Phẩm 38b: Ly Thế Gian – Detachment from the Wold – Song ngữ
The Avatamsaka Sutra
The Flower Ornament Scripture – (The Flower Garland Sutra)
Kinh Hoa Nghiêm
English: Thomas Cleary – 1984.
Việt ngữ: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh – PL 2527 – 1983.
Compile: Lotus group.
Book Thirty-Eight: Detachment from the Wold – Page 969 – 1080 (MsW: 1022 – 1133)
Phẩm 38b: Kinh Hoa Nghiêm – Ly Thế Gian – (Hán bộ quyển 57 – 59)
Hán Bộ Quyển Thứ 57
“Great enlightening beings have ten kinds of habit energy; the habit
energy of determination for enlightenment; the habit energy of roots of
goodness; the habit energy of edifying sentient beings; the habit energy
of seeing Buddha; the habit energy of undertaking birth in pure worlds;
the habit energy of enlightening practice; the habit energy of vows; the
habit energy of transcendence; the habit energy of meditation on equality;
the habit energy of various differentiations of state. Based on these,
enlightening beings can forever get rid of all afflictive habit energies and
attain buddhas’ habit energy of great knowledge, the knowledge that is
not energized by habit.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười thứ tập khí:
Tập khí của Bồ đề tâm.
Tập khí của thiện căn.
Tập khí giáo hóa chúng sanh.
Tập khí thấy Phật.
Tập khí thọ sanh nơi thế giới thanh tịnh.
Tập khí của công hạnh.
Tập khí của thệ nguyện.
Tập khí của Ba la mật.
Tập khí tư duy pháp bình đẳng.
Tập khí của những cảnh giới sai biệt.
Nếu chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời lìa hẳn tất cả tập khí phiền não, được trí đại trí tập khí phi tập khí của Như Lai.
“Great enlightening beings have ten kinds of grasping, by which they
perpetuate the practices of enlightening beings: they grasp all realms of
sentient beings, to ultimately enlighten them; they grasp all worlds, to
ultimately purify them; they grasp Buddha, cultivating the practices of
enlightening beings as offerings; they grasp roots of goodness, accumu-
lating the virtues that mark and embellish the buddhas; they grasp great
compassion, to extinguish the pains of all sentient beings; they grasp
great benevolence, to bestow on all beings the happiness of omniscience;
they grasp the transcendent ways, to accumulate the adornments of
enlightening beings; they grasp skill in means, to demonstrate them
everywhere; they grasp enlightenment, to attain unobstructed knowl-
edge; in sum, enlightening beings grasp all things, to comprehend them
everywhere with clear knowledge. Based on these, enlightening beings
can perpetuate the practices of enlightening beings and attain the bud-
dhas’ supreme state of not grasping anything.
Chư Phật tử! đại Bồ Tát có mười điều thủ lấy, do đây nên không dứt hạnh Bồ Tát:
Thủ tất cả chúng sanh giới, vì rốt ráo giáo hoá.
Thủ tất cả thế giới, vì rốt ráo nghiêm tịnh.
Thủ Như Lai, vì tu hạnh Bồ Tát để cúng dường.
Thủ thiện căn, vì chứa nhóm tướng hảo công đức của chư Phật.
Thủ đại bi, vì diệt khổ cho tất cả chúng sanh.
Thủ đại từ, vì cho tất cả chúng sanh những trí lạc.
Thủ Ba la mật, vì tích tập những trang nghiêm của Bồ Tát.
Thủ thiện xảo phương tiện, vì đều thị hiện ở tất cả chỗ.
Thủ Bồ đề, vì được trí vô ngại.
Thủ tất cả pháp, vì ở tất cả chỗ đều dùng minh trí để hiện rõ.
Nếu chư Bồ Tát an trụ nơi mười điều thủ lấy này thời có thể chẳng dứt Bồ Tát hạnh, được pháp vô sở thủ vô thượng của tất cả Như Lai.
“Great enlightening beings have ten kinds of cultivation: they culti-
vate the ways of transcendence, learning, wisdom, purpose, righteous-
ness, emancipation, manifestation, diligence, accomplishment of true
awakening, and operation of right teaching. Based on these, enlight-
ening beings achieve supreme cultivation and practice all truths.
“Great enlightening beings have ten ways of fulfillment of the Buddha
teachings: not leaving wise associates; deeply believing in the words of
buddhas; not repudiating truth; dedicating unlimited roots of goodness;
focusing on the infinity of the sphere of Buddha; knowing the realms of
all worlds; not abandoning the realm of cosmic reality; avoiding all
Page 1074 – The Flower Ornament Scripture
realms of demons; correctly recollecting the realm of all buddhas; seeking
the realm of the ten powers of buddhas. Based on these, enlightening
beings can achieve the supreme great wisdom of buddhas.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười điều tu:
Tu các môn Ba la mật. Tu học. Tu huệ. Tu nghĩa. Tu pháp. Tu xuất ly. Tu thị hiện. Tu siêng thật hành chẳng lười. Tu thành Ðẳng Chánh Giác. Tu chuyển Chánh Pháp Luân.
Nếu chư Bồ Tát an trụ trong đây thời được tu vô thượng tu tất cả pháp.
Ðại Bồ Tát có mười điều thành tựu Phật pháp:
Chẳng rời thiện tri thức, thành tựu Phật pháp.
Thâm tín Phật ngữ thành tựu Phật pháp.
Chẳng hủy báng chánh pháp, thành tựu Phật pháp.
Dùng vô lượng vô tận thiện căn hồi hướng, thành tựu Phật pháp.
Tin hiểu cảnh giới của đức Như Lai vô biên tế, thành tựu Phật pháp.
Biết cảnh giới của tất cả thế giới, thành tựu Phật pháp.
Chẳng bỏ cảnh giới pháp giới, thành tựu Phật pháp.
Xa rời những cảnh giới ma, thành tựu Phật pháp.
Chánh niệm cảnh giới của tất cả Phật, thành tựu Phật pháp.
Thích cầu cảnh giới Thập lực của Như Lai, thành tựu Phật pháp.
Nếu chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời được thành tựu đại trí huệ vô thượng của Như Lai.
“There are ten things that cause enlightening beings to regress from
the Buddha teachings, which they should avoid: slighting the wise;
fearing the pains of birth and death; getting tired of practicing the acts of
enlightening beings; not caring to remain in the world; addiction to
concentration; clinging to roots of goodness; liking the ways of indi-
vidual liberation; having aversion to enlightening beings. If enlightening
beings avoid these ten things, they will enter the enlightening beings’
paths of emancipation.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười điều thối thất Phật pháp cần phải xa kìa:
Khinh mạn thiện tri thức, thối thất Phật pháp.
Sợ khổ sanh tử, thối thất Phật pháp.
Nhàm tu hạnh Bồ Tát, thối thất Phật pháp.
Chẳng thích trụ thế gian, thối thất Phật pháp.
Say đắm tam muội, thối thất Phật pháp.
Chấp lấy thiện căn, thối thất Phật pháp.
Hủy báng chánh pháp, thối thất Phật pháp.
Ðoạn Bồ Tát hạnh, thối thất Phật pháp.
Thích đạo Nhị thừa, thối thất Phật pháp.
Hiềm hận chư Bồ Tát, thối thất Phật pháp.
Nếu chư Bồ Tát xa lìa pháp này, thời nhập đạo ly sanh của Bồ Tát.
“Great enlightening beings have ten paths of emancipation: evoking
transcendent wisdom, yet always observing all sentient beings; detaching
from all views, yet liberating all sentient beings bound by views; not
minding any appearances, yet not abandoning sentient beings attached
to appearances; transcending the triple world, yet always being in all
worlds; forever leaving afflictions, yet living together with all sentient
beings; attaining desirelessness, yet always most compassionately pitying
all sentient beings attached to desires; always enjoying tranquillity and
serenity, yet always appearing to be in company; being free from birth
in the world, yet dying in one place and being reborn in another,
carrying on the activities of enlightening beings; not being affected by
any worldly things, yet not stopping work in the world; actually realizing
full enlightenment, yet not abandoning the vows and practices of en-
lightening beings. These are enlightening beings’ ten ways of emancipa-
tion, which are not common to worldlings, and also are not alloyed with
the practices of the two vehicles of individual liberation; if enlightening
beings live by these principles, they will attain the qualities of certainty
of enlightening beings.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười đạo ly sanh:
Xuất sanh Bát nhã Ba la mật mà luôn quán sát tất cả chúng sanh. Ðây là đạo ly sanh thứ nhứt.
Xa rời những kiến chấp mà độ thoát tất cả chúng sanh bị kiến chấp ràng buộc. Ðây là đạo ly sanh thứ hai.
Chẳng tưởng niệm tất cả tướng mà chẳng bỏ tất cả chúng sanh chấp tướng. Ðây là đạo ly sanh thứ ba.
Siêu quá tam giới mà thường ở tại tất cả thế giới. Ðây là đạo ly sanh thứ tư.
Rời hẳn phiền não mà ở chung với tất cả chúng sanh. Ðây là đạo ly sanh thứ năm.
Ðắc pháp ly dục mà thường dùng đại bi thương xót tất cả chúng sanh nhiễm trước dục lạc. Ðây là đạo ly sanh thứ sáu.
Thường thích tịch tịnh mà luôn thị hiện tất cả quyến thuộc. Ðây là đạo ly sanh thứ bảy.
Rời sanh thế gian mà chết đây sanh kia khởi hạnh Bồ Tát. Ðây là đạo ly sanh thứ tám.
Chẳng nhiễm tất cả pháp thế gian mà chẳng dứt tất cả việc làm thế gian. Ðây là đạo ly sanh thứ chín.
Chư Phật Bồ đề đã hiện ra trước mà chẳng bỏ tất cả hạnh nguyện của Bồ Tát. Ðây là đạo ly sanh thứ mười.
Ðây là mười đạo ly sanh của Bồ Tát, xuất ly thế gian chẳng cùng chung với thế gian mà cũng chẳng tạp hạnh Nhị thừa. Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được pháp quyết định của Bồ Tát.
“Great enlightening beings have ten qualities of certainty: they are
certainly born in the family of buddhas; they certainly live in the realm
of buddhas; they certainly know the tasks of enlightening beings; they
certainly persist in the transcendent ways; they certainly get to join the
assemblies of buddhas; they certainly can reveal the nature of buddha-
hood; they certainly abide in the powers of the enlightened; they certainly
enter the enlightenment of buddhas; they certainly are one and the same
body as all buddhas; their abode is certainly none other than that of all
buddhas.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười pháp quyết định:
Quyết định sanh trong chủng tộc của đức Như Lai.
Quyết định an trụ trong cảnh giới của chư Phật.
Quyết định biết rõ việc làm của chư Bồ Tát.
Quyết định an trụ trong các môn Ba la mật.
Quyết định được dự trong chúng hội của Như Lai.
Quyết định có thể hiển bày chủng tánh của Như Lai.
Quyết định an trụ trong trí lực của Như Lai.
Quyết định thâm nhập Bồ đề của chư Phật.
Quyết định đồng một thân với tất cả chư Phật.
Quyết định đồng một chỗ ở với tất cả chư Phật.
“Great enlightening beings have ten ways of generating the qualities
of buddhahood: following good friends is a way of generating qualities
of buddhahood, because they plant roots of goodness together; profound
devofion is a way of generating qualities of buddhahood, because they
know the masteries of buddhas; making great vows is a way of generating
qualities of buddhahood, because their minds become broad; recognizing
their own roots of goodness is a way of generating qualities of buddha-
hood, because they know their action is not wrong; tirelessly cultivating
Page 1075 – Detachment from the World
practice in all ages is a way of generating qualities of buddhahood,
because it comprehends the future; appearing in countless worlds is a
way of generating qualities of buddhahood, by maturing sentient beings;
not stopping the practices of enlightening beings is a way of generating
qualities of buddhahood, by increasing great compassion; infinite aware-
ness is a way of generating qualities of buddhahood, by pervading all
of space in a single moment of thought; excellent action is a way of
generating qualities of buddhahood, because what has been put into
practice is not lost; the pofential of enlightenment is a way of generating
qualities of buddhahood, causing all sentient beings to gladly set their
minds on enlightenment and sustain this will by all virtues. Based on
these, enlightening beings gain ten appellations of greatness.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười đạo xuất sanh Phật pháp:
Tùy thuận thiện hữu là đạo xuất sanh Phật pháp, vì đồng gieo căn lành.
Thâm tâm tin hiểu là đạo xuất sanh Phật pháp, vì biết Phật tự tại.
Phát thệ nguyện lớn là đạo xuất sanh Phật pháp, vì tâm rộng rãi.
Nhẫn thọ thiện căn của mình là đạo xuất sanh Phật pháp, vì biết nghiệp chẳng mất.
Tất cả kiếp tu hành không nhàm đủ là đạo xuất sanh Phật pháp, vì tột thưở vị lai.
Vô số thế giới đều thị hiện là đạo xuất sanh Phật pháp, vì thành thục chúng sanh.
Chẳng dứt Bồ Tát hạnh là đạo xuất sanh Phật pháp, vì tăng trưởng đại bi.
Vô lượng tâm là đạo xuất sanh Phật pháp, vì một niệm khắp tất cả hư không giới.
Hạnh thù thắng là đạo xuất sanh Phật pháp, vì công hạnh đã tu không hư mất.
Như Lai chủng là đạo xuất sanh Phật pháp, vì làm cho tất cả chúng sanh thích phát tâm Bồ đề dùng tất cả pháp lành giúp đỡ giữ gìn.
“Great enlightening beings have ten appellations of greatness; they are
called beings of enlightenment because they are born of knowledge of
enlightenment; they are called great beings because they dwell in the
Great Vehicle; they are called foremost beings because they realize the
foremost truth; they are called superior beings because they are aware of
higher laws; they are called supreme beings because their knowledge is
supreme; they are called exalted beings because they reveal the unexcelled
teaching; they are called beings of power because they have extensive
knowledge of the ten powers; they are called incomparable beings be-
cause they have no peer in the world; they are called inconceivable
beings because they become buddhas in an instant. If enlightening beings
win these appellations, they accomplish the paths of enlightening beings.
Nếu chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời được danh hiệu đại trượng phu:
Hiệu là Bồ đề Tát Ðỏa, vì Bồ đề trí sanh ra.
Hiệu là Ma Ha Tát Ðoả, vì an trụ nơi Ðại thừa.
Hiệu là Ðệ nhứt Tát Ðoả, vì chứng pháp đệ nhứt.
Hiệu là Thắng Tát Ðoả, vì giác ngộ pháp thù thắng.
Hiệu là Tối Thắng Tát Ðỏa, vì trí huệ tối thắng.
Hiệu là Thượng Tát Ðoả, vì phát khởi thượng tinh tấn.
Hiệu là Vô Thượng Tát Ðỏa, vì khai thị pháp vô thượng.
Hiệu là Lực Tát Ðỏa, vì biết rộng Thập lực.
Hiệu là Vô Ðẳng Tát Ðỏa, vì thế gian không sánh được.
Hiệu là Bất Tư Nghì Tát Ðỏa, vì một niệm thành Phật.
Nếu chư Bồ Tát được danh hiệu này thời thành tựu Bồ Tát đạo.
“Great enlightening beings have ten kinds of path. One path is a path
of enlightening beings because they do not give up the sole determina-
tion for enlightenment. Two paths are a path of enlightening beings
because they develop wisdom and skill in means. Three paths are a path
of enlightening beings because they practice emptiness, signlessness, and
wishlessness, and are not attached to the three worlds. Four practices
are a path of enlightening beings; ceaselessly removing the barriers of
wrongdoing by repentance, rejoicing in virtue, honoring the enlightened
and requesting them to teach, and skillfully practicing dedication. The
five faculties are a path of enlightening beings: they rest on pure faith,
steadfast and imperturbable; they generate great energy, finishing their
tasks; they are single-minded in right recollection, without wandering
attention; they know the techniques for entering and emerging from
concentration; they are able to distinguish spheres of knowledge. The six
psychic powers are a path of enlightening beings: with the celestial eye
they see all forms in all worlds and know where sentient beings-die and
are born; with the celestial car they hear all buddhas teaching, absorb and
remember their teachings, and expound them widely to sentient beings
according to their faculties; with telepathic knowledge they are able to
know the minds of others freely, without interference; with recollection
of past life they are able to remember all ages of the past and increase
roots of goodness; with the power of psychic travel they are able to
Page 1076 – The Flower Ornament Scripture
appear variously to beings capable of being enlightened, to induce them
to delight in truth; with knowledge of extinction of contamination they
actually realize the ultimate truth, while carrying out the deeds of en-
lightening beings without cease. Seven remembrances are a path of
enlightening beings: they remember buddhas because they see infinite
buddhas in a single pore opening the minds of all sentient beings; they
remember the Teaching because they do not leave the assemblies of all
buddhas — they personally receive the sublime Teaching in the assemblies
of all buddhas and expound it to sentient beings according to their
faculties, temperaments, and inclinations, to enlighten them; they re-
member the harmonious Community because they continually see en-
lightening beings in all worlds; they remember relinquishment because
they know all enlightening beings’ practices of relinquishment increase
magnanimous generosity; they remember the precepts because they do
not give up the aspiration for enlightenment, and dedicate all roots of
goodness to sentient beings; they remember heaven because they always
keep in mind the enlightening beings in the heaven of happiness who are
to become buddhas in the next lifetime; they remember sentient beings
because they teach and tame them with wisdom and skill in means,
reaching them all, without interruption. Following the holy Eightfold
Path to enlightenment is a path of enlightening beings: they travel the
path of right insight, getting rid of all false views; they exercise right
thought, abandoning arbitrary conceptions, their mind always following
universal knowledge; they always practice right speech, getting rid of
faults of speech and following the words of sages; they always cultivate
right action, teaching sentient beings to make them peaceful and har-
monious; they abide by right livelihood, being frugal and content, care-
ful and correct in behavior, eating, dressing, sleeping, eliminating evil,
and practicing good, all in accord with enlightenment, forever getting
rid of all faults; they arouse right energy, diligently cultivating all the
difficult practices of enlightening beings, entering the ten powers of
buddhas without hindrance; their minds always recollect correctly, able
to remember all messages, eliminating all mundane distraction; their
minds are always correctly concentrated, they enter the door of incon-
ceivable liberation of enlightening beings, and in one concentration they
produce all concentrations. Entering the nine successive concentrations is
a path of enlightening beings: they detach from craving and ill-will, and
expound the truth without inhibition in all they say; they extinguish
thought and reflection, yet teach sentient beings with the thought and
reflection of omniscience; they give up joy and emofion, yet they are
most joyful when they see all buddhas; they give up worldly enjoyments
and follow the transcendent enjoyment of the Path of enlightening
beings; henceforth they are unshakable and enter formless concentration,
yet without abandoning life in the realms of desire and form; though
they abide in concentration in which all perception and sensation are ex-
tinguished, they do not stop the activity of enlightening beings. Learning
Page 1077 – Detachment from the World
the ten powers is a path of enlightening beings: knowledge of what is so
and what is not so; knowledge of the causes and effects, deeds and con-
sequences, past, future, and present, of all sentient beings; knowledge of
the differences in faculties of all sentient beings and explaining the truth
to them as is appropriate; knowledge of the infinite different natures of
sentient beings; knowledge of the differences in weak, middling, and
superior understanding of all sentient beings, and means of introducing
them to truth; knowledge of manifesting the appearance and conduct of
Buddha throughout all worlds, all lands, all times, all ages, without
abandoning the practices of enlightening beings; knowledge of all medi-
tations, liberations, and concentrations, whether defiled or pure, timely
or not, expediently producing doors of liberation for enlightening
beings; knowledge of distinctions in all sentient beings’ death in one
place and birth in another in the various states of existence; instantaneous
knowledge of all ages in past, present, and future; knowledge of extinc-
tion of all sentient beings’ desires, compulsions, delusions, and habits,
without abandoning the practices of enlightening beings. Based on these
ten paths, enlightening beings can attain the path of unexcelled skill in
means of all buddhas.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười đạo:
Nhứt đạo là Bồ Tát đạo, vì chẳng bỏ Bồ đề tâm độc nhứt.
Nhị đạo là Bồ Tát đạo, vì xuất sanh trí huệ và phương tiện.
Tam đạo là Bồ Tát đạo, vì thật hành không, vô tướng, vô nguyện, chẳng nhiễm trước tam giới.
Tứ hạnh là Bồ Tát đạo, vì sám trừ tội chướng, tùy hỉ phước đức, cung kính tôn trọng khuyế thỉnh Như Lai, thiện xảo hồi hướng không thôi nghỉ.
Ngũ căn là Bồ Tát đạo, vì an trụ tịnh tín kiên cố bất động, khởi đại tinh tấn việc làm rốt ráo, một bề chánh niệm không phan duyên khác lạ, khéo biết tam muội nhập xuất phương tiện hay khéo phân biệt cảnh giới trí huệ.
Lục thông là Bồ Tát đạo, vì thiên nhãn thấy rõ những hình sắc của tất cả thế giới, biết các chúng sanh chết đây sanh kia. Thiên nhĩ nghe rõ chư Phật thuyết pháp thọ trì ghi nhớ, rộng vì chúng sanh tùy căn cơ để khai diễn. Tha tâm trí hay biết tâm người tự tại vô ngại. Túc mạng thông nhớ biết rõ tất cả kiếp số quá khứ thêm lớn căn lành. Thần túc thông tùy theo những chúng sanh đáng được quá độ, vì họ mà biến hiện nhiều thứ cho họ thích mến chánh pháp. Lậu tận trí hiện chứng thiệt tế khởi Bồ Tát hạnh chẳng đoạn tuyệt.
Thất niệm là Bồ Tát đạo. Vì niệm Phật, ở, một lỗ lông thấy vô lượng Phật khai ngộ tất cả tâm chúng sanh. Niệm Pháp, chẳng rời chúng hội của một đức Như Lai, ở trong chúng hội của tất cả Như Lai thân thừa diệu pháp, tùy căn tánh dục lạc của các chúng sanh mà vì họ diễn thuyết cho họ được ngộ nhập. Niệm Tăng luôn nối tiếp thấy không thôi dứt, nơi tất cả thế gian thấy Bồ Tát. Niệm xả, biết rõ tất cả Bồ Tát hạnh xả tăng trưởng, tâm bố thí rộng lớn. Niệm giới chẳng bỏ tâm Bồ đề, đem tất cả thiện căn hồi hướng chúng sanh. Niệm Thiên thường ghi nhớ Bồ Tát nhứt sanh bổ xứ tại Ðâu Suất Thiên cung. Niệm chúng sanh, trí huệ phương tiện giáo hóa điều phục đến khắp tất cả không gián đoạn.
Tùy thuận Bồ đề Bát thánh đạo là Bồ Tát đạo. Thật hành đạo chánh kiến xa lìa tất cả tà kiến. Khởi chánh tư duy bỏ vọng phân biệt tâm thường tùy thuận nhứt thiết trí. Thường thật hành chánh ngữ rời bốn lỗi của ngữ nghiệp tùy thuận thánh ngôn. Hằng tu chánh nghiệp giáo hóa chúng sanh cho họ được điều phục. An trụ chánh mạng, đầu đà tri túc oai nghi thẩm chánh, tùy thuận Bồ đề thật hành tứ thánh chủng, tất cả lỗi lầm đều rời hẳn. Khởi chánh tinh tần siêng tu tất cả khổ hạnh của Bồ Tát nhập Thập lực của Phật không chướng ngại. Tâm thường chánh niệm đều có thể ghi nhớ tất cả ngôn âm, trừ diệt tâm tán động của thế gian. Tâm thường chánh định, khéo nhập môn Bồ Tát bất tư nghì giải thoát, ở trong một tam muội xuất sanh tất cả môn tam muội. Nhập cửu thứ đệ định là Bồ Tát đạo. Rời dục nhiễm sân hại mà dùng tất cả ngữ nghiệp thuyết pháp vô ngại. Diệt trừ giác quán mà dùng tất cả trí giác quán giáo hóa chúng sanh. Xả ly hỷ ái mà thấy tất cả chư Phật lòng rất hoan hỷ. Rời thế gian lạc mà tùy thuận Bồ Tát đạo xuất thế lạc từ đây bất động. Nhập vô sắc định mà cũng chẳng bỏ thọ sanh nơi Dục giới và Sắc giới. Dầu trụ trong diệt thọ tưởng định mà cũng chẳng dứt Bồ Tát hạnh.
Học Phật Thập lực là Bồ Tát đạo : Trí khéo biết thị xứ phi xứ. Trí khéo biết nghiệp báo nhơn quả quá khứ vị lai hiện tại của tất cả chúng sanh. Trí khéo biết tất cả chúng sanh căn thượng trung hạ chẳng đồng mà tùy cơ nghi thuyết pháp. Trí khéo biết tất cả chúng sanh có vô lượng tánh. Trí khéo biết tất cả chúng sanh kiến giải hạ trung thượng sai biệt làm cho họ nhập vào pháp phương tiện. Trí biết khắp tất cả thế gian, tất cả cõi, tất cả tam thế, tất cả kiếp, hiện khắp hình tướng oai nghi của Như Lai, mà cũng chẳng bỏ việc làm của Bồ Tát. Trí khéo biết tất cả các thiền giải thoát và các tam muội, hoặc cấu, hoặc tịnh, thời cùng phi thời, phương tiện xuất sanh những Bồ Tát giải thoát môn. Trí biết tất cả chúng sanh ở trong các loài chết đây sanh kia sai khác nhau. Trí ở trong một niệm đều biết tam thế tất cả kiếp số. Trí khéo biết tất cả chúng sanh lạc dục, phiền não hoặc tập đều diệt hết, mà chẳng bỏ rời hạnh Bồ Tát.
Nếu chư Bồ Tát an trụ nơi đây thời được đạo phương tiện thiện xảo vô thượng của tất cả Như Lai.
“Great enlightening beings have infinite paths, infinite aids to enlight-
enment, infinite ways of cultivation, and infinite ways of adornment.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có vô lượng đạo, vô lượng trợ đạo, vô lượng tu đạo, vô lượng trang nghiêm đạo.
“Great enlightening beings have ten kinds of infinite path: because
space is infinite, so are the paths of enlightening beings; because the
cosmos is infinite, so are the paths of enlightening beings; because the
realms of sentient beings are infinite, so are the paths of enlightening
beings; because the worlds are infinite, so are the paths of enlightening
beings; because time is infinite, so are the paths of enlightening beings;
because the languages of all sentient beings are infinite, so are the paths of
enlightening beings; because the embodiments of Buddha are infinite, so
are the paths of enlightening beings; because the utterances of Buddha
are inf inite, so are the paths of enlightening beings; because the power of
Buddha is infinite, so are the paths of enlightening beings; because omni-
science is infinite, so are the paths of enlightening beings.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười vô lượng đạo:
Vì hư không vô lượng nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.
Vì pháp giới vô biên nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.
Vì chúng sanh giới vô tận nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.
Vì thế giới vô tế nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.
Vì kiếp số bất khả tận nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.
Vì pháp ngữ ngôn của tất cả chúng sanh vô lượng nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.
Vì Như Lai thân vô lượng nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.
Vì âm thanh vô lượng nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.
Vì Như Lai lực vô lượng nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.
Vì nhứt thiết chủng trí vô lượng nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.
“Great enlightening beings have ten kinds of infinite aids to enlight-
enment: as space is infinite, so is enlightening beings’ development of
aids to enlightenment; as the cosmos is infinite, so is enlightening beings’
development of aids to enlightenment; as the realms of sentient beings
are infinite, so is enlightening beings’ development of aids to enlighten-
ment; as worlds are infinite, so is enlightening beings’ development of
aids to enlightenment; as the number of eons can never be fully told, so
too all worldlings cannot fully tell of enlightening beings’ development
of aids to enlightenment; as the languages of sentient beings are infinite,
so is enlightening beings’ development of aids to enlightenment, pro-
ducing knowledge to comprehend ways of speaking; as the embodiment
of Buddha is infinite, so is enlightening beings’ development of aids to
enlightenment, extending to all sentient beings, all lands, all worlds, and
Page 1078 – The Flower Ornament Scripture
all times; as the utterances of Buddha are infinite, enlightening beings
utter one word pervading the cosmos, heard by all sentient beings, so the
aids to enlightenment they develop also are infinite; as the power of
Buddha is infinite, the aids to enlightenment accumulated by enlightening
beings through the power of Buddha are infinite too. Based on these
factors, enlightening beings can attain the infinite knowledge of
buddhas.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười vô lượng trợ đạo:
Như hư không giới vô lượng, Bồ Tát tích tập trợ đạo cũng vô lượng.
Như pháp giới vô biên, Bồ Tát tích tập trợ đạo cũng vô biên.
Như chúng sanh giới vô tận, Bồ Tát tích tập trợ đạo cũng vô tận.
Như thế giới vô tế, Bồ Tát tích tập trợ đạo cũng vô tế.
Như kiếp số thuyết bất khả tận, Bồ Tát tích tập trợ đạo cũng là tất cả thế gian thuyết bất khả tận.
Như pháp ngữ ngôn của chúng sanh vô lượng, Bồ Tát tích tập trợ đạo xuất sanh trí huệ biết pháp ngữ ngôn cũng vô lượng.
Như thân Như Lai vô lượng, Bồ Tát tích tập trợ đạo khắp tất cả chúng sanh, tất cả cõi, tất cả đời, tất cả kiếp cũng vô lượng.
Như âm thanh của Phật vô lượng, Bồ Tát phát một âm thanh cùng khắp pháp giới tất cả chúng sanh không ai chẳng nghe biết, trợ đạo đã tích tập cũng vô lượng.
Như Phật lực vô lượng, Bồ Tát thừa Như Lai lực tích tập trợ đạo cũng vô lượng.
Như nhứt thiết chủng trí vô lượng, Bồ Tát tích tập trợ đạo cũng vô lượng như vậy.
Nếu chư Bồ Tát an trụ nơi pháp này thời được vô lượng trí huệ của Như Lai.
“Great enlightening beings have ten kinds of infinite ways of cultiva-
tion: cultivation without coming or going, because their physical, verbal,
and mental doings have no action; neither existent nor nonexistent culti-
vation, there being no inherent nature; cultivation without increase or
decrease, being in accord with fundamental essence; cultivation like an
illusion, a dream, a shadow, an echo, an image in a mirror, a mirage in
the heat, the moon’s image in the water, being free from all clinging;
empty, signless, wishless, nondoing cultivation, clearly seeing the triple
world yet ceaselessly accumulating virtues; inexplicable, inexpressible
cultivation beyond speech, apart from all definitions and eonstructions;
cultivation of the indestructible realm of reality, directly knowing all
phenomena; cultivation of the ultimate reality of True Thusness, entering
the space of ultimate reality of True Thusness; cultivation of vast wis-
dom, the power of their deeds being inexhaustible; equal cultivation of
the ten powers, four fearlessnesses, and omniscience of buddhas, directly
seeing all things without doubt or confusion. Based on these ten ele-
ments, enlightening beings can accomplish the supremely skillful culti-
vation of omniscience of buddhas.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười vô lượng đạo hạnh tu tập:
Bất lai bất khứ, là hạnh tu của Bồ Tát, vì ba nghiệp thân, ngữ, ý không động tác.
Bất tăng bất giảm là hạnh tu của Bồ Tát, vì như bổn tánh.
Phi hữu phi vô là hạnh tu của Bồ Tát, vì không tự tánh.
Như huyễn như mộng, như ảnh, như hưởng, như tượng trong gương, như ánh nắng khi trời quá nóng, như mặt trăng trong nước, là hạnh tu của Bồ Tát, vì rời lìa tất cả các chấp trước.
Không, vô tướng, vô nguyện, vô tác là hạnh tu của Bồ Tát, vì thấy rõ ba cõi mà chứa phước đức chẳng thôi dứt.
Bất khả thuyết, ly ngôn thuyết là hạnh tu của Bồ Tát, vì xa rời pháp thi thiết an lập.
Bất hoại pháp giới là hạnh tu của Bồ Tát, vì trí huệ hiện biết tất cả pháp.
Bất hoại chơn như thiệt tế là hạnh tu của Bồ Tát, vì vào khắp chơn như thiệt tế hư không tế.
Trí huệ quảng đại là hạnh tu của Bồ Tát, vì bao nhiêu việc làm năng lực vô tận.
An trụ nơi Thập lực tứ vô ý của Như Lai, nhứt thiết chủng trí bình đẳng, là hạnh tu của Bồ Tát, vì hiện thấy tất cả pháp không nghi lầm.
Nếu chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời được hạnh tu thiện xảo vô thượng nhứt thiết trí của Như Lai.
“Great enlightening beings have ten kinds of way of adornment.
Without leaving the realm of desire, they enter the meditations, libera-
tions, and trances of the realm of form and formlessness, yet they are not
thereby born in those realms. This is their first way of adornment. Their
knowledge appears to enter the path of personally liberated saints, yet
they do not take emancipation by this route; this is their second way of
adornment. Their knowledge appears to enter the path of individual
illumination, yet they do not cease to generate great compassion; this
is their third way of adornment. Though they have human and celestial
retinues surrounding them, hundreds and thousands of concubines and
troupes of singers and dancers, they never for a moment leave medita-
tion, liberation, and concentration; this is their fourth way of adornment.
They take part in amusements and experience pleasure and happiness
with all sentient beings, but they never for a moment leave the concen-
tration of equanimity of enlightening beings; this is their fifth way of
adornment. They have already transcended all worlds and have no
attachments to anything, yet they do not abandon efforts to liberate
sentient beings; this is their sixth way of adornment. They live by the
right path, right knowledge, and right insight, yet they can appear to
enter false paths, without taking them to be true or pure, to cause the
sentient beings involved in them to abandon false principles; this is their
Page 1079 – Detachment from the World
seventh way of adornment. They always maintain the Buddha’s pure
precepts, and their thoughts, words, and deeds are faultless, but because
they want to edify immoral sentient beings, they appear to perform the
acts of ordinary ignorant people; though they are already filled with
pure virtues and abide in the course of enlightening beings, yet they
appear to live in such realms as hells, animality, ghosthood, and in dif-
ficulty and poverty, in order to enable the beings therein to gain libera-
tion — really the enlightening beings are not born in those states; this is
their eighth way of adornment. Without being taught by another, they
attain unhindered intellect and the light of knowledge, are able to illu-
mine and understand all Buddha teachings, are sustained by the spiritual
power of all buddhas, are one and the same body of reality with all bud-
dhas, accomplish all incorruptible mystic states of clarity and purity of
great people, abide in all equal vehicles of liberation, are aware of all
spheres of buddhahood, are endowed with the light of all worldly
knowledge, and clearly see all realms of sentient beings; they are able to
be truth-knowing teachers for sentient beings, yet they make the appear-
ance of ceaseless seareh for truth; though they actually are unexcelled
teachers of sentient beings, they show respect to preceptors and religious
mentors, because great enlightening beings, by skillful expedients, abide
in the path of enlightening beings yet manifest whatever is necessary; this
is their ninth way of adornment. Their roots of goodness are sufficient,
their practices are completed; they are coronated by all buddhas together
and reach the furthest extent of mastery of all the teachings, their heads
crowned with the turban of the state of nonobstruction. Their bodies
reach all worlds and everywhere they show the body of Buddha that has
no resistance. Masters of the teachings, they attain supreme fulfillment
and turn the unimpeded pure wheel of teaching. They have already ac-
complished all manner of freedom of enlightening beings, but for the
sake of sentient beings they appear to be born in all lands. They are in the
same realm as all buddhas, yet they do not abandon the practices of en-
lightening beings, do not give up the principles of enlightening beings,
do not neglect the works of enlightening beings, do not leave the path of
enlightening beings, do not slacken the conduct of enlightening beings,
do not cut off the graspings of enlightening beings, do not cease the skill-
ful methods of enlightening beings, do not stop doing the tasks of en-
lightening beings, do not tire of the developmental activities of enlight-
ening beings, do not put an end to the sustaining power of enlightening
beings. Why? Because enlightening beings want to quickly realize unex-
celled, complete perfect enlightenment, so they examine the ways of
access to omniscience and cultivate the practices of enlightening beings
unceasingly. This is their tenth way of adornment. Based on these prin-
ciples enlightening beings can attain the supreme way of great adorn-
ment of buddhas.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười đạo trang nghiêm:
Ðại Bồ Tát chẳng rời Dục giới mà nhập Sắc giới, Vô Sắc giới, thiền định giải thoát và các tam muội cũng chẳng nhơn đây mà thọ sanh. Ðây là đạo trang nghiêm thứ nhứt.
Trí huệ hiện tiền nhập Thanh Văn đạo, chẳng do đạo này mà chứng lấy quả xuất ly. Ðây là đạo trang nghiêm thứ hai.
Trí huệ hiện tiền nhập Bích Chi Phật đạo, mà phát khởi đại bi chẳng thôi dứt. Ðây là đạo trang nghiêm thứ ba.
Dầu có quyến thuộc Nhơn Thiên vây quanh, trăm ngàn thể nữ ca múa hầu hạ, mà chưa từng tạm bỏ thiền định giải thoát và các tam muội. Ðây là đạo trang nghiêm thứ tư.
