ous undertaking of approach to the ten powers, sphere of the eye of universal

vision of all objects, illumination of beings in all spheres of form, space of an

unmoving whirl, showing all things in one thing, verbal analysis of truth.

 

Those enlightening beings also entered the oceans of mystic protections

of Buddha made by Vairocana by way of such enlightening beings’ concen-

trations as exposition of truth setting up the standard of all buddhas,

illumination unattached to the borders of past, present, and future, continu-

ous knowledge of all ages, entry into the ten powers by subtle means,

accomplishment of unbreakable practice of the essence of enlightenment

through all ages, clouds swiftly appearing everywhere, creation of magical

appearances of attainment of enlightenment, characterized by all pleasures

of feeling, adornment of space with all kinds of magnificent arrays, moment

to moment producing clouds of crested images like beings of the world,

light of the moon of realization of Thusness pure as space, spacelike base of

all who realize Thusness, radiance of all spiritual faculties, lamp revealing

the meanings of all things, illumination of the sphere of the ten powers,

characterized by the brilliance of the buddhas of all times, the unique source

of all buddhas, accomplishing undertakings in every passing moment,

source of inexhaustible blessing, illumination of guidance of endless vision

of Buddha, supreme adamantine basis of all truths, production of universal

manifestations of the emanations of all buddhas, eonsummating the course

of the sun of all buddhas, histantly illuminating past, present, and future,

sound of the Voice emitting universal light illumining the natural quies-

cence of all things, mareh to the boundary of vision of all buddhas, aware of

all things like a coflection of lotuses, observation of phenomena as baseless

like the sky, whirlpoof of concentration of the ocean of all spaces in one

space, entering directly into the ground of all phenomena, oceanic source of

 

Page 1164 – The Flower Ornament Scripture

 

all things, tranquil body shining light on all beings, accomplishment of the

will for all higher knowledge in a single moment of thought, eternal mani-

festation of the attainment of enlightenment equally everywhere, entering

into all universes by comprehending them as one single array, illumination

of the body of recoflection of all buddhas, intuition of vast higher knowl-

edge of all worlds, merging one’s being with the infinite cosmic principle in

a single mental histant, illumination of the homofogous order of all things

in homofogous universes, mystical manifestation of the fiery energy of the

spheres of all Buddha teachings, basis of the determination and action taking

all realms of beings into the net of Indra, continuity of the ground of all

worlds, traveling everywhere by mystic protections of lotuslike splendor,

intuitive knowledge of the cycles of the bodies of all beings, magical materi-

alization in the presence of all beings, superknowledge of the means of

analyzing mundane speech in the ocean of utterances of all beings,

superknowledge of the distinctions of the seeds of all worlds, unalloyed

incorruptible matrix of great compassion, entry of all buddhas into the goal

of realization of Thusness, and lionlike emergence to behold the abode of

liberation of all buddhas.

 

By entry into as many of the concentrations of enlightening beings as

atoms in untold buddha-lands, beginning with these, those enlightening

beings entered into the ocean of the blessed Vairocana’s mystical protections

of buddhahood, and they accordingly remembered equivalent transforma-

tions carried out in the past. Furthermore, by the mental-moment-to-

mental-moment entry, pervading the whofe cosmos, of those enlightening

beings, who were in the presence of Buddha in the Jeta grove, sitting on lion

thrones in lotuses of various jewels as vast as worlds as numerous as atoms in

ten buddha-lands, born of the occult transformation of great knowledge and

hisight, having attained the stage of penetrating knowledge and hisight,

contemplating with universal knowledge, born of the source of wisdom, on

the brink of omniscience, having unclouded eyes of knowledge, having

arrived at the state of leaders of beings, having approached equality with all

buddhas, always carrying out the principle of nondiscrimination, with spe-

cific knowledge of all objects, relating to all things as naturally calm, in the

ultimate asylum of the quiescence and nirvana of all worlds yet upholding

the variety of all worlds, gofng to all lands without attachment, in the midst

of all things without reliance on anything, effortlessly establishing the mea-

sures of all teachings, knowing how to develop and guide all people,

showing all beings the state of peace and serenity, risen to the realm of the

abode of know ledge and liberation, embodying knowledge gone to the limit

of dispassion, having emerged from the ocean of all existences, observing

the limit of reality of all worlds, in the sphere of light of knowledge of the

ocean of truths, with great compassionate minds perfectly unified by oce-

anic concentration, thoroughly aware of the principle of the illusoriness of

phenomena, having comprehended that all worlds are like dreams, knowing

the vision of all buddhas are like reflections, aware that all utterances are like

echoes, knowing that the effects of all things are like magic productions.

 

Page 1165 – Entry into the Realm of Reality

 

determined to reach the sphere of fulfillment, following skillful methods of

purification of the sphere of universal knowledge, with ultimately peaceful

and calm minds, with knowledge of all families of mystic spells, with fear-

less, even force of the power of concentration, with the eye reaching the

limit of the cosmos, in the stage of ungraspability of all things, contemplat-

ing the infinite ocean of wisdom, gone to the farther shore of transcendence

by knowledge, having attained the sustaining power of transcendent wis-

dom, gone beyond all worlds by eonsummation of transcendent spiritual

powers, masters of transcendent concentration, with correct knowledge of

all buddhas’ skillfullness in respect to meanings, with knowledge of the

means of skillful elucidation of truth, with extraordinary knowledge of

expression, being clouds of teaching with inexhaustible power of elo-

quence, roaring the fearless, mighty lion’s roar, enjoying the unequaled bliss

of nonreliance, having unclouded eyes seeing into all things, moons of

knowledge of the state of intellect of all beings, beams of light of designa-

tions of principles of all truths from the sphere of wisdom, mountains of

virtue with diamonds of knowledge, beyond all comparison, sprouting the

knowledge of all spiritual faculties, herofc conquerors of all demons, full of

the energy of the sphere of endless knowledge, physically beyond all

worldlings, with unhindered hisight into all things, aware of the bounds of

finiteness and infinity, standing on the limit of reality, tallying with the uni-

versal limit, having the eye of knowledge observing signlessness, skilled in

the causes of accomplishment of all practices of enlightening beings, cours-

ing in nondualistic knowledge, observing all worldly trends, appearing in all

buddha-lands without dwelling, free from obscurity in regard to all things,

having reached the sphere of knowledge without darkness, engaged in the

illumination of truth everywhere, excellent fields of blessings for all beings,

moons of fulfillment of the wishes of all who see or hear of them, mountains

of virtue rising above all worlds, bravely subduing all challengers, making

their Voices heard in all buddha-lands, tirelessly watching all the buddhas,

able to controf reflections of the bodies of all buddhas, adopting appropriate

forms to guide all beings, pervading all lands with one body, having purified

their spheres of accomplishment, having the capacity for the vehicle of great

knowledge unobstructed as space, reflecting the bodies of all things in their

sphere of knowledge, suns of knowledge appearing in all worlds, having the

power to adapt to all worlds at will, having specific knowledge of the various

dispositions and faculties of all beings, having arrived at all truths with

unobstructed perspective, apprised of the inherent nature of all things being

birthlessness, mature in the knowledge of the mutual interpenetration of the

subtle and gross, resolved on the goal of the profound state of buddhahood,

knowing the verbal designations of profound meaning, eloquently telling

the meanings of endless words and expressions, expounding entry into the

ocean of all scriptures by one word, supporting the vast body of knowledge

of mystic formulae, having the power to hold them forever, knowing specif-

ically their abodes over untold ages in a single moment of thought, having

occult knowledge of all worlds, knowing past, present, and future in a single

 

Page 1166 – The Flower Ornament Scripture

 

moment of thought, reflecting the infinite ocean of buddha-teachings in

mystic formulae holding all principles, tirelessly turning the wheel of

teaching leading all beings to knowledge, illumined with the knowledge of

the sphere of buddhas, always in the concentration of good vision, having

the superknowledge that discerns the differences among all things while

being ultimately unattached, master of knowledge of the sphere of libera-

tion, the highest of all states, causing all objects to appear in pure arrays,

entering into the universes of the ten directions wherever they are, entering

into the different universes in all directions, eonscious of enlightenment in

atomic particles subtle and gross, showing all cofors beautiful in nature, con-

centrating the totality in one space, treasuries of knowledge and virtue

mature in the knowledge of infinite qualities of one form, praised by all bud-

dhas, having qualities that can never be fully told — those enlightening

beings who had gathered at the Jeta grove and were sitting there immersed

in the ocean of qualities of Buddha, illumined by rays of light from the bud-

dhas, as they were in a state of great ecstasy, having attained the light of the

inconceivable state of enlightening beings, from their ecstasy emanated

great arrays of mystical protections pervading all universes, issuing from all

of their bodies, their towers, their paraphernalia and their thrones, from

everywhere in the Jeta grove: in each successive mental moment they ema-

nated vast clouds of webs of light beams, pleasing to all worlds, suffusing the

ten directions; they filled the ten directions with clouds of bells of all jewels

ringing with sounds bespeaking the virtues and qualities of the buddhas of

past, present, and future; they filled the ten directions with clouds of Voices

of all beings, issuing from all objects, making sweet sounds telling of the

fruits of all beings’ actions; they filled the ten directions with clouds of

forms showing the vows of all enlightening beings and the various practices

of enlightening beings, emanating Voices telling of the undertakings of all

enlightening beings; they emanated clouds of beatified embodiments of

enlightening beings filling the ten directions telling of the succession of

buddhas in all lands; they emanated clouds of sites of enlightenment like

those of all buddhas of past, present, and future, filling the ten directions,

showing magnificent displays of the transcendent enlightenment and

emancipation of all buddhas; from all objects they emanated clouds of bodies

of ruling water spirits, showering rain of all fragrances throughout the ten

directions; they emanated clouds of bodies like the rulers of all worlds, per-

vading the ten directions, telling of the conduct of the enlightening being

Universally Good; from all objects they sent forth clouds of reflections ofall

perfectly pure buddha-lands, made of all jewels, filling the ten directions,

showing the turnings of the wheels of teachings of all buddhas. They ema-

nated as many such clouds of magical displays of great magnificent arrays as

atoms in untold buddha-lands, by the mystic power of those enlightening

beings, and by virtue of their state of attainment of illumination of the

inconceivable ocean of truths.

 

Then the enlightening being Manjushri, empowered by Buddha, observ-

 

Page 1167 – Entry into the Realm of Reality

 

ing all those mystical apparitions appearing throughout the ten directions,

uttered these verses:

Những ai thấy được thần lực này, thời đều do sự nhiếp thọ của thiện căn thuở quá khứ của đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai. Hoặc thuở xưa từng dùng pháp Tứ Nhiếp để nhiếp. Hoặc là thấy nghe, nhớ nghĩ, thân cận mà được thành thục. Hoặc là ngày trước dạy cho phát tâm Vô thượng Bồ đề. Hoặc thuở xưa ở chỗ chư Phật đồng gieo căn lành. Hoặc là quá khứ dùng Nhứt Thiết trí thiện xảo phương tiện giáo hoá thành thục. Thế nên đều nhập nơi bất tư nghì thậm thân tam muội đại thần lực khắp pháp giới hư không của Như Lai. Hoặc nhập pháp thân hoặc sắc thân, hoặc nhập hạnh đã thành tựu thuở xưa. Hoặc nhập viên mãn các môn Ba la mật, hoặc nhập hạnh luân trang nghiêm thanh tịnh, hoặc nhập các bực Bồ Tát, hoặc nhập sức thành Chánh giác. Hoặc nhập tam muội vô sai biệt đại thần biến của Ðức Phật an trụ. Hoặc nhập trí lực, trí vô úy của Như Lai. Hoặc nhập biển vô ngại biện tài của Chư Phật.

Chư Bồ Tát đó dùng những giải, những đạo, những môn, những nhập, những lý thú, những tùy thuận, những trí huệ, những trợ đạo, những phương tiện, những tam muội mà nhập mười bất khả thuyết Phật sát vi trần số Phật thần biến hải phương tiện môn như vậy.

Thế nào là những tam muội?

Những là: Phổ trang nghiêm pháp giới tam muội, phổ chiếu nhứt thiết tam thế vô ngại cảnh giới tam muội, pháp giới vô sai biệt trí quang minh tam muội, nhập Như Lai cảnh giới bất động chuyển tam muội, phổ chiếu vô biên hư không tam muội, nhập Như Lai lực tam muội, Phật vô úy dũng mãnh phấn tấn trang nghiêm tam muội, nhứt thiết pháp giới triền chuyển tạng tam muội, như nguyệt phổ hiện nhứt thiết pháp giới dĩ vô ngại âm đại khai diễn tam muội, phổ thanh tịnh pháp quang minh tam muội, vô ngại tắng Pháp Vương tràng tam muội, nhứt nhứt cảnh giới trung tất kiến nhứt thiết Chư Phật hải tam muội, ư nhứt thiết thế gian tất hiện thân tam muội, nhập Như Lai vô sai biệt thân cảnh giới tam muội, tùy nhứt thiết thế gian chuyển đại bi tạng tam muội, tri nhứt thiết pháp vô hữu tích tam muội, tri nhứt thiết pháp cứu cánh tịch diệt tam muội, tuy vô sở đắc nhi năng biến hóa phổ hiện thế gian tam muội, phổ nhập nhứt thiết sát tam muội trang nghiêm nhứt thiết Phật sát thành chánh giác tam muội, quán nhứt thiết thế gian chủ sắc tướng sai biệt tam muội, quán nhứt thiết chúng sanh cảnh giới vô chướng ngại tam muội, năng xuất sanh nhứt thiết Như Lai mẫu tam muội, năng tu hành nhập nhứt thiết Phật hải công đức đạo tam muội, nhứt nhứt cảnh giới trung xuất hiện thần biến tận vị lai tế tam muội, nhập nhứt thiết Như Lai bổn sự hải tam muội, tận vị lai tế hộ trì nhứt thiết Như Lai chủng tánh tam muội, dĩ quyết định giải lực linh hiện tại thập phương nhứt thiết Phật sát hải giai thanh tịnh tam muội, nhứt niệm trung phổ chiếu nhứt thiết Phật sở trụ tam muội, nhập nhứt thiết cảnh giới vô ngại tế tam muội, linh nhứt thiết thế giới vi nhứt Phật sát tam muội, xuất nhứt thiết Phật biến hóa thân tam muội, dĩ Kim Cang vương trí tri nhứt thiết chư căn hải tam muội, tri nhứt thiết Như Lai đồng nhứt thân tam muội, tri nhứt thiết pháp giới sở an lập tất trụ tâm niệm tế tam muội, ư nhứt thiết pháp giới quảng đại quốc độ trung thị hiện Niết bàn tam muội, linh trụ tối thượng xứ tam muội, ư nhứt thiết Phật sát hiên chủng chủng chúng sanh sai biệt thân tam muội, phổ nhập nhứt thiết Phật trí huệ tam muội, tri nhứt thiết pháp tánh tướng tam muội, nhứt niệm phổ tri tam thế pháp tam muội, niệm niệm trung phổ hiện pháp giới thân tam muội, dĩ sư tử dũng mãnh trí tri nhứt thiết Như Lai xuất hưng thứ đệ tam muội, ư nhứt thiết pháp giới cảnh giới huệ nhản viên mãn tam muội, dũng mãnh xu hướng thập lực tam muội, phóng nhứt thiết công đức viên mãn quang minh phổ chiếu thế gian tam muội, bất động tạng tam muội, thuyết nhứt pháp phổ nhập nhất thiết pháp tam muội, ư nhứt pháp dĩ nhứt thiết ngôn âm sai biệt huấn thích tam muội, diễn thuyết nhứt thiết Phật vô nhị pháp tam muội, tri tam thế vô ngại tế tam muội, tri nhứt thiết kiếp vô sai biệt tam muội, nhập thập lực vi tế phương tiện tam muội, ư nhứt thiết kiếp thành tựu nhứt thiết Bồ Tát hạnh bất đoạn tuyệt tam muội, thập phương phổ hiện thân tam muội, ư pháp giới tự tại thành chánh giác tam muội, sanh nhứt thiết an ổn thọ tam muội, xuất nhứt thiết trang nghiêm cụ trang nghiêm hư không giới tam muội, niệm niệm trung xuất đẳng chúng sanh số biến hóa thân vân tam muội, Như Lai tịnh không nguyệt quang minh tam muội, thường kiến nhứt thiết Như Lai trụ hư không tam muội, khai thị nhứt thiết Phật trang nghiêm tam muội, chiếu minh nhứt thiết pháp nghĩa đăng tam muội, chiếu thập lực cảnh giới tam muội, tam thế nhứt thiết Phật tràng tướng tam muộ, nhứt thiết Phật nhứt mật tạng tam muội, niệm niệm trung sở tác giai cứu cánh tam muội, vô tận phước đức tạng tam muội, kiến vô biên Phật cảnh giới tam muội, kiên trụ nhứt thiết pháp tam muội, hiện nhứt thiết Như Lai biến hóa tất linh tri kiến tam muội, niệm niệm trung Phật nhựt thường xuất hiện tam muội, nhứt nhựt trung tất tri tam thế sở hữu pháp tam muội, phổ âm diễn thuyết nhứt thiết pháp tánh tịch diệt tam muội, kiến nhứt thiết Phật tự tại lực tam muội, pháp giới khai phu liên hoa tam muội, quán chư pháp như hư không vô trụ xứ tam muội, thập phương hải phổ nhập nhứt phương tam muội, nhập nhứt thiết pháp giới vô nguyên để tam muội, dĩ tịch tịnh thân phóng nhứt thiết quang minh tam muội, nhứt niệm trung hiện nhất thiết thần thông đại nguyện tam muội, nhất thiết thời nhất thiết xứ thành chánh giác tam muội, dĩ nhất trang nghiêm nhập nhất thiết pháp giới tam muội, phổ hiện nhất thiết chư Phật thân tam muội, tri nhất thiết chúng sanh quảng đại thù thắng thần thông trí tam muội, nhứt niệm trung kỳ thân biến pháp giới tam muội, hiện nhất thừa tịnh pháp giới tam muội, nhập phổ môn pháp giới thị hiện đại trang nghiêm tam muội, trụ trì nhứt thiết Phật pháp luân tam muội, dĩ nhứt thiết pháp môn trang nghiêm nhứt pháp môn tam muội, dĩ nhơn đà la võng nguyện hạnh nhiếp nhất thiết chúng sanh giới tam muội, phân biệt nhất thiết thế giới môn tam muội, thừa liên hoa tự tại du bộ tam muội, tri nhất thiết chúng sanh chủng chủng sai biệt thần thông trí tam muội, linh kỳ thân hằng hiện nhất thiết chúng sanh tiền tam muội, tri nhất thiết chúng sanh sai biệt âm thanh ngôn từ hải tam muội, tri nhất thiết chúng sanh sai biệt trí thần thông tam muội, đại bi bình đẳng tạng tam muội, nhứt thiết Phật nhập Như Lai tế tam muội, quán sát nhất thiết Như Lai giải thoát xứ sư tử tần thân tam muội.

Bồ tát dùng bất khả thuyết Phật sát vi trần số tam muội như vậy mà nhập Tỳ Lô Giá Na Như Lai niệm niệm sung mãn nhất thiết pháp giới tam muội thần biến hải.

Chư Bồ Tát đó thảy đều đầy đủ đại trí thần thông minh lợi tự tại, trụ ở trí địa, dù những trí quảng đại quán sát khắp tất cả từ những trí huệ chủng tánh mà sanh, nhứt thiết chủng trí thường hiện ở trứơc, được trí nhãn thanh tịnh rời si lòa, vì các chúng sanh làm Ðiều Ngự Sư, trụ Phật bình đẳng, nơi tất cả pháp không có phân biệt, thấu rõ cảnh giới, biết các thế gian tánh đều tịch diệt không có chỗ y tựa. Ðến khắp cõi nước của tất cả chư Phật mà không chấp trước. Ðều có thể quan sát tất cả các pháp mà chẳng trụ. Vào khắp tất cả diệu pháp cung điện mà không chỗ đến. Giáo hóa điều tất cả thế gian khắp vì tất cả chúng sanh mà hiện nơi an ổn. Trí huệ giải thoát là chỗ đi của các Ngài. Hằng dùng trí thân ở nơi ly tham, siêu việt biển hữu lậu mà hiển bày chơn thiệt tế. Trí quang viên mãn thấy khắp các pháp. Trụ nơi tam muội kiên cố bất động. Với các chúng sanh hằng khởi đại bi. Biết các pháp môn thảy đều như huyễn, tất cả chúng sanh thảy như mộng, tất cả Như Lai thảy đều như bóng, tất cả ngôn âm thảy đều như vang, tất cả pháp thảy đều như hóa, có thể khéo chứa nhóm hạnh nguyện thù thắng. Trí huệ viên mãn thanh tịnh thiện xảo tâm rất tịch tịnh. Khéo nhập tất cả cảnh giới tổng trì. Ðủ sức tam muội dũng mãnh không kiếp. Ðược trí nhãn sáng suốt trụ pháp giới tế. Ðến chỗ vô sở đắc của tất cả pháp. Tu tập trí huệ đải hải không bờ. Ðến Trí Ba la mật rốt ráo bỉ ngạn. Ðược Bát Nhã Ba la mật nhiếp trì. Dùng Thần thông Ba la mật vào khắp thế gian. Nuơng Tam muội Ba la mật được tâm tự tại. Dùng trí chẳng điên đảo biết tất cả nghĩa. Dùng trí xảo phân biệt khai thị pháp tạng. Dùng trí hiển hiện biết rõ để giải thích văn từ. Dùng nguyện lực lớn thuyết pháp vô tận. Dùng vô sở uý để đại sư tử hống. Thường thích quán sát pháp không chỗ nương. Dùng tịnh pháp nhãn quán sát khắp tất cả. Dùng tịnh trí nguyệt chiếu thế gian thành hoại. Dùng trí huệ quang chiếu chơn thiệt đế. Phước đức trí huệ như núi kim cang, tất cả ví dụ không thể đến được. Khéo quán sát các pháp huệ căn tăng trưởng. Dũng mạnh tinh tấn xô dẹp chúng ma. Vô lượng trí huệ oai quang xí thạnh. Thân của các ngài siêu xuất tất cả thế gian. Ðược trí huệ vô ngại đối tất cả pháp. Khéo hay tỏ ngộ ngằn mé tận vô tận. Trụ ở ngằm mé phổ biến nhập vào ngằn mé chơn thiệt. Quán trí vô tướng thường hiện ra trước. Thiện xảo thành tựu các hạnh Bồ Tát. Dùng trí vô nhị biết các cảnh giới. Thấy khắp tất cả những loài ở thế gian. Trụ khắp tất cả quốc độ của chư Phật. Trí đăng viên mãn, với tất cả pháp không chướng ngại. Phóng tịnh pháp quang chiếu mười phương cõi. là phước điền chơn thiệt của thế gian. Hoặc thấy hoặc nghe sở nguyện đều viên mãn. Phước đức cao lớn vượt hơn các thế gian. Dũng mãnh vô uý dẹp các ngoại đạo. Diễn thuyết pháp âm khắp tất cả cõi. Thấy khắp chư khắp chư Phật không có lòng nhàm đủ. Nơi pháp thân của Phật đã được tự tại. Tùy cơ nghi hóa độ mà vì họ hiện thân. Một thân đầy khắp tất cả cõi Phật. Ðã được thần thông thanh tịnh tư tại. Ngồi thuyền đại trí đến lui vô ngại. Trí huệ viên mãn khắp cùng pháp giới, như mặt nhựt mọc lên chiếu khắp thế gian. Tùy tâm của chúng sanh mà hiện sắc tượng. Biết rõ căn tánh dục lạc của tất cả chúng sanh. Nhập vào cảnh giới vô tránh của tất cả pháp. Biết pháp tánh không sanh không khởi. Có thể làm pháp lớn pháp nhỏ nhập vào nhau tự tại. Quyết rõ lý thú thậm thâm của Phật địa. Dùng vô tận cú nói nghĩa thậm thâm. Ở trong một câu diễn thuyết tất cả biển tu đa la. Ðược thân trí huệ đà la ni. Phàm những pháp đã thọ trì thời vĩnh viễn không quên mất. Một niệm có thể nhớ những sự việc trong vô lượng kiếp. Trong một niệm biết rõ trí của tất cả tam thế chúng sanh. Hằng dùng tất cả môn đà la ni diễn thuyết vô biên pháp hải của chư Phật. Thường chuyển pháp luân thanh tịnh bất thối, làm cho các chúng sanh đều sanh trí huệ. Ðược Phật cảnh giới trí huệ quang minh. Nhập vào nơi thiện kiến thậm thâm tam muội. Nhập vào ngằn mé vô chướng của tất cả pháp. Với tất cả pháp được thắng trí tự tại. Tất cả cảnh giới đều thanh tịnh trang nghiêm. Vào khắp tất cả pháp giới mười phương. Tùy xứ sở kia đều đến tất cả. Trong mỗi mỗi vi trần hiện thành Chánh Giác. Nơi tánh vô sắc hiện tất cả sắc. Ðem tất cả phương vào khắp một phương.

