Phẩm 37: Như Lai Xuất Hiện – Manifestation of Buddha – Song ngữ
The Avatamsaka Sutra
The Flower Ornament Scripture – (The Flower Garland Sutra)
Kinh Hoa Nghiêm
English: Thomas Cleary – 1984
Việt ngữ: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh – PL 2527 – 1983
Compile: Lotus group
Book Thirty-Seven: Manifestation of Buddha – Page 917 – 968 (MsW: 969 – 1021)
Phẩm 37: Kinh Hoa Nghiêm – Như Lai Xuất Hiện – (Hán bộ quyển 50 – 52)
Then, from the circle of white hair between his brows, the Buddha
emitted a great beam of light called manifestation of the realizer of
Thusness, accompanied by countless trillions of light beams. That light
illumined all the worlds in the whole cosmos, circling ten times to the
right, revealing the immeasurable powers of the enlightened, awakening
countless enlightening beings, shaking all worlds, extinguishing the
suffering of all states of misery, eclipsing the abodes of all demons, and
showing all buddhas sitting on the seat of enlightenment attaining per-
fect awakening, as well as all the assemblies at the sites of enlightenment.
Having done all this, the light returned and circled the assembly of en-
lightening beings, then entered the head of the enlightening being Won-
drous Qualities of Natural Origination of Buddha.
Bấy giờ đức Thế Tôn từ trong tướng bạch hào giữa chặng mày, phóng đại quang minh tên là Như Lai xuất hiện. Có vô lượng trăm ngàn ức na do tha a tăng kỳ quang minh làm quyến thuộc. Quang minh đó chiếu khắp mười phương tất cả thế giới tận hư không pháp giới, hữu nhiễu bảy vòng, hiển hiện Như Lai vô lượng tự tại, giác ngộ vô số chúng Bồ Tát, chấn động tất cả thập phương thế giới, trừ diệt tất cả khổ ác đạo, chói che tất cả cung điện ma, hiển thị tất cả chư Phật Như Lai ngồi tòa Bồ Ðề thành Ðẳng Chánh Giác và cùng tất cả đạo tràng chúng hội. Quang minh đó làm những sự như vậy rồi trở lại hữu nhiễu chúng Bồ Tát nhập vào đảnh đầu của Như Lai Tánh Khởi Diệu Ðức Bồ Tát.
Now the masses at this enlightenment site were elated, ecstatic; they
thought, “How extraordinary! Now that the Buddha has radiated great
light, surely, he will expound a most profound great teaching.” Then the
enlightening being Wondrous Qualities of Natural Origination of Bud-
dha, on a lotus blossom seat, bared his right shoulder, knelt on his right
knee, joined his palms, turned toward the Buddha with total attention,
and spoke these verses:
Lúc đó tất cả đại chúng trong đạo tràng này, thân tâm hớn hở rất hoan hỷ mà nghĩ rằng: Rất lạ ít có nay đây đức Như Lai phóng đại quang minh tất sẽ diễn nói thậm thâm đại pháp.
Như Lai Tánh Khởi Diệu Ðức Bồ Tát, ở trên tòa liên hoa trịch bày vai hữu, quỳ gối hữu, chắp tay nhứt tâm hướng lên Phật mà nói kệ rằng:
The Truly Awake, the Virtuous, the Great Sage, emerges,
Comprehending all objects, reaching the Other Shore,
Equal to the buddhas of past, present, and future;
Therefore, I now pay reverent obeisance.
Having risen to the shore of the signless realm
And appeared in a body magnificently arrayed with wondrous marks,
He radiates thousands of undefiled beams of light
And destroys the hordes of demons entirely.
All the worlds in the ten directions
He causes to quake without exception,
Page 970 – 971 – Manifestation of Buddha
Yet without frightening a single sentient being —
Such is the spiritual power of the Felicitous One.
Equal in essence to space and the cosmos,
He can remain as stable as they.
All the living, without count or measure.
He has destroyed evil and removed defilements.
Working hard at austere practices for countless ages,
He fully attained the highest enlightenment.
His knowledge unhindered in the midst of all objects,
Of the same nature as all the buddhas.
The Guide radiates these great beams of light,
Shaking the worlds in the ten directions;
Displaying measureless mystic powers.
They have returned and entered my body.
Well able to learn the definitive teaching,
Countless enlightening beings have assembled here
And inspired me to ask about the Teaching,
Wherefore I now petition the Sovereign Teacher.
This assembly is now clear and serene,
Able to liberate all in the world,
Their wisdom boundless, without attachments —
Such eminent sages have all gathered here.
The benefactor of the world, the noble guide,
With wisdom and energy beyond measure
Now illumines the crowd with great light
Causing me to ask about the unexcelled Teaching.
Who can truly expound in full
The profound realm of the great wizard?
Who is the inheritor of the Buddha doctrine?
Noble Guide of the World, please show us.
Chánh giác công đức đại trí hiện
Khắp đạt cảnh giới đến bĩ ngạn
Ðồng với tam thế chư Như Lai
Vì thế nay tôi cung kính lễ
Ðã lên bờ cảnh giới vô tướng
Mà hiện thân diệu tướng trang nghiêm
Phóng ra ngàn quang minh ly cấu
Phá dẹp quân ma đều hết sạch
Mười phương bao nhiêu những thế giới
Ðều hay chấn động không có thừa
Chưa từng kinh sợ một chúng sanh
Thần lực đức Thiện Thệ như vậy
Hư không pháp giới tánh bình đẳng
Ðã được như vậy mà an trụ
Tất cả quần sanh vô số lượng
Ðều khiến dứt ác trừ những lỗi
Khổ hạnh siêng nhọc vô số kiếp
Thành tựu tối thượng đạo Bồ Ðề
Ở các cảnh giới trí vô ngại
Cùng tất cả Phật đồng thể tánh
Ðạo sư phóng ra quang minh này
Chấn động mười phương các thế giới
Ðã hiện vô lượng sức thần thông
Rồi lại trở vào nhập thân tôi
Trong pháp quyết định khéo học được
Vô lượng Bồ Tát đều đến nhóm
Khiến tôi phát khởi lòng vấn pháp
Thế nên nay tôi thỉnh Pháp Vương
Nay chúng hội này đều thanh tịnh
Khéo độ thoát được các thế gian
Trí huệ vô biên không nhiễm trước
Những bực Hiền này đều về nhóm
Lợi ích thế gian đấng Ðạo Sư
Trí huệ tinh tấn đều vô lượng
Nay đem quang minh chiếu đại chúng
Khiến tôi thỉnh hỏi pháp vô thượng
Ai ở cảnh giới của Như Lai
Mà hay chơn thiệt khai diễn đủ?
Ai là Pháp Trưởng Tử của Phật?
Thế Tôn Ðạo Sư xin hiển thị
Then the Buddha emitted a great beam of light, called unimpeded
confidence, from his mouth, accompanied by countless trillions of light
beams, illumining all worlds in the cosmos, circling ten times to the
right, showing the various controlling powers of the Buddha, awaken-
ing innumerable enlightening beings, shaking all the worlds of the ten
directions, extinguishing the pains of all states of misery, eclipsing all
abodes of demons, and showing all the buddhas on the seat of enlighten-
ment attaining true awakening, as well as the assemblies at all those sites
Page 912 – The Flower Ornament Scripture
of enlightenment. Having done all this, the lights came back, circled the
assembly of enlightening beings, and entered the mouth of the enlight-
ening being Universally Good, after which the body and lion throne of
Universally Good surpassed their former condition, and that of the Other
enlightening beings a hundredfold, surpassing all except the lion throne
of the Buddha.
Bấy giờ đức Như Lai liền ở trong miệng phóng ra đại quang minh tên là Vô ngại vô úy, có trăm ngàn ức a tăng kỳ quang minh làm quyến thuộc, chiếu khắp mười phương tất cả thế giới tận hư không pháp giới, hữu nhiễu mười vòng, hiển hiện Như Lai các thứ tự tại, khai ngộ vô lượng những chúng Bồ Tát, chấn động tất cả mười phương thế giới, diệt trừ tất cả những khổ ác đạo, chói che tất cả những cung điện ma, hiển thị tất cả chư Phật Như Lai ngồi tòa Bồ Ðề thành Ðẳng Chánh Giác và đến tất cả chúng hội đạo tràng. Ðại quang minh này làm những sự như vậy rồi trở lại hữu nhiễu chúng hội Bồ Tát, nhập vào miệng của Phổ Hiền đại Bồ Tát. Ðại quang minh nhập xong thời thân và tòa sư tử của Phổ Hiền Bồ Tát hơn lúc trước và hơn thân tòa của chư Bồ Tát gấp trăm lần, chỉ trừ toà sư tử của Như Lai.
Then the enlightening being Wondrous Qualities of Natural Origina-
tion of Buddha asked the great enlightening being Universally Good,
“This vast miraculous display manifested by the Buddha, causing all the
enlightening beings joy, is inconceivable, incomprehensible to the world
— what is this auspicious sign?” Universally Good replied, “In the past
when I saw buddhas show such tremendous mystic displays, they ex-
pounded the teaching of the manifestation of Buddha. I think that now
since he has displayed this sign, he is going to expound this teaching.
When this teaching is expounded, the whole earth quakes and immea-
surable lights asking about the teaching are produced.”
Như Lai Tánh Khởi Diệu Ðức Bồ Tát hỏi Phổ Hiền đại Bồ Tát:
Thưa Phật tử! Ðức Thế Tôn đã thị hiện thần biến quảng đại làm cho chúng Bồ Tát đều sanh hoan hỷ chẳng thể nghĩ bàn, thế gian chẳng biết được. Ðó là thoại tướng gì?
Phổ Hiền đại Bồ Tát nói:
Phật tử! Thưở xưa, tôi thấy chư Như Lai Ứng Ðẳng Chánh Giác thị hiện thần biến quảng đại như vậy, liền nói pháp môn Như Lai xuất hiện. Cứ theo tôi suy gẫm: nay đức Như Lai hiện tướng này tất sẽ nói pháp môn đó.
Lúc Phổ Hiền Bồ Tát nói lời trên xong, tất cả đại địa thảy đều chấn động, xuất sanh vô lượng quang minh vấn pháp.
Then the enlightening being Wondrous Qualities ofNatural Origina-
tion of Buddha asked the enlightening being Universally Good, “How
should great enlightening beings know the principle of the manifestation
of the buddhas, those who realize Thusness, those who are truly awake?
Please tell us; these countless trillions of enlightening beings have all cul-
tivated purifying practice for a long time, their recollection and precise
awareness is fully developed, they embody the dignity of all buddhas,
they have reached the consummation of ultimate great adornment, they
correctly remember all buddhas without forgetting, they observe all
sentient beings with great compassion, they know with certainty the
spheres of spiritual powers of great enlightening beings, they have
already received the support of the spiritual power of buddhas, they
are able to receive the sublime teachings of all buddhas; imbued with
immeasurable such virtues, they have all come and gathered here. You
have already attended and served countless quintillions of buddhas,
accomplished the supreme practice of enlightening beings, have attained
mastery of all modes of concentration, have penetrated the esoteric
secrets of all buddhas, know all ways of enlightenment, have put an end
to all doubt, are supported by the spiritual power of the buddhas, know
the faculties of sentient beings and explain ways of genuine liberation to
them according to their inclinations, follow the knowledge of Buddha,
expound the Buddha teachings, and have reached the Other Shore. You
have infinite such virtues, worthy of praise. Please explain the phe-
nomena of the manifestation of the buddhas, those who realize Thusness,
the truly awake — their physical forms, utterances, states of mind, prac-
tices, enlightenment, and preaching, until their manifestation of entry
into ultimate extinction, and the roots of goodness generated by seeing,
hearing, and associating with them. Please tell us about all these things.”
Then the enlightening being Wondrous Qualities ofNatural Origin of
Buddha, desiring to reiterate his point, spoke these verses to the enlight-
ening being Universally Good:
Như Lai Tánh Khởi Diệu Ðức Bồ Tát hỏi Phổ Hiền Bồ Tát:
Thưa Phật tử! Ðại Bồ Tát phải thế nào để biết pháp xuất hiện của chư Phật Như Lai? Xin Phật tử nói cho. Vô lượng trăm ngàn ức na do tha chúng hội Bồ Tát này đều tu tịnh nghiệp đã lâu, niệm huệ thành tựu, đã đến bờ rốt ráo đại trang nghiêm, đủ tất cả hạnh oai nghi của Phật, chánh niệm chư Phật chưa từng quên mất, lòng đại bi quán sát tất cả chúng sanh, quyết định biết rõ thần thông cảnh giới của chư đại Bồ Tát, đã được thần lực của chư Phật gia hộ, hay thọ tất cả diệu pháp của Như Lai, đủ vô lượng công đức như vậy đều đến nhóm họp tại đây.
Phật tử đã từng ở chỗ vô lượng trăm ngàn ức na do tha Phật, thừa sự cúng dường, thành tựu diệu hạnh tối thượng của Bồ Tát, nơi môn tam muội đều được tự tại, vào chỗ bí mật của tất cả chư Phật, biết các Phật pháp, dứt những nghi lầm, được thần lực của Phật gia hộ, biết căn khí của chúng sanh tùy theo sở thích của họ mà nói pháp chơn thiệt giải thoát, tùy thuận Phật trí, diễn nói Phật pháp đến nơi bĩ ngạn, có vô lượng công đức như vậy.
Lành thay Phật tử! Xin nói pháp xuất hiện của Như Lai Ðẳng Chánh Giác, những thân tướng, ngôn âm, tâm ý, cảnh giới, hạnh đã làm, thành đạo, chuyển pháp luân, nhẫn đến thị hiện nhập Ðại Niết Bàn, thấy nghe thân cận được sanh thiện căn. Những sự như vậy xin Phật tử nói cho.
Như Lai Tánh Khởi Diệu Ðức Bồ Tát muốn tuyên rõ nghĩa này bèn hướng về Phổ Hiền Bồ Tát mà nói kệ rằng:
Page 973 – Manifestation of Buddha
Excellent sage of unimpeded wisdom,
You are well aware of the boundless realm of equality.
Please explain the practices of infinite buddhas;
The enlightening beings will be happy to hear them.
How can enlightening beings follow and comprehend
The buddhas’ emergence in the world?
What are their spheres of body, speech, and mind?
Tell us this, and their spheres of action too.
How do buddhas attain true enlightenment?
How do buddhas turn the wheel of the Teaching?
How do the Blissful Ones pass away?
The masses will be happy to hear.
Of those who see the buddhas, great spiritual sovereigns,
Attend them and develop roots of goodness.
Please tell us the stores of virtue
And what the beings who see them attain.
If any hear of buddhas’ names,
Whether present in the world or extinct,
And deeply believe in their treasury of merit,
Tell us how they will benefit.
These enlightening beings, all in an attitude of respect,
Are gazing at the Buddha, and at you and me;
PIease tell them of the ocean of virtues
Which purifies living beings.
Please explain the meanings in the wondrous teaching
With stories and examples;
When beings hear, they will be greatly inspired.
Their doubts will end and their knowledge will be clear as space.
Like the glorified bodies manifested
By buddhas throughout all lands,
By marvelous speech, stories, and examples
Please show the enlightenment of buddhas like them.
In millions of buddha-lands in the ten directions,
In countless billions of eons,
It is hard to see such enlightening beings
As have gathered here now.
These enlightening beings are all reverent,
Eager for the subtle doctrine;
Page 974 – The Flower Ornament Scripture
Please expound with pure mind
The great phenomena of Buddha’s manifestation.
Lành thay vô ngại đại trí huệ
Khéo tỏ vô biên cảnh bình đẳng
Nguyện nói công hạnh của chư Phật
Ðại chúng được nghe đều mừng rỡ
Bồ Tát thế nào tùy thuận nhập
Chư Phật Như Lai hiện ra đời
Cảnh giới thân, ngữ, ý thế nào
Và chỗ thật hành xin đều nói
Thế nào chư Phật thành Chánh Giác?
Thế nào Như Lai chuyển pháp luân?
Thế nào Thiện Thệ nhập Niết Bàn?
Ðại chúng được nghe lòng hoan hỉ
Nếu có thấy Phật đại Pháp Vương
Thân cận thêm lớn các thiện căn
Xin nói những tạng công đức kia
Chúng sanh thấy rồi được những gì?
Nếu ai được nghe tên Như Lai
Hoặc hiện tại thế hoặc Niết Bàn
Nơi phước tạng kia sanh thâm tín
Có những lợi gì xin tuyên nói
Chúng Bồ Tát đây đều chắp tay
Chiêm ngưỡng Như Lai, Ngài và tôi
Cảnh giới biển công đức quảng đại
Bực tịnh chúng sanh xin vì nói
Xin dùng nhơn duyên và thí dụ
Diễn nói diệu pháp nghĩa tương ưng
Chúng sanh nghe rồi phát đại tâm
Hết nghi trí sạch như hư không
Như khắp trong tất cả cõi nước
Chư Phật đã hiện thân trang nghiêm
Nguyện dùng diệu âm và nhơn dụ
Dạy Phật Bồ Ðề cũng như kia
Mười phương mười muôn những cõi nước
Ức na do tha vô lượng kiếp
Như nay Bồ Tát chúng tập họp
Nơi kia tất cả đều khó thấy
Chư Bồ Tát đây đều cung kính
Nơi nghĩa vi diệu sanh khát ngưỡng
Nguyện dùng tịnh tâm khai diễn đủ
Pháp quảng đại Như Lai xuất hiện
Then the enlightening being Universally Good said to the great con-
gregation of enlightening beings, “This matter is inconceivable. The
Buddha, the one who realizes Thusness, the worthy, the truly awake,
becomes manifest by means of infinite phenomena. Why? It is not by
one condition, by one phenomenon, that the manifestation of Buddha
can be accomplished. It is accomplished by ten infinities of things. What
are the ten? It is accomplished by the mind of enlightenment that took
care of infinite sentient beings in the past. It is accomplished by the in-
finite supreme aspirations of the past. It is accomplished by great benevo-
lence and compassion, which infinitely saved all sentient beings in the
past. It is accomplished by infinite continuous commitments of the past.
It is accomplished by infinite cultivation of virtues and knowledge tire-
lessly in the past. It is accomplished by infinite service of buddhas and
education of sentient beings in the past. It is accomplished by infinite
pure paths of wisdom and means in the past. It is accomplished by infinite
pure virtues of the past. It is accomplished by infinite ways of adornment
in the past. It is accomplished by infinite comprehensions of principles
and meanings in the past. When these infinite, incalculable aspects of the
Teaching are fulfilled, one becomes a buddha.
Phổ Hiền đại Bồ Tát bảo Như Lai Tánh Khởi Diệu Ðức Bồ Tát và đại chúng chư Bồ Tát:
Chư Phật tử! Chỗ này chẳng thể nghĩ bàn. Nghĩa là đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác, do vô lượng pháp mà được xuất hiện. Vì chẳng phải do một duyên, chẳng phải do một sự, Như Lai xuất hiện được thành tựu, mà do mười vô lượng trăm ngàn vô số sự mới được thành tựu. Những gì là mười?
Một là do quá khứ vô lượng Bồ Ðề tâm nhiếp thọ tất cả chúng sanh làm thành.
Hai là do quá khứ vô lượng chí nguyện thanh tịnh thù thắng làm thành.
Ba là do quá khứ vô lượng đại từ đại bi cứu hộ tất cả chúng sanh làm thành.
Bốn là do quá khứ vô lượng hạnh nguyện tương tục làm thành.
Năm là do quá khứ vô lượng tu các phước trí tâm không nhàm đủ làm thành.
Sáu là do quá khứ vô lượng cúng dường chư Phật giáo hóa chúng sanh làm thành.
Bảy là do quá khứ vô lượng trí huệ phương tiện thanh tịnh đạo làm thành.
Tám là do quá khứ vô lượng thanh tịnh công đức tạng làm thành.
Chín là do quá khứ vô lượng trang nghiêm đạo trí làm thành.
Mười là do quá khứ vô lượng thông đạt pháp nghĩa làm thành.
Vô lượng a tăng kỳ pháp môn viên mãn như vậy làm thành Như Lai.
“It is as a billion-world universe is not formed just by one condition,
not by one phenomenon — it can be formed only by innumerable condi-
tions, innumerable things. That is to say, the rising and spreading of
great clouds and showering of great rain produce four kinds of atmo-
sphere, continuously making a basis. What are those four? One is called
the holder, because it can hold the great waters. Second is called the
evaporator, because it can evaporate the great waters. Third is called
structure, because it sets up all places. Fourth is called arrangement,
because the arrangement and distribution are all functional. These are all
produced by the joint actions of sentient beings and by the roots of
goodness of enlightening beings, enabling all sentient beings to get the
use of what they need. Innumerable such causes and conditions form the
universe. It is such by the nature of things — there is no producer or
maker, no knower or creator, yet the worlds come to be.
Chư Phật tử! Ví như Ðại Thiên thế giới này, chẳng phải do một duyên, chẳng phải do một sự mà được thành tựu, phải do vô lượng duyên, vô lượng sự mới được thành. Những là nổi giăng mây lớn, tuôn xối mưa lớn, bốn thứ phong luân nối tiếp làm sở y. Gì là bốn thứ?
Một tên là năng trì, vì hay trì đại thủy
Hai tên là năng tiêu, vì hay tiêu đại thủy
Ba tên là kiến lập, vì kiến lập tất cả xứ sở
Bốn tên là trang nghiêm, vì trang nghiêm phân bố đều thiện xảo.
Như trên đây đều do cộng nghiệp của chúng sanh và thiện căn của chư Bồ Tát phát khởi, làm cho tất cả chúng sanh trong đó đều tùy sở nghi mà được thọ dụng.
“The manifestation of Buddha is also like this — it does not come
about through just one condition or thing, but by innumerable causes
and conditions, innumerable phenomena. That is, having heard, re-
ceived, and held the clouds and rain of the great Teaching from past
buddhas, by this can be produced the four kinds of atmosphere of great
knowledge of the enlightened. What are these four? One is the atmo-
sphere of great knowledge of mental command able to retain memory
without forgetting, being able to hold the great clouds and rain of
teachings of all buddhas. Second is the atmosphere of great knowledge
producing tranquillity and insight, being able to evaporate all afflictions.
Page 915 – Manifestation of Buddha
Third is the atmosphere of great knowledge of skillful dedication, being
able to perfect all roots of goodness. Fourth is the atmosphere of great
knowledge producing undefiled, variegated, magnificent arrays of
adornments, causing the roots of goodness of all beings taught in the past
to be purified, and consummating the power of the untainted roots of
goodness of the enlightened. The buddhas’ attainment of enlightenment
in this way is thus by the nature of things — without production or crea-
tion, it nevertheless takes place. This is the first characteristic of the mani-
festation of the completely enlightened, the truly awake. Great enlight-
ening beings should know it as such.
Vô lượng nhơn duyên như vậy mới thành Ðại Thiên thế giới. Pháp tánh như vậy không có sanh giả, không có tác giả, không có tri giả, không có thành giả, nhưng Ðại Thiên thế giới vẫn được thành tựu.
Cũng vậy, Như Lai xuất hiện chẳng phải do một duyên, chẳng phải do một sự mà được thành tựu, phải do vô lượng duyên vô lượng sự mới thành tựu được. Những là từng ở chỗ Phật quá khứ lắng nghe thọ trì đại pháp vân, đại pháp võ. Do đây có thể khởi Như Lai bốn thứ đại trí phong luân:
Một là đại trí phong luân đà la ni niệm trì chẳng quên, vì hay trì tất cả đại pháp vân đại pháp võ của Như Lai.
Hai là đại trí phong luân xuất sanh chỉ quán, vì hay tiêu diệt tất cả phiền não
Ba là đại trí phong luân hồi hướng thiện xảo, vì hay thành tựu tất cả thiện căn.
Bốn là đại trí phong luân xuất sanh ly cấu sai biệt trang nghiêm, vì khiến quá khứ những chúng sanh được hóa độ, thiện căn của họ thanh tịnh, thành tựu sức thiện căn vô lậu của Như Lai.
“Furthermore, just as when a billion-world universe is about to form,
the rain falling from the great clouds, called ‘the deluge,’ cannot be
absorbed or held by any place except the universe when it is about to
form, in the same way when the Buddha rouses the clouds of the great
Teaching and showers the rain of the great Teaching, those of the two
lesser vehicles, whose minds and wills are narrow and weak, cannot
absorb or hold it — this is possible only for the great enlightening beings
with the power of mental continuity. This is the second characteristic of
the manifestation of Buddha — great enlightening beings should know it
as such.
“Furthermore, just as sentient beings, by the force of their acts, shower
rain from great clouds, which do not come from anywhere or go any-
where, in the same way great enlightening beings, by the power of their
roots of goodness, rouse the clouds of the great Teaching and shower the
rain of the great Teaching, yet it comes from nowhere and goes no-
where. This is the third characteristic of the manifestation of Buddha —
great enlightening beings should know it as such.
Ðức Như Lai thành Ðẳng Chánh Giác như vậy, pháp tánh như vậy, vô sanh vô tác mà được thành tựu.
Ðây là tướng xuất hiện thứ nhứt của đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như Ðại Thiên thế giới lúc sắp thành, mây lớn tuôn mưa gọi là hồng chú. Tất cả phương xứ chẳng thể thọ, chẳng thể trì, chỉ trừ Ðại Thiên thế giới lúc sắp thành.
Cũng vậy, đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác nổi đại pháp vân, tuôn đại pháp vũ, gọi là thành tựu Như Lai xuất hiện, tất cả hàng Nhị thừa tâm chí hẹp kém không thọ được, không trì được, chỉ trừ sức tâm tương tục của chư đại Bồ Tát.
Ðây là tướng xuất hiện thứ hai của đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác, đại Bồ Tát phải biết như vậy.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như chúng sanh vì do nghiệp lực, mây lớn tuôn mưa, đến không từ đâu, đi không về đâu.
Cũng vậy, đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác, do sức thiện căn của chư Bồ Tát, nổi đại pháp vân, tuôn đại pháp vũ, cũng đến không từ đâu, đi chẳng đến đâu.
Ðây là tướng xuất hiện thứ ba của đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác, đại Bồ Tát phải biết như vậy.
“Furthermore, just as no beings in the universe can count the drops of
rain pouring from great clouds, and would go crazy if they tried, for
only the overlord god of the universe, by the power of roots of goodness
cultivated in the past, is aware of every single drop, in the same way the
Buddha produces great clouds of teachings and showers great rain of
teachings that all sentient beings, seekers of personal salvation, and self-
enlightened ones cannot know, and they would surely go mad if they
tried to assess them in thought; only the great enlightening beings, lords
of all worlds, by the power of awareness and intellect cultivated in the
past, comprehend every single expression and phrase, and how they
enter beings’ minds. This is the fourth characteristic of the manifestation
of Buddha — great enlightening beings should know it as such.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như mây lớn tuôn xối mưa lớn. Trong Ðại Thiên thế giới tất cả chúng sanh không biết được số. Nếu muốn tính đếm, chỉ luống phát cuồng. Duy có Ma Hê Thủ La, chủ của Ðại Thiên thế giới, do sức thiện căn đã tu từ quá khứ, nhẫn đến một giọt đều biết rõ cả.
Cũng vậy, đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác nổi đại pháp vân, tuôn đại pháp vũ, tất cả chúng sanh, Thanh Văn, Duyên Giác đều không biết được.
Nếu muốn nghĩ lường tâm ắt cuồng loạn. Chỉ trừ đại Bồ Tát, chủ của tất cả thế gian, do sức giác huệ đã tu từ quá khứ, nhẫn đến một văn một câu nhập vào tâm chúng sanh đều biết rõ cả.
Ðây là tướng xuất hiện thứ tư của đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác. Ðại Bồ Tát phải biết như vậy.
“Furthermore, it is as when great clouds shower rain, there is a great
cloud raining called the extinguisher, because it can extinguish fires;
there is a great cloud raining called producer, because it can produce
floods; there is a great cloud raining called stopper, because it can stop
floods; there is a great cloud raining called maker, because it can make all
kinds of jewels; there is a great cloud raining called distinguisher, because
it can distinguish the billion worlds of the universe. The Buddha mani-
Page 916 – The Flower Ornament Scripture
festing is also like this, producing great clouds of teaching, showering
great rains of teaching: there is a great rain of teaching called extin-
guisher because it can extinguish all sentient beings’ afflictions; there is
a great rain of teaching called producer because it can produce all sen-
tient beings’ roots of goodness; there is a great rain of teaching called
stopper because it can stop all sentient beings’ delusions of views; there
is a great rain of teaching called maker because it can make all jewels of
wisdom; there is a great rain of teaching called distinguisher because it
distinguishes the inclinations of all sentient beings. This is the fifth char-
acteristic of the manifestation of Buddha — great enlightening beings
should know it as such.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như lúc mây lớn tuôn mưa, có mây lớn mưa lớn tên là năng diệt, diệt được hỏa tai. Có mây lớn mưa lớn tên là năng khởi, hay khởi đại thủy. Có mây lớn mưa lớn tên là năng chỉ, hay ngăn đại thủy. Có mây lớn mưa lớn tên là năng thành, hay tất cả các báu ma ni. Có mây lớn mưa lớn tên phân biệt, hay phân biệt Tam thiên Ðại thiên thế giới.