Cùng tất cả chúng sanh thọ những dục lạc, cùng nhau vui đùa mà vẫ chưa từng tạm trong một niệm rời bỏ Bồ Tát bình đẳng tam muội. Ðây là đạo trang nghiêm thứ năm.
Ðã đến bĩ ngạn, tất cả thế gian, nơi các thế pháp đều không chấp trước mà cũng chẳng bỏ hạnh độ chúng sanh. Ðây là đạo trang nghiêm thứ sáu.
An trụ chánh đạo, chánh trí, chánh kiến mà hay thị hiện vào tất cả tà đạo, chẳng lấy làm thiệt, chẳng chấp làm tịnh, làm cho chúng sanh đó xa rời tà pháp. Ðây là đạo trang nghiêm thứ bảy.
Thường khéo hộ trì tịnh giới của Như Lai, ba nghiệp thân, khẩu, ý không lầm lỗi, vì muốn giáo hóa chúng sanh phạm giới nên thị hiện làm tất cả hạnh phàm ngu. Dầu đã đầy đủ phước đức thanh tịnh trụ bực Bồ Tát, mà thị hiện sanh nơi tất cả địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ cùng những chỗ hiểm nạn bần cùng, làm cho những chúng sanh đó đều được giải thoát. Nhưng thiệt ra Bồ Tát chẳng sanh vào những loài đó. Ðây là đạo tràng trang nghiêm thứ tám.
Chẳng do người dạy mà được vô ngại biện, trí huệ quang minh có thể chiếu rõ khắp cả Phật pháp, được thần lực của tất cả Như Lai hộ trì đồng một pháp thân với tất cả chư Phật, thành tựu tất cả pháp kiên cố bí mật minh tịnh của bực đại nhơn, an trụ những thừa tất cả bình đẳng, cảnh giới chư Phật đều hiện ra trước đầy đủ tất cả thế trí quang minh, soi thấy tất cả chúng sanh giới, có thể vì chúng sanh mà làm tri pháp sư, thị hiện cầu chánh pháp không thôi dứt, dầu thiệt làm Vô Thượng Sư cho chúng sanh mà thị hiện tôn kính Hòa Thượng A Xà Lê. Tạo sao vậy ? Vì Ðại Bồ Tát thiện xảo phương tiện trụ Bồ Tát đạo, tùy theo sở nghi đều vì chúng sanh mà thị hiện. Ðây là đạo trang nghiêm thứ chín.
Thiện căn đầy đủ, công hạnh rốt ráo, tất cả Như Lai cùng chung quán đảnh, đến bĩ ngạn tất cả pháp tự tại, lụa pháp vô ngại dùng đội trên đầu thân, hình đến khắp tất cả thế giới, hiện khắp thân vô ngại của Như Lai, nơi pháp tự tại rốt ráo tối thượng, chuyển pháp luân vô ngại thanh tịnh tất cả pháp tự tại của Bồ Tát đều đã thành tựu, mà vì chúng sanh nên thị hiện thọ sanh nơi tất cả quốc độ, đồng một cảnh giới với tất cả chư Phật trong ba đời. Nhưng vẫn chẳng phế hạnh Bồ Tát, chẳng bỏ pháp Bồ Tát, chẳng lười nghiệp Bồ Tát, chẳng rời đạo Bồ Tát, chẳng lơi oai nghi Bồ Tát, chẳng dứt bực Bồ Tát, chẳng thôi phương tiện thiện xảo Bồ Tát, chẳng tuyệt việc làm của Bồ Tát, chẳng nhàm sanh thành công dụng của Bồ Tát, chẳng dừng sức trụ trì của Bồ Tát. Tại sao vậy? Vì Bồ Tát muốn mau chứng Vô thượng Bồ đề, quán môn nhứt thiết trí, tu hạnh Bồ Tát không thôi nghỉ. Ðây là đạo trang nghiêm thứ mười.
Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được đạo đại trang nghiêm Vô thượng của Như Lai, cũng chẳng bỏ Bồ Tát đạo.
“Great enlightening beings have ten kinds of feet: the feet of disci-
pline, fulfilling all higher aspirations; the feet of energy, assembling all
Page 1080 – The Flower Ornament Scripture
elements of enlightenment without regressing; the feet of spiritual
knowledge, gladdening all sentient beings according to their desires; the
feet of psychic powers, going to all buddha-lands without leaving one
buddha-land; the feet of determination, seeking all higher laws; the feet
of resolute commitment, fulfilling all their tasks; the feet of accord, not
opposing the teachings of all the honorable; the feet of delight in truth,
tirelessly hearing and holding all teachings spoken by buddhas; the feet
of rain of teaching, lecturing to the masses without timidity; the feet of
cultivation, getting rid of all evils. Based on these, enlightening beings
can attain the supreme feet of buddhas, which can reach all worlds in one
step.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười chân:
Chân trì giới, vì đại nguyện thù thắng đều thành tựu viên mãn.
Chân tinh tấn, vì tích tập tất cả pháp Bồ đề phần không thối chuyển.
Chân thần thông, vì tùy theo dục lạc của chúng sanh làm cho hoan hỷ.
Chân thần lực, vì chẳng rời một cõi Phật mà qua đến tất cả cõi Phật.
Chân thân tâm, vì nguyện cầu tất cả pháp thù thắng.
Chân kiên thệ, vì tất cả việc làm đều rốt ráo.
Chân tùy thuận, vì chẳng trái lời dạy của bực tôn túc.
Chân lạc pháp, vì nghe và thọ trì tất cả pháp của chư Phật nói không mỏi lười.
Chân pháp vũ, vì đại chúng thuyết pháp không khiếp nhược.
Chân tu hành, vì tất cả điều ác đều xa lìa.
Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được chân vô thượng tối thắng của đức Như Lai. Nếu cất chân một bước đều có thể đến khắp tất cả thế giới.
“Great enlightening beings have ten kinds of hands: hands of deep
faith, wholeheartedly accepting and ultimately taking up the teaching of
buddhas; hands of giving, satisfying all those who seek, according to
their desires; hands of initiating greetings, extending their right palm to
welcome and lead; hands of honoring buddhas, tirelessly gathering bles-
sings and virtues; hands of learning and skillfulness, cutting off the
doubts of all sentient beings; hands of fostering transcendence of the
triple world, extending them to sentient beings and extricating them
from the mire of craving; hands of settlement on the Other Shore, sav-
ing drowning sentient beings from the four torrents; hands of generosity
with right teaching, revealing all sublime principles; hands of skillful use
of philosophies, quelling diseases of body and mind with the medicine of
knowledge and wisdom; hands always holding jewels of knowledge,
unfolding the light of truth to obliterate the darkness of afflictions. These
are the ten: based on these, enlightening beings can acquire the supreme
hands of buddhas covering all worlds in the ten directions.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười tay:
Tay thâm tín, vì nơi lời nói của Phật đều tin sâu nhẫn thọ rốt ráo thọ trì.
Tay bố thí, có người đến cầu, tùy chỗ họ muốn đều làm cho được đầy đủ.
Tay hỏi thăm trước, vì giơ tay mặt nghinh tiếp nhau.
Tay cúng dường chư Phật, vì chứa nhóm những phước đức không mỏi nhàm.
Tay đa văn thiện xảo, vì đều dứt tất cả chúng sanh nghi.
Tay khiến siêu tam giới, vì trao cho chúng sanh vớt họ ra khỏi bùn ái dục.
Tay đặt nơi bĩ ngạn, vì cứu chúng sanh đắm trong bốn dòng nước cuộn.
Tay chẳng tiếc chánh pháp, vì có bao nhiêu diệu pháp đều đem khai thị.
Tay khéo dùng những luận nghị, vì dùng thuốc trí huệ trừ bịnh nơi thâm tâm.
Tay hằng chấp trì trí bửu, vì khai pháp quang minh phá tối phiền não.
Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được tay vô thượng của Như Lai, che khắp tất cả thế giới mười phương.
“Great enlightening beings have ten kinds of guts: guts free from
deception, their hearts being pure; guts free from falsehood, being honest
by nature; nonprevaricating guts, having no crookedness; nonswindling
guts, having no greed for anything; guts cutting off afflictions, being full
of wisdom; pure-minded guts, being free from all evils; guts examining
food and drink, remembering reality; guts observing noncreation, being
aware of interdependent origination; guts aware of all ways of emanci-
pation, fully developing the will; guts rid of the defilement of all extreme
views, enabling all sentient beings to enter into the guts of Buddha.
These are the ten; based on these, enlightening beings can acquire the
supreme, vast guts of buddhas, able to contain all sentient beings.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười bụng:
Bụng lìa dua vạy, vì tâm thanh tịnh.
Bụng lìa huyễn ngụy, vì tánh chất trực.
Bụng chẳng hư giả, vì không hiểm dối.
Bụng không khi đoạt, vì không tham đối với tất cả vật.
Bụng dứt phiền não, vì đầy đủ trí huệ.
Bụng thanh tịnh tâm, vì rời các điều ác.
Bụng quán sát uống ăn, vì nhớ pháp như thiệt.
Bụng quán sát vô tác, vì giác ngộ duyên khởi.
Bụng ngộ tất cả đạo xuất ly, vì khéo thành thục thâm tâm.
Bụng xa rời tất cả cấu nhơ biên kiến, vì làm cho tất cả chúng sanh nhập vào bụng Phật.
Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được bụng rộng lớn vô thượng của Như Lai, đều có thể dung thọ tất cả chúng sanh.
“Great enlightening beings have ten kinds of internal organs. Per-
petuating the seed of buddhas is an organ of enlightening beings, mani-
festing the immeasurable spiritual power of the Buddha teaching. Causing
the seed of the Teaching to grow is an organ of enlightening beings,
generating the immense light of knowledge. Preserving the seed of the
spiritual community is an organ of enlightening beings, enabling them
to gain access to the irreversible wheel of teaching. Awakening those
who are rightly stabilized is an organ of enlightening beings, instantly
Page 1081 – Detachment from the World
adapting to the time. Fully developing unstable sentient beings is an
organ of enlightening beings, producing continuity of causal basis. Con-
ceiving compassion for wrongly stabilized sentient beings is an organ of
enlightening beings, causing thorough development of causal basis for
the future. Fulfilling the indestructible bases of the ten powers of bud-
dhas is an organ of enlightening beings, with unopposable roots of good-
ness that conquer the armies of demons. The supremely fearless lion’s
roar is an organ of enlightening beings, gladdening all sentient beings.
Attaining the eighteen unique qualities of buddhas is an organ of enlight-
ening beings, with knowledge penetrating everywhere. Knowing all
sentient beings, all lands, all things, and all buddhas is an organ of en-
lightening beings, clearly seeing all in a single instant. These are the ten;
based on these, enlightening beings can attain the indestructible internal
organs of great knowledge with supreme virtues of buddhas.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười tạng:
Chẳng dứt Phật chủng là Bồ Tát tạng, vì khai thị Phật pháp vô lượng oai đức.
Tăng trưởng Pháp chủng là Bồ Tát tạng, vì xuất sanh trí huệ quang minh quảng đại.
Trụ trì tăng trưởng là Bồ Tát tạng, vì làm cho họ được nhập pháp luân bất thối.
Giác ngộ chánh định chúng sanh là Bồ Tát tạng, vì khéo theo thời nghi không sai một niệm.
Rốt ráo thành thục bất định chúng sanh là Bồ Tát tạng, vì làm cho nhơn tương tục không gián đoạn.
Vì tà định chúng sanh phát sanh lòng đại bi là Bồ Tát tạng, vì làm cho nhơn vị lai đều được thành tựu.
Viên mãn nhơn bất hoại nơi Phật thập lực là Bồ Tát tạng, vì đầy đủ vô đối thiện căn hàng phục ma quân.
Tối thắng vô úy đại sư tử hống là Bồ Tát tạng, vì làm cho tất cả chúng sanh đều hoan hỷ.
Ðược Phật mười tám pháp bất cộng là Bồ Tát tạng, vì trí huệ vào khắp tất cả xứ.
Biết rõ khắp tất cả chúng sanh, tất cả cõi, tất cả Pháp, tất cả Phật là Bồ Tát tạng, vì ở trong một niệm đều thấy rõ.
Nếu chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời được thiện căn vô thượng, tạng đại trí huệ bất hoại của Như Lai.
“Great enlightening beings have ten kinds of heart: a heart of dili-
gence, fulfilling all tasks; a heart of perseverance, accumulating embel-
lishing virtuous practices; a heart of great courage and strength, crushing
all armies of demons; a heart acting according to truth, extinguishing all
afflictions; a heart of nonregression, never ceasing until enlightenment is
reached; a heart of inherent purity, knowing the mind is immovable, not
having any attachments; a heart of knowledge of sentient beings, adapting
to their understandings and inclinations to emancipate them; a heart of
great kindness, compassion, joy, and equanimity, leading into the way of
enlightenment, knowing the various understandings and inclinations of
sentient beings, and saving them without using separate paths; a heart of
emptiness, signlessness, wishlessness, and nonfabrication, seeing the
characteristics of the triple world without grasping them; a heart adorned
with an indestructible supreme treasury of marks of felicity, thoroughly
invulnerable to all demons. Based on these ten, enlightening beings can
attain the supreme heart of the treasury of light of great knowledge of
buddhas.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười tâm:
Tâm tinh cần, vì tất cả việc làm đều rốt ráo.
Tâm chẳng lười, vì chứa nhóm hạnh tướng hảo phước đức.
Tâm dũng kiện lớn, vì dẹp phá tất cả ma quân.
Tâm thật hành đúng lý, vì trừ diệt tất cả phiền não.
Tâm chẳng thối chuyển, vì nhẫn đến quả Bồ đề trọn chẳng thôi dứt.
Tâm tánh thanh tịnh, vì biết tâm bất động vô trước.
Tâm biết chúng sanh, vì tùy theo chỗ hiểu biết và sở thích của họ mà làm cho được xuất ly.
Tâm đại phạm trụ khiến nhập Phật pháp, vì biết những chỗ hiểu biết và sở thích của chúng sanh, chẳng dùng thừa khác để cứu độ.
Tâm không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vì thấy tướng tam giới không chấp trước.
Tâm tướng chữ “vạn”, tạng thù thắng trang nghiêm kiên cố như kim cang, vì chúng ma đồng bằng số tất cả chúng sanh đến cũng chẳng động được một sợi lông của Bồ Tát.
Nếu Bồ Tát an trụ trong pháp này thời được tâm vô thượng đại trí quang minh tạng của Như Lai.
“Great enlightening beings have ten kinds of armor: they wear the
armor of great benevolence, rescuing all sentient beings; they wear the
armor of great compassion, enduring all suffering; they wear the armor
of great commitment, fulfilling all their tasks; they wear the armor of
dedication, eonstructing the adornments of all buddhas; they wear the
armor of virtue, benefiting all sentient beings; they wear the armor of
the ways of transcendence, liberating all eonscious beings; they wear the
armor of wisdom, destroying the darkness of affliction of all sentient
beings; they wear the armor of skill in means, generating universal roots
of goodness; they wear the armor of the firm stability and freedom from
distraction of the mind of universal knowledge, not enjoying other
vehicles; they wear the armor of single-minded certainty, free from
doubts and confusion in regard to all things. Based on these ten, en-
lightening beings can wear the supreme armor of buddhas and crush all
demon armies.
Page 1082 – The Flower Ornament Scripture
“Great enlightening beings have ten kinds of weapon: giving is a
weapon of enlightening beings, destroying all stinginess; self-control is a
weapon of enlightening beings, getting rid of all crime; impartiality is
a weapon of enlightening beings, removing all discrimination; wisdom
is a weapon of enlightening beings, dissolving all afflictions; right liveli-
hood is a weapon of enlightening beings, leading away from all wrong
livelihood; skill in means is a weapon of enlightening beings, manifesting
in all places; in general, all afflictions such as desire, wrath, and folly are
weapons of enlightening beings because they liberate sentient beings
through afflictions; birth-and-death is a weapon of enlightening beings
because they continue enlightening practices and teach sentient beings;
teaching the truth is a weapon of enlightening beings, able to break up
all clinging; all knowledge is a weapon of enlightening beings because
they do not give up the avenues of practice of enlightening beings. Based
on these ten, enlightening beings can annihilate the afflictions, bondage,
and compulsions accumulated by all sentient beings in the long night of
ignorance.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười thứ mặc giáp:
Mặc giáp đại từ, vì cứu hộ tất cả chúng sanh.
Mặc giáp đại bi, vì kham chịu tất cả sự khổ.
Mặc giáp đại nguyện, vì tất cả việc làm đều rốt ráo.
Mặc giáp hồi hướng, vì kiến lập tất cả sự trang nghiêm của Phật.
Mặc giáp phước đức, vì lợi ích tất cả chúng sanh.
Mặc giáp Ba la mật, vì độ thoát tất cả chúng sanh.
Mặc giáp trí huệ, vì dứt tối phiền não của tất cả chúng sanh.
Mặc giáp thiện xảo phương tiện, vì xuất sanh thiện căn phổ môn.
Mặc giáp nhứt thiết trí tâm kiên cố chẳng tán loạn, vì chẳng thích những thừa khác.
Mặc giáp nhứt tâm quyết định, vì nơi tất cả pháp lìa nghi hoặc.
Nếu chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời mặc mão giáp vô thượng của Như Lai, đều có thể xô dẹp tất cả quân ma. Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười thứ khí trượng:
Bố thí là khí trượng của Bồ Tát, vì dẹp phá tất cả xan lẫn.
Trì giới là khí trượng của Bồ Tát, vì vứt bỏ tất cả sự hủy phạm.
Bình đẳng là khí trượng của Bồ Tát, vì dứt trừ tất cả phân biệt.
Trí huệ là khí trượng của Bồ Tát, vì tiêu diệt tất cả phiền não.
Chánh mạng là khí trượng của Bồ Tát, vì xa rời tất cả tà mạng.
Thiện xảo phương tiện là khí trượng của Bồ Tát, vì thị hiện tất cả xứ.
Lược nói tham, sân, si tất cả phiền não là khí trượng của Bồ Tát, vì dùng môn phiền não để độ chúng sanh.
Sanh tử là khí trượng của Bồ Tát, vì chẳng dứt hạnh Bồ Tát luôn giáo hóa chúng sanh.
Nói pháp như thật là khí trượng của Bồ Tát, vì hay phá tất cả chấp trước.
Nhứt thiết trí là khí trượng của Bồ Tát, vì chẳng bỏ hạnh môn của Bồ Tát.
Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời có thể trừ diệt những phiền não kiết sử đã chứa nhóm từ lâu của tất cả chúng sanh.
“Great enlightening beings have ten kinds of head: the head of nir-
vana, as no one can see the top; the head of honor, respected by all
humans and celestials; the head of universal higher understanding, being
supreme in the universe; the head of foremost roots of goodness, honored
by the sentient beings of the three worlds; the head bearing sentient
beings, developing an indestructible crown; the head of not despising
others, in all places always respectful; the head of transcendent wisdom,
nurturing all virtuous qualities; the head of union of knowledge and skill
in means, everywhere appearing in compatible forms; the head of teach-
ing all sentient beings, taking all sentient beings as disciples; the head of
preservation of the eye of reality of buddhas, able to perpetuate the seeds
of the three treasures. Based on these ten, enlightening beings can attain
the supreme head of knowledge and wisdom of buddhas.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười đầu:
Ðầu Niết bàn, vì không ai thấy được đảnh.
Ðầu tôn kính, vì tất cả Nhơn Thiên đều kính lễ.
Ðầu thắng giải quảng đại, vì tối thắng trong Ðại Thiên thế giới.
Ðầu đệ nhứt thiện căn, vì tam giới chúng sanh đều cúng dường.
Ðầu gánh đội chúng sanh, vì thành tựu tướng nhục kế trên đảnh.
Ðầu chẳng khinh tiện người, vì ở tất cả chỗ thường là bực tôn thắng.
Ðầu Bát nhã Ba la mật, vì trưởng dưỡng tất cả pháp công đức.
Ðầu tương ưng phương tiện trí, vì hiện khắp tất cả thân đồng loại.
Ðầu giáo hóa tất cả chúng sanh, vì dùng tất cả chúng sanh làm đệ tử.
Ðầu thủ hộ pháp nhãn của chư Phật, vì làm cho Tam Bảo chủng chẳng đoạn tuyệt.
Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời, được đầu đại trí huệ vô thượng của Như Lai.
“Great enlightening beings have ten kinds of eye: the flesh eye, seeing
all forms; the celestial eye, seeing the minds of all sentient beings; the
wisdom-eye, seeing the ranges of the faculties of all sentient beings; the
reality-eye, seeing the true character of all things; the buddha-eye, seeing
the ten powers of the enlightened; the eye of knowledge, knowing and
seeing all things; the eye of light, seeing the light of Buddha; the eye of
leaving birth and death, seeing nirvana; the unobstructed eye, its vision
without hindrance; the eye of omniscience, seeing the realm of reality in
its universal aspect. Based on these ten, enlightening beings attain the eye
of supreme knowledge of buddhas.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười mắt:
Nhục nhãn, vì thấy tất cả hình sắc.
Thiên nhãn, vì thấy tâm niệm của tất cả chúng sanh.
Huệ nhãn, vì thấy những căn cảnh giới của tất cả chúng sanh.
Pháp nhãn, vì thấy tướng như thiệt của tất cả pháp.
Phật nhãn, vì thấy thập lực của Như Lai.
Trí nhãn, vì thấy biết các pháp.
Quang minh nhãn, vì thấy quang minh của đức Phật.
Xuất sanh tử nhãn, vì thấy Niết bàn.
Vô ngại nhãn, vì chỗ thấy không chướng ngại.
Nhứt thiết trí nhãn, vì thấy phổ môn pháp giới.
Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được đại trí huệ nhãn vô thượng của Như Lai.
“Great enlightening beings have ten kinds of ear: hearing the voice of
praise, they eliminate craving; hearing the voice of criticism, they elimi-
nate anger; hearing explanation of the two lesser vehicles of individual
salvation, they do not cling to or seek them; hearing of the Path of en-
lightening beings, they rejoice greatly; hearing of places of pain and
trouble, such as the hells, they arouse great compassion and make vows
Page 1083 – Detachment from the World
of universal salvation; hearing tell of the wonderful things of the human
and celestial worlds, they know they are impermanent phenomena;
hearing praise of the virtues of buddhas, they work diligently to quickly
fulfill them; hearing tell of such practices as the six ways of transcendence
and four means of integration, they determine to practice them and
reach their ultimate end; hearing all sounds of the world, they know
they are all like echoes, and penetrate untold profound meanings; great
enlightening beings, from their first determination until they reach the
site of enlightenment, always hear the true Teaching yet do not give up
the work of transforming sentient beings. These are the ten; if enlighten-
ing beings accomplish these things, they will attain the supreme ear of
great wisdom of buddhas.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười tai:
Nghe tiếng khen ngợi thời dứt trừ tâm tham ái.
Nghe tiếng hủy báng thời dứt trừ tâm hờn giận.
Nghe nói Nhị thừa thời chẳng ham chẳng cầu.
Nghe đạo Bồ Tát thời vui mừng hớn hở.
Nghe địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, những chỗ khổ nạn thời phát tâm đại bi lập thệ nguyện rộng lớn.
Nghe sự thắng diệu của thiên nhơn thời biết đó đều là những pháp vô thường.
Nghe tán thán công đức của chư Phật thời siêng tu tinh tấn cho mau được viên mãn.
Nghe nói các pháp lục độ tứ nhiếp thời phát tâm tu hành nguyện đến bĩ ngạn.
Nghe tất cả âm thanh trong thập phương thế giới, thời đều biết như vang, nhập bất khả thuyết diệu nghĩa thậm thâm.
Ðại Bồ Tát từ sơ phát tâm nhẫn đến đạo tràng thường nghe chánh pháp chưa từng tạm nghĩ, mà hằng chẳng bỏ việc giáo hóa chúng sanh.
Nếu chư Bồ Tát thành tựu pháp này thời được đại trí huệ nhĩ vô thượng của đức Như Lai.
“Great enlightening beings have ten kinds of nose; when they smell
foul things, they do not eonsider them foul; when they smell fragrances,
they do not eonsider them fragrant; when they smell bofh fragrance and
foulness, their minds are equanimous, abiding in relinquishment; if they
smell the fragrance and foulness of people’s clofhes, bedding, or bodies,
they can discern their conditions of greed, anger, and delusion; if they
smell the scents of hidden repositories, plants and trees and so on, they
can discern them as if they were right before their eyes; if they smell
scents from the hells below to the heavens above, they know the past
deeds of the beings there; if they smell the fragrance of generosity,
morality, learning, and wisdom of buddhas’ disciples, they remain steady
in the will for omniscience and do not let it be distracted; if they smell
the fragrances of all enlightening practices, they enter the state of budda-
hood by impartial wisdom; if they smell the fragrance of the sphere of
knowledge of all buddhas, they still do not give up the practices of en-
lightening beings. If enlightening beings accomplish these things, they
will acquire the infinite, boundless nose of buddhas.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười mũi:
Nghe những vật hôi, không cho đó là hôi.
Nghe những hơi thơm, không cho đó là thơm.
Thơm hôi đều nghe tâm Bồ Tát bình đẳng.
Chẳng thơm chẳng hôi thời an trụ nơi xả.
Nếu nghe y phục, ngọa cụ và thân thể của chúng sanh có hơi thơm hôi, thời biết được họ khởi lòng tham hay sân, si đẳng phần.
Nếu nghe hơi của cỏ, cây, hầm mỏ v.v… thời biết rõ tàng như đối trước mắt.
Nếu nghe mùi của chúng sanh trên đến trời Hữu Ðảnh, dưới đến địa ngục A Tỳ, thời đều biết hạnh nghiệp quá khứ của họ đã gây tạo.
Nếu nghe hơi bố thí, trì giới, đa văn, trí huệ của hàng Thanh văn thời an trụ tâm nhứt thíêt trí chẳng cho tán động.
Nếu nghe hơi của tất cả Bồ Tát hạnh, thời dùng trí huệ bình đẳng nhập Phật địa.
Nghe hơi cảnh giới trí huệ của tất cả Phật, cũng chẳng phế bỏ những hạnh Bồ Tát.
Nếu chư Bồ Tát thành tựu pháp này thời được vô lượng vô biên thanh tịnh tỷ của Như Lai.
“Great enlightening beings have ten kinds of tongue: a tongue that
reveals and explains the acts of infinite sentient beings; a tongue that re-
veals and explains infinite doors to truth; a tongue that sings the praises
of the infinite virtues of buddhas; a tongue of infinite eloquence; a tongue
that expounds aids to the Path of the Great Vehicle; a tongue that covers
all space; a tongue that illumines all buddha-fields; a tongue that awakens
the understanding of all sentient beings; a tongue that causes all to praise
the buddhas; a tongue that defeats all demons and false teachers, destroys
all afflictions of birth and death, and fosters arrival at nirvana. If enlight-
ening beings accomplish these things, they will acquire the supreme
tongue of buddhas, which covers all buddhalands.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười lưỡi:
Lưỡi khai thị diễn thuyết vô tận hạnh chúng sanh.
Lưỡi khai thị diễn thuyết vô tận pháp môn.
Lưỡi tán thán chư Phật vô tận công đức.
Lưỡi diễn xướng từ biện vô tận.
Lưỡi khai xiển đại thừa trợ đạo.
Lưỡi trùm khắp thập phương hư không.
Lưỡi chiếu khắp tất cả cõi Phật.
Lưỡi làm cho tất cả chúng sanh được tỏ ngộ.
Lưỡi đều làm cho tất cả chư Phật hoan hỷ.
Lưỡi hàng phục tất cả chúng ma ngoại đạo, diệt trừ tất cả sanh tử phiền não làm cho đến Niết bàn.
Nếu chư Bồ Tát thành tựu pháp này thời được lưỡi vô thượng trùm khắp tất cả Phật độ của đức Như Lai.
“Great enlightening beings have ten kinds of bodies: human bodies to
teach humans; nonhuman bodies to teach denizens of hells, animals, and
hungry ghosts; celestial bodies to teach the beings of the realms of desire,
form, and formlessness; learners’ bodies to demonstrate the stage of
learning; nonlearners’ bodies to demonstrate the stage of sainthood;
individual illuminates’ bodies to teach the way to enter the stage of in-
Page 1084 – The Flower Ornament Scripture
dividual enlightenment; enlightening beings’ bodies tofoster the accom-
plishment of the Great Vehicle; buddhas’ bodies, anointed by the water
of knowledge; mentally produced bodies, generated by adaptive skills;
the uncontaminated reality-body, effortlessly manifesting the bodies of
all sentient beings. If they accomplish these, they attain the supreme
body of buddhas.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười thân:
Thân người, vì giáo hoá tất cả loài người.
Thân phi nhơn, vì giáo hoá địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ.
Thân trời, vì giáo hoá chúng sanh cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô Sắc.
Thân hữu học, vì thị hiện bực hữu học.
Thân vô học, vì thị hiện bực A la hán.
Thân Duyên giác, vì giáo hoá cho được vào bực Bích Chi Phật.
Thân Bồ Tát, vì làm cho thành tựu đại thừa.
Thân Như Lai, vì trí thủy quán đảnh.
Ý sanh thân, vì thiện xảo xuất sanh.
Pháp thân vô lậu, vì dùng vô công dụng thị hiện thân tất cả chúng sanh.
Nếu chư Bồ Tát thành tựu pháp này thời được thân vô thượng của Như Lai.
“Great enlightening beings have ten kinds of mind: a mind of leader-
ship, generating all roots of goodness; a stable mind, with profound faith
steadfast and unwavering; a mind of profound penetration, understand-
ing in accord with the teachings of buddhas; a mind of insight, knowing
the mentalities of all sentient beings; an undisturbed mind, not adulterated
with any afflictions; a clear, clean mind, which externals cannot stain or
adhere to; a mind observing sentient beings well, not missing proper
timing in dealing with them; a mind choosing well what to do, never
making a mistake anywhere; a mind closely guarding the senses, taming
them and not letting them run wild; a mind skilled in entering concen-
tration, entering deeply into the concentrations of buddhas, without
egoism or selfishness. Based on these ten, enlightening beings can attain
the supreme mind of all buddhas.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười ý:
Ý thượng thủ, vì phát khởi tất cả thiện căn.
Ý an trụ, vì tin sâu kiên cố bất động.
Ý thâm nhập, vì tùy thuận Phật pháp mà hiểu.
Ý rõ biết ở trong, vì biết rõ tâm sở thích của chúng sanh.
Ý vô loạn, vì tất cả phiền não chẳng tạp.
Ý minh tịnh, vì khách trần chẳng nhiễm trước được.
Ý khéo quán sát chúng sanh, vì không có một niệm lỗi thời.
Ý khéo lựa chỗ làm, vì chưa từng có một chỗ sanh lỗi lầm.
Ý kính giữ gìn các căn, vì điều phục chẳng cho buông lung tán loạn.
Ý khéo nhập tam muội, vì thâm nhập Phật tam muội, không ngã, không ngã sở.
Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được ý vô thượng của tất cả Phật.
“Great enlightening beings have ten kinds of action: hearing the
Teaching, out of fondness for truth; expounding the Teaching, to benefit
sentient beings; getting rid of covetousness, anger, delusion, and fear, by
taming their own minds; action in the realm of desire, to teach beings in
that realm; concentrations in the realms of form and formlessness, to
foster quick return to noncontamination; aiming for the meaning of the
Teaching, to quickly attain wisdom; action in all realms of life, tofreely
edify sentient beings; action in all buddha-lands, honoring all buddhas;
mrvamc action, not cutting off the continuity of birth and death; fulfill-
ing all qualities of buddhahood, without giving up application of the
principles of enlightening beings. Based on these ten, enlightening beings
can achieve the action of buddhas that has no coming or going.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười hạnh:
Hạnh nghe chánh pháp, vì ưa thích chánh pháp.
Hạnh thuyết pháp, vì lợi ích chúng sanh.
Hạnh rời tham, sân, si, bố úy vì điều phục tự tâm.
Hạnh dục giới, vì giáo hóa chúng sanh cõi dục.
Hạnh chánh định Sắc giới, Vô Sắc giới, vì làm cho họ mau xoay trở lại.
Hạnh xu hướng pháp nghĩa, vì mau được trí huệ.
Hạnh thọ sanh tất cả xứ, vì tự tại giáo hoá chúng sanh.
Hạnh tất cả cõi Phật, vì lễ bái cúng dường chư Phật.
Hạnh Niết bàn, vì chẳng dứt sanh tử tiếp nối.
Hạnh thành tựu viên mãn tất cả Phật pháp, vì chẳng bỏ pháp hạnh của Bồ Tát.
Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được hạnh vô lai vô khứ của đức Như Lai.
“Great enlightening beings have ten kinds of abiding: abiding in the
will for enlightenment, never forgetting it; abiding in the transcendent
ways, not tiring of fostering enlightenment; abiding in the teaching of
truth, increasing wisdom; abiding in dispassion, realizing great medita-
tional concentration; abiding in conformity to universal knowledge,
austerity, contentment, moderation in food, clofhing, and dwelling, and
getting rid of evil, because few desires means few concerns; abiding in
deep faith, bearing the true Teaching; abiding in the company of the en-
lightened, to learn the conduct of buddhas; abiding in generation of
spiritual powers, tofulfill great knowledge; abiding in attainment of
acceptance, fulfilling the forecast of enlightenment; abiding in the site
of enlightenment, fulfilling power, fearlessness, and all aspects of bud-
dhahood. Based on these ten, enlightening beings can reach the buddhas’
supreme abiding in omniscience.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười chỗ an trụ:
An trụ tâm Bồ đề, vì chưa từng quên mất.
An trụ Ba la mật, vì chẳng nhàm trợ đạo.
An trụ thuyết pháp, vì tăng trưởng trí huệ.
An trụ A lan nhã, vì chứng đại thiền định.
An trụ tùy thuận nhứt thiết trí đầu đà tri túc tứ thánh chủng, vì thiểu dục thiểu sự.
An trụ thâm tín, vì gánh vác chánh pháp.
An trụ thân cận đức Như Lai, vì học Phật oai nghi.
An trụ xuất sanh thần thông, vì viên mãn đại trí.
An trụ đắc nhẫn, vì viên mãn thọ ký.
An trụ đạo tràng, vì đầy đủ Thập Lực, vô úy và tất cả Phật pháp.
Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được an trụ nhứt thiết trí vô thượng.
“Great enlightening beings have ten kinds of sitting: the sitting of
Page 1085 – Detachment from the World
universal monarehs, promofing all virtuous behavior; the sitting of
guardian deities, independently establishing the Buddha teaching in all
worlds; the sitting oflndra, king of gods, being superior lords of all sen-
tient beings; the sitting of Brahma, being in control of their own and
others’ minds; the sitting of lions, being able to expound the truth; the
sitting of right teaching, holding forth by means of mental command
and intellectual powers; steadfast sitting, vowing to reach the ultimate
end; the sitting of great benevolence, bringing happiness to all evil sen-
tient beings; the sitting of great compassion, tirelessly enduring all pains;
adamantine sitting, conquering demons and false teachers. Based on
these, enlightening beings can attain the buddhas’ supreme sitting of true
awareness.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười chỗ ngồi:
Chỗ ngồi Chuyển Luân Vương, vì phát khởi mười thiện đạo.
Chỗ ngồi Tứ Thiên Vương, vì tất cả thế gian tự tại an lập Phật pháp.
Chỗ ngồi Ðế Thích, vì làm thắng chủ cho tất cả chúng sanh.
Chỗ ngồi Phạm Vương, vì ở người và mình tâm đều được tự tại.
Chỗ ngồi sư tử, vì hay thuyết pháp.
Chỗ ngồi chánh pháp, vì dùng sức tổng trì biện tài mà khai thị.
Chỗ ngồi kiên cố, vì thệ nguyện rốt ráo.
Chỗ ngồi đại từ, vì làm cho ác chúng sanh đều vui mừng.
Chỗ ngồi đại bi, vì nhẫn chịu tất cả khổ chẳng mỏi nhàm.
Chỗ ngồi kim cang, vì hàng phục ma quân và ngoại đạo.
Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được chỗ ngồi chánh giác vô thượng của đức Như Lai.
“Great enlightening beings have ten kinds of reclining: the reclining
of silent tranquillity, because of practicing in accord with principle; the
reclining of concentration, because of body and mind being supple; the
reclining of Brahma, because of not disturbing self or others; the reclin-
ing of good works, because of having no regrets afterward; the reclining
of true faith, because of being unshakable; the reclining of the right Path,
because of awakening by good companions; the reclining of sublime
aspirations, because of skillful dedication; the reclining of completion of
all tasks, because of having accomplished all that is to be done; the re-
clining of relinquishment of all effort, because of thorough training.
Based on these enlightening beings can attain the supreme reclining of
the great teaching of buddhas and be able to awaken all sentient beings.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười chỗ nằm:
Chỗ nằm tịch tịnh, vì thân tâm yên lặng.
Chỗ nằm thiền định, vì tu hành đúng lý.
Chỗ nằm tam muội, vì thân tâm nhu nhuyến.
Chỗ nằm Phạm Thiên, vì chẳng não hại mình và người.
Chỗ nằm thiện nghiệp, vì chẳng bị khuynh động.