Chư Bồ Tát này đủ vô biên tạng phước đức trí huệ như vậy. Thường được chư Phật khen ngợi. Bao nhiêu ngôn từ nói công đức của các Ngài cũng không hết được. Tất cả chư Bồ Tát này đều ở trong Thệ Ða. Sâu vào biển công đức lớn của Như Lai. Ðều thấy quang minh chiếu sáng của đức Phật.

Lúc đó chư Bồ Tát được bất tư nghì chánh pháp quang minh, lòng trất hoan hỷ.

Ðều ở trên thân mình, cùng lâu các và những đồ trang nghiêm với toà sư tử đương ngồi, trong tất cả vật khắp rừng Thệ Ða, hóa hiện các thứ mây đại trang nghiêm, đầy khắp tất cả thập phương pháp giới.

Ở trong mỗi niệm phóng ra mây đại quang minh đầy khắp mười phương, đều có thể khai ngộ tất cả chúng sanh. Hiện ra mây ma ni bửu linh đầy khắp mười phương, phát âm thanh vi diệu ca tụng khen ngợi tất cả công đức của tam thế chư Phật. Hiện ra tất cả mây âm nhạc đầy khắp mười phương. Trong âm nhạc diễn nói những nghiệp quả báo của tất cả chúng sanh. Hiện ra mây những nguyện hạnh sắc tướng của tất cả Bồ Tát đầy khắp mười phương, diễn nói đại nguyện của chư Bồ Tát. Hiện ra mây tự tại biến hoá của tất cả Như Lai, đầy khắp mười phương, diễn nói ngôn ngữ âm thanh của tất cả chư Phật Như Lai. Hiện ra mây thân tướng hảo trang nghiêm của tất cả Bồ Tát, đầy khắp mười phương, nói chư Như Lai thứ đệ xuất thế nơi tất cả quốc độ. Hiện ra mây đạo tràng của tam thế Như Lai đầy khắp mười phương, hiển bày công đức trang nghiêm của tất cả Như Lai thành Ðẳng Chánh Giác. Hiện ra mây tất cả Long Vương đầy khắp mười phương, mưa tất cả thứ hương thơm. Hiện ra mây thân của tất cả Thế Chủ đầy khắp mười phương, diễn thuyết hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát. Hiện ra mây Phật độ thanh tịnh tất cả bửu trang nghiêm đầy khắp mười phương, hiển bày tất cả Như Lai chuyển chánh pháp luân.

Chư Bồ Tát này vì được bất tư nghì pháp quang minh, nên theo pháp phải hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số mây đại thần biến trang nghiêm như vậy.

Lúc đó, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát thừa thần lực của đức Phật, muốn tuyên lại những sự thần biến trong rừng Thệ Ða, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng:

 

Observe the infinite, vast power of Buddha arisen in the Jeta grove,

Having emanated clouds of bodies as sense objects that pervade all directions.

 

The vast, pure arrays of offspring of Buddha, various, of infinite forms.

Are all seen reflected from the thrones, which eontain the objects of sense.

 

Clouds of jewel radiance, in various arrays, pervade the land, pouring forth

From the pores of the offspring of Buddha, emitting the sounds of Buddha.

 

Forms like Brahma and Indra, with pure bodies and tranquil deportment,

Emerging from the trees and flowers, go forth telling of meditation.

 

Enlightening beings like Universally Good, adorned with embellishing marks,

Inconceivable, countless, are produced from the Buddha’s pores.

 

Those clouds of adornments of the Oceans of Virtue bespeak the qualities

Of the enlightening beings of all times, gathered in the Jeta grove.

 

All the varied oceans of deeds of groups of beings in all directions

Are heard, radiating from within the trees in the Jeta grove.

 

Transfigurations of all buddhas of past, present, and future in every land

Appear from the ground, in every single object, numerous as atoms.

 

At each and every pofnt various oceanic clouds of buddhas

Continuously reveal the abodes of the Victors and the masses of buddhas there.

 

As many as beings, pervading everywhere, as they develop beings by expedient means,

From their auras emerge oceanic clouds of fragrant flames and masses of flowers.

 

Precious mansions, measureless as the sky, adorned with all realities,

Fill the lands in all directions, and all sites of enlightenment.

 

Page 1168 – The Flower Ornament Scripture

 

All the lands of the offspring of Buddha in past, present, and future, great healers.

Purified by means of the practice of universal good.

 

Their various arrays, purified over oceans of eons, infinite as beings.

Are all seen by reflection in the sky of the Jeta grove.

Các Ngài nên xem rừng Thệ Ða

Phật oai thần nên rộng vô biên

Tất cả trang nghiêm đều hiện bày

Thập phương thế giới đều đầy khắp.

Tất cả cõi nước ở mười phương

Vô biên phẩm loại đại trang nghiêm

Ở trong những bửu tòa các cảnh

Hiển hiện rõ ràng những sắc tượng.

Lỗ lông của Phật tử hiện ra.

Những mây trang nghiêm báu đẹp sáng

Và phát tiếng vi diệu Như Lai

Khắp cùng mười phương tất cả cõi.

Trong cây bông báu hiện diệu thân

Thân ấy sắc tướng đồng Phạm Vương

Từ thiền định dậy mà bước đi

Oai nghi đến lui hằng tịch tịnh.

Trong mỗi lỗ lông của Như Lai

Thường hiện nan tư thân biến hóa

Ðều như Phổ Hiền đại Bồ Tát

Những tướng đại nhơn để nghiêm hảo

Cõi không gian trên rừng Thệ Ða

Những đồ trang nghiêm phát tiếng diệu

Nói khắp tam thế chư Bồ Tát

Thành tựu tất cả biển công đức.

Những cây báu trong rừng Thệ Ða

Cũng phát vô lượng âm thanh diệu

Diễn nói tất cả các quần sanh

Những loại nghiệp hải đều sai khác.

Bao nhiêu cảnh giới ở trong rừng

Ðều hiện tam thế Phật Như Lai

Mỗi Phật đều hiện đại thần thông

Mười phương sát hải vi trần số.

Bao nhiêu những quốc độ mười phương

Tất cả sát hải vi trần số

Ðều nhập trong lỗ lông Như Lai

Thứ đệ trang nghiêm đều hiện thấy.

Bao nhiêu trang nghiêm đều hiện Phật.

Bằng số chúng sanh khắp thế gian

Mỗi mỗi đều phóng đại quang minh

Thảy đều tùy nghi độ muôn loại.

Những hoa thơm sáng và tạng báu

Tất cả những mây đẹp trang nghiêm

Ðều rộng lớn lượng đồng hư không

Ðầy khắp mười phương các quốc độ,

Mười phương tam thế tất cả Phật

Bao nhiêu trang nghiêm diệu đạo tràng

Ở trong cảnh giới viên lâm này

Mỗi mỗi sắc tượng đều hiện rõ.

Tất cả Phổ Hiền các Phật tử

Trăm ngàn kiếp hải cõi trang nghiêm

Số vô lượng bằng số chúng sanh

Tất cả hiện đủ trong rừng này.

 

At that pofnt, each of those enlightening beings, illuminated by the light

of the concentration of Buddha, entered as many gates of great compassion

as atoms in untold buddha-lands, and attained even greater capability to treat

all beings beneficially. Thus concentrated, from each of their pores came

forth as many rays of light as atoms in untold buddha-lands; from each ray of

light came forth as many multitudes of phantom enlightening beings, bod-

ies like those of all world rulers, bodies appearing to all beings, bodies

adapted to the development of all beings. Having pervaded the cosmos with

their emanations, they enlightened, developed, and guided sentient beings,

by means of showing descent from heaven; by means of showing birth in all

worlds; by means of showing the sphere of practice of enlightening beings;

by means of dreams bearing messages to the mind; by means of release

through the vows of all enlightening beings; by means of perfect knowledge

of the world; by means of showing the practice of transcendent giving; by

means of the positive and negative spheres of the virtues of all buddhas, what

they cultivate and what they efface; by means of showing transcendental

forbearance, even if dismembered; by means of transcendent energy of the

great spiritual metamorphosis of enlightening beings; by means of shining

light of the sphere of the path ofbuddha-knowledge by the meditations, lib-

erations, concentrations, and attainments of all enlightening beings; by

means of showing the relinquishment of countless bodies in quest of the

meaning of each phase of the teachings in order to find out all buddha-

teachings; by means of approaching all buddhas and asking about all the

teachings; by means of communicating the light of the ocean of methods

and principles of approaching and guiding beings according to the right

timing and according to their mentalities, fulfilling omniscience; by means

of showing the light of power of the stores of knowledge and virtue of all

enlightening beings, which are invulnerable to demons and disputers; by

means of showing the stage of knowledge which includes knowledge of all

practical arts and mystic knowledge; by means of showing the stage of

knowledge which includes knowledge and mystic knowledge of the differ-

ences among all beings; by means of showing the stage of knowledge which

includes knowledge and mystic knowledge of the differences in the mental-

ities of all beings; by means of showing the stage of knowledge which

includes knowledge and mystic knowledge of the faculties, procedures, and

practices of all beings and the destruction of their various afflictions and

habits; by showing the stage of knowledge which includes knowledge and

mystic knowledge of the various results of deeds of all beings — with as

many such means of developing and guiding beings as atoms in untold

 

Page 1169 – Entry into the Realm of Reality

 

buddha-lands, those enlightening beings were seen to have come to the

abodes of all sentient beings in all states of existence; with

nondiscriminatory great compassion, with nondiscriminatory commit-

ment, with nondiscriminatory knowledge, with nondiscriminatory effort

to save all beings, for the purpose of fully developing beings according to

their mentalities, beings who could be guided by seeing them, by hearing

them, by their halos, by the sound of their names, by their auras, by radiating

nets of light beams, the enlightening beings in the Jeta grove were seen by

various arrays of protections pervading all realms of beings in all oceans of

worlds, yet without leaving the presence of the Buddha: some appeared per-

vading the ten directions, their bodies on their thrones in their towers

surrounded by their associates, yet without becoming absent from the pres-

ence of Buddha; some appeared emanating clouds of apparitions to develop

beings, yet without becoming absent from the assembly around the Buddha;

some appeared in the form of mendicants, some in the form of priests, some

in bodies adorned head to foot with particular emblematic signs, some in the

forms of schofars, scientists, doctors, some in the form of merchants, some

in the form of ascetics, some in the form of entertainers, some in the form of

pietists, some in the form of bearers of all kinds of arts and crafts — they were

seen to have come, in their various forms, to all villages, cities, towns, com-

munities, districts, and nations. With mastery of proper timing, proceeding

according to the time, by modification of adapted forms and appearances,

modifications of tone, language, deportment, situation, carrying out the

practices of enlightening beings, which are like the cosmic network of all

worlds, illumine the spheres of all practical arts, are lamps shedding light on

the knowledge of all beings, are arrays of mystical displays of all realities,

radiate the light of all truths, purify the establishment of vehicles of libera-

tion of all places, and light up the spheres of all truths, they were seen to have

come to all villages, towns, cities, districts, and nations for the purpose of

leading sentient beings to perfection.

Bấy giờ, chư Bồ Tát này được tam muội quang minh của Phật chiếu đến nên liền được nhập tam muội ấy. Mỗi Bồ Tát đều được bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn đại bi, lợi ích an lạc tất cả chúng sanh. Ở trên thân của chư Bồ Tát, mỗi lỗ lông đều phóng ra bất khả thuyết vi trần số quang minh.

Trong mỗi quang minh đều hóa hiện bất khả thuyết Phật sát vi trần số Bồ Tát, thân tướng như các Thế Chủ, hiện khắp trước tất cả chúng sanh, bao vòng khắp cùng mười phương pháp giới, dùng những phương tiện để giáo hóa điều phục.

Hoặc hiện ra môn vô thường của bất khả thuyết Phật sát vi trần số chư Thiên cung điện.

Hoặc hiện ra môn thọ sanh của bất khả thuyết Phật sát vi trần số tất cả chúng sanh.

Hoặc hiện ra môn tu hành của bất khả thuyết Phật sát vi trần số tất cả Bồ Tát.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn mộng cảnh.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn đại nguyện của Bồ Tát.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn chấn động thế giới.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn phân biệt thế giới.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn hiện sanh thế giới.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn Ðàn Ba la mật.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn Thi Ba la mật của tất cả Như Lai tu những công đức, những khổ hạnh.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn Sằn Ðề Ba la mật cắt đứt chi thể.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số Tỳ Lê Gia Ba la mật siêng tu.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn thiền định giải thoát của tất cả Bồ Tát tu những tam muội.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn trí quang minh viên mãn Phật đạo.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn xả bỏ vô số thân mạng để cầu một văn một câu Phật pháp.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn gần gũi tất cả Phật, han hỏi tất cả pháp không có lòng nhàm mỏi.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn tùy theo thời tiết dục lạc của tất cả chúng sanh, đến chỗ của họ để phương tiện thành thục làm cho họ trụ nơi nhứt thiết trí hải quang minh.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn hàng phục chúng ma, chế ngự các ngoại đạo, hiển bày sức phước trí của Bồ Tát.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn minh trí biết tất cả công xảo.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn minh trí biết tất cả chúng sanh sai biệt.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn minh trí biết tất cả pháp sai biệt.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn minh trí biết tâm sở thích sai biệt của tất cả chúng sanh.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn minh trí biết căn hành phiền não tập khí của tất cả chúng sanh.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn minh trí biết những nghiệp của tất cả chúng sanh.

Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn khai ngộ tất cả chúng sanh.

Dùng bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn phương tiện như vậy, đến chỗ ở của tất cả chúng sanh mà thành thục họ.

Như là: hoặc đến Thiên cung, hoặc đến Long cung, hoặc đến cung của Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già. Hoặc đến cung của Phạm Vương. Hoặc đến cung của Nhơn Vương. Hoặc đến cung của Diêm La Vương. Hoặc đến chỗ ở của súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục. Dùng đại bi bình đẳng, đại nguyện bình đẳng, trí huệ bình đẳng, phương tiện bình đẳng để nhiếp thọ các chúng sanh.

Hoặc có người thấy xong mà điều phục. Hoặc có người nghe xong mà điều phục. Hoặc có người ghi nhớ mà điều phục. Hoặc có người nghe âm thanh mà điều phục. Hoặc có người nghe danh hiệu mà điều phục. Hoặc thấy viên quang mà điều phục. Hoặc thấy quang võng mà điều phục.

Tùy tâm sở thích của các chúng sanh đều đến chỗ ở của họ mà làm cho họ được lợi ích.

Chư Phật tử! Nơi rừng Thệ Ða, chư Bồ Tát vì muốn thành thục các chúng sanh nên hoặc có lúc hiện ở trong những cung điện nghiêm sức.

Hoặc có lúc thị hiện ở lâu các bửu tòa sư tử của mình, chúng hội đạo tràng cùng khắp mười phương đều làm cho được thấy. Nhưng vẫn chẳng rời khỏi rừng Thệ Ða, chỗ của đức Như Lai đây.

Chư Phật tử! những Bồ Tát này, hoặc có lúc thị hiện vô lượng hóa thân.

Hoặc hiện thân mình riêng một không bạn. Như là hiện thân Sa Môn. Hoặc hiện thân Bà La Môn. Hoặc hiện thân khổ hạnh. Hoặc hiện thâ mập mạnh. Hoặc hiện thân y vương. Hoặc hiện thân thương chủ. Hoặc hiện thân tịnh mạng. Hoặc hiện thân kỹ nhạc. Hoặc hiện thân phụng sự chư Thiên. Hoặc hiện thân công xảo kỹ thuật.

Qua đến tất cả xóm làng, thành ấp, đô thị chỗ của chúng sanh ở, Bồ Tát này tùy sở nghi dùng mọi thứ thân, mọi oai nghi, mọi âm thanh, mọi ngôn luận, những chỗ ở, mà thật hành hạnh Bồ Tát trong tất cả thế gian dường như màng lưới của Thiên Ðế.

Hoặc nói công xảo sự nghiệp thế gian. Hoặc nói tất cả trí huệ chiếu thế gian như đèn sáng. Hoặc nói tất cả chúng sanh do nghiệp lực trang nghiêm. Hoặc nói cõi nước mười phương kiến lập những thừa vị. Hoặc nói đèn trí huệ chiếu cảnh giới của tất cả pháp, giáo hóa thành thục tất cả chúng sanh. Nhưng vẫn cũng chẳng rời khỏi rừng Thệ Ða của đức Như Lai đây.

 

At that time Manjushri, in the form of a youth, was in his tower together

with enlightening beings of equivalent practice, perpetually attendant

thunderboft bearers, physical deities who had undertaken the making of

power for all worlds and were willingly committed to attendance on all bud-

dhas, footstep-following deities committed to past vows, earth deities intent

on hearing the Teaching, greatly compassionate deities of springs, lakes

poofs, reservofrs, and rivers, deities of fire shining with the radiance of the

power of the light of wisdom, crowned deities of wind, area deities with

knowledge illumining all regions, night deities invofved in dispelling the

darkness of ignorance, day deities invofved in bringing forth the day of those

who arrive at Thusness, sky deities engaged in the adornment of the spaceof

all elements of reality, ocean deities invofved in rescuing all beings from the

ocean of existence, mountain deities invofved in gathering the store of all

knowledge with a mind based on transcendentally lofty virtue, river deities

engaged in adorning the bodies of all beings with the vow to cause all the

qualities of buddhas to appear, city deities engaged in protecting the city of

 

Page 1170 – The Flower Ornament Scripture

 

the mind of all beings, and with dragon chiefs devoted to the city of all

truths, spirit chiefs able to profect all beings, celestial musician chiefs

engaged in increasing the bliss of all beings, demon chiefs engaged in repuls-

ing all ghostlike tendencies, bird chiefs committed to taking all beings up

out of the ocean of existence, titans resolved to perfect thepowerof the body

of those who arrive at Thusness, which is beyond all worlds, serpent chiefs

with bowed bodies who had attained thejoy of the vision of Buddha, celes-

tial chiefs appalled by the whirl of birth and death who looked to what is

higher, and most respectful Brahma chiefs in attitudes of reverence; with a

parade of such enlightening beings, the enlightening being Manjushri came

forth from his place, circled the Buddha hundreds of times to his right, made

many offerings to Buddha, then left the presence of the Buddha and went

south on a journey in the human realm.

Bấy giờ ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử, từ Thiện Trụ lâu các đi ra cùng vô lượng Bồ Tát đồng hạnh và các Thần Kim Cang thường theo thị vệ, các Thân Chúng Thần khắp vì chúng sanh mà cúng dường chư Phật, các Túc Hành Thần từ lâu phát kiên thệ nguyện thường tùy tùng, các Chủ Ðịa Thần thích nghe diệu pháp, Các Thủ Thủy Thần thường tu đại bi, các Chủ Hỏa Thần trí quang chiếu sáng. Các Chủ Phong Thần ma ni làm mão, các Chủ Phương Thần minh luyện tất cả nghi thức mười phương, các Chủ Dạ Thần chuyên cần diệt trừ vô minh hắc ám, các Chủ Trú Thần xiển minh Phật nhựt nhứt tâm không lười, các Chủ Không Thần trang nghiêm pháp giới tất cả hư không, các Chủ Hải Thần độ khắp chúng sanh vượt khỏi biển hữu lậu, các Chủ Sơn Thần thường siêng chứa nhóm thiện căn trợ đạo cao như núi xu hướng Nhứt thiết trí, các Chủ Thành Thần thường siêng gìn giữ thành Bồ đề tâm của tất cả chúng sanh, các Ðại Long Vương thường siêng gìn giữ pháp thành vô thượng Nhứt thiết chủng trí, các Dạ Xoa Vương thường siêng hộ trì tất cả chúng sanh, các Càn Thát Bà Vương thường làm cho chúng sanh thêm hoan hỉ, các Cưu Bàn Trà Vương thường siêng trừ diệt những loài ngạ quỷ, các Ca Lâu La Vương hằng thuận cứu tế tất cả chúng sanh ra khỏi biển hữu lậu, các A Tu La Vương nguyện được thành tựu những thân Như Lai cao hơn thế gian, các Ma Hầu La Già Vương thấy Phật hoan hỷ cúi mình cung kính, cá đại Thiên Vương hằng nhàm sanh tử thường thích thấy Phật, các đại Phạm Vương tôn trọng chư Phật tán thán cúng dường.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát cùng những chúng Bồ Tát công đức trang nghiêm như vậy ra khỏi chỗ mình ở, đồng đến chỗ đức Phật, hữu nhiễu đức Thế Tôn đến vô lượng vòng. Dâng các món cúng dường lên đức Phật. Cúng dường xong, từ tạ Phật rồi đi qua phương Nam đến trong nhơn gian.

 

Then the venerable Shariputra, by the power of Buddha, seeing the young

Manjushri with this transfigured array of enlightening beings having left

the Jeta grove and gofng south, conceived the desire to go on the journey to

the human world with Manjushri. With a group of sixty monks he went

forth from where he was and approached the Buddha. Gofng up to the Bud-

dha, he bowed his head to the Buddha’s feet, then gazed at the Buddha;

given permission by the Buddha, he circled the Buddha three times to his

right, and went to Manjushri, accompanied by those sixty monks, who were

staying with him and who were novices, having but recently left home.

Among those sixty monks were Sagarabuddhi, Mahasudatta, Punyaprabha,

Mahavatsa, Vibhudatta, Vishuddhacarin, Devashri, Indramati,

Brahmoftama, Prashantamati, and others. All those monks had served past

buddhas, had planted roots of goodness, had far-reaching zeal, had thor-

oughly purified faith and reason, were great in understanding and action,

were capable of viewing the realm of Buddha and comprehended the inher-

ent nature of things, were intent on the welfare and development of others,

and sought the qualities of those who arrive at Thusness. They were guided

by the teaching of Manjushri.

Lúc đó Tôn giả Xá Lợi Phất thừa thần lực của Phật, thấy Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát cùng chúng hội Bồ Tát trang nghiêm ra khỏi rừng Thệ Ða qua phương Nam du hành nhơn gian, liền nghĩ rằng:

Tôi nay nên theo ngài Văn Thù Sư Lợi qua phương Nam.

Nghĩ xong, Tôn giả Xá Lợi Phất cùng sáu ngàn Tỳ Kheo đồng rời chỗ mình ở đến chỗ đức Phật đảnh lễ chân Phật rồi bạch ý muốn, đức Phật hứa khả. Các Ngài hữu nhiễu đức Phật ba vòng từ tạ đi dến chỗ ngài Văn Thù Sư Lợi.

Sáu ngàn Tỳ Kheo này vốn cùng ở chung với Tôn giả Xá Lợi Phất, xuất gia chưa lâu, những là Hải Giác Tỳ Kheo, Thiện Sanh Tỳ Kheo, Phước Quang Tỳ Kheo, Ðại Ðồng Tử Tỳ Kheo, Ðiển Sanh Tỳ Kheo, Tịnh Hạnh Tỳ Kheo, Thiên Ðức Tỳ Kheo, Quân Huệ Tỳ Kheo, Phạm Thắng Tỳ Kheo, Tịch Huệ Tỳ Kheo, sáu ngàn Tỳ Kheo như vậy.

Những Tỳ Kheo này đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, trồng sâu căn lành, sức hiểu biết rộng lớn, tín nhãn sáng suốt, tâm lượng rộng rãi, quán Phật cảnh giới, rõ pháp bổn tánh, lợi ích chúng sanh, thường cần cầu công đức của chư Phật.

Những Tỳ Kheo này đều do ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát thuyết pháp giáo hóa mà được thành tựu.

 

At that pofnt the venerable Shariputra, on the way, looked at all the monks

and said to Sagarabuddhi, “See the inconceivable purity of form of

Manjushri, along with the celestial and earthly beings, his variety of marks

and embellishments, the purity of his sphere of radiance, his web of light

beams developing countless beings, extinguishing all miseries, his wealth of

followers, embraced by past virtues, arraying the path, which is eight steps

wide. See the magnificent arrays of the procession on the path, facing the

realms in all directions as they go, with overflowing great treasuries, auspi-

cious and fair arrays, on the left and right; magnificent arrays of adornments

emerge from within all the trees growing out of the roots of goodness of

attendance on past buddhas; all the world chiefs are showering clouds of

offerings in respect; from the curl of hair between the eyebrows of all bud-

dhas from the ten directions, spheres of networks of light beams emanate,

uttering all teachings of buddhas, and enter Manjushri’s head.”

Trong lúc đang đi nơi đường, Tôn giả Xá Lợi Phất quan sát chư Tỳ Kheo rồi bảo Giác Hải rằng:

Giác Hải nên quán sát thân thanh tịnh tướng tốt trang nghiêm của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, tất cả hàng Nhơn Thiên chẳng nghĩ bàn được.

Giác Hải nên quán sát viên quang chói sáng của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát làm cho vô lượng chúng sanh phát tâm hoan hỷ.