Cũng vậy, đức Như Lai xuất hiện nổi đại pháp vân, tuôn đại pháp vũ. Có đại pháp vũ tên là năng diệt, hay diệt tất cả phiền não chúng sanh. Có đại pháp vũ tên là năng khởi, hay khởi tất cả thiện căn của chúng sanh. Có đại pháp vũ tên là năng chỉ, hay ngăn kiến hoặc của tất cả chúng sanh. Có đại pháp vũ tên là năng thành, hay thành tất cả trí huệ pháp bửu. Có đại pháp bửu tên là phân biệt, phân biệt tất cả tâm sở thích của chúng sanh.
Ðây là tướng xuất hiện thứ năm của đức Như Lai, đại Bồ Tát phải biết như vậy.
“Furthermore, just as the great clouds rain water of one flavor, yet
there are innumerable differences according to where it rains, in the same
way Buddha appearing in the world rains water of teaching of one flavor
of great compassion, yet his sermons according to the needs of the situa-
tion are infinitely variegated. This is the sixth characteristic of the mani-
festation of Buddha — great enlightening beings should know it as such.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như mây lớn tuôn nước đồng một vị mà tùy những chỗ mưa có vô lượng sai biệt.
Cũng vậy, đức Như Lai xuất hiện tuôn đại bi pháp thủy đồng một vị mà tùy sở nghi thuyết pháp có vô lượng sai biệt.
Ðây là tướng xuất hiện thứ sáu của đức Như Lai, đại Bồ Tát phải biết như vậy.
“Furthermore, as when a billion-world universe first forms, the abodes
of the heavens in the realm of form are made first, then the abodes of the
heavens in the realm of desire, and then the abodes of human and Other
beings, similarly Buddha appearing in the world first produces the
knowledge of practices of enlightening beings, then the knowledge of
practices of individual illuminates, then the knowledge of practices of lis-
teners, then the knowledge of practices of the conditional roots of good-
ness of Other sentient beings. Just as the great clouds rain water of one
flavor while the abodes created are variously dissimilar according to the
differences in roots of goodness of the sentient beings, Buddha’s spiritual
rain of the one flavor of compassion has differences according to the ves-
sels, or capacitites of sentient beings. This is the seventh characteristic of
the manifestation of Buddha — great enlightening beings should know it
as such.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như Ðại Thiên thế giới, lúc mới bắt đầu thành, trước hết thành cung điện của trời cõi Sắc, kế đến thành cung điện của trời cõi Dục, kế đến thành chỗ ở của loài người và những loài khác.
Cũng vậy, đức Như Lai xuất hiện, trước hết khởi những hạnh trí huệ Bồ Tát, kế khởi những hạnh trí huệ Duyên Giác, kế khởi những hạnh trí huệ thiện căn Thanh Văn, kế khởi những hạnh trí huệ thiện căn hữu vi của các chúng sanh khác.
Như mây lớn tuôn nước một vị, vì theo thiện căn của chúng sanh sai khác nên khởi các loại cung điện chẳng đồng.
Ðại bi pháp vũ nhứt vị của Như Lai tùy căn khí của chúng sanh mà có sai khác.
Ðây là tướng xuất hiện thứ bảy của đức Như Lai, đại Bồ Tát phải biết như vậy.
“Furthermore, when the worlds are beginning, there is a great flood
filling the billion-world universe, producing enormous lotus flowers,
called array of jewels of virtues of the manifestation of Buddha, which
cover the surface of the waters, their radiance illumining all worlds in
the ten directions. Then the overlord god, the gods of the pure abodes,
and so on, seeing these flowers, know for certain that in this eon there
will be that many buddhas appearing in the world. At that time there
arises an atmosphere called highly purified light which makes the man-
sions of the heavens of the realm of form. There arises an atmosphere
called array of pure lights which makes the mansions of the heavens of
the world of desire. There arises an atmosphere called firm, dense, and
indestructible, which makes the great and small peripheral mountains
and the iron mountains. There arises an atmosphere called supremely
high which makes the polar mountains. There arises an atmosphere called
immovable which makes the ten great mountains. There arises an atmo-
Page 977 – Manifestation of Buddha
sphere called stabilization which makes the earth. There arises an atmo-
sphere called adornment which makes the palaces of the earth and sky,
of the water and sound spirits. There arises an atmosphere called inex-
haustible treasury which makes all the oceans of the billion worlds.
There arises an atmosphere called treasury of universal light which
makes all the jewels of the billion worlds. There arises an atmosphere
called steadfast roof which makes all the wish-fulfilling trees of the bil-
lion worlds. The one-flavored water rained by the great clouds has no
distinctions, but because the roots of goodness of sentient beings are not
the same, the atmospheres are not the same, and because of the differ-
ences of the atmospheres, the worlds are different. The manifestation of
Buddha is also like this, replete with the virtues of all roots of goodness,
emitting the light of unexcelled great knowledge, called inconceivable
knowledge perpetuating the lineage of buddhas, illumining all worlds in
the ten directions, giving the enlightening beings the prediction that they
will be coronated by all buddhas, attain true enlightenment, and appear
in the world. The Buddha manifesting has another light of unexcelled
great knowledge, called pure and undefiled, which makes the untainted
inexhaustible knowledge of the enlightened. There is another light of
unexcelled great knowledge, called universal illumination, which makes
the Buddha’s inconceivable knowledge universally penetrate the realm
of reality. There is another light of unexcelled great knowledge, called
sustaining the nature of buddhahood, which makes the insuperable
power of Buddha. There is another light of unexcelled great knowledge,
called outstanding and incorruptible, which makes Buddha’s fearless and
incorruptible knowledge. There is another light of unexcelled great
knowledge, called all spiritual powers, which makes Buddha’s unique
qualities and omniscience. There is another light of unexcelled great
knowledge, called producing mystic transformation, which makes Bud-
dha’s knowledge of how to cause the roots of goodness produced by
seeing, hearing, and attending Buddha to not be lost or decay. There is
another light of unexcelled great knowledge, called universal accord,
which makes Buddha’s body of endless virtue and knowledge, doing
what is beneficial for all beings. There is another light of unexcelled
great knowledge, called inexhaustible, which makes Buddha’s extremely
profound, subtle knowledge causing the lineage of the three treasures not
to die out, according to those who are enlightened by it. There is another
light of unexcelled great knowledge, called various adornments, which
makes the glorified body of Buddha, gladdening all sentient beings.
There is another light of unexcelled great knowledge, called indestruc-
tible, which makes the inexhaustible, supreme life span of Buddha equal
to the cosmos and the realm of space. Buddha’s water of the one flavor
of compassion has no distinction, but because sentient beings’ inclina-
tions are not the same and their faculties and characters are different, it
produces various atmospheres of great knowledge, enabling the sentient
beings to accomplish the actual manifestation of buddhahood. All bud-
Page 978 – The Flower Ornament Scripture
dhas are one and the same in essence; from the sphere of great knowledge
they produce various kinds of lights of knowledge. You should know
that Buddha, from the single flavor of liberation, produces infinite, in-
conceivable qualities of various kinds, which sentient beings think are
products of the Buddha’s supernormal powers, but which actually are
not created by the supernormal powers of Buddha. There is not a single
enlightening being who can ever attain even a little bit of the knowledge
and wisdom of buddhas without having planted roots of goodness in the
company of buddhas. It is just that by the spiritual power of the buddhas
sentient beings are enabled to embody the qualities of buddhahood; yet
the buddhas have no discrimination. There is no creation, no destruction,
no creator, and nothing created. This is the eighth characteristic of the
manifestation of Buddha — great enlightening beings should know it as
such.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như lúc thế giới ban đầu sắp thành, có đại thủy khởi đầy khắp Ðại Thiên thế giới, sanh hoa sen lớn tên là Như Lai xuất hiện công đức bửu trang nghiêm, che khắp trên mặt nước, ánh sáng chiếu tất cả thế giới mười phương. Lúc đó Ma Hê Thủ La và Tịnh Cư Thiên thấy hoa sen đó, liền quyết định biết trong kiếp này có bao nhiêu đức Phật như vậy xuất thế.
Bấy giờ trong đó có phong luân nổi lên tên là Thiên tịnh quang minh hay làm thành cung điện chư Thiên cõi Sắc. Lại có phong luân tên là Tịnh quang trang nghiêm hay thành cung điện chư Thiên cõi Dục. Lại có phong luân tên là Kiên mật vô năng hoại hay thành những đại và tiểu Luân Vi Sơn cùng Kim Cang Sơn. Lại có phong luân tên là Thắng cao hay thành núi Tu Di. Lại có phong luân tên là Bất động hay thành mười núi lớn là núi Khư Ðà la, núi Tiên Nhơn, núi Phục Ma, núi Ðại Phục Ma, núi Trì Song, núi Di Dân Ðà La, núi Mục Chơn Lân Ðà, núi Ma Ha Mục Chơn Lân Ðà, Hương Sơn và Tuyết Sơn. Có phong luân tên là An trụ hay thành đại địa. Có phong luân khởi tên là Trang Nghiêm hay thành cung điện của Ðịa thiên, Long cung, Càn Thát bà cung. Có phong luân khởi tên là Vô tận tạng hay thành tất cả đại hải trong Ðại thiên thế giới. Có phong luân khởi tên là Phổ quang minh tạng hay thành những ma ni bửu trong Ðại Thiên thế giới. Có phong luân khởi tên là Kiên cố căn hay thành tất cả Như Ý thọ.
Mây lớn tuôn mưa một thứ nước đồng một vị không có sai khác. Do chúng sanh thiện căn chẳng đồng nên phong luân chẳng đồng. Phong luân sai khác nên thế giới sai khác.
Cũng vậy, Như Lai xuất hiện đầy đủ thiện căn công đức, phóng quang minh đại trí vô thượng tên là trí bất tư nghì chẳng dứt Như Lai chủng, chiếu khắp tất cả thế giới mười phương, thọ Như Lai quán đảnh ký cho chư Bồ Tát sẽ thành Chánh Giác xuất hiện ra đời.
Chư Phật tử! Như Lai xuất hiện lại có quang minh đại trí vô thượng tên là Thanh tịnh ly cấu hay thành Phật trí vô lậu vô tận.
Lại có quang minh đại trí vô thượng tên là Phổ Chiếu hay thành Trí bất tư nghì Như Lai khắp vào pháp giới.
Lại có quang minh đại trí vô thượng tên là Trì Phật chủng tánh hay thành Sức chẳng khuynh động của Như Lai.
Lại có quang minh đại trí vô thượng tên là Hoánh xuất vô năng hoại hay thành Trí vô úy vô hoại của Như Lai.
Lại có quang minh đại trí vô thượng tên là Nhứt thiết thần thông hay thành Những pháp bất cộng nhứt thiết chủng trí của Như Lai.
Lại có quang minh đại trí vô thượng tên là Xuất sanh biến hóa hay thành Trí chẳng hư mất của Như Lai khiến người thấy nghe thân cận sanh thiện căn.
Lại có quang minh đại trí vô thượng tên là Phổ tùy thuận hay thành Thân trí huệ phước đức của Như Lai, vì tất cả chúng sanh mà làm lợi ích.
Lại có quang minh đại trí vô thượng tên là Bất khả cứu cánh hay thành Diệu trí thậm thâm của Như Lai, tùy chỗ khai ngộ làm cho Tam bảo chủng vĩnh viễn chẳng đoạn tuyệt.
Lại có quang minh đại trí vô thượng tên là Chủng chủng trang nghiêm hay thành Thân tướng hảo trang nghiêm của Như Lai, khiến tất cả chúng sanh đều hoan hỷ.
Lại có quang minh đại trí vô thượng tên là Bất khả hoại hay thành Thọ mạng thù thắng vô tận đồng với hư không giới pháp giới của Như Lai.
Chư Phật tử nước một vị đại bi của Như Lai không có phân biệt, vì các chúng sanh sở thích chẳng đồng căn tánh đều khác nên khởi nhiều thứ phong luân sai khác, khiến các Bồ Tát thành tựu pháp Như Lai xuất hiện.
Tất cả Như Lai đồng một thể tánh, trong đại phong luân xuất sanh các thứ trí huệ quang minh.
Chư Phật tử phải biết, đức Như Lai ở nơi một vị giải thoát, xuất sanh vô lượng bất tư nghì các thứ công đức. Chúng sanh nghĩ rằng đây là thần lực của Như Lai tạo ra.
Chư Phật tử! Ðây chẳng phải thần lực của Như Lai tạo ra.
Chư Phật tử! Chẳng bao giờ có nhẫn đến một Bồ Tát chẳng ở nơi chỗ Phật từng gieo căn lành mà có thể được ít phần trí huệ của Như Lai. Chỉ do sức oai đức của chư Phật khiến các chúng sanh đủ công đức của Phật. Mà đức Phật Như Lai không phân biệt, không thành, không hoại, không có tác giả, cũng không có pháp làm.
Ðây là tướng xuất hiện thứ tám của đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.
“Furthermore, it is like the arising of four atmospheres in space that
can sustain the sphere of water. Of these four, one is called stability, the
second permanence, the third ultimacy, and the fourth firmness. These
four atmospheres can sustain the sphere of water; the sphere of water can
sustain the earth and prevent it from falling apart — therefore it is said
that the sphere of earth rests on the sphere of water, the sphere of water
rests on the atmosphere, the atmosphere rests on space, and space does
not rest on anything; but though space does not rest on anything, it en-
ables the universe to abide. The manifestation of Buddha is also like this,
producing Buddha’s four kinds of atmosphere of great knowledge based
on the unimpeded light of wisdom, able to sustain the roots of goodness
of all sentient beings. What are those four? The atmosphere of great
knowledge taking care of all sentient beings and inspiring joy in them;
the atmosphere of great knowledge setting up right teaching and causing
sentient beings to take to it; the atmosphere of great knowledge preserv-
ing all sentient beings’ roots of goodness; the atmosphere of great knowl-
edge containing all appropriate means, arriving at the realm where there
are no taints or contaminations. The buddhas benevolently rescue all
living beings, compassionately liberate all living beings, their great be-
nevolence and compassion universally aiding all: however, great benevo-
lence and great compassion rest on great skill in means; great skill in
means rests on the manifestation of Buddha; the manifestation of Bud-
dha rests on the light of unimpeded wisdom; the light of unimpeded
wisdom does not rest on anything. This is the ninth characteristic of the
manifestation of Buddha — great enlightening beings should know it as
such.
Lại nữa, chư Phật tử! Như y hư không khởi bốn phong luân hay giữ lấy thủy luân: một tên là an trụ, hai tên là thường trụ, ba tên là cứu cánh, bốn tên là kiên cố.
Bốn phong luân này hay giữ lấy thủy luân. Thủy luân hay giữ lấy đại địa cho khỏi tan hư.
Vì thế nên nói địa luân y nơi thủy luân, thủy luân y nơi phong luân, phong luân y nơi hư không, hư không không chỗ y. Dầu không chỗ y mà hư không có thể làm cho Ðại Thiên thế giới được an trụ.
Cũng vậy, Như Lai xuất hiện y nơi quang minh vô ngại huệ phát khởi bốn thứ đại trí phong luân của Phật hay giữ lấy thiện căn của tất cả chúng sanh.
Một là đại trí phong luân nhiếp khắp chúng sanh đều làm cho hoan hỷ.
Hai là đại trí phong luân kiến lập chánh pháp khiến các chúng sanh đều sanh ưa thích.
Ba là đại trí phong luân giữ gìn thiện căn của tất cả chúng sanh.
Bốn là đại trí phong luân đủ tất cả phương tiện thông đạt vô lậu giới.
Chư Phật Thế Tôn đại từ cứu hộ tất cả chúng sanh, đại bi độ thoát tất cả chúng sanh, đại từ đại bi lợi ích khắp cả. Nhưng đại từ đại bi y đại phương tiện thiện xảo. Phương tiện thiện xảo y Như Lai xuất hiện. Như Lai xuất hiện y vô ngại huệ quang minh. Vô ngại huệ quang minh không chỗ y.
Ðây là tướng xuất hiện thứ chín của đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác. Ðại Bồ Tát phải biết như vậy.
“Furthermore, once the billion-world universe has formed, it benefits
countless various sentient beings — the water creatures receive the bene-
fits of the water, the land creatures receive the benefit of the land, the sky
creatures receive the benefit of the sky. In the same way the manifesta-
tion of Buddha variously benefits all kinds of beings — those who be-
come joyful on seeing Buddha gain the benefit of joy, those who abide
Page 919 – Manifestation of Buddha
by the pure precepts gain the benefit of pure conduct, those who abide in
the meditations, concentrations, and immeasurable minds gain the bene-
fit of transmundane spiritual powers of saints, those who abide in the
lights of the ways of entry into the Teaching gain the benefit of the non-
dissolution of cause and effect, those who abide in the light of nonexis-
tence gain the benefit of nondissolution of all truths. Therefore we say
the manifestation of Buddha benefits all sentient beings. This is the tenth
characteristic of the manifestation of Buddha — great enlightening beings
should know it as such.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như Ðại Thiên thế giới đã thành tựu rồi, nhiêu ích vô lượng chúng sanh. Những loài thủy tộc được lợi ích nơi nước. Lục địa chúng sanh được lợi ích nơi đất liền. Cung điện chúng sanh được lợi ích nơi cung điện. Hư không chúng sanh được lợi ích nơi hư không.
Cũng vậy, Như Lai xuất hiện nhiều thứ lợi ích cho vô lượng chúng sanh. Những là người thấy Phật sanh hoan hỷ thời được lợi ích nơi sự hoan hỷ. Kẻ an trụ nơi tịnh giới thời được lợi ích nơi tịnh giới. Kẻ trụ nơi các thiền định và môn vô lượng thời được lợi ích nơi Thánh xuất thế đại thần thông. Kẻ trụ pháp môn quang minh thời được lợi ích nhơn quả chẳng hoại. Kẻ trụ vô sở hữu quang minh thời được lợi ích tất cả pháp chẳng hoại. Vì thế nên nói rằng đức Như Lai xuất hiện lợi ích tất cả vô lượng chúng sanh.
Ðây là tướng xuất hiện thứ mười của đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác, đại Bồ Tát phải biết như vậy.
“When great enlightening beings know the manifestation of Buddha,
they know it is infinite because they know it consummates infinite prac-
tices; then they know it is immensely vast because they know it pervades
the ten directions; then they know it has no coming or going because
they know it is apart from birth, subsistence, and extinction; then they
know it has no action and nothing acted upon because they know it is
beyond mind, intellect, and consciousness; then they know it is impartial
because they know all sentient beings have no self; then they know it is
endless because they know it pervades all lands without end; then they
know it is unreceding because they know it will never be stopped in the
future; then they know it has no decay because the Buddha’s knowledge
has no counterpart; then they know it is nondual because they know
Buddha equally observes the conditional and the unconditional; then
they know all sentient beings gain benefit because the dedication of Bud-
dha’s original vows are freely fulfilled.”
Then the great enlightening being Universally Good, wishing to re-
state his point, spoke these verses:
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát biết Như Lai xuất hiện thời biết vô luợng, vì biết thành tựu vô lượng. Thời biết quảng đại, vì biết cùng khắp mười phương. Thời biết không lai khứ, vì biết lìa sanh, trụ, diệt. Thời biết vô hành, vô sở hành, vì biết lìa tâm ý thức. Thời biết không thân, vì biết như hư không. Thời biết bình đẳng, vì biết tất cả chúng sanh đều vô ngã. Thời biết vô tận, vì biết khắp tất cả cõi vô tận. Thời biết vô thối, vì biết tận hậu tế không đoạn tuyệt. Thời biết vô hoại, vì biết Như Lai trí không có đối đãi. Thời biết vô nhị, vì biết bình đẳng quán sát hữu vi và vô vi. Thời biết tất cả chúng sanh đều được lợi ích, vì bổn nguyện hồi hướng tự tại đầy đủ.
Phổ Hiền đại Bồ Tát muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng:
The Ten-Powered Great Hero is supreme,
Incomparable as space,
With a sphere so vast it cannot be measured,
Virtues most eminent, beyond the world.
The virtues of the ten powers are boundless,
Unreachable by thought:
A single teaching of the human lion
No sentient beings can know in a hundred million eons.
If the lands of the ten directions were reduced to dust,
Those mofes of dust might be counted,
But the virtues in a single hair of Buddha
Could not be told in a trillion eons.
If someone took a ruler to measure space
And someone followed to keep the account,
The bounds of space could not be found —
So it is with the realm of Buddha.
Page 980 – The Flower Ornament Scripture
If someone could know in an instant
The minds of the beings of all times,
Even over eons as many as beings,
Such a one could know the essence of one thought of Buddha.
Just as the reality realm pervades all
Yet cannot be perceived as being all,
So also is the realm of the Ten-Powered:
It pervades all yet is not all.
True Thusness, free of falsehood, is ever silent;
Birthless, deathless, it is all-pervasive.
The realm of the buddhas is also thus;
Essentially equal, not increasing or decreasing.
Just as ultimate reality has no limit.
Is in all times yet is not therein,
So is the realm of the Guide,
Pervading all times without obstruction.
The nature of things is uncreate, unchanging,
Fundamentally pure, like space:
So also is the purity of nature of buddhas —
Their fundamental nature is not a nature, is beyond being and nonbeing.
The nature of things is not in discussion,
It is speechless, beyond speech, eternally quiescent.
The nature of the realm of the Ten-Powered is also thus;
No words can explain it.
Buddha knows the nature of things is null.
Like birds flying through the sky without a trace;
By the power of past vows he manifests a body,
Showing the great spiritual transfiguration of Buddha.
Any who wish to know the realm of Buddha
Should make their minds clean as space.
Getting rid of false notions and graspings,
Making the mind unhindered wherever it turns.
Therefore offspring of Buddha should listen well
As I illustrate the realm of Buddha with a few examples;
The virtues of the Ten-Powered cannot be measured,
But to enlighten all beings I summarize them.
Page 981 – Manifestation of Buddha
The vistas exposed by the Guide
In acts of body, speech, and mind,
Their teaching and final extinction.
All roots of goodness I now will tell.
Just as the establishment of worlds
Cannot be achieved by one cause or condition,
And countless appropriate causes and conditions
Form this billion-world universe.
The manifestation of Buddha is also like this,
Only accomplished through infinite virtues;
The atoms of lands and thoughts of minds may be known,
But the productive causes of the Ten-Powered none can measure.
Just as clouds pour rain at the start of one eon
And create four great atmospheres,
And the roots of goodness of sentient beings and the power of enlightening beings
Establish the billion worlds securely,
So do the clouds of teaching of the Ten-Powered
Produce atmospheres of knowledge, pure minds.
Guiding beings to which they were previously dedicated
To fulfillment of the highest reward.
Just as there is a great deluge
Which no place can contain
Except the great wind force in pure space
At the beginning of the universe.
So also is the Buddha’s manifestation.
Showering rain of truths filling the cosmos
Which the weak-minded cannot bear,
Only those of pure and broad minds.
Just as the downpour of rain in the sky
Comes from nowhere and goes nowhere,
With no producer or receiver,
Naturally filling all with moisture thus,
The rain of teaching of Buddha is also thus,
Without coming or going, uncreate;
Based on past practice, with the power of enlightening beings,
All the great-minded hear and accept it.
As the clouds in the sky shower rain.
And no one can count the drops,
Except the lord of the universe
Page 982 – The Flower Ornament Scripture
Whose power is able to comprehend them,
So also is the rain of teaching of the Felicitous;
No sentient beings can measure it,
Except people who are free in the world,
Who see it as clearly as a jewel in the hand.
Just as the rain pouring from the clouds in the sky
Can extinguish, can produce, and can stop,
Can make all jewels
And distinguish all in the universe.
The rain of Buddha’s teaching is also thus,
Extinguishing delusion, producing good, stopping views,
Making all jewels of knowledge,
Distinguishing beings’ inclinations.
The one flavor of the rain in the sky
Is different according to the places it rains —
It is not that the rain has any distinction,
But it is naturally thus according to the differences in things.
The rain of teaching of Buddha is not one or varied:
Impartial, quiescent, it is free from discrimination,
Yet according to the various differences of those taught
It naturally has unlimited aspects.
When the world is first formed,
First are formed the palaces of the form-realm heavens,
Then the desire heavens, then human abodes.
And last the gandharva palaces;
The manifestation of Buddha is also like this,
First producing boundless enlightening beings’ practices.
Then teaching those aware of conditioning, who like tranquillity,
Then the listeners, then finally sentient beings.
When the gods first see the lotus blossom open
They know buddhas will appear and are glad;
Water, based on the power of wind, produces the world,
Dwellings, mountains, and rivers are all set up.
The great light of the developed goodness of Buddha
Skillfully distinguishes enlightening beings and gives them predictions;
The spheres of knowledge, all pure.
Can each reveal the ways to buddhahood.
The forest exists dependent on the earth.
The earth remains solid based on water,
Water depends on wind, wind on space.
Page 983 – Manifestation o f Buddha
While space does not depend on anything.
All Buddha teachings depend on compassion.
And compassion is established depending on means;
Means depend on knowledge, knowledge on wisdom.
While the body of unimpeded wisdom does not depend on anything.
Once the world comes to be.
All beings receive its benefits —
Living on the earth, in the water, in the sky.
Two-legged, four-legged, all receive benefit.
The manifestation of the spiritual sovereign is also thus —
All beings gain its benefits;
If any see, hear, or associate with Buddha,
It will cause all confusions and afflictions to be removed.
The elements of Buddha’s manifestation are boundless;
The deluded of the world cannot know them.
Out of desire to enlighten all conscious beings
Similes are told where there is no comparison.
Thập Lực Ðại Hùng vô thượng nhứt
Ví như hư không vô đẳng đẳng
Cảnh giới quảng đại chẳng lường được
Công đức thứ nhứt siêu thế gian
Thập Lực công đức vô biên lượng
Tâm ý tư lương chẳng đến được
Một pháp môn của đức Thế Tôn
Chúng sanh ức kiếp chẳng biết được
Mười phương quốc độ nghiền làm trần
Hoặc có tính đếm biết số đó
Công đức bằng một lông của Phật
Ngàn muôn ức kiếp không nói được
Như người cầm thước đo hư không
Lại có người theo tính số thước
Biên tế hư không chẳng thể được
Cảnh giới Như Lai cũng như vậy
Hoặc có người trong khoảng sát na
Biết được tâm chúng sanh ba thuở
Dầu nhiều kiếp bằng số chúng sanh
Chẳng biết được một niệm của Phật
Ví như pháp giới khắp tất cả
Chẳng thấy lấy được, làm tất cả
Cảnh giới thập lực cũng như vậy
Khắp tất cả, chẳng phải tất cả
Chơn như ly vọng hằng tịch tịnh
Không sanh không diệt khắp tất cả
Cảnh giới của Phật cũng như vậy
Thể tánh bình đẳng chẳng tăng giảm
Như thiệt tế mà chẳng phải tế
Khắp tại tam thế cũng chẳng khắp
Cảnh giới Như Lai cũng như vậy
Khắp tại tam thế đều vô ngại
Pháp tánh không làm không biến đổi
Dường như hư không vốn thanh tịnh
Chư Phật tánh tịnh cũng như vậy
Bổn tánh phi tánh rời có không
Pháp tánh chẳng ở nơi ngôn luận
Rời hẳn ngôn thuyết hằng tịch diệt
Cảnh giới thập lực tánh cũng vậy
Tất cả văn từ chẳng biện được
Biết rõ các pháp tánh tịch diệt
Như chim bay không chẳng có dấu
Do bổn nguyện lực hiện sắc thân
Khiến thấy Như Lai đại thần biến
Có ai muốn biết Phật cảnh giới
Phải tịnh ý mình như hư không
Xa lìa vọng tưởng rời chấp lấy
Khiến tâm hướng đến đều vô ngại
Vì thế Phật tử phải khéo nghe
Tôi dùng chút dụ rõ Phật cảnh
Thập lực công đức chẳng lường được
Vì ngộ chúng sanh nay luợc nói
Ðạo sư đã hiện nơi thân nghiệp
Ngữ nghiệp, tâm nghiệp các cảnh giới
Chuyển diệu pháp luân nhập Niết Bàn
Tất cả căn lành nay tôi nói
Ví như thế giới mới an lập
Chẳng phải một duyên mà thành được
Vô lượng phương tiện nhiều nhơn duyên
Làm thành Ðại Thiên thế giới này
Như Lai xuất hiện cũng như vậy
Vô lượng công đức mới được thành
Sát trần tâm niệm còn biết được
Thập lực sanh nhơn chẳng lường được
Ví như kiếp sơ mây tuôn mưa
Mà khởi bốn thứ đại phong luân
Chúng sanh thiện căn Bồ Tát lực
Thành Ðại Thiên này đều an trụ
Thập lực pháp vân cũng như vậy
Khởi trí phong luân ý thanh tịnh
Xưa các chúng sanh đã hồi hướng
Ðạo Sư khiến thành quả vô thượng
Như có mưa to hiệu hồng chú
Không có nơi nào dung thọ được
Chỉ trừ thế giới lúc sắp thành
Hư không thanh tịnh sức gió lớn
Như Lai xuất hiện cũng như vậy
Khắp mưa pháp vũ đầy pháp giới
Những kẻ ý liệt không thọ được
Chỉ trừ tâm thanh tịnh quảng đại
Ví như trên không tuôn mưa lớn
Không từ đâu đến không đi đâu
Tác giả, thọ giả cũng đều không
Như vậy tự nhiên khắp thấm ướt
Thập lực pháp vũ cũng như vậy
Không khứ, không lai, không tạo tác
Bổn hạnh làm nhơn sức Bồ Tát
Tất cả đại tâm đều nghe lãnh
Ví như mây to tuôn mưa lớn
Không ai đếm được số giọt mưa
Chỉ trừ Ma Hê Thủ La Thiên
Ðủ sức công đức đều biết rõ
Thiện Thệ pháp vũ cũng như vậy
Tất cả chúng sanh không lường được
Chỉ trừ đấng Tự Tại thế gian
Như trong bàn tay xem thấy rõ
Ví như mây to tuôn mưa lớn
Hay diệt, hay khởi, cũng hay dứt
Tất cả trân bửu đều hay thành
Ðại Thiên mọi vật đều sai khác
Thập lực pháp vũ cũng như vậy
Diệt ác, khởi lành, dứt kiến chấp
Báu nhứt thiết trí đều khiến thành
Chúng sanh sở thích đều sai khác
Ví như trên không mưa một vị
Tùy chỗ được mưa đều chẳng đồng
Tánh của mưa kia không phân biệt
Nhưng tùy vật khác, tất như vậy
Như Lai pháp vũ chẳng một khác
Bình đẳng tịnh tịnh lìa phân biệt
Nhưng tùy sở hóa nhiều loại khác
Tự nhiên vô biên tướng như vậy
Ví như thế giới lúc mới thành
Trước thành Sắc giới thiên cung điện
Kế Dục thiên cung, kế đến người
Cung Càn thát bà thành sau rốt
Như Lai xuất hiện cũng như vậy
Trước khởi vô biên Bồ Tát hạnh
Kế độ Duyên Giác ưa tịch diệt
Kế chúng Thanh Văn, đến chúng sanh
Chư Thiên mới thấy điềm liên hoa
Vui mừng biết Phật sẽ xuất thế
Do nước, sức gió khởi thế gian
Cung điện núi sông đều thành lập
Như Lai thiện lực đại quang minh
Khéo thọ ký cho chư Bồ Tát
Bao nhiêu trí luân thể đều sạch
Ðều hay khai thị các Phật pháp
Ví như rừng cây nương đất có
Ðất nương nơi nước chẳng tan hư
Nước nương phong luân, phong nương
không
Mà hư không kia không nương dựa
Tất cả Phật pháp nương từ bi
Từ bi lại nương phương tiện lập
Phương tiện nương trí, trí nương huệ
Thân vô ngại huệ không chỗ nương
Ví như thế giới đã thành lập
Tất cả chúng sanh được lợi ích
Loài ở đất, ở nước, hư không
Hai chân, bốn chân đều được lợi
Pháp Vương xuất hiện cũng như vậy
Tất cả chúng sanh đều được nhờ
Nếu có thấy nghe và thân cận
Ðều khiến trừ diệt những hoặc não
Như Lai xuất hiện pháp vô biên
Thế gian mê lầm chẳng biết được
Vì muốn khai ngộ những hàm thức
Trong không ví dụ mà nó dụ
“How should great enlightening beings see the body of Buddha?