Chỗ nằm chánh đạo, vì thiện hữu khai giác.
Chỗ nằm diệu nguyện, vì thiện xảo hồi hướng.
Chỗ nằm tất cả việc đều xong, vì việc làm đều hoàn mãn.
Chỗ nằm bỏ những công dụng, vì tất cả đều quen thuộc.
Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được chỗ nằm đại pháp vô thượng của Như Lai đều có thể khai ngộ tất cả chúng sanh.
“Great enlightening beings have ten kinds of abode: the abode of
great goodwill, being impartial toward all sentient beings; the abode
of great compassion, not slighting the uncultivated; the abode of great
joy, aloof from all vexations; the abode of great equanimity, regarding
the created and uncreated equally; the abode of all transcendent ways,
being led by the aspiration for enlightenment; the abode of universal
emptiness, by virtue of skillful analysis; the abode of signlessness, not
leaving the absolute state; the abode of wishlessness, examining the
experience of taking on life; the abode of recollection and awareness, by
virtue of full development of recognition of truth; the abode of equality
of all things, by virtue of having gained the prediction of buddhahood.
Based on these ten, enlightening beings can reach the supreme abode of
buddhas where there is no obstruction.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười chỗ sở trụ:
Dùng đại từ làm chỗ sở trụ, vì tâm bình đẳng với tất cả chúng sanh.
Dùng đại bi làm chỗ sở trụ, vì chẳng khinh người chưa học.
Dùng đại hỷ làm chỗ sở trụ, vì rời tất cả ưu não.
Dùng đại xả làm chỗ sở trụ, vì nơi hữu vi vô vi đều bình đẳng.
Dùng tất cả Ba la mật làm chỗ sở trụ, vì Bồ đề tâm làm đầu.
Dùng nhứt thiết không để làm chỗ sở trụ, vì thiện xảo quan sát.
Dùng vô tướng làm chỗ sở trụ, vì chẳng ra khỏi chánh vị.
Dùng vô nguyện làm chỗ sở trụ, vì quán sát thọ sanh.
Dùng niệm huệ làm chỗ sở trụ, vì nhẫn pháp thành tựu viên mãn.
Dùng tất cả pháp bình đẳng làm chỗ sở trụ, vì được thọ ký.
Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được chỗ sở trụ vô ngại vô thượng của Như Lai.
“Great enlightening beings have ten kinds of sphere of action: they
take right mindfulness as their sphere of action, as they fulfill the points
of mindfulness; they take all realms of being as their sphere of action, as
they become truly aware of the implications of the Teaching; they take
wisdom as their sphere of action, gaining the joy of buddhas; they take
the transcendent ways as their sphere of action, as they fulfill omni-
science; they take the four integrative practices as their sphere of action,
as they educate sentient beings; they take birth and death as their sphere
of action, as they accumulate roots of goodness; they take bantering with
Page 1086 – The Flower Ornament Scripture
all sentient beings as their sphere of action, as they teach them according
to their needs and cause them to become free; they take spiritual powers
as their sphere of action, as they know the realms of the senses of all sen-
tient beings; they take skill in means as their sphere of action, uniting
them with transcendent wisdom; they take the site of enlightenment as
their sphere of action, as they attain universal knowledge, without stop-
ping the practices of enlightening beings. Based on these ten, enlighten-
ing beings can reach the supreme sphere of action of great wisdom of
buddhas.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười chỗ sở hành:
Dùng chánh niệm làm chỗ sở hành, vì đầy đủ niệm xứ.
Dùng những xu hướng làm chỗ sở hành, vì xu hướng pháp Chánh giác.
Dùng trí huệ làm chỗ sở hành, vì được Phật hoan hỷ.
Dùng Ba la mật làm chỗ sở hành, vì đầy đủ Nhứt thiết chủng trí.
Dùng tứ nhiếp làm chỗ sở hành, vì giáo hóa chúng sanh.
Dùng sanh tử làm chỗ sở hành, vì chứa nhóm thiện căn.
Dùng sự nói chuyện đùa tạp với chúng sanh làm chỗ sở hành, vì tùy nghi giáo hóa xa lìa hẳn.
Dùng thần thông làm chỗ sở hành, vì biết cảnh giới các căn của tất cả chúng sanh.
Dùng thiện xảo phương tiện làm chỗ sở hành, vì tương ưng Bát nhã Ba la mật.
Dùng đạo tràng làm chỗ sở hành, vì thành Nhứt thiết trí mà chẳng dứt hạnh Bồ Tát.
Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được chỗ sở hành đại trí huệ vô thượng của đức Như Lai.
“Great enlightening beings have ten kinds of observation: observation
knowing all acts, seeing all details; observation knowing various ten-
dencies, not grasping sentient beings; observation knowing faculties,
comprehending the nonexistence of faculties; observation knowing phe-
nomena, not violating the realm of reality; observation seeing the veri-
ties of buddhahood, cultivating the enlightened eye; observation attaining
wisdom, explaining things as they really are; observation accepting the
nonorigination of things, definitely comprehending the teaching of
Buddha; observation in the state of nonregression, destroying all afflic-
tions and transcending the three worlds and the stages of the lesser
vehicles; observation in the stage of coronation, by virtue of unshakable
mastery of all Buddha teachings; observation in concentration with
hypereonscious knowledge, practicing charity everywhere as Buddhist
service. Based on these ten, enlightening beings can attain the supremely
great observational knowledge of buddhas.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười thứ quán sát:
Biết các nghiệp quán sát, vì vi tế đều thấy.
Biết các loài quán sát, vì chẳng chấp chúng sanh.
Biết các căn quán sát, vì rõ thấu các căn.
Biết các pháp quán sát, vì chẳng hoại pháp giới.
Thấy Phật pháp quán sát, vì siêng tu Phật nhãn.
Ðược trí huệ quán sát, vì thuyết pháp đúng lý.
Vô sanh nhẫn quán sát, vì quyết rõ Phật pháp.
Bất thối địa quán sát vì diệt phiền não vượt khỏi tam giới Nhị thừa địa.
Quán đảnh địa quán sát, nơi tất cả Phật pháp được tự tại bất động.
Thiện giác trí tam muội quán sát, vì ra làm Phật sự khắp mười phương.
Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được trí đại quán sát vô thượng của Như Lai.
“Great enlightening beings have ten kinds of universal observation:
they observe all who come seeking of them, satisfying them without
aversion; they observe all immoral sentient beings and establish them in
the pure precepts of buddhas; they observe all malicious sentient beings
and settle them in the power of enlightened tolerance; they observe all
lazy sentient beings and urge them to be diligent and not give up bearing
the burden of the Great Vehicle; they observe all confused sentient
beings and get them to abide in the state of universal knowledge of
buddhas, where there is no distraction; they observe all deluded sentient
beings and clear away their doubts and break down reification; they
observe all impartial good friends and follow their instructions to live by
the Buddha teachings; they observe all principles they hear and quickly
attain realizational insight into the supreme meaning; they observe the
infinite sentient beings, never abandoning the power of great compas-
sion; they observe the teachings of all buddhas and quickly manage
to accomplish universal knowledge. Based on these ten, enlightening
beings can attain the universal observation of supreme wisdom of
buddh as.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười môn phổ quán sát:
Phổ quán sát tất cả những kẻ đến cầu xin, vì dùng tâm không trái nghịch để làm thỏa mãn ý của họ.
Phổ quán sát tất cả những chúng sanh phạm giới, vì an trí họ trong giới thanh tịnh của đức Như Lai.
Phổ quán sát tất cả những chúng sanh có tâm tổn hại, vì an trí họ trong nhẫn lực của đức Như Lai.
Phổ quán sát tất cả những chúng sanh giải đãi, vì khuyên họ tinh cần chẳng bỏ gánh lấy gánh Ðại thừa.
Phổ quán sát tất cả chúng sanh loạn tâm, vì làm cho họ an trụ nhứt thiết trí địa không tán động của đức Như Lai.
Phổ quán sát tất cả những chúng sanh ác huệ, vì làm cho họ trừ nghi hoặc phá kiến chấp hữu lậu.
Phổ quán sát tất cả những thiện hữu bình đẳng, vì thuận giáo mạng của thiện hữu mà an trụ trong Phật pháp.
Phổ quán sát tất cả pháp đã được nghe, vì mau được chứng thấy nghĩa tối thượng.
Phổ quán sát tất cả chúng sanh vô biên, vì thường chẳng bỏ rời sức đại bi.
Phổ quán sát tất cả Phật pháp, vì mau được thành tựu Nhứt thiết trí.
Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được đại trí huệ phổ quán sát vô thượng của đức Như Lai.
“Great enlightening beings have ten kinds of springing: the springing
of a majestic bull, overshadowing all dragons, yakshas, kinnaras, gand-
harvas, and other creatures; the springing of a majestic elephant, their
minds well tamed and gentle, carrying all sentient beings; the springing
Page 1087 – Detachment from the World
of a great water spirit, producing dense clouds of the great Teaching,
flashing the lightning of liberation, reverberating with the thunder of
truth, and showering the sweet rain of the spiritual faculties and powers,
the elements of enlightenment, meditations, liberations, and concentra-
tions; the springing of the great golden-winged bird, evaporating the
water of covetousness, breaking the shell of delusion, catching the evil
poisonous dragons of affliction, and lifting beings out of the ocean of
suffering of birth and death; the springing of a great majestic lion, resting
secure in fearless, impartial great knowledge and, using that as a weapon,
crushing demons and false teachers; the springing of courage and strength,
able to destroy the enemy, afflictions, on the great battlefront of birth
and death; the springing of great knowledge, knowing the elements of
body, mind, and sense experience, as well as all other interdependent
productions, and freely explaining all things; the springing of mental
command, retaining teachings by the power of recollection and aware-
ness, and expounding them according to the faculties of sentient beings;
the springing of intellectual powers, uninhibited and swift, analyzing
everything and causing everyone to receive benefit and be happy; the
springing of realization of Thusness, fulfilling all aids to the way to
omniscience, and with instantaneous wisdom attaining all that can be
attained, understanding all that can be understood, sitting on a lion
throne, conquering hostile demons, and realizing unexcelled, complete
perfect enlightenment. Based on these ten, enlightening beings can
achieve the supreme springing of buddhas in the midst of all things.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười điều phấn tấn:
Ngưu Vương phấn tấn, vì che chói tất cả đại chúng Thiên, Long, Bát Bộ v.v…
Tượng Vương phấn tấn, vì tâm khéo điều nhu gánh vác tất cả những chúng sanh.
Long Vương phấn tấn, vì nổi mây dầy đại pháp, chiếu điển quang giải thoát, chấn sấm nghĩa như thật, rưới mưa cam lồ căn, lực, giác phần, thiền định, giải thoát, tam muội.
Ðại Kim Sí Ðiểu Vương phấn tấn, vì cạn nước tham ái, phá vỏ ngu si, chụp bắt những ác độc long phiền não, khiến ra khỏi biển khổ lớn sanh tử.
Ðại Sư Tử Vương phấn tấn, vì an trụ đại trí vô úy, bình đẳng dùng làm khí trượng, xô dẹp chúng ma và ngoại đạo.
Dũng kiện phấn tấn, vì có thể ở trong chiến trận lớn sanh tử, xô diệt tất cả phiền não oan thù.
Ðại Trí phấn tấn, vì biết uẩn, xứ, giới và các duyên khởi tự tại khai thị tất cả pháp.
Ðà La Ni phấn tấn, dùng sức niệm huệ thọ trì chánh pháp chẳng quên, tùy theo căn của chúng sanh mà vì họ tuyên thuyết.
Biện tài phấn tấn, vì vô ngại mau chóng phân biệt tất cả, đều làm cho được lợi ích tâm hoan hỷ.
Như Lai phấn tấn, vì nhứt thiết chủng trí những pháp trợ đạo đều thành tựu viên mãn, dùng một niệm tương ưng huệ, những chỗ đáng được tất cả đều được, những chỗ đáng ngộ tất cả đều ngộ; ngồi tòa sư tử, hàng ma oán địch thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Nếu chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời được nơi tất cả pháp phấn tấn tự tại vô thượng của chư Phật.
“Great enlightening beings have ten kinds of lion’s roar. They de-
clare, ‘I will surely attain true enlightenment’ — this is the great lion’s
roar of the determination for enlightenment. ‘I will enable those who
have not yet transcended the world to transcend, liberate those who are
not yet liberated, pacify those who are not yet at peace, and enable those
who have not attained nirvana to attain it’ — this is the great lion’s roar of
great compassion. ‘I will perpetuate the seeds of the Buddha, the Teach-
ing, and the harmonious Community’ — this is the great lion’s roar of
requiting the benevolence of the Buddha. ‘I will purify all buddha-
lands’ — this is the great lion’s roar of ultimately firm commitment. ‘I
will get rid of all evil ways and difficult situations’ — this is the lion’s roar
of personally maintaining pure conduct. ‘I will fully attain the adorning
features of body, speech, and mind of all buddhas’ — this is the great
lion’s roar of tirelessly seeking virtue. ‘I will fully accomplish the knowl-
edge of all buddhas’ — this is the great lion’s roar of tirelessly seeking
knowledge. ‘I will annihilate all demons and all the works of demons’ —
this is the great lion’s roar of cultivating right practice to stop afflictions.
‘I will realize that all things are selfless, without being, without life,
without personality, empty, signless, wishless, and pure as space’ — this is
the great lion’s roar of the acceptance of the nonorigination of all things.
Enlightening beings in their last life shake all buddha-lands and make
them all pure: thereupon all the Indras, Brahmas, and guardian deities
Page 1088 – The Flower Ornament Scripture
come and praise them and entreat them, ‘Please, enlightening being,
with the truth of birthlessness, appear to be born.’ The enlightening
beings then observe all sentient beings in the world by the unobstructed
eye of wisdom and see that there are none who compare to themselves —
so they appear to be born in royal palaces, walk seven steps by them-
selves, and declare in a great lion’s roar, ‘I am supreme in the world — I
will forever end the realm of birth and death.’ This is the great lion’s roar
of doing what one says. Based on these ten, enlightening beings can
attain the supremely great lion’s roar of buddhas.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười sư tử hống:
Ðại Bồ Tát xướng rằng:
Tôi sẽ quyết định thành Ðẳng Chánh Giác. Ðây là đại bồ đề tâm đại sư tử hống.
Tôi sẽ làm cho tất cả chúng sanh, người chưa được độ thời được độ, người chưa giải thoát được giải thoát, người chưa an được an, người chưa Niết bàn được chứng Niết bàn. Ðây là đại bi sư tử hống.
Tôi sẽ làm cho chủng tánh của Tam Bảo Phật, Pháp và Tăng không đoạn tuyệt. Ðây là báo đáp ơn Như Lai đại sư tử hống.
Tôi sẽ nghiêm tịnh tất cả cõi Phật. Ðây là thệ nguyện rốt ráo kiên cố đại sư tử hống.
Tôi sẽ trừ diệt tất cả ác đạo và các nạn xứ. Ðây là tự trì tịnh giới đại sư tử hống.
Tôi sẽ đầy đủ thân, ngữ, ý tướng hảo trang nghiêm của chư Phật. Ðây là cầu phước không nhàm đại sư tử hống.
Tôi sẽ thành tựu viên mãn những trí huệ của tất cả chư Phật. Ðây là cầu trí không nhàm đại sư tử hống.
Tôi sẽ trừ diệt tất cả chúng ma và những nghiệp ma. Ðây là tu chánh hạnh dứt các phiền não đại sư tử hống.
Tôi sẽ rõ biết tất cả pháp không ngã, không chúng sanh, không thọ mạng, không bổ đặc già la, trống không, vô tướng, vô nguyện, sạch như hư không. Ðây là vô sanh pháp nhẫn đại sư tử hống.
Tối hậu sanh Bồ Tát chấn động tất cả Phật độ đều làm cho trang nghiêm thanh tịnh. Bấy giờ tất cả Ðế Thích, Phạm Vương, Tứ Thiên Vương đều đến tán thán khuyến thỉnh: “Ngưỡng mong Bồ Tát dùng pháp vô sanh mà thị hiện thọ sanh”. Bồ Tát liền dùng huệ nhãn vô ngại quán sát khắp thế gian tất cả chúng sanh không ai bằng ta. Liền thị hiện đản sanh ở vương cung tự đi bảy bước đại sư tử hống: Ta là tối thắng đệ nhứt ở thế gian. Ta sẽ hết hẳn biên tế sanh tử. Ðây là như thuyết mà làm đại sư tử hống.
Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được đại sư tử hống của Như Lai.
Hán Bộ Quyển Thứ 58
“Great enlightening beings have ten kinds of pure giving: impartial
giving, not discriminating among sentient beings; giving according to
wishes, satisfying others; unconfused giving, causing benefit to be gained;
giving appropriately, knowing superior, mediocre, and inferior; giving
without dwelling, not seeking reward; open giving, without clinging
attachment; tofal giving, being ultimately pure; giving dedicated to
enlightenment, transcending the created and the uncreated; giving to
teach sentient beings, never abandoning them, even to the site of enlight-
enment; giving with its three spheres pure, observing the giver, receiver,
and gift with right awareness, as being like space. Based on these ten
principles, enlightening beings can accomplish the supreme, pure, mag-
nanimous giving of buddhas.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười pháp thanh tịnh thí:
Bình đẳng bố thí, vì chẳng lựa chúng sanh.
Tùy ý bố thí, vì thoả mãn chỗ nguyện cầu.
Chẳng loạn bố thí, vì làm cho được lợi ích.
Tùy nghi bố thí, vì biết thượng trung hạ.
Chẳng trụ bố thí, vì chẳng cầu quả báo.
Mở rộng xả thí, vì tâm chẳng luyến tiếc.
Tất cả bố thí, vì rốt ráo thanh tịnh.
Hồi hướng bồ đề thí, vì xa rời hữu vi vô vi.
Giáo hoá chúng sanh bố thí, vì nhẫn đến đạo tràng chẳng bỏ.
Tam luân thanh tịnh bố thí, vì chánh niệm quán sát người thí, kẻ thọ và vật thí như hư không.
Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được bố thí quảng đại thanh tịnh vô thượng của Như Lai.
“Great enlightening beings have ten kinds of pure discipline: pure dis-
cipline of body, guarding themselves from evil deeds; pure discipline of
speech, getting rid of faults of speech; pure discipline of mind, forever
getting rid of greed, hatred, and false views; the pure discipline of not
destroying any subjects of study, being honorable leaders among people;
the pure discipline of preserving the aspiration for enlightenment, not
liking the lesser vehicles of individual salvation; the pure discipline of
preserving the regulations of the Buddha, greatly fearing even minor
offenses; the pure discipline of secret protection, skillfully drawing out
undisciplined sentient beings; the pure discipline of not doing any evil,
vowing to practice all virtuous principles; the pure discipline of detach-
ment from all views of existence, having no attachment to precepts; the
pure discipline of profecting all sentient beings, activating great com-
passion. Based on these ten principles, enlightening beings can attain the
supreme flawless pure discipline of buddhas.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười thanh tịnh giới:
Thân thanh tịnh giới, vì giữ gìn ba điều ác nơi thân.
Ngữ thanh tịnh giới, vì xa lìa bốn lỗi nơi lời nói.
Tâm thanh tịnh giới, vì xa lìa tham, sân, tà kiến.
Thanh tịnh giới chẳng phá tất cả học xứ, vì làm tôn chủ ở trong tất cả nhơn thiên.
Thanh tịnh giới thủ hộ tâm Bồ đề, vì chẳng thích Tiểu thừa.
Thanh tịnh giới giữ gìn điều chế của đức Như Lai, vì nhẫn đến tội vi tế cũng sanh lòng rất e sợ.
Thanh tịnh giới ẩn mật hộ trì, vì khéo cứu chúng sanh phạm giới.
Thanh tịnh giới chẳng làm tất cả điều ác, vì thệ tu tất cả pháp lành.
Thanh tịnh giới xa lìa tất cả kiến chấp hữu lậu, vì không chấp nơi giới.
Thanh tịnh giới thủ hộ tất cả chúng sanh, vì phát khởi đại bi.
Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được thanh tịnh giới vô thượng không lỗi lầm của đức Như Lai.
“Great enlightening beings have ten kinds of pure tolerance: pure
tolerance calmly enduring slander and vilification, to profect sentient
beings; pure tolerance calmly enduring weapons, to profect self and
others; pure tolerance not arousing anger and viciousness, the mind
being unshakable; pure tolerance not attacking the low, being mag-
nanimous when above; pure tolerance saving all who come for refuge,
giving up one’s own life; pure tolerance free from conceit, not slighting
the uncultivated; pure tolerance not becoming angered at injury, because
of observation of illusoriness; pure tolerance not revenging offenses,
because of not seeing self and other; pure tolerance not following afflic-
Page 1089 – Detachment from the World
tions, being detached from all objects; pure tolerance knowing all things
have no origin, in accord with the true knowledge of enlightening
beings, entering the realm of universal knowledge without depending
on the instruction of another. Based on these ten, enlightening beings can
attain all buddhas’ supreme tolerance of truth, understanding without
depending on another.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười thanh tịnh nhẫn:
Thanh tịnh nhẫn an thọ sự mắng nhục, vì thủ hộ các chúng sanh.
Thanh tịnh nhẫn an thọ dao gậy, vì khéo hộ trì mình và người.
Thanh tịnh nhẫn chẳng sanh giận hại, vì nơi tâm chẳng động.
Thanh tịnh nhẫn chẳng trách kẻ ti tiện, vì người trên hay rộng lượng.
Thanh tịnh nhẫn có ai về nương đều cứu độ, vì xả bỏ thân mạng mình.
Thanh tịnh nhẫn xa lìa ngã mạn, vì chẳng khinh kẻ chưa học.
Thanh tịnh nhẫn bị tàn hại hủy báng chẳng sân, vì quán sát như huyễn.
Thanh tịnh nhẫn bị hại không báo oán, vì chẳng thấy mình và người.
Thanh tịnh nhẫn chẳng theo phiền não, vì lìa những cảnh giới.
Thanh tịnh nhẫn tùy thuận chơn thiệt trí của Bồ Tát biết tất cả vô sanh, vì chẳng do người dạy mà được nhập cảnh Nhứt thiết trí.
Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được pháp nhẫn vô thượng chẳng do tha ngộ của tất cả chư Phật.
“Great enlightening beings have ten kinds of pure energy: pure phys-
ical energy, to attend buddhas, enlightening beings, teachers, and elders,
honoring fields of blessings, never retreating; pure verbal energy, exten-
sively explaining to others whatever teachings they learn and praising
the virtues of buddhahood, without wearying; pure mental energy, able
to enter and exit kindness, compassion, joy, equanimity, meditations,
liberations, and concentrations, without cease; pure energy of honesty,
being free from deceptiveness, flattery, deviousness, and dishonesty, not
regressing in any of their efforts; pure energy of determination on in-
creasing progress, always intent on seeking higher and higher knowl-
edge, aspiring to embody all good and pure qualities; unwasteful pure
energy, embodying charity, morality, tolerance, learning, and diligence,
continuing unceasingly until enlightenment; pure energy conquering all
demons, able to extirpate greed, hatred, delusion, false views, and all
other bonds and veils of affliction; pure energy fully developing the light
of knowledge, being carefully observant in all actions, eonsummating
them all, preventing later regret, and attaining all the unique qualities
of buddhahood; pure energy without coming or going, attaining true
knowledge, entering the door of the realm of reality, body, speech, and
mind all impartial, understanding forms are formless and having no
attachments; pure energy developing the light of the Teaching, tran-
scending all stages and attaining the coronation of buddhas, and with
an uncontaminated body manifesting the appearances of death and birth,
of leaving home and attaining enlightenment, of teaching and passing
away, fulfilling such tasks of Universal Good. Based on these ten, en-
lightening beings can attain the supreme great energy of buddhas.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười pháp tinh tấn thanh tịnh:
Thân thanh tịnh tinh tấn, vì thừa sự cúng dường chư Phật, Bồ Tát và các sư trưởng, tôn trọng phước điền chẳng thối chuyển.
Ngữ thanh tịnh tinh tấn, vì pháp đã nghe rộng vì người mà diễn thuyết, tán thán công đức của chư Phật không mỏi mệt.
Ý thanh tịnh tinh tấn, vì khéo có thể nhập xuất từ, bi, hỷ, xả, thiền định, giải thoát và các tam muội không thôi nghỉ.
Tâm chánh trực thanh tịnh tinh tấn, vì không dối, không dua bợ, không vạy vò, không hư giả tất cả siêng tu không thối chuyển.
Tâm tăng thắng thanh tịnh tinh tấn, vì thường xu cầu thượng thượng trí huệ nguyện đủ tất cả pháp bạch tịnh.
Thanh tịnh tinh tấn chẳng luống bỏ vì nhiếp lấy bố thí, giới, nhẫn, đa văn và bất phóng dật nhẫn đến Bồ đề không nghỉ giữa chừng.
Dẹp phục tất cả ma thanh tịnh tinh tấn, vì đều có thể trừ diệt tham dục, sân hận, ngu si, tà kiến, tất cả phiền não, những cái triền.
Thành tựu viên mãn trí huệ quang minh thanh tịnh tinh tấn, có làm việc chi đều khéo quán sát, đều khiến rốt ráo chẳng cho ăn năn về sau, được Phật bất cộng pháp.
Vô lai vô khứ thanh tịnh tinh tấn, vì được trí như thiệt nhập môn pháp giới, thân ngữ và tâm thảy đều bình đẳng, rõ tướng tức là phi tướng không chấp trước.
Thành tựu pháp quang thanh tịnh tinh tấn, vì vượt quá các địa được Phật quán đảnh, dùng thân vô lậu mà thị hiện mất, thọ, sanh, xuất gia, thành đạo, thuyết pháp, diệt độ, đầy đủ sự Phổ Hiền như vậy.
Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này, thời được đại thanh tịnh tinh tấn vô thượng của Như Lai.
“Great enlightening beings have ten kinds of pure meditation: pure
meditation always gladly leaving home, giving up all possessions; pure
meditation finding genuine good companions, to teach the right way;
pure meditation living in the forest enduring wind and rain and so on,
being detached from self and possessions; pure meditation leaving clam-
orous sentient beings, always enjoying tranquil silence; pure meditation
with harmonious mental activity, guarding the senses; pure meditation
with mind and cognition silent, impervious to all sounds and nettles of
meditational concentration; pure meditation aware of the methods of the
Path of enlightenment, contemplating them all and actually realizing
them; pure meditation detached from clinging to its experiences, neither
grasping nor rejecting the realm of desire; pure meditation awakening
psychic knowledge, knowing the faculties and natures of all sentient
beings; pure meditation with freedom of action, entering into the con-
Page 1090 – The Flower Ornament Scripture
centration of buddhas and knowing there is no self. Based on these ten,
enlightening beings can attain the supreme pure meditation of buddhas.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười thanh tịnh thiền:
Thanh tịnh thiền, thường thích xuất gia, vì rời bỏ tất cả sở hữu.
Thanh tịnh thiền, được chơn thiện hữu, vì chỉ dạy chánh đạo.
Thanh tịnh thiền, ở a lan nhã nhẫn chịu mưa gió, vì lìa ngã và ngã sở.
Thanh tịnh thiền, lìa chúng sanh ồn náo, vì thường thích tịch tịnh.
Thanh tịnh thiền, tâm nghiệp điều nhu, vì thủ hộ các căn.
Thanh tịnh thiền, tâm trí tịch diệt, vì tất cả âm thanh những chướng thiền định chẳng thể làm loạn.
Thanh tịnh thiền, giác đạo phương tiện, vì quán sát tất cả đều hiện chứng.
Thanh tịnh thiền, rời tham đắm, vì chẳng bỏ cõi dục.
Thanh tịnh thiền, phát khởi thông minh, vì biết tất cả căn tánh chúng sanh.
Thanh tịnh thiền, tự tại du hý, vì nhập Phật tam muội biết vô ngã.
Nếu chư Bồ Tát an trụ trong đây thời được đại thanh tịnh thiền vô thượng của Như Lai.
“Great enlightening beings have ten kinds of pure wisdom: pure
wisdom knowing all causes, not denying eonsequences; pure wisdom
knowing all conditions, not ignoring combination; pure wisdom know-
ing nonannihilation and nonpermanence, comprehending interde-
pendent origination truly; pure wisdom extracting all views, neither
grasping nor rejecting characteristics of sentient beings; pure wisdom
observing the mental activities of all sentient beings, knowing they are
illusory; pure wisdom with vast intellectual power, distinguishing all
truths and being unhindered in dialogue; pure wisdom unknowable to
demons, false teachers, or followers of the vehicles of individual salva-
tion, deeply penetrating the knowledge of all buddhas; pure wisdom
seeing the subtle reality body of all buddhas, seeing the essential purity of
all sentient beings, seeing that all phenomena are quiescent, and seeing
that all lands are the same as space, knowing all characteristics without
impediment; pure wisdom with all powers of mental command, analytic
abilities, liberative means, and ways of transcendence, fostering the at-
tainment of all supreme knowledge; pure wisdom instantly uniting with
adamantine knowledge comprehending the equality of all things, at-
taining the most honorable knowledge of all things. Based on these ten,
enlightening beings can attain the unobstructed great wisdom of
buddhas.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười thanh tịnh huệ:
Thanh tịnh huệ, biết tất cả nhơn, vì chẳng hoại quả báo.
Thanh tịnh huệ, biết tất cả duyên vì chẳng trái hòa hiệp.
Thanh tịnh huệ, biết chẳng đoạn chẳng thường, vì rõ thấu duyên khởi đều như thiệt.
Thanh tịnh huệ, trừ tất cả kiến chấp, vì không thủ xả nơi tướng chúng sanh.
Thanh tịnh huệ, quán tâm hành của tất cả chúng sanh, vì biết rõ như huyễn.
Thanh tịnh huệ, biện tài quảng đại, vì phân biệt các pháp vấn đáp vô ngại.
Thanh tịnh huệ, tất cả ma, ngoại đạo, Thanh Văn, Duyên Giác, chẳng biết được, vì thâm nhập Như Lai trí.
Thanh tịnh huệ, thấy pháp thân vi diệu của Phật, thấy bổn tánh thanh tịnh của tất cả chúng sanh, thấy tất cả pháp đều tịch diệt, thấy tất cả cõi đồng như hư không, vì biết tất cả tướng đều vô ngại.
Thanh tịnh huệ, tất cả tổng trì, biện tài, phương tiện đều đến bĩ ngạn, vì làm cho được nhứt thiết trí tối thắng.
Thanh tịnh huệ, nhứt niệm tương ưng kim cang trí, rõ tất cả pháp bình đẳng, vì được nhứt thiết pháp tối tôn trí.
Nếu chư Bồ Tát an trụ trong đây, thời được đại trí huệ vô ngại của Như Lai.
“Great enlightening beings have ten kinds of pure benevolence: im-
partial pure benevolence, caring for all sentient beings without discrimi-
nation; helpful pure benevolence, bringing happiness by whatever they
do; pure benevolence taking care of people in the same way as oneself,
ultimately bringing about emancipation from birth and death; pure
benevolence not abandoning the world, the mind always focused on
accumulating roots of goodness; pure benevolence able to bring libera-
tion, causing all sentient beings to annihilate all afflictions; pure benevo-
lence generating enlightenment, inspiring all sentient beings to seek
omniscience; pure benevolence unobstructed by the world, radiating
great light illuminating everywhere equally; pure benevolence filling
space, reaching everywhere to save sentient beings; pure benevolence
focused on truth, realizing the truth of Thusness; pure benevolence
without object, entering enlightening beings’ detachment from life.
Based on these ten, enlightening beings can attain the supreme, vast, pure
benevolence of buddhas.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười thanh tịnh từ:
Thanh tịnh từ, tâm bình đẳng, vì nhiếp khắp chúng sanh không lựa chọn.
Thanh tịnh từ, lợi ích, vì tùy có chỗ làm đều làm cho hoan hỷ.
Thanh tịnh từ, nhiếp người đồng như mình, vì rốt ráo đều làm cho ra khỏi sanh tử.
Thanh tịnh từ, chẳng bỏ thế gian, vì tâm thường duyên niệm chứa nhóm thiện căn.
Thanh tịnh từ, có thể đến giải thoát, vì khiến khắp chúng sanh trừ diệt tất cả phiền não.
Thanh tịnh từ, xuất sanh Bồ đề, vì khiến khắp chúng sanh phát tâm cầu nhứt thiết trí.
Thanh tịnh từ, thế gian vô ngại, vì phóng đại quang minh bình đẳng chiếu khắp.
Thanh tịnh từ, đầy khắp hư không, vì cứu hộ chúng sanh không xứ nào chẳng đến.
Thanh tịnh từ, pháp duyên, chúng pháp như như chơn thiệt.
Thanh tịnh từ, vô duyên vì nhập Bồ Tát ly sanh tánh.
Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được thanh tịnh từ quảng đại vô thượng của Như Lai.
“Great enlightening beings have ten kinds of pure compassion: pure
compassion without companion, as they make their determination inde-
pendently; tireless pure compassion, not eonsidering it troublesome to
endure pain on behalf of all sentient beings; pure compassion taking on
birth in difficult situations, for the purpose of liberating sentient beings;
pure compassion taking on birth in pleasant conditions, to show imper-
manence; pure compassion for the sake of wrongly fixated sentient
Page 1091 – Detachment from the World
beings, never giving up their vow of universal liberation; pure compas-
sion not clinging to personal pleasure, giving happiness to all sentient
beings; pure compassion not seeking reward, purifying their minds; pure
compassion able to remove delusion by explaining the truth. Great en-
lightening beings know all things are in essence pure and have no cling-
ing or irritation, but suffering is experienced because of afflictions of
adventitious defilements: knowing this, they conceive great compassion
for sentient beings. This is called essential purity, as they explain to them
the principle of undefiled pure light. Great enlightening beings know
that all phenomena are like the tracks of birds in the sky, but that sentient
beings’ eyes are clouded by delusion and they cannot clearly realize this;
observing them, enlightening beings conceive great compassion. This is
called true knowledge, as they teach them the principle of nirvana. These
are ten kinds of pure compassion, based on which enlightening beings
attain the supremely great compassion of buddhas.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười thanh tịnh bi:
Thạnh tịnh bi, không bạn bè, vì riêng mình phát tâm đó.
Thạnh tịnh bi, không mỏi nhàm, vì thay thế tất cả chúng sanh thọ khổ chẳng cho là nhọc.
Thạnh tịnh bi, thọ sanh ở xứ nạn, vì cứu độ chúng sanh nạn.
Thạnh tịnh bi, thọ sanh ở đường lành, vì thị hiện vô thường.
Thạnh tịnh bi, vì tà định chúng sanh, vì nhiều kiếp chẳng bỏ hoằng thệ.
Thạnh tịnh bi, chẳng nhiễm trước sự vui của mình, vì cho khắp chúng sanh sự sung sướng.
Thạnh tịnh bi, chẳng cầu báo ân, vì tu tâm trong sạch.
Thạnh tịnh bi, có thể trừ điên đảo vì nói pháp như thiệt.
Ðại Bồ Tát biết tất cả pháp bổn tánh thanh tịnh không nhiễm trước không nhiệt não, vì do khắp trần phiền não nên thọ những điều khổ. Biết như vậy rồi Bồ Tát ở nơi chúng sanh mà khởi đại bi gọi là bổn tánh thanh tịnh, vì họ mà diễn thuyết pháp vô cấu thanh tịnh, quang minh.
Ðại Bồ Tát biết tất cả pháp như dấu chim bay giữa không gian, chúng sanh si lòa chẳng thể quán sát biết rõ các pháp Bồ Tát phát khởi tâm đại bi tên là chơn thiệt trí, vì họ mà khai thị pháp Niết bàn. Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được thanh tịnh bi quảng đại vô thượng của Như Lai.
“Great enlightening beings have ten kinds of pure joy: the pure joy of
aspiring to enlightenment; the pure joy of relinquishing all possessions;
the pure joy of not rejecting undisciplined sentient beings but teaching
them and maturing them; the pure joy of being able to tolerate evil-
doing sentient beings and vowing to save and liberate them; the pure
joy of giving one’s life in seareh of truth, without regret; the pure joy
of giving up sensual pleasures and always taking pleasure in truth; the
pure joy of inducing sentient beings to give up material pleasures and
always take pleasure in truth; the pure joy of cosmic equanimity tire-
lessly honoring and serving all buddhas they see; the pure joy of teaching
all sentient beings to enjoy meditations, liberations, and concentrations,
and tofreely enter and emerge from them; the pure joy of gladly carrying
out all austere practices that accord with the way of enlightening beings
and realizing the tranquil, imperturbable supreme calmness and wisdom
of the sage. Based on these ten, enlightening beings can attain the su-
premely great pure joy of buddhas.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười thanh tịnh hỷ:
Thanh tịnh hỷ, phát Bồ đề tâm.
Thanh tịnh hỷ, đều xả bỏ sở hữu.
Thanh tịnh hỷ, chẳng ghét bỏ chúng sanh phá giới giáo hóa cho họ được thành tựu.
Thanh tịnh hỷ, có thể nhẫn thọ chúng sanh tạo ác mà thệ nguyện cứu độ họ.
Thanh tịnh hỷ, xả thân cầu pháp chẳng sanh lòng ăn năn.