Giác Hải nên quán sát quang võng trang nghiêm của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát diệt trừ vô lượng khổ não cho chúng sanh.

Giác Hải nên quán sát chúng hội đông đầy của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, đại chúng đó đều là bực Bồ Tát do thiện căn thuở xưa nhiếp thọ.

Giác Hải nên quán sát con đường của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đang đi, hai bên cách tám bộ đều bằng thẳng trang nghiêm.

Giác Hải nên quán sát chỗ đứng của Văn Thù Sư Lợi Bố Tát khắp vòng mười phương thường có đạo tràng luôn xoay theo.

Giác Hải nên quán sát con đường của Văn Thù Sư Lợi đang đi đủ cả vô lượng phước đức trang nghiêm, hai bên đường có những kho trân bửu ngầm dưới đất tự nhiên trồi lên.

Giác Hải nên quán sát Văn Thù Sư Lợi từng cúng dường chư Phật, do thiện căn đó làm cho trong tất cả hàng cây đều hiện ra tạng báu trang nghiêm.

Giác Hải nên quán sát các Thế Gian Chủ rưới mây cúng cụ, đảnh lễ cung kính dâng cúng Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.

Giác Hải nên quán sát tất cả chư Phật Như Lai mười phương, lúc sắp thuyết pháp, đều phóng ánh sáng lông trắng giữa chặng mày chiếu đến thân Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, nhập vào nơi đảnh của Ngài.

 

Beginning with these, Shariputra revealed and described to the monks

 

Page 1171 – Entry into the Realm of Reality

 

measureless arrays of qualities of the procession of Manjushri, and as

Shariputra spoke of the qualities of Manjushri, the minds of the monks were

purified, calmed, and delighted; they were thrilled, their mental states

became suitable for religious practice, their senses became clear and tranquil,

their gladness increased and their depression vanished, all obstructions dis-

appeared, they came face to face with the vision of Buddha, they dedicated

their minds to the buddha-teachings, their enlightening faculties were clari-

fied, the power of faith of enlightening beings rose in them, great

compassion developed in them, they entered the sphere of the

transcendences, they conceived great vows and came to perceive the oceans

of buddhas in the ten directions: with this supreme power of faith in omnis-

cience, they said to Shariputra, “Teacher, lead us to the presence of that wise

person.” Then Shariputra went together with the monks to Manjushri and

said, “O Manjushri, these monks want to see you.” Then Manjushri, who

was together with a great host of transfigured enlightening beings, turned

with the gaze of an elephant and looked at the monks. The monks then

bowed their heads to the feet of Manjushri, saluted him, and said, “By this

root of goodness, witnessed by the blessed Shakyamuni Buddha — by the

root of goodness may we become like you, may we attain bodies, Voices,

embellishments, and spiritual transfigurations like you.”

Bấy giờ Tôn giả Xá Lợi Phất vì chư Tỳ Kheo mà tán thán khai thị diễn thuyết ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử có vô lượng công đức trang nghiêm như vậy.

Chư Tỳ Kheo nghe xong, tâm ý thanh tịnh, tin hiểu vững chắc, vui mừng khôn xiết, toàn thân rúng nhảy không tự kềm được. Thân thể nhu nhuyến, sáu căn vui đẹp, tất cả lo khổ đều trừ, cấu chướng đều hết. Thường được thấy chư Phật thâm cầu chánh pháp đủ căn tánh Bồ Tát, được oai lực Bồ Tát, đại bi đại nguyện đều tự xuất sanh, nhập vào cảnh giới thậm thâm của các môn Ba la mật. Thập phương chư Phật thường hiện ở trước. Rất mến thích Nhứt thiết trí. Chư Tỳ Kheo bạch Tôn giả Xá Lợi Phất rằng:

Mong Ðại Sư dẫn chúng tôi đến chỗ của ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.

Xá Lợi Phất liền cùng chư Tỳ Kheo đồng đến chỗ Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát mà bạch rằng:

Thưa Ngài, chư Tỳ Kheo này xin được kính ra mắt Ngài.

Lúc đó Văn Thù Sư Lợi Ðồng tử có vô lượng tự tại Bồ Tát và đại chúng vây quanh, như tượng vương xoay mình lại nhìn Tỳ Kheo.

Chư Tỳ Kheo liền đảnh lễ chân Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát rồi chắp tay cung kính mà bạch rằng:

Nay chúng tôi kính ra mắt, cung kính lễ bái và những thiện căn của chúng tối có, ngưỡng mong ngài Văn Thù Sư Lợi, Hòa Thượng Xá Lợi Phất, Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật, đều chứng biết cho.

Như ngài Văn Thù Sư Lợi có sắc thân thế này, âm thanh thế này, tướng hảo thế này, tự tại thế này, nguyện cho tôi cũng dều có đủ như vậy.

 

To this Manjushri replied, “A man or woman setting out on the Great

Vehicle imbued with ten indefatigable determinations will enter the stage of

realization of Thusness, to say nothing of the stage of enlightening beings.

What are the ten? The indefatigable resofution to see, attend, and serve all

buddhas; to build up all roots of goodness without retreating; to seek all

truths; to practice all the transcendent ways of enlightening beings; to fully

accomplish all concentrations of enlightening beings; to enter successively

into all ages; to thoroughly purify all oceans of buddha-lands in the ten

directions; to lead all realms of sentient beings to perfect development; to

carry out the practices of enlightening beings in all lands and ages; to fully

attain each power of buddhas by maturing all beings through the process of

practicing as many transcendent ways as atoms in all buddha-lands to mature

each being. Men or women with faith who are imbued with these ten inde-

fatigable determinations grow in all roots of goodness, leave all compulsive,

routine mundane tendencies, drop out of all social castes, go beyond all

stages of individual emancipation, are born in the family of all buddhas, ful-

fill the vows of enlightening beings, become pure with the attainment of all

qualities of the enlightened, become clarified in all the practices of enlight-

ening beings, develop all the powers of buddhas, overcome all demons and

challengers, progress through all the stages of enlightening beings, and

reach buddhahood.”

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bảo các Tỳ Kheo rằng:

Chư Tỳ Kheo ! Nếu thiện nam tử hay thiện nữ nhơn thành tựu mười hạnh xu hướng pháp Ðại thừa thời có thể mau nhập Như Lai Ðịa, huống là Bồ Tát Ðịa.

Ðây là mười hạnh :

Chứa nhóm tất cả thiện căn lòng không mỏi nhàm.

Thấy tất cả Phật kính thờ cúng dường lòng không mỏi nhàm.

Cầu tất cả Phật pháp lòng không mỏi nhàm.

Thật hành tất cả hạnh Ba la mật lòng không mỏi nhàm.

Thành tựu tất cả Bồ Tát tam muội lòng không mỏi nhàm.

Thứ đệ nhập tất cả tam thế lòng không mỏi nhàm.

Nghiêm tịnh khắp mười phương cỏi Phật lòng không mỏi nhàm.

Giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh lòng không mỏi nhàm.

Ở trong tất cả cõi tất cả kiếp thành tựu hạnh Bồ Tát lòng không mỏi nhàm.

Vì thành tựu một chúng sanh mà tu hành tất cả Phật sát vi trần số Ba la mật, thành tựu Như Lai thập lực. Thứ đệ như vậy, vì thành thục tất cả chúng sanh giới mà thành tựu Như Lai tất cả trí lực lòng không mỏi nhàm.

Chư Tỳ Kheo ! Nếu thiện nam tử hay thiện nữ nhơn thành tựu lòng thâm tính phát mười hạnh lòng không mỏi nhàm này thời có thể trưởng dưỡng tất cả thiện căn, rời bỏ tất cả những loài sanh tử vượt khỏi tất cả chủng tánh thế gian, chẳng sa vào hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật. Sanh vào nhà chư Phật Như Lai. Ðủ tất cả Bồ Tát nguyện. Học tập tất cả Như Lai công đức. Tu hành tất cả hạnh Bồ Tát. Ðược Như Lai trí lực xô dẹp chúng ma và các ngoại đạo, cũng có thể trừ diệt tất cả phiền não, nhập Bồ Tát địa, gần Như Lai địa.

 

Then the monks, having heard this teaching, attained a concentration

called sphere of the unobstructed eye of vision of all buddhas, by the experi-

ence of which they saw the circles of assemblies of the buddhas in all worlds

throughout the ten directions. They also saw all the beings in those worlds,

and they also saw the various differentiations in those worlds. They also

 

Page 1172 – The Flower Ornament Scripture

 

knew how many atoms were in these worlds. They also saw all the dwellings

and furniture of those beings, made of various precious substances. They

also heard the oceans of the qualities of the Voice and the buddhas in those

worlds, and understood the various statements, allusions, expressions, mys-

tic formulae, terminotogy, and eoncepts of their teachings. They also

discerned the minds, faculties, and dispositions of the beings in those

worlds, and called to mind the events of ten lives past and future. They also

comprehended the utterance of ten cycles of teaching of those buddhas.

They also comprehended ten states produced by mystical powers, ten pro-

ductions of guiding principles, and ten productions of instructive

statements. They also comprehended ten accomplishments of analytic

knowledge of those buddhas.

Lúc đó, chư Tỳ Kheo nghe pháp này rồi thời được tam muội tên là vô ngại nhãn, thấy tất cả cảnh giới Phật. Do được tam muội này nên đều thấy chư Phật Như Lai trong vô lượng vô biên tất cả thế giới ở mười phương và những đạo tràng chúng hội. Cũng đều thấy tất cả loài chúng sanh trong thế giới mười phương. Cũng đều thấy những sai biệt của tất cả thế giới mười phương. Cũng đều thấy những vi trần của tất cả thế giới đó. Cũng đều thấy những cung điện của chúng sanh ở trong tất cả thế giới đó, dùng các báu mà làm trang nghiêm. Và cũng nghe những ngôn âm của chư Phật. Như Lai diễn thuyết các pháp, văn từ giải thích của chư Phật, nghe rồi thời đều hiểu rõ. Cũng có thể quán sát trong thế giới đó, những căn dục của tất cả chúng sanh. Cũng có thể ghi nhớ trong những thế giới đó, trước sau mười đời của tất cả chúng sanh. Cũng có thể ghi nhớ những sự trong mười kiếp quá khứ, mười kiếp vị lai của các thế giới đó. Cũng có thể ghi nhớ chư Như Lai đó mười lần bổn sanh sự, mười lần thành Chánh Giác, mười lần chuyển pháp luân, mười thứ thần thông, mười thứ thuyết pháp, mười thứ giáo giới, mười thứ biện tài.

 

When they attained this concentration, they developed ten thousand

qualities of the determination of enlightenment, entered ten thousand con-

centrations and purified ten thousand aspects of transcendence; having

attained great illumination, being illumined by the sphere of great wisdom,

they attained ten mystic knowledges of enlightening beings.

Chư Tỳ Kheo này lại liền thành tựu mười ngàn Bồ đề tâm, mười ngàn Tam muội, mười ngàn Ba la mật, tất cả đều thanh tịnh.

Lại được đại trí huệ viên mãn quang minh. Ðược Bồ Tát mười thần thông nhu nhuyến vi diệu. Trụ Bồ Tát tâm kiên cố bất động.

 

Manjushri exhorted and led them, now with soft and delicate sprouts of

mystic knowledge and firm determination for enlightenment, into the

practice of the universally good enlightening being. Based on the practice

of the universally good enlightening being, they entered into the oceans of

great vows and began to carry them out. By undertaking the oceans of

great vows, and by purification of mind, they attained purity of body; by

physical purity they gained physical lightness, by which physical purity

and lightness they opened wide the doors to mystic knowledge and

attained undiminishing mystic knowledge. By this attainment of mystic

knowledge they appeared in multitudes of bodies to all the buddhas in the

ten directions for the sake of accomplishing all Buddha teachings, yet

without leaving the presence of Manjushri.

Lúc đó Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát khuyên các Tỳ Kheo trụ hạnh Phổ Hiền. Trụ hạnh Phổ Hiền rồi nhập biển đại nguyện. Nhập biển đại nguyện, rồi thành tựu biển đại nguyện. Vì thành tựu biển đại nguyện nên tâm được thanh tịnh. Vì tâm thanh tịnh nên thân được thanh tịnh. Vì thân thanh tịnh nên thân nhẹ nhàng nhậm lẹ. Vì thân thanh tịnh nhẹ nhàng nhậm lẹ nên được đại thần thông không còn thối chuyển. Vì được thần thông này nên chẳng rời dưới chân của ngài Văn Thù Sư Lợi, đều hiện thân mình khắp tất cả chỗ của chư Phật mười phương.Thành tựu đầy đủ tất cả Phật pháp.

 

Then Manjushri, having set those monks on the foundation of unexcelled

true enlightenment, continued his journey to the human realm and came to

a great city in the south named Dhanyakara. There he stayed with his reti-

nue in a forest called Array of Various Standards of Strength, to the east of

the city, at a shrine where past buddhas had dwelt, established by buddhas

for the sake of perfecting sentient beings, the repute of which resounded in

infinite lands, a place where the Buddha, in the past, carrying out the prac-

tice of an enlightening being, relinquished many things that are difficult to

relinquish, a place where gods, dragons, goblins, nymphs, titans, birds, cen-

taurs, serpents, humans, and nonhumans always presented offerings to the

earth. There Manjushri expounded a scripture called Illumination of the

Principles of the Cosmos, whence flowed ten hundred thousand trillion

scriptures. As he was expounding the scripture, many tens of hundreds of

thousands of trillions of dragons came to him from the ocean; having heard

this teaching, disdaining the condition of dragons and desiring the qualities

of buddhahood, they left the state of dragons and gained birth as celestial or

human beings. There ten thousand dragons became irreversible in their

 

Page 1173 – Entry into the Realm of Reality

 

progress toward supreme perfect enlightenment. And during his exposition

of the teaching, innumerable beings were edified through the Three

Vehicles.

Lúc ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát khuyến dạy sáu ngàn Tỳ kheo pháp Bồ đề tâm rồi, lần lượt đi về phía Nam, trải qua nhơn gian đến phía đông Phước Thành, ở trong rừng Trang Nghiêm Tràng Ta La, chỗ đại tháp miếu mà chư Phật thuở xưa từng ngự giáo hóa chúng sanh, nơi đây cũng là chỗ mà ngày xưa đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn lúc tu Bồ Tát hạnh hay xả vô lượng sự khó xả. Do đây nên rừng này có tiếng đến vô lượng cõi Phật. Rừng này thường được sự thủ hộ cúng dường của chư Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Nhơn cùng Phi nhơn.

Lúc ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát và các quyến thuộc đến rừng Trang Nghiêm Tràng Ta La rồi, liền ở tại đó nói khế kinh Phổ Chiếu Pháp Giới cùng với trăm vạn ức na do tha khế kinh.

Khi nói kinh, trong đại hải có vô lượng trăm ngàn ức chư Long đến nghe kinh. Nghe xong chư Long đều chán thân loài rồng nên đều phát tâm cầu Phật đạo. Ðều xả thân rồng sanh trong loài người hoặc cõi trời. Một muôn chư Long được chẳng thối chuyển nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Lại có vô lượng vô số chúng sanh ở trong Tam thừa đều được điều phục.

 

Now the people of the city heard that Manjushri had come and was stay-

ing at the shrine in the forest. Having heard this, pious men and women,

boys and girls, each a company of five hundred, led by Mahaprajna, the

foremost of the pious men, went from the city to where Manjushri was.

Then the pious man Mahaprajna, with a company of five hundred pious

men such as Sudatta, Vasudatta, Punyaprabha, Yashodeva, Somashri,

Somanandi, Sumati, Mahamati, Rahulabhadra, and Bhadrashri, went to

Manjushri, bowed their heads to his feet, circled him three times, and then

sat to one side.

Lúc đó người Phước Thành hay tin ngàiVăn Thù Sư Lợi Ðồng Tử ở đại tháp miếu trong rừng Trang Nghiêm Tràng Ta La, vô lượng người ra khỏi thành đi đến rừng.

Có Ưu bà tắc tên là Ðại Trí cùng quyến thuộc năm trăm Ưu bà tắc, như là: Tu Ðạt Ða, Bà Tu Ðạt Ða, Phước Ðức Quang, Hữu Danh Xưng, Thí Danh Xưng, Nguyệt Ðức, Thiện Huệ, Ðại Huệ, Hiền Hộ, Hiền Thắng.v.v… đồng đến đảnh lể chân ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử, hữu nhiễu ba vòng, rồi lui ra ngồi qua một phía.

Lại có năm trăm Ưu bà di, như là: Ðại Huệ, Thiện Quang, Diệu Thân, Khả Laϣ Thân, Hiền Hạnh, Hiền Ðức, Hiền Quang, Tràng Quang, Ðức Quang, Thiện Mục, v.v.. đồng đến đảnh lễ chân ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử, hữu nhiễu ba vòng rồi lui ra ngồi qua một phía.

Lại có năm trăm Ðồng tử, như là: Thiện Tài, Thiện Hạnh, Thiện Giới, Thiện Oai Nghi, Thiện Dũng Mãnh, Thiện Tư, Thiện Huệ, Thiện Giác, Thiện Nhãn, Thiện Tý, Thiện Quang, v.v.. đồng đến đảnh lễ chân ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử, hữu nhiễu ba vòng rồi lui ra ngồi qua một phía.

 

Then a pious woman named Mahaprajna, with a company of five hun-

dred pious women including Suprabha, Sugatra, Subhadra, Bhadrashri,

Candraprabhasa, Ketuprabha, Shribhadra, andSulocana, went to Manjushri,

bowed to him and circled him, and then sat to one side.

Lại có năm Ðồng nữ, như là: Thiện Hiền, Ðại Trí Cư Sĩ Nữ, Hiền Xưng Mỹ Nhan, Kiên Huệ, Hiền Ðức, Hữu Ðức, Phạm Thọ, Ðức Quang, Thiện Quang, v.v.. đồng đến đảnh lễ chân ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử, hữu nhiễu ba vòng rồi ngồi qua một phía.

 

Then Sudhana, an outstanding boy, together with a company of five hun-

dred outstanding boys including Suvrata, Sushila, Svacara, Suvikrami,

Sucinti, Sumati, Subuddhi, Sunetra, Subahu, and Suprabha, went to

Manjushri, bowed to him and circled him, and then sat to one side.

 

Then the girl Subhadra, daughter of the householder Mahaprajna,

together with a group of five hundred girls including Bhadra,

Abhiramavarta, Drdhamati, Brahmadatta, Shribhadra, Shriprabha, and

Suprabha, went to Manjushri, bowed to him and circled him, and then sat to

one side.

 

Then Manjushri, seeing that the women, men, boys and girls from the

city had gathered and were seated, according to their dispositions over-

whelmed them with his power over appearance, soothed them with his

power of great benevofence, undertook to teach them with his power of

great compassion, eonsidered their mentalities with his power of knowl-

edge, and, imbued with great analytic intelligence, wishing to expound the

truth, he observed the outstanding boy Sudhana: “Why is Sudhana called

Sudhana, which means ‘Good Wealth’? When Sudhana was conceived in

his mother’s womb, there appeared in the house sprouts of seven precious

substances, evenly distributed throughout the house. Beneath those pre-

cious sprouts were seven great treasuries, from which those sprouts

emerged, splitting the surface of the earth as they grew, treasuries of gold,

silver, sapphire, crystal, ruby, emerald, and coral. When his limbs were per-

fectly formed and he was born after ten months, those treasuries, which

were seven spans high, wide, and long, rose to the surface of the earth,

opened, glittered, and shone. Five hundred vessels made of precious sub-

stances also appeared in the house — vessels of clarified butter, sesame ofl,

honey, and fresh butter, each equipped with all the necessary utensils; there

also appeareckdiamond vessels filled with all kinds of perfumes, fragrant ves-

sels filled with various cloths, crystal vessels filled with various foods and

drinks, pearl vessels filled with various jewels, gold vessels filled with silver

 

Page 1174 – The Flower Ornament Scripture

 

powder, silver vessels filled with gold powder, gold and silver vessels filled

with agates, crystal vessels filled with sapphires, sapphire vessels filled with

crystal jewels, emerald vessels filled with rubies, ruby vessels filled with

emeralds, star sapphire vessels filled with water-clarifying jewels, water-

clarifying jewel vessels filled with star sapphires. Five hundred such precious

vessels appeared in the storerooms of the house simultaneously with the

birth of Sudhana, raining money, grain, gold, and various other valuables.

Because of this great prosperity that appeared in the house by his mere birth,

the fortune-tellers and priests and his parents and kin called him Sudhana,

‘Good Wealth.’”

Ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử biết người Phước Thành đều đã đến đông đủ, tùy tâm sở thích của họ mà hiện thân tự tại ánh sáng rực rỡ chói lấp đại chúng. Ngài dùng đại từ tự tại làm cho họ thanh lương. Dùng đại bi tự tại khởi tâm thuyết pháp. Dùng trí huệ tự tại biết tâm sở thích của họ. Dùng biện tài quảng đại sắp vì họ mà thuyết pháp.

Lúc đó, Ngài lại quán sát Thiện Tài đồng tử do cớ gì mà có tên như vậy. Ngài biết đồng tử này lúc mới nhập thai, trong nhà đó tự nhiên hiện ra lầu các thất bửu. Dưới lâu các đó có bảy phục tạng. Trên phục tạng, đất tự nứt ra mọc lên nanh thất bửu: vàng, bạc, lưu ly, pha lê, chơn chân, xa cừ, mã não.

Sau mười tháng, Thiện Tài đản sanh thân hình tay chân đoan chánh đầy đủ. Lúc đó bảy phục tạng từ đất trồi lên ánh sáng chói rực. Mỗi tạng báu ngang dọc cao thấp đều vuông vức bảy thước tay.

Trong nhà đó lại tự nhiên có năm trăm món đồ bằng thất bửu, mọi vật đều đựng đầy trong đó. Những là: trong chậu kim cang đựng tất cả thứ hương thơm. Trong chậu hương đựng các thứ y phục. Trong bát mỹ ngọc đựng các thứ thực phẩm thượng diệu. Trong bát ma ni đựng đầy những thứ trân bửu đẹp lạ. Bình vàng đựng bạc. Bình bạc đựng vàng. Trong bình vàng bạc đựng đầy ngọc lưu ly và ma ni. Trong bình pha lê đựng đầy xa cừ. Trong bình xa cừ đựng đầy pha lê. Trong bình mã não đựng đầy chơn châu. Trong bình chơn châu đựng đầy mã não. Bình hỏa ma ni đựng đầy thủy ma ni. Bình thủy ma ni đựng đầy hỏa ma ni. Năm trăm đồ đựng châu bửu như vậy tự nhiên xuất hiện.

Nơi đó lại mưa các châu bửu và những tài vật làm cho tất cả kho đụn trong nhà đó đều đầy ngập.

Do cớ trên đây nên cha mẹ thân thuộc và tướng sư đều kêu đứa trẻ ấy là Thiện Tài.

 

Sudhana, furthermore, having served past buddhas and planted roots of

goodness, imbued with great zeal and devotion, intent on following spir-

itual benefactors, impeccable in word, thought, and deed, engaged in

clarification of the path of enlightening beings, heading for omnis-

cience, having become a vessel of the Buddha teachings, his course of

mind purified, had achieved an unhindered, unattached determination

for enlightenment.

 

At that pofnt Manjushri, having regarded Sudhana, greeted him in a

friendly manner and expounded the Teaching to him, dealing with all ele-

ments of buddhahood, the cultivation and attainment of all elements of

buddhahood, the infinity of all buddhas, the successive appearance of all

buddhas in the world, the purification of the eongregations surrounding all

buddhas, the achievement of the reality-body of all buddhas, the magnifi-

cent arrays of wisdom and eloquence of all buddhas, the purification of the

array of spheres of light of all buddhas, and the equality of all buddhas.

 

Then Manjushri, having edified, inspired, sharpened, and delighted

Sudhana and the great crowd of people with his talk on the Teaching, hav-

ing caused them to set their minds on perfect enlightenment and made them

remember their past roots of goodness, stopped his teaching there, given as

it was to the people in accord with their mentalities, and left.

 

Then Sudhana, having heard from Manjushri of such magnificence of the

qualities of Buddha, with the quest for supreme perfect enlightenment

uppermost in his mind, uttered these verses as he watched Manjushri gofng:

Ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử lại biết Thiện Tài đã từng cúng dường quá khứ chư Phật, gieo sâu căn lành, tin hiểu rộng lớn, thường thích gần gũi các thiện tri thức. Thân ngữ ý đều không lỗi lầm, tu Bồ Tát đạo cấu Nhứt thiết trí thành Phật pháp khí. Tâm đồng tử này thanh tịnh như hư không, hồi hướng Bồ đề không chướng ngại.

Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát quán sát Thiện Tài như vậy rồi, liền an ủi chỉ dạy tất cả Phật pháp.