They should see the body of Buddha in infinite places. Why? They
should not see Buddha in just one thing, one phenomenon, one body,
one land, one being — they should see Buddha everywhere. Just as space
is omnipresent, in all places, material or immaterial, yet without either
arriving or not arriving there, because space is incorporeal, in the same
way Buddha is omnipresent, in all places, in all beings, in all things, in all
lands, yet neither arriving nor not arriving there, because Buddha’s body
is incorporeal, manifesting a body for the sake of sentient beings. This is
the first characteristic of the body of Buddha; great enlightening beings
should see it thus.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát phải như thế nào mà thấy thân của đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác?
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát phải ở vô lượng xứ mà thấy thân Như Lai. Vì chư đại Bồ Tát chẳng nên ở một pháp, một sự, một thân, một quốc độ, một chúng sanh mà thấy Như Lai.
Ví như hư không đến khắp tất cả chỗ sắc phi sắc, chẳng phải đến chẳng phải chẳng đến. Vì hư không chẳng có thân.
Cũng vậy, thân Như Lai khắp tất cả chỗ, khắp tất cả chúng sanh, khắp tất cả pháp, khắp tất cả quốc độ, chẳng phải đến chẳng phải chẳng đến. Vì thân Như Lai là không có thân. Vì chúng sanh mà thị hiện thân Phật.
Ðây là tướng thứ nhứt của thân Như Lai. Chư Ðại Bồ Tát phải thấy như vậy.
“Furthermore, just as space is wide open, is not a form yet can reveal
all forms, yet space is without discrimination or false description, so also
is the body of Buddha like this, causing all beings’ mundane and trans-
mundane good works to be accomplished by illumining all with the
light of knowledge, yet without discrimination or false descriptions,
having originally terminated all attachments and false descriptions. This
is the second characteristic of the body of Buddha — great enlightening
beings should see it this way.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như hư không rộng rãi chẳng phải sắc mà hay hiển hiện tất cả sắc. Nhưng hư không kia không có phân biệt cũng không hý luận.
Thân của Như Lai cũng vậy. Vì do trí quang minh khắp chiếu sáng làm cho tất cả chúng sanh, thế gian, xuất thế gian, các nghiệp thiện căn đều được thành tựu. Nhưng thân Như Lai không có phân biệt cũng không hý luận. Vì từ xưa đến nay, tất cả chấp trước, tất cả hý luận đều đã dứt hẳn.
Ðây là tướng thứ hai của thân Như Lai. Chư Ðại Bồ Tát phải thấy như vậy.
“When the sun comes out, infinite living beings all receive its benefits
— it disperses the darkness and gives light, dries up moisture, causes
plants and trees to grow, matures crops, permeates the sky, causes lotuses
to bloom, allows travelers to see the road, allows people to do their work
— because the orb of the sun radiates infinite beams of light everywhere.
The sun of knowledge of Buddha is also like this, benefiting sentient
Page 984 – The Flower Ornament Scripture
beings everywhere by infinite works — destroying evil and producing
good, breaking down ignorance and creating knowledge, benevolently
saving, compassionately liberating, causing growth of faculties, powers,
and elements of enlightenment, causing beings to develop profound
faith, enabling them to see inevitable cause and effect, fostering in them
the celestial eye to see where beings die and are born, causing their minds
to be unimpeded and not destroy roots of goodness, causing them to
cultivate illumination by knowledge and open the flower of awakening,
causing them to determine to fulfill their fundamental task. Why? Be-
cause Buddha’s immense sun-body of knowledge and wisdom radiates
infinite light, illumining everywhere. This is the third characteristic of
the body of Buddha; great enlightening beings should see it thus.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như mặt nhựt mọc lên, vô lượng chúng sanh ở Diêm Phù Ðề được lợi ích. Những là phá tối làm sáng, biến ướt thành khô, sanh trưởng cỏ cây, thành thục lúa mạ, chói suốt hư không, hoa sen nở xoè, người đi thấy đường, kẻ ở nhà xong công việc. Vì mặt nhựt khắp phóng vô lượng quang minh.
Như Lai trí nhựt cũng như vậy, dùng vô lượng sự khắp lợi ích chúng sanh. Những là diệt ác sanh lành, phá ngu làm trí, đại từ cứu hộ, đại bi độ thoát, làm cho họ tăng trưởng căn, lực, giác phần, khiến sanh lòng tin sâu chắc, bỏ lìa tâm ô trược, khiến kẻ thấy nghe chẳng hư nhơn quả, khiến được thiên nhãn thấy chỗ thọ sanh sau khi chết, khiến tâm vô ngại chẳng hư căn lành, khiến trí tỏ sáng mau nở giác hoa, khiến họ phát tâm thành tựu bổn hạnh. Vì thân mặt nhựt trí huệ quảng đại của Như Lai phóng vô lượng quang minh chiếu sáng khắp nơi.
Ðây là tướng thứ ba của thân Như Lai, chư đại Bồ Tát phải thấy như vậy.
“When the sun rises, first it lights up the highest mountains, then the
lower mountains, then the high plateaus, and finally the whole land; but
the sun does not think, ‘First I will illumine here, afterward I will illu-
mine there’ — it is just because of difference in height of the mountains
and land that there is a succession in illumination. The Buddha, similarly,
having developed the boundless orb of knowledge of the realm of real-
ity, always radiating the light of unimpeded knowledge, first of all illu-
mines the high mountains, which are the great enlightening beings, then
illumines those who are awakened by understanding of conditioning,
then illumines those who listen to the message, then illumines sentient
beings whose foundations of goodness are sure and stable, revealing vast
knowledge according to beings’ mental capacities, finally illumining all
sentient beings, even reaching those who are fixated on error, to be a
beneficial cause for the future, that they may develop to maturity. But
the light of the sun of great knowledge of Buddha does not think, ‘I will
first illumine the great deeds of enlightening beings and at the very last
shine on the sentient beings who are fixated on error’ — it just radiates
the light, shining equally on all, without obstruction or impediment,
without discrimination. Just as the sun and moon appear in their time
and impersonally shine on the mountains and valleys, so also does the
knowledge of Buddha shine on all without discrimination, while the
light of knowledge has various differences according to the differences in
faculties and inclinations of sentient beings. This is the fourth character-
istic of the body of Buddha; great enlightening beings should see it thus.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như mặt nhựt mọc lên, trước hết chiếu những núi lớn như núi Tu Di v.v…, kế chiếu hắc sơn, kế chiếu cao nguyên, sau rốt chiếu khắp đại địa. Mặt nhựt chẳng nghĩ rằng ta trước chiếu đây rồi sau sẽ chiếu nơi kia. Chỉ do núi và mặt đất có cao và thấp nên chiếu có trước và sau.
Ðức Như Lai Ðẳng Chánh Giác cũng như vậy. Thành tựu vô biên pháp giới trí luân, thường phóng vô ngại trí huệ quang minh. Trước chiếu chư đại Bồ Tát, kế chiếu Duyên Giác, kế chiếu Thanh Văn, kế chiếu chúng sanh có thiện căn quyết định, tùy theo tâm khí của họ mà thị hiện trí quảng đại, sau rốt chiếu khắp tất cả chúng sanh, nhẫn đến kẻ tà định cũng chiếu đến để làm nhơn duyên lợi ích thưở vị lai khiến họ được thành thục.
Nhưng đức Như Lai Ðại Trí Nhựt Quang Bồ Tát đại hạnh, nhẫn đến sau rốt sẽ chiếu tà định chúng sanh. Chỉ phóng trí quang bình đẳng chiếu khắp, vô ngại, vô chướng, vô phân biệt. Chư Phật tử! Ví như mặt nhựt, mặt nguyệt, tùy thời xuất hiện, núi lớn, hang tối chiếu khắp không riêng tư.
Như Lai trí huệ cũng như vậy, chiếu khắp tất cả không có phân biệt. Tùy theo chúng sanh căn khí, sở thích không đồng mà trí huệ quang minh có nhiều thứ khác nhau.
Ðây là tướng thứ tư của thân Như Lai, Ðại Bồ Tát phải thấy như vậy.
“When the sun comes out, those born blind cannot see it, because
they have no faculty of vision; yet even though they do not see it, they
are benefited by the light of the sun. Why? By this it is possible to know
the times of day and night and to have access to food and clothing to
comfort the body and free it from distress. The sun of knowledge of
Buddha is also like this; the blind without faith or understanding, im-
moral and heedless, sustaining themselves by wrong means of livelihood,
do not see the orb of the sun of knowledge of the Buddhas because they
have no eye of faith, but even though they do not see it, they are still
benefited by the sun of knowledge. Why? Because by the power of Bud-
Page 985 – Manifestation of Buddha
dha it makes the causes of future suffering of those beings — physical
pains and psychological afflictions — all vanish.
“Buddha has a light called accumulating all virtues, a light called total
universal illumination, a light called pure, free illumination, a light called
producing great wondrous sound, a light called understanding all lan-
guages and gladdening Others, a light called the realm of freedom showing
the eternal cancellation of all doubts, a light called independent universal
illumination of nondwelling knowledge, a light called free knowledge
forever terminating all false descriptions, a light called producing mar-
velous sayings according to need, a light called producing free utterances
adorning lands and maturing sentient beings. Each pore of the Buddha
emits a thousand kinds of light like these: five hundred lights beam
downward, five hundred lights beam upward, illumining the congrega-
tions of enlightening beings at the various places of the buddhas in the
various lands; when the enlightening beings see these lights, all at once
they realize the realm of buddhahood, with ten heads, ten eyes, ten ears,
ten noses, ten tongues, ten bodies, ten hands, ten feet, ten stages, and ten
knowledges, all thoroughly pure. The states and stages previously ac-
complished by those enlightening beings become more pure upon seeing
these lights; their roots of goodness mature, and they proceed toward
omniscience. Those in the two lesser vehicles have all their defilements
removed. Some Other beings, who are blind, their bodies blissful, also
become purified in mind, gentle and docile, able to cultivate mindful-
ness and knowledge. The sentient beings in the realms of hells, hungry
ghosts, and animals all become blissful and are freed from pains, and
when their lives end are reborn in heaven or the human world. Those
sentient beings are not aware, do not know by what cause, by what
spiritual power, they came to be born there. Those blind ones think, ‘We
are Brahma gods, we are emanations of Brahma.’ Then Buddha, in the
concentration of universal freedom, says to them, ‘You are not Brahma
gods, not emanations of Brahma, nor were you created by the king-god
Indra or the world-guardian gods: all this is the spiritual power of Bud-
dha.’ Having heard this, those sentient beings, by the spiritual power of
Buddha, all know their past life and become very happy. Because their
hearts are joyful, they naturally produce clouds of udumbara flowers,
clouds of fragrances, music, cloth, parasols, banners, pennants, aromatic
powders, jewels, towers adorned with lion banners and crescents, clouds
of songs of praise, clouds of all kinds of adornments, and respectfully
offer them to the Buddha. Why? Because these sentient beings have
gained clear eyes, and therefore the Buddha gives them the prophecy of
unexcelled, complete perfect enlightenment. In this way Buddha’s sun
of knowledge benefits sentient beings born blind, fostering the full de-
velopment of basic goodness. This is the fifth characteristic of the body
of Buddha; great enlightening beings should see it this way.
Lại nữa, Chư Phật tử! Ví như mặt nhựt mọc lên, những kẻ sanh manh vì không nhãn căn nên trọn không thấy. Dầu không thấy, nhưng vẫn được ánh sáng mặt nhựt làm lợi ích. Vì do mặt nhựt mà biết thời tiết ngày đêm, thọ dụng các thứ y phục, ẩm thực, khiến thân mạnh khỏe khỏi tật bịnh.
Như Lai trí nhựt cũng như vậy. Những kẻ không tin, không hiểu, phá giới, phá kiến tà mạng sanh sống, vì không tín nhãn nên chẳng thấy chư Phật trí huệ. Dầu không thấy, nhưng vẫn được sự lợi ích nơi trí huệ của Phật. Vì do oai lực của Phật làm cho những chúng sanh đó, các sự khổ nơi thân và những phiền nảo nhơn khổ vị lai đều đựơc tiêu diệt.
Chư Phật tử! Ðức Như Lai có quang minh tên là tích tập tất cả công đức. Có quang minh tên là chiếu khắp tất cả. Có quang minh tên là thanh tịnh tự tại chiếu. Có quang minh tên là xuất đại diệu âm. Có quang minh tên là hiểu khắp tất cả ngữ ngôn khiến sanh hoan hỷ. Có quang minh tên là thị hiện cảnh giới tự tại dứt hẳn tất cả nghi ngờ. Có quang minh tên là trí vô trụ tự tại chiếu khắp. Có quang minh tên là trí tự tại dứt hẳn tất cả hý luận. Có quang minh tên là tùy sở nghi xuất diệu âm. Có quang minh tên là xuất âm thanh tự tại thanh tịnh trang nghiêm quốc độ thành thục chúng sanh.
Chư Phật tử! Mỗi lỗ lông của đức Như Lai phóng ra ngàn thứ quang minh như vậy. Năm trăm quang minh chiếu khắp hạ phương, năm trăm quang minh chiếu khắp thượng phương các chúng Bồ Tát ở chỗ chư Phật trong tất cả cõi. Những Bồ Tát đó thấy quang minh này đồng thời đều được cảnh giới Như Lai: mười đầu, mười mắt, mười tai, mười mũi, mười lưỡi, mười thân, mười tay, mười chân, mười địa, mười trí đều thanh tịnh tất cả. Chư Bồ Tát đó trước đã thành tựu những xứ, những địa, khi thấy quang minh này thời lại thanh tịnh hơn, tất cả thiện căn thảy đều thành thục, hướng đến nhứt thiết trí. Hạng trụ ở Nhị thừa thời diệt tất cả phiền não. Ngoài ra một phần sanh manh chúng sanh, nhờ quang minh này, thân đã an lạc nên tâm họ cũng thanh tịnh nhu nhuyến điều phục kham tu niệm trí. Các chúng sanh nơi ác đạo: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh đều được khoái lạc giải thoát những khổ, khi mạng chung đều được sanh lên cõi trời hoặc nhơn gian.
Chư Phật tử! Những chúng sanh đó chẳng biết do nhơn duyên gì, do thần lực nào mà sanh về đây. Hàng sanh manh kia nghĩ rằng ta là Phạm Thiên, ta là Phạm Hoá. Bấy giờ đức Như Lai trụ trong phổ tự tại tam muội, phát ra sáu mươi thứ diệu âm mà bảo họ rằng các ngươi, chẳng phải là Phạm Thiên, Phạm Hóa, cũng chẳng phải là Ðế Thích, Hộ Thế làm ra, mà đều do thần lực của Như Lai. Những chúng sanh đó nghe lời trên đây liền đều được biết đời trước và đều rất hoan hỷ. Vì tâm hoan hỷ nên tự nhiên hiện ra mây hoa ưu đàm, mây hương, mây âm nhạc, mây y phục, mây lọng, mây tràng, mây phan, mây hương bột, mây châu báu, tràng sư tử lầu các bán nguyệt, mây ca ngâm khen ngợi, mây những đồ trang nghiêm, đều cúng dường đức Như Lai với lòng tôn trọng. Vì những chúng sanh đó được tịnh nhãn. Ðức Như Lai thọ ký Vô thượng Bồ Ðề cho họ.
Chư Phật tử! Như Lai trí nhựt lợi ích cho hàng sanh manh chúng sanh như vậy, làm cho họ được thiện căn thành thục đầy đủ.
Ðây là tướng thứ năm của thân Như Lai, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.
“Furthermore, it is like the moon, with four special extraordinary
qualities: first, it outshines all the stars; second, as time passes it shows
Page 986 – The Flower Ornament Scripture
waning and waxing; third, its reflection appears in all clear waters;
fourth, all who see it see it right before them, yet the moon has no
discrimination and no arbitrary conceptions. The moon of the body of
Buddha similarly has four special extraordinary qualities: it outshines
all hearers and individual illuminates, whether they are in the stage of
learning or beyond learning; according to the needs of the situation, it
manifests different life spans, yet without increase or decrease in the
Buddha-body; its reflection appears in all vessels of enlightenment, sen-
tient beings with pure minds, in all worlds; all sentient beings who be-
hold it think the Buddha is in their presence alone. According to their
inclinations, Buddha teaches them, liberating them according to their
states, causing them to perceive the Buddha-body according to their
needs and pofentials for edification, yet the Buddha-body has no dis-
crimination, no arbitrary conceptions; all benefits it renders reach the
ultimate end. This is the sixth characteristic of the body of Buddha; great
enlightening beings should see it thus.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như mặt nguyệt có bốn pháp kỳ đặc vị tằng hữu:
Một là che chói quang minh của tất cả tinh tú.
Hai là theo dõi thời gian mà hiện tròn khuyết.
Ba là trong nước đứng trong ở đại địa đều hiện bóng cả.
Bốn là tất cả người thấy mặt nguyệt đều đối trước mắt họ, mà nguyệt luân không phân biệt không hý luận.
Chư Phật tử! Thân của Như Lai cũng vậy, có bốn pháp kỳ đặc vị tằng hữu:
Một là che chói tất cả hàng Thanh Văn, Duyên Giác, những chúng hữu học, vô học.
Hai là tùy theo sở nghi mà thị hiện thọ mạng dài vắn chẳng đồng, nhưng thân Như Lai không tăng giảm.
Ba là trong căn khí Bồ Ðề chúng sanh tâm tịnh nơi tất cả thế giới đều hiện bóng trong đó.
Bốn là tất cả chúng sanh có ai thấy Như Lai đều cho rằng đức Như Lai chỉ hiện trước tôi. Như Lai theo sở thích của họ mà thuyết pháp, theo địa vị của họ khiến được giải thoát, theo chỗ đáng độ khiến thấy thân Phật. Nhưng thân Như Lai vẫn không phân biệt không hý luận. Những điều lợi ích làm ra đều được rốt ráo.
Ðây là tướng thứ sáu của thân Như Lai, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.
“Furthermore, just as the supreme Brahma god of a billion-world
universe simply manifests its body in the billion worlds, and all beings
see Brahma before them, yet Brahma does not divide its body and does
not have multiple bodies, in the same way the buddhas have no discrimi-
nation, no false representations, and do not divide their bodies or have
multiple bodies, yet they manifest their bodies in accord with the inclina-
tions of all sentient beings, without thinking that they manifest so many
bodies. This is the seventh characteristic of the body of Buddha; great
enlightening beings should see it this way.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như Ðại Phạm Thiên Vương dùng chút phương tiện hiện thân khắp Ðại Thiên thế giới. Tất cả chúng sanh đều thấy Ðại Phạm Vương hiện ở trước mình. Nhưng Ðại Phạm Vương này chẳng phân thân, cũng không các thứ thân.
Cũng vậy, chư Phật Như Lai không có phân biệt không hý luận, cũng chẳng phân thân, không các thứ thân. Nhưng tùy sở thích của tất cả chúng sanh mà thị hiện Phật thân, cũng vẫn chẳng nghĩ rằng hiện ngần ấy thân.
Ðây là tướng thứ bảy của thân Như Lai, chư đại Bồ Tát phải thấy như vậy.
“A master physician is well versed in all medications and the science
of hypnosis, fully uses all the medicines in the land, and, also because of
the power of the physician’s past roots of goodness, and because of using
hypnotic spells as an expedient, all those who see the physician recover
from illness. That master physician, sensing impending death, thinks,
‘After I die, sentient beings will have no one to rely on; I should manifest
an expedient for them.’ Then the master physician compounds drugs,
which he smears on his body, and supports his body by spell power, so
that it will not decay or shrivel after death, so its bearing, seeing, and
hearing will be no different from before, and all cures will be effected.
The Buddha, the Truly Enlightened One, the unexcelled master physi-
cian, is also like this, having developed and perfected the medicines of
the Teaching over countless eons, having cultivated and learned all skills
in application of means and fully consummated the power of illuminat-
ing spells, is able to quell all sentient beings’ afflictions. Buddha’s life
spans measureless eons, the body pure, without any cogitation, without
activity, never ceasing the works of buddhas; the afflictions of all sentient
beings who see Buddha dissolve away. This is the eighth characteristic
of the body of Buddha; great enlightening beings should see it in this
way.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như y vương khéo biết các thứ thuốc và những chú luận, đều dùng được tất cả những thứ thuốc có ở Diêm Phù Ðề. Lại do năng lực của những thiện căn đời trước và sức đại minh chú làm phương tiện, nên chúng sanh được thấy y vương đều được lành mạnh. Y vương này biết mạng sắp chết, nghĩ rằng sau khi ta chết, tất cả chúng sanh không nơi nương dựa. Nay ta phải nên vì họ mà hiện phương tiện. Lúc đó y vương chế thuốc thoa thân mình dùng sức minh chú gia trì, nên dầu đã chết mà thân chẳng rã, chẳng héo, chẳng khô, cử chỉ nhìn nghe không khác lúc còn sống, phàm có chữa trị đều được lành mạnh.
Cũng vậy, đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác vô thượng y vương trải qua vô lượng trăm ngàn ức na do tha kiếp tu luyện pháp dược đã được thành tựu, tu học tất cả phương tiện thiện xảo đại minh chú lực đều được viên mãn đến bĩ ngạn. Khéo trừ diệt được tất cả bịnh phiền não của chúng sanh, và trụ thọ mạng trải qua vô lượng kiếp. Thân Phật thanh tịnh không tư lự, không động dụng, tất cả Phật sự không hề thôi nghỉ. Chúng sanh được thấy, các bịnh phiền não đều được tiêu diệt.
Ðây là tướng thứ tám của thân Như Lai, chư đại Bồ Tát phải thấy như vậy.
“In the ocean there is a great jewel called radiant repository, in which
Page 987 – Manifestation of Buddha
are assembled all lights: it’ any sentient beings touch its light, they become
assimilated to its color; if any see it, their eyes are purified; whenever the
light shines it rains jewels called felicity that soofhe and comfort beings.
The body of Buddha is also like this, being a treasury of knowledge in
which are collected all virtues; if any sentient beings come in contact
with the light of precious knowledge of the body of Buddha, they be-
come the same as Buddha in appearance; if any see it their eye of reality
is purified; wherever that light shines, it frees sentient beings from the
miseries of poverty and ultimately imbues them with the bliss of enlight-
enment. The body of Buddha has no discrimination and no false concep-
tions, but can perform great buddha-works for all sentient beings. This is
the ninth characteristic of the body of Buddha; great enlightening beings
should see it in this way.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như đại hải có châu đại ma ni tên là Tạng Tỳ lô giá na họp tất cả quang minh. Nếu có chúng sanh nào chạm phải quang minh của châu này thời đồng một màu với bửu châu. Nếu ai được thấy châu này thời mắt được thanh tịnh. Tùy quang minh này chiếu đến chỗ nào thời mưa ma ni bửu tên là an lạc, làm cho chúng sanh khỏi khổ và được vừa ý.
Chư Phật tử! Thân của chư Như Lai cũng như vậy, là đại bửu tụ, là tạng đại trí huệ tất cả công đức. Nếu có chúng sanh nào chạm phải quang minh của thân Phật thời đồng màu với thân Phật. Nếu ai được thấy thân Phật thời được pháp nhãn thanh tịnh. Tùy chỗ nào mà quang minh của thân Phật chiếu đến đều làm cho các chúng sanh khỏi khổ bần cùng, nhẫn đến đầy đủ sự vui Phật Bồ Ðề.
Chư Phật tử! Như Lai pháp thân không phân biệt, cũng không hý luận mà hay vì khắp tất cả chúng sanh làm Phật sự lớn.
Ðây là tướng thứ chín của thân Như Lai, chư đại Bồ Tát phải thấy như vậy.
“In the ocean is a great wish-fulfilling jewel called treasury of adorn-
ments of all worlds, fully endowed with a million qualities, eliminating
calamities and fulfilling wishes of beings wherever it is. However, this
jewel cannot be seen by beings of little merit. The supreme wish-fulfilling
jewel of the body of Buddha is also like this; called able to gladden all
beings, if any sentient beings see the body of Buddha, hear the name, and
praise the virtues, they will all be enabled to escape forever the pains and
ill s of birth and death. Even if all beings in all worlds focus their minds all
at once on the desire to see Buddha, they will all be enabled to see and
their wish will be fulfilled. The Buddha-body cannot be seen by sentient
beings of little merit unless they can be tamed by the spiritual power of
Buddha; if sentient beings, because of seeing the body of Buddha, plant
roots of goodness and develop them, they are enabled to see the body of
Buddha for their development. This is the tenth characteristic of the
body of Buddha; great enlightening beings should see it thus, because
their minds are measureless, pervading the ten directions, because their
actions are as unhindered as space, because they penetrate everywhere in
the realm of reality, because they abide in absolute truth, because they
have no birth or death, because they remain equal throughout past, pre-
sent, and future, because they are forever rid of all false discriminations,
because they continue their eternal vows, because they purify all worlds,
because they adorn each buddha-body.”
Then the great enlightening being Universally Good, in order to
again clarify what he meant, said in verse:
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như đại hải có đại như ý ma ni bửu vương tên là tạng trang nghiêm tất cả thế gian. Thành tựu đầy đủ trăm vạn công đức. Tùy bửu vương này ở chỗ nào thời làm cho các chúng sanh tai hoạn tiêu trừ sở nguyện đầy đủ. Nhưng chẳng phải chúng sanh ít phước mà được thấy như ý bửu vương này.
Cũng vậy, thân Như Lai tên là hay làm cho tất cả chúng sanh đều được hoan hỷ. Nếu có ai thấy thân Như Lai, nghe danh hiệu Như Lai, khen công đức Như Lai thời đều làm cho thoát hẳn khổ hoạn sanh tử. Giả sử tất cả thế giới tất cả chúng sanh đồng thời chuyên tâm muốn thấy đức Như Lai, đều làm cho được thấy, sở nguyện được đầy đủ.
Chư Phật tử! Chẳng phải chúng sanh ít phước đức mà thấy được thân Như Lai, chỉ trừ thần lực tự tại của Phật gia hộ cho kẻ đáng được điều phục. Nếu có chúng sanh nhơn thấy thân Phật bèn gieo căn lành nhẫn đến thành thục, vì thành thục nên mới khiến thấy thân Như Lai.
Ðây là tướng thứ mười của thân Như Lai, chư đại Bồ Tát phải thấy như vậy. Do vì tâm vô lượng khắp mười phương vậy. Vì sở hành vô ngại như hư không vậy. Vì vào khắp pháp giới vậy. Vì trụ chơn thiệt tế vậy. Vì vô sanh vô diệt vậy. Vì bình đẳng trụ tam thế vậy. Vì lìa hẳn tất cả phân biệt vậy. Vì an trụ thệ nguyện tốt hết thưở vị lai vậy. Vì nghiêm tịnh tất cả thế giới vậy. Vì trang nghiêm mỗi mỗi thân Phật vậy.
Phổ Hiền đại Bồ Tát muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng:
Just as space pervades the ten directions,
Like form but not a form, existent but not existent.