Thanh tịnh hỷ, tự bỏ dục lạc thường thích pháp lạc.
Thanh tịnh hỷ, làm cho tất cả chúng sanh bỏ tư sanh lạc thường thích pháp lạc.
Thanh tịnh hỷ, thấy chư Phật thời cung kính cúng dường không nhàm đủ, an trụ nơi pháp giới bình đẳng.
Thanh tịnh hỷ, làm cho tất cả chúng sanh ưa thích thiền định giải thoát tam muội du hý nhập xuất.
Thanh tịnh hỷ, lòng ưa thích đầy đủ công hạnh thuận tất cả khổ hạnh của Bồ Tát đạo, chứng được định huệ tịch tịnh bất động của đức Mâu Ni.
Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được thanh tịnh hỷ quảng đại vô thượng của Như Lai.
“Great enlightening beings have ten kinds of pure equanimity: the
pure equanimity of not becoming emofionally attached to sentient beings
who honor and support them; the pure equanimity of not being angered
at sentient beings who slight and revile them; the pure equanimity of
always being in the world but not being affected by the vicissitudes of
worldly things; the pure equanimity of instructing sentient beings who
are fit for the Teaching at the appropriate times, while not conceiving
aversion for sentient beings who are not fit for the Teaching; the pure
equanimity of not seeking the states of learning or nonlearning of the
two lesser vehicles; the pure equanimity of the mind always being aloof
from all desires that are conducive to affliction; the pure equanimity of
not praising the two lesser vehicles’ aversion to birth and death; the pure
equanimity of avoiding worldly talk, talk that is not of nirvana, talk that
is not dispassionate, talk that is not according to truth, talk that disturbs
others, talk of individual salvation, and in general all talk that obstructs
Page 1092 – The Flower Ornament Scripture
the Path of enlightening beings; the pure equanimity of waiting for the
appropriate times to teach sentient beings whose faculties are mature and
have developed mindfulness and precise awareness but do not yet know
the supreme truth; the pure equanimity of waiting for the appropriate
times to teach sentient beings whom the enlightening being has already
instructed in the past but who cannot be tamed until the enlightening
being reaches buddhahood; the pure equanimity of not eonsidering people
as higher or lower, being free from grasping and rejection, being aloof
from all kinds of discriminatory notions, always being rightly concen-
trated, penetrating truth and attaining tolerance. Based on these ten, en-
lightening beings can attain the supremely pure equanimity of buddhas.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười thanh tịnh xả:
Thanh tịnh xả, tất cả chúng sanh cung kính cúng dường, Bồ Tát chẳng sanh lòng ái trước.
Thanh tịnh xả, tất cả chúng sanh khinh mạn hủy nhục, Bồ Tát chẳng sanh lòng giận hờn.
Thanh tịnh xả, thường đi trong thế gian chẳng bị tám pháp thế gian làm nhiễm.
Thanh tịnh xả, đối với pháp khí chúng sanh chờ thời mà hóa độ, với chúng sanh không pháp khí cũng chẳng hiềm ghét.
Thanh tịnh xả, chẳng cầu pháp học và vô học của Nhị thừa.
Thanh tịnh xả, tâm thường xa lìa tất cả dục lạc thuận phiền não.
Thanh tịnh xả, chẳng khen hàng Nhị thừa nhàm lìa sanh tử.
Thanh tịnh xả, xa lìa tất cả lời thế gian, lời phi Niết bàn, lời phi ly dục, lời chẳng thuận lý, lời não loạn người khác, lời Thanh Văn, lời Duyên Giác, nhẫn đến những chướng Bồ Tát đạo đều xa lìa tất cả.
Thanh tịnh xả, hoặc có chúng sanh căn đã thành thục phát sanh niệm huệ mà chưa biết được pháp tối thượng, chờ thời tiết mới hóa độ.
Thanh tịnh xả, hoặc có chúng sanh đã được Bồ Tát giáo hóa từ thưở trước, đến Phật địa mới điều phục được, Bồ Tát cũng chờ thời tiết.
Thanh tịnh xả, đối với hai hạng chúng sanh trên Bồ Tát, không có quan niệm cao hạ thủ xả, xa lìa tất cả những phân biệt, hằng trụ chánh định, nhập pháp như thiệt, tâm được kham nhẫn.
Nếu chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời được thanh tịnh xả quảng đại vô thượng của Như Lai.
“Great enlightening beings have ten kinds of principle: the principle
of great learning, steadfastly putting it into practice; the principle of
truth, skillfully thinking about it and discerning it; the principle of emp-
tiness, the ultimate truth being emptiness; the principle of silence and
calm, being detached from the clamor and confusion of sentient beings;
the principle of inexpressibility, not clinging to words; the principle of
according with truth, realizing that past, present, and future are equal;
the principle of the realm of reality, all things being one in essence; the
principle of True Thusness, as all who realize Thusness enter it; the prin-
ciple of the limit of reality, realizing ultimate truth; the principle of great
ultimate nirvana, extinguishing all suffering yet carrying out the prac-
tices of enlightening beings. Based on these ten, enlightening beings can
attain the supreme principle of omniscience.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười nghĩa:
Ða văn nghĩa, vì kiên cố tu hành.
Pháp nghĩa, vì khéo léo suy gẫm lựa chọn.
Không nghĩa, vì đệ nhứt nghĩa không.
Tịch tịnh nghĩa, rời những chúng sanh ồn náo.
Bất khả thuyết nghĩa, vì chẳng chấp tất cả ngữ ngôn.
Như thiệt nghĩa, vì rõ thấu tam thế bình đẳng.
Pháp giới nghĩa, vì tất cả các pháp đồng một vị.
Chơn như nghĩa, vì tất cả Như Lai thuận nhập.
Thiệt tế nghĩa, vì biết rõ rốt ráo như thiệt.
Ðại Bát Niết bàn nghĩa, vì diệt tất cả khổ mà tu những hạnh Bồ Tát.
Nếu chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời được Nhứt thiết trí vô thượng nghĩa.
“Great enlightening beings have ten kinds of law: the law of truth,
practicing what they teach; the law of detachment from clinging, de-
taching from bofh the clinger and that which is clung to; the law of non-
contention, being free from all confusing conflicts; the law of silent ex-
tinction, extinguishing all irritations; the law of dispassion, all covetous-
ness being ended; the law of freedom from false notions, all arbitrary
conceptualization clinging to objects permanently ceasing; the law of
birthlessness, being immovable as space; the law of the uncreated, being
detached from appearances of origin, subsistence, and annihilation; the
law of basic essence, being inherently pure; the law of abandoning all
nirvana in which there is still suffering, to be able to generate all practices
of enlightening beings and carry them out uninterruptedly. Based on
these ten, enlightening beings can attain the supremely great law of
buddhas.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười pháp:
Chơn thiệt pháp, vì như thuyết tu hành.
Ly thủ pháp, vì đều lìa năng thủ và sở thủ.
Vô tránh pháp, vì không có tất cả mê lầm gây gỗ.
Tịch diệt pháp, vì trừ diệt tất cả nhiệt não.
Ly dục pháp, vì tất cả tham dục đều dứt trừ.
Vô phân biệt pháp, vì dứt hẳn phan duyên phân biệt.
Vô sanh pháp, vì dường như hư không bất động.
Vô vi pháp, vì lìa những tướng sanh trụ diệt.
Bổn tánh pháp, vì tự tánh vô nhiễm thanh tịnh.
Xả bỏ tất cả Ô ba đề Niết bàn pháp, vì hay sanh tất cả Bồ Tát hạnh tu tập chẳng dứt.
Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được pháp quảng đại vô thượng của đức Như Lai.
“Great enlightening beings have ten kinds of virtues instrumental in
fostering enlightenment: urging sentient beings to generate the aspiration
for enlightenment is one of enlightening beings’ virtues instrumental in
fostering enlightenment, because it perpetuates the three treasures; fol-
lowing the ten kinds of dedication is one of enlightening beings’ virtues
instrumental in fostering enlightenment, because it stops all that is not
good and accumulates all that is good; wisely guiding and teaching is
one of enlightening beings’ virtues instrumental in fostering enlighten-
Page 1093 – Detachment from the World
ment, because it transcends the virtues of the worlds of desire, form, and
formlessness; indefatigability of mind is one of enlightening beings’ vir-
tues instrumental in fostering enlightenment, because thereby they finally
liberate all sentient beings; relinquishing all internal and external pos-
sessions is one of enlightening beings’ virtues instrumental in fostering
enlightenment, because of having no attachments to anything at all;
working unflaggingly tofully develop spiritual refinements is one of
enlightening beings’ virtues instrumental in fostering enlightenment,
by opening the gate of great charity, without limit; dedicating all roots
of goodness, superior, middling, or lesser, to supreme enlightenment
without slighting any is one of enlightening beings’ virtues instrumental
in fostering enlightenment, being eonsonant with skill in means; gen-
erating great compassion for bad sentient beings who are mean and fixed
on error, not despising them, is one of enlightening beings’ virtues in-
strumental in fostering enlightenment, by virtue of always activating the
heart of universal commitment of great people; honoring and serving all
buddhas, thinking of all enlightening beings as buddhas, and bringing
joy to all sentient beings, is one of enlightening beings’ virtues instru-
mental in fostering enlightenment, as they keep their original will most
firm and steadfast. Great enlightening beings accumulate roots of good-
ness over measureless eons, wishing to attain realization of supreme en-
lightenment themselves, as though it were in their palm; yet they give
away all their roots of goodness to all sentient beings without any grief
or regret, their minds being as broad as space — this is a virtue of enlight-
ening beings instrumental in fostering enlightenment, as they develop
great wisdom and realize great truth. Based on these ten, enlightening
beings can embody the supremely great mass of virtues of buddhas.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười công cụ trợ đạo phước đức:
Khuyên chúng sanh phát khởi tâm Bồ đề là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì chẳng dứt ngôi Tam Bảo.
Tùy thuận Thập hồi hướng là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì dứt tất cả pháp bất thiện, chứa nhóm tất cả thiện pháp.
Trí huệ dạy dỗ là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì vượt hơn phước đức tam giới.
Tâm không mỏi mệt là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì rốt ráo độ thoát tất cả chúng sanh.
Xả bỏ tất cả sở hữu trong thân ngoài thân là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì nơi tất cả vật chẳng chấp trước.
Vì đầy đủ tướng hảo mà tinh tấn bất thối là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì mở cử đại thí không hạn cuộc.
Thượng, trung, hạ, ba phẩm thiện căn đều đem hồi hướng vô thượng Bồ đề tâm không khinh trọng là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì tương ứng với thiện xảo phương tiện.
Với chúng sanh tà định hạ liệt bất thiện đều sanh lòng đại bi chẳng khinh tiện là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì thường phát khởi tâm hoằng thệ của bực đại nhơn.
Cung kính cúng dường tất cả Như Lai với tất cả Bồ Tát khởi Như Lai tưởng làm cho chúng sanh đều hoan hỉ, đây là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì giữ bổn chí nguyện rất bền chắc.
Trong vô số kiếp, đại Bồ Tát tích tập thiện căn tự muốn được chứng vô thượng Bồ Ðề như ở trong bàn tay, nhưng đầu đem xả thí cho tất cả chúng sanh lòng không ưu não cũng không hối hận, tâm Bồ Tát rộng lớn đồng hư không giới. Ðây là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì phát khởi trí huệ chứng đại pháp.
Nếu chư Bồ Tát an trụ trong đây thời đầy đủ phước đức quảng đại vô thựơng của Như Lai.
“Great enlightening beings have ten kinds of knowledge instrumental
in fostering enlightenment. They associate with learned, genuine teachers,
and respectfully attend them, obeying them in every way, not deviating
from their instructions; this is one, being tofally honest, without false-
hood. They give up conceit forever, they are always humble and respect-
ful, their thoughts, words, and deeds are free from coarseness, they are
harmonious and agreeable, and do not prevaricate; this is the second, as
their beings become capable of bearing the Buddha teaching. They are
mentally collected, aware, always alert, never distracted or confused;
eonscientious and agreeable, their minds are calm and imperturbable; they
always remember the six thoughts, always practice the sixfold respect,
and always abide by the six principles of steadfastness; this is the third,
being a way to develop tenfold knowledge. They take pleasure in truth
and principle, always enjoying listening to teaching of truth, abandoning
worldly philosophies and theses, always concentrating on listening to
transcendental talk, leaving the lesser vehicles of individual salvation be-
hind and entering the wisdom of the Great Vehicle of universal salvation;
this is the fourth, singlemindedly recollecting without distraction. They
bear the six ways of transcendence in mind wholeheartedly, have already
Page 1094 – The Flower Ornament Scripture
perfected the practice of the four immeasurable minds, follow the meth-
ods of illumination and skillfully put them into practice; they earnestly
question intelligent people of knowledge, avoid bad tendencies, and aim
for good ways; their minds always like contemplation with right recol-
lection; they subdue their own feelings and profect the minds of others:
this is the fifth, firmly executing true practice. They always appreciate
emancipation and do not cling to the world; they are always aware of
their own minds and never have any evil thoughts; they have done away
with greed, anger, and malevolence, and their thoughts, words, and deeds
are all good; they have certain knowledge of the inherent nature of mind:
this is the sixth, able to purify one’s own and others’ minds. They observe
the five clusters as being like illusory phenomena, the elements like poi-
sonous snakes, the sense mediums like desolate villages, all things as like
illusions, flames, reflections, dreams, shadows, echoes, images, like paint-
ings in the sky, like a turning wheel of fire, like the colors of the rainbow,
like sunlight and moonlight, signless and formless, neither permanent
nor ending, not coming or going, and not abiding either — contemplating
in this way, they know all things have no origin and no destruction: this
is the seventh, knowing that the essential nature of all things is empty
and quiescent. When great enlightening beings hear that phenomena
have no self, no being, no soul, no person, no mind, no object, no greed,
no anger, no delusion, no body, no thing, no master, no sustenance, no
attachment, and no action, all of these having no existence, being ulti-
mately nil — having heard this, they deeply believe it, without doubt or
repudiation: this is the eighth, being able to perfect complete understanding.
Great enlightening beings tame their faculties well, and they cultivate ac-
tion according to truth; they always abide in tranquillity and insight, and
their minds are silent and calm, with no disturbing thoughts arising; they
have no self, no person, nofabrication, no conditioning, no idea of self,
no idea of self doing anything, no excess or lack, and no sense of attain-
ment of this either; their physical, verbal, and mental actions have no
coming or going, no energy, no vigor; they see all things and all beings
impartially and do not dwell on anything; they are neither of this world
nor beyond it, notions of ‘here’ and ‘there’ being inherently irrelevant;
they come from nowhere and go nowhere — they always meditate in.
this way by means of knowledge and wisdom: this is the ninth, reaching
transcendence of forms of discriminations. Because great enlightening
beings see the principle of interdependent origination, they see the purity
of phenomena; because they see the purity of phenomena, they see the
purity of lands; because they see the purity of lands, they see the purity of
space; because they see the purity of space, they see the purity of the
realm of reality; because they see the purity of the realm of reality, they
see the purity of knowledge; this is the tenth, cultivating and accumulat-
ing all-knowledge. These are enlightening beings’ ten kinds of knowledge
instrumental in fostering enlightenment, based on which they can attain
the buddhas’ store of un-impeded, pure, subtle knowledge of all truths.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười công cụ trợ đạo trí huệ:
Gần gũi chơn thiện tri thức đa văn, cung kính, cúng dường, tôn trọng, lễ bái tùy thuận mọi việc chẳng trái lời dạy bảo. Ðây là công cụ trợ đạo trí huệ thứ nhứt, vì tất cả chánh trực không hư dối.
Lìa hẳn kiêu mạng thường có hạnh khiêm hạ cung kính, thân ngữ ý ba nghiệp không thô bạo, nhu hòa thiện thuận chẳng dối trá, chẳng vạy vò. Ðây là công cụ trợ đạo trí huệ thứ hai, vì thân Bồ Tát kham làm pháp khí.
Niệm huệ tùy giác chưa từng tán loạn, hổ thẹn, nhu hòa tâm an bất động, thường nhớ lục niệm, thường thật hành lục hòa kính, thường tùy thuận trụ sáu pháp kiên cố. Ðây là công cụ trí huệ thứ ba, vì làm phương tiện cho mười trí.
Thích pháp thích nghĩa, lấy pháp làm vui, thường thích lóng nghe chánh pháp không nhàm đủ, bỏ rời thế luận và thế ngôn thuyết, chuyên tâm nghe thọ lời xuất thế gian, xa lìa Tiểu thừa, nhập Ðại thừa huệ. Ðây là công cụ trợ đạo trí huệ thứ tư, vì nhứt tâm ghi nhớ không tán động.
Tâm chuyên gánh vác sáu môn Ba la mật, thật hành đã thành thục bốn pháp phạm trụ, đều khéo tu hành tùy thuận minh pháp, điều siêng thỉnh hỏi người trí thông mẫn, xa lìa ác thú quy hướng đường lành tâm thường mến thích chánh niệm quán sát, điều phục lòng mình, thủ hộ ý người. Ðây là công cụ trợ đạo trí huệ thứ năm, vì kiên cố tu hành chơn thiệt hạnh.
Thừơng thích xuất ly chẳng chấp ba cõi, hằng giác tự tâm không bao giờ có ác niệm, ba giác quán đã tuyệt, ba nghiệp đều lành quyết định biết rõ tự tánh của tâm. Ðây là công cụ trợ đạo trí huệ thứ sáu, vì có thể làm cho mình và người được tâm thanh tịnh.
Quán sát ngủ uẩn đều như huyễn sự, thập bát giới như độc xà, thập nhị xứ như hư không, tất cả pháp như huyễn, như diệm, như trăng trong nước, như mộng, như ảnh, như hưởng, như tượng, như vẽ giữa hư không, như vòng lửa quây, như màu mống rán, như ánh sáng mặt nhựt mặt nguyệt, vô tứơng vô hình, phi thừơng phi đoạn, chẳng đến chẳng đi, cũng không sở trụ, quán sát như vậy biệt tất cả pháp vô sanh vô diệt. Ðây là công cụ trợ đạo trí huệ thứ bảy, vì biết tất cả pháp tánh không tịch.
Ðại Bồ Tát nghe tất cả pháp không ngã, không chúng sanh, không thọ giã, không bổ đặc già la, không tâm, không cảnh, không tham sân si, không thân, không vật, không chủ, không đối đãi, không chấp trước, không hành động, như vậy, tất cả đều vô sở hữu, trọn về nơi tịch diệt. Nghe rồi tin sâu chẳng nghi chẳng hủy báng. Ðây là công cụ trợ đạo trí huệ thứ tám, vì có thể thành tựu tri giải viân mãn.
Ðại Bồ Tát khéo điều các căn như lý tu hành, hằng trụ chỉ quán tâm ý tịch tịnh, tất cả động niệm đều trọn chẳng phát khởi, vô ngã, vô nhơn, vô tác, vô hành, không chấp ngả tưởng, không chấp ngả nghiệp, không có tỳ vết, không có nứt rạn, cũng không đức nhẫn nơi đây, thân ngữ ý ba nghiệp không lai không khứ, không có tinh tấn cũng không dũng mãnh. Quán tất cả chúng sanh tất cả các pháp đều bình đẳng mà không sở trụ. Chẳng phải thử ngạn, chẳng phái bĩ ngạn, thử bĩ tánh ly, không từ đâu đến, đi không đến đâu. Thừơng dùng trí huệ tư duy như vậy. Ðây là công cụ trợ đạo trí huệ thứ chín, vì đến chỗ bỉ ngạn phân biệt tứơng.
Ðại Bồ Tát thấy pháp duyên khởi nên thấy pháp thanh tịnh, vì thấy pháp thanh tịnh nên thấy quốc độ thanh tịnh, vì thấy quốc độ thanh tịnh nên thấy hư không thanh tịnh, vì thấy hư không thanh tịnh nên thấy pháp giới thanh tịnh, vì thấy pháp giới thanh tịnh nên thấy trí huệ thanh tịnh. Ðây là công cụ trợ đạo trí huệ thứ mười của Bồ Tát, vì tu hành tích tập nhứt thiết trí.
Nếu chư Bồ Tát an trụ trong mười pháp này thời được trí huệ vi diệu thanh tịnh vô ngại nơi tất cả pháp của đức Như Lai.
Page 1095 – Detachment from the World
“Great enlightening beings have ten kinds of sufficiency of insight:
skillfully analyzing all things; not grasping or clinging to anything; di-
vorcing all deluded views; illumining all senses with the light of knowl-
edge; skillfully generating rightly directed energy; being able to deeply
penetrate knowledge of absolute truth; extinguishing the actions of afflic-
tions and developing the knowledge of extinction and knowledge of
birthlessness; observing everywhere with the knowledge of the celestial
eye; knowing the purity of the past by the recollection of past states;
annihilating the contaminations of sentient beings by the spiritual knowl-
edge of ending contamination. Based on these ten, enlightening beings can
attain the supreme illumination of all teachings of the buddhas.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười minh túc:
Minh túc, khéo phân biệt các pháp.
Minh túc, chẳng chấp trước các pháp.
Minh túc, lìa điên đảo kiến.
Minh túc, trí huệ quang chiếu soi các căn.
Minh túc, khéo phát khởi chánh tinh tấn.
Minh túc, hay thâm nhập chơn đế trí.
Minh túc, diệt nghiệp phiền não thành tựu tận trí vô sanh trí.
Minh túc, thiên nhãn trí khéo quán sát.
Minh túc, túc trụ niệm biết thưở trước thanh tịnh.
Minh túc, lậu tận thần thông trí dứt những lậu của chúng sanh.
Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được đại quang minh vô thượng nơi tất cả Phật pháp của Như Lai.
“Great enlightening beings have ten kinds of quest for truth: quest for
truth with a straightforward mind, being free from dishonesty; diligent
quest for truth, being free from laziness; wholly devofed quest for truth,
not begrudging their lives; quest for truth to destroy all sentient beings’
afflictions, not doing it for fame, profit, or respect; quest for truth to
benefit self and others, all sentient beings, not just helping themselves;
quest for truth to enter knowledge and wisdom, not taking pleasure in
literature; quest for truth to leave birth and death, not craving worldly
pleasures; quest for truth to liberate sentient beings, engendering the deter-
mination for enlightenment; quest for truth to resolve the doubts of all
sentient beings, tofree them from vacillation; quest for truth tofulfill
buddhahood, not being inclined to lesser aims. Based on these ten, enlight-
ening beings can attain great knowledge of all elements of buddhahood
without being instructed by another.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười điều cầu pháp:
Trực tâm cầu pháp, vì không dua nịnh phỉnh phờ.
Tinh tấn cầu pháp, vì xa lìa lười biếng khinh mạn.
Nhứt hướng cầu pháp, vì chẳng tiếc thân mạng.
Vì trừ phiền não cho tất cả chúng sanh mà cầu pháp, vì chẳng vì danh lợi cung kính.
Vì lợi ích mình và người tất cả chúng sanh mà cầu pháp, vì chẳng riêng tự lợi.
Vì nhập trí huệ mà cầu pháp, vì chẳng thích văn tự.
Vì thoát khỏi sanh tử mà cầu pháp, vì chẳng tham thế lạc.
Vì độ chúng sanh mà cầu pháp, vì phát Bồ đề tâm.
Vì dứt nghi cho tất cả chúng sanh mà cầu pháp, vì làm cho họ không do dự.
Vì đầy đủ Phật pháp mà cầu pháp, vì chẳng thích những thừa khác.
Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được đại trí huệ tất cả Phật pháp chẳng do người khác dạy.
“Great enlightening beings have ten kinds of understanding of truth:
generating and developing roots of goodness in accord with the conven-
tional world is the way of understanding of truth of unenlightened ordi-
nary people; attaining indestructible faith, aware of the essence of things,
is the way of understanding truth of people acting according tofaith;
leaving behind erroneous ways and turning to the eightfold right path
is the way people aiming for stream-entering understand truth; get-
ting rid of bonds, putting an end to the contaminations of birth and
death, and seeing reality is the stream-enterer’s understanding of truth;
seeing tasting as affliction and knowing no coming or going is the once-
returner’s understanding of truth; not taking pleasure in the world, seek-
ing to end contamination, not having so much as a single thought of
attachment to life, is the nonreturner’s understanding of truth; attaining
the six spiritual powers, eight liberations, nine concentration states, and
four special knowledges, all fully developed, is the saint’s understanding
of truth; naturally being inclined to contemplate uniform interdepen-
dent origination, the mind always tranquil and content, having few
concerns, understanding causality, awakening on one’s own without
depending on another, accomplishing various kinds of spiritual knowl-
edge, is the individual llluminate’s understanding of truth; having vast
knowledge, all faculties clear and sharp, always inclined to liberate all
Page 1096 – The Flower Ornament Scripture
sentient beings, diligently cultivating virtue and knowledge tofoster
enlightenment, fully developing buddhas’ ten powers, fearlessnesses,
and other attributes, is the enlightening being’s understanding of truth.
Based on these ten, enlightening beings can attain the understanding of
truth of the supreme great knowledge of buddhas.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười pháp minh liễu:
Tùy thuận thế tục sanh trưởng thiện căn, đây là đồng mông phàm phu minh liễu pháp.
Ðược bất hoại tín vô ngại, tỏ ngộ tự tánh của các pháp, đây là tùy tín hành nhơn minh liễu pháp.
Siêng tu tập chánh pháp, tùy thuận chánh pháp mà an trụ, đây là tùy pháp hành nhơn minh liễu pháp.
Xa lìa bát tà, hướng về bát chánh đạo, đây là đệ bát nhơn minh liễu pháp.
Trừ diệt những kiết sử, dứt lậu sanh tử thấy chơn thiệt đế, đây là tu đà hoàn nhơn chơn minh liễu pháp.
Quán sát ham muốn là họa hoạn biết không qua lại, đây là Tư Ðà Hàm nhơn minh liễu.
Chẳng luyến tam giới, cầu hết hữu lậu, đối với pháp thọ sanh, nhẫn đến chẳng sanh một niệm ái trước, đây là A Na Hàm nhơn minh liễu pháp.
Chứng lục thần thông, được bát giải thoát, cửu định, tứ biện tài thảy đều thành tựu, đây là A La Hán nhơn minh liễu pháp.
Tánh thích quán sát nhứt vị duyên khởi, tâm thường tịch tịnh, tri túc, ít việc, tỏ ngộ do mình được chẳng do người thành tựu các môn thần thông trí huệ, đây là Bích Chi Phật nhơn minh liễu pháp.
Trí huệ rộng lớn, các căn sáng lẹ, thường thích độ thoát tất cả chúng sanh, siêng tu phước trí các pháp trợ đạo, tất cả công đức thập lực tứ vô úy của Như Lai đều đầy đủ viên mãn, đây là Bồ Tát nhơn minh liễu pháp.
Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được đại trí nhơn minh liễu pháp vô thượng của đức Như Lai.
“Great enlightening beings have ten norms of practice: honoring the
wise; always being alerted by the celestial spirits; always having shame
and Conscience before the buddhas; having pity for sentient beings and
not abandoning birth and death; carrying tasks through to eonsum-
mation without change of mind; single-mindedly following the en-
lightening beings who aspire to universal enlightenment and diligently
learning; getting rid of wrong views and earnestly seeking the right
Path; destroying demons and the actions of afflictions; knowing the dif-
ferent faculties and temperaments of sentient beings and teaching them
to enable them to live in the state of buddhahood; abiding in the infi-
nitely vast cosmos of reality, removing afflictions and purifying the
body. Based on these ten, enlightening beings can attain the buddhas’
supreme method of practice.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười pháp tu hành:
Cung kính tôn trọng chư Thiện tri thức, là pháp tu hành của Bồ Tát.
Thường được chư Thiên giác ngộ, là pháp tu hành của Bồ Tát.
Ðối với chư Phật thường có lòng tàm quý, là pháp tu hành của Bồ Tát.
Thương xót chúng sanh chẳng bỏ sanh tử, là pháp tu hành của Bồ Tát.
Công việc tất làm đến rốt ráo tâm không biến động, là pháp tu hành của Bồ Tát.
Chuyên niệm theo dõi chúng Bồ Tát phát tâm Ðại thừa tinh cần tu học, là pháp tu hành của Bồ Tát.
Xa lìa tà kiến siêng cầu chánh đạo, là pháp tu hành của Bồ Tát.
Dẹp phá chúng ma và nghiệp phiền não, là pháp tu hành của Bồ Tát.
Biết các chúng sanh căn tánh thắng liệt mà vì họ thuyết pháp cho họ an trụ nơi Phật địa, là pháp tu hành của Bồ Tát.
An trụ pháp giới quảng đại vô biên, diệt trừ phiền não cho thân thanh tịnh, là pháp tu hành của Bồ Tát.
Nếu chư Bồ Tát an trụ trong đây thời được pháp tu hành vô thượng của Như Lai.
“For great enlightening beings there are ten kinds of demons: the
demon of the clusters of mental and material elements, giving rise to
attachments; the demon of afflictions, perpetually confusing and de-
filing; the demon of actions, able to obstruct and inhibit; the demon of
mind, which gives rise to pride; the demon of death, which abandons
life; the demon of heaven, being self-indulgent; the demon of roots of
goodness, because of perpetual clinging; the demon of concentration,
because of long indulgence in the experience; the demon of spiritual
teachers, because of giving rise tofeelings of attachment; the demon of
the phenomenon of enlightenment, because of not wanting to relinquish
- Great enlightening beings should apply appropriate means to quickly
escape these demons.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười thứ ma:
Ngũ uẩn ma, vì sanh các chấp thủ.
Phiền não ma, vì hằng tạp nhiễm.
Nghiệp ma, vì hay chướng ngại.
Tâm ma, vì khởi cao mạn.
Tử ma, vì bỏ chỗ sanh.
Thiên ma, vì tự kiêu căn phóng túng.
Thiện căn ma, vì hằng chấp thủ.
Tam muội ma, vì từ lâu say đắm.
Thiện tri thức ma, vì phát khởi tâm chấp trước.
Bồ đề pháp trí ma, vì chẳng nguyện xả lìa.
Ðại Bồ Tát phải dùng phương tiện mau cầu xa rời mười thứ ma này.
“For great enlightening beings there are ten kinds of demons’ actions:
cultivating roots of goodness while forgetting the aspiration for enlight-
enment; giving with ill-will, keeping precepts with hatred, rejecting
people of bad character, rejecting the slofhful, slighting the confused,
and despising the ignorant; being jealous and stingy with the profound
teaching, not explaining it to those who are capable of being enlightened,
insisting on explaining it to people without the capacity for it as long as
wealth and honor are thereby available; not liking to hear about the
ways of transcendence, not practicing them even when hearing about
them, tending to negligence even when practicing them, becoming nar-
row and mean in spirit because of laziness, and not seeking supreme great
enlightenment; avoiding good companions, associating with bad com-
panions, craving personal release, not wanting to accept life, wishing for
the desirelessness and tranquillity of nirvana; arousing hatred and anger
toward enlightening beings, looking at them with malevolent eyes,
looking for faults in them, talking of their faults, cutting off their sup-
Page 1097 – Detachment Jrom the World
port; repudiating true teaching and being averse to hearing it, immedi-
ately criticizing it when hearing it, having no respect for those who
expound it, claiming oneself to be right and others all wrong; indulging
in the study of secular literature, expounding the vehicles of individual
salvation while obscuring the profound Teaching, or giving subtle doc-
trines to unsuitable people, straying from enlightenment and persisting
in false paths; always liking to associate with those who are already
liberated and at peace, and giving them offerings, while not being will-
ing to approach or edify those who have not yet attained liberation or
peace; developing conceit, having no respect, often troubling or hurting
sentient beings, not seeking genuine knowledge of truth, being mean
and difficult to awaken. These are the ten kinds of demons’ actions,
which enlightening beings should quickly get away from to seek en-
lightened action.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười thứ ma nghiệp:
Quên mất Bồ đề tâm tu các thiện căn đây là ma nghiệp.
Ác tâm bố thí, sân tâm trì giới, bỏ người tánh ác, xa kẻ lười biếng, khinh mạn kẻ loạn ý, cơ hiềm người ác huệ, đây là ma nghiệp.
Nơi pháp thậm thâm tâm sanh xan lẫn, có người kham được hóa độ mà chẳng vì họ thuyết pháp. Nếu được tài lợi cung kính cúng dường, dầu chẳng phải pháp khí mà cũng gượng vì họ thuyết pháp. Ðây là ma nghiệp.
Chẳng thích lắng nghe các môn Ba la mật, giả sử nghe nói mà chẳng tu hành, dầu cũng tu hành mà phần nhiều lười biếng. Vì lười biếng nên chí ý hèn kém chẳng cầu pháp đại Bồ đề Vô thượng. Ðây là ma nghiệp.
Xa thiện tri thức, gần ác tri thức, thích cầu Nhị thừa, chẳng thích thọ sanh, chỉ chuộng Niết bàn ly dục tịch tịnh. Ðây là ma nghiệp.
Ở chỗ Bồ Tát, khởi tâm sân hận ác nhãn nhìn ngó tìm cầu tội hở để nói kể lỗi lầm, ngăn dứt tài lợi cúng dường. Ðây là ma nghiệp.
Phỉ báng chánh pháp chẳng thích lắng nghe, giả sử được nghe liền sanh lòng che ⢡i, thấy người thuyết pháp chẳng sanh lòng tôn trọng, cho lời mình nói là phải, lời của người là quấy. Ðây là ma nghiệp.
Thích học thế luận xảo thuật văn từ, khai xiển thâm pháp ẩn phú của Nhị thừa, hoặc dùng diệu nghĩa truyền dạy cho người chẳng đáng dạy, xa rời Bồ đề, trụ nơi tà đạo. Ðây là ma nghiệp.
Người đã được giải thoát đã được an ổn thời thường thích gần gũi mà cúng dường. Người chưa giải thoát chưa an ổn thời chẳng chịu thân cận, cũng chẳng giáo hoá. Ðây là m anghiệp.
Thêm lớn ngã mạn không cung kính. Với các chúng sanh làm nhiều sự não hại, chẳng cầu chánh pháp trí huệ chơn thiệt. Tâm ý tệ ác khó khai ngộ được. Ðây là ma nghiệp.
Chư Bồ tát phải mau xa lìa mười ma nghiệp này mà siêng cầu Phật nghiệp.
“Great enlightening beings have ten ways of getting rid of demons’
actions: associating with the wise and honoring and serving them; not
elevating themselves or praising themselves; believing in the profound
Teaching of Buddha without repudiating it; never ever forgetting the
determination for omniscience; diligently cultivating refined practices,
never being lax; always seeking all the teachings for enlightening beings;
always expounding the truth tirelessly; taking refuge with all the bud-
dh as of the ten directions, thinking of them as saviors and profectors;
faithfully accepting and remembering the support of the spiritual power
of the buddhas; equally planting the same roots of goodness with all
enlightening beings. Based on these ten, enlightening beings can escape
all demonic ways.
Chư Phật tử! Ðại Bồ tát có mười điều bỏ rời ma nghiệp:
Gần thiện tri thức cung kính cúng dường. Ðây là bỏ rời ma nghiệp.
Chẳng tụ cao tự đại, chẳng tự khen ngợi. Ðây là bỏ rời ma nghiệp.
Nơi thâm pháp của Phật tin hiểu chẳng chê. Ðây là bỏ rời ma nghiệp.
Chưa từng quên mất tâm nhứt thiết trí. Ðây là bỏ rời ma nghiệp.
Siêng tu diệu hạnh hằng chẳng phóng dật. Ðây là bỏ rời ma nghiệp.
Thường cầu tất cả pháp Bồ Tát tạng. Ðây là bỏ rời ma nghiệp.
Hằng diễn thuyết chánh pháp tâm không mỏi nhọc. Ðây là bỏ rời ma nghiệp.
Quy y tất cả chư Phật mười phương, phát khởi tưởng niệm được cứu hộ. Ðây là bỏ rời ma nghiệp.
Tin thọ ức niệm tất cả chư Phật thần lực gia trì. Ðây là bỏ rời ma nghiệp.
Cùng tất cả Bồ Tát đồng gieo căn lành bình đẳng không hai. Ðây là bỏ rời ma nghiệp.
Nếu chư Bồ tát an trụ mười pháp này thời có thể ra khỏi tất cả ma đạo.
“Great enlightening beings have ten ways of seeing buddhas: the
buddha of abiding in the world attaining true enlightenment they see by
nonattachment; they see the buddha of vows by production; they see the
buddha of rewards of action by deep faith; they see the buddha of
preservation by following the Teaching; they see the buddha of nirvana
by deeply entering it; they see the cosmic buddha everywhere; they see
the buddha of mind by peaceful stability; they see the buddha of concen-
tration by infinite independence; they see the buddha of fundamental
essence by clear comprehension; they see the buddha of adaptation by
universal awareness. By these they always see the supreme Buddha.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười môn kiến Phật:
Vô trước kiến, đối với Phật thành Chánh giác an trụ thế gian.
Xuất sanh kiến, đối với nguyện Phật.
Thâm tín kiến, đối với nghuệp báo Phật.
Tùy thuận kiến, đối với trụ trì Phật.
Thâm nhập kiến, đối với Niết bàn Phật.