Những là nói pháp tích tập của tất cả Phật, pháp tương tục của tất cả Phật, pháp thứ đệ của tất cả Phật, pháp chúng hội thanh tịnh của tất cả Phật, pháp pháp luân hóa đạo của tất cả Phật, pháp sắc thân tướng hảo của tất cả Phật, pháp pháp thân thành tựu của tất cả Phật, pháp ngôn từ biện tài của tất cả Phật, pháp quang minh chiếu diệu của tất cả Phật, pháp bình đẳng vô nhị của tất cả Phật.

Ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử vì Thiện Tài đồng tử và đại chúng mà nói những pháp như vậy rồi, lại ân cần khuyên dạy cho họ tăng trưởng đạo lực, cho họ hoan hỷ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lại làm cho họ tự ghi nhớ thiện căn thuở quá khứ.

Ngài lại vì tất cả đại chúng mà tùy nghi thuyết pháp. Sau đó Ngài rời rừng mà đi.

Thiện Tài đồng tử được nghe pháp nơi ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, được nghe những công đức của chư Phật như vậy, liền nhứt tâm cần cầu Vô thượng Bồ đề, đi theo ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát mà nói kệ rằng:

 

By your power, Great Sage, I am set on enlightenment for the good of all beings,

Resolved on this, with an endless vista; hear what is on my mind.

 

Moats filled with the water of delight, with high walls of conceit and pride,

Its doors the conditions of all beings — that is how the great city of existence is.

 

Shrouded in the great darkness of ignorance, burnt by the fire of lust and hate,

 

Page 1175 – Entry into the Realm of Reality

 

Ever under the sway of the lord of demons, the abode of the unenlightened.

 

Completely bound by the ropes and chahis of craving, made desofate by the wastelands of deceit,

Blinded by doubt and confusion, standing on the ground of falsehood.

 

Bound up in envy and jealousy, becoming ghosts, animals, and fiends,

Oppressed by birth, sickness, age, and death, they wander lost in the wheel of transmigration.

 

May the pure orb of your compassion for them, a sun radiating the light of knowledge,

Risen to evaporate the sea of afflictions, shine on me like the sun.

 

Orb full of the power of love, radiating moonbeams of virtue, grant happiness;

You give light like the full moonappearing in the abodes of all beings.

 

Endowed with all virtues and powers, your mind is in the sky of the reality realm;

Instruct me, O King, with the jewel of the wheel of the teaching.

 

Boldly advancing, resofute, on the vehicle of enlightenment, having developed great virtue and knowledge,

0 Caravan Leader arising to benefit all beings, profect me.

 

Girt with the armor of forbearance, strength, and firmness, wielding the sword of knowledge in the hand of compassion,

Facing the band of demons in battle, lead me to safety, O Hero.

 

Dwelling on the peak of the polar mountain of truth, surrounded by the arehangels of concentration,

Destroyer of the titans of affliction, look upon me, O Mighty One.

 

In the city of existences, the abode of the unaware, your guidance out of afflictive action is definitive;

Amid the confusion of the cycle of transmigration on the ground of

cause, as a lamp reveal to me the Way.

 

Turning away from the paths of woe, purifying the paths of bliss,

Transcender of all worldly states, lead me to the door of liberation.

 

I am stuck to the notions of permanence, self, and pleasure, blocked by

falsehood and grasping —

With the sharp eye of truth, knowledge, and power, quickly open the door of liberation for me.

 

Page 1176 – The Flower Ornament Scripture

 

Knower of the paths of truth and falsehood, fearless in the varied knowledge of the Way,

Certain of the guidance of all paths, show me the Way to enlightenment.

 

Tree of right hisight standing firm on the ground, nourished by the water of the virtues of all buddhas,

Showing flowers of virtues of buddha-teaching, show me the Way to enlightenment.

 

O teacher of the Way, show me the buddhas of the past, future, and present,

Makers of light, best of beings, gone to bliss.

 

Familiar with the various mechanics of action, expert in the mechanics of the vehicle of religion,

Sure of the various vehicles of knowledge, show me the vehicle of

enlightenment.

 

Put me on the vehicle of enlightenment, driven by faith, studded with jewels of virtue,

A globe with wheels of prayer and vows, steeled by forbearance, resting on the axle of compassion.

 

Orb of all memory, purified, with a root of kindness, well adorned,

And a beautiful bell-garland of analytic powers — put me in this supreme vehicle.

 

Adorned with a couch of pure conduct, filled with millions of concentration-ladies,

With the drum of truth resounding — bring me to this royal vehicle.

 

With an infinite chamber of the four integrative methods, adorned with jewels of knowledge and pearls of virtue,

Harnessed with the finest rope of modesty — show me the chief of

vehicles.

 

It has the radiance of the pure sphere of light of relinquishment, the sandalwood of morality, the perfume of compassion.

With the lance of forbearance, and is held together by firmness —

place me on the supreme vehicle.

 

It guides all beings, never turning back; its frame of meditation is set up on concentration,

It is drawn by the team of wisdom and means — place me on that emi-

nent vehicle of truth.

 

Vows set the course and alignment of its wheels; it holds the truth steadfastly, having great power;

 

Page 1177 – Entry into the Realm of Reality

 

It is well made by the dynamics of knowledge, expertly — lift me onto the vehicle of truth.

 

It is refined by Universally Goodaction, proceeding slowly with concern for beings:

Bring me to that vehicle of knowledge, of valor in pure conduct everywhere.

 

Put me on that vehicle which cuts through all obstructions.

Steady and firm as the finest steel, adorned with garlands of knowledge.

 

It is spacious, clean, impartial toward people, a reiuge lor all beings, bringing happiness:

Put me on that vehicle of enlightenment, which sheds light through-out the cosmos.

 

Its advance cuts through the mass of suffering, clears the sphere of dust of afflictions of action,

And subdues all demons and challengers — put me on that vehicle of truth.

 

Its scope is universal knowledge, it arrays the sky of the reality realm;

Bring me to that vehicle of truth, which fulfills the aspiration of all beings.

 

Put me on that spiritual vehicle, pure and infinite as space,

Unstained by the ignorance and obscurity of views, serving all sentient beings.

 

Put me on that spiritual vehicle, swift as the wind,

Sustaining the world by the wind-power of vows, establishing the ground of all citadels of peace.

 

Put me on the supreme vehicle, unshakable as the earth, carrying its cargo

By the intense power of compassion, full of knowledge, beneficial to the world.

 

It is like the sun, giving life to the world, a concentrated orb of great lights.

Radiant with supreme purity of mental command; show me the sun of knowledge.

 

Give me that mighty thunderboft of knowledge, O Noble One, which is learned over many eons,

 

Page 1178 – The Flower Ornament Scripture

 

Knows the reasons and grounds of all causes, and smashes the fortress of conditioning.

 

As you have learned a vast ocean of knowledge, an unequaled ocean of awareness,

Imbued with all qualities of buddhas, tell me what it is like.

 

As you have highly developed vision and are graced with the crown of the king of knowledge.

Your head wrapped in the turban of truth, look into the city of the spiritual sovereign.

Ba cõi làm thành quách

Kiêu mạn làm tường vách

Các loài làm cửa nẻo

Nước ái làm hào ao

Tối ngu si đậy che

Lửa tham sân cháy rực

Ma Vương làm quân chủ

Trẻ khờ ở trong đó.

Tham ái làm dây trói

Dua dối làm cương yên

Nghi hoặc che đôi mắt

Thẳng vào những đường tà.

Vì đầy tham ganh kiêu

Vào nơi ba đường ác

Hoặc đọa trong các loài

Khổ sanh già bịnh chết.

Mặt nhựt trí thanh tịnh

Vầng tròn đầy đại bi

Hay cạn biển phiền não

Xin ban diệu quán sát.

Mặt nguyệt trí thanh tịnh

Vầng trong sạch đại từ

Ban an vui tất cả

Xin thương sof xét tôi.

Vua tất cả pháp giới

Pháp bửu làm tiên đạo

Du không chẳng chướng ngại

Xin thương dạy bảo tôi.

Ðại Thương Chủ phước trí.

Dũng mãnh cầu Bồ đề

Lợi khắp các quần sanh

Xin thương thủ hộ tôi.

Thân mặc giáp nhẫn nhục

Tay cầm gươm trí huệ

Tự tại hàng quân ma

Xin thương cứu vớt tôi.

Ở đảnh pháp Tu Di

Ðịnh nữ thường hầu hạ

Diệt hoặc A tu la

Ðế thích xin xem tôi.

Nhà ba cõi phàm ngu

Hoặc nghiệp khổ luân chuyển

Ngài đã điều phục cả

Như đèn sáng sof đường.

Bỏ rời những ác thú

Thanh tịnh những đường lành

Bực vượt hẳn thế gian

Dạy tôi môn giải thoát.

Thế gian chấp điên đảo

Thường thích tưởng ngã tịnh

Trí nhãn đều rời được

Dạy tôi môn giải thoát.

Khéo biết đường tà chánh

Biết rõ tâm không khiếp

Ðấng quyết rành tất cả

Dạy tôi đường Bồ đề.

Trụ bực Phật chánh kiến

Lớn cây Phật công đức

Rưới bông Phật diệu pháp

Dạy tôi đường Bồ đề.

Khứ, lai, hiện tại Phật

Xứ xứ đếu cùng khắp

Như mặt nhựt mọc lên

Vì tôi dạy đạo đó.

Khéo biết tất cả nghiệp

Thấu rõ hạnh các thừa

Người trí huệ quyết định

Dạy tôi pháp Ðại Thừa.

Bánh nguyện, gọng đại bi,

Tín trục, vành kiên nhẫn

Báu công đức trang nghiêm

Cho tôi ngồi xe này.

Rương tổng trì quảng đại

Lọng từ mẫn trang nghiêm

Linh biện tài reo vang.

Khiến tôi ngồi xe này.

Phạm hạnh làm nệm êm

Tam muội làm thể nữ

Trống pháp rền tiếng mầu

Cho tôi ngồi xe này.

Tứ nhiếp tạng vô tận

Báu công đức trang nghiêm

Tàm quý làm yên cương

Ban cho tôi xe này.

Thường rong xe bố thí

Hằng xoa hương tịnh giới

Bò nhẫn nhục trang nghiêm

Cho tôi ngồi xe này.

Thùng thiền định tam muội

Ách trí huệ phương tiện

Ðiều phục chẳng thối chuyển

Cho tôi ngồi xe này.

Xe đại nguyện thanh tịnh

Sức tổng trì kiên cố

Trí huệ được thành tựu

Cho tôi ngồi xe này.

Phổ hạnh làm đi khắp

Bi tâm thong thả đi

Ðến đâu đều không khiếp

Cho tôi ngồi xe này.

Kiên cố như kim cang

Thiện xảo như huyễn hóa

Tất cả không chướng ngại.

Cho tôi ngồi xe này.

Quảng đại rất thanh tịnh

Khắp ban chúng sanh vui

Ðồng hư không pháp giới

Cho tôi ngồi xe này.

Sạch những vòng nghiệp hoặc

Dứt những khổ lưu chuyển

Dẹp ma và ngoại đạo

Cho tôi ngồi xe này,

Trí huệ khắp mười phương

Trang nghiêm khắp pháp giới

Thỏa nguyện của chúng sanh

Cho tôi ngồi xe này.

Thanh tịnh như hư không

Ái, kiến đều trừ diệt

Lợi ích tất cả chúng

Cho tôi ngồi xe này.

Nguyện lực đi mau chóng

Ðịnh tâm an ổn trụ

Chở khắp các hàm thức

Cho tôi ngồi xe này.

Như đại địa chẳng động

Như nước lợi ích cả

Chở chúng sanh như vậy

Cho tôi ngồi xe này.

Vầng từ nhiếp viên mãn.

Sáng tổng trì thanh tịnh

Mặt nhật huệ như vậy

Xin dạy cho tôi thấy.

Ðã vào ngôi Pháp Vương

Ðã đội mão Trí Vương

Ðã vấn lụa diệu pháp

Xin thương chiếu cố tôi.

 

Then Manjushri, gazing like an elephant, said to Sudhana, “It is good

that you follow spiritual benefactors, having set your mind on supreme

enlightenment, that you think you should inquire into the practice of

enlightening beings, wishing to fulfill the path of enlightening beings.

Attending and serving spiritual friends is the beginning, the logical course,

for the accomplishment of omniscience. Therefore you should tirelessly

attend spiritual benefactors.”

Lúc đó ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, như tượng vương, xoay nhìn Thiện Tài đồng tử mà bảo rằng:

Lành thay! Lành thay! Này thiện nam tử! Ngươi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, lại muốn thân cận các bực thiện tri thức để hỏi Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo.

Này thiện nam tử! thân cận cúng dường các bực thiện tri thức là nhơn duyên trứơc nhứt để được đầy đủ Nhứt thiết trí.

Vì thế nên công việc này ngươi chớ có mỏi nhàm.

 

Sudhana said, “Noble One, please give me a full explanation of how an

enlightening being is to study the practice of enlightening beings, how an

enlightening being is to accomplish it. How is an enlightening being to ini-

tiate the practice of enlightening beings? How is an enlightening being to

carry out the practice of enlightening beings? How is an enlightening being

to fulfill the practice of enlightening beings? How is an enlightening being

to purify the practice of enlightening beings? How is an enlightening being

to comprehend the practice of enlightening beings? How is an enlightening

being to effect the practice of enlightening beings? How is an enlightening

being to follow the practice of enlightening beings? How is an enlightening

being to keep to the practice of enlightening beings? How is an enlightening

being to expand the practice of enlightening beings? How can an enlighten-

ing being fulfill the sphere of the universally good practice?”

 

Then Manjushri spoke to Sudhana in verse:

Thiện Tài đồng tử bạch rằng:

Cúi xin đức Thánh vì tôi mà dạy Bồ Tàt phải học Bồ Tát hạnh thế nào? Phải tu Bồ Tát hạnh thế nào? phải đến Bồ Tát hạnh thế nào? Phật thật hành Bồ Tát hạnh thế nào? Phải tịnh Bồ Tát hạnh thế nào? Phải nhập Bồ Tát hạnh thế nào? Phải thành tựu Bồ Tát hạnh thế nào? Phải tùy thuận Bồ Tát hạnh thế nào? Phải ghi nhớ Bồ Tát hạnh thế nào? Phải thêm rộng Bồ Tát hạnh thế nào? Phải làm thế nào cho Phổ Hiền hạnh mau được viên mãn.

Lúc đó ngài Văn Thù Sư Lợ Bồ Tát vì Thiện Tài đồng tử mà nói kệ rằng:

 

Bravo, ocean of pure virtues, who has come to me;

With a mind of vast compassion, you seek supreme enlightenment.

 

You are committed to the peerless course of conduct for the sake of the

liberation of all beings;

You will become a savior of the world — this is the principle of enlightening beings’ practice.

 

Enlightening beings who are steadfast and indefatigable work within the mundane —

They attain universal good, invincible and unobstructed.

 

Page 1179 -Entry into the Realm of Reality

 

Light of virtue, star of virtue, mine of virtue, ocean of virtue, pure —

You are committed to universal good in practice, for the welfare of

the world.

 

You will see infinite buddhas, in the worlds of the ten directions:

And you will hold their clouds of teachings by the power of memory.

 

As you see the buddhas in the buddha-lands of the ten directions,

You will clarify their ocean of vows in enlightenment practice.

 

Those who enter this ocean of principles and stand on the ground of buddhahood

Will become all-seers, learning from the Guides of the world.

 

Having practiced the conduct of universal good throughout all lands, for as many eons as there are atoms in the lands.

You will reach enlightenment, the abode of peace and bliss.

 

You should practice for boundless oceans of eons in all lands

And fulfill this undertaking of the conduct of universal higher good.

 

Behold the millions of beings who are happy to hear your vow,

Who seek enlightenment by the knowledge of universal good.

Lành thay tạng công đức
Có thể đến gặp ta
Pháp khởi tâm đại bi
Siêng cầu Vô Thượng Giác.
Ðã pháp nguyện rộng lớn
Diệt trừ khổ chúng sanh
Vì khắp các chúng sanh
Tu hành Bồ Tát hạnh.
Nếu có các Bồ Tát
Chẳng nhàm khổ sanh tử
Thời đủ đạo Phổ Hiền
Tất cả không hoại được.
Phước quang, phước oai lực
Phước xứ, phước tịnh hải
Ngươi vì khắp chúng sanh
Nguyện tu Phổ Hiền hạnh.
Ngươi thấy vô biên tế
Mười phương tất cả Phật
Khắp nghe Phật thuyết pháp
Thọ trì chẳng quên mất.
Ngươi ở mười phương cõi
Thầy khắp vô lượng Phật
Thành tựu những nguyện hải
Ðầy đủ Bồ Tát hạnh.
Nếu nhập phương tiện hải
An trụ Phật Bồ đề
Hay theo Ðạo Sư học
Sẽ thành Nhứt thiết trí.
Khắp tất cả quốc độ
Số kiếp như vi trần
Ngươi tu hạnh Phổ Hiền
Thành tựu Bồ đề đạo.
Ở vô lượng cõi nước
Trong vô biên kiếp hải
Ngươi tu hạnh Phổ Hiền
Thành mãn những đại nguyện.
Vô lượng chúng sanh đây
Nghe ngươi nguyện đều mừng
Ðều phát tâm Bồ đề
Nguyện học hạnh Phổ Hiền

 

Then Manjushri, having uttered these verses, said to Sudhana, “It is good

that you think, having set your heart on supreme enlightenment, that you

should find out the practice of enlightening beings. It is hard to find beings

who set their hearts on supreme enlightenment. It is even harder to find

beings who, once they have set their minds on enlightenment, seek the prac-

tice of enlightening beings. An enlightening being is to attain certainty

through true spiritual friends, spiritual benefactors, for the realization of

omniscience. One should indefatigably seek spiritual benefactors and be

tireless in seeing spiritual benefactors. One should respectfully follow the

appropriate instructions of spiritual benefactors and should carry out the

techniques skillfully devised by spiritual benefactors, without interruption.

South of here is a country called Ramavaranta; there is a mountain there

called Sugriva, where a monk named Meghashri lives. Go to him and ask

how an enlightening being should learn the conduct of enlightening

beings, and how to apply it; how one is to fulfill, purify, enter into, carry out,

follow, keep to, and expand the practice of enlightening beings, and how an

enlightening being is to fulfill the sphere of universally good action. That

spiritual friend will tell you about the sphere of universally good conduct.”

Nói kệ xong, ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bảo Thiện Tài đồng tử rằng:

Lành thay! Lành thay! này thiện nam tử! Ngươi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, cầu hạnh Bồ Tát.

Này thiện nam tử! nếu có chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề, đây là việc rất khó. Ðã có thể phát Bồ đề tâm rồi lại cầu Bồ Tát hạnh, việc này càng khó gấp bội.

Này thiện nam tử! Nếu muốn thành tựu Nhứt thiết chủng trí thời phải quyết định cầu chân thiện tri thức.

Này thiện nam tử! Cầu thiện tri thức chớ có mỏi lười. Thấy thiện tri thức chớ có nhàm đủ. Thiện tri thức có dạy bảo điều chi phải đều tùy thuận. Nơi thiện xảo phương tiện của thiện tri thức chớ thấy lỗi lầm.

Phương nam này có một nước tên là Thắng Lạc. Trong nước Thắng Lạc có tòa núi tên là Diệu Phong. Trên núi đó có một Tý kheo tên là Ðức Vân. Ngươi nên đến hỏi Tỳ Kheo Ðức Vân: Bồ Tát phải học Bố Tát hạnh thế nào? Phải tu Bồ Tát hạnh thế nào? Nhẫn đến phải như thế nào để được mau viên mãn hạnh Phổ Hiền? Tỳ Kheo Ðức Vân sẽ chỉ bảo cho ngươi.

 

Then Sudhana, pleased, enraptured, transported with joy, delighted,

happy, and cheerful, laid his head at the feet of Manjushri in respect, circled

Manjushri hundreds and thousands of times, and looked at him hundreds

and thousands of times, with a mind full of love for the spiritual friend.

 

Page 1180 – The Flower Ornament Scripture

 

unable to bear not seeing the spiritual friend, with tears streaming down his

face as he wept, and left Manjushri.

 

Meghashri

 

Then Sudhana proceeded by stages to the country of Ramavaranta. Having

reached Ramavaranta, reflecting on and tasting the mentally pleasing enjoy-

ments based on higher action born of past roots of goodness, he went to

Mount Sugriva, climbed the mountain, and looked in every direction for the

monk Mcghashri. Finally, after seven days, he saw the monk walking on the

plateau of another peak. He went to Meghashri, paid his respects, and said,

“O noble one, I have determined to seek supreme enlightenment, but I do

not know how an enlightening being should learn the conduct of enlight-

ening beings, or how one should accomplish it, or how to begin the practice

of enlightening beings, how to carry it out, fulfill it, purify it, comprehend

it, realize it, follow it, keep to it, and expand it, or how an enlightening

being is to fulfill the sphere of universally good action. I hear that you give

instruction for enlightening beings, so please tell me how enlightening

beings proceed to supreme perfect enlightenment.”

Thiện Tài đồng tử nghe xong hớn hở vui mừng, đảnh lễ Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, hữu nhiễu vô số vòng, ân cần chiêm ngưỡng, rơi lệ từ tạ mà đi qua hướng Nam, đến nước Thắng Lạc, lên núi Diệu Phong. Ở trên núi đó xem ngó tìm kiếp khắp bốn phía, lòng khao khát muốn được gặp Tỳ Kheo Ðức Vân. Bảy ngày sau mới được thấy Tý Kheo Ðức Vân ở trên ngọn núi khác đi kinh hành chậm rãi.

Thấy xong, Thiện Tài đồng tử liền đến đảnh lễ chân Tỳ Kheo Ðức Vân, hữu nhiễu ba vòng cung kính đứng trước Ðức Vân mà bạch rằng:

Bạch Ðức Thánh! Tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát phải học Bồ Tát hạnh thế nào? Phải tu Bồ Tát hạnh thế nào? Nhẫn đến phải thế nào để được mau viên mãn hạnh Phổ Hiền? Tôi nghe đức Thánh khéo có thể dạy bảo, mong đức Thánh thương xót dạy cho tôi thế nào Bồ Tát được thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

 

The monk Meghashri replied to Sudhana, “It is good that you ask about

the practice of enlightening beings, having set your mind on supreme per-

fect enlightenment. It is difficult, most difficult, to seek the practice of

enlightening beings, to seek the sphere of enlightening beings, to seek the

purification of emancipation of enlightening beings, to seek the purification

of the path of enlightening beings, to seek the far-ranging purification of

the conduct of enlightening beings, to seek the purification of the accom-

plishment of mystic knowledge of enlightening beings, to show the

liberation of enlightening beings, to show enlightening beings’ exercise of

compassion for the world, to oblige people according to their mentalities in

the manner of enlightening beings, to show enlightening beings’ mundane

and transcendental faces, to seek the thought and action of enlightening

beings undefiled by the ills and fears of the created and the uncreated. Son,

by virtue of mastery of the power of devotion, purity of the eye of perceptive

faith, illumination of the light of knowledge without aversion, purity of the

universal eye looking in all directions with unobstructed universal perspec-

tive and unobstructed vision skillfully observing, skillfulness in obeisance,

bowing in all directions in a state of physical purity, and the power of mem-

ory command perfectly holding the masses of teachings of all buddhas, I see

the buddhas in all the lands of the ten directions. That is, in the east I see one

buddha, two buddhas, three buddhas, a hundred buddhas, a thousand bud-

dhas, a hundred thousand buddhas, a million buddhas, a hundred million

buddhas, a billion buddhas, a hundred billion buddhas, a quintillion

buddhas — I see incalculable, immeasurable, uncountable, inconceivable,

incomparable, incomprehensible, unlimited, ungraspable, inestimable,

unutterable numbers of buddhas. I see as many buddhas as atoms in this eon-

tinent; I see as many buddhas as atoms in the land masses of the four

 

Page 1181 – Entry into the Realm of Reality

 

continents; I see as many buddhas as atoms in thousand-world, million-

world, and billion-world buddha-lands; I see as many buddhas as atoms in

ten buddha-lands; I see as many buddhas as atoms in a hundred buddha-

lands; I see as many buddhas as atoms in a thousand buddha-lands; I see as

many buddhas as atoms in a hundred thousand buddha-lands; I see as many

buddhas as atoms in a million buddha-lands; I see as many buddhas as atoms

in a hundred million buddha-lands; I see as many buddhas as atoms in a bil-

lion buddha-lands; I see as many buddhas as atoms in a hundred billion

buddha-lands; I see as many buddhas as atoms in aquintillion buddha-lands;

I see as many buddhas as atoms in untold numbers of buddha-lands. As in the

east, in the same way I see untold buddhas in all the other directions as well;

looking in each direction, I see buddhas with various appearances, I see bud-

dhas with various forms, various transfigurations, various exercises of

power, various eongregations, radiating light in networks of rays of many

cofors, with various arrays of states of purity in their buddha-lands, various

life spans, showing magical protections of various ways of purification of

enlightenment to beings according to their mentalities, roaring the mighty

lion roar of buddhas.