Omnipresent, without bounds,
In beings’ bodies and lands, in all times.
So does the true body of buddhas
Pervade all phenomena,
Invisible, ungraspable,
Yet manifesting bodies to teach beings.
Page 988 – The Flower Ornament Scripture
Just as space cannot be grasped
Yet lets all beings do their work
Without thinking what it does,
How it does it, or for whom,
The physical action of buddhas is also thus,
Causing beings to practice good ways,
Yet the buddha never has any notion
Of acting on them variously.
When the sun comes up over the land
It completely removes the darkness.
Mountains, trees, lakes, flowers, earth, and all beings,
All the various species receive benefit.
The sun of Buddha emerging too is thus,
Causing human and celestial good actions to grow,
Obliterating the darkness of ignorance so they gain the light of knowledge
And always experience all glorious bliss.
When the sun first comes up
It shines first on the high mountains, then the others,
Then shines on the high plains, then the whole land.
Yet the sun never has any discrimination.
The light of Buddha is also thus,
First illumining the enlightening beings, then the self-enlightened.
Then last the listeners and all sentient beings,
Yet the Buddha basically has no stirring thoughts.
Just as the blind cannot see the sun,
Yet sunlight still benefits them.
Enabling them to know time and season and receive food and drink,
To be freed from troubles and gain physical ease.
In the same way faithless beings do not see Buddha,
Yet Buddha benefits them as well;
By hearing Buddha’s name or being touched by Buddha’s light
They can even reach enlightenment.
Just as the moon in the sky
Outshines the stars and appears to wax and wane,
Shows its reflection in all waters.
And appears face to face with those who behold it.
The clear moon of Buddha is also thus.
Outshining Other vehicles, showing length and brevity,
Appearing in the clear mind-water of humans and gods.
Seeming to be present to everyone.
Page 989 – Manifestation of Buddha
Just as the god Brahma, while in its own palace,
Appears in all the Brahma abodes in the universe
So all humans and celestials can see it.
Yet does not actually divide its body to go to them,
Likewise does the Buddha’s manifestation of bodies
Pervade everywhere in the ten directions,
Those bodies countless, incalculable in number.
Yet without dividing bodies, without discrimination.
Like a physician skilled in his arts,
Seeing whom all are cured,
And though his life is ended he embalms his body
So that it will work as before.
So also does the Supreme Healer
Have all knowledge of techniques,
Manifesting embodiment as Buddha by excellent practices of yore,
So the afflictions of all who see are destroyed.
In the ocean is a superb jewel
Which radiates countless beams of light;
Those who come in contact with it become the same color.
And the eyes of those who see it are purified:
The Supremejewel is also thus;
Those whom its light touches become the same in appearance,
In those who get to see it the five eyes open;
They break through the darkness of the senses and dwell in buddhahood.
The wish-fulfilling jewel
Satisfies all desires;
Those of little virtue cannot see it,
Though this is not by the jewel’s discrimination:
The jewel of Buddha is also thus,
Fulfilling all desires;
Faithless beings cannot see it.
But not because Buddha abandons them.
Ví như hư không khắp mười phương
Hoặc sắc phi sắc, hữu phi sắc
Tam thế chúng sanh: thân, quốc độ
Ở khắp không biên tế như vậy
Cũng thế, chơn thân của chư Phật
Tất cả pháp giới đều khắp cả
Chẳng thể thấy được, chẳng lấy được
Vì độ chúng sanh mà hiện thân
Ví như hư không chẳng lấy được
Khiến khắp chúng sanh tạo những nghiệp
Hư không chẳng nghĩ: ta làm gì?
Ta làm thế nào, làm vì ai?
Thân nghiệp của Phật cũng như vậy
Khiến khắp quần sanh tu pháp lành
Như Lai chưa từng có phân biệt
Rằng ta làm những việc nơi kia
Ví như mặt nhựt mọc thế gian
Ánh sáng phá tất cả tối tăm
Núi, cây, ao sen, đất, các vật
Tất cả mọi loài đều lợi ích
Chư Phật xuất hiện cũng như vậy
Sanh trưởng hạnh lành cho nhơn thiên
Trừ hẳn si tối được trí sáng
Hằng thọ tôn vinh tất cả vui
Ví như mặt nhựt lúc xuất hiện
Trước chiếu núi cao kế các núi
Sau chiếu cao nguyên và đại địa
Mà mặt nhựt vẫn không phân biệt
Thiện Thệ quang minh cũng như vậy
Trước chiếu Bồ Tát, kế Duyên Giác
Sau chiếu Thanh Văn và chúng sanh
Mà Phật bổn lai không động niệm
Như sanh manh chẳng thấy mặt trời
Ánh sáng cũng lợi ích cho họ
Khiến biết thời tiết thọ uống ăn
Lìa hẳn tai hoạn thân an ổn
Bất tín chúng sanh chẳng thấy Phật
Phật cũng vì họ làm lợi ích
Nghe danh nhẫn đến chạm quang minh
Nhơn đây nhẫn đến được Bồ Ðề
Ví như tịnh nguyệt tại hư không
Hay chói tinh tú, hiện tròn khuyết
Tất cả nước trong đều hiện hình
Ai cũng xem thấy ở trước mình
Như Lai quang minh cũng như vậy
Hay che Nhị thừa, hiện lâu mau
Hiện khắp trong tâm của nhơn thiên
Ai ai cũng nói Phật trước mình
Thí như Phạm Vương ở cung mình
Hiện khắp nơi trong cõi Ðại Thiên
Tất cả nhơn thiên đều được thấy
Thiệt chẳng phân thân đến nơi kia
Chư Phật hiện thân cũng như vậy
Tất cả mười phương đều khắp cả
Thân Phật vô số chẳng kể được
Cũng chẳng phân thân chẳng phân biệt
Như có Y Vương giỏi phương thuật
Nếu ai được thấy bịnh đều lành
Y Vương dầu chết, thuốc thoa thân
Khiến thân hành động như lúc sống
Vô thượng Y Vương cũng như vậy
Ðầy đủ phương tiện nhứt thiết trí
Do diệu hạnh xưa hiện Phật thân
Chúng sanh được thấy phiền não diệt
Ví như trong biển có bửu vương
Khắp pháp vô lượng những quang minh
Chúng sanh chạm đến đồng màu bửu
Nếu ai được thấy, mắt thanh tịnh
Vô thượng Y Vương cũng như vậy
Chạm quang minh Phật tất đồng màu
Nếu ai được thấy thành ngũ nhãn
Phá những mê tối trụ Phật địa
Ví như ma ni như ý bửu
Tùy có người cầu đều đầy đủ
Chúng sanh kém phước chẳng thấy được
Chẳng phải bửu vương có phân biệt
Thiện Thệ Bửu Vương cũng như vậy
Người cầu đều toại theo sở thích
Chúng sanh không tin chẳng thấy Phật
Chẳng phải Thiện Thệ quên bỏ họ.
(Hán bộ quyển năm mươi mốt)
“How should great enlightening beings know the voice of Buddha?
They should know Buddha’s voice is omnipresent, because it pervades
all sounds. They should know Buddha’s voice pleases all according to
their mentalities, because its explanation of truth is clear and comprehen-
sive. They should know Buddha’s voice gladdens all according to their
resolve, because their minds gain clarity and coolness. They should know
Buddha’s voice teaches without error in timing, because all who need
and are able to hear it do. They should know Buddha’s voice has no birth
Page 990 – The Flower Ornament Scripture
or death, because it is like the echo of a call. They should know Buddha’s
voice has no owner, because it is produced by cultivation of all appro-
priate practices. They should know Buddha’s voice is extremely pro-
found, because it cannot be measured. They should know Buddha’s
voice has no falsehood or deviousness, because it is born of the realm of
truth. They should know Buddha’s voice has no end, because it per-
meates the cosmos. They should know Buddha’s voice has no change,
because it reaches the ultimate.
Bấy giờ Phổ Hiền đại Bồ Tát lại nói với chư Bồ Tát:
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát phải biết như thế nào về âm thanh của đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác?
Ðại Bồ Tát phải biết âm thanh của đức Như Lai là đến khắp tất cả, khắp đến vô lượng âm thanh.
Phải biết âm thanh của đức Như Lai, tùy tâm sở thích của thính giả đều làm cho họ hoan hỷ, vì thuyết pháp minh liễu.
Phải biết âm thanh của đức Như Lai, tùy tín giải của thính giả đều làm cho họ hoan hỉ, vì tâm được thanh lương.
Phải biết âm thanh của đức Như lai giáo hóa chẳng lỗi thời, vì người đáng được nghe thời đều được nghe.
Phải biết âm thanh của đức Như Lai không sanh diệt, vì như vang ứng tiếng.
Phải biết âm thanh của đức Như Lai không chủ, vì do tu tập tất cả công hạnh phát khởi.
Phải biết âm thanh của đức Như Lai rất sâu, vì khó lường được.
Phải biết âm thanh của đức Như Lai không tà vạy, vì do pháp giới phát sanh.
Phải biết âm thanh của đức Như Lai không đoạn tuyệt, vì vào khắp pháp giới.
Phải biết âm thanh của đức Như Lai không biến đổi, vì đã đến nơi rốt ráo.
“Great enlightening beings should know that Buddha’s voice is neither
quantified nor unquantified, neither has a master nor lacks a master,
neither communicates nor does not communicate. Why? It is as when
the world is about to disintegrate, there is no master, no maker, yet it
spontaneously emits four voices. One says, ‘You all should know that
the well-being of the first meditation stage, free from the ills of desire,
surpasses the realm of desire.’ The sentient beings hearing this are natu-
rally able to accomplish the first meditation stage, relinquish the body of
the realm of desire and be born in Brahma heaven. The second voice
says, ‘You should know that the well-being of the second meditation
stage, without reflection and rumination, surpasses the Brahma heaven.’
The sentient beings hearing this naturally manage to accomplish the
second meditation stage, relinquish the body of Brahma heaven, and are
born in the light-sound heaven. The third voice says, ‘You should know
that the well-being of the third meditation stage has no flaws and sur-
passes the light-sound heaven.’ Hearing this, the sentient beings are
naturally able to achieve the third meditation stage, relinquish the body
of the light-sound heaven, and are born in the heaven of universal purity.
The fourth voice says, ‘You should know that the tranquillity of the
fourth meditation stage surpasses the heaven of universal purity.’ Hear-
ing this, the sentient beings are naturally able to achieve the fourth medi-
tation stage, relinquish the body of the heaven of universal purity, and
are born in the heaven of vast results. These voices have no master or
maker — they are just produced by the power of good practices of sen-
tient beings.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát phải biết âm thanh của đức Như Lai chẳng phải lượng, chẳng phải vô lượng, chẳng phải chủ, chẳng phải không chủ, chẳng phải thị giáo, chẳng phải không thị giáo.
Ví như thế giới lúc sắp hoại, không chủ không làm, tự nhiên phát ra bốn thứ âm thanh:
Một là âm thanh nói:” Mọi người nên biết Sơ thiền an lạc, rời những lỗi dục nhiễm vượt khỏi cõi dục”. Chúng sanh nghe rồi tự nhiên được thành tựu Sơ thiền, bỏ thân cõi dục sanh lên Phạm Thiên.
Hai là âm thanh nói:” Mọi người nên biết Nhị thiền an lạc không giác không quán vượt hơn Phạm Thiên”. Chúng sanh nghe xong tự nhiên được thành tựu Nhị thiền, bỏ thân Phạm Thiên sanh lên Quang Âm Thiên.
Ba là âm thanh nói:” Mọi người nên biết Tam thiền an lạc không lỗi lầm vượt hơn Quang Âm Thiên”. Chúng sanh nghe xong tự nhiên được thành tựu Tam thiền, bỏ thân Quang Âm Thiên sanh lên Biến Tịnh Thiên.
Bốn là âm thanh nói:” Mọi người nên biết Tứ thiền tịch tịnh hơn Biến Tịnh Thiên”. Chúng sanh nghe xong tự nhiên được thành tựu Tứ thiền, bỏ Biến Tịnh Thiên sanh lên Quảng Quả Thiên.
Bốn thứ âm thanh trên đây không chủ không làm, chỉ do sức thiện nghiệp của chúng sanh mà phát sanh.
“The voice of Buddha is also like this, without master or maker,
without discrimination, not entering, not emerging, yet producing four
great voices from the power of the virtuous qualities of Buddha. One
voice says, ‘You all should know that all conditioned states are miserable.
There is the misery of hells, the misery of animality, the misery of hungry
ghosthood, the misery of lack of virtue, the misery of clinging to self and
possessions, the misery of evildoing. If you want to be born human or
divine, you should plant roots of goodness. Born in the human world
or in a heaven, you will leave all situations in which enlightenment is
difficult.’ Sentient beings, having heard this, give up error and perver-
sity, practice good actions, leave all difficulties behind, and are born in
the human world or in heaven. The second voice says, ‘You should
know that the myriad pains of all conditioned states are as searing as balls
Page 991 – Manifestation of Buddha
of hot iron. Conditioned states are impermanent and pass away. Nirvana
is tranquil, unfabricated well-being, beyond all burning, extinguishing
all inflaming afflictions.’ Having heard this, sentient beings diligently
practice good principles, and in the vehicle of listeners to Buddha’s voice
attain the tolerance of conformity to the message. The third voice says,
‘You should know that those in the vehicle of listeners follow the words
of another to understand; their knowledge and wisdom is narrow and
interior. There is a higher vehicle called the vehicle of the individually
awakened, whose enlightenment does not depend on a teacher. You
should learn it.’ Those inclined to a superior path, having heard this
voice, give up the path of listeners and cultivate the vehicle of the indivi-
dually awakened. The fourth voice says, ‘You should know that there is
an even higher path beyond the ranks of these two vehicles, which is
called the great vehicle, practiced by enlightening beings, following the
six transcendent ways, not stopping enlightening practice, not relin-
quishing the determination for enlightenment, being in the midst of
infinite birth and death without getting sick of it. Going beyond the two
vehicles of individual liberation, it is called the Great Vehicle, the fore-
most vehicle, the preeminent vehicle, the supreme vehicle, the highest
vehicle, the unexcelled vehicle, the vehicle of benefiting all sentient
beings.’ If there are any sentient beings whose resolve is very great,
whose faculties are strong and keen, who have planted roots of goodness
in the past, who are spiritually empowered by the buddhas, who have
superior inclinations and seek buddhahood, once they have heard this
voice they arouse the determination for enlightenment. Buddha’s voice
does not come from the body or from the mind, yet it can benefit infi-
nite sentient beings. This is the first characteristic of Buddha’s voice;
great enlightening beings should know it thus.
Cũng vậy âm thanh của đức Như Lai, không chủ không làm, không có phân biệt, chẳng phải nhập chẳng phải xuất, chỉ từ pháp lực công đức của Như Lai phát sanh bốn thứ âm thanh quảng đại:
Một là âm thanh nói:” Ðại chúng nên biết tất cả hành pháp đều là khổ. Những là địa ngục là khổ, súc sanh là khổ, ngạ quỷ là khổ, không phước đức là khổ, chấp ngã ngã sở là khổ, tạo những ác hạnh là khổ. Muốn sanh cõi trời hay nhơn gian phải gieo căn lành sanh trong nhơn thiên rời khỏi các chỗ nạn”. Chúng sanh nghe xong bỏ lìa điên đảo tu những hạnh lành, rời khỏi những chỗ nạn mà sanh trong nhơn thiên.
Hai là âm thanh nói:” Ðại chúng nên biết tất cả hành pháp tràn đầy những khổ như hòn sắt nóng, hành pháp vô thường là pháp diệt mất. Niết Bàn tịch tịnh vô vi an lạc lìa xa khốn khổ, tiêu sạch nhiệt não”. Chúng sanh nghe xong siêng tu pháp lành, nơi Thanh Văn thừa được tùy thuận âm thanh nhẫn.
Ba là âm thanh nói:” Ðại chúng nên biết Thanh Văn thừa do lời người khác mà được tỏ ngộ, trí huệ hẹp kém. lại có Ðộc Giác thừa tỏ ngộ chẳng do thầy, đại chúng nên học”. Những người thích thắng đạo nghe lời này xong liền bỏ Thanh Văn thừa mà tu Ðộc Giác thừa.
Bốn là âm thanh nói:” Ðại chúng nên biết hơn hàng Nhị thừa còn có thắng đạo gọi là Ðại thừa, là chỗ tu hành của Bồ Tát thuận sáu môn Ba la mật, chẳng dứt hạnh Bồ Tát, chẳng bỏ tâm Bồ Ðề, ở vô lượng sanh tử mà chẳng mỏi nhàm, hơn hàng Nhị thừa, gọi là Ðại thừa, là Ðệ nhứt thừa, là Thắng thừa, là Tối thắng thừa, là Thượng thừa, là Vô thượng thừa, là thừa lợi ích tất cả chúng sanh”. Nếu có chúng sanh nào lòng tin hiểu rộng lớn, căn khí mạnh lẹ, đời trước gieo căn lành, được thần lực của đức Như Lai gia hộ, có chí nguyện thù thắng mong cầu Phật quả, nghe lời này xong liền phát tâm Bồ Ðề.
Chư Phật tử! Âm thanh của đức Như Lai, chẳng từ thân phát ra, chẳng từ tâm phát ra mà có thể lợi ích vô lượng chúng sanh.
Ðây là tướng thứ nhứt của âm thanh Như Lai, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.
“Furthermore, just as an echo arises due to mountains, valley, and
sound, and has no form, cannot be seen, and though it has no discrimina-
tion can follow all words, so also is the voice of Buddha — it has no form,
cannot be seen, has no direction or location yet is not without direction
and location; it just emerges according to the conditions of sentient
beings’ inclinations and understandings. Its nature ultimately has no
words, no information, and cannot be explained. This is the second char-
acteristic of the voice of Buddha; great enlightening beings should know
it thus.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như vang, do hang núi và âm thanh mà phát ra không có hình trạng, chẳng ngó thấy được, cũng không phân biệt mà có thể theo dõi tất cả ngữ ngôn.
Cũng vậy, âm thanh của đức Như lai không có hình trạng, chẳng thấy được, chẳng phải có phương sở, chẳng phải không phương sở, chỉ tùy nơi duyên dục giải của chúng sanh mà phát ra. tánh âm thanh này rốt ráo, không nói không bày, chẳng tuyên thuyết được.
Ðây là tướng thứ hai của âm thanh Như Lai, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.
“Furthermore, it is like the heavens’ great drum of law, called awak-
ener: when the celestials act without restraint, the drum produces a voice
in the sky saying, ‘You should know that all pleasures are impermanent,
unreal, illusory, changing and disintegrating in a moment. They only
fool the ignorant, causing attachment. Don’t be indulgent, for the un-
restrained fall into bad ways, and it is of no use to regret afterward.’ The
indulgent celestials, having heard this voice, are greatly distressed and
frightened; they leave the pleasures in their own abodes, go to the king
of gods, seek the truth and practice the way. The sound of that drum has
Page 992 – The Flower Ornament Scripture
no master, no maker, no origin, no destruction, yet it can benefit infinite
sentient beings. Know that Buddha likewise utters the voice of infinite
sublime truths in order to awaken indulgent beings: the voice of non-
attachment, the voice of nonindulgence, the voice of impermanence, the
voice of suffering, the voice of selflessness, the voice of impurity, the
voice of annulment, the voice of nirvana, the voice of measureless spon-
taneous knowledge, the voice of incorruptible enlightening practices, the
voice of all-pervasive effortless knowledge of buddhas. These voices per-
vade the cosmos, awakening the beings therein; countless sentient beings,
having heard them, all become joyful and diligently cultivate good
ways, each seeking emancipation by their respective vehicles of eman-
cipation — that is, some practice the vehicle of listeners, some practice the
vehicle of individual awakening, and some practice the unsurpassed
Great Vehicle of enlightening beings. Yet the voice of Buddha does not
remain in any place; it has no speech. This is the third characteristic of the
voice of Buddha; great enlightening beings should know it thus.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như chư Thiên có pháp cổ lớn tên là giác ngộ. Lúc chư Thiên Tử nếu ham vui phóng dật, thời pháp cổ nơi hư không phát ra tiếng bảo chư Thiên Tử đó rằng: “Chư Thiên Tử nên biết tất cả dục lạc thảy đều vô thường hư vọng điên đảo giây lát đã biến hoại, chỉ kẻ cuồng ngu mới tham luyến. Chư Thiên Tử chớ phóng dật, nếu phóng dật sau sẽ đọa ác thú ăn năn đã muộn”. Chư Thiên Tử nghe âm thanh này lòng rất kinh hải, liền bỏ những sự dục lạc trong Thiên cung, cùng nhau đến chỗ Thiên Vương cầu pháp tu hành.
Tiếng của thiên cổ không chủ không làm, không khởi không diệt mà có thể lợi ích vô lượng chúng sanh.
Phải biết đức Như Lai cũng như vậy. Vì muốn giác ngộ chúng sanh phóng dật mà phát ra vô lượng diệu pháp âm thanh. Những là tiếng vô trước, tiếng chẳng phóng dật, tiếng vô thường, tiếng khổ, tiếng vô ngã, tiếng bất tịnh, tiếng tịch diệt, tiếng Niết Bàn, tiếng vô lượng tự nhiên trí, tiếng Bồ Tát hạnh bất khả hoại, tiếng trí địa vô công dụng của Như Lai đến tất cả chỗ. Dùng âm thanh này khắp trong pháp giới để khai ngộ.
Vô số chúng sanh được nghe âm thanh này đều rất hoan hỷ siêng tu pháp lành. Ðều ở nơi tự thừa mà cầu xuất ly. Những là hoặc tu Thanh Văn thừa, hoặc tu Ðộc Giác thừa, hoặc tu Bồ Tát vô thượng Ðại thừa. nhưng âm thanh của Như Lai vẫn không trụ phương sở, không có ngôn thuyết.
Ðây là tướng thứ ba của âm thanh Như Lai, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.
“Again, it is like the case of the celestial concubine of the great lord
god, named Beautiful Mouth, whose voice corresponds to a hundred
thousand kinds of music, within each of which are also a hundred thou-
sand different tones. Just as that goddess Beautiful Mouth produces
countless sounds in one utterance, in the same way Buddha produces in-
numerable voices in one utterance, according to the differences in men-
talities of sentient beings, reaching them all and enabling them to gain
understanding. This is the fourth characteristic of the voice of Buddha;
great enlightening beings should know it thus.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như Tự Tại Thiên Vương có thiên thể nữ tên là Thiện Khẩu. Nơi miệng Thiên nữ này phát ra một âm thanh hay hòa cùng với trăm ngàn thứ nhạc, trong mỗi thứ nhạc lại có trăm ngàn âm thanh sai khác.
Chư Phật tử! Thiên nữ Thiện Khẩu từ nơi miệng phát ra một âm thanh mà thành vô lượng âm thanh như vậy.
Phải biết đức Như Lai cũng thế, từ trong một âm thanh phát ra vô lượng âm thanh, tùy theo tâm sở thích sai khác của chúng sanh đều đến khắp, đều làm cho hiểu.
Ðây là tướng thứ tư của âm thanh Như Lai, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.
“Also it is like the case of the great god Brahma, abiding in the Brah-
ma palace, uttering the voice of Brahma, which all the Brahma masses
hear, while the sound of the voice does not go outside that group; the
Brahma divinities all think Brahma is speaking to them alone. The sub-
lime voice of Buddha is also like this; all in the congregation at the site of
enlightenment hear it, while the sound does not go outside that group.
Why? Because those whose faculties are not yet mature cannot hear it.
Those who hear the voice each think Buddha is talking to them alone.
The voice of Buddha neither emerges nor remains, yet can accomplish
all works. This is the fifth characteristic of the voice of Buddha; great
enlightening beings should know it thus.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như Ðai Phạm Thiên Vương trụ nơi Phạm cung xuất Phạ âm thanh, tất cả Phạm chúng đều đều đựơc nghe, mà âm thanh đó chẳng ra ngoài Phạm chúng. Chư Phạm chúng mỗi đều tự nghỉ Ðai Phạm Thiên Vương riêng nói với tôi.
Diệu âm của đưc Như Lai cũng như vậy, chúng hội trong đạo tràng đều được nghe, mà âm thanh đó chẳng ra ngoài chúng hội. Vì người căn chưa thành thục thời chẳng nên nghe. Những người được nghe, mỗi mỗi đều tự nghĩ: đức Như Lai Thế Tôn riêng vì tôi mà nói.
Chư Phật tử! Âm thanh của đức Như Lai không xuất không trụ, mà có thể thành tựu tất cả Phật sự.
Ðây là tướng thứ năm của âm thanh Như Lai, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.
“Also, just as waters are all of one flavor, but according to the differ-
ence of the vessel water has distinctions, yet the water has no thought or
discrimination, similarly the speech of Buddha is of one flavor only, the
flavor of liberation, but has innumerable distinctions according to the
differences in mental vessels of sentient beings, yet without thought or
discrimination. This is the sixth characteristic of the voice of Buddha;
great enlightening beings should know it thus.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như nước đồng một vị, tùy đồ đựng khác nhau nên nước cũng sai khác. Nước không lo nghĩ cũng không phân biệt.
Cũng vậy, ngôn âm của đức Như Lai chỉ có một vị giải thoát. Tùy theo tâm sai khác của chúng sanh nên có vô lượng sai khác. Nhưng vẫn không niệm lự cũng không phân biệt.
Ðây là tướng thứ sáu của âm thanh Như Lai, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.
“Also, it is like the case of the water spirit Heatless producing great
dense clouds covering the continent, showering sweet ram all over, so all
the crops can grow and all the rivers, streams, springs, and lakes are full;
Page 993 – Manifestation of Buddha
this great rainwater does not come from the water spirit’s body or mind,
yet can benefit sentient beings in various ways. Similarly, Buddha pro-
duces the cloud of great compassion covering all worlds in the ten direc-
tions, showering the rain of immortal truth, causing all sentient beings to
become joyful, increase in goodness, and fulfill all vehicles of liberation.
The voice of Buddha does not come from without and does not emerge
from within, yet can benefit all sentient beings. This is the seventh cha-
racteristic of the voice of Buddha; great enlightening beings should
know it thus.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như A Na Bà Ðạt Ða Long Vương nổi mây dầy mưa khắp Diêm Phù Ðề. Cây trái lúa mạ đều được sanh trưởng, sông rạch ao suối đều tràn đầy. Nước mưc này chẳng từ thân Long Vương chảy ra, mà có thể thành tựu những việc lợi ích như trên.
Cũng vậy, đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác nổi mây đại bi khắp mười phương cõi, khắp rưới pháp cam lồ vô thượng, khiến chúng sanh đều hoan hỷ, thêm lớn pháp lành, viên mãn các thừa.
Âm thanh của Như Lai chẳng từ ngoài lại, chẳng từ trong ra, mà có thể lợi ích tất cả chúng sanh.
Ðây là tướng thứ bảy của âm thanh Như Lai, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.
“Also it is like when the water spirit Thoughtful is going to shower
rain, it does not do so immediately but first produces great clouds cover-
ing the sky, remaining still for seven days waiting for people to finish
their work, because that water spirit is benevolent and compassionate
and does not want to trouble them; after seven days it showers a fine
rain, moistening the earth. Similarly, when Buddha is going to shower
the rain of truth, he does not do so at once, but first produces great
clouds of teaching in order to mature sentient beings so they will not be
startled or frightened; after they are mature he showers on all the rain of
immortal truth, expounding the most profound, subtle good teaching,
gradually filling them with the flavor of the unexcelled teaching of
omniscience of buddhas. This is the eighth characteristic of the voice of
Buddha; great enlightening beings should know it thus.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như Ma Na Tư Long Vương muốn làm mưa nhưng chưa tiện mưa liền. Trước kéo mây trùm khắp hư không ngưng đình bảy ngày, chờ các chúng sanh làm việc xong, vì đại Long Vương đó có tâm từ bi chẳng muốn chúng sanh bị não loạn. Quá bảy ngày Long Vương mới mưa nhỏ thấm ướt cả đại địa.
Cũng vậy, đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác sắp ban pháp vũ nhưng chưa tiện ban liền, trước nổi pháp vân thành thục chúng sanh, vì muốn lòng họ chẳng kinh sợ. Chờ lúc họ đã thành thục mới ban pháp vũ cam lồ, diễn nói pháp lành thậm thâm vi diệu, lần lần làm cho họ đầy đủ pháp vị vô thượng nhứt thiết chủng trí của Như Lai.
Ðây là tướng thứ tám của âm thanh Như Lai chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.
“In the ocean is a great water spirit called Magnificent Array; when it
showers rain on the ocean, it may shower rain in ten kinds of arrays, or a
hundred, or a thousand, or rain in a hundred thousand kinds of arrays.
The water has no discrimination; it is just the inconceivable power of the
water spirit that causes its arrays to be infinitely different. Similarly,
when Buddha teaches truth, it may be expressed in ten different tones, or
a hundred, or a thousand, or a hundred thousand, or eighty-four thou-
sand tones explaining eighty-four thousand practices, up to countless
hundreds of thousands of millions of tones, each explaining the truth in
particular ways to gladden all who hear. The voice of Buddha makes no
discrimination; it is just that buddhas, complete and pure in the profound
realm of truth, are able to make various utterances in accord with the
needs of sentient beings, making them happy. This is the ninth character-
istic of the voice of Buddha; great enlightening beings should know it
thus.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như trong biển có đại Long Vương tên là Ðại Trang Nghiêm, lúc ở trong đại hải tuôn mưa, hoặc mưa mười thứ trang nghiêm, hoặc trăm, hoặc ngàn, hoặc trăm ngàn thứ trang nghiêm nước vẫn không sai khác chỉ do sức bất tư nghì của Long Vương khiến những thứ trang nghiêm nhẫn đến có trăm ngàn vô lượng thứ sai khác.