Phổ chí kiến, đối với pháp giới Phật.
An trụ kiến, đối với tâm Phật.
Vô lượng vô y kiến, đối với tam muội Phật.
Minh liễu kiến, đối với bổn tánh Phật.
Phổ thọ kiến, đối với tùy lạc Phật.
Nếu chư Bồ tát an trụ mười môn kiến Phật này thời thường được thấy đức Như Lai vô thượng.
“Great enlightening beings have ten kinds of buddha-action. Guiding
at appropriate times is buddha-action because it fosters correct cultivation
of practice. Causing dream visions is buddha-action because it awakens
awareness of past roots of goodness. Expounding to others scriptures
they have not yet heard is buddha-action because it causes growth of
knowledge and resolution of doubts. Teaching the way to emancipation
to those bound up in regrets is buddha-action because it frees them from
a doubting mind. Manifesting the glorified body of Buddha for the sake
of sentient beings with stingy minds, ignorant minds, minds interested in
personal salvation, malevolent minds, doubting minds, scattered minds,
Page 1098 – The Flower Ornament Scripture
or conceited minds, is buddha-action because it nurtures past roots of
goodness. Widely expounding the true Teaching in times when true
Teaching is difficult to come across, causing those who hear it to attain
concentrated knowledge and knowledge of spiritual powers, to be able
to benefit innumerable sentient beings, is buddha-action because the
resolution is pure. If anything demonic occurs, being able to manifest a
voice equal to space explaining the principle of not harming others, in
order to quell it, causing the awakening of understanding and causing
the majesty of demons who hear to vanish, is buddha-action because the
will is extraordinary and the power great. The mind having no lapse,
being eonstantly alert, not permitting experiential entry into the absolute
state of individual liberation, and never speaking of the realm of libera-
tion to those whose faculties and characters are not yet mature, is buddha-
action because it is the performance of the original vow. Shedding all the
bonds and contaminations of birth and death, cultivating the practices
of enlightening beings continously, taking care of sentient beings with
great compassion, causing them to undertake such practice and even-
tually be liberated, is buddha-action because it does not stop the practice
of the deeds of enlightening beings. Enlightening beings realize that their
own bodies as well as sentient beings are fundamentally quiescent and
null, yet, not being surprised or afraid, they still tirelessly cultivate virtue
and knowledge; though they know all things have no creation, yet they
do not ignore the individual characteristics of things; though they are
forever aloof of craving for objects, yet they always gladly behold the
form bodies of buddhas; though they know one is enlightened into the
truth without depending on another, yet they seek omniscience through
many kinds of methods; though they know all lands are like space, they
always enjoy adorning all buddha-lands; though they always observe
that there is no real person or self, yet they tirelessly teach and enlighten
sentient beings; though fundamentally unmoving in the cosmos of real-
ity, yet they manifest a multitude of transformations by spiritual powers;
though they have already accomplished omniscience, yet they practice
the acts of enlightening beings without ceasing; though they know all
things are inexplicable, yet they turn the wheel of the pure Teaching and
gladden the hearts of all beings; though they are able to manifest the
spiritual powers of buddhas, yet they do not reject embodiment as en-
lightening beings; though they appear to enter ultimate final extinction,
they manifest birth in all places — being able to perform these practices,
simultaneously carrying out the provisional and the true, is buddha-
action. Based on these ten, enlightening beings can achieve supreme
teacherless great action without relying on the instruction of another.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười Phật nghiệp:
Tùy thời tiết để khai đạo, là Phật nghiệp, vì làm cho tu hành Chánh pháp.
Trong chiêm bao khiến thấy, là Phật nghiệp, vì giác ngộ thiện căn thưở xưa.
Vì người mà diễn thuyết kinh chưa được nghe, là Phật nghiệp, vì làm cho sanh trí dừt nghi.
Vì người ăn năn bị kiết sử triền phược mà nói pháp xuất ly, là Phật nghiệp, vì làm cho lìa tâm nghi.
Nếu có chúng sanh khởi tâm xan lẫn nhẫn đến khởi tâm ác huệ, tâm Nhị thừa, tâm tổn hại, tâm nghi hoặc, tâm tán động, tâm kiêu mạn, Bồ Tát vì họ hiện thân tướng hảo trang nghiêm của Như Lai, là Phật nghiệp, vì sanh trưởng quá khứ hiện căn.
Lúc khó gặp Chánh pháp, vì họ mà rộng thuyết pháp, làm cho họ nghe xong được trí Ðà la ni, trí thần thông, khắp có thể lợi ích vô lượng chúng sanh, là Phật nghiệp, vì thắng giải thanh tịnh.
Nếu có ma sự khởi lên, có thể dùng phương tiện hiện tiếng khắp hư không giới thuyết pháp chẳng tổn não người khác, dùng đây để đối trị làm cho họ được khai ngộ. Chúng ma nghe xong, oai quang tắt mất. Ðây là Phật nghiệp, vì chí thích oai đức lớn thù thắng.
Tâm Bồ tát không xen hở thường tự giữ gìn, chẳng cho chứng nhập chánh vị Nhị thừa. Nếu có chúng sanh căn tánh chưa thành thục thời trọn chẳng vì họ mà nói cảnh giới giải thoát. Ðây là Phật nghiệp vì bổn nguyện mà làm.
Sanh tử kiết lậu tất cả đều lìa, tu hạnh Bồ tát nối tiếp chẳng dứt, dùnh tâm đại bi nhiếp thủ chúng sanh làm cho họ khởi hạnh rốt ráo giải thoát. Ðây là Phật nghiệp, vì chẳng dứt tu hành hạnh Bồ tát.
Ðại Bồ tát thấu rõ tự thân cùng với chúng sanh bổn lai tịch diệt, chẳng kinh sợ, mà siêng tu phước trí không nhàm dủ. Dẫu biết tất cả Pháp không tạo ác mà cũng chẳng bỏ tự tướng của các pháp. Dầu nơi các vảnh giới lìa hẳn tham dục, mà thường thích chiêm ngưỡng phụng thờ sắc thân của chư Phật. Dầu biết ngộ nhập các pháp chẳng do nơi người, mà dùng nhiều phương tiện cầu nhứt thiết trí. Dầu biết các quốc độ đều như hư không mà thường thích trang nghiêm tất cả cõi Phật. Dầu hằng quán sát vô nhơn vô ngã, mà giáo hoá chúng sanh không có mỏi nhàm. Dầ ơi pháp giới bổn lai bất động, mà dùng thần thông trí lục hiện những biến hoá. Dầđã thành tựu nhứt thiết chủng trí, mà không ngớt tu hạnh Bố tát. Dầ iết các pháp bất khả ngôn thuyết, mà chuyển tịnh pháp luân làm cho đại chúng hoan hỷ. Dầu có thể thị hiện chư Phật thần lực, mà chẳng nhàm bỏ thân Bồ tát. Dầu hiện nhập đại Niết bàn, mà thị hiện thọ sanh Tất cả xứ. Có thể thật hành pháp quyền thiệt song hành như vậy là Phật nghiệp.
Nếu chư Bồ Tát an trụ trong mười Phật nghiệp này, thời được nghiệp quảng đại vô thượng vô sư chẳng do người dạy.
“For great enlightening beings there are ten kinds of conceited action.
Not respecting teachers, parents, mendicants, people on the right Path,
people aiming for the right Path, or honorable fields of blessings, is con-
ceited action. If there are teachers who have attained to supreme truth,
who ride the Great Vehicle of universal enlightenment, who know the
Page 1099 – Detachment from the World
way to emancipation, who have attained mental command and expound
the great principles of the scriptures, to be haughty toward them or their
teachings and to be disrespectful is conceited action. When in an audience
hearing the sublime Teaching expounded, to be unwilling to laud its
excellence and cause others to believe and accept it, is conceited action.
Habitually conceiving the illusion of superiority, elevating oneself and
looking down on others, not seeing one’s own faults, not knowing one’s
own shortcomings, is conceited action. Habitually imagining that one is
better than those who are better than oneself, not praising virtuous people
who are praiseworthy, and not being happy when others praise them,
is conceited action. When seeing someone preach, in spite of knowing
it is the norm, the rule, the truth, the word of Buddha, to despise the
teaching because of disliking the person, to slander it and incite others
to slander it, is conceited action. Seeking a high seat for oneself, declaring
oneself to be a teacher worthy of receiving offerings and not supposed
to work, failing to rise to greet old people who have cultivated spiritual
practice for a long time, being unwilling to serve them, is conceited
action. Frowning unhappily on seeing people with virtue, speaking to
them harshly and looking for faults in them, is conceited action. When
seeing intelligent people who know the truth, not being willing to ap-
proach and attend them, respect and honor them, being unwilling to ask
them what is good and what is not good, what should be done and what
should not be done, what acts result in various benefits and comforts in
the long night, being foolish and deluded, stubborn and contentious,
swallowed by self-importance, never able to see the way to emanci-
pation, is conceited action. There are also sentient beings with minds
shrouded by conceit, who when buddhas appear in the world are unable
to approach, respect, and honor them; in them no new good arises, and
goodness from the past evaporates and vanishes; they say what they
should not, they contend where they should not; in the future they will
surely fall into a deep pit of danger and will not even encounter Buddha,
much less hear the Teaching, for hundreds of thousands of eons, though
because of having once conceived the aspiration for enlightenment they
will in the end wake up on their own — this is conceited action. If en-
lightening beings get rid of these ten kinds of conceited action, they will
attain ten kinds of actions of knowledge.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười mạn nghiệp:
Ðối với Sư, Tăng, Cha, Mẹ, Sa Môn, Bà La Môn trụ nơi chánh đạo hoặc hướng chánh đạo, là những phước điền đáng tôn trọng, mà chẳng cung kính. Ðây là mạn nghiệp.
Hoặc có Pháp Sư được pháp tối thắng ngồi Ðại thừa, biết đạo xuất yếu đắc đà la ni, diễn thuyết pháp quảng đại trong khế kinh không thôi nghỉ. Mà đối với bực ấy phát khởi tâm cao mạn và đối với pháp của bực ấy giảng nói chẳng có lòng cung kính. Ðây là mạn nghiệp.
Ở trong chúng hội nghe thuyết diệu pháp chẳng chịu khen là hay cho người khác tin thọ. Ðây là mạn nghiệp.
Ưa sanh lòng quá mạn, tự cao ngạo lấn người, chẳng thấy mình lỗi, chẳng biết mình dở. Ðây là mạn nghiệp.
Ưa sanh lòng quá quá mạn. Thấy có Pháp Sư và người thuyết pháp, biết là pháp, là luật, là chơn thiệt, là lời Phật, mà vì ghét người nên cũng ghét pháp, tự mình hủy báng cũng bảo người hủy báng. Ðây là mạn nghiệp.
Tự cầu tòa cao, tự xưng Pháp Sư, ưng thọ người cung cấp, chẳng ưng chấp sự. Thấy bực kỳ cựu người tu hành lâu, chẳng chịu đứng dậy tiếp rước, chẳng chịu hầu hạ. Ðây là mạn nghiệp.
Thấy người có đức thời nhíu mày chẳng vui, nói lời thô lỗ tìm tòi lỗi lầm của bực ấy. Ðây là mạn nghiệp.
Thấy có người thông minh biết chánh pháp, chẳng chịu gần gũi cung kính cúng dường, chẳng chịu hỏi han gì là thiện, gì là bất thiện, những gì nên làm, những gì chẳng nên làm, làm những công hạnh gì mà được mãi mãi lợi ích an lạc. Là kẻ ngu si ngoan cố chìm trong ngã mạn, trọn không thấy được đạo xuất yếu. Ðây là mạn nghiệp.
Lại có chúng sanh tâm khinh mạn che đậy, chư Phật xuất thế chẳng có thể thân cận cung kính cúng dường, thiện căn mới chẳng sanh, thiện căn cũ tiêu mất, chẳng nên nói lại nói, chẳng nên cãi lại cãi. Ở vị lai tất cả phải đọa hầm sâu hiểm nạn trong trăm ngàn kiếp còn chẳng gặp Phật huống là được nghe pháp. Chỉ do từ trước đã từng phát Bồ đề tâm nên trọn tự tỉnh ngộ. Ðây là mạn nghiệp.
Nếu chư Bồ Tát lìa mười mạn nghiệp này thời được mười trí nghiệp.
“The ten kinds of action of knowledge are believing in consequences
of action and not denying causality; not giving up the determination for
enlightenment, always remembering the buddhas; attending the wise,
respecting and providing for them, honoring them tirelessly; enjoying
the teachings and their meanings, never tiring of them, getting rid of
wrong awareness and cultivating true awareness; getting rid of haughti-
ness toward all sentient beings, thinking of enlightening beings as bud-
dhas, valuing the true Teaching as much as one’s own being, honoring
the enlightened as though profecting one’s own life, thinking of practi-
tioners as buddhas; being free from all that is not good in thought, word,
Page 1100 – The Flower Ornament Scripture
and deed, praising the excellences of sages and saints, and according with
enlightenment; not denying interdependent origination, getting rid of
false views, destroying darkness and attaining light, illumining all things;
acting in accord with the ten kinds of dedication, thinking of the ways of
transcendence as one’s mother, thinking of skillful means as one’s father,
and entering the house of enlightenment with a profound, pure mind;
diligently accumulating all practices that foster enlightenment, such as
charity, morality, learning, cessation and contemplation, virtue and wis-
dom; indefatigably cultivating any practice that is praised by the bud-
dhas, that can break through the afflictions and conflicts of demons, that
can remove all obstructions, veils, shrouds, and bonds, that can teach
and tame all sentient beings, that can embrace the truth in accord with
knowledge and wisdom, that can purify a buddha-land, that can gener-
ate spiritual capacities and insights. Based on these ten actions of knowl-
edge, enlightening beings can attain the supreme action of great knowl-
edge of buddhas, including all skillful means of liberation.
Ðây là mười trí nghiệp:
Tin hiểu nghiệp báo chẳng hoại nhơn quả. Ðây là trí nghiệp.
Chẳng bỏ Bồ đề tâm, thường niệm chư Phật. Ðây là trí nghiệp.
Gần thiện tri thức cung kính cúng dường hết lòng tôn trọng, trọn không chán không lười. Ðây là trí nghiệp.
Thích pháp thích nghĩa không nhàm đủ, xa lìa tà niệm, siêng tu chánh niệm. Ðây là trí nghiệp.
Ðối với tất cả chúng sanh, lìa ngã mạn. Ðối với chư Bồ Tát tưởng như Phật. Mến trọng chánh pháp chẳng tiếc thân mình. Tôn thờ Như Lai như hộ mạng mình. Với người tu hành tưởng là Phật. Ðây là trí nghiệp.
Ba nghiệp thân, khẩu và ý không có sự bất thiện, ca ngợi bực Hiền Thánh, tùy thuận Bồ đề. Ðây là trí nghiệp.
Chẳng hoại duyên khởi, lìa những tà kiến phá si ám được sáng suốt chiếu rõ tất cả pháp. Ðây là trí nghiệp.
Mười môn hồi hướng tùy thuận tu hành. Nơi các môn Ba la mật tưởng là từ mẫu. Nơi thiện xảo phương tiện tưởng là từ phụ. Dùng tâm thâm tịnh nhập nhà Bồ đề. Ðây là trí nghiệp.
Thí, giới, đa văn, chỉ, quán, phước và huệ, tất cả pháp trợ đạo như vậy thường siêng chứa nhóm không nhàm mỏi. Ðây là trí nghiệp.
Nếu có một nghiệp được đức Phật khen ngợi có thể phá chúng ma trừ phiền não đấu tránh, có thể rời lìa tất cả chướng cái triền phược, có thể giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh, có thể tùy thuận trí huệ nhiếp thủ chánh pháp, có thể nghiêm tịnh cõi Phật, có thể phát khởi thông minh thời đều chuyên cần tu tập không thối thất lười biếng. Ðây là trí nghiệp.
Nếu chư Bồ Tát an trụ trong mười trí nghiệp này thời được tất cả thiện xảo phương tiện đại trí nghiệp vô thượng của đức Như Lai.
“For great enlightening beings there are ten kinds of possession by
demons: laziness; narrowness and meanness of aspiration; satisfaction
with a little practice; exclusivity; not making great vows; liking to be
in tranquil extinction and annihilating afflictions; permanently annihi-
lating birth and death; giving up the practices of enlightening beings;
not edifying sentient beings; doubting and repudiating the truth. If en-
lightening beings can get rid of these possessions by demons, they can
gain ten kinds of support by Buddha: they are supported by Buddha in
first being able to aspire to enlightenment; in preserving the will for en-
lightenment life after life without letting it be forgoften; in being aware
of manias and being able to avoid them; in learning the ways of tran-
scendence and practicing them as taught; in knowing the pains of birth
and death yet not rejecting them; in contemplating the most profound
truth and gaining immeasurable reward; in expounding the principles of
the two lesser vehicles of salvation for the benefit of sentient beings with-
out actually grasping the liberation of those vehicles; in happily con-
templating the uncreated without dwelling therein, and not thinking of
the created and the uncreated as dual; in reaching the realm of birthless-
ness yet manifesting birth; in realizing universal knowledge yet carrying
out the practices of enlightening beings and perpetuating the seed of en-
lightening beings. Based on these ten, enlightening beings can attain the
supreme supportive power of buddhas.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười điều bị ma nhiếp trì:
Tâm lười biếng, bị ma nhiếp trì.
Trí nguyện hèn kém, bị ma nhiếp trì.
Nơi công hạnh chút ít cho là đủ, bị ma nhiếp trì.
Lãnh thọ một hạnh, từ chối những hạnh khác, bị ma nhiếp trì.
Chẳng phát đại nguyện, bị ma nhiếp trì.
Thích ở tịch diệt dứt trừ phiền não, bị ma nhiếp trì.
Dứt hẳn sanh tử, bị ma nhiếp trì.
Bỏ hạnh Bồ Tát, bị ma nhiếp trì.
Chẳng giáo hoá chúng sanh, bị ma nhiếp trì.
Nghi báng chánh pháp, bị ma nhiếp trì.
Nếu chư Bồ Tát rời bỏ được mười điều bị ma nhiếp trì này thời được mười điều được chư Phật nhiếp trì.
Ðây là mười điều được Phật nhiếp trì:
Ban sơ có thể phát tâm Bồ đề, được Phật nhiếp trì.
Trong nhiều đời gìn giữ tâm Bồ đề không để quên mất, được Phật nhiếp trì.
Rõ biết ma sự đều có thể xa lìa, được Phật nhiếp trì.
Nghe các môn Ba la mật, tu hành đúng pháp, được Phật nhiếp trì.
Biết khổ sanh tử mà chẳng nhàm ghét, được Phật nhiếp trì.
Quán pháp thậm thâm được vô lượng quả, được Phật nhiếp trì.
Vì chúng sanh diễn thuyết pháp Nhị thừa mà chẳng chứng lấy quả giải thoát của Nhị thừa, được Phật nhiếp trì.
Thích quán pháp vô vi mà chẳng trụ trong đó, đối với hữu vi vô vi không tưởng là hai, được Phật nhiếp trì.
Ðến chỗ vô sanh mà hiện thọ sanh, được Phật nhiếp trì.
Dầu chứng được nhứt thiết trí mà khởi hạnh Bồ Tát chẳng dứt giống Bồ đề, được Phật nhiếp trì.
Nếu chư Bồ Tát an trụ trong mười điều này thì được sức nhiếp trì vô thượng của chư Phật.
“Great enlightening beings have ten kinds of support by truth: know-
ing all conditioned states are impermanent; knowing all conditioned
states are painful; knowing all conditioned states are identityless; know-
ing all phenomena are quiescent nirvana; knowing all phenomena arise
from conditions and do not come to be without conditions; knowing
that ignorance comes from wrong thought, and finally old age and death
come from ignorance, so if wrong thought is extinguished, ignorance is
extinguished, and finally old age and death are extinguished; knowing
Page 1101 – Detachment from the World
the three doors of liberation and generating the vehicle of hearers, real-
izing the state of noncontention and generating the vehicle of individual
illuminates; knowing the six transcendent ways and the four means of
integration, generating the Great Vehicle; knowing that all lands, all
phenomena, all sentient beings, and all times are spheres of knowledge of
buddhas; knowing how to cut off all thoughts, abandon all grasping,
detach from before and after, and accord with nirvana. Based on these
ten, enlightening beings can attain the supreme support of truth of all
buddhas.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười điều được pháp nhiếp trì:
Biết tất cả hành pháp là vô thường, được pháp nhiếp trì.
Biết tất cả hành pháp là khổ, được pháp nhiếp trì.
Biết tất cả hành pháp là vô ngã, được pháp nhiếp trì.
Biết tất cả pháp tịch diệt Niết bàn, được pháp nhiếp trì.
Biết tất cả pháp theo duyên mà phát khởi, không có duyên thời không khởi, được pháp nhiếp trì.
Biết vì do tư duy chẳng chánh nên sanh khởi vô minh. Vì do có vô minh khởi nên nhẫn đến có lão tử phát khởi. Vì tư duy chẳng chánh diệt nên vô minh diệt. Vì vô minh diệt nên nhẫn đến lão tử diệt. Ðược pháp nhiếp trì.
Biết ba môn giải thoát xuất sanh Thanh Văn thừa, chứng pháp vô tránh xuất sanh Ðộc Giác thừa, được pháp nhiếp trì.
Biết pháp Lục Ba la mật, pháp Tứ nhiếp xuất sanh Ðại thừa, được pháp nhiếp trì.
Biết tất cả cõi, tất cả pháp, tất cả chúng sanh, tất cả thế là cảnh giới của Phật trí, được pháp nhiếp trì.
Biết dứt tất cả niệm, bỏ tất cả thủ, rời tiền tế hậu tế, tùy thuận Niết bàn, được pháp nhiếp trì.
Nếu chư Bồ Tát an trụ trong mười điều được pháp nhiếp trì này thời được pháp nhiếp trì vô thượng của tất cả chư Phật.
“Great enlightening beings have ten kinds of activities in the heaven
of satisfaction. First, they tell the celestials in the heavens of desire the
principle of detachment, saying, ‘All dominion is impermanent, all plea-
sures must fade and vanish,’ and they urge the celestials to aspire to en-
lightenment. Second, to the celestials of the heavens in the realm of form
they explain how to enter and emerge from the meditative and libera-
tive concentrations, and if there are any who become attached to them
and therefore regenerate views of the body, erroneous views, nescience,
and so on, the enlightening beings explain true wisdom to them; if any
conceive a deluded idea of purity of material or immaterial things, they
explain that they are not pure and are all impermanent, and thus urge
them to aspire to enlightenment. Third, in the heaven of satisfaction,
great enlightening beings enter a concentration called magnificent array
of light, and their bodies radiate light illumining the entire universe;
according to the mentalities of sentient beings, they preach to them in
various voices, so that the sentient beings, having heard, have pure faith
and are reborn in the heaven of satisfaction after death, where the en-
lightening beings urge them to aspire to enlightenment. Fourth, the
great enlightening beings in the heaven of satisfaction, with their un-
obstructed eyes, see all the enlightening beings in all the heavens of satis-
faction in the ten directions, so that all the enlightening beings see each
other; having seen each other, they discuss the marvelous Teaching —
that is, descending spiritually into the mother’s womb, being born,
leaving home, going to the site of enlightenment, being imbued with
magnificent adornments, and also showing the deeds they have been
carrying out since ancient times, by which they attained this great
knowledge and its virtues, being able to manifest these things without
leaving their original places. Fifth, when a great enlightening being is
in the heaven of satisfaction, the enlightening beings in the palaces of
all the heavens of satisfaction in the ten directions come and gather
around respectfully, and then the great enlightening being, wishing to
enable those enlightening beings tofulfill their vows, and to gladden
them, expounds teachings according to the states those enlightening
beings should abide in, according to what they are to do and what they
are to stop, what they are to practice and what they are to realize; having
heard this, the enlightening beings are very happy and freshly inspired,
and return to the places where they live in their own lands. Sixth, when
Page 1102 – The Flower Ornament Scripture
great enlightening beings are in the heaven of satisfaction, the celestial
devil, lord of the realm of desire, in order to spoil and disrupt the work
of the enlightening beings, comes to the enlightening beings with a
retinue of demons; then the enlightening beings, in order to crush the
army of demons, abide in the gate of knowledge of skill in means of
transcendent wisdom which is included in the adamantine path, and
expound the truth to them in bofh gentle and harsh words, causing the
demons to be unable to get the upper hand; and when the demons see the
sovereign power of the enlightening beings, they all become inspired to
seek supreme enlightenment. Seventh, great enlightening beings in the
heaven of satisfaction know that the celestials in the realm of desire do
not like to hear the truth; then the enlightening beings announce in a
loud voice, ‘Today an enlightening being is going to manifest wonders
— those who wish to see should come at once.’ Then the celestials, having
heard this, gather in droves. The enlightening beings, seeing that the celes-
tials have gathered, show them wonders in the palace that the celestials
have never seen or heard of; having seen these, the celestials are tofally
enraptured. Then the enlightening beings also produce voices in music
saying, ‘Benevolent ones, all conditioned states are impermanent and
painful, all things are void of identity; nirvana is tranquil extinction.’
They also say, ‘You all should cultivate the practices of enlightening
beings and should fulfill omniscience.’ When the celestials hear this voice
of teaching, they grieve and lament and give rise to revulsion and are
all inspired to seek enlightenment. Eighth, great enlightening beings
living in the palace of the heaven of satisfaction are able, without leaving
their original place, to go to the abodes of all the innumerable buddhas in
the ten directions, see the buddhas, approach them and pay respects to
them, and reverently listen to their teaching. At that time the buddhas,
in order to enable enlightening beings to attain the supreme state of
coronation, explain to them a stage of enlightening beings called ‘all
spiritual capacities,’ in which all supreme virtues are attained by instan-
taneous realizational wisdom, and they enter the stage of all knowledge.
Ninth, great enlightening beings living in the palace of the heaven of
satisfaction, wishing to honor the buddhas, use great spiritual powers
to produce various offerings called ‘extraordinarily pleasing,’ filling all
worlds throughout the space of the cosmos, and present them to the
buddhas — when the sentient beings of those worlds see those offerings,
all are inspired to seek supreme enlightenment. Tenth, great enlight-
ening beings in the heaven of satisfaction set forth infinite teachings like
illusions, like reflections, pervading all worlds in the ten directions,
manifesting various forms, various characteristics, various bodies, var-
ious modes of conduct, various activities, various methods, various meta-
phors, various explanations, gladdening all sentient beings according to
their mentalities. These are the ten kinds of activities of enlightening
beings in the heaven of satisfaction: if they accomplish these things, they
can subsequently be born in the human world.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát ở Ðâu Suất thiên cung có mười công việc:
Vì chư Thiên Tử cõi Dục mà nói pháp nhàm lìa. Bảo rằng tất cả tự tại đều là vô thường, tất cả khoái lạc đều sẽ suy mất, khuyên chư Thiên Tử phát tâm Bồ đề. Ðây là công việc thứ nhứt.
Vì chư Thiên cõi Sắc mà nói nhập xuất các thiền tam muội giải thoát. Nếu ở trong đây mà sanh lòng ái trước thời nhơn nơi ái lại phát khởi thân kiến, tà kiến, vô minh v. v… Vì họ mà nói trí huệ như thiệt. Nếu họ đối với những pháp sắc, phi sắc phát khởi tưởng điên đảo cho là thanh tịnh, thời vì họ mà nói bất tịnh đều là vô thường. Khuyên họ phát tâm Bồ đề. Ðây là công việc thứ hai.
Ðại Bồ Tát ở Ðâu Suất Thiên cung nhập tam muội tên là quang minh trang nghiêm. Thân phóng quang minh chiếu khắp Ðại Thiên thế giới. Tùy tâm chúng sanh mà dùng các thứ âm thanh để thuyết pháp. Chúng sanh nghe pháp xong, tín tâm thanh tịnh, sau khi chết sanh về cung trời Ðâu Suất. Bồ Tát lại khuyên họ phát tâm Bồ đề. Ðây là công việc thứ ba.
Ðại Bồ Tát ở Ðâu Suất Thiên cung dùng vô ngại nhãn thấy khắp tất cả Bồ Tát trong cung trời Ðâu Suất ở mười phương. Chư Bồ Tát kia cũng đều thấy đây. Ðã thấy nhau, chư Bồ Tát cùng luận nói diệu pháp: những là giáng thần, nhập thai, sơ sanh, xuất gia, qua đến đạo tràng, đủ đại trang nghiêm. Và lại thị hiện những công hạnh đã làm từ xưa đến nay. Do công hạnh đó mà thành đại trí này và tất cả công đức. Chẳng rời bổn xứ mà có thể thị hiện những sự như vậy. Ðây là công việc thứ tư.
Ðại Bồ Tát ở Ðâu Suất Thiên cung, chúng Bồ Tát ở tất cả cung trời Ðâu Suất mười phương đều vân tập đến vây quanh cung kính. Bấy giờ Ðại Bồ Tát muốn cho chư Bồ Tát đó đều được thỏa mãn tâm nguyện sanh lòng hoan hỷ, nên tùy theo chư Bồ Tát đáng ở bực nào, tùy theo sở hành, sở đoạn, sở tu, sở chứng mà diễn thuyết pháp môn. Chư Bồ Tát đó nghe pháp xong đều rất hoan hỷ được chưa từng có đều trở về bổn độ. Ðây là công việc thứ năm.
Ðại Bồ Tát ở Ðâu Suất Thiên cung. Bấy giờ chúa cõi Dục, Thiên ma Ba Tuần vì muốn phá hoại công nghiệp của Bồ Tát nên cùng quyến thuộc đến chỗ Bồ Tát. Bồ Tát vì hàng phục ma quân nên trụ kim cang đạo nhiếp Bát nhã Ba la mật phương tiện thiện xảo trí huệ môn, dùng hai lời nói nhu nhuyến và thô bạo mà thuyết pháp cho họ, làm cho Ma Vương Ba Tuần không hại được. Ma quân thấy oai lực tự tại của Bồ Tát nên đều phát tâm Bồ đề Vô thượng. Ðây là công việc thứ sáu.
Ðại Bồ Tát ở Ðâu Suất Thiên cung biết chư Thiên Tử cõi Dục chẳng thích nghe pháp. Bây giờ Bồ Tát phát tiếng to bảo họ rằng: ngày nay Bồ Tát ở trong Thiên cung sẽ hiện sự hy hữu, nếu muốn được thấy thời phải mau đến. Chư Thiên Tử nghe lời này xong đều vân tập đến cung Ðâu Suất. Bồ Tát vì họ mà hiện sự hy hữu. Chư Thiên Tử được thấy nghe đều rất hoan hỷ say sưa. Trong âm nhạc lại có tiếng bảo rằng: này các Ngài ! Tất cả hành pháp đều vô thường, đều là khổ. Tất cả pháp đều vô ngã, là Niết bàn tịch diệt. Rồi lại bảo rằng: các Ngài đều phải tu hạnh Bồ Tát, đều phải viên mãn nhứt thiết chủng trí. Chư Thiên Tử nghe xong, lo buồn than thở đều sanh lòng yểm ly, tất cả đều phát tâm Vô thượng Bồ đề. Ðây là công việc thứ bảy.
Ðại Bồ Tát ở Ðâu Suất Thiên cung, chẳng rời bỏ bổn xứ mà đều có thể qua đến mười phương vô lượng tất cả chỗ chư Phật, thấy chư Như Lai thân cận lễ bái cung kính nghe pháp. Bấy giờ chư Phật muốn cho Bồ Tát được pháp tối thượng quán đảnh nên nói Bồ Tát địa tên là nhứt thiết thần thông, dùng một niệm tương ưng huệ đầy đủ tất cả công đức tối thắng nhập vị nhứt thiết chủng trí. Ðây là công việc thứ tám.
Ðại Bồ Tát ở Ðâu Suất Thiên cung vì muốn cúng dường chư Phật Như Lai nên dùng đại thần lực hiện khởi những đồ cúng dường tên là thù thắng khả lạc, khắp tất cả thế giới trong pháp giới hư không giới để cúng dường chư Phật. Trong các thế giới ấy, vô lượng chúng sanh thấy sự cúng dường này đều phát tâm vô thượng Bồ đề. Ðây là công việc thứ chín.
Ðại Bồ Tát ở Ðâu Suất Thiên cung xuất sanh vô lượng vô biên như huyễn như ảnh pháp môn cùng khắp mười phương tất cả thế giới, thị hiện những sắc, những tướng, những hình thể, những oai nghi, những sự nghiệp, những phương tiện, những ví dụ, những ngôn thuyết, tùy tâm chúng sanh đều làm cho họ hoan hỷ. Ðây là công việc thứ mười.
Nếu chư Bồ Tát thành tựu pháp này thời có thể sau này sanh xuống thế gian.
Page 1103 – Detachment from the World
“When great enlightening beings in the heaven of satisfaction are
about to descend to be born in the human world, they manifest ten
things. First, they radiate a tremendous light from their feet, called
adornment of peace and happiness, which illumines all the miserable
states in the universe; all sentient beings who come in contact with this
light attain peace and happiness free from suffering, and, having realized
peace and happiness, they realize that an extraordinarily great person is
going to come forth into the world. Second, they emit a tremendous
light, called awakening, from the curl of white hair between their brows,
illumining the whole universe, shining on all the enlightening beings
they worked with in the past; those enlightening beings, bathed in this
light, know that an enlightening being is about to be born down on
earth, and each produce innumerable offerings and bring them to present
to the enlightening being. Third, they emanate from their right palms a
great light, called realm of purity, which can purify all universes: if there
are any individual illuminates therein who have attained noncontami-
nation and become aware of this light, they give up their lives; if they do
not become aware of this light, they are moved to other worlds by the
power of the light; all demons, false teachers, and sentient beings with
opinions are also removed to other worlds, except sentient beings who
are sustained by the spiritual power of buddhas and are fit to be taught.
Fourth, they emit great lights from their knees, called pure adornments,
which illumine all the palaces of all the heavens; all the celestial beings in
those heavens realize that enlightening beings in the heaven of satisfac-
tion are about to descend to be born in the human world, and they feel
bereaved and saddened, and each brings various flower garlands, clofh-
ing, perfumes, aromatic powders, banners, canopies, and music to the
enlightening beings and respectfully present them, and then follow the
enlightening beings in their descent to birth and on till their extinction.
Fifth, from their gammadion thunderbolt— adorned heart enlightening
beings radiate tremendous light, called symbol of invincibility, which
shines on the thunderbolt-bearers of power in all worlds; thereupon a
hundred billion thunderbolt-bearers all gather and follow and guard the
enlightening beings from their birth till their extinction. Sixth, from
each pore of their bodies they radiate great lights, called distinguishing
sentient beings, which illumine all universes and touch the bodies of
all enlightening beings and also touch the bodies of all celestials and
humans; the enlightening beings and others all think they should stay
there and honor the buddhas and edify sentient beings. Seventh, from
the great jewel palaces they radiate immense light, called continuous
observation, which illumines the places where these enlightening beings
are going to be born; thereafter other enlightening beings follow them
down to earth and take on birth in the same houses, the same villages, or
the same cities, in order to teach sentient beings. Eighth, from the celes-
tial palace halls and from the ornaments of the magnificent balconies,
they radiate a great light, called pure adornments of all palaces, which
Page 1104 – The Flower Ornament Scripture
shines on the abdomens of the mothers by whom they will be born and
causes the mothers to be calm and comfortable and replete with all
virtues; in the bellies of the mothers there are naturally immense man-
sions adorned with great treasures in which to rest the bodies of the en-
lightening beings. Ninth, they emanate from their feet vast light, called
skillfully abiding; celestials about to die who are bathed in this light all
have their lives prolonged and provide for the enlightening beings from
their birth till their extinction. Tenth, from their minor embellishments
they radiate great light, called array of eyes which shows the enlight-
ening beings’ various deeds; at that time humans and celestials may see
the enlightening beings in the heaven of satisfaction, or in the womb, or
newborn, or leaving home, or attaining enlightenment, or conquering
demons, or teaching, or entering extinction. Great enlightening beings
emanate countless such lights from their bodies, their thrones, their
palaces, their towers, all showing various works of enlightening beings;
and, having shown these works, because they are replete with all virtues,
they descend from the heaven of satisfaction to be born in the human
world.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát ở Ðâu Suất Thiên cung lúc sắp giáng sanh hiện ra mười sự:
Ðại Bồ Tát từ trời Ðâu Suất giáng sanh, từ dưới chân phóng đại quang minh tên là an lạc trang nghiêm, chiếu khắp cõi Ðại Thiên thế giới, tất cả ác đạo, những chúng sanh hoạn nạn được quang minh chạm nhầm mình thời đều khỏi khổ được an lạc. Ðược an lạc rồi biết sắp có bực đại nhơn kỳ đặc xuất hiện thế gian. Ðây là sự thị hiện thứ nhứt.
Ðại Bồ Tát ở trời Ðâu Suất lúc giáng sanh, từ trong tướng bạch hào giữa chặng mày phóng đại quang minh tên là giác ngộ chiếu khắp Ðại Thiên thế giới, soi đến thân của chư Bồ Tát đồng hành với mình từ đời trước chư Bồ Tát đó được quang minh chiếu đến, biết đại Bồ Tát sắp giáng sanh, liền đem vô lượng đồ cúng dường đến chỗ Ðại Bồ Tát để cúng dường. Ðây là sự thị hiện thứ hai.