 

“Son, from this universal light in which is concentrated the information

of all sense objects, I have attained mindfulness of the buddhas: but how can

I know the practice, or tell of the virtues, of the enlightening beings who

have purified the sphere of endless knowledge, who have attained the means

of mindfulness ofbuddhas in the sphere of universal illumination, by seeing

right before their eyes the pure arrays of abodes in all buddha-lands in the

spheres of all buddhas; who have attained the means of mindfulness ofbud-

dhas in which the ten powers are developed, by following the infinite ten

powers of the enlightened; who have attained the means of mindfulness of

buddhas in which the truth is displayed, by observation of the clouds of bod-

ies of all buddhas as sources from which the truth is heard; who have

attained the means of mindfulness ofbuddhas which is the seed of illumina-

tion of all realms, by plunging into the undivided ocean ofbuddhas in all

oceans of realms; who have attained the means of mindfulness ofbuddhas

throughout the ten directions, by comprehending the majesty of protections

of all buddhas in all microcosms; who have attained the means of

mindfulness of buddhas in all ages, by communication of the hiseparable

vision of Buddha in all ages; who have attained the means of mindfulness of

buddhas in all times, by seeing buddhas according to the time in all times

and living with them hiseparably; who have attained the means of

mindfulness ofbuddhas in all fields, by communication of the vision of the

transcendent, unsurpassed body ofbuddhas in all buddha-fields; who have

attained the means of mindfulness ofbuddhas in all sense objects, by com-

munication of vision of successive emergence ofbuddhas in all objects; who

have attained the means of mindfulness of buddhas by which peace is devel-

oped, through revelation of the ultimate extinction of all buddhas in all

worlds in a single histant; who have attained the means of mindfulness of

buddhas by which detachment is developed, by revelation of all buddhas

 

Page 1182 – The Flower Ornament Scripture

 

gofng forth from all abodes in one day; who have attained the means of

mindfulness of buddhas in the past, by revelation of the bodies of buddhas,

each buddha sitting cross-legged filling the cosmos; who have attained the

means of mindfulness of buddhas in the minute, by entering into the service

of untold buddhas appearing in a single pofnt; who have attained the means

of mindfulness of buddhas in supernal manifestations, by communication of

visions of mystical displays of attainment of enlightenment in all worlds in

one histant; who have attained the means of mindfulness of buddhas in reli-

gious actions, by attainment of the illumination of knowledge of the miracle

of all buddhas coming forth and teaching; who have attained the means of

projected mindfulness of buddhas, by apprehending appearances of all bud-

dhas seen as they wish; who have attained the means of mindfulness of

buddhas in deeds, by showing reflected images according to the deeds that

all beings have done; who have attained the means of mindfulness of bud-

dhas in mystic protections, by means of the ubiquitous manifestation of

visions of tremendous protections of buddhas on lotus blossoms blooming in

all phenomenal and noumenal realms; who have attained the means of

mindfulness of buddhas in space, by vision of the space of the cosmos

adorned by clouds of images of buddhas?

Ðức Vân Tỳ Kheo bảo Thiện Tài đồng tử rằng:

Lành thay! Lành thay! Này thiện nam tử! Ngươi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, lại có thể hỏi hạnh của Bồ Tát. Việc như vậy là sự khó trong những sự khó. Những là cầu Bồ Tát hạnh, cầu Bồ Tất cảnh giới, cầu đạo xuất ly của Bồ Tát, cầu đạo thanh tịnh của Bồ Tát, cầu tâm thanh tịnh quảng đại của Bồ Tát, cầu Bồ Tát thành tựu thần thông, cầu Bồ Tát thị hiện môn giải thoát, cầu Bồ Tát thị hiện việc làm tại thế gian, cầu Bồ Tát tùy thuận tâm của chúng sanh, cầu môn sanh tử Niết bàn của Bồ Tát, cầu Bồ Tát quán sát hữu vi vô vi tâm không chấp trước.

Này thiện nam tử! Ta được sức thắng giải tự tại quyết định, tín nhãn thanh tịnh, trí quang chói sáng, thấy khắp các cảnh giới khỏi tất cả chướng ngại, quán sát khéo léo, phổ nhãn sáng suốt, đủ hạnh thanh tịnh. Qua đến tất cả cõi nước mười phương cung kính cúng dường tất cả chư Phật. Thường nhớ tất cả chư Phật Như Lai. Tổng trì tất cả chánh pháp của chư Phật. Thường thấy tất cả chư Phật mười phương.

Những là thấy phương đông một đức Phật, hai đức Phật, mười đức Phật, trăm đức Phật, ngàn đức Phật, ức đức Phật, trăm ức đức Phật, ngàn ức đức Phật, trăm ngàn ức đức Phật, na do tha ức đức Phật, trăm na do tha ức đức Phật, ngàn na do tha ức đức Phật, trăm ngàn na do tha ức đức Phật, nhẫn đến thấy vô số, vô lượng, vô biên vô đẳng, bất khả sổ, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lượng, bất khả thuyết, bất khả thuyết bất khả thuyết đức Phật. Nhẫn đến thấy chư Phật bằng số vi trần trong Diêm Phù Ðề, bằng số vi trần trong bốn châu thiên hạ, bằng số vi trần trong Tiểu thiên thế giới, bằng số vi trần trong nhị thiên thế giới bằng số vi trần trong Ðại Thiên thế giới, bằng số Phật sát vi trần nhẫn đến thấy chư Phật bằng số bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần.

Như phương đông, chín phương kia cũng đều thấy như vậy.

Chư Phật trong mỗi phương, những sắc tướng, những hình mạo, những thần thông, những du hí, những chúng hội trang nghiêm đạo tràng, những quang minh chiếu sáng vô biên, những quốc độ, những thọ mạng. Tùy những tâm sở nghi của chúng sanh mà chư Phật thị hiện những môn thành Ðẳng Chánh Giác, làm sư tử hống trong đại chúng.

Này thiện nam tử! Ta chỉ được pháp môn “ức niệm Nhứt thiết chư Phật cảnh giới trí huệ quang minh phổ kiến” này thôi. Ðâu biết hết được vô biên trí huệ thanh tịnh hạnh môn của đại Bồ Tát. Những là: Trí quang phổ chiếu niệm Phật môn, vì thường thấy tất cả chư Phật quốc độ những cung điện đều trang nghiêm thanh tịnh. Môn làm cho tất cả chúng sanh niệm Phật, vì tùy sở nghi của tâm chúng sanh đều làm cho họ được thấy Phật, tâm họ được thanh tịnh. Môn làm cho an trụ nơi lực niệm Phật, vì làm cho họ nhập vào thập lực của Như Lai. Môn làm cho an trụ nơi pháp niệm Phật, vì thấy vô lượng Phật được nghe pháp. Môn niệm Phật chói sáng các phương, vì đều thấy trong tất cả thế giới chư Phật bình đẳng không sai biệt. Môn niệm Phật vào chỗ bất khả kiến, vì đều thấy trong tất cả cảnh vi tế những sự thần thông tự tại của chư Phật. Môn niệm Phật an trụ trong các kiếp, vì trong tất cả kiếp thường thấy những việc làm không tạm bỏ của chư Phật. Môn niệm Phật an trụ trong tất cả thời gian, vì trong tất cả thời gian thường thấy đức Như Lai gần gủi đồng ở chẳng rời bỏ. Môn niệm Phật an trụ tất cả cõi, vì tất cả quốc độ đều thấy thân Phật vượt hơn tất cả không gì sánh bằng. Môn niệm Phật an trụ tất cả đời, vì tùy tâm sở thìch thấy khắp tam thế chư Phật. Môn niệm Phật an trụ tất cả cảnh, vì ở khắp trong tất cả cảnh giới thấy chư Như Lai thứ đệ xuất hiện. Môn niệm Phật an trụ tịch diệt, vì trong một niệm thấy tất cả cõi, tất cả chư Phật thị hiện Niết bàn. Môn niệm Phật an trụ viễn ly, vì trong một niệm thấy tất cả Phật từ nơi chỗ ở mà ra đi. Môn niệm Phật an trụ quảng đại, vì tâm thường quán sát mỗi thân Phật đầy khắp tất cả pháp giới. Môn niệm Phật an trụ vi tế, vì trong một chân lông có bất khả thuyết Như Lai xuất hiện, đều đến chỗ Phật ma kính thờ. Môn niệm Phật an trụ trang nghiêm, vì trong một niệm thấy tất cả cõi đều có chư Phật thành Ðẳng Chánh Giác hiện thần biến. Môn niệm Phật an trụ năng sự, vì thấy tất cả Phật xuất hiện thế gian, phóng trí huệ quang chuyển diệu pháp luân. Môn niệm Phật trụ tâm tự tại, vì biết tùy theo sở thích của tự tâm, tất cả chư Phật hiện hình tượng. Môn niệm Phật an trụ nơi tự nghiệp, vì biết tùy nghiệp tích tập của chúng sanh mà hiện hình tượng làm cho họ được giác ngộ. Môn niệm Phật an trụ thần biến, vì thấy liên hoa quảng đại của Phật ngự nở xòe khắp pháp giới. Môn niệm Phật an trụ hư không vì quán sát những thân Như Lai trang nghiêm pháp giới hư không giới. Như vậy ta làm sao biết được nói được những công đức hạnh của đại Bồ Tát.

 

“Go, son — south of here is a place called Sagaramukha, where there lives

a monk named Sagaramegha. Go to him and ask him how an enlightening

being is to learn and accomplish the conduct of enlightening beings. He will

reveal to you a spiritual benefactor; he will introduce you into the cause of

accumulation of roots of goodness; he will get you to develop the vast

ground of provisions for enlightenment; he will tell you of the immense,

intense power of roots of goodness; he will inform you of the great cause of

preparation of the determination for enlightenment; he will establish in you

the great cause of the illumination of the vehicle of universal salvation; he

will cause you to develop the great power of the set of transcendent ways; he

will get you to purify extensive means of entry into the ocean of religious

practice; he will get you to purify the vast sphere of vows; he will get you to

develop extensive systems of all-sided emancipation; he will get you to

develop the immense power of compassion.”

Này thiện nam tử! Phương Nam có một nước tên là Hải Môn, nơi đó có Tỳ Kheo tên là Hải Vân. Ngươi đến hỏi Hải Vân rằng Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo? Hải Vân Tỳ Kheo có thể phân biệt nói nhơn duyên phát khởi thiện căn quảng đại.

Này thiện nam tử! Hải Vân Tỳ Kheo sẽ làm cho ngươi nhập ngôi trợ đạo quảng đại, sẽ làm cho ngươi sanh sức thiện căn quảng đại, sẽ vì ngươi mà nói nhơn duyên phát tâm Bồ đề, sẽ làm cho ngươi sanh quang minh đại thừa quảng đại, sẽ làm cho ngươi tu ba la mật quảng đại, sẽ làm cho ngươi nhập những hạnh hải quảng đại, sẽ làm cho ngươi viên mãn thệ nguyện quảng đại, sẽ làm cho ngươi tịnh môn trang nghiêm quảng đại, sẽ làm cho ngươi sanh sức từ bi quảng đại.

 

Then Sudhana paid his respects to the monk Meghashri and left.

 

Sagaramegha

 

Then Sudhana, reflecting on the instructions of that spiritual benefactor,

pondering that enlightening liberation, pofishing that enlightening

method of concentration, peering into that conductor into the ocean of the

essence of enlightenment, intent upon the sphere of buddhahood, seeking

that direction to the vision of Buddha, thinking about that ocean of bud-

dhas, remembering the succession of buddhas, following that approach to

the means of enlightenment, looking throughout that sky of the enlight-

ened, went gradually to the monk Sagaramegha in the region of

Sagaramukha. When he got there, he paid his respects to Sagaramegha and

 

Page 1183 – Entry into the Realm of Reality

 

said, “O noble one, I have set out for supreme perfect enlightenment and

want to enter the supreme ocean of knowledge; but I do not know how

enlightening beings get out of the host of worldlings and into the host of the

enlightened, emerge from the ocean of the mundane whirl and enter the

ocean of omniscience, die away from the state of ignorant sentient beings

and are born in the family of buddhas, withdraw from the stream of the

mundane whirl and follow the stream of enlightening practice, escape from

the wheel of transmigration in the mundane whirl and turn to the wheel of

practice and vows of enlightening beings, destroy the gang of all demons

and make manifest the light of the host of all buddhas, evaporate the ocean

of craving and increase the water of great compassion, close all doors of dec-

adence and miserable states and evils which are inopportune for

enlightenment and open the door of heaven and nirvana, break through the

door of the city of the mundane and enter the door of the city of omnis-

cience, give up craving for all luxuries and give rise to the determination to

care for all being.”

 

To this Sagaramegha replied, “It is good that you have set your mind on

supreme perfect enlightenment. The will for enlightenment is not devel-

oped by people who have not planted roots of goodness; the will for

enlightenment is produced by those who have attained the illumination of

all-sided roots of goodness, who are illumined by the light of knowledge of

concentration on the path containing the means of enlightenment, who

have accumulated a vast ocean of virtue as provisions for the path to enlight-

enment, who ceaselessly practice all that is pure and good, who tirelessly

apply the methods set up by all spiritual benefactors, who are not worried

about their physical subsistence, who are free from clinging to material

things, whose minds are equanimous as the earth, without high or low, who

are by nature compassionate and friendly, who face up to all states of being,

who seek the sphere of those who realize Thusness. In such people arises the

mind of enlightenment — the mind of great compassion, for the salvation of

all beings; the mind of great kindness, for unity with all beings; the mind of

happiness, to stop the mass of misery of all beings; the altruistic mind, to

repulse all that is not good; the mind of mercy, to profect from all fears; the

unobstructed mind, to get rid of all obstacles; the broad mind, to pervade all

universes; the infinite mind, to pervade all spaces; the undefiled mind, to

manifest the vision of all buddhas; the purified mind, to penetrate all knowl-

edge of past, present, and future; the mind of knowledge, to remove all

obstructive knowledge and enter the ocean of all-knowing knowledge.

Lúc đó Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Ðức Vân Tỳ Kheo, hữu nhiễu quán sát, từ tạ mà đi.

Thiện Tài đồng tử nhứt tâm suy gẫm lời dạy của thiện tri thức. Chánh niệm quán sát trí huệ quang minh môn, Bồ Tát giải thoát môn, Bồ Tát tam muội môn, Bồ Tát đại hải môn, chư Phật hiện tiền môn, chư Phật phương sở môn, chư Phật quỹ tắc môn, chư Phật đẳng hư không giới môn, chư Phật xuất hiện thứ đệ môn, chư Phật sở nhập phương tiện môn.

Thiện Tài đồng tử đi lần qua phương Nam đến nước Hải Môn, đến chỗ Hải Vân Tỳ Kheo, đảnh lễ chân Hải Vân, hữu nhiễu xong, chắp tay bạch rằng:

Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, muốn nhập tất cả trí hải vô thượng, mà chưa biết Bồ Tát thế nào có thể bỏ nhà thế tục sanh vào nhà Như Lai? Thế nào có thể qua khỏi biển sanh tử vào được biển Phật trí? Thế nào lìa được hàng phàm phu vào được hàng Như Lai? Thế nào dứt được dòng sanh tử vào được dòng Bồ Tát hạnh? Thế nào phá được xe sanh tử thành xe Bồ Tát nguyện? Thế nào diệt được cảnh giới ma hiển dược cảnh giới Phật? Thế nào cạn được biển ái dục thêm lớn biển đại bi? Thế nào đóng được cửa các nạn các ác đạo mở được cửa đại Niết bàn? Thế nào ra khỏi thành tam giới vào được thành Nhứt thiết trí? Thế nào vất bỏ được tất cả vật ngoạn hảo để đem lợi ích tất cả chúng sanh?

Hải Vân Tỳ Kheo bảo Thiện Tài đồng tử rằng:

Thiện nam tử! Người đã phát tâm Vô thượng Bồ đề rồi ư?

Thiện Tài thưa:

Vâng, tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Hải Vân Tỳ Kheo nói:

Thiện nam tử! Nếu các chúng sanh chẳng gieo lành thời chẳng có thể phát tâm Vô thượng Bồ đề. Cần phải được phổ môn thiện căn quang minh, đủ chơn thiệt đạo tam muội trí quang, xuất sanh những phước hải quảng đại, tăng trưởng pháp bạch tịnh không có lười nghỉ, thờ thiện trí thức chẳng mỏi nhàm, chẳng kể thân mạng, không thề cất chứa, tâm bình đẳng như mặt đất không có niệm cao hạ, tánh thường từ mẫn với tất cả chúng sanh, nơi các loài sanh tử chuyên niệm chẳng bỏ, hàng thích quán sát cảnh giới Như Lai. Có như vậy mới phát được tâm Vô thượng Bồ đề.

Phát Bồ đề tâm là phát tâm đại bi, vì cứu khắp tất cả chúng sanh. Là phát tâm đại từ, vì khắp giúp tất cả thế gian. Là phát tâm an lạc, vì làm cho tất cả chúng sanh diệt tất cả khổ. Phát tâm lợi ích, vì làm cho tất cả chúng sanh lìa ác pháp. Phát tâm ai mẫn, vì có ai kinh sợ thời đều giữ gìn. Phát tâm vô ngại, vì rời

bỏ tất cả chướng ngại. Phát tâm quảng đại, vì tất cả pháp giới đều đầy khắp. Phát tâm vô biên, vì khắp cõi hư không đều qua đến. Phát tâm rộng rãi, vì đều thấy tất cả Như Lai. Phát tâm thanh tịnh, vì trí không trái với pháp tam thế. Phát tâm trí huệ, vì vào khắp biển nhứt thiết trí huệ.

 

“Son, I have been living here in Sagaramukha (‘Ocean-Door’) for twelve

years, having focused my mind on the ocean and kept it present in my aware-

ness, reflecting on the measureless vastness of the great ocean, its pure

clarity, its unfathomable depth, its gradual deepening, its variety of deposits

of precious substances, the measurelessness of its body of water, its infinity,

its being the dwelling place of various immense creatures, its being covered

by great clouds, and how it neither increases nor decreases. I think: is there

anything else in the world as vast as the great ocean, as broad, as measureless.

 

Page 1184 – The Flower Ornament Scripture

 

as deep, as various? While I was engaged in these thoughts, an enormous

lotus from the bottom of the ocean appeared before me. Its stem was of

unsurpassed jewels, sapphires, and diamonds, with a wreath of agate; its

broad leaves of pure gold, with an array of buds of yellow sandalwood and

filaments of emerald, as measureless in breadth as the ocean; its calyx was on

a stem held by a million titan chiefs, it was covered by a net of a million vari-

ous jewels, sprinkled by rain from clouds of fragrant water by a million chief

water spirits, with a million bird chiefs trailing silks and strings of jewels

over it, a million centaur chiefs gazing at it benevofently, a million serpent

chiefs bowing to it in respect, a million goblin chiefs honoring it with

bowed bodies, a million celestial musician chiefs celebrating it with music

and song, a million celestial leaders raining on it clouds of heavenly flowers,

fragrances, garlands, incenses, perfumes, aromatic powders, cloths, parasofs,

banners, and pennants, a million Brahma chiefs bowing their heads in

respect, a million celestial beings of the pure abodes paying respect with

jofned palms, a million human rulers making offerings of precious sub-

stances, a million ocean deities emerging to pay respect; it was illumined by

arrays of light beams from a million luminous jewels, adorned with a mil-

lion pure jewels in orderly arrays, containing a million radiant jewels,

blazing with the great splendor of a million dazzling jewels, shining end-

lessly with a million jewels from various sources, adorned with a million

jewels symbofic of earth arrayed all around, incomparably arrayed with a

million of the finest diamonds, brilliantly covered with a million sun-

containing jewels, decorated with a million beautiful jewels in various

cofors, blazing with the light of an endless array of a million wish-fulfilling

jewels. That great lotus is born from the transcendental roots of goodness of

the enlightened; it appears everywhere, directed to the will of enlightening

beings; it comes forth from the principle of illusoriness; it is produced by

pure deeds; it is adorned by the principle of the state of noneontention; it is a

presentation of the nature of being equal to a dream; it is marked by the prin-

ciple of nonfabrication; it accords with the principle of nonattachment; it

pervades all universes everywhere; it is in the realm of illumination by the

light of the sphere of Buddha. It would be impossible to reach the end of the

array of characteristics, qualities, forms, and appearances of that lotus even

in countless hundreds of thousands of eons. Also I saw an embodiment of

Buddha clearly manifest sitting cross-legged on that great lotus, completely

filling it; I saw that embodiment of Buddha reaching from here to the very

summit of being. I also saw the inconceivable adornments of the Buddha’s

throne, the inconceivable adornments of the Buddha’s congregation, the

inconceivable adornments of his aura of light, his inconceivable marks of

greatness, various embellishments, and inconceivable majesty, the incon-

ceivable protection of Buddha, the inconceivable purity of appearance of the

Buddha; I heard the Buddha’s inconceivable eloquence and drew near to the

inconceivable infinity of Buddha’s power, the inconceivable purity of his

adornments of expertise, and his inconceivable accomplishment of the

power of analytic knowledge; I recalled his past eonsummation of practices

 

Page 1185 – Entry into the Realm of Reality

 

as an enlightening being, I saw the inconceivable transformation of the

attainment of enlightenment, I heard of the inconceivable array of senses

eonveying universal hisight and saw the inconceivable infinite division of

his body into left and right and his eonsummate attainment of physical

being beneficial to all creatures.

Này thiện nam tử! Ta ở nước Hải Môn này đã mười hai năm, thường dùng đại hải làm cảnh giới.

Những là suy gẫm đại hải qủang đại vô lượng. Suy gẫm đại hải rất sâu khó lường. Suy gẫm đại hải lần lần sâu rộng. Suy gẫm đại hải vô lượng châu báu kỳ diệu trang nghiêm. Suy gẫm đại hải chứa vô lượng nước. Suy gẫm đại hải màu nước chẳng đồng không thể nghĩ bàn. Suy gẫm đại hải là chỗ ở vô lượng chúng sanh. Suy gẫm đại hải dung thọ những chúng sanh thân to lớn. Suy gẫm đại hải nạp thọ được nước của trận mưa lớn. Suy gẫm đại hải không tăng không giảm.

Này thiện nam tử! Lúc suy gẫm như vậy, ta lại nghĩ rằng: Trong thế gian còn có gì rộng lớn hơn đại hải này chăng? Còn có gì vô lượng hơn đại hải này chăng? Còn có gì rất sâu hơn đại hải này chẳng? Còn có gì báu lạ hơn đại hải này chăng?

Này thiện nam tử! Lúc ta suy gẫm như vậy, bỗng có đại liên hoa xuất hiện.

Liên hoa này cọng bằng vô năng thắng nhơn đà la ni la bửu, cánh bằng phệ lưu ly bửu, lá bằng vàng diêm phù đàn, đài bằng trầm thủy, tua bằng mã não, nở thơm lan khắp trùm che cả đại hải.

Trăm vạn A Tu La Vương cầm lấy cọng hoa.

Trăm vạn châu ma ni kết lưới trang nghiêm giăng che trên hoa.

Trăm vạn Long Vương mưa nước thơm.

Trăm vạn Ca Lâu La Vương ngậm những chuỗi ngọc và dải lụa báu rủ thòng bốn phía.

Trăm vạn La Sát Vương từ tâm quán sát.

Trăm vạn Dạ Xoa Vương cung kính đảnh lễ.

Trăm vạn càn Thát Bà Vương nhiều thứ âm nhạc tán thán cúng dường.

Trăm vạn Thiên vương mưa những thiên hoa, thiên man, thiên hương, thiên thiêu hương, thiên đồ hương, thiên mạt hương, thiên y phục , thiên tràng, thiên phan, thiên cái.

Trăm vạn Phạm Vương đảnh lễ và cung kính.

Trăm vạn Tịnh Cư Thiên chắp tay làm lễ.

Trăm vạn Chuyển Luân Vương cúng dường thất bửu trang nghiêm.

Trăm vạn Hải Thần đồng xuất hiện cung kính đảnh lễ.

Trăm vạn vị quang ma ni bửu quang minh chiếu khắp.

Trăm vạn tịnh phước ma ni bửu dùng để trang nghiêm.

Trăm vạn phổ quang ma ni bửu làm tạng thanh tịnh.

Trăm vạn thù thắng ma ni bửu ánh sáng rực rỡ.

Trăm vạn diệu tạng ma ni bửu quang chiếu vô biên.

Trăm vạn diêm phù đàn ma ni bửu thứ đệ bày hàng.

Trăm vạn kim cang sư tử ma ni bửu chẳng thể phá hoại thanh tịnh trang nghiêm.

Trăm vạn nhật tạng ma ni bửu quảng đại thanh tịnh.

Trăm vạn khả lạc ma ni bửu đủ mọi màu.

Trăm vạn như ý ma ni bửu trang nghiêm vô tận, quang minh chiếu rực.