Cũng vậy, đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác lúc vì chúng sanh thuyết pháp, hoặc dùng mười thứ âm thanh để thuyết, hoặc dùng trăm ngàn, hoặc dùng tám vạn bốn ngàn âm thanh để nói tám vạn bốn ngàn hạnh. Nhẫn đến hoặc dùng vô lượng trăm ngàn ức na do tha âm thanh thuyết pháp sai khác, làm cho người nghe đều sanh lòng vui mừng. Âm thanh của Như Lai vẫn không phân biệt, chỉ do chư Phật nơi thậm thâm pháp giới viên mãn thanh tịnh hay tùy theo sở nghi của căn khí chúng sanh mà phát ra nhiều thứ ngôn âm đều làm cho hoan hỷ cả.
Ðây là tướng thứ chín của âm thanh Như Lai, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.
“When the water spirit Ocean wants to manifest the controlling
power of the water spirit for the benefit of sentient beings to make them
happy, it raises a great network of clouds from the earth to the heaven
of control of Others’ emanations, covering all over: those clouds are of
infinite different colors — some are the color of golden light, some are
the color of lapis lazuli light, some are the color of silver light, some
are the color of crystal light, some are the color of emerald light, some are
the color of agate light, some are the color of red pearl light, some are the
color of light of infinite fragrances, some are the color of light of spofless
Page 994 – The Flower Ornament Scripture
cloth, some are the color of light of pure water, some are the color of
light of various ornaments. This network of clouds, having spread all
over, emits lightning of various colors: the golden clouds emit lapis lazuli
lightning; the lapis lazuli clouds emit golden lightning; the silver clouds
emit crystal lightning; the crystal clouds emit silver lightning; the emerald
clouds emit agate lightning; the agate clouds emit emerald lightning; the
infinite-fragrance-colored clouds emit spofless-cloth-colored lightning;
the spofless-cloth-colored clouds emit infinite-fragrance-colored light-
ning; the pure-water-colored clouds emit various-ornament-colored
lightning; the various-ornament-colored clouds emit pure-water-
colored lightning; multicolored clouds emit one-colored lightning; one-
colored clouds emit multicolored lightning. There also issue from the
clouds various sounds of thunder, according to the minds of sentient
beings, making them all happy — sounds like goddesses singing, like
celestial musicians playing, like water nymphs singing, like gandharva
girls singing, like kinnara girls singing, like earthquakes, like the waves
and tide of the ocean, like the king of beasts howling, like beautiful birds
calling, as well as innumerable Other kinds of sounds. When the thunder
has sounded, there arises a cool breeze, delighting the mind of sentient
beings. Finally it rains, various kinds of rain, benefiting and comforting
infinite beings. In all places from the heavens to earth the rain is different:
on the ocean it rains clear, cool water called endless; in the heaven of
control of Others’ emanations it rains various music such as pipes and
flutes, named beautiful; in the heaven of enjoyment of emanation it rains
jewels called radiating great light; in the heaven of happiness it rains
great ornaments, called hanging crests; in the heaven of timely portion it
rains large, beautiful flowers, called various adornments; in the thirty-
three-fold heaven it rains many sublime fragrances, called pleasing; in the
heaven of the four world guardians it rains precious celestial robes, called
covering; in the palace of water spirits it rains red pearls, called flowing
light; in the palace of the titans it rains weapons, called conquering ene-
mies; in the northern region of earth it rains various flowers, called
blooming; in the Other regions of earth it also rains differently according
to the place. Though the mind of the water spirit is impartial, without
discrimination, simply because the roots of goodness of sentient beings
are different, the rain has distinctions. Similarly, when Buddha, the truly
enlightened, the supreme spiritual sovereign, wants to edify sentient
beings with right teaching, first he spreads clouds of embodiments over
the cosmos, appearing differently according to inclinations of beings. For
some beings he manifests clouds of mortal bodies; for some, clouds of
emanated bodies; for some, clouds of power-bodies; for some, clouds
of form-bodies; for some, clouds of glorified bodies; for some, clouds of
virtue-bodies; for some, clouds of knowledge-bodies; for some, clouds
of bodies whose powers do not deteriorate; for some, clouds of bodies of
fearlessness; for some, clouds of cosmic bodies. Buddha covers all worlds
with infinite such body-clouds and manifests various kinds of lightning
Page 995 – Manifestation of Buddha
in accord with the individual differences in inclinations of sentient
beings: for some beings he manifests lightning called reaching every-
where; for some, lightning called boundless light; for some, lightning
called penetrating the secret teaching of Buddha; for some, ligluning
called reflected light; for some, lightning called illumination; for some,
lightning called entering the door of endless mental command; for some,
lightning called right mindfulness undisturbed; for some, lightning called
ultimately incorruptible; for some, lightning called adaptively entering
all states of being; for some, lightning called fulfilling all wishes and
making everyone happy. Having manifested lightnings of infinite such
lights, Buddha then produces infinite thunders of concentration, accord-
ing to the inclinations of sentient beings: the thunder of the concentra-
tion of well-aware knowledge; the thunder of the concentration of the
refulgent, undefiled ocean; the thunder of the concentration of mastery
of all the teachings; the thunder of the adamantine wheel concentration;
the thunder of the concentration symbolized by the polar mountain; the
thunder of the ocean-seal concentration; the thunder of the solar lamp
concentration; the thunder of the inexhaustible treasury concentration;
the thunder of the concentration of the indestructible power of libera-
tion. After the thunder of infinite different concentrations such as these
have emerged from the clouds of embodiments of Buddha, when about
to shower the rain of truth, first he manifests an auspicious sign to awaken
sentient beings: from the mind of unhindered compassion he manifests
the atmosphere of great knowledge of Buddha, called able to cause all
sentient beings to develop inconceivable happiness and well-being. Once
this sign has appeared, the bodies and minds of all enlightening beings
and sentient beings become clear and cool. After that, from the cloud of
the great reality-body of Buddha, the cloud of great compassion, the
cloud of great inconceivability, showers the inconceivable, far-flung rain
of teaching, causing all beings’ bodies and minds to be pure: for enlight-
ening beings sitting at the site of enlightenment there showers a great
rain of teaching called nondifterentiation of the realm of reality; for en-
lightening beings in their final embodiment there showers a great rain of
teaching called enlightening beings’ easy mastery of the esoteric teaching
of Buddha; for enlightening beings to become fully enlightened in the
next life there showers a great rain of teaching called pure universal light;
for coronated enlightening beings there showers a great rain of teaching
called adornment by the embellishments of buddhahood; for enlighten-
ing beings who have attained tolerance there showers a great rain of
teaching called flowers of knowledge with jewels of virtue blooming,
not ceasing the compassionate practices of enlightening beings; for en-
lightening beings in progress there showers a great rain of teaching called
entering the profound method of manifestation of occult transforma-
tions and carrying on enlightening practice without stopping or weary-
ing; for newly inspired enlightening beings there showers a great rain of
teaching called producing the practice of great love and compassion of
Page 996 – The Flower Ornament Scripture
buddhas to save sentient beings; for those who seek the vehicle of indivi-
dual enlightenment there showers a great rain of teaching called deeply
knowing the principles of conditional origination, avoiding extremes,
and attaining the nondecaying fruit of liberation; for those who seek the
vehicle of listeners there showers a great rain of teaching called cutting
down all obstructing afflictions with the sword of great knowledge and
wisdom; for stabilized and unstabilized sentient beings who accumulate
roots of goodness there showers a great rain of teaching called facilitating
the accomplishment of various ways into the teaching, producing great
happiness. The Buddha showers great rains of teaching like these in
accordance with the mentalities of sentient beings, filling all worlds.
A buddha, perfectly enlightened, is impartial in mind and does not
begrudge the teaching; simply because the faculties and inclinations of
sentient beings are not the same, the rains of teaching appear differently.
This is the tenth characteristic of the voice of Buddha; great enlightening
beings should know it thus.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như Ta Kiệt La Long Vương muốn hiện sức đại tự tại làm lợi ích chúng sanh đều khiến vui mừng, từ tứ châu thiên hạ nhẫn đến Tha Hóa Tự Tại Thiên, nổi lưới đại vân giăng khắp mọi nơi, đại vân có vô lượng sắc tướng sai khác : hoặc màu sáng chói như vàng diêm phù đàn, như tỳ lưu ly, như bạch ngân, như pha lê, như mã não, như xích chơn châu, như nước trong sạch, như các thứ đồ trang nghiêm, hoặc màu sáng chói như mâu tát la, như thắng tạng, như vô lượng hương, như vô cấu y. Mây lớn đã giăng khắp rồi phát ra nhiều thứ điển quang đủ màu. Mây màu vàng diêm phù đàn phát ra điển quang màu lưu ly, mây màu lưu ly phát ra điển quang màu vàng, mây màu pha lê phát ra điển quang màu bạch ngân, mây màu bạch ngân phát ra điển quang màu pha lê, nhẫn đến mây màu nước trong phát ra điển quang màu các thứ đồ trang nghiêm, mây màu các thứ đồ trang nghiêm phát ra điển quang màu nước trong, mây nhiều màu phát ra điển quang một màu, mây một màu phát ra điển quang nhiều màu.
Lại trong mây lớn phát ra các thứ tiếng sấm tùy sở thích của chúng sanh đều làm cho họ hoan hỉ. Những là tiếng sấm như ca ngâm của Thiên nữ, hoặc như tiếng thiên nhạc, hoặc như tiếng ca ngâm của Long nữ, hoặc như tiếng ca ngâm của Càn thát bà nữ, hoặc như tiếng ca ngâm của Khẩn na la nữ, hoặc như tiếng đại địa chấn động, hoặc như tiếng hải triều, hoặc như tiếng gầm hét của thú vương, hoăc như tiếng chim hót lảnh lót, và vô lượng thứ tiếng khác.
Ðã nổi sấm rồi tiếp nổi gió mát làm cho lòng chúng sanh hoan hỷ rồi sau mới tuôn nhiều thứ mưa, làm lợi ích an lạc vô lượng chúng sanh. Từ Tha Hoá Thiên đến đại địa, ở tất cả chỗ mưa chẳng đồng nhau. Ở trong đại hải thời mưa nước trong mát tên là Vô đoạn tuyệt. Ở Tha Hóa Thiên thời mưa các thứ nhạc âm như tiêu, sáo v.v… tên là Mỹ Diệu. Ở Hóa Lạc Thiên thời mưa đại ma ni bửu tên là Phóng đại quang minh. Ở Ðâu Suất Thiên thời mưa đồ đại trang nghiêm tên là Thủy kế. Ở Dạ Ma Thiên thời mưa hoa đẹp lớn tên là Chủng chủng trang nghiêm cụ. Ở Tam Thập Tam Thiên thời mưa những diệu hương tên là Duyệt ý. Ở trời Tứ Thiên Vương thời mưa thiên bửu y tên là Phú cái. Ở cung Long Vương thời mưa xích chơn châu tên là Dũng xuất quang minh. Ở cung A Tu La thời mưa những vũ khí tên là Hàng phục oán địch. Ở châu Bắc Uất Ðơn Việt thời mưa các thứ hoa tên là Khai phu. Ba châu kia cũng mưa như vậy, tùy theo mỗi xứ mà mưa chẳng đồng.
Dầu Ta Kiệt La Long Vương tâm bình đẳng không có bỉ thử, chỉ do chúng sanh thiện căn có khác mà mưa có sai biệt.
Cũng vậy, đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác vô thượng Pháp Vương muốn đem chánh pháp giáo hoá chúng sanh, trước giăng thân vân che khắp pháp giới, tùy theo sở thích của chúng sanh mà hiện thân chẳng đồng: Hoặc vì chúng sanh mà hiện sanh thân, hoặc hiện hóa thân, hoặc hiện lực trì thân, hoặc hiện sắc thân, hoặc hiện tướng hảo thân, hoặc hiện phước đức thân, hoặc hiện trí huệ thân, hoặc hiện thân đủ năng lực bất khả hoại, hoặc hiện vô úy thân, hoặc vì chúng sanh mà hiện pháp giới thân.
Ðức Như Lai dùng vô lượng thân như vậy hiện khắp mười phương tất cả thế giới, tùy sở thích sai khác của chúng sanh mà thị hiện các thứ quang minh : hoặc vì chúng sanh mà hiện quang minh tên là Vô sở bất chí, hoặc hiện quang minh tên là Vô biên quang, hoặc hiện quang minh tên là Nhập Phật bí mật pháp, hoặc hiện quang minh tên là Ảnh hiện quang, hoặc vì chúng sanh hiện quang minh tên là Chiếu diệu quang, hoặc hiện quang minh tên là Nhập vô tận đà la ni môn, hoặc hiện quang minh tên là Chánh niệm bất loạn, hoặc hiện quang minh tên là Cứu cánh bất hoại, hoặc hiện quang minh tên là Thuận nhập chư thú, hoặc vì chúng sanh hiện quang minh tên là Mãn tất cả nguyện đều làm cho hoan hỷ.
Ðức Như Lai hiện vô lượng quang minh như vậy rồi, lại tùy tâm sở thích của chúng sanh mà phát ra vô lượng tiếng tam muội: những là tiếng tam muội thiện giác trí, tiếng tam muội xí nhiên ly cấu hải, tiếng tam muội nhứt thiết pháp tự tại, tiếng tam muội kim cang luân, tiếng tam muội tu di sơn tràng, tiếng tam muội hải ấn, tiếng tam muội nhựt đăng, tiếng tam muội vô tận tạng, tiếng tam muội bất hoại giải thoát lực.
Trong thân Như Lai phát ra vô lượng tiếng tam muội sai biệt như vậy rồi, sắp ban pháp vũ trước hiện thoại tướng khai ngộ chúng sanh. Những là từ nơi vô chướng ngại đại từ bi tâm hiện ra đại trí phong luân của Như Lai tên là hay làm cho tất cả chúng sanh được vui thích hoan hỷ bất tư nghì. Tướng tốt lành này đã hiện thời tất cả Bồ Tát và chúng sanh, thân cùng tâm đều được thanh lương. Sau đó từ mây đại pháp thân của Như Lai, mây đại từ bi, mây đại bất tư nghì của Như Lai ban pháp vũ quảng đại bất tư nghì, làm cho tất cả chúng sanh thân tâm đều thanh tịnh.
Những là vì Bồ Tát ngồi đạo tràng Bồ Ðề ban đại pháp vũ tên là pháp giới vô sai biệt.
Vì tối hậu thân Bồ Tát ban đại pháp vũ tên Bồ Tát du hí mật giáo của Như Lai.
Vì nhứt sanh bổ xứ Bồ Tát ban đại pháp vũ tên là thanh tịnh phổ quang minh.
Vì quán đảnh Bồ Tát ban đại pháp vũ tên là được trang nghiêm với đồ trang nghiêm của Như Lai.
Vì đắc nhẫn Bồ Tát ban đại pháp vũ tên là hoa trí huệ công đức bửu nở xòe chẳng dứt hạnh Bồ Tát đại bi.
Vì Bồ Tát an trụ nơi Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng ban đại pháp vũ tên là vào môn hiện tiền biến hóa rất sâu mà thật hành Bồ Tát hạnh không thôi dứt không mỏi nhàm.
Vì sơ phát tâm Bồ Tát ban đại pháp vũ tên là xuất sanh hạnh đại từ bi cứu hộ chúng sanh của Như Lai.
Vì hạng cầu Ðộc Giác thừa ban đại pháp vũ tên là biết rõ pháp duyên khởi xa lìa nhị biên được quả giải thoát bất hoại.
Vì chúng sanh cầu Thanh Văn thừa ban đại pháp vũ tên là dùng kiếm đại trí huệ chặt đứt tất cả oán tặc phiền não.
Vì chúng sanh chứa nhóm thiện căn quyết định hay chẳng quyết định ban đại pháp vũ tên là hay khiến thành tựu các pháp môn sanh lòng rất hoan hỷ.
Chư Phật Như Lai tùy tâm chúng sanh ban những pháp vũ quảng đại như vậy đầy khắp tất cả vô biên thế giới.
Chư Phật tử! Ðức Như Lai Ðẳng Chánh Giác, tâm của Ngài bình đẳng, nơi pháp không lẫn tiếc, chỉ vì chúng sanh căn dục chẳng đồng nên ban pháp vũ thị hiện có sai khác.
Ðây là tướng thứ mười của âm thanh Như Lai, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.
“The voice of Buddha has ten kinds of infinity: it is as infinite as the
realm of space because it extends to all places; it is as infinite as the cos-
mos because it pervades everywhere; it is as infinite as the realm of sen-
tient beings because it gladdens all hearts; it is as infinite as all acts because
it explains their results and consequences; it is as infinite as afflictions
because it removes them all; it is as infinite as the speech of sentient
beings because it enables them to hear according to their understanding;
it is as infinite as the inclinations and understandings of sentient beings
because it observes them all to rescue and liberate them; it is as infinite as
past, present, and future because it has no boundaries; it is as infinite as
knowledge because it distinguishes everything; it is as infinite as the
realm of buddhahood because it enters the cosmos of reality of buddha-
hood. The voice of Buddha, the completely enlightened, comprises in-
calculable infinities such as these; great enlightening beings should know
it thus.”
Then the enlightening being Universally Good, to again clarify what
he meant, spoke these verses:
Lại nữa, chư Phật tử! Phải biết âm thanh của đức Như Lai có mười thứ vô lượng :
Một là như hư không giới vô lượng, vì đến tất cả chỗ.
Hai là như pháp giới vô lượng, vì không chỗ nào chẳng khắp.
Ba là như chúng sanh giới vô lượng, vì khiến tất cả tâm hoan hỷ.
Bốn là như các nghiệp vô lượng, vì nói quả báo của nghiệp.
Năm là như phiền não vô lượng, vì đều làm cho trừ diệt.
Sáu là như ngôn âm của chúng sanh vô lượng, vì tùy theo sự hiểu biết mà làm cho được nghe.
Bảy là như dục giải của chúng sanh vô lượng, vì khắp quán sát cứu độ.
Tám là như tam thế vô lượng, vì vô biên tế.
Chín là như trí huệ vô lượng, vì phân biệt tất cả.
Mười là như Phật cảnh giới vô lượng, vì nhập Phật pháp giới.
Chư Phật tử! Âm thanh của đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác thành tựu vô số vô lượng như vậy, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.
Phổ Hiền đại Bồ Tát muốn rõ lại nghĩa này mà nói kệ rằng:
When a billion-world universe is about to dissolve,
The power of beings’ virtue announces that
The four meditations are peaceful and painless,
Causing them to leave desire when they have heard.
Ten-Powered Buddha, also like this,
Produces a sublime voice pervading the cosmos,
Explaining that conditioned states are painful and impermanent,
So beings may cross for good the sea of birth and death.
Just as a canyon deep in the mountains
Echoes any sound.
And though it accords with Others’ voices
Page 997 – Manifestation of Buddha
The echo has no discrimination.
So also is the speech of Buddha
Revealed according to the maturity of faculties.
Causing them to be controlled and happy.
Yet without self-consciousness of preaching.
As the celestial drum called awakener
Vibrates with the sound of the law in the sky.
Admonishing the self-indulgent celestials.
Causing them to give up attachments when they hear.
So too is the drum of Buddha’s teaching like this.
Producing various wonderful sounds,
Awakening all living beings
So they all realize enlightenment.
The lord god has a precious concubine
Who voices all kinds of music
Producing a hundred thousand sounds in one voice
With a hundred thousand tones in each sound.
The voice of Buddha is also like this.
Producing all tones in one voice,
Different according to beings’ characters and inclinations.
Causing each to end afflictions when they hear.
Just as king Brahma utters a sound
Which makes all Brahmas happy.
The voice reaching only Brahmas, no one else.
Each thinking he alone hears it.
So also does the Buddha utter a word
Which fills the cosmos,
Yet only reaches the faithful
Because the faithless cannot receive it.
Just as all waters are of one and the same essence.
With no difference in flavor,
But the land they are on and the vessels they are in are not the same.
So that causes them to be variously different.
The voice of Omniscience is similar to this;
The essence of truth has one flavor, undifferentiated,
Yet according to beings’ actions, which are not the same.
It causes them to hear in various different ways.
When the water spirit Heatless
Showers rain to moisten the land
Causing plants and trees to grow,
Page 998 – The Flower Ornament Scripture
The rain does not come from its body or mind.
Likewise the wondrous voice of buddhas
Rains throughout the cosmos, fi lling all,
Fostering good and extinguishing evil.
But not coming from inside or outside.
Just as the water spirit Thoughtful
Raises clouds for seven days before raining,
Waiting for all people to finish their work
And then showering rain for their benefit,
The teaching of Buddha is likewise.
First civilizing beings and developing them,
And afterward expounding the profound truth.
So the hearers will not be frightened.
The water spirit Great Adornment in the ocean
Showers ten arrays of rain.
Or a hundred, a thousand, a hundred thousand;
Though the water is one flavor, the arrays are different.
The ultimate teacher likewise
Explains ten or twenty teachings.
Or a hundred, a thousand, up to infinity.
Without any notion of difference.
The supreme water spirit Ocean
Covers the earth with clouds;
The rain in each place is different,
But the spirit has no thought of distinction.
Likewise Buddha, sovereign of truth.
Extends clouds of great compassion in all directions.
Raining differently for each practitioner,
Yet without discriminating among them.
Ðại Thiên thế giới lúc sắp hoại
Do phước chúng sanh có tiếng bảo
Tứ thiền tịch tịnh không sự khổ
Khiến ai được nghe đều ly dục.
Thập Lực Thế Tôn cũng như vậy
Phát diệu âm thanh khắp pháp giới
Vì nói các hạnh khổ vô thường
Khiến họ thoát hẳn biển sanh tử
Như trong hang lớn chốn thâm sơn
Tùy có âm thanh đều vang dội
Dầu hay theo dõi ngôn ngữ kia
Mà vang rốt ráo vô phân biệt
Thập Lực ngôn âm cũng như vậy
Tùy kia căn thục vì thị hiện
Khiến họ điều phục sanh hoan hỷ
Chẳng nghĩ ta nay hay thuyết pháp
Như có thiên cổ tên Năng giác
Thường ở hư không chấn pháp âm
Răn những Thiên tử ưa phóng dật
Khiến họ nghe xong lìa say đắm
Thập Lực pháp cổ cũng như vậy
Phát ra các thứ âm thanh diệu
Giác ngộ tất cả các quần sanh
Khiến họ đều chứng Bồ Ðề quả
Tự Tại Thiên Vương có bửu nữ
Trong miệng khéo tấu các âm nhạc
Một tiếng hay phát trăm ngàn tiếng
Trong mỗi tiếng lại có trăm ngàn
Thiện Thệ âm thanh cũng như vậy
Một tiếng mà phát tất cả tiếng
Tùy họ tánh dục có sai khác
Ðều khiến nghe xong dứt phiền não
Ví như Phạm Vương phát một tiếng
Hay khiến Phạm Chúng đều hoan hỷ
Tiếng đến Phạm chúng chẳng ra ngoài
Mỗi người đều nói riêng mình nghe
Thập Lực Thế Tôn cũng như vậy
Diễn một ngôn âm đầy pháp giới
Chỉ nhuần chúng hội chẳng ra xa
Bởi người chưa tin, chưa thọ được
Như nước trong kia đồng một tánh
Vị tám công đức không sai khác
Nhơn đất, tại đồ, đều chẳng đồng
Vì thế khiến nước có sai khác
Nhứt Thiết Trí âm cũng như vậy
Pháp tánh một vị không phân biệt
Tùy các chúng sanh hạnh chẳng đồng
Nên khiến người nghe nhiều sai khác
Như Vô Nhiệt Não đại Long Vương
Tuôn mưa thấm khắp đất Diêm Phù
Hay khiến cỏ cây đều sanh trưởng
Nhưng nước chẳng từ thân rồng ra
Chư Phật diệu âm cũng như vậy
Ban khắp pháp giới đều đầy thấm
Hay khiến sanh thiện diệt các ác
Chẳng từ trong ngoài, mà được có
Như Ma Na Tư đại Long Vương
Nổi mây bảy ngày chưa vội mưa
Chờ các chúng sanh làm việc xong
Rồi sau mới mưa thành lợi ích
Thập Lực diễn nghĩa cũng như vậy
Trước dạy chúng sanh khiến thành thục
Rồi sau vì nói pháp thậm thâm
Khiến họ được nghe chẳng hãi sợ
Ðại Trang Nghiêm Long ở trong biển
Rưới mưa mười thứ đồ trang nghiêm
Hoặc trăm, hoặc ngàn, trăm ngàn thứ
Dầu nước một vị, trang nghiêm khác
Vô Thượng Biện Tài cũng như vậy
Nói mười, hai mươi các pháp môn
Hoặc trăm, hoặc ngàn đến vô lượng
Chẳng sanh tâm niệm có sai khác
Tối thắng Long Vương Ta Kiệt La
Nổi mây trùm khắp tứ thiên hạ
Ở tất cả xứ mưa đều khác
Nhưng tâm Long Vương không hai niệm
Chư Phật Pháp Vương cũng như vậy
Ðại bi thân vân khắp mười phương
Vì người tu hành ban pháp khác
Nhưng với tất cả vô phân biệt
“How should great enlightening beings know the mind of Buddha,
the truly awake? The mind, intellect, and consciousness of Buddha are
ungraspable. One can know the mind of Buddha only in terms of the
infinity of knowledge. Just as space is the resting place of all things, while
space has no resting place, so also is the knowledge of Buddha the resting
place of all mundane and transcendental knowledge, while the knowl-
edge of Buddha has no resting place. This is the first characteristic of the
mind of Buddha; great enlightening beings should know it thus.
Phổ Hiền đại Bồ Tát lại bảo đại chúng Bồ Tát:
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát phải biết tâm của đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác như thế nào?
Tâm, ý, thức của Như Lai đều bất khả đắc. Chỉ nên dùng trí vô lượng mà biết tâm Như Lai.
Như hư không là chỗ nương dựa của tất cả vật, mà hư không không chỗ dựa.
Như Lai trí huệ cũng như vậy, là chỗ sở y của tất cả trí thế gian và trí xuất thế, mà Như Lai trí không sở y.
Ðây là tướng thứ nhứt của tâm Như Lai, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.
“Just as the realm of truth always produces the liberations of Buddhist
followers, individual illuminates, and enlightening beings, while the
realm of truth has no increase or decrease, in the same way the knowl-
edge of Buddha always produces all kinds of worldly and tfansmundane
knowledge without itself increasing or decreasing. This is the second
Page 999 – Manifestation of Buddha
characteristic of the mind of Buddha; great enlightening beings should
know it thus.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như pháp giới thường xuất sanh tất cả Thanh Văn, Ðộc Giác, Bồ Tát giải thoát, mà pháp giới không tăng không giảm.
Như Lai trí huệ cũng như vậy, hằng xuất sanh tất cả trí huệ thế gian và xuất thế gian, mà Như Lai trí huệ không tăng không giảm.
Ðây là tướng thứ hai của tâm Như Lai, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.
“Just as the ocean water flows under the continents and islands, so that
all who drill for water find it, yet the ocean does not form any notion of
itself giving out water, in the same way the water of the ocean of knowl-
edge of Buddha flows into the minds of all sentient beings, so that if they
examine things and practice ways of entering truth they will find knowl-
edge, pure and clear, with lucid understanding — yet the knowledge of
Buddha is equal, nondual, without discrimination; but according to the
differences in sentient beings’ mental patterns, the knowledge they obtain
is not the same. This is the third characteristic of the mind of Buddha;
great enlightening beings should know it thus.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như đại hải, nước biển chảy ngầm khắp dưới đất của bốn châu thiên hạ và tám mươi ức tiểu châu, có ai đào đất đều được nước cả. Nhưng đại hải vẫn không có phân biệt là mình phát ra nước chảy ngầm khắp nơi.
Nước biển Phật trí cũng như vậy, chảy vào trong tâm của tất cả chúng sanh. Nếu có chúng sanh quán sát cảnh giới, tu tập pháp môn, thời được trí huệ thanh tịnh minh liễu. Nhưng Như Lai trí bình đẳng không hai, không phân biệt. Chỉ tùy theo tâm hành sai khác của chúng sanh mà trí huệ của họ được riêng khác chẳng đồng nhau.
Ðây là tướng thứ ba của tâm Như Lai, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.
“In the ocean there are four jewels imbued with infinite qualities that
produce all the precious jewels in the ocean; if these jewels were not in
the ocean, it would be impossible to find even one jewel. What are these
four? One is called accumulation of treasures; another is called inexhaust-
ible treasury; another is called removal of burning heat; the Other is called
replete with adornments. These jewels cannot be seen by any ordinary
people or sea creatures. Why? The king water spirit Ocean, because the
jewels are magnificent with perfect lines and proportions, keeps them in
a deeply hidden place within the palace.
“The great ocean of knowledge of Buddha similarly has four great
jewels of knowledge, with infinite qualities of knowledge and virtue,
whereby are produced all the jewels of knowledge of the stages of learn-
ing and beyond learning of ordinary people, Buddhist followers, and
individual illuminates, and of enlightening beings. What are the four?