Ðại Bồ Tát ở trời Ðâu Suất lúc sắp giáng sanh, ở trong bàn tay hữu phóng đại quang minh tên là thanh tịnh cảnh giới đều có thể trang nghiêm thanh tịnh tất cả Ðại Thiên thế giới. Trong đây nếu có hàng Bích Chi Phật chứng được vô lậu, thấy biết quang minh này thời liền xả thọ mạng. Nếu những vị không hay biết thời oai lực của quang minh dời họ đến trong những thế giới phương khác. Tất cả những ma và các ngoại đạo, hàng chúng sanh có kiến chấp đều cũng dời đến thế giới phương khác, chỉ trừ những chúng sanh đáng được hoá độ do thần lực của Phật nhiếp trì. Ðây là sự thị hiện thứ ba.
Ðại Bồ Tát ở trời Ðâu Suất lúc sắp giáng sanh từ đầu gối phóng đại quang minh tên là Thanh tịnh trang nghiêm chiếu khắp cung điện của chư Thiên, dưới chiếu đến trời Hộ Thế Tứ Thiên Vương, trên chiếu suốt trời Tịnh Cư. Chư Thiên trong tất cả cõi trời đều biết đại Bồ Tát ở cung Ðâu Suất sắp giáng sanh, tất cả đồng có lòng luyến mộ buồn than lo rầu, cùng nhau đem những tràng hoa, y phục, hương bột, hương thoa, phan lọng, kỹ nhạc đến chỗ Bồ Tát để cung kính cúng dường, theo Bồ Tát hạ sanh nhẫn đến nhập Niết bàn. Ðây là sự thị hiện thứ tư.
Ðại Bồ Tát ở trời Ðâu Suất lúc sắp giáng sanh, trong tâm trạng kim cang trang nghiêm nơi tướng chữ “vạn” phóng đại quang minh tên là Vô năng thắng tràng, chiếu khắp tất cả thế giới mười phương đến thân của tất cả Kim Cang lực sĩ. Bấy giờ có trăm ức Kim Cang lực sĩ đều vân tập theo hầu hạ đại Bồ Tát từ lúc giáng sanh nhẫn đến lúc nhập Niết bàn. Ðây là sự thị hiện thứ năm.
Ðại Bồ Tát ở trời Ðâu Suất lúc sắp giáng sanh, từ tất cả lỗ lông trên thân phóng đại quang minh tên là phân biệt chúng sanh, chiếu khắp Ðại Thiên thế giới, chạm đến thân của tất cả Bồ Tát, lại chạm đến tất cả chư Thiên và người đời. Chư Bồ Tát đó đồng nghĩ rằng tôi phải ở lại đây để cúng dường đức Như Lai giáo hóa chúng sanh. Ðây là sự thị hiện thứ sáu.
Ðại Bồ Tát ở trời Ðâu Suất lúc sắp giáng sanh từ trong điện đại ma ni bửu tạng phóng đại quang minh tên là Thiện trụ quán sát chiếu đến chỗ của Bồ Tát này sẽ sanh. Quang minh này đã chiếu xong, những Bồ Tát khác đều theo dõi xuống Diêm Phù Ðề, hoặc ở nơi nhà, hoặc ở tụ lạc, hoặc ở thành ấp mà hiện thọ sanh, vì muốn giáo hoá các chúng sanh. Ðây là sự thị hiện thứ bảy.
Ðại Bồ Tát ở trời Ðâu Suất lúc sắp giáng sanh từ cung điện cõi trời và trong những đồ trang nghiêm nơi đại lâu các phóng đại quang minh tên là Nhứt thiết cung điện thanh tịnh trang nghiêm chiếu đến bụng của mẹ sẽ thác sanh. Quang minh chiếu xong, làm cho Thánh Mẫu an ổn vui vẻ, thành tựu đầy đủ tất cả công đức. Trong bụng Thánh Mẫu tự nhiên có lâu các quảng đại trang nghiêm với đại ma ni bửu, nơi đây là chỗ sẽ ở của thân đại Bồ Tát. Ðây là sự thị hiện thứ tám.
Ðại Bồ Tát ở trời Ðâu Suất lúc sắp giáng sanh, từ dưới hai chân phóng đại quang minh tên là Thiện Trụ. Nếu chư Thiên Tử và các Phạm Thiên sắp lâm chung được quang minh chạm đến thân thời đều được trụ thọ mạng cúng dường đại Bồ Tát từ lúc mới hạ sanh nhẫn đến nhập Niết bàn. Ðây là sự thị hiện thứ chín.
Ðại Bồ Tát ở trời Ðâu Suất lúc sắp giáng sanh từ trong tùy hình hảo phóng đại quang minh tên là Nhựt nguyệt trang nghiêm, thị hiện những công nghiệp củ Bồ Tát. Bấy giờ người và trời hoặc thấy Bồ Tát ở cung Ðâu Suất, hoặc thấy nhập thai, hoặc thấy sơ sanh, hoặc thấy xuất gia, hoặc thấy Thành đạo hoặc thấy hàng ma, hoặc thấy chuyển Pháp luân, hoặc thấy nhập Niết bàn. Ðây là sự thị hiện thứ muời.
Ðại Bồ Tát nơi thân, nơi tòa, nơi cung điện, trong lâu các phóng trăm muôn vô số đại quang minh như vậy đều hiển hiện những sự nghiệp của đại Bồ Tát. Thị hiện sự nghiệp này rồi, vì đầy đủ tất cả công đức nên từ cung trời Ðâu Suất sanh xuống nhơn gian.
Hán Bộ Quyển Thứ 59
“There are ten phenomena involved in the great enlightening beings’
manifestation of being in the womb. First, great enlightening beings want
to develop sentient beings who are small-minded and low in under-
standing, and not let them get the idea that the enlightening beings are
spontaneously born by transformation and that their knowledge and
virtues do not derive from cultivation — for this reason enlightening
beings appear in the womb. Second, because they want to ripen the roots
of goodness of their parents, families, and those who did the same prac-
tices as they did in the past, they appear in the womb because the roots of
goodness of those people will be developed by seeing the enlightening
beings in the womb. Third, when the enlightening beings enter the
womb, they are in a state of right mindfulness and right knowledge,
without any confusion; and once they are in the womb they remain cor-
rectly mindful, without distraction. Fourth, while great enlightening
beings are in the womb, they always expound the truth; the enlightening
beings and major deities of all worlds gather around them and all are
caused to attain boundless spiritual capacities and knowledge — the en-
lightening beings in the womb have developed such higher faculties of
intellectual powers. Fifth, while the great enlightening beings are in the
womb, they gather great congregations, and by the power of their past
vows edify all the hosts of enlightening beings. Sixth, great enlightening
beings achieve buddhahood among humans, so they should receive the
best of births, as humans; therefore they appear in the mother’s womb.
Seventh, when the great enlightening beings are in the mother’s womb,
all the sentient beings in the universe see them, as if seeing their own
faces in a mirror. At that time the great-hearted among the various
beings all come to the enlightening beings and respectfully present offer-
ings to them. Eighth, when great enlightening beings are in the mother’s
Page 1105 – Detachment from the World
womb, all the enlightening beings from other worlds who are in their
final lives come and assemble and recite a great collection of teachings
called vast treasury of knowledge. Ninth, when great enlightening
beings are in the mother’s womb, they enter the concentration that is
the treasury of purification and by the power of concentration manifest
within the mother’s womb all kinds of adornments of a great palace, all
wonderfully fine, to which even the palace of the heaven of satisfaction
cannot compare, and cause the mother’s body to be comfortable and free
from pain. Tenth, when great enlightening beings are in the mother’s
womb, by their enormous spiritual power they produce offerings called
opening the pure treasury of virtue and offer them to all buddhas in all
worlds; the buddhas all explain to them the infinite matrix of enlight-
ening beings’ abode in the cosmos of reality. These are the ten phenom-
ena involved in great enlightening beings’ appearance in the womb; if
they master these, they can reveal extremely subtle processes.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát thị hiện ở thai mẹ có mười sự:
Ðại Bồ Tát vì muốn thành tựu những chúng sanh tâm nhỏ hiểu kém, chẳng muốn cho họ nghĩ rằng: Nay đức Bồ Tát này tự nhiên hóa sanh trí huệ thiện căn đều tự được chẳng từ công phu tu tập. Vì cớ đây nên Bồ Tát thị hiện ở thai mẹ. Ðây là sự thứ nhứt.
Ðại Bồ Tát vì thành thục phụ mẫu và các quyến thuộc, những chúng sanh đồng tu thiện căn từ đời trước nên thị hiện ở thai mẹ. Tại sao vậy? Vì những người này cần phải thấy Bồ Tát ở thai mẹ mới thành thục những thiện căn mà họ đã có. Ðây là sự thứ hai.
Ðại Bồ Tát lúc vào thai mẹ, luôn chánh niệm chánh tri không mê lầm. Ðã ở thai mẹ, tâm Bồ Tát hằng chánh niệm cũng không lầm loạn. Ðây là sự thứ ba.
Ðại Bồ Tát ở trong thai mẹ thường diễn thuyết pháp. Chư đại Bồ Tát ở thập phương thế giới cùng Ðế Thích, Phạm Thiên, Hộ Thế Tứ Thiên Vương đều đến tập hội, đều làm cho được vô lượng thần lực, vô biên trí huệ. Lúc ở trong thai mẹ, đại Bồ Tát thành tựu biện tài công dụng thù thắng như vậy. Ðây là sự thứ tư.
Ðại Bồ Tát ở trong thai mẹ nhóm họp đại hội, dùng sức bổn nguyện giáo hoá tất cả chúng Bồ Tát. Ðây là sự thứ năm.
Ðại Bồ Tát thành Phật ở trong loài người thời phải đủ sự thọ sanh tối thắng. Do cớ này nên thị hiện ở thai mẹ. Ðây là sự thứ sáu.
Ðại Bồ Tát ở trong thai mẹ, chúng sanh trong Ðại Thiên thế giới đều thấy Bồ Tát như thấy bóng mình hiện rõ trong gương. Bấy giờ chư Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Nhơn, Phi nhơn v.v…những hàng có đại tâm, đều đến chỗ Bồ Tát để cung kính cúng dường. Ðây là sự thứ bảy.
Ðại Bồ Tát ở trong thai mẹ, tất cả tối hậu sanh Bồ Tát ở thai mẹ trong mười phương đều đến cùng hội họp diễn thuyết pháp môn đại tập tên là quảng đại trí huệ tạng. Ðây là sự thứ tám.
Ðại Bồ Tát ở trong lúc thai me nhập ly cấu tạng tam muội. Dùng sức tam muội ở trong thai mẹ hiện cung điện lớn trang nghiêm tốt đẹp. Thiên cung Ðâu Suất không sánh kịp. Nhưng thân mẹ vẫn an ổn vô sự. Ðây là sự thứ chín.
Ðại Bồ Tát lúc ở thai mẹ dùng oai lực sắm đồ cúng dường tên là khai đại phước đức ly cấu tạng khắp đến tất cả thế giới mười phương để cúng dường tất cả chư Phật Như Lai. Chư Như Lai đó đều vì đại Bồ Tát mà diễn nói vô biên Bồ Tát ở pháp giới tạng. Ðây là sự thứ mười.
Nếu chư Bồ Tát rõ thấu mười sự thị hiện ở thai mẹ này, thời có thể thị hiện sự qua đến thậm thâm vi tế.
“Great enlightening beings have ten extremely subtle processes: while
in the mother’s womb, showing the first inspiration for enlightenment
up to the stage of coronation; while in the mother’s womb, showing life
in the palace of the heaven of satisfaction; while in the mother’s womb,
showing birth; while in the mother’s womb, showing childhood; while
in the mother’s womb, showing life in a royal palace; while in the
mother’s womb, showing departure from householding life; while in
the mother’s womb, showing the practice of austerities, going to the site
of enlightenment, and attaining true awakening; while in the mother’s
womb, showing the turning of the wheel of teaching; while in the
mother’s womb, showing ultimate extinction; while in the mother’s
womb, showing a great subtlety called infinite different aspects of the
practices of all enlightening beings and the autonomous spiritual powers
of all buddhas. Based on these, enlightening beings can attain buddhas’
supreme subtle process of great knowledge.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười sự qua đến thậm thâm vi tế:
Ở trong thai mẹ, đại Bồ Tát thị hiện sơ phát tâm Bồ đề nhẫn đến bực quán đảnh.
Ở trong thai mẹ thị hiện ở Ðâu Suất Thiên cung.
Ở trong thai mẹ thị hiện sơ sanh.
Ở trong thai mẹ thị hiện đồng tử.
Ở trong thai mẹ thị hiện ở vương cung.
Ở trong thai mẹ thị hiện xuất gia.
Ở trong thai mẹ thị hiện khổ hạnh đến ngồi đạo tràng thành bực Ðẳng Chánh Giác.
Ở trong thai mẹ thị hiện Chuyển pháp luân.
Ở trong thai mẹ thị hiện nhập Niết bàn.
Ở trong thai mẹ thị hiện đại vi tế : những là tất cả Bồ Tát hạnh, tất cả Như Lai tự tại thần lực vô lượng môn sai biệt.
Nếu chư Bồ Tát an trụ trong mười môn qua đến thậm thâm vi tế này thời được đại trí huệ thâm thâm vi tế vô thượng của đức Như Lai.
“Great enlightening beings have ten kinds of birth: birth with right
awareness and right knowledge, free from folly and delusion; birth
radiating great networks of light beams illuminating the whole universe;
birth in the final existence, never to be reincarnated; unborn, unorigi-
nated birth; birth knowing the triple world to be like an illusion; birth
appearing corporeally everywhere in all worlds in the ten directions;
birth in a body realizing omniscience; birth in a body emanating the
lights of all buddhas and awakening all sentient beings; birth in a body
entering contemplative concentration with great knowledge. When
great enlightening beings are born, they shake all buddha-lands, liberate
all sentient beings, annihilate all states of misery, and eclipse all demons;
innumerable enlightening beings come and gather around them. These
are the ten kinds of birth of enlightening beings, which they manifest
in order to pacify sentient beings.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười điều sanh:
Xa lìa ngu si, chánh niệm chánh tri mà sanh.
Phóng lưới đại quang minh chiếu khắp Ðại Thiên thế giới mà sanh.
Trụ tối hậu hữu chẳng còn thọ thân sau mà sanh.
Bất sanh bất khởi mà sanh.
Biết tam giới như huyễn mà sanh.
Khắp hiện thân nơi thập phương thế giới mà sanh.
Chứng thân nhứt thiết chủng trí mà sanh.
Phóng tất cả Phật quang minh khắp giác ngộ tất cả chúng sanh mà sanh.
Nhập đại trí quán sát tam muội mà sanh.
Bồ Tát lúc sanh, chấn động tất cả cõi Phật, giải thoát tất cả chúng sanh, trừ diệt tất cả ác đạo che chói tất cả các ma, vô lượng Bồ Tát đều đến nhóm họp.
Ðây là mười điều sanh của đại Bồ Tát, vì điều phục chúng sanh mà thị hiện như vậy.
“There are ten reasons why great enlightening beings smile and make
a promise in their hearts. They think, ‘All worldlings are sunk in the
Page 1106 – The Flower Ornament Scripture
mire of craving, and no one but I can rescue them.’ They also think, ‘All
worldlings are blinded by passions and afflictions, and only I now have
wisdom.’ They also think, ‘Based on this so-called body I will attain the
supreme reality-body of buddhas, which fills all times.’ Then the enlight-
ening beings, with unobstructed eyes, look over all the Brahma heavens
and all the controlling heavens, and think, ‘These sentient beings all think
they have the power of great knowledge.’ Then the enlightening beings
observe sentient beings who have long planted roots of goodness and
who now are regressing and sinking. The enlightening beings observe
that though the seeds sown in the world be few, the fruits reaped are
many. The enlightening beings see that all sentient beings who receive
the teaching of Buddha will surely gain benefit. The enlightening beings
see that enlightening beings who were their colleagues in past ages have
become obsessed with other things and cannot attain the great virtues of
the Buddha teaching. The enlightening beings see that the celestials and
humans who were in the same communities with them in the past still
are in mundane states, unable to detach from them, and not tiring of
them either. Then enlightening beings are bathed in the lights of all
buddhas and are even more joyful. These are the ten reasons great en-
lightening being smile and make a promise in their hearts; great enlight-
ening beings appear in this way to pacify sentient beings.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát do mười sự mà thị hiện vi tiếu tâm tự thệ:
Ðại Bồ Tát nghĩ rằng: Tất cả thế gian chìm tại vũng bùn ái dục, trừ một tôi ra không ai có thể cố gắng cứu tế được. Nghĩ biết như vậy rồi, Bồ Tát vui vẻ vi tiếu tâm tự thệ.
Lại nghĩ rằng: Tất cả thế gian bị phiền não làm mù, duy có tôi nay là người đầy đủ trí huệ. Bồ Tát nghĩ biết như vậy vui vẻ vi tiếu tâm tự thệ.
Lại nghĩ rằng: Nay tôi do thân giả danh này sẽ được pháp thân vô thượng sanh mãn tam thế của đức Như Lai. Nghĩ biết như vậy, Bồ Tát vui vẻ vi tiếu tâm tự thệ.
Bấy giờ Bồ Tát dùng mắt vô chướng ngại quan sát tất cả Phạm Thiên nhẫn đến tất cả Ðại Tự Tại Thiên trong mười phương mà tự nghĩ rằng: những chúng sanh này đều tự cho rằng mình có đại trí lực. Bồ Tát nghĩ biết như vậy vui vẻ vi tiếu tâm tự thệ.
Bấy giờ Bồ Tát quán sát các chúng sanh từ lâu gieo trồng căn lành, nay đều thối mất. Nghĩ biết như vậy, Bồ Tát vui vẻ vi tiếu tâm tự thệ.
Bồ Tát quán sát thấy thế gian chủng tử gieo trồng dầu ít mà được quả rất nhiều. Nghĩ biết như vậy vui vẻ vi tiếu tâm tự thệ.
Bồ Tát quán sát thấy tất cả chúng sanh được Phật giáo hoá quyết định được lợi ích. Nghĩ biết như vậy, Bồ Tát vui vẻ vi tiếu tâm tự thệ.
Bồ Tát quán sát thấy trong đời quá khứ chư Bồ Tát đồng hành nhiễm trước việc khác nên chẳng được công đức quảng đại của Phật pháp. Nghĩ biết như vậy, Bồ Tát vui vẻ vi tiếu tâm tự thệ.
Bồ Tát quán sát thấy trong đời quá khứ, hàng nhơn thiên cùng mình tập hội nay còn ở bực phàm phu, không xả ly được, cũng chẳng nhàm mỏi. Nghĩ biết như vậy, Bồ Tát vui vẻ vi tiếu tâm tự thệ.
Bấy giờ Bồ Tát được quang minh của tất cả Như Lai chiếu đến càng thêm hân hoan, vui vẻ vi tiếu tâm tự thệ.
Ðại Bồ Tát vì điều phục chúng sanh nên thị hiện như vậy.
“There are ten reasons great enlightening beings show the act of
walking seven steps; to manifest the power of enlightening beings; to
manifest the giving of the seven kinds of wealth; to satisfy the wishes of
the spirits of the earth; to manifest the appearance of transcending the
three worlds; to manifest the supreme walk of the enlightening being,
beyond the walk of the elephant, the bull, or the lion; to manifest the
characteristics of adamantine ground; to manifest the desire to give sen-
tient beings courageous strength; to manifest the practice of the seven
jewels of awakening; to show that the truth they have realized does not
come from the instruction of another; to manifest supreme peerlessness
in the world. These are the ten reasons they show the act of walking
seven steps after birth; they manifest this to pacify sentient beings.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười sự mà thị hiện đi bảy bước:
Vì hiện Bồ Tát lực mà thị hiện đi bảy bước.
Vì hiện xả thí bảy Thánh tài mà thị hiện đi bảy bước.
Vì cho địa thần thỏa nguyện nên thị hiện đi bảy bước.
Vì hiện tướng siêu tam giới nên thị hiện đi bảy bước.
Vì hiện bước đi tối thắng của Bồ Tát hơn hẳn bước đi của tượng vương, ngưu vương, sư tử vương mà thị hiện đi bảy bước.
Vì hiện tướng Kim cang địa mà thị hiện đi bảy bước.
Vì hiện muốn ban cho chúng sanh sức dũng mãnh mà thị hiện đi bảy bước.
Vì hiện tu hành thất giác bửu mà thị hiện đi bảy bước.
Vì hiện pháp đã được chẳng do người khác dạy nên thị hiện đi bảy bước.
Vì hiện là tối thắng vô tỷ ở thế gian nên thị hiện đi bảy bước.
Ðại Bồ Tát vì điều phục chúng sanh nên thị hiện đi bảy bước như vậy.
“Great enlightening beings appear as children for ten reasons: to
manifest the learning of all worldly arts and sciences; to manifest the
learning of riding and military art and various worldly occupations; to
manifest the learning of all kinds of worldly things such as literature,
conversation, games, and amusements; to manifest the shedding of errors
and faults of word, thought, and deed; to manifest entering concentra-
tion, staying in the door of nirvana, and pervading infinite worlds in the
ten directions; to show that their power goes beyond all creatures, celes-
tial, human, and nonhuman; to show that the appearance and majesty of
enlightening beings goes beyond all deities; to cause sentient beings
addicted to sensual pleasures to joyfully take pleasure in truth; to show
the reception of empowerment of buddhas and being bathed in the light
of truth.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát do mười sự mà hiện ở thân đồng tử:
Vì hiện thông đạt tất cả văn tự, toán số, đồ thơ, ấn tỷ, những nghề nghiệp thế gian, mà thị hiện ở thân đồng tử.
Vì hiện thông đạt tất cả những nghề nghiệp vũ thuật binh trận thế gian, mà thị hiện ở thân đồng tử.
Vì hiện thông đạt tất cả những văn bút, đàm luận, cờ nhạc thế gian, mà thị hiện ở thân đồng tử.
Vì hiện xa lìa những lỗi lầm của ba nghiệp thân ngữ ý, mà thị hiện ở thân đồng tử.
Vì hiện môn nhập định trụ Niết bàn khắp cùng mười phương vô lượng thế giới, mà thị hiện ở thân đồng tử.
Vì hiện sức mạnh siêu quá tất cả Thiên, Long, Bát Boa, Ðế Thích, Phạm Vương, Hộ Thế, Nhơn, Phi Nhơn v.v… mà thị hiện ở thân đồng tử.
Vì hiện sắc tướng oai quang của Bồ Tát siêu quá tất cả Ðế Thích, Phạm Vương, Hộ Thế, mà thị hiện ở thân đồng tử.
Vì làm cho những chúng sanh tham đắm nơi dục lạc mến thích pháp lạ, mà thị hiện ở thân đồng tử.
Vì tôn trọng chánh pháp siêng cúng dường Phật cùng khắp tất cả thế giới mười phương, mà hiện ở thân đồng tử.
Vì hiện được đức Phật gia bị, được pháp quang minh mà thị hiện ở thân đồng tử.
Page 1107 – Detachment from the World
“Having appeared as children, great enlightening beings appear to
live in a royal palace for ten reasons: to cause the roots of goodness of
their colleagues of the past to develop to maturity; to show the power of
roots of goodness of enlightening beings; to show the comforts of great
spiritual power of enlightening beings to humans and celestials who are
obsessed with comforts; to adapt to the minds of sentient beings in the
polluted world; to manifest the spiritual power of enlightening beings,
able to enter concentration in the heart of the palace; to enable those
who had the same aspirations in the past tofulfill their aims; to enable
their parents, family, and relatives tofulfill their wishes; to use music to
produce the sounds of the sublime teaching to offer to all buddhas; to
dwell in subtle concentration while in the palace and show everything
from the attainment of buddhahood to final extinction; and to accord
with and preserve the teachings of the buddhas.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát thị hiện ở thân đồng tử rồi, do mười sự mà thị hiện ở Vương cung:
Vì làm cho những chúng sanh đồng tu hành từ đời trước được thiện căn thành thục mà thị hiện ở Vương cung. Vì hiển thị sức thiện căn của Bồ Tát, mà thị hiện ở Vương cung.
Vì những người, trời tham đắm nơi đồ vui thích, nên hiển hiện đồ vui thích đại oai đức của Bồ Tát, mà thị hiện ở Vương cung.
Vì thuận tâm chúng sanh đời ngũ trược mà thị hiện ở Vương cung.
Vì hiện sức đại oai đức của Bồ Tát có thể ở thâm cung nhập tam muội, mà thị hiện ở Vương cung.
Vì làm cho chúng sanh đồng nguyện ở đời trước thỏa mãn ý niệm, mà thị hiện ở Vương cung.
Vì muốn dùng kỹ nhạc phát ra tiếng diệu pháp cúng dường tất cả chư Phật Như Lai, mà thị hiện ở Vương cung.
Vì muốn ở tại trong cung trụ tam muội vi diệu, ban đầu từ thành Phật nhẫn đến Niết bàn đều hiển bày mà thị hiện ở Vương cung.
Vì tùy thuận thủ hộ Phật pháp mà thị hiện ở Vương Cung.
“After enlightening beings in their final embodiment have appeared
in a royal palace, they leave home. Great enlightening beings demon-
strate leaving home for ten reasons: to reject living at home; to cause
sentient beings attached to their homes to give up their attachment; to
follow and appreciate the path of saints; to publicize and praise the vir-
tues of leaving home; to demonstrate eternal detachment from extreme
views; to cause sentient beings to detach from sensual and selfish plea-
sures; to show the appearance of transcending the world; to show in-
dependence, not being subject to another; to show that they are going to
attain the ten powers and fearlessnesses of buddhas; and because it is
natural that enlightening beings in their final life should do so. Enlight-
ening beings use this manifestation of leaving home to pacify sentient
beings.
Tối hậu thân Bồ Tát thị hiện ở Vương Cung như vậy rồi, sau đó mới xuất gia.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát do mười sự mà thị hiện xuất gia:
Vì nhàm ở tại gia, mà thị hiện xuất gia.
Vì chúng sanh tham đắm tại gia, mà thị hiện xuất gia.
Vì tùy thuận tin mến đạo Thánh nhơn, mà thị hiện xuất gia.
Vì tuyên dương tán thán công đức xuất gia, mà thị hiện xuất gia.
Vì hiển bày lìa hẳn kiến chấp nhị biên, mà thị hiện xuất gia.
Vì làm cho chúng sanh lìa dục lạc và ngã lạc, mà thị hiện xuất gia.
Vì trước hiện tướng xuất tam giới, mà thị hiện xuất gia.
Vì hiện tự tại chẳng hệ thuộc người khác, mà thị hiện xuất gia.
Vì hiển bày sẽ được Thập lực vô úy của đức Như Lai, mà thị hiện xuất gia.
Vì tối hậu thân Bồ Tát pháp phải như vậy, mà thị hiện xuất gia.
Ðại Bồ Tát dùng pháp xuất gia này mà điều phục chúng sanh.
“Great enlightening beings demonstrate the practice of austerities for
ten reasons: to develop sentient beings with low understanding; to re-
move false views from sentient beings; to show the consequences of
action to sentient beings who do not believe in consequences of action;
because it is natural to do so in accordance with the adulterated and
polluted world; to show the ability to endure toil and diligently work
on the Way; to cause sentient beings to want to seek the truth; for the
sake of sentient beings who are attached to sensual pleasures and selfish
pleasure; in order to show that enlightening beings’ effort is supreme,
continuing to the very last life; to induce sentient beings to enjoy the
state of calm and tranquillity and increase roots of goodness; to wait
until the time is ripe to develop people’s immature faculties. Enlight-
ening beings use these expedient means to pacify all sentient beings.
“Ten things occur when great enlightening beings go to the site of
enlightenment: they illumine all worlds; they cause all worlds to quake;
they manifest their bodies in all worlds; they awaken all enlightening
beings and all their colleagues of the past; they manifest all the adorn-
ments of the site of enlightenment; they manifest various kinds of de-
portment and all the adornments of the tree of enlightenment, showing
Page 1108 – The Flower Ornament Scripture
them according to the inclinations of the minds of sentient beings; they
see all the buddhas of the ten directions; they continually enter concen-
tration with every step and become buddhas moment to moment, with-
out interruption; the leaders of all creatures, unaware of each other,
produce all kinds of wonderful offerings; with unobstructed knowledge
they observe all the buddhas carrying out the deeds of enlightening
beings in all worlds and fulfilling true enlightenment. By these ten things
enlightening beings teach and influence sentient beings.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát vì mười sự mà thị hiện khổ hạnh:
Vì thành tựu những chúng sanh có trình độ hiểu biết kém ít, mà thị hiện khổ hạnh.
Vì trừ tà kiến của chúng sanh, mà thị hiện khổ hạnh.
Vì những chúng sanh chẳng tin nghiệp báo làm cho họ thấy nghiệp báo, mà thị hiện khổ hạnh.
Vì tùy thuận pháp phải có của thế giới tạp nhiễm, mà thị hiện khổ hạnh.
Vì hiện có thể nhẫn chịu khổ nhọc để siêng tu đạo pháp; mà thị hiện khổ hạnh.
Vì làm cho chúng sanh thích cầu pháp, mà thị hiện khổ hạnh.
Vì những chúng sanh say đắm dục lạc ngã lạc, mà thị hiện khổ hạnh.
Vì hiển bày Bồ Tát khởi hạnh thù thắng, nhẫn đến đời tối hậu còn chẳng bỏ siêng năng tinh tấn mà thị hiện khổ hạnh.
Vì làm cho chúng sanh thích pháp tịch tịnh tăng trưởng thiện căn, mà thị hiện khổ hạnh.
Vì chư Thiên và thế nhơn căn tánh chưa thành thục chờ thời gian để được thành thục, mà thị hiện khổ hạnh.
Ðại Bồ Tát dùng phương tiện khổ hạnh này để điều phục chúng sanh.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát đi đến Bồ đề đạo tràng có mười sự:
Lúc đến đạo tràng, chiếu sáng tất cả thế giới mười phương.
Lúc đến đạo tràng, chấn động tất cả thế giới mười phương.
Lúc đến đạo tràng, hiện thân khắp tất cả thế giới mười phương.
Lúc đến đạo tràng, giác ngộ tất cả Bồ Tát và tất cả chúng sanh đồng hành ở đời trước.
Lúc đến đạo tràng, thị hiện tất cả sự trang nghiêm nơi đạo tràng.
Lúc đến đạo tràng, tùy tâm sở thích của các chúng sanh mà vì họ hiện những oai nghi nơi thân và tất cả sự trang nghiêm nơi cây Bồ đề.
Lúc đến đạo tràng, thị hiện thấy tất cả Như Lai mười phương.
Lúc đến đạo tràng, cất chân hạ chân thường nhập tam muội, niệm niệm thành Phật không có vượt cách.
Lúc đến đạo tràng, tất cả Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Ðế Thích, Phạm Vương, Hộ Thế Tứ Thiên Vương, đều sắm dưng những đồ cúng dường thượng diệu lên đại Bồ Tát mà chẳng biết nhau.
Lúc đến đạo tràng, dùng trí vô ngại quán sát khắp tất cả chư Phật Như Lai, nơi tất cả thế giới tu hạnh Bồ Tát mà thành Ðẳng Chánh Gíac.
Ðại Bồ Tát dùng mười sự đến đạo tràng này để giáo hóa chúng sanh.
“Ten things occur when great enlightening beings sit on the site of
enlightenment: they cause all worlds to quake in various ways; they
equally illuminate all worlds; they remove all the sufferings of miserable
states; they cause all worlds to be adamantine; they gaze on the lion
thrones of all the buddhas; their minds are like space, without concep-
tualization; they manifest comportment as appropriate; they rest in ada-
mantine concentration; they receive the pure, sublime place sustained by
the spiritual power of all buddhas; they can strengthen all sentient beings
with the power of their own roots of goodness.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát ngồi đạo tràng có mười sự:
Lúc ngồi đạo tràng, chấn động tất cả thế giới mười phương.
Lúc ngồi đạo tràng, bình đẳng chiếu sánh tất cả thế giới mười phương.
Lúc ngồi đạo tràng, trừ diệt tất cả khổ các ác đạo.
Lúc ngồi đạo tràng, làm cho tất cả thế giới kim cang hiệp thành.
Lúc ngồi đạo tràng, hiện khắp tất cả tòa sư tử của chư Phật Như Lai.
Lúc ngồi đạo tràng, tâm vô phân biệt như hư không.
Lúc ngồi đạo tràng, tùy theo sở nghi mà hiện oai nghi nơi thân.
Lúc ngồi đạo tràng, tùy thuận an trụ Kim cang tam muội.
Lúc ngồi đạo tràng, thọ diệu xứ thanh tịnh của tất cả Như Lai thần lực gia trì.
Lúc ngồi đạo tràng, sức thiện căn của mình có thể gia bị tất cả chúng sanh.
“When great enlightening beings sit on the site of enlightenment,
ten extraordinary, unprecedented events occur: all the buddhas of the
worlds of the ten directions appear before them, raise their right hands,
and praise them as unexcelled guides; all buddhas watch over them and
give them power; the enlightening beings who were their colleagues in
the past come and surround them and respectfully present various adorn-
ments; the plants and trees and all insentient things bend toward the site
of enlightenment; the great enlightening beings enter a concentration
called observing the cosmos, whose power can cause all enlightening
practices to be fulfilled; they attain a spell called oceanic treasury of
supreme pure light, and are able to receive the rain from the great clouds
of teaching of all buddhas; by spiritual powers they produce superb
offerings throughout all worlds which they present to the buddhas; they
rest in highest knowledge and actually know the faculties and mental
patterns of all sentient beings; they enter a concentration called ‘well
aware,’ whose power enables their bodies tofill all worlds in all spaces
in all times; they attain pure illumination and unobstructed great knowl-
edge, enabling their physical actions to penetrate past, present, and fu-
ture. These are the ten extraordinary things that happen when great
enlightening beings sit on the site of enlightenment.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười sự kỳ đặc vị tằng hữu.
Những gì là mười?
Ðại Bồ Tát lúc ngồi đạo tràng, tất cả đức Như Lai trong mười phương thế giới đều hiện ra trước đồng giơ tay khen ngợi rằng: Lành thay! Lành thay! Ðấng vô thượng Ðạo Sư. Ðây là sự kỳ đặc vị tằng hữu thứ nhứt.
Ðại Bồ Tát lúc ngồi đạo tràng, tất cả đức Như Lai thảy đều hộ niệm ban cho oai lực. Ðây là sự kỳ đặc vị tằng hữu thứ hai.
Ðại Bồ Tát lúc ngồi đạo tràng, chúng Bồ Tát đồng hành đời trước đều đến vây quanh cung kính cúng dường những vật trang nghiêm. Ðây là sự kỳ đặc vị tằng hữu thứ ba.
Ðại Bồ Tát lúc ngồi đạo tràng, những loài vô tình như cỏ cây rừng lùm trong tất cả thế giới đều cong thân thấp bóng nghiêng hướng về phía đạo tràng. Ðây là sự kỳ đặc vị tằng hữu thứ tư.
Ðại Bồ Tát lúc ngồi đạo tràng, nhập tam muội tên quán sát pháp giới. Sức tam muội này có thể làm cho Bồ Tát tất cả công hạnh đều được viên mãn. Ðây là sự kỳ đặc vị tằng hữu thứ năm.
Ðại Bồ Tát lúc ngồi đạo tràng, được đà la ni tên là tối thượng ly cấu diệu quang hải tạng, có thể lãnh thọ đại vân pháp vũ của tất cả chư Phật Như Lai. Ðây là sự kỳ đặc vị tằng hữu thứ sáu.
Ðại Bồ Tát lúc ngồi đạo tràng, dùng sức oai đức hiện đồ cúng thượng diệu đến khắp tất cả thế giới cúng dường chư Phật. Ðây là sự kỳ đặc vị tằng hữu thứ bảy.
Ðại Bồ Tát lúc ngồi đạo tràng, an trụ trí tối thắng, đều hiện biết rõ những căn ý hành của tất cả chúng sanh. Ðây là sự kỳ đặc vị tằng hữu thứ tám.
Ðại Bồ Tát lúc ngồi đạo tràng, nhập tam muội tên là Thiện giác. Sức tam muội này có thể làm cho thân Bồ Tát đầy khắp tất cả thế giới trong thập phương tam thế. Ðây là sự kỳ đặc vị tằng hữu thứ chín.
Ðại Bồ Tát lúc ngồi đạo tràng, được ly cấu quang minh vô ngại đại trí làm cho thân nghiệp của mình vào khắp tam thế. Ðây là sự kỳ đặc vị tằng hữu thứ mười.