Liên hoa lớn này có ra là do thiện căn xuất thế của Như Lai. Tất cả Bồ Tát đều sanh lòng tin mến. Thập phương thế giới đều hiện tiền. Từ như huyễn pháp mà sanh, như mộng pháp mà sanh, thanh tịnh nghiệp mà sanh. Trang nghiêm bằng pháp môn vô tránh. Nhập ấn vô vi. Trụ môn vô ngại. Sung mãn tất cả quốc độ mười phương. Tùy thuận cảnh giới thậm thâm của chư Phật.

Trong vô số trong ngàn kiếp ca ngợi công đức đó cũng không hết được.

Lúc đó ta thấy trên liên hoa lớn ấy có một đức Như Lai ngồi kết già. Thân Phật từ đây cao đến trời Hữu Ðảnh.

Tòa bửu liên hoa bất tư nghì. Ðạo tràng chúng hội bất tư nghì. Những tướng hảo thành tựu bất tư nghì. Tùy hảo viên mãn bất tư nghì. Thần thông biến hóa bất tư nghì. Sắc tướng thanh tịnh bất tư nghì. Vô kiến đảnh tướng bất tư nghì. Tướng lưỡi rộng dài bất tư nghì. Ngôn thuyết thiện xảo bất tư nghì. Âm thanh viên mãn bất tư nghì. Lực vô biên tế bất tư nghì. Thanh tịnh vô úy bất tư nghì. Biện tài quảng đại bất tư nghì.

Ta lại nghĩ nhớ đức Phật đó thuở xưa tu hành bất tư nghì. Tự tại thành đạo bất tư nghì. Diệu âm diễn pháp bất tư nghì. Phổ môn thị hiện các thứ trang nghiêm bất tư nghì. Tùy hai bên thấy Phật đều sai khác bất tư nghì. Tất cả sự lợi ích đều làm cho viên mãn bất tư nghì.

 

“Then the Buddha extended his right hand, rubbed my head, and

revealed to me a teaching called universal eye, which is the sphere of all bud-

dhas, revealing the practice of enlightening beings, showing the

differentiation of the planes of all universes, showing the spheres of all

truths together, the light purifying all lands, dispersing all challengers,

crushing all demons and devils, making all beings happy, illumining the

hidden recesses of all beings’ minds, communicating to all beings in accord

with their mentalities, illuminating the turning of the wheels of the senses

of all beings. And I have taken up that teaching of the universal eye, keep it

in mind, apply it, and contemplate it, taking it in this way — even if it were

being written by a coflection of pens the size of the polar mountains with as

much ink as water in the oceans, it could never be finished; it would be

impossible to finish even a part of a single line of a single formula of a single

principle of a single doctrine of a single chapter of the teaching — it cannot

be even partially exhausted, let alone fully exhausted or comprehended.

Lúc đó, đức Như Lai ấy liền đưa tay hữu rờ đảnh đầu của ta, vì ta mà diễn nói phổ nhãn pháp môn, khai thị cảnh giới tất cả Như Lai, hiển pháp tất cả hạnh Bồ Tát, xiển minh tất cả diệu pháp của chư Phật, tất cả pháp luân đều nhập trong đó. Có thể thanh tịnh tất cả Phật độ. Có thể dẹp tất cả dị đạo tà luận. Có thể diệt tất cả quân ma. Có thể làm cho chúng sanh đều sanh hoan hỷ. Có thể sof tất cả tâm hành của các chúng sanh. Có thể biết những căn cơ của tất cả chúng sanh, tùy tâm chúng sanh đều làm cho được khai ngộ.

Ở nơi đức Như Lai ấy, ta được nghe pháp môn này, thọ trì đọc tụng ghi nhớ quán sát.

Giả sử có người dùng nước mực nhiều như nước đại hải, cây viết chất đống lớn như núi Tu Di, biên chép pháp môn phổ nhãn này, một môn trong một phẩm, một pháp trong một môn, một nghĩa trong một pháp, một câu trong một nghĩa cũng viết chẳng được ít phần huống là có thể viết hết.

 

“So, son, having taken up this teaching of the universal eye for a full

twelve years — taking it up in this way: in one day I master countless chapters

by the light of mental command to retain what is heard; I penetrate count-

less chapters by the light of mental command that is a way of access to

tranquillity; I plunge into countless chapters by the light of mental com-

mand that progresses endlessly; I contemplate and investigate countless

chapters by the light of mental command that is imbued with fiery energy; I

put countless chapters into practice by the light of mental command

adorned with lotuses; I elucidate countless chapters by the light of mental

command that is beyond words; I analyze countless chapters by the light of

mental command that is a mass of brightness; I arrange countless chapters in

order by the light of mental command containing the ocean — whatever

beings come to me from the ten directions, I direct and introduce them all

into this teaching of the universal eye, the manifestation of the practice of

enlightened and enlightening beings; to all of them I elucidate, represent,

illumine, describe, show, analyze, expound upon, open up, explain, unlock,

and clarify the teaching of the universal eye.

Này thiện nam tử! Ở nơi đức Phật ấy, ta thọ trì pháp môn phổ nhãn như vậy trọn một ngàn hai trăm năm. Trong mỗi ngày, ta dùng văn trì đà la ni quang minh lãnh thọ vô số phẩm. Dùng tịch tịnh môn đà la ni quang minh xu nhập vô số phẩm. Dùng vô biên triền đà la ni quang minh vào khắp vô số phẩm. Dùng tùy tha quán sát đà la ni quang minh phân biệt vô số phẩm . Dùng oai lực đà la ni quang minh nhiếp khắp vô số phẩm. dùng liên hoa trang nghiêm đà la ni quang minh dẫn phát vô số phẩm. Dùng thanh tịnh ngôn âm đà la ni quang minh khai diễn vô số phẩm. Dùng hư không tạng đà la ni quang minh hiển thị vô số phẩm. Dùng quang tụ đà ni quang minh thêm rộng vô số phẩm. Dùng hải tạng đà la ni quang minh luận biện phân tích vô số phẩm.

Nếu có chúng sanh từ mười phương đến, hoặc Thiên, hoặc Thiên Vương, hoặc Long, hoặc Long Vương, hoặc Dạ Xoa, hoặc Dạ Xoa Vương, hoặc Càn Thát Bà, hoặc Càn Thát Bà Vương, hoặc A Tu La, hoặc A Tu La Vương, hoặc Ca Lâu La, hoặc Ca Lâu La Vương, hoặc Khẩn Na la, hoặc Khẩn Na La Vương, hoặc Ma Hầu La Già, hoặc Ma Hầu La Già Vương, hoặc Nhơn, hoặc Nhơn Vương, hoặc Phạm hoặc Phạm Vương. Tất cả đại chúng như vậy đều đến chỗ ta. Ta đều vì họ mà khai thị giải thích xưng dương tán thán. Ðều làm cho họ mến thích xu nhập an trụ quang minh phổ nhãn pháp môn này.

 

“I know this teaching, son, but how can I know the practice or tell of the

virtues of the enlightening beings who have entered into the ocean of all

enlightening beings’ practices in accord with pure vows; who have entered

into the ocean of all vows, to remain in the world through all ages; who have

entered into the mundane whirl of all beings, to act appropriately according

to their mentalities; who have entered the ocean of minds of all beings, to

communicate knowledge; who have entered the ocean of all virtues, to pro-

duce the vision of the knowledge of the ten powers without obstruction;

who have entered the ocean of all beings’ faculties, to guide them to matur-

 

Page 1186 – The Flower Ornament Scripture

 

ity and perfection with appropriate timing; who have entered the ocean of

all lands, by carrying out the vow to purify all lands; who have entered the

ocean of all buddhas, by the power of the vow to honor and attend all

enlightened ones; who have entered the ocean of all truths, for the commu-

nication of knowledge; who have entered the ocean of all virtues by

pursuing their realization; who have entered the ocean of languages of all

beings, to carry out the turning of the wheel of the teaching in all

languages?

Này thiện nam tử! Ta chỉ biết phổ nhãn pháp môn này.

Như chư đại Bồ Tát thâm nhập tất cả Bồ Tát hạnh hải, vì tùy duyên nguyện lực mà tu hành. Nhập đại nguyện hải vì ở thế gian trong vô lượng kiếp số. Nhập tất cả chúng sanh hải, vì tùy tâm sở thích của họ để rộng lợi ích. Nhập nhứt thiết chúng sanh tâm hải, vì xuất sanh thập phương vô ngại trí quang. Nhập nhứt thiết chúng sanh căn hải, vì đáng tùy cơ nghi giáo hóa đều làm cho điều phục. Nhập tất cả sát hải, vì thành mãn bổn nguyện nghiêm tịnh Phật độ. Nhập tất cả Phật hải, vì nguyện thường cúng dường chư Như Lai. Nhập tất cả pháp hải, vì có thể dùng trí huệ đều ngộ nhập. Nhập tất cả công đức hải, vì mỗi mỗi tu hành cho được đầy đủ. Nhập tất cả chúng sanh ngôn từ hải, vì ở tất cả cả cõi chuyển chánh pháp luân.

Như thế thời ta làm sao biết được nói được công đức hạnh đó.

 

“Go, son, to a place called Sagaratira, in the region of Sri Lanka, sixty

leagues south of here. A monk named Supratishthita lives there; go to him

and ask how a great enlightening being is to purify enlightening practice.”

 

Then Sudhana, paying his respects, departed from the presence of

Sagaramegha.

Này thiện nam tử! Từ đây qua phương Nam sáu mươi do tuần, bên đường Lăng Già, có một tụ lạc tên là. Hải Ngạn. Ở đó có Tỳ Kheo tên là Thiện Trụ. Ngươi nên đến đó hởi: Bồ Tát phải thế nào tịnh Bồ Tát hạnh?

Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Hải Vân Tỳ Kheo, hữu nhiễu chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.

 

Supratishthita

 

Then Sudhana, remembering that spiritual benefactor’s teaching of the uni-

versal eye, reflecting on that protection of buddhahood, keeping in mind

those multitudes of statements of the Teaching, entering into those oceans

of entries into the Teaching, pondering that method of teaching, plunging

into the principles of that whirlpoof of teaching, entering fully into the

space of that teaching, clarifying that sphere of teaching, and contemplating

that treasure island of teaching, gradually made his way to Sagaratira in

Lanka, where he looked in all directions, desiring to see the monk

Supratishthita. He saw Supratishthita walking in the sky, surrounded by

countless hundreds of thousands of celestial beings. He also saw the sky cov-

ered with clouds of celestial flowers, with the sound of countless clouds of

heavenly music and countless streamers and banners offered by the chief

celestials to the monk Supratishthita as tokens of respect. He also saw ineon-

ceivable clouds of black aloe-scented water thundering in the sky, raised on

high by the chief water spirits. He also heard countless sounds of pleasing

celestial music and song coming from the sky with words of reverence and

hymns of praise, performed by supernatural beings; he also saw inconceiva-

ble clouds of fine cloths spread out in the sky by joyous serpent chiefs out of

respect for Supratishthita. He also saw inconceivable clouds of jewels set in

the sky by the chief titans, with the light of the magnificent array of their

inconceivable qualities. He also saw inconceivable hosts of bird girls, stand-

ing in the sky with their hands jofned in gestures of respect, with noninjury

uppermost in their minds. He also saw inconceivable hundreds of thousands

of goblin chiefs in the sky with their retinues, their bodies transfigured,

directed there by goodwill toward the monk Supratishthita. He also saw

inconceivable numbers of demigod chiefs with their retinues circling in the

sky to profect Supratishthita. He also saw inconceivable hundreds of thou-

sands of Brahma chiefs in the sky making salutations, uttering pleasant

words of respect and songs of praise. He also saw inconceivable hundreds of

 

Page 1187 – Entry into the Realm of Reality

 

thousands of celestial beings of the pure abodes in their palaces in the sky,

paying their respects to the monk Supratishthita.

Lúc đó, Thiện tài đồng tử chuyên niệm lời dạy của thiện tri thức, chuyên niệm phổ nhãn pháp môn, chuyên niệm Phật thần lực, chuyên trì pháp cú vân, chuyên nhập pháp hải môn, chuyên gẫm pháp sai biệt, thậm nhập pháp xoay chuyển, vào khắp pháp hư không, trừ sạch pháp ế chương quán sát pháp bửu xứ.

Thiện tài đồng tử vừa tư duy suy gẫm đi lần qua phương Nam, đến bên đường Lăng Già, nơi tụ lạc Hải Ngạn, xem xét mười phương tìm cầu Thiện Trụ Tỳ Kheo. Thấy Thiện Trụ Tỳ Kheo đi kinh hành qua lại ở trên hư không.

Có vô số chư thiên cung kính vây quanh rưới những thiên hoa, trổi thiên kỹ nhạc, tràng phan gấm lụa thảy đều nhiều vô số đầy khắp hư để cúng dường.

Chư đại Long Vương ở giữa hư không nổi bất tư nghì mây trầm thủy hương, chấn sấm, xẹt chớp, dùng để cúng dường.

Khẩn Na La Vương trổi những tiếng nhạc, đúng pháp ca ngợi, dùng đây để cúng dường.

Ma Hầu La Già Vương dùng bất tư nghì y phục rất vi tế trải giăng trần thiết, lòng rất hoan hỷ, để cúng dường.

A Tu La Vương nổi bất tư nghì mây ma ni bửu, vô lượng quang minh các thứ trang nghiêm đồng khắp hư không dùng để cúng dường.

Ca Lâu La Vương hiện hình đồng tử, có vô lượng thể nữ vây quanh, rốt ráo thành tựu tâm không sát hại, ở giữa hư không chắp tay cúng dường.

Bất tư nghì số các La Sát Vương, vô lượng La Sát vây quanh, thân hình cao lớn đáng kinh sợ, thấy Thiện Trụ Tỳ Kheo từ tâm tự tại, liền chắp tay khom mình chiêm ngưỡng cúng dường.

Bất tư nghì số các Dạ Xoa Vương, mỗi vị đều có chúng của mình vây quanh, bao vòng bốn phía cung kính thủ hộ.

Bất tư nghì số các Phạm Thiên Vương, ở giữa hư không, cúi mình chắp tay dùng pháp nhân gian tán dương ca ngợi.

Bất tư nghì số các Tịnh Cư Thiên, với cung điện ở giữa hư không, chắp tay cung kính phát hoằng thệ nguyện.

 

Then Sudhana, seeing the monk Supratishthita walking in the sky, was

pleased, enraptured, transported, overjoyed, happy; he saluted and greeted

Supratishthita and said to him, “Noble one, I have set my mind on supreme

enlightenment, but I do not know how an enlightening being is to seek the

qualities of buddhas, how an enlightening being is to acquire the qualities of

buddhas, how an enlightening being is to accumulate the qualities of bud-

dhas, how an enlightening being is to cultivate the qualities of buddhas, how

an enlightening being is to actualize the qualities of buddhas, how an

enlightening being is to act in accord with the qualities of buddhas, how an

enlightening being is to assemble the qualities of buddhas, how an enlight-

ening being is to contemplate the qualities of buddhas, how an enlightening

being is to clarify the qualities of buddhas in order to accomplish all the tasks

of enlightening beings, how an enlightening being is to approach and fof-

low the qualities of buddhas. Noble one, I hear thatyou give instructions to

enlightening beings: please tell me how an enlightening being is to set to

work on the Buddha teachings, not to lose sight of Buddha whatever one is

dofng, not to lose sight of enlightening beings so as to be always in eontact

with reality, always to be invofved with the Buddha teachings so as to be at

one with the roots of goodness of all enlightening beings, always to be

invofved with the vows of enlightening beings so as to accord with knowl-

edge, always to be invofved in the practices of enlightening beings so as to

accomplish the task of all enlightening beings, always to be pervading all

buddha-fields so as to live Continuously through all ages, to remain in the

conditional for the manifestation of the protections of all buddhas, always to

be hearing the Teaching in order to visit in one’s own body the places of

death and birth of all buddhas by the emanationlike action of enlightening

beings, and to always be in eontact with the light of knowledge so as to

receive the teachings of all buddhas and accord with knowledge of past,

present, and future.”

Thiện tài đồng tử thấy những sự trên đây, lòng hoan hỷ chắp tay kính lễ Thiện Trụ Tỳ Kheo rồi bạch rằng:

Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào tu hành Phật pháp? Thế nào tích tập Phật pháp? Thế nào đầy đủ Phật pháp? Thế nào huân tập Phật pháp? Thế nào tăng trưởng Phật pháp? Thế nào tổng nhiếp Phật pháp? Thế nào cứu cánh Phật pháp? Thế nào tịnh trị Phật? thế nào thâm tịnh Phật pháp? Thế nào thông đạt Phật pháp?

Tôi nghe đức thánh hay khéo dạy bảo. Ngưỡng mong xót thương vì tôi mà tuyên nói Bồ Tát thế nào chẳng bỏ thấy Phật, thường ở chỗ Phật siêng năng tu tập? Bồ Tát thế nào chẳng bỏ Phật pháp đều dùng trí huệ mà được minh chứng? Bồ Tát thế nào chẳng bỏ đại nguyện có thể lợi ích khắp tất cả chúng sanh? Bồ Tát thế nào chẳng bỏ chúng sanh trụ tất cả kiếp không lòng mỏi nhàm? Bồ Tát thế nào chẳng bỏ Phật độ có thể nghiêm tịnh tất cả thế giới? Bồ Tát thế nào chẳng bỏ Phật lực đều có thể thấy biết Như Lai tự tại? Bồ Tát thế nào chẳng bỏ hữu vi mà cũng chẳng trụ hữu vi, ở trong tất cả loài hữu lậu, dường như biến hóa, thị hiện thọ sanh tử tu Bồ Tát hạnh? Bồ Tát thế nào chẳng bỏ nghe pháp đều có thể lãnh thọ chánh giáo của chư Phật? Bồ Tát thế nào chẳng bỏ trí quang vào khắp chỗ sở hành của tam thế trí?

 

To this, Supratishthita replied, “It is good that you have set your mind on

supreme perfect enlightenment and ask about the qualities of buddhahood,

the qualities of omniscience, the qualities of independence. I have attained

the enlightening liberation ‘unobstructed door.’ Gofng in and out of this

‘unobstructed door’ liberation, practicing it, analyzing it, examining it,

investigating it, and clarifying it, I have attaineda light of knowledge called

‘ultimate nonobstruction,’ whereby I am free from obstruction in awareness

of the mental actions of all sentient beings, knowing where all sentient

beings die and are born, entries into the channels to memory of past states,

associations with all beings in future ages, communications to all sentient

beings of the present time, knowledge of the conventions of languages of all

sentient beings, cutting off the doubts of all sentient beings, comprehending

the differences in the faculties of all sentient beings, approaching all sentient

beings at appropriate times to guide them to full development, comprehen-

sion of time divisions as being conceptual, and in noncorporeal pervasion of

 

Page 1188 – The Flower Ornament Scripture

 

the buddha-fields in the ten directions, all by the attainment of nonbeing,

nonabiding, and nondofng. By the realization of this mystic power of

nondofng I walk, stand, sit, and lie down in the sky, disappear and appear,

produce smoke and flame. Being one, I become many; being many, I

become one. I become now visible, now invisible. I go through walls

unhindered, as through empty space. While sitting cross-legged I travel in

space, like a bird on the wing. I go in and out of the earth as if in water. I walk

on water unhindered as on the earth. I smoke and flame like a great confla-

gration. I cause even the earth to quake. With my hand I pofish even the sun

and moon, those bodies of great potency, power, and light. I envelop even up

to the Brahma world in my body. Covering the world with clouds of lights

the cofors of all jewels, I emit clouds in the forms of all beings. Emanating

clouds of webs of light of infinite cofors, I go forth in all directions: in each

moment of thought I pass one world to the east, I pass two worlds, three

worlds, a hundred worlds, a thousand worlds, a hundred thousand worlds, a

million worlds, a hundred millions worlds, a billion worlds, a hundred bil-

lion worlds, a quintillion worlds, countless, measureless, endless,

incomparable, inconceivable, incalculable, untold, unspeakably unspeaka-

ble numbers of worlds; and in those worlds are buddhas living, in each of

those oceans of worlds, in each of those streams of worlds, in each region of

those worlds, in each age of those worlds, in each set of those worlds, in each

occurrence of those worlds, in each expression of those worlds, in each

medium of those worlds, in each particular of those worlds, in each sacred

place in those worlds, in each site of enlightenment in those worlds, in each

assembly in those worlds — I go to each of the buddhas teaching in those

worlds with as many bodies as atoms in endless buddha-lands, each body

raining as many clouds of offerings as atoms in endless buddha-lands. Gofng

to the buddhas, I ceaselessly make offerings of all kinds of flowers, fra-

grances, garlands, unguents, robes, banners, pennants, canopies, nets, and

ornaments. Those buddhas explain, reveal, and elucidate, and I acknowl-

edge and take up all that they teach. I also remember the purity of the

buddha-lands of those buddhas. As in the east, so also in all directions do I go

to innumerable worlds, see the buddhas teaching there, make offerings to

them, acknowledge and take up what they say, and remember the purity of

their buddha-lands. Also, all the beings who see me, to whom I come, are

assured of supreme perfect enlightenment. Also, whatever beings 1 see,

small or large, underdeveloped or well developed, happy or unhappy, I

adopt a corresponding physical form, in order to guide them to maturity and

perfection in the appropriate time. And all beings who come to me I estab-

lish in this enlightening liberation, which is everywhere at once and which

is the eonsummation of unerring power.

Này thiện nam tử! Vì ta được sức thần thông này nên ở giữa hư không, hoặc đi, hoặc, đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, hoặc ẩn, hoặc hiển, hoặc hiện một thân, hoặc hiện nhiều thân, đi xuyên qua tường vách như đi nơi trống không. Ở trên hư ngồi kiết già qua lại tự tại như chim bay. Vào trong đất như xuống nước, đi trên nước như trên đất, khắp thân trên dưới đều phát lửa ngọn như đống lửa lớn. Hoặc có lúc chấn động tất cả đại địa. Hoặc có lúc lấy tay rờ rẫm mặt nhựt mặt nguyệt. Hoặc hiện thân mình cao đến phạm cung. Hoặc hiện mây hương đốt. Hoặc hiện mây bửu diệm. Hoặc hiện mây biến hóa. Hoặc hiện mây quang võng. Thảy đều rộng lớn đầy khắp hư không mười phương.

Hoặc trong một niệm qua phương Ðông một thế giới, hai thế giới, trăm thế giới, ngàn thế giới, trăm ngàn thế giới, nhẫn đến qua vô lượng thế giới, bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới. Hoặc qua Diêm Phù Ðề vi trần số thế giới. Hoặc qua bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới. Ta ở trước chư Phật Thế Tôn trong tất cả quốc độ đó mà nghe thuyết pháp.

Ở cho mỗi đức Phật, hiện vô lượng Phật sát vi trần số thân sai khác.

Mỗi mỗi thân rưới vô lượng Phật sát vi trần số mây đồ cúng dường. Những là mây tất cả hoa, mây tất cả hương, mây tất cả tràng hoa, mây tất cả hương bột, mây tất cả hương thoa, mây tất cả lọng, mây tất cả y phục, mây tất cả tràng, mây tất cả phan, mây tất cả trướng. Ðem tất cả thân vân cúng dường lên chư Phật.

Mỗi đức Như Lai có bao nhiêu lời dạy bảo ta đều thọ trì cả.

Mỗi quốc độ có bao nhiêu sự trang nghiêm, ta đều nhớ rõ cả.

Tất cả chín phương kia cũng đều như phương Ðông.

Bao nhiêu chúng sanh trong tất cả thế giới như vậy, nếu được thấy thân của ta, thời đều quyết định được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Tất cả chúng sanh trong những thế giới đó, ta đều thấy rõ tùy theo sư lớn nhỏ thắng liệt khổ vui của họ mà thị hiện đồng thân hình với họ để giáo hóa cho họ được thành tựu.

Nếu có chúng sanh nào thân cận ta, thời ta làm cho họ an trụ nơi pháp môn như đây.

 

“Son, I know this enlightening liberation ‘unobstructed door,’ which is

everywhere at once engaged in the service of the buddhas, appropriate to the

development of all beings. How can I know the practice, or tell the virtues,

of the great enlightening beings who act on great compassion, who act in

accord with the practice of the Great Vehicle, whose conduct never deviates

 

Page 1189 – Entry into the Realm of Reality

 

from the path of enlightening beings, whose conduct is free from attach-

ment, whose conduct always embodies the will of enlightening beings, who

always act with the thought of enlightenment, whose action is focused on

the way of the enlightened, who always act with the thought of omnis-

cience, whose way of action is like the sky, whose conduct is independent of

all mundane realms, whose conduct is flawless, whose conduct is

uncorrupted, whose conduct is eonsistent, whose conduct is faultless, whose

conduct is pure, whose conduct is unblemished, whose conduct is free from

evil, whose conduct is honest, whose conduct is dispassionate, whose con-

duct is undefiled?

Này thiện nam tử! Ta chỉ biết pháp môn vô ngại giải thoát mau chóng cúng dường khắp chư Phật thành tựu khắp chúng sanh này.