They are the jewel of great knowledge of unattached skill in means; the
jewel of great knowledge of skillfully distinguishing the conditioned and
the unconditioned; the jewel of great knowledge analytically explaining
countless things without violating the essential nature of things; and the
jewel of great knowledge knowing appropriate and inappropriate tim-
ing without ever a miss. If these four jewels were not in the Buddha’s
ocean of knowledge, not a single being would ever be able to enter the
Great Vehicle of liberation. These four jewels of knowledge cannot be
seen by unworthy beings. Why? Because they are kept in the deeply
secret treasury of Buddha. These four jewels of knowledge are even,
symmetrical, straight and true, immaculately beautiful, and able to uni-
versally benefit all enlightening beings, enabling them to attain the light
of knowledge. This is the fourth characteristic of the mind of Buddha;
great enlightening beings should know it thus.
Lại nữa, chư Thiện nam tử! Ví như đại hải có bốn bửu châu đủ vô lượng công đức hay sanh tất cả trân bửu trong đại hải. Nếu trong đại hải không có bửu châu này, thời dầu là một trân bửu cũng không có được.
Ðây là bốn bửu châu: một tên là Tích tập bửu, hai tên là Vô tận tạng, ba tên là Viễn ly xí nhiên, bốn tên là Cụ túc trang nghiêm.
Bốn bửu châu này, tất cả phàm phu, chư Long Thần đều chẳng thấy được. Vì Ta Kiệt La Long Vương cho bửu châu này xinh đẹp vuông vức nên cất chỗ thâm mật trong cung.
Biển đại trí huệ của đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác cũng như vậy, trong đó có bốn đại trí bửu châu đầy đủ vô lượng phước trí công đức. Do đây có thể sanh tất cả trí huệ của chúng sanh, của Thanh Văn, Ðộc Giác, bực hữu học, vô học và trí huệ của chư Bồ Tát.
Ðây là bốn đại trí bửu: một tên là Ðại trí huệ bửu phương tiện thiện xảo không nhiễm trước. Hai là Ðại trí huệ bửu khéo phân biệt pháp hữu vi, vô vi. Ba là Ðại trí huệ bửu phân biệt nói vô lượng pháp mà chẳng hoại pháp tánh. Bốn là Ðại trí huệ bửu biết thời phi thời chưa từng lầm lỗi.
Nếu trong biển đại trí huệ của đức Như Lai không có bốn đại trí huệ bửu này thời tất cả chúng sanh, không một ai vào được Ðại thừa.
Những chúng sanh phước mỏng chẳng thể thấy được bốn đại trí bửu này. Vì để nơi tạng thâm mật của đức Như Lai.
Bốn đại trí bửu này bình đẳng chánh trực đoan khiết diệu hảo, có thể lợi ích những chúng Bồ Tát, làm cho họ được trí huệ quang minh.
Ðây là tướng thư tư của tâm Như Lai, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.
“Also, the ocean has four jewels of blazing light spread on its floor,
which by nature are extremely, fiercely hot; they are able to drink up
and shrink the immeasurable quantities of water poured in by all the
rivers, so that the ocean neither increases nor decreases. What are these
four? One is called solar matrix; the second is called removing moisture;
the third is called flame light; the fourth is called thorough exhaustion. If
Page 1000 – The Flower Ornament Scripture
these four jewels were not in the ocean, the whole world, up to the high-
est heaven of material existence, would all be flooded. The light of this
great jewel solar matrix, when it shines on seawater, turns it to milk; the
light of the great jewel removing moisture, when it shines on the milk,
turns it to cream; the light of the great jewel flame light, when it shines
on the cream, turns it to butter; the light of the great jewel thorough
exhaustion, when it shines on the butter, turns it to ghee, blazing like
fire, consuming it without remainder.
“Buddha’s ocean of great knowledge similarly has four kinds of
jewels of great knowledge, with light of immeasurable power; when the
light of these jewels of knowledge touches enlightening beings, it ulti-
mately causes them to attain the great knowledge of Buddha. What are
the four? They are the jewel of great knowledge stopping all the waves
of scattered goodness; the jewel of great knowledge eliminating all emo-
tional attachment to the teachings; the jewel of great knowledge of the
universal illumination of the light of intelligence; the jewel of great
knowledge of boundless effortlessness equal to Buddha.
“When enlightening beings practice the methods of fostering enlight-
enment, they rouse innumerable waves of scattered goodness, which all
worldly beings, celestials, humans, or titans cannot destroy; when Bud-
dha touches those enlightening beings with the light of the jewel of great
knowledge of stopping all the waves of scattered good, it causes them to
leave behind the waves of scattered good, keep their minds on one point,
and dwell in concentration. Then, touching the enlightening beings with
the light of the jewel of great knowledge, removing all emofional attach-
ment to the teachings, causes them to give up clinging to the taste of
concentration and awaken great spiritual powers. Then, touching the
enlightening beings with the light of the jewel of great knowledge of the
universal intelligence causes them to relinquish the occult powers they
exercise and to engage in the active employment of great science. Then,
touching the enlightening beings with the light of the jewel of great
knowledge of boundless effortlessness equal to Buddha causes them to
relinquish the active exercise of great science they have been engaged in
so that they finally reach the equanimity of Buddhas and cease all effort
completely. Without the contact of the great light of these four jewels of
knowledge of Buddha it would be impossible for a single enlightening
being to attain buddhahood. This is the fifth characteristic of the mind of
Buddha; great enlightening beings should know it thus.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như đại hải có bốn đại bửu sáng chói rực rỡ bày ở đáy biển, tánh rất nóng, thường hay rút uống vô lượng dòng nước lớn của trăm sông chảy vào biển, vì thế nên đại hải không có tăng giảm.
Ðây là bốn đại bửu: một tên là Nhựt tạng, hai tên là Ly nhuận, ba tên là Hỏa diệm quang, bốn tên là Tận vô dư.
Nếu trong đại hải không có bốn đại bửu này thời nước sẽ ngập tràn từ bốn châu thiên hạ lên đến Hữu Ðảnh.
Chư Phật tử! Quang minh của đại bửu Nhựt tạng nếu chiếu nhằm nước biển thời đều biến thành sữa. Quang minh của Ly nhuận đại bửu nếu chiếu nhằm sữa này thời liền biến thành lạc. Quang minh của Hỏa diệm quang đại bửu chiếu nhằm lạc này thời biến thành tô. Quang minh của tận vô dư đại bửu chiếu nhằm tô này thời biến thành đề hồ, như lửa cháy phừng đều không còn sót thừa.
Chư Phật tử! Cũng vậy, biển đại trí huệ của đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác có bốn đại trí huệ bửu đầy đủ vô lượng oai đức quang minh. Trí quang minh này chạm đến chư Bồ Tát, nhẫn đến khiến được đại trí của Như Lai.
Ðây là bốn đại trí bửu: một Ðại trí bửu diệt tất cả lượng sóng tán thiện. Hai là Ðại trí bửu trừ tất cả pháp ái. Ba là Ðại trí bửu huệ quang chiếu khắp. Bốn là Ðại trí bửu cùng với Như Lai bình đẳng vô biên vô công dụng.
Lúc chư Bồ Tát tu tập tất cả pháp trợ đạo phát khởi vô lượng tán thiện. Tất cả thế gian, Thiên, Nhơn, A tu la chẳng phá hư được. Ðức Như Lai dùng quang minh của đại trí bửu diệt tán thiện chiếu đến Bồ Tát này khiến bỏ tất cả tán thiện, chuyên tâm một cảnh trụ nơi chánh định. Lại dùng quang minh của đại trí bửu trừ pháp ái chiếu đến Bồ Tát này khiến trừ bỏ lòng tham đắm nơi tam muội, phát khởi đại thần thông. Lại dùng quang minh của đại trí bửu huệ quang phổ chiếu chạm đến Bồ Tát này, khiến bỏ thần thông quảng đại đã phát khởi, mà trụ nơi đại minh công dụng hạnh. Lại dùng quang minh của đại trí bửu cùng Như Lai bình đẳng vô biên vô công dụng chiếu đến Bồ Tát này, khiến bỏ đại minh công dụng hạnh đã phát khởi, nhẫn đến được bực Như Lai bình đẳng, dứt sạch tất cả công dụng không sót thừa.
Nếu không có quang minh của bốn đại trí bửu của đức Như Lai chiếu đến, thời tất không có một Bồ Tát nào được bậc Như Lai.
Ðây là tướng thứ năm của tâm Như Lai, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.
“The million lands from the sphere of water up to the heaven of
neither perception nor nonperception, the abodes of sentient beings in
the realm of desire, the realm of form, and the formless realm, all arise
from space and rest in space. Why? Because space is everywhere. But
though space contains all the realms of desire, form, and formlessness,
yet it has no discrimination. The knowledge of Buddha is also like this:
the knowledge of listeners, the knowledge of individual illuminates,
the knowledge of enlightening beings, the knowledge of formulated
Page 1001 – Manifestation of Buddha
practices, and the knowledge of unformulated practices, all arise from
the knowledge of Buddha and rest in the knowledge of Buddha, because
the knowledge of Buddha pervades all; though it contains innumerable
knowledges, it has no discrimination. This is the sixth characteristic of
the knowledge of Buddha; great enlightening beings should know it
thus.
Lại nữa, chư Phật tử! như từ thủy tế lên đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng thiên, trong đó cả Ðại Thiên quốc độ, những chúng sanh cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô Sắc, đều nương hư không mà khởi mà trụ. Vì hư không cùng khắp vậy. Dầu hư không đó dung khắp ba cõi mà không phân biệt.
Như Lai trí huệ cũng như vậy. Hoặn Thanh Văn trí, hoặc Ðộc Giác trí, hoặc Bồ Tát trí, hoặc hữu vi hạnh trí, hoặc vô vi hạnh trí, tất cả đều nương Như Lai trí mà khởi mà trụ. Vì trí huệ của Như Lai khắp tất cả. Dầu dung khắp tất cả vô lượng trí huệ, mà Như Lai trí huệ vẫn không phân biệt.
Ðây là tướng thứ sáu của tâm Như Lai, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.
“Atop the Snowy mountains there is an excellent medicinal tree
called inexhaustible roots; the roots of that medicinal tree grow from
168,000 leagues, all the way down to the adamantine ground and the
sphere of water. When that medicinal tree grows roots, it causes the
roots of all trees on the continent to grow; when the medicinal tree
grows a stem, it causes the stems of all trees on the continent to grow.
The same is true of the branches, leaves, flowers, and fruits. The roots of
the medicinal tree can grow stems, and the stems can grow roots — the
roots are inexhaustible, so it is called inexhaustible roots. That medicinal
tree can foster growth everywhere, except for two places where it can-
not perform the beneficial action of promofion of growth — that is, in
the pits of hells and in the sphere of water; yet it has no aversion to them.
The great tree of the supreme medicine of the knowledge of Buddha,
likewise, by past development, fully perfects all good qualities of knowl-
edge, shades all realms of sentient beings, and destroys all the miseries of
bad states. Universal compassion and commitment form its roots; it is
born from the seed of true knowledge of all buddhas. It is steadfast and
immovable; skill in means is its trunk, the transcendent perfections of
cosmic knowledge are its branches; meditations, liberations, and the
great concentrations are its leaves; mental command, intellectual skills,
and the elements of enlightenment are its flowers, and the ultimate
unchanging liberation of buddhas is its fruit. Why may the medicinal
tree of knowledge of Buddha be called ‘inexhaustible roots’? Because of
ultimately never ceasing, because of not stopping enlightening activity.
The practice of enlightening beings is the nature of Buddha, the nature
of Buddha is the practice of enlightening beings. Therefore it can be
called inexhaustible roots. When the roots of the medicinal tree of
buddha-knowledge grow, it causes enlightening beings to grow the roof
of great love and compassion, which does not abandon sentient beings.
When its trunk grows, it causes all sentient beings to grow the trunk of
profound determination with steadfast vigor. When its branches grow, it
causes all enlightening beings to grow the branches of all transcendent
ways. When its leaves grow, it causes enlightening beings to grow the
leaves of pure conduct, austerity, virtue, paucity of desire, and content-
ment. When its flowers grow, it causes all enlightening beings to be
replete with the flowers of magnificent arrays of the marks and embel-
lishments of virtues. When its fruit grows, it causes all enlightening
beings to gain the fruits of acceptance of nonorigination up to acceptance
of coronation by all buddhas. The supreme medicine tree of knowledge
of Buddha cannot perform its beneficial growth-fostering function in
Page 1002 – The Flower Ornament Scripture
two places only: in those in the two vehicles of individual salvation who
have fallen into the abyss of nondoing, and in unsuitable sentient beings
with roften roots of goodness who are sunk in the floodwaters of erro-
neous views and craving — yet Buddha never has rejected these people.
The knowledge of Buddha has no increase or decrease, because its roots
are stable and grow ceaselessly. This is the seventh characteristic of the
mind of Buddha; great enlightening beings should know it thus.
Lại nữa, chư Phật tử! Như đảnh núi Tuyết có cây Dược Vương tên là Vô Tận Căn. Rễ cây Dược Vương này mọc từ thủy luân tế suốt thấu kim cang địa sâu mười sáu vạn tám ngàn do tuần. Lúc cây Dược Vương này mọc rễ thời tất cả ở Diêm Phù Ðề mọc rễ, lúc thân cây Dược Vương mọc lên thời tất cả thân cây ở Diêm Phù Ðề mọc lên, nhánh lá bông trái cũng như vậy. Cây Dược Vương này, gốc hay sanh cây, cây hay sanh gốc rễ. Gốc rễ không cùng tận nên gọi là Vô Tận Căn.
Cây Dược Vương này hay làm cho những cây ở tất cả xứ đều được sanh trưởng, chỉ trừ hai nơi địa ngục và trong thủy luân không thể làm tăng trưởng. Nhưng cũng không nhàm bỏ hai nơi đó.
Cây đại Dược Vương trí huệ của Như Lai cũng như vậy. Do quá khứ phát sanh thành tựu tất cả trí huệ pháp lành, trùm khắp tất cả chúng sanh giới, trừ diệt tất cả những khổ ác đạo. Bi nguyện quảng đại làm gốc rễ, sanh trong chủng tánh trí huệ chơn thiệt của tất cả Như Lai. Phương tiện thiện xảo kiên cố bất động dùng làm thân cây. Trí khắp pháp giới các Ba la mật dùng làm nhánh cây. Thiền định, giải thoát, các đại tam muội dùng làm lá cây. Tổng trì biện tài Bồ đề phần pháp dùng làm bông. Chư Phật giải thoát rốt ráo không biến đổi dùng làm trái.
Cây đại Dược Vương trí huệ của đức Như Lai cớ sao lại được gọi là Vô Tận Căn? Vì rốt ráo không thôi dứt. Vì chẳng dứt Bồ Tát hạnh. Bồ Tát hạnh tức là Như Lai tánh, Như Lai tánh tức là Bồ Tát hạnh nên được gọi là Vô Tận Căn.
Chư Phật tử! Lúc cây đại trí huệ của Như Lai mọc rễ thời làm cho tất cả Bồ Tát sanh rễ đại từ bi chẳng bỏ chúng sanh.
Lúc thân cây đại trí huệ này sanh lên thời làm cho tất cả Bồ Tát tăng trưởng thân cây thâm tâm tinh tấn kiên cố.
Lúc nhánh của đại trí huệ này sanh thời làm cho tất cả Bồ Tát tăng trưởng tất cả nhánh Ba la mật.
Lúc lá của đại trí huệ này sanh thời làm cho tất cả Bồ Tát sanh trưởng lá công đức tịnh giới đầu đà thiểu dục tri túc.
Lúc bông đại trí huệ này sanh thời làm cho tất cả Bồ Tát đầy đủ bông thiện căn tướng hảo trang nghiêm.
Lúc trái đại trí huệ này sanh thời làm cho tất cả Bồ Tát được trái Vô sanh nhẫn cho đến quả chư Phật quán đảnh nhẫn. Trí huệ của Như Lai chỉ không thể làm cho hai chỗ được lợi ích sanh trưởng: một là hàng nhị thừa sa vào hố sâu vô vi quảng đại, hai là những chúng sanh hư hoại thiện căn chìm trong nước đại tà kiến tham ái. Nhưng vẫn không hề nhàm bỏ hai chỗ đó.
Chư Phật tử! Trí huệ của đức Như Lai không tăng giảm, vì gốc rễ khéo an trụ sanh trưởng không thôi dứt.
Ðây là tướng thứ bảy của tâm Như Lai, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.
“When the eonic holocaust starts in the universe, it burns up all the
plants and trees, and even the mountains, consuming all without leaving
anything. Suppose someone picked up some dry straw and threw it in
that fire — do you think it could do aught but burn?”
“No.”
“It is more possible for that straw not to burn than for Buddha’s
knowledge, analyzing all sentient beings, all lands, all ages, and all phe-
nomena of all times, not to know something. Why? Because that knowl-
edge impartially comprehends all clearly. This is the eighth characteristic
of the mind of Buddha; great enlightening beings should know it thus.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như Ðại Thiên thế giới, lúc kiếp hỏa khởi đốt cháy tất cả cây cỏ lùm rừng, nhẫn đến núi Thiết Vi, núi Ðại Thiết Vi đều cháy không thừa sót. Giả sử có người cầm cỏ khô ném vào trong lửa đó tất là phải cháy hết. Nhưng cũng cho là cỏ đó được chẳng cháy. Chớ còn không thể nói rằng trí huệ của đức Như Lai phân biệt không biết hết tam thế tất cả chúng sanh, tất cả quốc độ, tất cả kiếp số, tất cả các pháp. Vì trí huệ Như Lai bình đẳng thấu rõ tất cả.
Ðây là tướng thứ tám của tâm Như Lai, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.
“When a gale destroys the worlds, a great wind called destruction
arises, able to pulverize the billion worlds of the universe, their iron
mountains and so on, to smithereens. There is another wind, called
blocker, circling the billion-world universe, blocking the gale of de-
struction so that it cannot reach the worlds in Other places. Without this
blocking wind, all the worlds in the ten directions would be completely
destroyed. Buddha similarly has a great wind of knowledge, called ex-
tinguisher, which can extinguish the afflictions and habit energies of all
great enlightening beings; and a great wind of knowledge called skillful
sustaining, which skillfully sustains the enlightening beings whose fac-
ulties are not yet mature, not letting the extinguishing whirlwind totally
eliminate all their afflictions and habit energies. Without Buddha’s skill-
fully sustaining wind of knowledge, countless enlightening beings would
fall into the states of those content with individual salvation. By this
knowl edge enlightening beings are enabled to transcend the stages of the
two lesser vehicles of individual salvation and abide in the ultimate rank
of Buddha. This is the ninth characteristic of the mind of Buddha; great
enlightening beings should know it thus.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như phong tai lúc phá hoại thế giới, có gió lớn nổi lên tên là Tán Hoại, có thể phá hư Ðại Thiên thế giới, núi Thiết Vi v.v… đều nát thành bụi. Lại có gió lớn tên là Năng Chướng bao che xung quanh Ðại Thiên thế giới, ngăn gió Tán Hoại không cho thổi đến những thế giới khác. Nếu không có gió Năng Chướng này thời thập phương thế giới sẽ tan hư cả.
Cũng vậy, đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác có đại trí phong tên là Năng Diệt, có thể diệt trừ tập khí phiền não của tất cả chư đại Bồ Tát. Có đại trí phong tên là Xảo Trì, khéo giữ gìn chư Bồ Tát căn khí chưa thành thục chẳng cho đại trí phong Năng Diệt dứt tất cả tập khí phiền não. Nếu không có đại trí phong Xảo Trì của Như Lai, thời vô lượng Bồ Tát sẽ sa vào bực Thanh Văn, Bích Chi Phật. Do trí Xảo Trì này làm cho chư Bồ Tát vượt khỏi bực Nhị thừa an trụ nơi bực rốt ráo của Như Lai.
Ðây là tướng thứ chín của tâm Như Lai, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.
“There is nowhere the knowledge of Buddha does not reach. Why?
There is not a single sentient being who is not fully endowed with the
knowledge of Buddha; it is just that because of deluded notions, erro-
neous thinking, and attachments, they are unable to realize it. If they
would get rid of deluded notions, then universal knowledge, spontaneous
knowledge, and unobstructed knowledge would become manifest. It is
as if there were a great scripture, equal in extent to a billion-world
universe, in which are written all the things of the universe — there are
written the things of the iron peripheral mountains, to an extent equal to
those mountains; there are written the things on the land, to an extent
equal to the land; there are written the things in the million-world
Page 1003 – Manifestation of Buddha
galaxies, to an extent equal to the galaxies; there are written the things in
the thousand-world systems, to an extent equal to the systems; there are
written the things in the continents, to an extent equal to the continents;
and so on; the things of the oceans, the polar mountains, the abodes of
earth and sky, the celestial abodes in the sky of the desire realm, the
abodes in the form realm, the abodes in the formless realm, are each
written down to an equivalent extent. Though this scripture is equal in
measure to a billion-world universe, yet it entirely rests in a single atom;
and as this is so of one atom, it is also true of all atoms. Then suppose
someone with clear and comprehensive knowledge, who has fully de-
veloped the celestial eye, secs these scriptures inside atoms, not benefiting
sentient beings in the least, and, with this thought — ‘I should, by ener-
getic power, break open those atoms and release those scriptures so that
they can benefit all sentient beings’ — then employs appropriate means to
break open the atoms and release the great scriptures, to enable all
sentient beings to benefit greatly. Similarly, the knowledge of Buddha,
infinite and unobstructed, universally able to benefit all, is fully inherent
in the bodies of sentient beings; but the ignorant, because of clinging to
deluded notions, do not know of it, are not aware of it, and so do not
benefit from it. Then the Buddha, with the unimpeded, pure, clear eye
of knowledge, observes all sentient beings in the cosmos and says, ‘How
strange — how is it that these sentient beings have the knowledge of
Buddha but in their folly and confusion do not know it or perceive it? I
should teach them the way of sages and cause them forever to shed
deluded notions and attachments, so they can see in their own bodies the
vast knowledge of buddhas, no different from the buddhas.’ Then Buddha
teaches them to practice the way of sages, so they get rid of deluded
notions, after which they realize the infinite knowledge of Buddha and
aid and comfort all living beings. This is the tenth characteristic of the
mind of Buddha; great enlightening beings should know it thus.
Lại nữa, chư Phật tử! Trí huệ của đức Như Lai không chỗ nào là chẳng đến. Vì không một chúng sanh nào mà chẳng có đủ Như Lai trí huệ, chỉ do vọng tưởng điên đảo chấp trước nên không chứng được. Nếu rời vọng tưởng thời nhứt thiết trí, tự nhiên trí, vô ngại trí liền hiện tiền.
Ví như có quyển sách lớn bằng Ðại Thiên thế giới biên chép hết cả những sự trong Ðại Thiên thế giới. Những là biên chép hết những sự trong Ðại Thiết Vi Sơn thời lượng bằng núi Ðại Thiết Vi, biên chép những sự trong đại địa thời lượng bằng đại địa, biên chép những sự trong Trung Thiên thế giới thời lượng bằng Trung Thiên thế giới, biên chép những sự trong Tiểu Thiên thế giới thời lượng bằng Tiểu Thiên thế giới. Như vậy nhẫn đến biên chép những sự trong bốn châu thiên hạ, trong đại hải, trong Tu Di Sơn, trong cung điện của Ðịa Cư Thiên, của Không Cư Thiên, của Sắc Giới Thiên, của Vô Sắc Giới Thiên, biên chép mỗi xứ thời lượng của sách cũng bằng như vậy. Quyển sách lớn này dầu lượng bằng Ðại Thiên thế giới mà toàn ở tại trong một vi trần. Như một vi trần, tất cả vi trần cũng đều như vậy.
Bấy giờ có một người trí huệ sáng suốt, thành tựu đầy đủ thiên nhãn thanh tịnh, thấy quyển sách này ở trong vi trần không chút lợi ích cho các chúng sanh, bèn nghĩ rằng tôi nên dùng sức tinh tấn phá vỡ vi trần đó để đem quyển sách lớn ra làm cho các chúng sanh được lợi ích. Nghĩ xong, người này liền dùng phương tiện phá vỡ vi trần đem quyển sách lớn ra, làm cho các chúng sanh được lợi ích. Như nơi một vi trần, tất cả vi trần cũng đều như vậy.
Cũng vậy, trí huệ của đức Như Lai vô lượng vô ngại có thể lợi ích khắp tất cả chúng sanh, đầy đủ ở trong thân chúng sanh. Chỉ vì hàng phàm phu vọng tưởng chấp trước nên chẳng biết chẳng hay, chẳng được lợi ích.
Bấy giờ đức Như Lai do trí nhãn thanh tịnh vô ngại xem khắp pháp giới tất cả chúng sanh mà nói rằng: Lạ thay! Lạ thay! Tại sao các chúng sanh này có đủ trí huệ Như Lai, mà ngu si mê lầm chẳng hay chẳng thấy. Ta nên đem thánh đạo dạy cho họ lìa hẳn vọng tưởng chấp trước. Từ trong thân, họ thấy được trí huệ Như Lai quảng đại, như Phật không khác. Nói xong, đức Như Lai liền đem thánh đạo dạy chúng sanh cho họ lìa vọng tưởng. Lìa vọng tưởng rồi thời chứng được Như Lai vô lượng trí huệ lợi ích an lạc tất cả chúng sanh.
Ðây là tướng thứ mười của tâm Như Lai, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.
“Great enlightening beings should know the mind of Buddha, who
has realized Thusness and is completely awake, in terms of such infinite,
unimpeded, inconceivably great characteristics.”
Then the great enlightening being Universally Good, in order to
explain again what he meant, spoke in verse:
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát phải dùng vô lượng vô ngại bất tư nghì tướng quảng đại như vậy để biết tâm của đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác.
Phổ Hiền đại Bồ Tát muốn nói rõ lại nghĩa này mà nói kệ rằng:
If you want to know the mind of buddhas,
Observe the buddhas’ knowledge.
Buddhas’ knowledge has no resting place,
Just as space rests on nothing.
Sentient beings’ various inclinations.
And knowledge of expedients,
All rest on buddhas knowledge,
While buddha’s knowledge rests on nothing.
Page 1004 – The Flower Ornament Scripture
The liberations of buddhas,
Disciples, and the self-enlightened,
All depend on the reality realm,
While reality has no increase or decrease.
Buddha’s knowledge, similarly.
Produces all knowledges.
Without increase or decrease,
Without beginning or end.
Just as water flows under the ground
So those who seek it find it,
Without thought, without end,
Its effective power all-pervasive,
Buddha knowledge is also like this.
Being in all creatures’ minds;
If any work on it with diligence,
They will soon find the light of knowledge.
Just as the water spirit has four jewels
Which produce all gems.
Hidden in a secret place
Where ordinary people cannot see,
So too do Buddha’s four knowledges
Produce all knowledge.
While no one can see them
Except great enlightening beings.
As in the ocean are four jewels
Which can drink up all waters
So that the ocean does not overflow
And does not increase or decrease,
Likewise does Buddha’s knowledge
Stop waves and remove attachment to teachings;
Boundlessly great and vast,
It produces enlightening beings and buddhas.
From the nadir to the summit of being.
The desire, form, and formless realms.
All rest in space,
While space does not discriminate:
The knowledge of enlightening beings.
Of disciples and the self-enlightened.
All rest in the knowledge of Buddha,
While buddha-knowlcdge has no discrimination.
On the Snowy mountains is a medicine
Called inexhaustible roots
Page 1005 – Manifestation of Buddha
Which can make all trees grow —
Their roots, trunks, leaves, flowers, and fruits.
Buddha’s knowledge too is like this.
Grown from the seed of enlightenment;
Once enlightenment is attained,
It also produces the practices of enlightening beings.
If someone puts a handful of straw
In the eonic fire,
Where even diamond blazes.
The straw could not but be burned;
The ages and lands of all times
And the sentient beings therein
Buddha completely knows
More surely than the burning of that straw.
There is a wind called destruction
Which can pulverize a universe;
If not stopped by another wind,
Destruction would reach infinite worlds.
The great wind of knowledge is also like this,
Extinguishing the delusions of enlightening beings;
There is another wind of skillfulness,
Enabling them to live, in the land of buddhahood.
It is as there is a great scripture
Equal in extent to a universe
Existing inside one atom,
And in all atoms as well;
Someone with intelligence and wisdom
Sees all clearly with pure eyes
And breaks the atoms, releasing the scriptures
For the benefit of all beings.
Buddha-knowledge, likewise,
Is in all beings’ minds;
Wrapped up in deluded thoughts.
They are unaware, unknowing;
The buddhas’ great compassion
Causes them to get rid of deluded ideas
So knowledge can appear
And benefit enlightening beings.