“When great enlightening beings are sitting on the site of enlighten-
ment, they manifest the conquering of demons because of observing
ten kinds of purpose: because the sentient beings in times of confusion
are bellicose, enlightening beings want to show the spiritual power of
enlightening beings; to cut off the doubts of people in celestial and
mundane states who have doubts; to civilize and tame the armies of
demons; to cause people who like the military to come and observe
demon quelling, so their minds will be subdued; to show that no one in
the world can oppose the powers of enlightening beings; to arouse the
Page 1109 – Detachment from the World
courage and strength of all sentient beings; out of pity for the sentient
beings of degenerate times; to show that even up to the site of enlighten-
ment there are still hordes of demons who come to create disturbance,
and only after this does one finally manage to get beyond the reach of
demons; to show that the force of afflictions is weak and inferior com-
pared with the mighty power of great compassion and virtue; and to do
what must be done in a polluted, evil world. These are the ten reasons
why great enlightening beings manifest demon-conquering.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát lúc ngồi đạo tràng vì quán sát mười nghĩa mà thị hiện hàng ma:
Vì chúng sanh đời ngũ trược thích chiến đấu, muốn hiển bày sức oai đức của Bồ Tát, mà thị hiện hàng ma.
Vì trong hàng chư Thiên thế nhơn có những kẻ hoài nghi, muốn dứt trừ lòng nghi ngờ cho họ, mà thị hiện hàng ma.
Vì giáo hóa điều phục các ma quân, mà thị hiện hàng ma.
Vì muốn cho hàng chư Thiên, thế nhơn, những kẻ thích quân trận đều nhóm đến xem, để tâm họ được điều phục, nên thị hiện hàng ma.
Vì hiển bày oai lực của Bồ Tát trong đời không ai địch nổi, nên thị hiện hàng ma.
Vì muốn phát khởi sức dũng mãnh của tất cả chúng sanh, nên thị hiện hàng ma.
Vì thương xót chúng sanh đời mạt thế, nên thị hiện hàng ma.
Vì muốn hiển bày nhẫn đến chốn đạo tràng mà còn quân ma tới quấy nhiễu, từ đây về sau mớ siêu cảnh giới ma, nên thị hiện hàng ma.
Vì hiển bày nghiệp dụng của phiền não kém yếu, đại từ thiện căn thế lực mạnh mẽ, nên thị hiện hàng ma.
Vì muốn tùy thuận pháp hành của thế giới trược ác, nên thị hiện hàng ma.
“Great enlightening beings have ten kinds of attainment of powers
of the enlightened: they attain the powers of the enlightened because
they transcend the afflictive activities of all demons; because they fulfill
all enlightening practices and master all concentrations of enlightening
beings; because they fully accomplish all the far-reaching meditations of
enlightening beings; because they fulfill all the pure means of fostering
enlightenment; because they attain illumination of knowledge of all
things and can think and analyze well; because their bodies pervade all
worlds; because they can support all by spiritual power; because their
utterances are equal to the minds of all sentient beings; because they are
physically, verbally, and mentally equal to the buddhas of all times, and
can comprehend the things of all times in a single thought; because they
attain concentration of precisely aware knowledge and are imbued with
the ten powers of the enlightened, from knowledge of what is so and
what is not so up to knowledge of extinction of contaminations. If
enlightening beings acquire these ten powers, they are called buddhas,
truly awake.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười điều thành Như Lai lực:
Vì siêu quá tất cả những ma phiền não nghiệp, nên thành Như Lai lực.
Vì đầy đủ tất cả Bồ Tát hạnh, vì du hý tất cả Bồ Tát tam muội môn, nên thành Như Lai lực.
Vì đầy đủ tất cả Bồ Tát quảng đại thiền định, nên thành Như Lai lực.
Vì viên mãn tất cả pháp trợ đạo bạch tịnh, nên thành Như Lai lực.
Vì được tất cả pháp trí huệ quang minh khéo tư duy phân biệt, nên thành Như Lai lực.
Vì thân cùng khắp tất cả thế giới, nên thành Như Lai lực.
Vì ngôn âm phát ra đều đồng với tâm của tất cả chúng sanh, nên thành Như Lai lực.
Vì có thể dùng thần lực gia trì tất cả, nên thành Như Lai lực.
Vì ba nghiệp thân, ngữ, ý đồng với tất cả tam thế chư Phật, trong một niệm biết rõ những pháp trong tam thế, nên thành Như Lai lực.
Vì được thiện giác trí tam muội đủ Như Lai thập lực: những là thị xứ, phi xứ, trí lực nhẫn đến lậu tận trí lực, nên thành Như Lai lực.
Nếu chư Bồ Tát đủ mười Như Lai lực này thời gọi là Như Lai Chánh Ðẳng Giác.
“There are ten aspects of the turning of the great wheel of teaching
by truly awakened buddhas: they are imbued with the knowledge of the
four pure fearlessnesses; they produce utterances eonsonant with the four
intellectual powers; they are able to expound the characteristics of the
four truths; they accord with the unobstructed liberation of all buddhas;
they are able to provoke pure faith in the minds of all sentient beings;
whatever they say is not in vain, being able to extract the poison arrows
of suffering from sentient beings; they are supported by the power of
great compassionate commitment; their utterances pervade all worlds;
they teach endlessly for incalculable eons; the teachings they utter are all
able to produce spiritual faculties and powers, ways of awakening, medi-
tations, liberations, concentrations, and such phenomena. When bud-
dhas teach, it involves infinite such phenomena.
Chư Phật tử! Ðức Như Lai Chánh Ðẳng Giác chuyển đại pháp luân có mười sự:
Một là thanh tịnh đầy đủ bốn trí vô úy.
Hai là xuất sanh bốn biện tài tùy thuận âm thanh.
Ba là khéo có thể khai xiển tướng của bốn chơn đế.
Bốn là tùy thuận chư Phật vô ngại giải thoát.
Năm là có thể làm cho chúng sanh phát tâm tin thanh tịnh.
Sáu là những lời nói ra đều không luống công, đều có thể nhổ trừ tên độc đau khổ cho tất cả chúng sanh.
Bảy là đại bi nguyện lực gia trì.
Tám là khi phát âm thanh đều khắp cùng tất cả thế giới mười phương.
Chín là trong số kiếp chẳng ngớt thuyết pháp.
Mười là tùy thuyết pháp nào cũng đều có thể phát khởi những pháp căn, lực, giác. đạo, thiền định giải thoát tam muội.
Chư Phật Như Lai lúc chuyển đại pháp luân có vô lượng sự như vậy.
“When truly awakened buddhas turn the wheel of teaching, by vir-
tue of ten things they plant pure elements in the minds of sentient beings,
which are not in vain: because of the power of their past vows; because
of being sustained by great compassion; because of not abandoning sen-
tient beings; because of freedom of knowledge able to teach according to
the inclinations of sentient beings; because of unerring timing; because
of according with suitability and not preaching arbitrarily; because of
knowledge of past, present, and future; because buddhas are most excel-
Page 1110 – The Flower Ornament Scripture
lent, without peer; because their sayings are free and unfathomable;
because their knowledge is free and whatever they say is enlightening.
Chư Phật tử! Ðức Như Lai Chánh Ðẳng Giác lúc chuyển đại pháp luân, do mười sự nên ở trong tâm chúng sanh gieo pháp bạch tịnh không hề luống công:
Vì quá khứ nguyện lực.
Vì đại bi nhiếp trì.
Vì chẳng bỏ chúng sanh.
Vì trí huệ tự tại tùy sở thích của họ mà thuyết pháp cho họ.
Vì tất đúng thời tiết chưa từng lỗi thời.
Vì tùy theo sở thích sở nghi không vọng thuyết.
Vì trí biết tam thế khéo biết rõ tất cả.
Vì thân Phật tối thắng không ai sánh kịp.
Vì ngôn từ tự tại không ai có thể lường được.
Vì trí tuệ tự tại tùy chỗ phát ngôn thảy đều được khai ngô.
“When buddhas have done their buddha-work, they manifest final
extinction because of ten considerations; to show that all activities are
really impermanent; to show that all created things are unstable; to show
that ultimate nirvana is the abode of peace, without fear; to show those
attached to the physical body that the physical body is impermanent, so
that they will aspire to dwell in the pure body of reality; to show that the
power of impermanence cannot be overturned; to show that all created
things do not remain as one wishes and are not under one’s control; to
show that all existents are like magical productions and are not hard and
fast; to show that the nature of nirvana is ultimately stable and indes-
tructible; to show that all things have no birth or origin, yet have the
appearance of assemblage and dissolution. Once the buddhas have finished
their buddha-work, have fulfilled their vows, have turned the wheel of
teaching, have enlightened and liberated those who could be enlightened
and liberated, and have made the predictions of buddhahood of the
enlightening beings who become honored ones, as a matter of course
they enter unchanging, great, ultimate nirvana. These are the ten points
of eonsideration because of which they manifest ultimate extinction in
nirvana.
Chư Phật tử! Ðức Như Lai Ðẳng Chánh Giác đã thật hành Phật sự xong, vì quán sát mười nghĩa nên thị hiện nhập Niết bàn:
Vì chỉ bày tất cả hành pháp thiệt là vô thường.
Vì chỉ bày tất cả pháp hữu vi chẳng phải là pháp an ổn.
Vì chỉ bày đại Niết bàn là chỗ an ổn không tất cả sự bố uý.
Vì hàng Thiên, Nhơn tham đắm sắc thân, nên vì họ mà thị hiện sắc thân là pháp vô thường, khiến họ phát nguyện trụ pháp thân thanh tịnh.
Vì chỉ bày sức vô thường chẳng thể chuyển được.
Vì chỉ bày tất cả pháp hữu vi chẳng tự tại chẳng trụ theo tâm.
Vì chỉ bày tất cả ba cõi đều như huyễn hóa chẳng bền chắc.
Vì chỉ bày tánh Niết bàn rốt ráo bền chắc chẳng thể hư hoại.
Vì chỉ bày tất cả pháp vô sanh vô khởi mà có tướng tụ họp và tán hoại.
Chư Phật tử! Như Lai Thế Tôn thật hành Phật sự rồi, bổn nguyện đã mãn, chuyển pháp luân đã xong người đáng được hoá độ đều đã hóa độ xong, có chư Bồ Tát đáng thọ tôn hiệu sự thọ ký đã thành, theo pháp phải như vậy nhập nơi bất biến đại Niết bàn.
Ðây là đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác vì quán sát mười nghĩa nên thị hiện nhập Niết bàn.
“This teaching is called the far-reaching pure practice of enlightening
beings. It is expounded by all the infinite buddhas. It can enable the wise
to comprehend innumerable matters and to all become joyful. It enables
the great undertakings and deeds of all enlightening beings to continue.
If any sentient beings hear this teaching, believe it, understand it, and put
it into practice, they will surely be able to attain supreme complete per-
fect enlightenment quickly. Why? Because they apply the teachings in
practice. If enlightening beings do not practice in accord with the teach-
ing, they will be forever estranged from the enlightenment of buddhas.
Therefore, enlightening beings should practice the teaching.
Chư Phật tử! Pháp môn này gọi là hạnh quảng đại thanh tịnh của Bồ Tát. Vô lượng chư Phật đồng tuyên thuyết như vậy. Có thể làm cho người trí tỏ thấu vô lượng nghĩa, đều rất hoan hỷ. Làm cho tất cả Bồ Tát đại nguyện đại hạnh đều được tiếp nối.
Chư Phật tử! Nếu có chúng sanh được nghe pháp này, nghe xong tin hiểu, hiểu rồi tu hành. Người này quyết định mau được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Tại sao vậy? Vì người này đúng như lời mà tu hành.
Chư Phật tử! Nếu Bồ Tát chẳng thật hành đúng như lời, phải biết người này lìa hẳn Phật Bồ đề. Do cớ đây nên Bồ Tát phải thật hành đúng như lời.
“This flower of definitive meaning of the points of virtuous prac-
tices of all enlightening beings enters into all the teachings, produces all
knowledge, transcends all worlds, is beyond the paths of the two lesser
vehicles, is not common to all sentient beings, can illumine all ways of
entry into truth, and develops transcendental roots of goodness in sen-
tient beings. This book of the teaching of detachment from the world
should be honored, listened to and absorbed, recited and remembered,
contemplated, appreciated, and put into practice. People who can do this
will soon attain unexcelled complete perfect enlightenment.”
When this book was spoken, by the spiritual power of Buddha and by
the nature of the teaching, infinite worlds in the ten directions quaked
and great light shone everywhere. At that point, buddhas of the ten
directions all appeared before the enlightening being Universally Good
and said in praise, “It is very good, offspring of Buddha, how you can
expound this book of transmundane principles of the flower of definitive
Page 1111 – Detachment from the World
meaning of points of virtuous practice of enlightening beings of the
highest ranks, which enters into all Buddha teachings. You have learned
this teaching well and expound this teaching well; you preserve this
teaching by spiritual power. We buddhas all rejoice in this, and as we
rejoice for you, so do all buddhas. We buddhas, all of the same mind,
preserve this scripture, so that the enlightening beings of present and
future who have not heard it may all get to hear it.”
Then the great enlightening being Universally Good, by the power
of Buddha, looked over all the masses in the ten directions, throughout
the cosmos, and said in verse:
Chư Phật tử! Chỗ sở hành công đức nghĩa hoa quyết định của tất cả Bồ Tát đây vào khắp tất cả pháp, sanh khắp tất cả trí, siêu thế gian, lìa Nhị thừa, chẳng đồng chung với tất cả chúng sanh, đều có thể soi rõ tất cả pháp môn, thêm lớn thiện căn xuất thế của chúng sanh, là pháp môn phẩm lìa thế gian, phải tôn trọng, phải tin thọ, phải phụng trì, phải tư duy, phải mong mến, phải tu hành. Nếu được như vậy, nên biết người này mau được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Lúc Phổ Hiền Bồ Tát nói phẩm này, vì Phật thần lực, va vì pháp tất nhiên của pháp môn này nên vô lượng vô biên vô số thế giới đều đại chấn động đại quang chiếu khắp mười phương.
Bấy giờ thập phương chư Phật đều hiện ra trước Phổ Hiền Bồ Tát mà đồng thanh khen rằng:
Lành thay! Lành thay! Phật tử bèn có thể diễn thuyết pháp môn phẩm xuất thế gian vào khắp tất cả Phật pháp, nghĩa hoa quyết định, hành xứ công đức của tất cả đại Bồ Tát này.
Phật tử đã khéo học pháp này, khéo nói pháp này.
Phật tử dùng oai lực hộ trì pháp này.
Chư Phật chúng ta thảy đều tùy hỷ.
Như chư Phật chúng ta tùy hỷ cho Phật tử, tất cả chư Phật cũng đều tùy hỷ như vậy.
Phật tử! Chư Phật chúng ta đều cùng đồng tâm hộ trì kinh này, làm cho hiện tại vị lai các chúng Bồ Tát, những người chưa từng nghe đều sẽ được nghe.
Bấy giờ Phổ Hiền đại Bồ Tát thừa thần lực của Phật, quán sát tất cả đại chúng mười phương, khắp đến pháp giới, rồi nói kệ rằng:
Cultivating difficult practices for measureless eons.
Born of the true teachings of infinite buddhas.
Causing countless beings to dwell in enlightenment —
Listen as I tell of the peerless deeds of enlightening beings.
Serving infinite buddhas, abandoning attachment,
Widely liberating sentient beings, without forming such concepts,
Seeking enlightened virtue, minds independent.
Their sublime practices I now tell.
Free from afflicting actions of demons of the three worlds,
Imbued with higher conduct with holy virtues,
Destroying delusions, minds at peace —
I now tell the path they travel.
Forever free of the deceptive illusions of the world,
Showing sentient beings various transformations;
Mind arising, abiding, passing away — they manifest myriad phenomena:
I tell of their abilities to gladden all.
Seeing sentient beings born, aging, and dying.
Bound and oppressed by afflictions and troubles,
They want to liberate them, and so inspire them —
Listen to their virtuous practices.
Generosity, ethics, tolerance, vigor, meditation, wisdom,
Skill in means, benevolence, compassion, equanimity, and so on —
They practice these for billions of eons:
Hear the virtues of those people.
Seeking enlightenment for billions of eons,
They never begrudge their lives.
Vowing to benefit sentient beings, not doing it for themselves —
I now tell of their compassionate deeds.
Page 1112 – The Flower Ornament Scripture
To expound their virtues for countless eons
Would hardly amount to a drop in the sea;
Their virtues are peerless, incomparable —
By the power of Buddha I now summarize them.
In their minds, no high or low —
They tirelessly seek the Path,
As they go, causing sentient beings
To live in good, purifying ways.
Their wisdom benefits all
Like trees, rivers, and springs.
And also like the earth
Upon which everything rests.
Enlightening beings are like lotus flowers.
With roots of kindness, stems of peace.
Petals of wisdom,
Fragance of conduct.
Buddha emanates the light of truth.
Causing them to bloom;
The water of the created not sticking to them,
All who see them are delighted.
The tree of sublime ways of enlightening beings
Grows in the ground of the straightforward mind;
Faith is its seed, compassion its roots.
Wisdom its trunk;
Skillful means are its boughs.
Five transcendent ways its branches.
Concentration its leaves, spiritual powers its flowers.
And omniscience its fruit;
Supreme powers are like birds perched in it
As it gives shade to the triple world.
The lion of enlightening beings
Has pure good ways for a body,
The four truths are its legs.
Right mindfulness is its neck.
Benevolence its eyes, wisdom its head,
Wearing the turban of liberation;
In the valley of emptiness of ultimate reality
It roars this teaching and scares all demons.
Page 1113 – Detachment from the World
Enlightening beings are caravan leaders;
They see living beings everywhere
In the wasteland of birth and death,
Afflicted, in dangerous places,
Caught by the bandits of manias.
Ignorant, blind, straying from the right road:
Enlightening beings direct them to the right, straight road
So they may enter the city of fearlessness.
Enlightening beings see sentient beings
Afflicted by the three poisons.
uffering all kinds of pains,
Feverish, oppressed through the long night;
Arousing great compassion for them,
They explain many ways of curing,
Eighty-four thousand kinds,
To eliminate all afflictions.
Enlightening beings are spiritual sovereigns.
Civilizing beings by the right way,
Causing them to avoid evil and cultivate good.
And wholeheartedly seek enlightened virtue.
Crowned and given predictions of supreme enlightenment
By all buddhas,
They distribute the wealth of sagacity of people,
The jewels of the elements of enlightenment.
Enlightening beings turn the wheel of teaching
Just like what the buddhas turn;
Conduct is its hub, concentration the spokes;
Knowledge is their adornment, wisdom is their sword.
Having defeated the bandit afflictions
And slaughtered the enemy demons,
They put false teachers toflight
Whenever they see them.
Enlightening beings’ ocean of knowledge and wisdom
Is boundlessly deep and wide,
Suffused with the flavor of truth.
Filled with jewels of attributes of enlightenment.
A great mind is its boundless shore.
Omniscience is its tide:
No sentient beings can measure it,
It can never be fully explained.
Page 1114 – The Flower Ornament Scripture
Enlightening beings’ polar mountain
Goes beyond the world:
Concentration of spiritual capacity its peak.
The great mind rests immovable.
Any who approach it
Are imbued with its color of wisdom.
It is far beyond all realms of objects;
There is no one who does not see it.
Enlightening beings are like diamond.
Determined to find omniscience,
Their faith and austere practice
Steadfast and unshakable.
Their minds without fear,
They aid living beings
And thoroughly annihilate
All demons and afflictions.
Enlightening beings’ great benevolence and compassion
Are like layers of dense clouds;
Three superknowledges flash lightning.
Paranormal powers thunder,
And with the four intellectual powers
They rain water of eight qualities
Moistening all to relieve
The fever of afflictions.
The citadel of truth of enlightening beings
Has transcendent wisdom for walls,
Conscience for a deep moat,
Knowledge as its battlements.
Opening wide the gate of liberation,
Right mindfulness always guards it.
The four truths are the level royal road.
The six spiritual powers are the arsenal.
The banners of the great Teaching
Are hoisted all around;
The demons of the three worlds
Cannot enter at all.
The condor of enlightening beings
Has magic for its steady feet,
Skillful means for its mighty wings.
Kindness and compassion its dear eyes;
Perched on the tree of all knowledge.
It watches the ocean of existence.
Page 1115 – Detachment from the World
Snatches human and celestial dragons
And places them on the shore of nirvana.
Enlightening beings’ sun of truth
Rises in the world,
Its full orb of conduct
Running swiftly by psychic travel,
Shining with the light of wisdom.
Maturing the herbs of faculties and powers.
Destroying the darkness of afflictions,
Evaporating the ocean of craving.
The moon of the light of knowledge of enlightening beings
Has the realm of reality for its sphere,
Coursing through ultimate emptiness.
Seen by all the world.
In the minds of consciousness of the three worlds.
It waxes and wanes through time.
Among the stars of the Two Vehicles,
It has no peers at all.
The bodies arrayed with virtues
Of enlightening beings, spiritual sovereigns.
Are replete with all embellishments and marks of greatness,
Looked up to by all humans and celestials.
Pure eyes of skillful means,
A diamond scepter of wisdom,
They have mastery of spiritual law
And civilize beings with truth.
Enlightening beings, as great Brahma lords,
Independently transcend the three worlds;
They have ended all confusion by actions
And are imbued with benevolence and equanimity.
Everywhere they manifest their bodies
And enlighten with the voice of truth.
In the three worlds
They uproot erroneous views.
Enlightening beings, as controlling celestials.
Are beyond the realm of birth and death;
Their sphere is always pure.
Their wisdom never recedes.
Ending the path of lesser vehicles.
They receive the spiritual coronation.
Page 1116 – The Flower Ornament Scripture
Full of virtue and knowledge,
Their fame is heard everywhere.
Enlightening beings’ knowing mind
Is clear and pure as space:
There is no essence, no reliance —
All is ungraspable.
They have great autonomous power,
Able to accomplish tasks in the world.
Themselves embodying pure conduct.
They induce others to do likewise.
Enlightening beings’ earth of skills
Benefits sentient beings;
Enlightening beings’ water of compassion
Drowns afflictions;
Enlightening beings’ fire of wisdom
Burns the brush of delusive conditioning;
Enlightening beings’ wind of nonabiding
Goes through the void of existence;
Enlightening beings are like precious jewels.
Able to save the poor;
Enlightening beings are like thunderbolts,
Able to smash perverted views;
Enlightening beings are like ornaments,
Adorning the body of existence;
Enlightening beings are like wishing jewels.
Enhancing all actions.
Enlightening beings’ virtues are like flowers.
Always producing the branches of enlightenment;
Enlightening beings’ vows are like garlands.
Always hung on the necks of sentient beings;
The fragrance of enlightening beings’ pure conduct
Is sustained, without neglect or offense;
The perfume of enlightening beings’ knowledge
Scents the three worlds;
Enlightening beings’ powers are like screens
Able to block the dust of afflictions;
Enlightening beings’ knowledge is like a standard.
Able to defeat the enemy pride;
Their sublime action is colored silk
Adorning their knowledge;
Conscience is clofhing
Covering all living beings;
Page 1117 – Detachment from the World
Enlightening beings’ unobstructed vehicle
They ride out of the three worlds.
Enlightening beings’ elephant of power
Is tame at heart;
Enlightening beings’ horse of psychic travel
Bounds over all existences;
Enlightening beings, dragons of teaching,
Shower on the minds of all beings;
Enlightening beings, udumbara flowers,
Are rarely met in the world;
Enlightening beings, courageous generals,
Subdue all demons;
Enlightening beings’ wheel of teaching
Is like what the buddhas turn;
Enlightening beings’ lamp disperses darkness
So people can see the right road;
Enlightening beings’ river of virtue
Always follows the course of truth.
Enlightening beings’ bridge of effort
Liberates all kinds of beings;
Their great knowledge and universal vows
Together make a sturdy ship,
Bringing in sentient beings
And settling them safely on the shore of enlightenment.
Enlightening beings’ garden of freedom
Truly delights sentient beings;
Enlightening beings’ flowers ofliberation
Adorn the palace of knowledge;
Enlightening beings are like wonderful medicines
Destroying the diseases of afflictions;
Enlightening beings are like the snowy mountains,
Producing the herb of wisdom;
Enlightening beings are equal to buddhas.
Awakening sentient beings.
In buddhas’ mind is nothing else
But true awakening and awakening others;
Whence buddhas come forth,
Thence come enlightening beings;
And like the omniscient.
They enter universality by knowledge.
Enlightening beings skillfully lead
All living beings;
Page 1118 – The Flower Ornament Scripture
Enlightening beings naturally awaken
To the sphere of omniscience;
Enlightening beings’ measureless power
Cannot be destroyed by the world;
Enlightening beings’ fearless knowledge
Knows sentient beings and phenomena:
All worlds,
Forms and characteristics different.
Their languages and terms,
They can all distinguish.
Though detached from name and form,
They manifest various appearances;
No sentient beings can fathom their path:
Such virtues have enlightening beings accomplished.
Realizing natures are all natureless.
They have no clinging to existence or nonexistence;
This universal knowledge
Has no end and no dependence:
I now will explain
In order to gladden sentient beings.
Though knowing the appearances of things
Are like illusions, all empty and null.
Yet with compassion and commitment
And the spiritual power of buddhas
Enlightening beings, by mystical projection,
Show innumerable various things.
Such qualities as this
You all should hear about.
With one body they can manifest
Unlimited different bodies;
Without mind or object.
They respond to all beings.
In one voice
They can utter all words;
The languages of all beings
They can produce according to type.
Forever free of an afflicted body,
They manifest an autonomous body;
They know things cannot be explained,
Yet make various explanations.
Page 1119 – Detachment from the World
Their minds are always silent and cool,
Clear and pure as space.
Yet they adorn lands everywhere,
Showing all beings.
They have no attachment to the body
Yet are able to manifest bodies
In all worlds.
Taking on birth according to need.
Though born in all places,
They do not dwell on birth;
They know bodies are like space.
Variously appearing, according to mind.
The body of enlightening beings is boundless,
Appearing in all places,
Always honoring and serving
The most worthy of people.
Perfumes, flowers, music.
Banners, pennants, and jeweled canopies.
They present to the buddhas.
Always with a pure mind.
Without leaving the assembly of one buddha
They are present in all buddhas’ places;
In those great congregations
They ask about problems and listen to the Teaching.
Hearing the Teaching, they enter concentration
On each of numberless points.
And likewise emerge from concentration
With endless manifestations.
With knowledge and skill in means
They realize the world is all illusory.
Yet are able to manifest boundless
Illusory things of the world.
They manifest various forms.
As well as minds and languages;
They enter the net of ideas.
Yet without ever clinging.
Sometimes they manifest initial determination
To benefit the world;
Page 1120 – The Flower Ornament Scripture
Sometimes they manifest long-time practice.
Boundlessly extensive.
Charity, morality, tolerance, energy.
Meditation, and wisdom,
The four boundless minds, four integrative practices.
And all such higher principles
They may show carried to fulfillment,
Accepting them without false notions.
Sometimes they manifest immanent buddhahood.
Anointed and crowned by the enlightened;
Sometimes they appear like listeners.
Or like the self-awakened.
Everywhere in ultimate nirvana.
Still they do not give up enlightenment practice.
They may appear as Indras,
Or as Brahma kings.
Sometimes surrounded by goddesses.
Sometimes alone and silent.
Sometimes they appear as monks
Quietly taming their minds;
Sometimes they appear as monarehs.
Ordering the laws of society.
Sometimes they appear as artful women.
Sometimes as ascetics;
They may appear to enjoy sensual pleasures
Or to enter meditations.
Sometimes they appear newborn,
Sometimes young, old, or dying;
Any who tried to conceive of this
Would be doubtful and go mad.
Sometimes they appear in celestial palaces.
Sometimes they manifest spiritual descent;
Sometimes they enter or abide in the womb.
Sometimes they are buddhas preaching.
Sometimes born, sometimes extinct.
Sometimes they appear to enter halls of learning;
They may be with eonsorts,
Or apart from society practicing meditation.
Page 1121 – Detachment from the World
Sometimes they sit on the site of enlightenment
And naturally realize true awakening;
Sometimes they manifest active teaching.
Or they may appear as beginning seekers of truth.
They may appear as embodiments of Buddha,
Sitting at peace in infinite lands;
Or they may be cultivating the nonregressive path.
Accumulating means of enlightenment.
They penetrate countless ages
And reach the Other Shore of them all,
Infinite ages a single moment of thought,
A single moment of thought, infinite ages.
All ages are not ages,
But they show them as ages to the world;
There is no advent and no accumulation.
Yet they accomplish the tasks of the ages.
In a single atom
They see all buddhas
In all places everywhere,
There being nowhere there is no buddha.
Lands, beings, phenomena —
They see them all, in order,
Through incalculable ages,
Ultimately inexhaustible.
Enlightening beings know the number of living beings
Is vast beyond bound:
All those creatures’ bodies
Arise from measureless causal relations;
As they know one is infinite.
So indeed are all.
According to their competence,
They teach the uninstructed;
They know the faculties of sentient beings,
Superior, middling, inferior, are not the same.
They also know faculties change,
And which can be taught and which cannot.
And that one faculty and all faculties
Are mutually interrelated.
Page 1122 – The Flower Ornament Scripture
And their subtle individual differences,
And their precise order.
They also know the mental behavior
Of beings past, present, and future,
Their inclinations and understandings,
All their vexing habits.
They realize all actions
Have no coming or going.
Once they know people’s behavior,
They tell them the unexcelled Teaching.
They know thoroughly all kinds
Of defiled and pure conduct;
In an instant becoming enlightened.
They accomplish omniscience.
Dwelling in buddhas’ inconceivable
Mind of ultimate knowledge,
Instantly they are able to know
The actions of all beings.
Having mastered the functional power
Of enlightening beings’ spiritual knowledge.
They can in a single moment
Travel to boundless lands.
Going swiftly like this
Throughout endless ages,
There is nowhere they do not reach,
Yet without stirring a hair.
Just as a skilled magician
Makes all kinds of forms appear
Yet one finds in those illusions
Neither form nor nonform.
Likewise do enlightening beings
Use the magic of knowledge of means
To manifest various forms
Throughout the world.
As the clear sun and moon.
Bright mirrors in the sky,
Reflect in myriad waters
Without being mixed up by the waters,
Likewise, you should know.
Page 1123 – Detachment from the World
Enlightening beings’ wheel of truth
Appears in the water of minds in the world
Without being mixed up by the world.
Just as a man in a dream
Makes all kinds of things
And may go on for millennia
Without one night ending,
Enlightening beings dwelling in the essence of reality
Reveal all phenomena,
And while countless eons may end.
Their instantaneous knowledge is endless.
As in mountain canyons
And in palatial halls
All sounds are echoed
Without discrimination,
Enlightening beings dwelling in the essence of reality
Can, with autonomous knowledge,
Widely utter words adapted to types,
Also without discrimination.
As one seeing a mirage
And thinking it is water
Chases it but finds no drink
And becomes even thirstier,
So too is the case
Of sentient beings’ afflicted minds;
Enlightening beings take pity on them,
Rescue them and free them.
Seeing form as like clustered foam,
Sensations as like bubbles on water,
Conceptions as like heat waves.
Dispositions as like the pith of a plantain tree,
And consciousness as like magic
Manifesting various things.
Thus knowing the clusters as such.
The wise have no attachments.
The mediums of sense are all empty and silent.
Yet turn like the cogs of a machine;
The elements are in essence unconnected,
Yet fabricate the appearance of the world.
Enlightening beings abide in real truth,
The supreme truth of voidness;
Page 1124 – The Flower Ornament Scripture
They teach widely in many ways.
Yet their minds do not dwell on anything.
There is no coming and no going.
And also no remaining.
Yet afflictive actions, the cause of suffering.
Continue toflow and develop.
That which is interdependently originated
Is neither existent nor nonexistent, not real or false:
Thus do enlightening beings enter the middle way
And teach it without attachment.
They are able in an instant
To manifest the minds of past, present, and future,
And all the various phenomena
Of the realms of desire, form, and formlessness.
Following the three modes of conduct.
They expound the three liberations.
Define the paths of the Three Vehicles,
And accomplish omniscience.
They comprehend what is so and what is not,
All actions and all faculties.
Realms, understandings, meditations.
Where all paths lead,
Recollection of past lives, clairvoyance.
And annihilating all delusion.
They know the ten powers of buddhas.
But cannot yet fully achieve them;
They realize all things are void,
Yet always seek the sublime Teaching;
They are not mixed up in afflictions.
Yet still do not annihilate contamination.
With extensive knowledge of ways of emancipation
They liberate sentient beings;
In this they attain fearlessness
And do not give up cultivating their practices.
Unerring, not deviating from the Path,
They do not lose right mindfulness.
Their vigor, determination, concentration.
And meditative wisdom are undiminishing.
Page 1125 – Detachment from the World
Pure in conduct, meditation, and altruism.
They clearly understand all times;
With great compassion for sentient beings.
They are tofally unimpeded.
By entering these gates of truth
They accomplish such practices:
I now tell a little
Of the sense of their arrays of virtue.
Even if one told of their practices for countless eons
One would never exhaust them;
Now I tell a little bit.
Like a mofe of dust of the earth.
Resting on buddha-knowledge,
They generate extraordinary thoughts,
Cultivate the best of actions,
And embody great benevolence and compassion.
Heroically striving, inwardly at peace.
They teach and enlighten eonscious beings;
Abiding by pure precepts,
They fulfill practices leading to enlightenment.
Able to comprehend buddhas’ virtues.
Sentient beings, actions, and lands.
They also know all ages
With never a thought of weariness.
With tofal command of differentiating knowledge,
They arrive at the meaning of truth;
They contemplate and explain the incomparable.
Peaceful, and calm true awareness.
They generate the mind of Universal Good
And cultivate the actions and vows;
With the causal power of compassion,
They proceed on the Path pure in mind.
Practicing the transcendent ways.
They perfect eonscious knowledge;
Realizing power and freedom.
They attain unexcelled enlightenment.
Achieving impartial knowledge,
They expound the supreme truth;
Page 1126 – The Flower Ornament Scripture
Able to preserve it, endowed with sublime intelligence,
They arrive at the position of the supreme teacher.
Avoiding all attachments.
They expound impartiality of mind;
Generating knowledge and wisdom,
They produce miracles and attain enlightenment.
Preserving the truth through all ages,
The knowers are most joyful;
Deeply penetrating it and relying on it,
They have nofear or confusion.
They realize the inconceivable.
Unravel artful mysteries;
They skillfully enter concentrations
And see all spheres of knowledge.
Consummating the liberations,
They exercise spiritual insights;
Forever free from veils and bonds.
They roam freely in gardens and groves.
Virtuous ways are their mansions.
All their deeds are admirable;
They cause boundless adornments to appear.
Their minds unmoved by the world.
Observing well, profoundly intent,
They can elucidate with wonderful eloquence
The pure marks of enlightenment,
The light of knowledge illumining all.
Their dwelling place is peerless.
Their minds are indomitable;
Their will is like a high mountain,
Their virtues like a deep ocean.
They rest in truth like treasure,
Wear the armor of vows.
Undertake great works,
Ultimately invulnerable.
They gain the destiny of enlightenment,
And are steadily broad-minded;
Their hidden resources are inexhaustible.
They awaken to all truths.
Page 1127 – Detachment from the World
Masters of worldly knowledge,
They function subtly, without obstruction:
Sentient beings, all lands,
And all kinds of phenomena,
Embodiments, vows, and realms,
Knowledge, spiritual capacities, and so on.
They manifest in the world.
Countless hundreds of billions.
Their spiritual powers and states
Are free — none can inhibit them;
They are adorned with all works
Of powers, fearlessnesses, and unique buddha-qualities.
Their bodies and physical deeds,
Their words and purified speech.
Are under protection.
So they can accomplish ten things.
When enlightening beings are first inspired
And when their minds pervade all,
Their senses are undistracted
And they attain higher faculties.
With profound minds, overmastering minds,
They get away from deception;
With various sure understandings,
They thoroughly penetrate the world.
Abandoning afflictive habits,
They take to the supreme Path;
Skillfully practicing it, they fulfill it
And arrive at omniscience.
Avoiding regression, they enter the absolute
And certainly realize silent extinction;
Generating the Path of enlightening teaching,
They embody epithets of virtue.
The paths, the paths of infinity,
Up to the paths of adornment —
Successively they go by these
Without attachment to any.
Hands, feet, and guts.
With hearts of adamant.
Wearing the armor of sympathy,
Page 1128 – The Flower Ornament Scripture
Equipped with many weapons.
Heads of knowledge, eyes of understanding,
Deeds of enlightenment their ears,
Pure conduct their noses,
They destroy darkness, unhindered.
Intelligence is their tongue,
Their bodies are omnipresent;
Higher knowledge is their mind,
They cultivate their practices in action and repose.
They walk on the site of enlightenment.
Sit on the lion throne,
Recline in universal goodwill, compassion, joy, and equanimity.
And rest in emptiness.
Their spheres of action and contemplation
Illumine the realm of enlightenment;
Observing the acts of sentient beings.
They spring forth and roar.
Free from greed, they practice pure giving;
Abandoning conceit, they preserve pure conduct.
Never angered, always tolerant.
Not lazy, always vigorous.
Mastering meditation,
Wisdom uncontrived,
Kindly saving, tirelessly compassionate,
They take joy in truth and abandon afflictions.
In all realms
They know meanings and principles;
Their virtues are fully developed,
Their wisdom is like a sharp sword.
Fully aware, they delight in learning
And clearly understand how to proceed;
They know demons and their ways
And vow to get rid of them all.