Như chư Bồ Tát trì giới đại bi, giới ba la mật, giới Ðại thừa, giới tương ưng với Bồ Tát đạo, giới vô chướng ngại, giới chẳng thối đọa, giới chẳng bỏ tâm Bồ đề, giới thường dùng Phật pháp làm cảnh sở duyên, giới thường để ý nơi nhứt thiết trí, giới như hư không, giới không y tựa tất cả thế gian, giới không mất, giới không tổn, giới không khuyết, giới không tạp, giới không trược, giới không hối, giới thanh tịnh, giới ly trần, giới ly cấu.

Những công đức như vậy, ta đâu có thể biết và nói được hết.

 

“Go south, son, to the Dravidian city Vajrapura. There lives a grammarian

named Megha. Go to him and ask him how an enlightening being is to learn

and practice the conduct of enlightening beings.”

 

Then Sudhana again paid his respects to the monk Supratishthita and left.

 

Megha

 

Then Sudhana, mindful of the light of the Teaching, steeped in intensity of

faith in the Teaching, his attention focused on thoughts of Buddha, intent

on perpetuating the lineage of the three treasures, remembering spiritual

friends, his mind having illumined the worlds of past, present, and future,

thinking of great vows, striving for the salvation of all beings, his mind

unattached to enjoyment of any created things, praising the tradition of

dispassion, intent upon contemplation of the histrhisic essence of all things,

firm in the commitment to purify all worlds, sojourning without attach-

ment in the eongregations of all buddhas, gradually approached the

Dravidian city Vajrapura, looking for the grammarian Megha.

 

He saw Megha at a crossroads in the middle of the city, sitting on a lion

seat to talk about the Teaching, elucidating a scripture called Manifestation of

Turning of the Wheel of Letters. Sudhana went up to him, paid his respects, and

said, “Noble one, I have set my mind on supreme perfect enlightenment, but

I do not know how an enlightening being is to learn and carry out the prac-

tice of enlightening beings. How is an enlightening being to preserve the

determination for enlightenment? How does one develop a will that is firm

in all states of existence and is indefatigable? How does one purify one’s

intent, in accord with invincibility? How is the power of great compassion

produced so that it never flags? How does one acquire mental command that

is totally purified? How is the light of wisdom produced, light free from

obscurity in regard to meaning, principle, expression, and presence of mind?

How does one acquire the power of recoflection, keeping in mind the teach-

ings of all buddhas without confusion? How is the power of migration

purified, illumining all states of existence with the truth? How is an enlight-

ening being’s power of concentration perfected, intent on the ascertainment

and discernment of the meanings of all principles?”

Này thiện nam tử! từ đây qua phương Nam có một nước tên là Ðạt Lý Tỹ Trà, có thành tên là Tự Tại, trong đó có một người tên là Di Già. Ngươi nên đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, trụ Bồ Tát đạo?

Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Thiện Trụ Tỳ Kheo, hữu nhiễu chiêm ngưỡng lui ra đi về phương Nam.

Lúc đó Thiện Tài đồng tử nhất tâm chánh niệm pháp môn pháp quang minh tin sâu xu nhập. Chuyên niệm Phật chẳng dứt ngôi Tam Bảo. Khen tánh ly dục. Nhớ thiện tri thức. Chiếu khắp tam thế. Nhớ những đại nguyện khắp cứu chúng sanh. Chẳng chấp hữu vi. Rốt ráo tư duy tự tánh của các pháp. Ðều có thể nghiêm tịnh tất cả thế giới. Nơi chúng hội đạo tràng của tất cả chư Phật, lòng không chấp trước.

Thiện tài đồng tử đi lần qua phương Nam đến thành Tự Tại tìm Di Già, thấy người này đang ngồi trên pháp tòa sư tử nơi chợ giảng thuyết pháp môn luân tự trang nghiêm. Có mười ngàn người vây quanh nghe pháp.

Thiện tài đồng tử đảnh lễ chân Di Già, hữu nhiễu vô lượng vòng , chắp tay cung kính bạch rằng:

Bạch đức Thánh! Tôi đã pháp tâm Vô thượng Bồ đề, mà tôi chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo? Thế nào lưu chuyển trong các loài mà chẳng quên mất tâm Bồ đề? Thế nào được ý bình đẳng kiên cố bất động? Thế nào được tâm thanh tịnh không gì trở ngại được? Thế nào phát sanh sức đại bi hằng không mỏi nhọc? Thế nào nhập đà la ni khắp được thanh tịnh? Thế nào phát sanh trì huệ quảng đại quang minh nơi tất cả pháp lìa những ám chướng? Thế nào đủ sức vô ngại giải biện tài quyết rõ tất cả nghĩa tạng thậm thâm? Thế nào được sức chánh niệm ghi nhớ thọ trì tất cả pháp luân sai biệt? Thế nào được sức tịnh đạo, nơi tất cả loài khắp diễn thuyết các pháp? Thế nào được sức trí tuệ nơi tất cả pháp đều có thể quyết định phân biệt nghĩa đó?

 

Now Megha, out of respect for an enlightening being, got off his seat and

prostrated himself before Sudhana, then showered Sudhana with golden

 

Page 1190 – The Flower Ornament Scripture

 

flowers, precious jewels, and the finest sandalwood powders, covered him

with hundreds of thousands of robes dyed in various cofors, showered him

with beautiful flowers of many various cofors with pleasant scents, and hon-

ored him with various other offerings, then said to him, “It is good that you

have set your mind on supreme perfect enlightenment; one who arouses the

determination for supreme perfect enlightenment becomes engaged in the

perpetuation of the lineage of buddhas, intent on correctly communicating

the tradition of dispassion, engaged in purifying the family of all lands,

directed toward guiding the family of all sentient beings to perfection,

engaged in properly accomplishing all the teachings and transcending all

things, intent on harmony of all actions, engaged in the fulfillment of all

practices of enlightening beings, directed toward preserving the continuity

of all religious vows, engaged in following knowledge of all times, active in

making devotion steadfast, the focus of attention of all buddhas, near to

equality with all buddhas, appreciated by all enlightening beings, praised by

all sages, honored by all the chief Brahmas, projected by all the chief gods,

respected, welcomed, and praised by the chiefs of the various supernatural

beings, sought out by all world rulers; one becomes very wel I suited for put-

ting an end to the three kinds of bad conditions in all worlds, getting rid of

all difficult conditions inopportune for attaining enlightenment, getting

beyond all states of destitution, attaining birth in celestial or human states,

always seeing spiritual benefactors, eonsistently listening to the lofty

buddha-teaching, purifying the will for enlightenment, cultivating the

cause of the thought of enlightenment, gaining the illumination of the path

of enlightening beings, following the knowledge of enlightening beings,

and dwelling in the stages of enlightening beings.

 

“This is what I think of such a one: enlightening beings do what is diffi-

cult to do; it is hard to get to actually see them; they are comforts to the

world; enlightening beings are the mothers and fathers of all sentient

beings; enlightening beings are an adornment to the world with its gods;

enlightening beings are a refuge for those oppressed by suffering; enlighten-

ing beings are a place of rest for the protection of all sentient beings;

enlightening beings are the breath of life to those suffering all kinds of ter-

rors and calamities; enlightening beings are a wind protecting all sentient

beings from the heat of the three evils; enlightening beings are earth, caus-

ing the roots of goodness of all sentient beings to grow; enlightening beings

are an ocean, a repository of endless treasures of virtue; enlightening beings

are a sun, producing the light of knowledge; enlightening beings are the

polar mountain, by virtue of the height of their roots of goodness; enlight-

ening beings are a moon, the moon of knowledge of the essence of

enlightenment having risen in them; enlightening beings are warriors

crushing the armies of all demons; enlightening beings are herofc, having

reached the city of the state of independence; enlightening beings are fire,

annihilating the self-love of all sentient beings; enlightening beings are

clouds, causing vast clouds of true teaching to shower; enlightening beings

are rain, causing the sprouts of faculties such as faith to grow; enlightening

 

Page 1191 – Entry into the Realm of Reality

 

beings are navigators, showing the way on the ocean of truth; enlightening

beings are bridges eonveying all sentient beings across the sea of mundane

life; enlightening beings are a pathway to the hofy for all sentient beings.”

Di Già bảo Thiện Tài rằng:

Ngươi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề rồi ư?

Vâng, tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Di Già liền vội vàng rời tòa sư tử mọp lạy Thiện Tài. Rồi lại rải bông kim ngân, bửu châu vô giá, cùng với bột mịn chiên đàn, vô lượng thứ y trùm trên mình Thiện Tài.

Di Già lại rải vô lượng những thứ hương hoa, các thứ phẩm vật để cúng dường. Sau đó mới đứng dậy khen rằng:

Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử có thể phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Này thiện nam tử! Nếu có ai phát được tâm Vô thượng Bồ đề thời là chẳng dứt mất tất cả Phật chủng. Thời là nghiêm tịnh tất cả Phật độ. Thời là thành thục tất cả chúng sanh. Thời là thấu rỏ tất cả pháp tánh. Thời là tỏ ngộ tất cả ngiệp chủng. Thời là viên mãn tất cả các hạnh. Thời là chẳng dứt tất cả đại nguyện. Thời là thiệt hiểu chủng tánh ly tham. Thời có thể thấy rõ tam thế sai biệt. Thời làm cho tín giải trọn được kiên cố. Thời được tất cả Như Lai nhiếp trì. Thời được tất cả chư Phật ức niệm. Thời bình đẳng với tất cả Bồ Tát. Thời được tất cả Hiền Thánh khen mừng. Thời được tất cả Phạm Vương kính lễ. Thời được tất cả Thiên Vương cúng dường. Thời được tất cả Dạ Xoa thủ hộ. Thời được tất cả La Sát hầu hạ. Thời được tất cả Long Vương nghinh tiếp. Thời được tất cả Khẩn Na La Vương cạ ngâm khen ngợi. Thời được tất cả các Thế Chủ khen ngợi mừng vui. Thời làm cho tất cả chúng sanh giới đều được an ổn.

Những là làm cho họ bỏ ác thú. Làm cho họ ra khỏi chỗ nạn. Làm cho họ dứt tất cả cội gốc nghèo cùng. Làm cho họ sanh tất cả trời người vui sướng. Làm cho họ thân cận thiện tri thức. Làm cho họ được nghe và thọ trì pháp quảng đại. Làm cho họ sanh tâm Bồ đề. Làm cho họ tịnh tâm Bồ đề. Làm cho họ rõ Bồ Tát đạo. Làm cho họ nhập Bồ Tát trí. Làm cho họ trụ Bồ Tát địa.

Này thiện nam tử! Phải biết chỗ làm của Bồ Tát rất khó, khó ra, khó gặp. Người được thấy Bồ Tát lại còn khó có hơn.

Vì Bồ Tát là chỗ tất cả chúng nương nhờ mà được sanh trưởng thành tựu. Là chỗ cứu tế của tất cả chúng sanh, vì Bồ Tát cứu họ khỏi khổ nạn. Là chỗ y tựa của tất cả chúng sanh, vì thủ hộ thế gian. Là người cứu hộ tất cả chúng sanh, vì làm cho họ khỏi sự kinh sợ.

Bồ Tát như phong luân, vì gìn giữ các thế gian chẳng cho đọa lạc ác đạo.

Bồ Tát như đại địa vì tăng trưởng thiện căn cho chúng sanh.

Bồ Tát như đại hải, vì phước đức sung mãn vô tận.

Bồ Tát như mặt trời, vì trí huệ quang minh chiếu khắp nơi.

Bồ Tát như núi Tu Di, vì thiện căn cao xuất.

Bồ Tát như minh nguyệt, vì trí quang xuất hiện.

Bồ Tát như mãnh tướng, vì xô dẹp ma quân.

Bồ Tát như quân chủ, vì được tự tại trong thành trì Phật pháp.

Bồ Tát như ngọn lửa mạnh, vì cháy sạch tâm ngã ái của chúng sanh.

Bồ Tát như mây lớn, vì mưa vô lượng diệu pháp.

Bồ Tát như mưa phải thời, vì làm thêm lớn mầm tất cả tín căn.

Bồ Tát như Thuyền sư, vì chỉ dẫn bờ mé pháp hải.

Bồ Tát như cầu đò, vì làm cho chúng sanh qua khỏi biển sanh tử.

 

Thus praising enlightening beings to Sudhana in such terms, Megha

applauded Sudhana. While he was saying these words pleasing to enlighten-

ing beings, there issued from his mouth a mass of flames that made a

thousand worlds clearly visible; and all the sentient beings who perceived

that light came to Megha, illumined by the light; to them, their attention

commanded by Megha, their hands held forth in respectful supplication,

their bodies and minds coofed, enraptured, inspired with reverence, divested

of conceit, freed from deception, senses tranquil, Megha expounded and

eonveyed the teaching of the manifestation of the turning of the wheel of

letters, upon hearing which they became irreversible in their progress

toward supreme perfect enlightenment.

Di Già tán thán Thiện Tài như vậy, làm cho chư Bồ Tát hoan hỉ rồi, từ trên mặt phóng ra những ánh sáng chiếu khắp Ðại Thiên thế giới.

Chúng sanh trong cõi Ðại Thiên gặp ánh sáng này, từ Long Thần nhẫn đến Phạm Thiên đều đến chỗ Di Già.

Di Già Ðại Sĩ liền dùng phương tiện vì họ mà khai thị giải thích pháp môn luân tự phẩm trang nghiêm.

Ðại chúng nghe pháp xong, đều được chẳng thối chuyển nơi Vô thượng Bồ đề.

 

Megha sat back down on the seat of teaching and said to Sudhana, “I

have attained the light of the spell of eloquence: I know the speech of all

kinds of beings in a billion-world universe; I know the variety of speech of

each kind of being; I know the unity of speech of each kind of being; I

know the mixture of speech of each kind of being; I know the terms,

speech, and eoncepts of all creatures; I know the ideas of all sages; I know

the ideas of all ignoble people; I know the speech of enlightening beings,

expressed according to the mentalities and languages of sentient beings; I

enter into and focus on the oceans of utterances addressed to all sentient

beings by the buddhas of past, present, and future. As in this billion-world

universe in each moment of thought I enter into the oceans of all terms,

expressions, speech, and concepts of sentient beings, I do the same in

untold worlds in each of the ten directions.

 

“I know this light of the spell of eloquence of enlightening beings, but

how can I know the practice or tell the virtues of the enlightening beings

who have entered the ocean of what is in various conceptions, who have

entered the ocean of the various conceptions and languages of all people,

who have entered the ocean of the various conventions of verbal designation

used by all people, who have entered the ocean of logical eonnections of all

statements, who have entered the ocean of literalism, who have entered the

ocean of designation of all objects of past, present, and future in one object,

who have entered the ocean of teaching which is beyond verbal expression,

who have entered the ocean of the teaching of the Buddha, who have

entered the ocean of explanations of distinct types of statements, who have

entered the ocean of explanation guiding the analysis of statements of all

truths, who have entered the ocean of speech of all beings, who have gone

into the pure arrays of all spheres of sound, who are conversant with the ulti-

mate distinctions of the wheel of phonemes?

Lúc bấy giờ Di Già trở lại lên bổn tòa bảo Thiện Tài rằng:

Thiện nam tử! Ta đã được diệu âm đà la ni. Có thể phân biệt biết ngử ngôn của tất cả chúng sanh, chư Thiên, Long, Bát Bộ, trong cõi Ðại Thiên. Cũng như cõi Ðại Thiên này, vô số thế giới nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới khắp mười phương đều biết rõ ngữ ngôn cả.

Này thiện nam tử! Ta chỉ biết pháp môn Bồ Tát diệu âm đà la ni quang minh này.

Như Chư đại Bồ Tát có thể vào khắp biển những tư tưởng của tất cả chúng sanh, biển những sự thi thiết, biển những danh hiệu, biển những ngữ ngôn của tất cả chúng sanh.

Có thể vào khắp diễn thuyết biển tất cả pháp cú thâm mật. Diễn thuyết biển tất cả pháp cú cứu cánh. Diễn thuyết biển pháp cú trong tất cả sở duyên có tất cả tam thế sở duyên. Diễn thuyết biển thượng pháp cú. Diễn thuyết biển thượng thượng pháp cú. Diễn thuyết biển pháp cú sai biệt. Diễn thuyết biển pháp cú tất cả sai biệt.

Có thể vào khắp tất cả thế gian chú thuật hải. Tất cả âm thanh trang nghiêm luân. Tất cả sai biệt tự luân tế.

Những công đức như vậy, nay ta làm sao biết hết được, nói hết được.

 

“Go, son — there is a country south of here called Vanavasin, where there

lives a distinguished man named Muktaka. Go ask him how an enlightening

being is to undertake the practice of enlightening beings and become famil-

iar with it, and how the mind is to be observed.”

 

Page 1192 – The Flower Ornament Scripture

 

Then Sudhana, having bowed to Megha and paid respect to the teaching,

describing the faith rooted in him, observing that all-knowledge comes

from following good spiritual benefactors, reluctantly took his leave and

went on.

 

 

Muktaka

 

 

Then Sudhana, reflecting on that array of light of the spell of eloquence of

enlightening beings, plunging into that enlightening beings’ ocean of princi-

ples of speech, remembering that enlightening beings’ mental purification,

undertaking that enlightening beings’ production of inclination to goodness,

clarifying that enlightening beings’ method of perfecting sentient beings,

purif ying that enlightening beings’ knowledge of how to take care of sentient

beings, making firm that enlightening beings’ purity of willpower, establish-

ing that enlightening beings’ power of supreme resolve, clarifying that body

of interest of enlightening beings, producing that goodness of intent and

thought of enlightening beings, evoking that effort of enlightening beings,

equipped with a mind of firm commitment and tireless eonsistency, with

unrelenting energy and determination, imbued with unshakable power of

faith, with an indestructible mind, follower of the instructions of all spiritual

benefactors, with the perspective of sane knowledge, on the verge of all-sided

purity, coursing in the purity of unobstructed knowledge, imbued with the

light of the principle of the universal eye, illumined by the mystic formula-

tions of all stages of enlightenment, his mind directed to the differentiations

of the planes of the cosmos, aware of the pure essence of forms unfixed any-

where, intent on the sphere of absofute unity with no attachment, having

purified the medium of powerful knowledge of all ideas, having broken

through the boundaries of all spaces, progressively distinguishing the realms

of worldly planes, progressively distinguishing the realms of planes of reality,

intent on the manifestation of the vision of the varieties of abodes of Buddha,

knowing about the distinctions of realms of time, his intellect bearing the

radiant wheel of the teaching, his mind illumined by the light of the treasury

of concentration of universally radiant knowledge, mentally and physically

according with the stage of universal perspective, his mind illumined by the

lightning of knowledge of those who realize Thusness, realizing the exalta-

tion of faith in omniscience, never without the exaltation of faith in the

buddha-teaching, filled with the exaltation of the empowerment of Buddha,

illumined by the inherent mental light of all buddhas, hearing the vow to

penetrate all networks of worlds with his own body, intent on putting all uni-

verses at once into his own body, made his way gradually to the country

Vanavasin, arriving there after twelve years.

Này thiện nam tử! Từ đây qua phương Nam có một tụ lạc tên là Trụ Lâm. Nơi đó có một Trưởng giả tên là Giải Thoát.

Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào tu Bồ Tát hạnh? Bồ Tát thế nào thành Bồ Tát hạnh? Bồ Tát thế nào tích tập Bồ Tát hạnh? Bồ Tát thế nào tư duy Bồ Tát hạnh?

Bấy giờ Thiện Tài đồng tử nhờ thiện tri thức nên đối với pháp nhứt thiết trí rất tôn trọng. Trồng sâu gốc tịnh tín. Thêm nhiều lợi ích.

Thiện Tài đảnh lễ chân Di Già, rơi lệ buồn khóc nhiễu vô lượng vòng, luyến mộ chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.

Thiện Tài đồng tử tư duy pháp môn Bồ Tát vô ngại giải đà la ni quang minh trang nghiêm. Thâm nhập pháp môn Bồ Tát ngữ ngôn hải. Nghĩ nhớ pháp môn vi tế phương tiện Bồ Tát biết tất cả chúng sanh. Quán sát pháp môn Bồ Tát thanh tịnh tâm. Thành tựu pháp môn Bồ Tát thiện căn quang minh. Tịnh trị pháp môn Bồ Tát giáo hóa chúng sanh. Minh lợi trí môn Bồ Tát nhiếp chúng sanh. Kiên cố pháp môn Bồ Tát quảng đại chí nguyện. Nhiệm trì pháp môn Bồ Tát thù thắng chí nguyện. Tịnh trị pháp môn Bồ Tát tín giải. Tư duy pháp môn Bồ Tát vô lượng thiện tâm. Thệ nguyện kiên cố, tâm không mỏi nhàm. Dùng những mão giáp để tự trang nghiêm. Thâm tâm tinh tấn chẳng thối chuyển. Ðủ đức tin bất hoại. Tâm kiên cố như kim cang và như na la diên không gì phá hoại được. Giữ gìn tất cả lời dạy của thiện tri thức. Nơi các cảnh giới được trí bất hoại. Phổ môn thanh tịnh việc làm vô ngại. Trí quang viên mãn chiếu khắp tất cả. Ðầy đủ tổng trì quang minh của các địa. Biết rõ pháp giới nhiều loại sai biệt, không y không trụ, bình đẳng không hai, tự tánh thanh tịnh, mà khắp trang nghiêm. Nơi các công hạnh đều được rốt ráo. Trí huệ thanh tịnh rời lìa chấp trước. Biết pháp sai biệt mười phương trí không chướng ngại. Qua khắp xứ sai biệt ở mười phương thân không mỏi lười. Biết rõ những nghiệp sai biệt ở mười phương. Ðều hiện thấy Phật sai biệt ở mười phương. Ðều thâm nhập thời gian sai biệt ở mười phương. Diệu pháp thanh tịnh sung mãn nơi tâm. Phổ trí tam muội chiếu rõ nơi tâm. Tâm hằng vào khắp cảnh giới bình đẳng. Ðược trí huệ của Như Lai chiếu đến. Dòng Nhứt thiết trí tương tục chẳng dứt. Hoặc thân hoặc tâm đều chẳng rời Phật pháp.

Tất cả chư Phật thần lực gia hộ. Tất cả Như Lai quang minh chiếu đến.

Thành tựu đại nguyện. Nguyện thân cùng khắp tất cả sát võng, tất cả pháp giới vào khắp thân mình.

Thiện Tài đồng tử đi lần qua phương Nam, trải qua mười hai năm, đến thành Trụ Lâm tìm Giải Thoát Trưởng giả.

 

He looked for the noble Muktaka, saw him, paid his respects, and said,

“Noble one, I have made gains, having met the spiritual benefactor Megha.

Why do I say this? Spiritual benefactors are hard to get to see, hard to get to

encounter, hard to visit, hard to attend, hard to approach, hard to stay with,

 

Page 1193 – Entry into the Realm of Reality

 

hard to be perfected by, hard to associate with. But I have met the spiritual

benefactor Megha. Noble one, I have set my mind on supreme perfect

enlightenment, to attend all buddhas, to be on good terms with all buddhas,

to see all buddhas, to know all buddhas, to approach equality with all bud-

dhas, to follow the vows of all buddhas, to fulfill the vows of all buddhas, to

view the knowledge attained by all buddhas, to produce all buddhas in my

own body, to accomplish the realization of all buddhas in my own practice,

to directly know the mystical transformations of all buddhas, to purify the

powers and confidences of all buddhas, to hear all true teachings tirelessly, to

listen to and take up the teachings of all buddhas, to hold the teachings of all

buddhas, to distinguish the teachings of all buddhas, to preserve the instruc-

tions of all buddhas, to be one being with all buddhas, to be equal to all

enlightening beings, to purify the practice of all enlightening beings, to ful-

fill the transcendent ways of enlightening beings, to purify the

accomplishment of the vows of all enlightening beings, to attain all enlight-

ening beings’ store of mystical power of buddhas, to be illumined by the

endless knowledge of the treasury of truths of all enlightening beings, to

approach the treasury of enlightening beings, to produce the infinite trea-

sury of enlightening beings, to realize the ultimate eonsummation of

guidance of sentient beings with the treasury of great compassion of all

enlightening beings, to know the treasury of spiritual transformations of all

enlightening beings, to command in my own body the treasury of powers of

all enlightening beings, to be fully arrayed with the treasury of purities of all

enlightening beings.

Lúc đã gặp được, Thiện Tài đảnh lễ chân Trưởng giả chắp tay cung kính thưa rằng:

Bạch đức Thánh! Nay tôi được hội ngộ bực thiện tri thức. Tôi đã được lợi ích rộng lớn.

Tại sao vậy?

Vì với các bực thiện tri thức, khó được thấy, khó được nghe, khó được xuất hiện, khó được phụng sự, khó được gần gũi, khó được tiếp rước, khó được gặp gỡ, khó được ở chung, khó làm cho vui đẹp, khó được theo dõi. Mà nay tôi được gặp gỡ, nên tôi được lợi lành rộng lớn.