Muốn biết tâm chư Phật
Nên quán trí huệ Phật
Phật trí không chỗ nương
Như hư không vô y
Chúng sanh mọi điều vui
Và những trí phương tiện
Ðều nương Phật trí huệ
Phật trí không y chỉ
Thanh Văn và Ðộc Giác
Cùng chư Phật giải thoát
Ðều nương nơi pháp giới
Pháp giới không tăng giảm
Phật trí cũng như vậy
Xuất sanh nhứt thiết trí
Không tăng cũng không giảm
Không sanh cũng không diệt
Như nước thường chảy ngầm
Ai đào đều được nước
Nước không niệm, vô tận
Công lực khắp mười phương
Phật trí cũng như vậy
Ở khắp tâm chúng sanh
Nếu ai siêng tu hành
Mau được trí quang minh
Như rồng có bốn châu
Xuất sanh tất cả báu
Cất châu chỗ thâm mật
Kẻ phàm chẳng thấy được
Phật bốn trí cũng vậy
Xuất sanh tất cả trí
Người khác không thấy được
Chỉ trừ đại Bồ Tát
Như biển có bốn châu
Hay rút tất cả nước
Khiến biển chẳng tràn đầy
Cũng lại không thêm bớt
Trí Như Lai cũng vậy
Dứt sóng trừ pháp ái
Rộng lớn không ngằn mé
Hay sanh Phật Bồ Tát
Hạ phương đến Hữu Ðảnh
Dục, Sắc, Vô Sắc giới
Tất cả nương hư không
Hư không chẳng phân biệt
Thanh Văn và Ðộc Giác
Bồ Tát các trí huệ
Ðều nương nơi Phật trí
Trí Phật vô phân biệt
Núi Tuyết có Dược Vương
Tên là Vô Tận Căn
Hay sanh tất cả cây
Gốc, thân, nhánh, bông, trái
Phật trí cũng như vậy
Sanh trong Như Lai chủng
Ðã được Bồ Ðề rồi
Lại sanh Bồ Tát hạnh
Như người cầm cỏ khô
Ðể vào trong kiếp hỏa
Kim cang còn cháy đỏ
Cỏ khô tất phải cháy
Tam thế kiếp và cõi
Trong đó các chúng sanh
Cỏ khô cho chẳng cháy
Phật trí biết tất cả
Có gió tên Tán Hoại
Hay phá hoại Ðại Thiên
Nếu không gió khác ngăn
Sẽ hoại vô lượng cõi
Gió đại trí cũng vậy
Diệt phiền não Bồ Tát
Lại có gió Thiện Xảo
Khiến trụ bực Như Lai
Như có quyển sách lớn
Lượng bằng Ðại Thiên giới
Ở trong một vi trần
Tất cả trần cũng vậy
Có một người thông minh
Tịnh nhãn đều thấy rõ
Phá trần đem sách ra
Lợi ích khắp chúng sanh
Phật trí cũng như vậy
Ở khắp tâm chúng sanh
Bị vọng tưởng buộc ràng
Chẳng hay cũng chẳng biết
Chư Phật đại từ bi
Khiến họ trừ vọng tưởng
Phật trí bèn xuất hiện
Lợi ích chư Bồ Tát
(Hán bộ quyển năm mươi hai)
“How should great enlightening beings know the sphere of Buddha,
who has realized Thusness and is completely awake? Knowing the spheres
of all worlds by means of unobstructed, unimpeded knowledge is the
sphere of Buddha. Knowing the spheres of all times, all lands, all things,
and all beings, the undifferentiated sphere of True Thusness, the un-
Page 1006 – The Flower Ornament Scripture
obstructed sphere of the reality realm, the boundless sphere of absolute
truth, the unquantified sphere of space, and the objectless sphere, is the
sphere of Buddha. Just as the spheres of all times, and so on, up to the
objectless sphere, are all infinite, so is the sphere of Buddha infinite. Just
as the objectless sphere has no existence in all places, so also does the
sphere of Buddha have no existence in all places.
Phổ Hiền đại Bồ Tát lại bảo chư Bồ Tát:
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát phải biết cảnh giới của đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác như thế nào?
Ðại Bồ Tát dùng trí huệ vô ngại biết tất cả cảnh giới thế gian là cảnh giới Như Lai. Biết tất cả tam thế cảnh giới, tất cả cõi cảnh giới, tất cả pháp cảnh giới, tất cả chúng sanh cảnh giới, chơn như vô sai biệt cảnh giới, pháp giới vô chướng ngại cảnh giới, thiệt tế vô biên tế cảnh giới, hư không vô phần lượng cảnh giới, cảnh giới không cảnh giới, đều là Như Lai cảnh giới.
Chư Phật tử! Như tất cả thế gian cảnh giới vô lượng, Như Lai cảnh giới cũng vô lượng. Như tất cả tam thế cảnh giới vô lượng, Như Lai cảnh giới cũng vô lượng. Nhẫn đến như cảnh giới không cảnh giới vô lượng, Như Lai cảnh giới cũng vô lượng. Như cảnh giới không cảnh giới tất cả xứ không có, Như Lai cảnh giới cũng vậy, tất cả xứ không có.
“Great enlightening beings should know the sphere of mind is the
sphere of Buddha; just as the sphere of mind is measureless and bound-
less, without bondage or liberation, so too is the sphere of Buddha
measureless and boundless, without bondage or liberation. Why? Because
by such and such thoughts there are infinite such and such manifestations.
It is like when the great water spirit showers rain according to will, the
rain does not come from inside or outside; the sphere of Buddha is also
like this — according to such and such thoughts, there are infinite such
and such manifestations, yet they do not come from anywhere in the ten
directions. Just as the water of the ocean all comes from the mental
power of the king water spirit, so too does the water of the ocean of
omniscience of all buddhas all come from the buddhas’ past vows.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát phải biết tâm cảnh giới là Như Lai cảnh giới. Như tâm cảnh giới vô lượng vô biên vô phược vô thoát, Như Lai cảnh giới cũng vô lượng vô biên vô phược vô thoát. Vì do tư duy phân biệt như vậy như vậy, nên hiển hiện vô lượng như vậy như vậy.
Chư Phật tử! Như đại Long Vương tùy tâm tuôn mưa, mưa đó chẳng từ trong ra, chẳng từ ngoài ra.
Như Lai cảnh giới cũng như vậy. Tùy ở sự tư duy phân biệt như vậy thời có vô lượng hiển hiện như vậy, ở trong mười phương đều không chỗ đến.
Chư Phật tử! Như nước đại hải đều từ tâm lực của Long Vương khởi ra.
Biển nhứt thiết trí của chư Phật Như Lai cũng như vậy, đều từ đại nguyện thưở xưa của Như Lai mà sanh khởi.
“The ocean of omniscience is infinite, boundless, inconceivable, and
inexpressible, but I will tell something of it by way of simile, so please
listen carefully. The southern continent has 2,500 rivers, which flow into
the ocean; the western continent has 5,000 rivers, which flow into the
ocean; the eastern continent has 7,500 rivers, which flow into the ocean;
the northern continent has 10,000 rivers, which flow into the ocean.
These four continents thus have 25,000 rivers, which continuously flow
into the ocean. What do you think — is that a lof of water?”
“Yes indeed.”
“There is also a water spirit Ten Light Beams, which rains even more
water than that into the ocean; the water spirit Hundred Light Beams
rains even more water than that into the ocean; the water spirits Mag-
nificent Arrays, Thoughtful, Thundering, Joy, Infinite Light, Continuous
Shower, Great Victory, Great Surge, and eight billion more such water
spirits each rain more and more into the ocean; the son of the water spirit
Ocean, named Rose Apple Banner, rains even more than that. The
water in the abode of the water spirit Ten Light Beams flows into the
ocean, even more than the aforementioned; the water in the palace of the
water spirit Hundred Light Beams flows into the ocean, even more; the
water of the palaces of each of the water spirits, each with more and
more water, flows into the ocean, and the water in the palace of the
water spirit Rose Apple Banner, son of the water spirit Ocean, which is
yet more, also flows into the ocean. The water in the palace of the water
spirit Ocean, which is even more, surges forth into the ocean; the water
it produces is violet, and it surges forth at regular times, so the tide of the
ocean is regular. Thus the ocean’s water is infinite, its treasures are
infinite, its creatures are infinite, and the earth it rests on is infinite too.
Do you think that the ocean is infinite or not?”
Page 1007 – Mani festation o f Buddha
“It is truly infinite, incomparably so.”
Chư Phật tử! Biển nhứt thiết trí vô lượng vô biên bất tư nghì, chẳng thể ngôn thuyết. Nhưng nay tôi lược nói ví dụ, đại chúng nên lắng nghe.
Nam Diêm Phù Ðề này có hai ngàn năm trăm con sông chảy vào đại hải. Tây Câu Gia Ni có năm ngàn con sông chảy vào đại hải. Ðông Phất Bà Ðề có bảy ngàn năm trăm con sông chảy vào đại hải. Bắc Uất Ðơn Việt có một vạn con sông chảy vào đại hải. Bốn châu thiên hạ có hai vạn năm trăm con sông như vậy luôn nối tiếp chảy vào đại hải, nước sông đó đã rất nhiều.
Trong đại hải lại có Thập Quang Minh Long Vương mưa nước nhiều gấp bội nước sông. Lại có Bá Quang Minh Long Vương mưa nước nhiều gấp bội nước mưa trên. Lại có Ðại Trang Nghiêm Long Vương, Ma Na Tư Long Vương, Lôi Chấn long Vương, Nan Ðà Long Vương, Bạt Nan Ðà Long Vương, Vô Lượng Quang Minh Long Vương, Liên Chú Bất Ðoạn Long Vương, Ðại Thắng Long Vương, Ðại Phấn Tấn Long Vương, có tám mươi ức đại Long Vương như vậy đều làm mưa xuống đại hải và đều tuần tự nhiều gấp bội. Thái Tử của Ta Kiệt La Long Vương tên là Diêm Phù Tràng mưa xuống đại hải lại hơn gấp bội Long Vương trên.
Nước trong cung điện của Thập Quang Minh Long Vương chảy vào đại hải gấp bội nước mưa trên. Nước trong cung điện của Bá Quang Minh Long Vương chảy vào đại hải lại gấp bội. Nhẫn đến cung điện của tám mươi ức đại Long Vương đều riêng khác và đều có nước chảy vào đại hải tuần tự gấp bội nhau.
Ta Liệt La Long Vương mưa vào đại hải nước nhiều hơn trên. Nước trong cung điện của Ta Kiệt La Long Vương chảy vào đại hải lại nhiều gấp bội. Nước này màu lưu ly xanh biếc, chảy ra có giờ, do đây nên nước triều của đại hải không lỗi giờ.
Chư Phật tử! Như vậy đại hải: nước vô lượng, châu báu vô lượng, chúng sanh vô lượng, đại địa nương dựa cũng vô lượng.
Ðại hải vô lượng như vậy so với trí hải vô lượng của đức Như Lai không bằng một phần trăm, không bằng một phần ngàn, nhẫn đến không bằng một phần ưu ba ni sa đà. Chỉ tùy tâm chúng sanh mà lập ví dụ. Nhưng Phật cảnh giới chẳng phải ví dụ đến được.
“The infinity of this ocean does not come up to the smallest fraction
of the infinity of the ocean of buddha-knowledge. Similes are made for
beings according to their mentalities, but the sphere of Buddha is beyond
similitude. Great enlightening beings should know that the ocean of
knowledge of Buddha is infinite, because of ceaseless cultivation of all
enlightening practices from the very first determination for enlighten-
ment. They should know that the collection of treasures therein is infinite,
because all elements of enlightenment, the seeds of the three treasures,
continue unending. They should know the sentient beings in which it
dwells are infinite, because it is used by all listeners and self-illuminates,
those still learning and those beyond learning. They should know the
ground it rests on is infinite, because it is the abode of all enlightening
beings, from the first stage of Joy to the ultimate stage of Nonobstruc-
tion. Great enlightening beings, in order to enter infinite knowledge and
benefit all sentient beings, should know the sphere of Buddha in this
way.”
Then Universally Good uttered these verses to again explain his
meaning:
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát phải biết trí hải của Như Lai vô lượng, vì từ sơ phát tâm tu Bồ Tát hạnh không dứt.
Phải biết bửu tụ của Như Lai vô lượng vì tất cả pháp Bồ Ðề phần Tam Bảo chủng chẳng dứt.
Phải biết chúng sanh trụ trong đó vô lượng, vì tất cả hàng hữu học vô học Thanh Văn, Duyên Giác thọ dụng.
Phải biết trụ địa vô lượng, vì chư Bồ Tát từ Sơ Hoan Hỷ địa đến bực Cứu Cánh Vô Ngại địa ở nơi đó.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát vì nhập vô lượng trí huệ lợi ích tất cả chúng sanh, ở nơi cảnh giới của đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác phải biết như vậy.
Phổ Hiền đại Bồ Tát muốn rõ lại nghĩa này mà nói kệ rằng:
As the sphere of mind is infinite,
So is the sphere of buddhas.
As the sphere of mind is born from intellect.
So should the sphere of Buddha be seen.
The water spirits, without leaving their places.
Shower rain by the power of mind;
Though the rain does not come from or go anywhere.
Yet it falls everywhere according to the minds of the spirits:
The Ten-Powered Sage, in like manner,
Does not come from anywhere or go anywhere,
To those with pure minds appearing physically.
Vast as the cosmos, yet fitting in a pore.
The treasures of the ocean are infinite,
So are its creatures and ground;
The nature of the water is one flavor, equal, without distinction,
While those born therein each receive benefit.
The ocean of buddha-knowledge is also thus;
All it contains is infinite;
Those in the stages of learning and no learning
All gain benefit therein.
Như tâm cảnh giới vô biên lượng
Chư Phật cảnh giới cũng như vậy
Như tâm cảnh giới từ ý sanh
Phật cảnh như vậy phải quán sát
Như Long chẳng rời khỏi cung điện
Do tâm oai lực tuôn mưa lớn
Nước mưa dầu không chỗ đến đi
Tùy long tâm nên đều đầy đủ
Thập Lực Mâu Ni cũng như vậy
Không từ đâu đến chẳng đi đâu
Nếu có tịnh tâm thời hiện thân
Lượng bằng pháp giới vào lỗ lông
Như biển trân bửu vô biên lượng
Chúng sanh đại địa cũng như vậy
Thủy tánh một vị đồng không khác
Kẻ sanh trong đó đều được lợi
Như Lai trí hải cũng như vậy
Tất cả chỗ có đều vô lượng
Hữu học vô học trụ các địa
Ðều ở trong đó được lợi ích.
“How should great enlightening beings know the conduct of Buddha?
Great enlightening beings should know unobstructed action is the con-
Page 1008 – The Flower Ornament Scripture
duct of Buddha; they should know the conduct of true thusness is the
conduct of Buddha. Just as True Thusness is not born in the past, does
not move into the future, and does not arise in the present, likewise the
conduct of Buddha is not born, does not move, and does not arise. Just as
the realm of reality is not quantified or unquantified, because it has no
form, likewise the conduct of Buddha is not quantified or unquantified,
because it has no form. It is as if a bird flew through the sky for a
hundred years, the places it passed and those it had not passed would
bofh be immeasurable, because the realm of space has no boundaries:
in the same way, if someone spent trillions of eons expounding the
particulars of the conduct of Buddha, what was explained and what was
not yet explained would bofh be immeasurable, because the action of
Buddha has no bounds.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát phải biết hạnh của đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác như thế nào?
Ðại Bồ Tát phải biết vô ngại hạnh là Như Lai hạnh, phải biết chơn như hạnh là Như Lai hạnh.
Chư Phật tử! Như chơn như: tiền tế bất sanh, hậu tế bất động, hiện tại bất khởi. Như Lai hạnh cũng vậy: chẳng sanh, chẳng động, chẳng khởi.
Chư Phật tử! Như pháp giới: chẳng phải hữu lượng, chẳng phải vô lượng, vì vô hình. Cũng vậy, Như Lai hạnh chẳng phải hữu lượng, chẳng phải vô lượng, vì vô hình.
Chư Phật tử! Như chim bay ngang hư không trải qua trăm năm, chỗ đã bay qua cùng chỗ chưa bay qua đều chẳng thể lường, vì hư không giới không biên tế. Cũng vậy, Như Lai hạnh, giả sử có người trải qua trăm ngàn ức na do tha kiếp phân biệt diễn thuyết đã nói chưa nói đều chẳng thể lường, vì Như Lai hạnh không ngằn mé.
“Buddha, completely enlightened, engaged in unobstructed action,
has no dwelling place, yet can show what he does to all beings and
enables them to go beyond all obstructed paths once they have seen this.
It is as when the golden-winged king of birds flies in the sky, it circles
and hovers, observing the dragon palaces in the ocean with its clear eyes;
exerting its forceful strength, it churns the ocean waters with its wings,
causing the waters to part, and snatches dragons, male or female, whose
life it knows is about to end. The ‘golden-winged bird king’ Buddha, in
like manner, engaged in unimpeded action, observes all sentient beings
in all abodes in the cosmos with the clear Buddha-eye; if any have
planted roots of goodness that have developed to maturity, the Buddha
exerts the forceful ten powers and with the two wings of tranquillity and
insight churns the waters of emofion of the ocean of birth and death,
causing the water to part, then snatches those beings, places them in the
Buddha teaching, and causes them to stop all deluded notions and false
descriptions and abide in the nondiscriminatory unobstructed action of
the enlightened.
Chư Phật tử! Ðức Như Lai Ðẳng Chánh Giác trụ hạnh vô ngại, không có chỗ trụ mà hay khắp vì tất cả chúng sanh thị hiện công hạnh. Làm cho họ thấy rồi được vượt hơn tất cả đạo chướng ngại.
Chư Phật tử! Ví như Kim Sí Ðiểu Vương bay trên hư không, đảo liệng chẳng đi, dùng mắt thanh tịnh quán sát trong cung điện của chư Long, phấn khởi sức mạnh lấy hai cánh quạt nước biển rẽ ra làm hai, bắt rồng mạng sắp chết để ăn.
Ðức Như Lai Ðẳng Chánh Giác cũng như vậy, an trụ hạnh vô ngại dùng Phật nhãn thanh tịnh quán sát pháp giới tất cả chúng sanh, nếu là hạng từng đã gieo thiện căn đã thành thục, dùng sức mạnh thập lực vỗ hai cánh chỉ quán quạt tách nước biển tham ái sanh tử ra làm hai mà bắt lấy họ vào trong Phật pháp, cho họ dứt tất cả vọng tưởng hí luận, an trụ nơi hạnh vô ngại vô phân biệt của Như Lai.
“Just as the sun and moon travel alone through the sky conferring
benefit on sentient beings, with no notion of where they come from or
where they are going, likewise the buddhas, by nature fundamentally
silent and extinct, without discrimination, appear to course all universes,
performing buddha-work to benefit sentient beings without cease, yet
not producing false notions of coming from somewhere or going some-
where. Great enlightening beings should see and know the actions con-
ducted by Buddha in terms of infinite such means, infinite natures and
characteristics.”
Then Universally Good, to recapitulate, uttered these verses:
Chư Phật tử! Như mặt nhựt mặt nguyệt không gì sánh, riêng đi vòng giữa hư không làm lợi ích chúng sanh, mà không tự nghĩ từ đâu đến và đi đến đâu.
Chư Phật Như Lai cũng như vậy, tánh vốn tịch diệt không phân biệt, thị hiện du hành khắp pháp giới, vì muốn làm lợi ích tất cả chúng sanh, mà làm Phật sự không thôi nghỉ, vẫn không sanh hí luận phân biệt là ta từ đó đến rồi đi qua kia.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát phải dùng vô lượng phương tiện vô lượng tánh tướng như vậy, để thấy biết công hạnh của đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác.
Phổ Hiền đại Bồ Tát muốn rõ lại nghĩa này mà nói kệ rằng:
Just as True Thusness is not born, does not perish,
Has no location, and cannot be seen,
Likewise the action of the Great Benefactor
Transcends in the triple world and cannot be measured.
Page 1009 – Manifestation of Buddha
The reality realm is not the reality realm, yet not not the reality realm;
It is not quantified and not unquantified.
The action of the Great Worthy is also thus,
Neither quantified nor unquantified, because there is no body.
If a bird flies for billions of years.
The sky behind and ahead are equal, no different;
When Buddha’s conduct is expounded for eons,
The told and the untold cannot be measured.
The golden bird in the sky watches the sea,
Parts the waters and snatches dragons;
The Ten-Powered can pull out virtuous people,
Remove them from the sea of existence, and rid them of delusion.
Like sun and moon traversing the sky
Shining on all without distinction,
The World-Honored traverses the cosmos
Teaching beings without stirring a thought.
Ví như chơn như chẳng sanh diệt
Không có nơi chỗ không thể thấy
Bực Ðại Nhiêu Ích, hạnh như vậy
Vượt hơn tam thế chẳng lường được
Pháp giới : chẳng giới, chẳng không giới
Chẳng phải hữu lượng chẳng vô lượng
Ðấng Ðại Công Ðức hạnh cũng vậy
Chẳng : lượng, vô lượng, vì vô thân
Như chim bay đi ức ngàn năm
Trước sau hư không chẳng không khác
Nhiều kiếp diễn thuyết hạnh Như Lai
Ðã nói chưa nói chẳng thể lường
Ðiễu Vương trên cao xem đại hải
Rẽ nước bắt lấy rồng để ăn
Thập Lực hay cứu người thiện căn
Khiến khỏi biển ải trừ phiền não
Ví như nhựt nguyệt đi hư không
Chiếu đến tất cả chẳng phân biệt
Thế Tôn đi khắp cả pháp giới
Giáo hóa chúng sanh chẳng động niệm
“How should great enlightening beings know the attainment of en-
lightenment of Buddha? They should know that Buddha’s attainment of
enlightenment has no view of any phenomena, is impartial toward
things, has no doubts, no duality, no signs, no activity, no cessation, no
measure, no boundaries; avoiding extremes, abiding in the middle way,
it is beyond all verbal explanation. Buddha knows the thoughts and
mental patterns of all sentient beings, their faculties, dispositions, in-
clinations, afflictions, obsessions, and habits; in sum, Buddha instantly
knows all things in all times.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát phải biết đức Như Lai thành Ðẳng Chánh Giác như thế nào?
Ðại Bồ Tát phải biết đức Như Lai thành Ðẳng Chánh Giác nơi tất cả nghĩa không chỗ quán sát, nơi pháp bình đẳng không chỗ nghi lầm, không hai, không tướng, không làm, không thôi, không lượng, không mé, rời xa hai bên an trụ nơi trung đạo, vượt khỏi tất cả văn tự ngôn thuyết, biết tất cả chúng sanh tâm niệm nghĩ tưởng, căn tánh, ưa thích, phiền não nhiễm tập. Tóm lại, biết rõ tam thế tất cả pháp.
“It is as the ocean can reflect the physical forms of all sentient beings
on earth, and therefore is called the ocean: the enlightenment of the
buddhas is also like this, reflecting the thoughts, faculties, dispositions,
and inclinations of all sentient beings, yet without reflecting anything —
therefore it is called the enlightenment of the buddhas.
Chư Phật tử! Ví như đại hải có thể ấn hiện tất cả hình tượng sắc thân của các chúng sanh trong bốn châu thiên hạ, thế nên mọi loài đều cùng gọi là đại hải.
Chư Phật Bồ Ðề cũng như vậy, hiện khắp tất cả chúng sanh căn tánh ưa thích, mà không sở hiện, thế nên gọi là chư Phật Bồ Ðề.
“The enlightenment of buddhas cannot be expressed in writing, can-
not be reached by any verbal expression, cannot be explained in any
language; but it is expediently elucidated according to need.
“When buddhas attain true awakening, they acquire a body equal in
extent to all sentient beings, a body equal in extent to all phenomena, a
body equal in extent to all lands, a body equal in extent to all times, a
body equal in extent to all buddhas, a body equal in extent to all
languages, a body equal in extent to True Thusness, a body equal in
extent to the cosmos, a body equal in extent to space, a body equal in
extent to the realm where there is no obstruction, a body equal in extent
to all vows, a body equal in extent to all practices, and a body equal in
extent to the ultimately calm realm of nirvana. As are the bodies they
Page 1010 – The Flower Ornament Scripture
acquire, so is their speech and mind; they attain measureless, countless
such pure spheres of body, speech, and mind.
Chư Phật tử! Phật Bồ Ðề; tất cả văn tự chẳng tuyên được, tất cả âm thanh chẳng đến được, tất cả ngôn ngữ chẳng nói được, chỉ tùy chỗ sở nghi mà phương tiện khai thị.
Chư Phật tử! Lúc đức Như Lai thành Ðẳng Chánh Giác được thân lượng bằng tất cả chúng sanh, được thân lượng bằng tất cả pháp, được thân lượng bằng tất cả cõi, được thân lượng bằng tất cả tam thế, được thân lượng bằng tất cả Phật, được thân lượng bằng tất cả ngữ ngôn, được thân lượng bằng chơn như, được thân lượng bằng pháp giới, được thân lượng bằng hư không giới, được thân lượng bằng vô ngại giới, được thân lượng bằng tất cả nguyện, được thân lượng bằng tất cả hạnh, được thân lượng bằng tịch diệt Niết Bàn giới.
Như thân đã được, ngôn ngữ và tâm đã được cũng như vậy. Ðược vô lượng vô số tam luân thanh tịnh như vậy.
“Upon attaining true awakening, buddhas see within their body all
sentient beings attaining true awakening, and see all sentient beings enter
nirvana, all of the same nature, which is no nature. No nature of what
kind? That is, no nature of appearances, no nature of exhaustion, no
nature of birth, no nature of destruction, no nature of self, no nature
of nonself, no nature of living being, no nature of nonliving being, no
nature of enlightenment, no nature of the cosmos, no nature of space,
and also no nature of attaining true awakening. By knowing all things
are naturcless, a buddha attains omniscience, and by great compassion
continues to save sentient beings.
Chư Phật tử! Lúc đức Như Lai thành Chánh Giác, ở trong thân Như Lai, thấy khắp tất cả chúng sanh thành Chánh Giác. Nhẫn đến thấy khắp tất cả chúng sanh nhập Niết Bàn đều đồng một tánh. Một tánh đây chính là không tất cả tánh. Không những tánh gì? Không tánh tướng, không tánh tận, không tánh sanh, không tánh diệt, không tánh ngã, không tánh phi ngã, không tánh chúng sanh, không tánh phi chúng sanh, không tánh Bồ Ðề, không tánh pháp giới, không tánh hư không, cũng lại không tánh thành Chánh Giác. Vì biết tất cả pháp đều không tánh nên được nhứt thiết trí đại bi tương tục cứu độ chúng sanh.
“Just as space never increases or decreases whether all worlds become
or disintegrate, because space has no birth, similarly the enlightenment
of buddhas has no increase or decrease whether there is attainment of
enlightenment or not, because enlightenment has no signs or counter-
signs, no unity and no variety.
“Suppose someone were able magically to produce as many minds
as grains of sand in the Ganges River, and each mind also produced as
many buddhas as grains of sand in the Ganges River, all featureless,
formless, and signless, and continued to do so incessantly throughout
as many eons as there are grains of sand in the Ganges River — how
many buddhas do you think would be magically produced by that
person’s magically produced minds?”
Chư Phật tử! Ví như hư không, tất cả thế giới hoặc thành hoặc hoại, hư không thường chẳng thêm bớt, vì hư không vốn vô sanh.
Chư Phật Bồ Ðề cũng như vậy, hoặc thành Chánh Giác hay chẳng thành Chánh Giác, cũng không tăng giảm. Vì Bồ Ðề vốn không tướng, không phi tướng, không một, không nhiều.
Chư Phật tử! Giả sử có người hay hóa làm hằng hà sa tâm, mỗi mỗi tâm lại hóa làm hằng hà sa Phật, đều không sắc, không hình, không tướng. Hóa như vậy tột hằng hà sa kiếp không thôi nghỉ.
Này chư Phật tử! Các Ngài nghĩ thế nào? Người đó hóa tâm, hóa Phật, có tất cả là bao nhiêu?
The enlightening being Wondrous Qualities of Natural Origination
of Buddha said, “As I understand your meaning, magical production
and nonproduction are equal and have no distinction — how can you
ask how many there would be?”
The enlightening being Universally Good said, “Very good — it is as
you say. Even if all sentient beings were to instantly attain enlighten-
ment, that would be equal to not attaining enlightenment, no different.
Why? Because enlightenment is signless. If it has no signs, it has no
increase or decrease.
Như Lai Tánh Khởi Diệu Ðức Bồ Tát nói: Như theo tôi hiểu nghĩa của Ngài nói thời hóa cùng chẳng hóa đồng nhau không khác. Sao lại hỏi là có bao nhiêu?
Phổ Hiền Bồ Tát nói: Lành thay! Lành thay! Ðúng như lời Ngài nói.
Giả sử tất cả chúng sanh ở trong một niệm đều thành Chánh giác cùng chẳng thành Chánh giác đồng nhau không khác. Vì Bồ Ðề không có tướng. Nếu không tướng thời không tăng không giảm.
“Great enlightening beings should thus know that attainment of true
awakening, the same as enlightenment, is uniformly formless. A buddha,
attaining true awakening, by the means of unity, enters the concentra-
tion of thoroughly aware knowledge and, having entered it, manifests,
in one vast body attaining true awakening, as many bodies as there are
sentient beings dwelling in that body. As this is so of one vast body
attaining true awakening, so it is of all vast bodies attaining true
awakening.
“Buddha has infinite such doors of attainment of true awakening;
therefore you should know that the bodies Buddha manifests are infinite,
and because they are infinite we say the body of Buddha is infinite
realms, equal to the realms of living beings.
Page 1011 – Manifestation of Buddha
“Great enlightening beings should know that in one pore of Buddha’s
body are buddha-bodies as numerous as all sentient beings. Why?
Because the body of the Buddha’s attainment of true awakening ulti-
mately has no birth or destruction. And as this is so of one pore, so is it
of every point in the entire cosmos. Know that there is not a bit of space
where there is no buddha-body. Why? Because Buddha’s attainment of
true awakening reaches everywhere. According to capability and power,
on the lion seat under the enlightenment tree at the site of enlighten-
ment, with various bodies, Buddha attains true awakening.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát phải biết như vầy : Thành Ðẳng Chánh Giác đồng với Bồ Ðề một tướng không tướng. Lúc đức Như Lai thành Ðẳng Chánh Giác dùng phương tiện nhứt tướng nhập tam muội thiện giác trí. Nhập rồi ở một thân quảng đại thành Chánh Giác hiện thân bằng số tất cả chúng sanh trụ ở trong thân. Như một thân quảng đại thành Chánh Giác tất cả thân quảng đại thành Chánh Giác đều như vậy cả.