Seeing buddhas and buddha-works,
They determine to embody them all;
Free from pride, they cultivate knowledge.
Not taken in by the power of demons;
They are supported by the buddhas
And also sustained by truth.
Page 1129 – Detachment from the World
They appear to live in the happy heaven
And also appear to die there;
They appear to abide in the mother’s womb
And also show subtle processes.
They appear to be born and smile,
And appear to walk seven steps;
They demonstrate study of arts
And learning in the palace.
They leave home and practice austerities,
Go to the site of enlightenment.
Sit straight and radiate light,
Alerting living beings.
Conquering demons, they attain true enlightenment
And turn the wheel of the unexcelled teaching;
When their manifestations are done,
They enter great extinction.
Those practices of enlightening beings
Are cultivated over measureless eons;
They are boundlessly extensive,
And I now tell but a little.
Though they enable numberless beings
To become established in enlightened virtues.
They ultimately grasp nothing
Of sentient beings and religious principles.
Imbued with such conduct.
They freely exercise spiritual capacities:
They place myriad lands on a hairtip
And for trillions of eons.
Holding innumerable lands in their palms.
Go everywhere, without fatigue,
Then return and place them in their former locations,
Unbeknownst to the beings therein.
Enlightening beings place all lands.
Variously arrayed,
In a single pore
And show them as they really are.
Also in one pore
They contain all oceans
Page 1130 – The Flower Ornament Scripture
Without increase or decrease in the oceans
And without injuring sentient beings.
Numberless iron mountains
They pick up and crush to dust,
Place each mofe in one land.
Using up every particle.
Then take that number of lands
And reduce them to particles too:
The number of these particles might be known.
But the knowledge of enlightening beings cannot be measured.
Through one pore
They radiate infinite light beams;
The lights of sun, moon, and stars,
Of jewels and fire,
And the lights of the gods
Are all eclipsed thereby.
Annihilating the pains of miserable states,
They teach beings there the unexcelled Way.
The various different kinds of speech
Of all worldly creatures
Enlightening beings can utter
In one language:
They can explain distinctly with certainty
All the Buddha teachings,
Causing the living who hear it
To all be very joyful.
All the ages of the past
They place in future and present;
The ages of f uture and present
They place far in the past.
They show infinite lands
Burning, becoming, and subsisting,
All the various worlds
Being in a single pore.
All buddhas of the ten directions,
Past, future, and present,
They clearly reveal
In their own bodies.
They know the methods of transfiguration
And skillfully adapt to beings’ minds;
Page 1131 – Detachment from the World
They manifest various bodies
Without attachment to any of them.
They may manifest the bodies of all sentient beings
In the six states of existence;
Or the bodies of Brahma, Indra, or world guardians,
Or the bodies of all other celestial beings,
The bodies of listeners or individual illuminates,
Or the bodies of realized buddhas;
Or they may appear as enlightening beings
Cultivating omniscience.
They skillfully penetrate the web of beings’ thoughts.
Weak, middling, and superior;
And show the attainment of enlightenment.
And the lands of buddhas.
They comprehend the web of thoughts
And gain mastery of thought;
They show all the expedients
Of enlightening practices.
Far-ranging spiritual displays
Such as these they show;
Such realms of experience
No worldlings can know.
Though they produce manifestations,
Nothing is manifested; ultimately this is supreme.
They adapt to beings’ minds
To get them to travel the way of truth.
Their bodies, speech, and minds
Are equammous as space;
Pure conduct is their perfume.
Myriad practices are their clofhes.
With the turban of truth, the topknot of purity.
The jewel of omniscience,
Their virtues are all-pervasive,
And they are crowned as sovereigns.
The transcendent ways are their weapons,
Spiritual capacities their elephants,
Psychic travel their horses.
Wisdom their bright jewels.
Page 1132 – The Flower Ornament Scripture
Sublime deeds are their eonsorts.
The four means of integration their treasures;
kill in means are their generals,
Enlightening beings are the rulers.
Concentration is their citadel.
Empty silence is their palace.
With the armor of benevolence, the sword of wisdom.
The bow of mindfulness, the arrows of insight.
They spread the canopy of spiritual power on high
And raise the banner of knowledge.
Their forbearance immutable.
They break right through the devil’s troops.
Mental command is the level ground,
Spiritual practices are the rivers.
Pure knowledge the wellsprings.
Sublime wisdom the forests,
Emptiness the clear lakes.
The branches of enlightenment lotus blossoms.
They adorn themselves with spiritual powers.
Always enjoying concentration.
Meditation is their eonsort,
Nirvana is their food, the taste of liberation their drink.
They freely employ the Three Vehicles;
These practices of enlightening beings
Subtly develop further as they cultivate them
Tirelessly over measureless ages.
They honor all buddhas.
Purify all lands.
And cause all sentient beings
To abide in omniscience.
Even if the number of atoms in all lands
Could be known,
And all realms of space
Could be measured with a grain of sand,
And every thought in the minds
Of all sentient beings could be counted.
Still the virtues of enlightening beings
Could not be fully told.
Page 1133 – Detachment from the World
If you want to be endowed with these virtues
And higher subtle qualities.
And wish to enable living beings
To be free from suffering and always peaceful and happy,
And wish to make body, speech, and mind
All equal to those of the buddhas,
You should make an adamant resolution
To learn these virtuous qualities.
Trong vô lượng kiếp tu khổ hạnh
Từ vô lượng Phật chánh pháp sanh.
Khiến vô lượng chúng trụ Bồ đề
Hạnh vô đẳng kia nghe tôi nói.
Cúng vô lượng Phật mà xả chấp
Rộng độ quần sanh chẳng nghĩ tưởng
Cầu Phật công đức tâm vô y
Hạnh thắng diệu kia nay tôi nói.
Lìa ma ba cõi nghiệp tna
Ðủ thánh công đức hạnh tối thắng
Diệt những mê lầm lòng tịch tịnh
Nay tôi nói đạo của kia làm.
Lìa hẳng thế gian những huyễn đối
Những thứ biến hoá dạy chúng sanh
Tâm sanh trụ diệt các sự
Nói sở năng kia cho chúng mừng.
Thấy các chúng sanh: sanh, già, chết
Phiền não lo khổ luôn bức ngặt
Muốn họ giải thoát dạy phát tâm
Hạnh công đức kia phải thính thọ.
Thí giới, nhẫn, tấn, thiền, trí huệ.
Phương tiện, từ, bi, hỷ, xả thảy
Trăm ngàn muôn kiếp thường tu hành
Các Ngài nên nghe công đức đó.
Ngàn muôn ức kiếp cầu Bồ đề
Bao nhiêu thân mạng đều không tiếc
Nguyện lợi quần sanh chẳng vì mình
Hạnh từ mẫn kia nay tôi nói.
Vô lượng ức kiếp nói công đức
Như biển một giọt còn chưa ít
Công đức vô tỉ chẳng thể dụ
Do Phật oai thần nay lược nói.
Tâm kia chẳng cao hạ
Cầu đạo không nhàm mỏi
Khiến khắp các chúng sanh
Ở lành thêm pháp sạch.
Trí huệ lợi ích khắp
Như cây, như sông suối
Cũng như nơi đại địa
Chỗ sở y tất cả.
Bồ Tát như liên hoa
Gốc lành, cọng an ổn,
Trí huệ à hương nhũy
Giới phẩm là sạch thơm.
Phật phóng pháp quang minh
Cho hoa được xòe nở
Chẳng dính nước hữu vi
Ai thấy cũng hoan hỷ.
Bồ Tát cây diệu pháp
Sanh trên dất trực tâm
Giống: tin, gốc: từ bi
Trí huệ dùng làm thân,
Phương tiện làm cành nhánh
Ngũ độ làm tàn rậm
Lá định, bông thần thông
Nhứt Thiết trí làm trái,
Cây to: tối thượng lực
Che mát trùm tam giới.
Bồ Tát: sư tử vương
Pháp bạch tịnh làm thân
Tứ đế dùng làm thân
Chánh niệm dùng làm cổ
Mắt: từ đầu: trí huệ.
Ðảnh vấn lụa giải thoát
Trong hang: thắng nghĩa không
Rống: pháp, bố chúng ma.
Bồ Tát là thượng chủ
Thấy khắp các quần sanh
Ở đồng hoang sanh tử
Xứ hiểm ác phiền não
Bị giặc ma bắt cầm
Mê mù mất chánh đạo,
Chỉ cho đường chánh trực
Khiến vào vô úy thành.
Bồ Tát thấy chúng sanh
Bịnh phiền não ba độc
Chịu các thứ khổ não.
Lâu dài bị đốt nấu,
Vì họ, phát đại bi
Rộng nói môn đối trị
Có tám mươi bốn ngàn
Diệt trừ những khổ hoạn.
Bồ Tát làm Pháp Vương
Chánh đạo dạy chúng sanh
Bảo xa ác, tu thiện
Chuyên cầu Phật công đức,
Ờ chỗ chư Như Lai
Quán đảnh thọ Phật ký
Rộng ban những Thánh tài
Bồ đề phần: trân bửu
Bồ Tát chuyển pháp luân
Như chư Phật đã chuyển
Giới: trục, định: gọng xe
Trí: trang nghiêm, gươm: huệ
Ðã phá giặc phiền não
Cũng dẹp những ma oán,
Tất cả các ngoại đạo.
Vừa thấy liền ta rã.
Bồ Tát biển trí huệ
Sâu rộng không ngằn mé
Vị chánh pháp đầy tràn
Báu giác phần sung mãn,
Ðại tâm không bờ mé
Nhứt Thiết trí: nước triều
Chúng sanh chẳng thể lường
Nói đó không hết được.
Bồ Tát núi Tu Di
Vượt hơn cả thế gian
Ðảnh thần thông tam muội
Ðại tâm an bất động.
Nếu có ai gần gũi
Ðồng một màu trí huệ
Hơn hẳn các cảnh giới
Tất cả đều xem thấy.
Bồ Tát như kim cang
Chí cầu Nhứt Thiết trí
Tín tâm cùng khổ hạnh
Kiên cố chẳng động được.
Tâm Ngài không e sợ
Lợi ích mọi quần sanh
Chúng ma và phiền não
Tất cả đều trừ diệt.
Bồ Tát đại từ bi
Ví như mây đầy kín
Tam minh phát điển quang
Thần túc chấn lôi âm,
Khắp dùng tứ biện tài
Mưa nước bát công đức
Ướt nhuần tất cả chỗ
Khiến hết nóng phiền não.
Bồ Tát: thành chánh pháp
Bát nhã dùng làm vách
Tàm qúy làm hào sâu
Trí huệ làm khí giới
Mở rộng cửa giải thoát
Chánh niệm hằng phòng thủ
Tứ đế: đường bằng thẳng
Lục thông: nhóm quân đội,
Lại sựng tràng đại pháp
Bao quanh khắp dưới thành
Những ma quân ba cõi
Tất cả không vào được.
Bồ Tát: Kim Diểu Vương
Như ý làm chân cứng
Phương tiện: cánh mạnh khỏe
Từ bi: cặp mắt sáng
Ðâu cây: Nhứt Thiết trí
Xem biển cả: tam giới
Chụp bắt rồng: nhơn, thiên
Ðể trên bờ tịch diệt.
Bồ Tát: chánh pháp nhựt
Xuất hiện ở thế gian
Giới phẩm: vầng nhựt tròn
Thần túc: xoay đi mau
Chiếu sáng: trí huệ quang
Lớn cây thuốc: căn, lực
Diệt trừ tối phiền não
Tiêu cạn biển ái dục.
Bồ Tát: trí quang nguyệt
Pháp giới làm vầng trăng
Ði nơi tất cánh không
Thế gian đều xem thấy.
Trong tam giới thức tâm
Tùy thời có tăng giảm
Trong tinh tú Nhị thừa
Tất cả không sánh kịp.
Bồ Tát: Ðại pháp vương
Công đức trang nghiêm thân
Tướng hảo đều đầy đủ
Người, Trời đều chiêm ngưỡng
Phương tiện: mắt thanh tịnh
Trí huệ: chày kim cang
Nơi pháp được tự tại
Ðem đạo dạy quần sanh.
Bồ Tát: Ðại Phạm Vương
Tự tại siêu ba cõi
Nghiệp hoặc thảy đều dứt
Từ, xả đều đủ cả,
Xư xứ thị hiện thân
Khai ngộ dùng pháp âm
Ở trong ba cõi kia
Nhổ những gốc tà kiến.
Bồ Tát: Tự Tại Thiên
Siêu quá cõi snh tử
Cảnh giới thường thanh tịnh
Trí huệ không thối chuểyn,
Tuyệt những đạo hạ thừa
Thọ những pháp quản đảnh
Ðủ công đức trí huệ
Tiếng tăm ai cũng nghe.
Bồ Tát: trí huệ tâm
Thanh tịnh như hư không
Không tánh, không sở y
Tất cả bất khả đắc,
Có sức đại tự tại
Hay nên việc thế gian
Tự đủ hạnh thanh tịnh
Khiến chúng sanh cũng vậy.
Bồ Tát: đất phương tiện
Lợi ích các quần sanh,
Bồ Tát: nước từ bi
Rửa sạch những phiền não
Bồ Tát: lửa trí huệ
Ðốt những củi hoặc tập.
Bồ Tát: gió không dừng
Du hành ba cõi trống.
Bồ Tát: những trân bửu
Hay giúp nạn nghèo cùng.
Bồ Tát: như kim cang
Hay dẹp điên đảo kiến.
Bồ Tát: như anh lạc
Trang nghiêm thân ba cõi.
Bồ Tát: như ma ni
Tăng trưởng tất cả hạnh
Bồ Tát: đức như hoa
Thường phát Bồ đề phần.
Bồ Tát: nguyện như tràng.
Hằng trùm đầu chúng sanh.
Bồ Tát: tịnh giới hương
Bền giữ không hủy phạm.
Bồ Tát: trí hương thoa
Huân khắp cả ba cõi.
Bồ Tát: lực như trướng
Hay ngăn bụi phiền não.
Bồ Tát: trí như tràng
Hay dẹp giặc ngã mạn.
Diệu hạnh làm gấm thêu
Trang nghiêm nơi trí huệ.
Tàm quý là y phục
Trùm khắp các quần sanh.
Bồ Tát: xe vô ngại
Ngồi đó ra ba cõi.
Bồ Tát: tượng đại lực
Tâm tánh khéo điều phục.
Bồ Tát: ngựa thần túc
Bay chạy vượt các cõi.
Bồ Tát: tồng thuyết pháp
Mưa khắp tâm chúng sanh.
Bồ Tát: hoa ưu đàm
Thế gian khó gặp gỡ
Bồ Tát: tướng khỏe mạnh
Chúng ma đều hàng phục,
Bồ Tát: chuyển pháp luân
Như chư Phật đã chuyển.
Bồ Tát: đèn phá tối
Chúng sanh thấy chánh đạo.
Bồ Tát: sông công đức
Hằng thuận dòng chánh đạo.
Bồ Tát: cầu tinh tấn
Rộng độ các quần sanh.
Ðại trí cùng hoằng thệ
Ðồng làm thuyền bền chắc
Tiếp dẫn các chúng sanh
Ðặt ở bờ Bồ đề.
Bồ Tát: vườn du hý
Chơn thiệt vui chúng sanh.
Bồ Tát: giải thoát hoa
Trang nghiêm cung điện trí.
Bồ Tát: như diệu dược
Diệt trừ bịnh phiền não.
Bồ Tát: như núi Tuyết
Xuất sanh thuốc trí huệ.
Bồ Tát: đồng với Phật
Giác ngộ các quần sanh,
Tâm Phật đâu có khác
Chanh giác giác thế gian.
Như chỗ đến của Phật
Bồ Tát: đến như vậy.
Cũng như nhứt Thiết trí
Dùng trí nhập phổ môn.
Bồ Tát: khéo khai đạo
Tất cả các quần sanh.
Bồ Tát: tự nhiên giác
Cảnh giới nhứt Thiết trí.
Bồ Tát: vô lượng lực
Thế gian chẳng hoại được.
Bồ Tát: trí vô úy
Biết chúng sanh và pháp
Tất cả các thế gian
Sắc tướng đều sai khác.
Âm thanh và danh tự
Ðều hay phân biệt biết.
Dầu rời nơi danh sắc
Mà hiện các thứ tướng
Tất cả các chúng sanh
Chẳng lường được đạo đó.
Những công đức như vậy
Bồ Tát đều thành tựu.
Biết tánh đều vô tánh
Hữu vô, không chấp trước.
Nhứt Thiết trí như vậy
Vô tận vô sở y
Nay tôi sẽ diễn thuyết
Khiến chúng sanh hoan hỷ.
Dầu biết các pháp tướng
Như huyễn đều không tịch
Mà dùng tâm bi nguyện
Và Phật oai thần lực
Hiện thần thông biến hóa
Vô biên vô lượng sự.
Những công đức như vậy
Các Ngài phải nghe thọ.
Một thân hay thị hiện
Vô lượng thân sai biệt,
Không tâm không cảnh giới
Khắp ứng tất cả chúng.
Trong một âm diễn đủ
Tất cả các ngôn âm
Ngôn ngữ của chúng sanh
Tùy loại đều nói được.
Lìa hẳn thân phiền não
Mà hiện thân tự tại
Biết pháp bất khả thuyết
Mà diễn thuyết các pháp.
Tâm Ngài thường tịch diệt
Thanh tịnh như hư không
Trang nghiêm khắp các cõi
Thị hiện tất cả chúng,
Nơi thân không chấp trước
Mà hay thị hiện thân,
Trong tất cả thế gian
Tùy nghi mà thọ sanh,
Dầu sanh tất cả xứ
Cũng chẳng trụ thọ sanh.
Biết thân như hư không
Nhiều loại tùy tâm hiện,
Bồ Tát thân vô biên
Hiện khắp tất cả xứ,
Thường cung kính cúng dường
Tối thắng Lưỡng Túc Tôn.
Hương hoa những kỹ nhạc
Tràng phan và Bảo cái
Hằng dùng tâm thâm tịnh
Cúng dường lên chư Phật.
Chẳng rời một Phật hội
Ở khắp chỗ chư Phật,
Tại trong đại chúng kia
Vấn nạn nghe thọ pháp,
Nghe pháp nhập tam muội
Mỗi mỗi vô lượng môn,
Khởi định cũng như vậy
Thị hiện không cùng tận.
Trí huệ xảo phương tiện
Rõ thế đều như huyễn
Mà hay hiện thế gian
Vô biên nhiều loại sắc
Cùng hiện tâm và lời
Vào trong lưới các tưởng
Mà hằng không chấp trước.
Hoặc hiện sơ phát tâm
Lợi ích nơi thế gian,
Hoặc hiện lâu tu hành
Rộng lớn vô biên tế,
Thí, giới, nhẫn, tinh tấn
Thiền định và trí huệ
Tứ phạm, tứ nhiếp thảy
Tất cả pháp tối thắng.
Hoặc hiện hạnh thành mãn
Ðắc nhẫn vô phân biệt,
Hoặc hiện còn một đời
Chư Phật quán đảnh cho,
Hoặc hiện tướng Thanh Văn
Hoặc lại hiện Duyên Giác
Xứ xứ nhập Niết Bàn
Chẳng bỏ hạnh Bồ đề.
Hoặc hiện làm Ðế Thích
Hoặc hiện làm Phạm Vương
Hoặc Thiên nữ vây quanh
Hoặc lại ngồi yên ặng.
Hoặc hiện làm Tỳ Kheo
Tịch tịnh điều tâm mình.
Hoặc hiện Tự Tại Vương
Thống lý pháp thế gian,
Hoặc hiện gái xảo thuật,
Hoặc hiện tu hạnh lành,
Hoặc hiện thọ ngũ dục,
Hoặc hiện nhập thiền định,
Hoặc hiện sơ thỉ sanh
Hoặc trẻ, hoặc già chết,
Nếu ai muốn nghĩa bàn
Tâm nghi phát cuồng loạn.
Hoặc hiện ở Thiên cung
Hoặc hiện mới giáng thần
Hoặc nhập hoặc trụ thai
Thành Phật chuyển pháp luân,
Hoặc sanh hoặc Niết Bàn
Hoặc hiện nhập học đường
Hoặc tại trong thể nữ
Hoặc ly tục tu thiền,
Hoặc ngồi cây Bồ đề
Tự nhiên thành Chánh giác,
Hoặc hiện chuyển Pháp luân
Hoặc hiện mới cầu đạo,
Hoặc hiện làm thân Phật
Ngồi yên vô lượng cõi,
Hoặc tu đạo bất thối
Tích tập hạnh Bồ đề,
Thâm nhập vô số kiếp
Thảy đều đến bĩ ngạn.
Vô lượng kiếp một niệm
Một niệm vô lượng kiếp,
Tất cả kiếp phi kiếp
Vì thế, thị hiện kiếp,
Không lai, không tích tập.
Thành tựu những kiếp sự
Ở trong một vi trần
Thấy khắp tất cả Phật.
Thập phương tất cả xứ
Không xứ nào chẳng có
Quốc độ, pháp chúng sanh
Thứ đệ thảy đều thấy.
Trải vô lượng kiếp số
Rốt ráo bất khả tận.
Bồ Tát biết chúng sanh
Rộng lớn không có biên,
Một thân chúng sanh kia
Vô lượng nhơn duyên sanh.
Như biết một vô lượng
Tất cả đều cũng vậy.
Theo minh đã thông đạt
Dạy những người chưa học
Ðều biết căn chúng sanh
Thượng trung hạ chẳng đồng,
Cũng biết căn chuyển dời
Nên độ, chẳng nên độ.
Một căn tất cả căn
Triển chuyển sức nhơn duyên,
Vi tế đều sai khác
Thứ đệ không lầm loạn.
Lại biết dục giải kia
Tất cả tập phiền não
Cũng biết khứ, lai, kim
Bao nhiêu những tâm hạnh.
Thấu rõ tất cả hạnh
Không lai cũng không khứ,
Ðã biết hạnh kia rồi
Vì nói pháp vô thượng.
Hạnh tạp nhiễm thanh tịnh
Tất cả đều biết rõ,
Một niệm được Bồ đề
Thành tựu Nhứt Thiết trí.
Trụ Phật bất tư nghì
Rốt ráo tâm trí huệ
Một niệm đều biết được
Tất cả hạnh chúng sanh
Bồ Tát trí thần thông
Công lực đã tự tại,
Có thể trong một niệm
Qua đến vô biên cõi.
Qua mau chóng như vậy
Tột đến vô số kiếp
Không xứ nào chẳng khắp
Chẳng động phần đầu lông.
Ví như nà huyễn thuật
Hóa hiện những hình sắc.
Tìm trong hình huyễn đó
Không sắc, không phi sắc.
Bồ Tát cũng như vậy
Dùng phương tiện trí huyễn
Mọi thứ đều thị hiện
Ðầy khắp nơi thế gian.
Ví như tịnh nhựt nguyệt
Gương sáng tại hư không
Bóng hiện ở trong nước
Chẳng bị nước làm tạp.
Bồ Tát tịnh pháp luân
Phải biết cũng như vậy
Hiện trong tâm thế gian
Chẳng bị thế gian tạp.
Như người ngủ nằm mộng.
Tạo tác nhiều công việc
Dầu trải ức ngàn năm
Nhưng một đêm chưa hết.
Bồ Tát trụ pháp tánh
Thị hiện tất cả sự
Vô lượng kiếp khả tận
Một niệm trí vô tận.
Ví như trong sơn cốc
Và cùng trong cung diện
Theo tiếng đều hưởng ứng
Mà thiệt vô phân biệt
Bồ Tát trụ pháp tánh
Hay dùng trí tự tại
Rộng phát âm tùy loại
Cũng vẫn vô phân biệt.
Như có thấy dương diệm
Tưởng đó cho là nước
Nên biết cũng như vậy
Bồ Tát khởi từ mẫn
Cứu cho họ xuất ly
Quán sắc như bọt nước,
Thọ như bóng trên nước,
Tưởng như ánh nắng gắt,
Những hành như cây chuối,
Tâm thức dường như huyễn,
Thị hiện đủ mọi sự.
Biết năm uẩn như vậy
Trí giả không chấp trước,
Các xứ đều không tịch
Như cơ quan động chuyển,
Các giới tánh lìa hẳn
Vọng hiện ở thế gian
Bồ Tát trụ chơn thiệt
Tịch diệt đệ nhứt nghĩa
Rộng tuyên xướng các pháp
Mà tâm không sở y.
Không lai cũng không khứ
Cũng lại không có trụ,
Phiền não nghiệp khổ nhơn,
Ba thứ hằng lưu chuyển.
Chẳng thiệt cũng chẳng hư
Như vậy vào trung đạo
Thuyết pháp không chấp trước,
Hay ở trong một niệm
Khắp hiện tâm tam thế
Dục, sắc, vô sắc giới
Tất cả mọi sự vật,
Tuỳ thuận ba luật nghi
Diễn thuyết ba giải thoát
Kiến lập đạo tam thừa
Thành tựu nhứt thiết trí,
Thấu rõ xứ phi xứ
Các nghiệp và các căn
Giới, giải, cũng thiền định
Tất cả đạo chi xứ.
Túc mạng niện thiên nhãn
Diệt trừ tất cả hoặc
Biết thập lực của phật
Mà chưa thành tựu được,
Thấu rõ các pháp không
Mà thường cầu diệu pháp
Chẳng cùng phiền não hiệp
Mà cũng chẳng tận lậu.
Rộng biết đạo xuất ly
Mà dùng độ chúng sanh
Nơi đây được vô úy
Chẳng bỏ tu các hạnh.
Không lầm không trái đạo
Cũng chẳng mất chánh niệm
Tinh tấn, dục, tam muội
Quán huệ không tổn giảm.
Tam tụ đều thanh tịnh
Tam thế đều không sáng
Ðạt từ mẫn chúng sanh
Tất cả không chướng ngại.
Do nhập pháp môn này
Ðược thành hạnh như vậy
Nghĩa công đức trang nghiêm
Tôi giải nói phần ít,
Tột ở vô số kiếp
Nói kia hạnh vô tận,
Nay tôi nói ít phần
Như hạt bụi trên đất.
Nương ở phật trí trụ
Phát tưởng là kỳ đặc
Tu hành hạnh tối thắng
Ðầy đủ đại bi
Tinh cần tự an ổn
Giáo hoá các hàm thức,
An trụ trong tịnh giới
Ðủ những hạnh thọ ký
Hay nhập phật công đức
Hạnh chúng sanh và cõi
Kiếp thế đều cũng biết
Không có tướng mỏi nhàm,
Sai biệt trí tổng trì
Thông đạt nghĩa chơn thiệt
Tư duy nói vô tỷ
Tịch tịnh đẳng chánh giác
Phát tâm của Phổ Hiền
Sức từ bi nhơn duyên
Ðến đạo ý thanh tịnh,
Tu hành ba la mật
Rốt ráo trí tuỳ giác
Sức chứng trí tự tại
Thành Bồ đề vô thượng.
Thành tựu trí bình đẳng
Diễn thuyết pháp tối thắng
Hay trì đủ diệu biện
Ðến được bực pháp vương.
Xa lìa nơi chấp trước
Diễn thuyết tâm bình đẳng
Xuất sanh ra trí huệ
Biến hoá được Bồ đề.
Trụ trì tất cả kiếp
Trí giả rất hoan hỷ,
Thâm nhập và y chỉ
Không sợ không nghi hoặc
Rõ thấu bất tư nghì
Xảo mật khéo phân biệt
Khéo vào các tam muội
Thấy khắp cảnh giới trí.
Rốt ráo những giải thoát
Du hý thần thông, minh.
Ðều lìa hẳn triền phược
Viên lâm tha bồ đạo.
Bạch pháp làm cung điện
Chư hạnh đẳng ưa thích
Hiện vô lượng trang nghiêm
Tại thế tâm khéo qúan sát
Diệu biện hay khai diễn
Thanh tịnh Bồ đề ấn
Trí quang chiếu tất cả.
Sở trụ không gì sánh
Tâm đó chẳng hạ liệt
Lập chí như núi to
Gieo đức đường biển thẳm.
Như bửu, an trụ pháp
Mặc giáp, tâm thệ nguyện
Phát khởi những đại sự
Rốt ráo không thể hoại.
Ðược thọ ký Bồ đề
An trụ tâm quảng đại
Bí tạng vô cùng vô tận
Giác ngộ tất cả pháp
Thế trí đều tự tại
Diệu dụng không chướng ngại
Chúng sanh tất cả cõi
Và cùng các loại pháp.
Thân nguyện cùng cảnh giới
Trí huệ thần thông thảy
Thị hiện ở thế gian
Vô lượng trăm ngàn ức.
Du hý và cảnh giới
Tự tại không chướng ngại
Lực, vô úy, bất cộng,
Tất cả nghiệp trang nghiêm,
Những thân và thân nghiệp
Nhữ và tu ngữ nghiệp
Vì để được thủ hộ
Thành xong mười sự việc,
Bồ Tát tâm sơ phát
Và cùng tâm châu biến
Các căn không tán động
Chứng được căn tối thắng
Thâm tâm, tăng thắng tâm
Xa lìa tâm phỉnh đối
Quyết định hiểu các pháp
Vào khắp ở thế gian,
Bỏ phiền não tập kia
Lấy đạo tối diệu thắng này
Khéo tu tối thắng này
Khéo tu cho viên mãn
Ðến thành nhứt thiết trí.
Tiến tu nhập chánh vị
Quyết định chứng tịch diệt
Xuất sanh phật pháp đạo
Thành tựu hiệu công đức.
Ðạo và vô lượng đạo
Nhẫn đến đạo tràng nghiêm
Thứ đệ khéo an trụ
Thảy đều không chấp trước
Tay, chân và phúc tạng
Kim cang dùng làm tâm
Mặc áo giáp từ bi
Ðầy đủ những khí giới.
Ðầu: trí, mắt: mình đạt
Hạnh Bồ đề làm tai
Giới thanh tịnh làm mũi
Diệt ám không chướng ngại.
Biện tài dùng làm lưỡi
Thân đến khắp mọi nơi
Trí tối thắng làm tâm
Ði đứng tu công hạnh.
Ðạo tràng: toà sư tử
Tịnh: nằm, chơn không: ở
Chỗ đi và quán sát
Vùng vẫy và gẩm rống.
Rời tham, hằng bố thí
Bỏ mạn, gìn tịnh giới
Chẳng sân, thương nhẫn nhục
Chẳng lười, hằng tinh tấn.
Thiền định được tự tại
Trí huệ không sở hành
Từ tế, bi không mỏi
Hỷ pháp, xả phiền não.
Ở trong các cảnh giới
Biết nghĩa cũng biết pháp
Phước đức đều thành mãn
Trí huệ như gươm bén,
Chiếu khắp thích đa văn
Minh liễu xu hướng pháp
Biết ma và ma đạo
Thệ nguyện đều bỏ lìa.
Thấy phật cùng phật nghiệp
Phát tâm đều nhiếp lấy
Rời mạn, tu trí huệ
Chẳng bi ma nhiếp trì
Mà được phật nhiếp trì
Cũng được pháp nhiếp trì.
Hiện ở cung đâu suất
Và hiện ẩn thiên cung
Thị hiện ở thai mẹ
Cũng hiện vi tế thú
Hiện sanh và vi tiếu
Cũng hiện đi bảy bước,
Hiện tu những kỷ thuật
Cũng hiện ở thâm cung
Xuất gia tu khổ hạnh
Qua đến nơiđạo tràng
Ðoan tọa phóng quang minh
Giác ngộ các quần sanh
Hàng ma thành chánh giác
Chuyển pháp luân vô thượng
Thị hiện đều đã trọn
Hiện nhập đại Niết Bàn
Những hạnh Bồ Tát kia
Vô lượng kiếp tu tập
Quảng đại không ngần mé
Nay tôi nói phần ít.
Dầu khiến vô lượng chúng
An trụ phật công đức
Chúng sanh và trong pháp
Rốt ráo không chấp lấy,
Ðầy đủ hạnh như vậy
Du hý những thần thông
Ðầu lông để những cõi
Trải qua ức ngàn kiếp,
Tay cầm vô lượng cõi
Qua khắp thân không mỏi
Ðem về để bổn xứ
Chúng sanh chẳng hay biết.
Bồ Tát dùng tất cả
Trang nghiêm nhiều quốc độ
Ðể ỡ một lỗ lông
Chơn thiệt đều cho thấy.
Lại dùng một lỗ lông
Nạp khắp tất cả biển
Biển lớn không tăng giảm
Chúng sanh chẳng nhiểu hại.
Vô lượng núi thiết vi
Tay bóp nát thành bụi
Một bụi nơi một cõi
Hết số vi trần này.
Ðem những cõi trần đây
Lại nghiệm nát thành bụi
Bụi này biết đươc số
Khó lường trí Bồ Tát
Ở trong một lỗ lông
phóng vô lượng quang minh,
sáng nhựt nguyệt tinh tú
Sáng ma ni, sáng lửa,
Nhẫn đến sáng chư thiên
Tất cả đều bị khuất.
Diệt những khổ ác đạo
Vì nói pháp vô thượng
Tất cả các thế gian
Nhiều thứ tiếng sai biệt,
Bồ Tát một âm thanh
Hay diển nói tất cả,
Quyết định phân biệt nói
Tất cả những phật pháp nói
Tất cả những Phật pháp
Khiến khắp các quần sanh
Nghe đó rất hoan hỷ
Quá khứ tất cả kiếp
An trí nay, vị lai
Vị lai hiện tại kiếp
Xoay để kiếp quá khứ,
Thị hiện vô lượng cõi
Cháy tan và thành, trụ
Tất cả các thế gian
Ðều tại một lỗ lông
Khứ, lai cùng hiện tại
Tất cả phật mười phương
Ðều ở tại trong thân
Phân minh mà hiển hiện
Biết sân khá biến hoá
Khéo ưng tâm chúng sanh
Thị hiện các loại thần
Mà đều vô sở trước
Hoặc hiện ở sáu loài
Tất cả thân chúng sanh
Thân thích, phạm hộ thê
Thân chư thiên, thân người
Thân thanh văn, duyên giác,
Thân Chư Phật Như Lai,
Hoặv hiện than Bồ Tát
Tu hành nhứt thiết trí
Khéo nhập hạ, trung, thượng
Lưới tưởng của chúng sanh
Thị hiện thành Bồ đề
Nhẫn đến những cõi phật
Biết rõ những lưới tướng
Nơi tưởng được tự tại,
Hiện tu hạnh Bồ Tát.
Tất cả sự phương tiện
Thị hiện như vậy thảy
Những thần biến quãng đại.
Những cảnh giới như vậy
Thế gian chẳng biết được
Dầu hiện mà không hiện
Rốt ráo càng tăng thượng.
Tuỳ thuận tâm chúng sanh
Khiến được đạo chơn thiệt
Thân, ngữ và cùng tâm
Bình đẳng như hư không.
Tịnh giới lắm hương thoa
Các hạnh làm y phục
Gấm pháp trùm búi tóc
Ma ni: nhứt thiết trí,
Công đức đều cùng khắp
Quán đảnh lên vương vị,
Ba la mật làm xe,
Thần thông dùng làm tượng,
Thần túc đúng như ngựa,
Trí huệ làm minh châu,
Diệu hạnh làm thể nử,
Tứ nhiếp: chủ tạng thần ,
Phương tiện làm chủ binh,
Bồ Tát chuyển luân vương,
Tam muội làm thành quách,
Không tịch làm cung điện,
Cung: niệm, tên: minh lợi,
Giăng cao lọng thần lực,
Lại dựng tràng trí huệ,
Nhẫn lực chẳng lay động
Thẳng phá quân ma vương,
Tổng trì làm đất bằng,
Những hạnh làm nước sông,
Tịnh trí làm suối chảy,
Diệu huệ làm rừng cây,
Chơn không: ao đứng sạch,
Giác phần làm hoa sen,
Thần lực tự trang nghiêm
Tam muội thường đùa vui.
Tư duy làm thể nữ,
Cam lộ làm mỹ thực.
Giải thoát vị: nước uống,
Du hý nơi tam thừa,
Những hạnh Bồ Tát này
Vi diệu thêm tăng thượng
Vô lượng kiếp tu hành
Tâm ngài không nhàm đủ.
Cúng dường tất cả phật
Nghiêm tịnh tất cả cõi
Khiến khắp tất cả chúng
An trụ nhứt thiết trí,
Tất cả cõi vi trần
Ðều biết được số đó,
Tất cả hư không giới
Hột cát đo lường được,
Tất cả tâm chúng sanh
Niệm niệm đếm biết được,
Phật tử các công đức
Nói đó không hết được.
Muốn đủ công đức này
Và những pháp thượng diệu,
Muốn cho những chúng sanh
Lìa khổ thường an lạc,
Muốn cho thân, ngữ, ý
Ðều đồng như chư phật,
Phải phát kim cang nguyện.
Học hạnh công đức này.
HẾT TẬP 6
Sources:
Tài liệu tham khảo:
- https://thienphatgiao.wordpress.com/2013/06/02/kinh-hoa-nghiem-thich-tri-tinh-dich-tap-3-8/18/
- https://terebess.hu/zen/mesterek/avatamsaka-cleary.pdf
- https://thuvienhoasen.org/p16a561/38-pham-ly-the-gian