Bạch đức Thánh! Tôi đã trước phát tâm Vô thượng Bồ đề, vì muốn thờ tất cả chư Phật, vì muốn gặp tất cả chư Phật, vì muốn thấy tất cả chư Phật, vì muốn nhìn tất cả chư Phật, vì muốn biết tất cả chư Phật, vì muốn chứng tất cả chư Phật bình đẳng, vì muốn phát tất cả chư Phật đại nguyện, vì muốn thành mãn tất cả Phật đại nguyện, vì muốn đầy đủ tất cả chư Phật trí quang, vì muốn thành những hạnh của tất cả chư Phật, vì muốn được thần thông của tất cả chư Phật, vì muốn đầy đủ trí lực của tất cả chư Phật, vì muốn được vô úy của tất cả chư Phật, vì muốn nghe pháp của tất cả chư Phật, vì muốn thọ pháp của tất cả chư Phật, vì muốn hiểu pháp của tất cả chư Phật, vì muốn hộ pháp của tất cả chư Phật, vì muốn đồng một thể với tất cả chúng Bồ Tát, vì muốn đồng thiện căn với tất cả Bồ Tát, vì muốn viên mãn Ba la mật của tất cả Bồ Tát, vì muốn thành tựu hạnh tu hành của tất cả Bồ Tát, vì muốn xuất sanh thanh tịnh nguyện của tất cả Bồ Tát, vì muốn được tạng oai thần của tất cả chư Phật, Bồ Tát, vì muốn được pháp tạng vô tận trí huệ đại quang minh của tất cả Bồ Tát, vì muốn được tạng tam muội quảng đại của tất cả Bồ Tát, vì muốn thành tựu tạng vô lượng vô số thần thông của tất cả Bồ Tát, vì muốn dùng tạng đại bi giáo hóa điều phục của tất cả chúng sanh đều làm cho họ rốt ráo đến biên tế, vì muốn hiển hiện tạng thần biến, vì ở trong tất cả tạng tự tại đều dùng tự tâm được tự tại, vì muốn nhập trong thanh tịnh tạng nên dùng tất cả tướng mà trang nghiêm.

 

“Noble one, I have come in such a spirit, with such desires, such wishes,

such intentions, such thoughts uppermost in my mind, aiming for such a

realm, determined to follow such principles, intent on such purity, seeking

such adornments, with such a humble mind, applied to such good, my facul-

ties oriented in this way. Noble one, I hear you give instructions to

enlightening beings, explain principle and clarify procedure, explain the

Path, take them across the bridge, open the door of the Teaching, cut off

doubts, dispel craving, pull out the arrow of confusion, clear away the grime

of uncertainty, light up the obscurity in the mind, remove defilement from

the mind, calm the mental flow, remove deviousness from the mind, coof

the fever of the mind, foster nonattachment, turn back the mind revofving

in the mundane whirl, turn enlightening beings away from evil, separate

them from hells, free them from attachments, direct them toward omnis-

cience, lead them into the city of truth, establish them in great compassion,

settle them in great kindness, introduce them into the practice of enlighten-

ing beings, cause them to enter into the development of ways of

concentration, establish them in means of realization, fill them with eon-

templation of inherent nature, and explain mind according to power for the

sake of attainment of equanimity toward all beings. Noble one, please tell

me how an enlightening being is to learn, commence, and carry out the

practice of enlightening beings, and how one so engaged can quickly purify

the sphere of practice of enlightening beings.”

Bạch đức Thánh! Nay tôi đem tâm như vậy, ý như vậy, thích như vậy, muốn như vậy, trông mong như vậy, tư duy như vậy, tôn trọng như vậy, phượng tiện như vậy, cứu cánh như vậy, khiêm hạ như vậy, mà đến chỗ đức Thánh.

Tôi nghe đức Thánh có thể khéo dạy bảo chúng Bồ Tát, có thể dùng phương tiện xiển minh chỗ sở đắc, chỉ cho đường sá, ban cho cầu đò, trao cho pháp môn, khiến trừ chướng mê đảo, nhổ mũi tên do dự, cắt lưới nghi hoặc, sof tâm rừng rậm, rửa tâm nhơ đục, khiến tâm trắng sạch, khiến tâm thanh tịnh, chánh tâm dua vậy, tuyệt tâm sanh tử, ngăn tâm bất thiện, mở tâm chấp trước.

Nơi chỗ chấp trước làm cho tâm giải thoát, ở chỗ nhiễm ái làm cho tâm động chuyển. Khiền họ mau nhập cảnh nhứt thiết trí. Khiến họ mau đến thành vô thượng pháp. Khiến họ trụ đại bi. Khiến họ trụ đại từ. Khiến họ nhập Bồ Tát hạnh. Khiến họ tu môn tam muội. Khiến họ nhập chứng vị. Khiến họ quán pháp tánh. Khiến họ tăng trưởng lực. Khiến họ tu tập hạnh. Tâm họ bình đẳng khắp ở tất cả.

Cúi xin đức Thánh vì tôi tuyên nói Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo. Theo chỗ tu tập mau được thanh tịnh, mau được minh liểu.

 

Page 1194 – The Flower Ornament Scripture

 

At that juncture Muktaka entered an enlightening concentration medium

called “coflection of all buddha-fields,” led by a mystic formula of endless

progression, accomplishing entry into this concentration by the power of

his past roots of goodness, by the empowerment of the Buddha, and by

Manjushri’s attention and gift of the light of knowledge. As soon as

Muktaka had entered that state, his body became pure, and by that purity of

body as many buddhas in the ten directions as atoms in ten buddha-lands

were visible within his body, along with the adornments of their pure lands,

their eongregations, their pure lights, their past actions and abodes, their

mystical protections, their vows, their pure arrays of liberative practices,

their manifestations of attainment of perfect enlightenment, their turnings

of the wheel of teaching, their developments of sentient beings, and the ulti-

mate eonsummation of their teaching. All these were visible within

Muktaka’s body without mutual confusion, without mutual obstruction,

clearly distinct, showing the various individual ages accurately defined, the

various arrays of the buddha-lands, the various adornments of the eongrega-

tions of enlightening beings, and the various miracles of the buddhas. Some

buddhas were seen to be in the heaven of happiness in a world setting forth

various means of liberation and illumining various undertakings; some were

seen descending from the heaven of happiness dofng the duty of buddhas;

some were seen in the womb of the mother displaying various miracles;

some were seen being born and showing a child’s play; some were seen at

home, some leaving home, some gone to the summit of enlightenment

defeating the army of demons; some were seen surrounded by deities, spirits,

and cherubim, being asked by Brahma and Indra to turn the wheel of the

teaching; some were seen turning the wheel of teaching; some were seen in

the abodes of all beings; some were seen passing away; in some cases the divi-

sion of the relics of deceased buddhas in a world was seen, and in some cases

people and celestial beings in a buddha-land were seen adorning a buddha’s

shrine. And what those buddhas said, in various groups of beings, in various

beings’ worlds, in various realms of existence, in various assemblies of

beings, in various situations according to beings’ virtues, states, inclinations,

beliefs, and faculties, in various periods of time, amid various kinds of

beings’ activities, in various manifestations of worlds of beings carrying out

various intentions, in the midst of beings with various degrees of purity of

senses and various afflictions, habits, and propensities, teaching by various

manifestations of buddhas’ transfigurations and protections, by various

expressions, various utterances, various enunciations of doctrine, various

mystical mnemonic formulae, various intellectual analyses of principles,

various stirrings of the ocean of names of truth, various roarings of the

mighty lion’s roar of buddhas, various manifestations of magical perfor-

mances teaching beings bases of goodness, mystic protections showing

various facets of memory, various lion roars foretelling the buddhahood of

enlightening beings, various manifestations of the wheel of teaching of the

enlightened, in infinite assemblies of infinite varieties, all interdependent,

in groups variously purified, in large groups eontained in small groups, in

 

Page 1195 – Entry into the Realm of Reality

 

groups a league deep, ten leagues deep, up to groups the size of as many

worlds as atoms in untold buddha-fields — all that those buddhas taught,

Sudhana heard, took in, remembered, undertook, and contemplated. He

also saw the mystic protection and the inconceivable power of concentration

of the enlightening being.

 

Then Muktaka, mindful, perfectly cognizant, arose from that eoncentra-

tion and said to Sudhana, “I go in and out of a liberation of buddhas which is

called ‘unobstructed manifestation.’ As I go in and out of the ‘unobstructed

mainfestation’ liberation of buddhas, to the east I see in the world Golden

Light a buddha named Supreme Savior, along with the whofe group of

enlightening beings there, led by the enlightening being Child of Radiance.

To the south I see in the world Possessed of All Powers a buddha named Uni-

versal Spread of Fragrance, with the whofe group of enlightening beings

there, led by King of Thought. To the west I see in the World Possessed of

All Fragrances and Beauties a buddha named Supreme Lamp, with the

whofe group of enlightening beings there, led by Unobstructed Mind. To

the north I see in the world Vestment Banner a buddha named Diamond

Crusher, with the whofe group of enlightening beings there, led by Boldly

Advancing on Indestructible Feet. To the northeast I see in the world Beauty

of All Jewels a buddha named Radiance of the Independent Eye, with the

whofe group of enlightening beings there, led by Independent Emanation.

To the southeast I see in the world Glow of Fragrant Flames a buddha named

Fragrant Lamp, with the whofe group of enlightening beings there, led by

Supreme Intellect Differentiating the Planes of All Realms of Reality. To

the southwest I see in a world Sunny Golden Shining a buddha named Illu-

minating Voice of Universal Knowledge, with the whofe group of

enlightening beings there, led by Hanging Crest of Radiant Flowery

Flames. To the northwest I see in the land Brilliant Shining Treasury with

Fragrant Adornments a buddha named Light of a Measureless Ocean of Vir-

tue, with the whofe group of enlightening beings there, led by Mind

Blazing with Light in a Body Free from Attachments. In the nadir I see in

the world Blaze of Lights from Jewel Lions a buddha namedBeam of Light

Illumining the Cosmos, with the whofe groupof enlightening beings there,

led by Mind Born of the Light of the Cosmos. In the zenith I see in the

world Radiant with Splendor of Appearance a buddha named Light of Lib-

eration of Indestructible Virtue and Glory, with the whofe group of

enlightening beings there, led by Mind of Energy of Unobstructed Power.

Beginning with these, I see as many buddhas in the ten directions as atoms in

ten buddha-lands: and yet those buddhas do not come here and I do not go

there. Also, whenever I want to see the buddha Infinite Light in the world

Blissful, I see the buddha Diamond Light in the world Like Sandalwood, I

see the buddha Jewel Light in the world Fragrant, I see the buddha Jewel

Lotus Light in the world Lotuslike, I see the buddha Silent Light in the

world Golden, I see the buddha Imperturbable in the world Joy, I see the

buddha Lion in the world Standing Well, I see the buddha Moonlike Aware-

ness in the world Mirror Globe Light, I see the buddha Luminous in the

 

Page 1196 – The Flower Ornament Scripture

 

world Pure Clarity of Jewellike Splendor. In this way I see whatever buddha

I wish in whatever world in whichever direction. I see whatever buddha I

wish to see in whatever time in whatever abode invofved in whatever past

practice, whatever buddha I wish to see in whatever miraculous perfor-

mances, in whatever teaching activity: and yet the buddhas do not come

here, nor do I go there. Without discerning any coming from anywhere on

the part of the buddhas, without discerning any gofng on the part of my own

body, knowing the buddhas as like a dream, knowing my own mind as

dreamlike thought, knowing the buddhas as like a reflection, knowing my

own mind as like a vessel of clear water, knowing the buddhas as like magi-

cally produced forms, knowing my mind as like magic, knowing the nature

of Voices of the buddhas as the reverberation of the sound of echoes in the

mountains, knowing my own mind as like an echo, I realize, I am mindful,

that all enlightenment principles of enlightening beings are based on one’s

own mind, that all their purification of buddha-lands, all enlightening prac-

tices, all development and guidance of sentient beings, all undertaking of

the vows of enlightening beings, all attainment to the ocean of omniscience,

roaming in the inconceivable liberation of enlightening beings, attainment

of the enlightenment of buddhas, spiritual communion with the cosmos,

and knowledge of subtle communion with all ages, all are based on one’s

own mind.

Lúc đó Giải Thoát Trưởng giả do sức thiện căn quá khứ, sức oai thần của Phật, do niệm lực của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, mà nhập Bồ Tát tam muội môn tên là “vô biên triền đà la ni nhiếp khắp tất cả cõi Phật”.

Nhập tam muội này rồi được thân thanh tịnh. Ở trong thân mình hiển hiện mười phương, mỗi phương đều mười Phật sát vi trần số Phật và quốc độ, chúng hội đạo tràng, các thứ quang minh, các sự trang nghiêm. Cũng hiện những thần thông biến hóa, tất cả đại nguyện, những pháp trợ đạo tu hành thuở xưa của chư Phật và những hạnh xuất ly thanh tịnh trang nghiêm. Cũng thấy chư Phật thành Ðẳng Chánh Giác chuyển diệu pháp luân giáo hóa chúng sanh. Tất cả những sự như vậy thảy đều hiển hiện trong phân thân không chướng ngại. Các thứ hình tướng, nhiều loại thứ đệ an trụ như cũ chẳng tạp loạn nhau.

Những là: các thứ quốc độ, các thứ chúng hội, các thứ đạo tràng, các thứ nghiêm sức.

Trong đó chư Phật hiện những thần lực, lập những thừa đạo, bày những nguyện môn.

Hoặc nơi một thế giới, ở cung Ðâu Suất mà làm Phật sự.

Hoặc nơi một thế giới, ẩn cung Ðâu Suất mà làm Phật sự.

Như vậy, hoặc lại trụ thai, hoặc đản sanh, hoặc ở trong cung, hoặc xuất gia, hoặc đến đạo tràng, hoặc phá ma quân, hoặc chư Thiên Long cung kính vây quanh, hoặc các Thế Chủ khuyến thỉnh thuyết pháp, hoặc chuyển pháp luân, hoặc nhập Niết bàn, hoặc chia Xá lợi, hoặc xây tháp miếu.

Chư Phật Như Lai đó ở các chúng hội, các thế gian, các loài, các chủng tộc, các dục lạc, các nghiệp hành, các ngữ ngôn, các căn tánh, các phiền não, tùy miên, tập khí, trong các chúng sanh.

Hoặc ở vi tế đạo tràng, hoặc ở quảng đại đạo tràng, hoặc ở đạo tràng lượng một do tuần, hoặc ở đạo tràng lượng mười do tuần, hoặc ở đạo tràng lượng bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát cực vi trần số do tuần.

Dùng các thứ thần thông, các thứ ngôn từ, các thứ âm thanh, các thứ pháp môn, các thứ tổng trì môn, các thứ biện tài môn. Dùng các thứ Thánh đế, các thứ vô úy đại sư tử hống mà diễn thuyết những thiện căn, những ức niệm của các chúng sanh. Thọ ký cho Bồ Tát. Nói những Phật pháp.

Chư Phật Như Lai có bao nhiêu ngôn thuyết, Thiện tài đồng tử đều nghe thọ được cả. Cũng thấy bất tư nghì tam muội thần biến của chư Phật và chư Bồ Tát.

Lúc bấy giờ Giải Thoát Trưởng giả xuất tam muội, bảo Thiện Tài rằng:

Thiện nam tử! Ta đã nhập xuất môn vô ngại trang nghiêm giải thoát của Như Lai.

Thiện nam tử! Lúc ta nhập xuất môn giải thoát này, liền thấy thế giới Diêm Phù Ðàn Kim Quang Minh ở phương Ðông, đức Long Tự Tại Vương Như Lai Ðẳng Chánh Giác, chúng hội đạo tràng vây quanh. Tỳ lô Giá Na Tạng Bồ Tát làm thượng thủ.

Lại thấy thế giới Tốc Tật Lực ở phương Nam, Phổ Hương Như Lai Ðẳng Chánh Giác và đạo tràng chúng hội vây quanh. Tâm Vương Bồ Tát làm thượng thủ.

Lại thấy thế giới Hương Quang ở phương Tây, Tu Di Ðăng Vương Như Lai Ðẳng Chánh Giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Vô Ngại Tâm Bồ Tát làm thượng thủ.

Lại thấy thế giới Ca Sa Tràng ở phương Bắc, Bất Khả Hoại Kim Cang Như Lai Ðẳng Chánh Giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Kim Cang Dũng Mãnh Bồ Tát làm thượng thủ.

Lại thấy phương Ðông Bắc, thế giới Nhứt Thiết Thượng Diệu Bửu, đức Vô Sở Ðắc Cảnh Giới Nhãn Như Lai Ðẳng Chánh Giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Vô Sở Ðắc Thiện Biến Hóa Bồ Tát làm thượng chủ.

Lại thấy phương Ðông Nam, thế giới Hương Diệm Quang Âm, đức Hương Ðăng Như Lai Ðẳng Chánh Giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Kim cang Diệm Huệ Bồ Tát làm thượng thủ.

Lại thấy phương Tây Nam, thế giới Trí Huệ Nhựt Phổ Quang Minh, đức Pháp Giới Luân Tràng Như Lai Ðẳng Chánh Giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Hiện Nhứt Thiết Biến Hóa Tràng Bồ Tát làm thượng thủ.

Lại thấy phương Tây Bắc, thế giới Phổ Thanh Tịnh, đức Nhứt Thiết Phật Bửu Cao Thắng Tràng Như Lai Ðẳng Chánh Giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Pháp Tràng Vương Bồ Tát làm thượng thủ.

Lại thấy Thượng phương, thế giới Phật Thứ Ðệ Xuất Hiện Vô Tận, đức Vô Biên Trí Huệ Quang Viên Mãn Tràng Như Lai Ðẳng Chánh Giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Pháp Giới Môn Tràng Vương Bồ Tát làm thượng thủ.

Lại thấy Hạ phương, thế giới Phật Quang Minh, đức Vô Ngại Trí Tràng Như Lai Ðẳng Chánh Giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Nhứt Thiết Thế Gian Sát Tràng Vương Bồ Tát làm thượng thủ.

Thiện nam tử! Ta thấy mười phương như vậy. Mỗi phương đều mười Phật sát vi trần số Như Lai. Chư Như Lai chẳng đến đây, ta cũng chẳng qua đó.

Nếu ta muốn thấy thế giới An Lạc, đức A Di Ðà Như Lai, thời tùy ý liền thấy.

Nếu ta muốn thấy Chiên Ðàn thế giới, Kim Cang Quang Minh Như Lai; Diệu Hương thế giới, Bửu Quang Minh Như Lai; Liên Hoa thế giới, Bửu Liên Hoa Quang Minh Như Lai; Diệu Kim thế giới; Tịch Tịnh Quang Như Lai; Diệu Hỉ thế giới, Bất Ðộng Như Lai, Thiện Trụ thế giới; Sử Tử Như Lai; Cảnh Quang Minh thế giới, Nguyệt Giác Như Lai; Bửu Sư Tử Trang Nghiêm thế giới, Tỳ Lô Giá Na Như Lai; tất cả chư Như Lai như vậy đều tùy ý liền thấy. Nhưng chư Như Lai chẳng đến đây, ta cũng không qua đó.

Biết tất cả chư Phật cùng tâm của ta đều như mộng. Biết tất cả chư Phật như ảnh tượng, còn tâm mình như nước. Biết tất cả sắc tướng của chư Phật và tâm mình đều như huyễn. Biết tất cả Phật và tâm mình thảy đều như vang.

Ta biết như vậy, ức niệm như vậy. Chư Phật được thấy đều do tự tâm.

 

“In this connection, I think that one’s own mind should be supported by

roots of goodness, mofstened by the clouds of the Teaching, purified by

principles that should be focused on, made firm by vigor, made calm by for-

bearance, guided by following knowledge, clarified by wisdom, developed

in spiritual powers, expanded to equality with the buddhas, illumined by the

ten powers of the enlightened.

 

“I know this buddha-liberation of unobstructed manifestation, and go in

and out of it; how can I know the practice or tell of the virtues of enlighten-

ing beings whose minds are unobstructed, whose sphere is a state free from

obstruction, who have attained concentration focused on the teachings of all

buddhas of the present, who have attained concentration leading into

enlightenment that does not become ultimately extinct, who have realized

the equality of past, present, and future, who know the science of the sphere

of concentration on the continuity of all planes, who distribute their bodies

throughout all buddha-lands, who abide in the unfragmented state of bud-

dhas, whose perspective faces in all directions, who observe the sphere of

all-inclusive knowledge, who know the becoming and disintegration of all

worlds in their own bodies, without any dualistic notions regarding their

bodies or the worlds.

Thiện nam tử! phải biết Bồ Tát tu những Phật pháp, tịnh những Phật độ, tích tập diệu hạnh, điều phục chúng sanh, phát đại thệ nguyện, nhập nhứt thiết trí, tự tại du hí bất tư nghì môn giải thoát, được Phật Bồ đề, hiện đại thần thông, qua khắp tất cả mười phương pháp giới, dùng vi tế trí nhập khắp các kiếp, tất cả như vậy đều do tự tâm.

Thiện nam tử! Do đây nên phải dùng thiện pháp phò trợ tự tâm. Phải dùng pháp thủy thấm nhuần tự tâm. Phải ở cảnh giới trị sạch tự tâm. Phải dùng tinh tấn kiên cố tự tâm. Phải dùng nhẫn nhục san bằng tự tâm. Phải dùng trí chứng rửa sạch tự tâm. Phải dùng trí huệ minh tự tâm. Phải dùng Phật tự tại khai phát tự tâm. Phải dùng Phật bình đẳng quản đại tự tâm. Phải dùng Phật thập lực chiếu xét tự tâm.

Thiện nam tử! Ta chỉ nhập xuất được môn giải thoát “Như Lai vô ngại trang nghiêm” này.

Còn như chư đại Bồ Tát được vô ngại trí, trụ vô ngại hạnh, được tam muội “thường thấy tất cả Phật”, được tam muội “chẳng trụ niết bàn tế”, rõ thấu tam muội “Phổ môn cảnh giới”. Với những pháp tam thế thảy đều bình đẳng. Hay khéo phân thân khắp tất cả cõi. An trụ nơi cảnh giới bình đẳng của chư Phật. Cảnh giới mười phương đều hiện tiền. Trí huệ quán sát đều thấy biết rõ ràng tất cả. Ở trong thân mình đều hiện tất cả thế giới thành hoại, nhưng đối với thân mình và các thế giới không có tưởng nghĩ là hai.

Những diệu hạnh như vậy, làm sao ta biết hết được, nói hết được.

 

“Go south, to Milaspharana, on the tip of the continent. A monk named

Saradhvaja lives there. Go to him and ask how an enlightening being is to

learn and undertake the practice of enlightening beings.”

 

Then Sudhana, paying his respects to Muktaka, eulogizing, contemplat-

ing, desiring, and dwelling on Muktaka’s countless virtues, with love for

spiritual benefactors, taking refuge in spiritual benefactors, seeking to please

 

Page 1197 – Entry into the Realm of Reality

 

spiritual benefactors, not contesting the knowledge of spiritual benefactors,

seeing omniscience as realized by following spiritual benefactors, obedient

to spiritual benefactors, to be spiritually healed by the techniques of spiritual

benefactors, his thoughts following the direction of spiritual benefactors,

thinking of spiritual benefactors as a mother because they get rid of all that is

not beneficial, thinking of spiritual benefactors as a father because they pro-

duce all good qualities, Sudhana left Muktaka.

Này thiện nam tử! từ đây qua phương Nam đến bờ Diêm Phù Ðề, có một nước tên là Ma Lợi Già La. Nước đó có Tỳ kheo tên là Hải Tràng.

Ngươi đến đó hỏi: Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?

Lúc đó Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Giải Thoát Trưởng giả, hữu nhiễu quán sát xưng dương ca ngợi, tư duy chiêm ngưỡng, buồn khóc rơi lệ, nhứt tâm ghi nhớ y tựa thiện tri thức, thờ thiện tri thức, kính thiện tri thức, do thiện tri thức được thấy nhứt thiết trí. Với thiện tri thức chẳng có lòng chống trái, không dua dối. Với thiện trí thức tâm thường tùy thuận. Nơi thiện tri thức tưỡng là từ mẩu, vì bỏ rời tất cả pháp vô ích. Nơi thiện tri thức tưởng là từ phụ, vì xuấtc sanh tất cả pháp lành. Tư duy rồi, từ tạ mà đi. (page 1135 – 1198) – 1 – 148 from Phẩm 39a – phần trên.

 

Sources:

Tài liệu tham khảo:

  1. https://thienphatgiao.wordpress.com/2013/06/02/kinh-hoa-nghiem-thich-tri-tinh-dich-tap-3-8/19/
  2. https://terebess.hu/zen/mesterek/avatamsaka-cleary.pdf
  3. https://thuvienhoasen.org/p16a563/39-pham-nhap-phap-giof-phan-tren