Chư Phật tử! Ðức Như Lai có vô lượng môn thành Chánh Giác như vậy, vì thế phải biết đức Như Lai hiện thân vô lượng. Vì vô lượng nên nói thân Như Lai là vô lượng giới đồng với chúng sanh giới.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát phải biết thân Như Lai trong một lỗ lông có thân chư Phật bằng số tất cả chúng sanh. Vì đức Như Lai thành Ðẳng Chánh Giác rốt ráo không sanh diệt. Như một lỗ lông khắp pháp giới, tất cả lỗ lông cũng đều như vậy. Phải biết chẳng có một chút chỗ nào là không có thân Phật. Vì đức Như Lai thành Ðẳng Chánh Giác không chỗ nào chẳng đến. Tùy sở năng, tùy thế lực, ở dưới cây Bồ Ðề đạo tràng trên tòa sư tử, hiện nhiều thân thành Ðẳng Chánh Giác.
“Great enlightening beings should know that in each moment of
thought of their own minds there are always buddhas attaining true
awakening. Why? Because the buddhas do not attain true awakening
apart from this mind. As this is true of one’s own mind, so is it also true
of the minds of all sentient beings — in all are buddhas attaining true
awakening, all-pervasive, existing everywhere, without separation or
annihilation, without cease, entering the inconceivable doors or means
of enlightenment. Great enlightening beings should know Buddha’s
attainment of enlightenment this way.”
Then, to recapitulate, the enlightening being Universally Good spoke
these verses:
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát phải biết tâm mình, niệm niệm thường có Phật thành Chánh Giác. Vì chư Phật Thế Tôn chẳng rời tâm này mà thành Chánh Giác. Như tâm mình, tâm của tất cả chúng sanh cũng đều như vậy, đều thường có Như Lai thành Ðẳng Chánh Giác, rộng lớn cùng khắp không chỗ nào chẳng có, chẳng rời, chẳng dứt, không thôi nghỉ, nhập pháp môn phương tiện bất tư nghì.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát phải biết đức Như Lai thành Ðẳng Chánh Giác như vậy.
Phổ Hiền đại Bồ Tát muốn rõ lại nghĩa này mà nói kệ rằng:
The truly awake know all things
Are nondual, beyond duality, all equal.
Inherently pure as space,
Not distinguishing self and nonself.
As the ocean reflects beings’ bodies
And is therefore called the ocean,
Enlightenment reflects all mental patterns
And hence is called true awareness.
Just as worlds have formation and decay
While space does not increase or diminish.
While all buddhas appear in the world,
The one form of enlightenment is ever formless.
When someone emanates minds emanating buddhas,
Emanation and nonemanation are no different in essence;
Though all sentient beings attain enlightenment,
There is no increase or decrease, enlightenment or no.
Buddha has a concentration called well aware;
Entering this concentration under the enlightenment tree,
Buddha emits light beams as many as beings,
Awakening all kinds, like lotuses blooming.
Page 1012 – The Flower Ornament Scripture
As many thoughts, faculties, and desires
As are in beings in lands of all times,
That many bodies appear —
Hence true awareness is called infinite.
Chánh Giác biết rõ tất cả pháp
Không hai lìa hai đều bình đẳng
Tự tánh thanh tịnh như hư không
Ngã cùng phi ngã chẳng phân biệt
Như biển ấn hiện thân chúng sanh
Do đây gọi biển là đại hải
Bồ Ðề ấn khắp các tâm hành
Vì thế nên gọi là Chánh Giác
Ví như thế giới có thành hoại
Mà ở hư không chẳng thêm bớt
Tất cả chư Phật hiện thế gian
Bồ Ðề một tướng thường không tướng
Như người hóa tâm hóa làm Phật
Hóa cùng chẳng hóa tánh không khác
Tất cả chúng sanh thành Bồ Ðề
Thành cùng chẳng thành không tăng giảm
Phật có tam muội tên Thiện Giác
Dưới cây Bồ Ðề nhập định này
Phóng vô lượng quang bằng chúng sanh
Khai ngộ quần sanh như sen nở
Như tam thế kiếp sát, chúng sanh
Có những tâm niệm và căn, dục
Thân bằng số ấy đều hiện ra
Nên Chánh Giác gọi là vô lượng
“How should great enlightening beings know Buddha’s turning of
the wheel of teaching? They should know it thus: Buddha, by the free
power of mind, turns the wheel of teaching without arising or turning,
because of knowing that all things forever have no arising. Buddha turns
the wheel of teaching by three kinds of turning, the cycles of the path of
insight, the path of practice, and the path beyond learning, and stops
what should be stopped, because of knowing that all things are apart
from extremes of annihilation and eternity. Buddha turns the wheel of
teaching apart from the realm of desire and the realm of negation,
because of penetrating the spacelike limit of all things. Buddha turns the
wheel of teaching without verbal explanation, because of knowing that
all things are inexpressible. Buddha turns the wheel of teaching ulti-
mately quiescently, because of knowing that all things are of the essence
of nirvana. Buddha turns the wheel of teaching with all means of litera-
ture and language, because the voice of Buddha reaches everywhere.
Buddha turns the wheel of teaching knowing that the voice is like an
echo, because of comprehending the true nature of all things. Buddha
turns the wheel of teaching producing all messages in one message,
because there is ultimately no center. Buddha turns the wheel of teaching
without omission or exhaustion, because of absence of clinging inside
or outside.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát phải biết đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác chuyển pháp luân như thế nào?
Ðại Bồ Tát phải biết như vầy: Ðức Như Lai dùng sức tâm tự tại không khởi không chuyển mà chuyển pháp luân, vì biết tất cả pháp thường không khởi. Dùng ba thứ chuyển dứt chỗ đáng dứt mà chuyển pháp luân, vì biết tất cả pháp lìa biên kiến. Lìa dục tế phi tế mà chuyển pháp luân. Vì nhập tất cả pháp hư không tế. Không có ngôn thuyết mà chuyển pháp luân, vì biết tất cả pháp chẳng thể nói. Rốt ráo tịch diệt mà chuyển pháp luân, vì biết tất cả pháp là tánh Niết Bàn. Dùng tất cả văn tự, tất cả ngữ ngôn mà chuyển pháp luân, vì âm thanh của Như Lai không chỗ nào chẳng đến. Biết tiếng như vang mà chuyển pháp luân, vì rõ tánh chơn thiệt của các pháp. Trong một âm thanh phát ra tất cả âm thanh mà chuyển pháp luân, vì rốt ráo không chủ. Không sót không hết mà chuyển pháp luân, vì trong ngoài không nhiễm trước.
“Just as all writing and speech cannot be exhaustively told of, the
same is true of Buddha’s turning the wheel of teaching — all letters are
arranged to express it, without cease, without ever exhausting it. The
wheel of teaching of Buddha enters into all speech and writing, yet has
no dwelling place. Just as writing enters into all business, all words, all
calculations, all mundane and transmundane subjects, yet dwells no-
where, so also does the voice of Buddha enter into all points, all beings,
all phenomena and principles, all works, and all consequences, yet does
not dwell anywhere. All the various languages of all sentient beings are
not apart from the wheel of teaching of Buddha, because the real aspect
of speech and sound is identical to the wheel of teaching. Great enlight-
ening beings should know the turning of the wheel of teaching of
Buddha thus.
Chư Phật tử! Ví như tất cả văn tự ngữ ngôn tột kiếp vị lai nói chẳng hết được. Phật chuyển pháp luân cũng như vậy, tất cả văn tự an lập hiển thị không thôi nghỉ không cùng tận.
Chư Phật tử! Như Lai pháp luân đều nhập tất cả ngữ ngôn văn tự mà không chỗ trụ. Ví như viết chữ vào khắp tất cả sự, tất cả lời, tất cả toán số, tất cả chỗ thế gian và xuất thế gian mà không chỗ trụ.
Âm thanh của đức Như Lai cũng như vậy, vào khắp tất cả xứ tất cả chúng sanh, tất cả pháp, tất cả nghiệp, tất cả báo, mà không chỗ trụ.
Các thứ ngữ ngôn của tất cả chúng sanh đều chẳng rời pháp luân của đức Như Lai, vì thiệt tướng của ngôn âm chính là pháp luân vậy.
Ðại Bồ Tát phải biết đức Như Lai chuyển pháp luân như vậy.
“Also, if great enlightening beings want to know the wheel of teach-
ing that Buddha turns, they should know where Buddha’s wheel of
teaching comes from. What is the provenance of the Buddha’s wheel
of teaching? Buddha makes so many utterances, turning the wheel of
teaching according to the innumerable differences in mental patterns
and inclinations of all sentient beings. Buddhas, truly awake, have a con-
centration called ultimately unimpeded and fearless; having entered this
Page 1013 – Manifestation of Buddha
concentration, with each mouth of each body of attainment of true
enlightenment they produce as many utterances as there are sentient
beings, each utterance containing all sounds, each different, turning the
wheel of teaching, to make all sentient beings happy. Those who know
the turning of the wheel of teaching thus are considered to be following
all Buddha teachings. Those who do not know this are not following
them. Great enlightening beings should know Buddha’s turning the
wheel of teaching thus, because it universally enters the infinite realms
of living beings.”
Then, to recapitulate. Universally Good said in verse:
Lại nữa, chư Phật tử! Ðại Bồ Tát muốn biết đức Như Lai chuyển pháp luân, thời phải biết chỗ xuất sanh pháp luân của đức Như Lai.
Chư Phật tử! Ðức Như Lai tùy theo tâm hành dục lạc vô lượng sai khác của tất cả chúng sanh, phát ra ngần ấy âm thanh mà chuyển pháp luân.
Chư Phật tử! Ðức Như Lai có tam muội tên là cứu cánh vô ngại vô úy. Nhập tam muội này rồi, ở mỗi mỗi thân mỗi mỗi miệng thành Ðẳng Chánh Giác, đều phát ra ngôn âm bằng số tất cả chúng sanh. Trong mỗi mỗi ngôn âm đầy đủ các ngôn âm đều riêng khác mà chuyển pháp luân, làm cho tất cả chúng sanh đều hoan hỷ.
Người biết được đức Như Lai chuyển pháp luân như vậy, phải biết người này đã tùy thuận tất cả Phật pháp. Không biết như vậy thời chẳng phải là tùy thuận.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát phải biết đức Phật chuyển pháp luân như vậy, vì vào khắp vô lượng chúng sanh giới.
Phổ Hiền đại Bồ Tát muốn rõ lại nghĩa này mà nói kệ rằng:
Buddhas’ wheel of teaching has no turning;
It has no arising and no attainment at any time.
Just as writing is never exhausted,
So is the teaching-wheel of the Ten-Powered.
Just as writing enters everywhere, yet with no arrival.
Such is the teaching-wheel of the Enlightened,
Entering all speech without entering aught.
Able to make all beings rejoice.
Buddhas have a concentration called ultimate;
They preach after entering this concentration,
Speaking to enlighten all beings.
Boundless though they be.
In each utterance they also utter
Countless sayings, each different,
Free in the world, without discrimination,
Causing all to hear according to inclination.
Words do not come from inside or outside,
Are neither lost nor accumulate;
Yet for sentient beings buddhas turn the teaching-wheel —
This freedom is most extraordinary.
Như Lai pháp luân không sở chuyển
Tam thế vô khởi cũng vô đắc
Như văn tự không thời gian hết
Thập Lực pháp luân cũng như vậy
Như chữ vào khắp mà không đến
Chánh Giác pháp luân cũng như vậy
Vào các ngôn âm không chỗ vào
Hay khiến chúng sanh đều hoan hỷ
Phật có tam muội tên cứu cánh
Nhập định này rồi mới thuyết pháp
Tất cả chúng sanh vô lượng biên
Khắp pháp ngôn âm khiến tỏ ngộ
Trong mỗi ngôn âm lại còn diễn
Vô lượng ngôn âm đều sai khác
Thế gian tự tại vô phân biệt
Tùy họ sở thích khắp khiến nghe
Văn tự chẳng từ trong ngoài ra
Cũng chẳng hư mất, không chứa nhóm,
Mà vì chúng sanh chuyển pháp luân
Tự tại như vậy rất kỳ đặc.
“How should great enlightening beings know Buddha’s ultimate
nirvana? If great enlightening beings want to know the greate nirvana
of buddhas, they should know its fundamental essence. As is the nirvana
of ultimate reality, so is the nirvana of Buddha; as is the nirvana of space,
so is the nirvana of Buddha; as is the nirvana of the nature of things, so is
the nirvana of Buddha; as is the nirvana of detachment from desire, so is
the nirvana of Buddha; as is the nirvana of formlessness, so is the nirvana
of Buddha; as is the nirvana of selfhood, so is the nirvana of Buddha; as
is the nirvana of the ultimate essence of all things, so is the nirvana of
Buddha; as is the nirvana of ultimate True Thusness, so is the nirvana of
Page 1014 – The Flower Ornament Scripture
Buddha. Why? Because nirvana has no birth and no emergence; if some-
thing has no birth and no emergence, then it has no extinction.
“Buddha does not tell enlightening beings about the ultimate nirvana
of buddhas and does not show it to them. Why? Because Buddha wants
to cause them to see all buddhas always present before them, to see in
one moment all the buddhas of past and future, in their full splendor,
just as if they were actually present, yet without entertaining any notions
of duality or nonduality. Why? Because great enlightening beings per-
manently abandon all conceptual clinging.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát phải biết đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác nhập Niết Bàn như thế nào?
Ðại Bồ Tát muốn biết đại Niết Bàn của đức Như Lai, cần phải biết rõ căn bổn tự tánh. Như chơn như Niết bàn, Như Lai Niết Bàn cũng như vậy. Như thiệt tế Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng như vậy. Như pháp giới Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng như vậy. Như hư không Niết Bàn, Như Lai Niết bàn cũng như vậy. Như pháp tánh Niết Bàn. Như Lai Niết Bàn cũng như vậy. Như ly dục tế Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng như vậy. Như vô tướng tế Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng như vậy. Như ngã tánh tế Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng như vậy. Như Nhứt thiết pháp tánh tế Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng như vậy. Như chơn như tế Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng như vậy. Vì Niết Bàn vô sanh vô xuất. Nếu pháp vô sanh vô xuất thời vô diệt.
“Buddhas appear in the world in order to provoke inspiration in sen-
tient beings and manifest nirvana in order to provoke longing in sentient
beings: in reality the buddhas have no appearance in the world and no
nirvana either. Why? Buddha always abides in the pure realm of reality,
manifesting nirvana according to the minds of sentient beings.
“For example, when the sun comes out and illumines the world, its
image is reflected in all clean vessels of water, being in all places without
coming or going. If one vessel breaks, then the reflection of the sun does
not appear in it. Do you think it is the fault of the sun that its reflection
does not appear there?”
“No — it is just because the vessel is broken; it’s no fault of the sun.”
Chư Phật tử! Như Lai chẳng vì Bồ Tát mà nói chư Phật cứu cánh Niết Bàn, cũng chẳng vì Bồ Tát mà thị hiện việc ấy. Vì muốn cho Bồ Tát thấy tất cả Như Lai thường ở trước, ở trong một niệm thấy quá khứ, vị lai sắc tướng viên mãn đều như hiện tại, cũng chẳng móng tưởng là hai chẳng hai. Vì đại Bồ Tát đã lìa hẳn tưởng chấp.
Chư Phật Như Lai vì muốn làm cho chúng sanh có lòng mến thích nên xuất hiện ra đời. Vì muốn chúng sanh luyến mộ mà thị hiện Niết Bàn. Nhưng thiệt ra đức Như Lai không có xuất thế cũng không Niết Bàn. Vì đức Như Lai thường trụ thanh tịnh pháp giới, tùy theo tâm của chúng sanh mà thị hiện.
Chư Phật tử! Ví như mặt nhựt mọc chiếu khắp tất cả thế gian, trong tất cả đồ đựng nước trong sạch đều có bóng mặt nhựt hiện, cùng khắp các xứ mà không có đến đi. Nếu có một đồ đựng bị bể thời chẳng hiện bóng mặt nhựt. Ðây không phải lỗi ở mặt nhựt mà do đồ đựng nước bị bể.
“The knowledge of realization of Thusness, buddha-knowledge, is
also like this, appearing throughout the cosmos, without before or after:
Buddha appears in the clean mind-vessels of all sentient beings. If the
mind-vessel is always clean, the embodiment of Buddha is always seen;
if the mind is polluted, the vessel breaks and the Buddha cannot be seen.
“If there are any sentient beings who can be liberated by nirvana,
Buddha then manifests nirvana for them; but really Buddha has no birth,
no death, no crossing over into extinction.
“It is like, for example, the element fire, which can make fires in all
worlds. Sometimes in one place the fire will go out, but do you think
the fire in all worlds is extinguished?”
“No.”
Như Lai trí cũng như vậy, hiện khắp pháp giới không trước không sau. Trong tâm thanh tịnh của tất cả chúng sanh đức Như Lai đều hiện. Tâm thường thanh tịnh thời thường thấy thân Phật. Nếu tâm ô trược, hư bể thời không thấy Như Lai.
Chư Phật tử! Nếu có chúng sanh nên do Niết Bàn mà được độ thời đức Như Lai vì họ mà thị hiện Niết Bàn. Nhưng thiệt ra đức Như Lai không sanh, không mất, không có diệt độ.
Ví như hỏa đại nơi tất cả thế gian hay làm thành lửa. Hoặc có lúc ở một xứ lửa tắt. Nhưng chẳng phải lửa ở tất cả thế gian đều tắt.
“Similarly Buddha performs the tasks of buddhahood in all worlds;
if what can be done in one world is finished, a buddha manifests entry
into nirvana, but the buddhas in all worlds do not all pass away into
extinction. Great enlightening beings should know the great nirvana of
the truly enlightened thus.
“Again, suppose, for example, a magician well versed in magical arts,
by the power of the techniques of illusion, manifests phantom bodies in
all cities, towns, and villages in all lands in a billion-world universe, and
sustains them there by magical power for an eon, while in Other places,
the magic performance being finished, the bodies disappear. Do you
think that when that great magician disappears in one place, he dis-
appears in all places?”
“No.”
Page 1015 – Manifestation of Buddha
“In a similar way Buddha, the Truly Enlightened, knowing the
various magical arts of infinite wisdom and means, manifests in all uni-
verses, sustaining that permanently, throughout the future. If in one
place, according to the minds of beings, what is to be done is finished,
Buddha manifests nirvana; but can you say because Buddha has appeared
to enter nirvana in one place that Buddha becomes extinct everywhere?
Great enlightening beings should know the great ultimate nirvana of
Buddha in this way.
Ðức Như Lai Ðẳng Chánh Giác cũng như vậy, ra làm Phật sự ở tất cả thế giới. Hoặc ở một thế giới việc làm đã xong hiện nhập Niết bàn, há lại tất cả thế giới chư Phật Như Lai đều diệt độ!
Ðại Bồ Tát phải biết đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác đại Niết Bàn như vậy.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như thuật sĩ giỏi biết huyễn thuật, dùng sức huyễn thuật ở trong tất cả cõi nước, thành ấp, tụ lạc nơi Ðại Thiên thế giới mà thị hiện huyễn thân, dùng sức huyễn giữ còn đến cả kiếp. Hoặc ở một xứ huyễn sự đã xong bèn ẩn thân chẳng hiện. Nhưng chẳng phải tất cả xứ đều ẩn thân.
Ðức Như Lai Ðẳng Chánh Giác cũng như vậy, giỏi biết vô lượng trí huệ phương tiện các thứ huyễn thuật, hiện thân khắp tất cả pháp giới, giữ gìn còn mãi tột thưở vị lai. Hoặc ở một xứ, tùy tâm của chúng sanh việc làm đã xong bèn thị hiện nhập Niết bàn. Há lại vì ở một xứ đức Phật nhập Niết bàn bèn cho rằng tất cả Phật đều diệt độ!
Ðại Bồ Tát phải biết đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác đại Niết Bàn như vậy.
“Furthermore, Buddha, when manifesting nirvana, enters immov-
able concentration, and having entered this concentration, emanates
from each body infinite trillions of great light beams, each light beam
producing countless lotus blossoms, each lotus blossom having untold
petals of exquisite jewels, with a lion throne on each petal and a buddha
sitting cross-legged on each throne. The number of those buddhas is
exactly equal to the number of sentient beings; all are fully adorned
with the most sublime virtues, produced by the power of past vows. If
there are any sentient beings with mature roots of goodness who see the
buddha-incarnations, they will all receive the teaching; those buddha-
bodies remain forever, teaching and liberating sentient beings according
to the situation, without losing an opportunity. The bodies of buddhas
have no locus, are not real or unreal; only by the power of the past vows
of the buddhas, and the capacity of sentient beings to be liberated, do
they appear. Great enlightening beings should know the great nirvana
of Buddha in this way. Buddha abides in the infinite, unobstructed, ulti-
mate realm of reality, in the realm of space, in the essence of True Thus-
ness, without birth or death, and in ultimate truth, appearing to sentient
beings according to the time, sustained by past vows, without ever
ceasing, not abandoning all beings, all lands, all phenomena.”
Then, to recapitulate, Universally Good said in verse:
Lại nữa, chư Phật tử! Lúc đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác thị hiện Niết bàn, bèn nhập bất động tam muội. Nhập tam muội này rồi, ở mỗi mỗi thân Phật đều phóng vô lượng trăm ngàn ức na do tha đại quang minh. Mỗi mỗi quang minh đều hiện vô số hoa sen. Mỗi mỗi hoa sen đều có bất khả thuyết nhị hoa diệu bửu. Mỗi mỗi nhị hoa đều có tòa sư tử. Trên mỗi mỗi toà đều có đức Như Lai ngồi kiết già. Số thân Phật bằng với số tất cả chúng sanh, đều đủ mọi sự công đức trang nghiêm thượng diệu, từ bổn nguyện lực mà sanh khởi.
Nếu có chúng sanh thiện căn thành thục, thấy thân Phật rồi đều thọ hóa. Nhưng thân Phật kia tột vị lai tế rốt ráo an trụ tùy nghi hóa độ tất cả chúng sanh chưa từng lỗi thời.
Chư Phật tử! Thân của đức Như Lai không có phương xứ, chẳng thiệt chẳng hư, chỉ do bổn thệ nguyện lực của chư Phật, hễ chúng sanh đáng được độ thời bèn xuất hiện.
Ðại Bồ Tát phải biết đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác đại Niết bàn như vậy.
Chư Phật tử! Ðức Như Lai trụ nơi vô lượng vô ngại cứu cánh pháp giới, hư không giới, chơn như, pháp tánh, vô sanh, vô diệt và thiệt tế, vì các chúng sanh mà tùy thời thị hiện. Do bổn nguyện giữ gìn nên không thôi nghỉ. Chẳng bỏ tất cả chúng sanh, tất cả cõi, tất cả pháp.
Phổ Hiền Ðại Bồ Tát muốn rõ lại nghĩa này mà nói kệ rằng:
While the sun sheds light illumining the world,
When a vessel breaks and water leaks out, the reflection disappears;
So it is with the sun of supreme knowledge;
Those without faith see it as extinct.
Fire makes fires in the world,
While in one city it goes out sometime:
Likewise the Buddha pervades the cosmos
And appears to pass away where the work of teaching is done.
A magician makes bodies appear in all lands.
Which disappear when their function is done;
So does Buddha disappear when the teaching is done.
While always seen in Other lands.
Page 1016 – The Flower Ornament Scripture
Buddha has a concentration, called unmoving,
Which is entered after teaching beings:
Instantly Buddha’s body emanates infinite lights.
The lights produce lotuses, on which are buddhas:
The buddha-bodies are countless as phenomena.
Visible to those with virtue;
Each of these countless bodies
Has a full span of life and array of adornments.
Like birthlessness is the emergence of Buddha,
Like deathlessness the nirvana of Buddha:
All words and similes end —
All purposes are achieved, beyond compare.
Mặt nhựt phóng sáng chiếu thế gian
Ðồ hư nước lọt bóng liền mất,
Tối Thắng Thế Tôn cũng như vậy
Chúng sanh không tin thấy nhập diệt
Như hỏa đại thành lửa thế gian
Hoặc một thành ấp có lúc tắt,
Tối Thắng Thế Tôn khắp pháp giới
Xứ giáo hóa xong hiện nhập diệt
Thuật sĩ hiện thân tất cả cõi
Chỗ việc đã xong thời ẩn thân,
Như Lai hóa xong cũng như vậy
Ở cõi nước khác thường thấy Phật
Phật có tam muội tên bất động
Hóa chúng sanh rồi nhập định này
Một niệm thân phóng vô lượng quang
Quang hiện liên hoa, hoa có Phật
Phật thân vô số khắp pháp giới
Chúng sanh có phước thời được thấy
Như vậy vô số mỗi mỗi thân
Thọ mạng trang nghiêm đều đầy đủ
Như tánh vô sanh, Phật xuất thế
Như tánh vô diệt, Phật Niết bàn
Ngôn từ ví dụ thảy đều dứt
Tất cả nghĩa thành không cùng sánh.
“How should great enlightening beings know the roots of goodness
planted by seeing, hearing, and attending Buddha? They should know
these roots of goodness are not fruitless, because they produce endless
awareness, because they remove all obstacles, because they certainly
reach the ultimate end, because they are free from falsehood, because
all vows are fulfilled, because they do not end creative action while
according with knowledge of the uncreate, because they generate the
knowledge of buddhas, because they go on throughout the future,
because they accomplish all kinds of excellent practices, and because
they reach the stage of effortless knowledge.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát phải biết ở chỗ đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác, thấy nghe thân cận gieo trồng thiện căn như thế nào?
Ðại Bồ Tát phải biết ở chỗ đức Như Lai, thấy nghe gần gũi gieo trồng thiện căn thảy đều chẳng luống, vì xuất sanh vô tận giác huệ, vì rời tất cả chướng nạn, vì quyết định đến nơi cứu cánh, vì không hư dối, vì tất cả nguyện viên mãn, vì chẳng hết hạnh hữu vi, vì tùy thuận trí vô vi, vì sanh Phật trí, vì tột vị lai tế, vì thành thắng hạnh nhứt thiết chủng, vì đến vô công dụng trí địa.
“For example, if a man eats a little bit of diamond, it will never be
digested, but must pass through the body. Why? Because diamond is
incompatible with the impurities of the physical body. In the same way,
planting a little bit of roots of goodness with Buddha must pass through
the body of afflictions of all conditioning and reach the abode of un-
conditioned ultimate knowledge. Why? Because this little bit of roof
of goodness is incompatible with the afflictions of conditioning.
“Even if one piled up dry straw as high as a mountain, if one tossed
an ember of fire the size of a seed into it, it would all burn up for sure.
Why? Because fire burns straw. Like this, planting a little bit of roots of
goodness with Buddha surely can burn up all afflictions and ultimately
enable one to attain nirvana without remainder, because the essence of
this little bit of roof of goodness is ultimate.
“For example, in the Snowy mountains there is a tree of the finest
medicine called good sight: if any see it, their eyes are purified; if any
hear of it, their ears are purified; if any smell it, their noses are purified; if
any taste it, their tongues are purified; if any touch it, their bodies are
purified; if any take the earth it grows in, that can also perform the bene-
ficial function of removing disease. The supreme medicine of Buddha
similarly can perform all benefits for sentient beings. If any see the
physical body of Buddha, their eyes are purified; if any hear the name
of Buddha, their ears are purified; if any smell the fragrance of the
Page 1017 – Manifestation of Buddha
morality of Buddha, their noses are purified; if any taste the flavor of
the teaching of Buddha, their tongues are purified, they gain the uni-
versal tongue and understand the principles of language; it any come in
contact with the light of Buddha, their bodies are purified and they ulti-
mately attain the supreme body of reality; it any think of Buddha, they
attain purity of Buddha-remembrance concentration. If any sentient
beings honor the ground Buddha has crossed, or a tomb or shrine, they
too will be endowed with roots of goodness, annihilate all afflictions,
and attain the felicity of sages. I tell you, even it there are sentient beings
who see and hear Buddha, but because of being veiled by obstructions
due to their deeds do not become believers, if they still plant roots of
goodness, none will be in vain — they will reach the ultimate end and
enter nirvana. Great enlightening beings should thus know that the roots
of goodness planted by seeing, hearing, and attending Buddha are free
from all evil and imbued with good.
“Buddha uses all kinds of similes to explain all kinds of things, but
there is no simile that can explain this principle. Why? Because the road
of intellectual knowledge ends, because it is inconceivable. The buddhas
and enlightening beings just tell sentient beings similes according to their
mentalities in order to gladden them, but this is not the ultimate. This
gate of the teaching is called the secret point of the buddhas; it is called
that which cannot be known by any worldlings; it is called entry into
the seal of Buddha; it is called opening the door of great knowledge; it is
called revealing the essence of Buddha; it is called perfecting all enlight-
ening beings; it is called that which all worldlings cannot destroy; it is
called wholly conforming to the realm of buddhas; it is called able to
purify all realms of sentient beings; it is called expounding the ultimate
inconceivable teaching of the real nature of Buddha. Buddha does not
expound this teaching to anyone but enlightening beings intent on the
Great Vehicle, only expounding it to enlightening beings riding the
inconceivable vehicle of enlightenment. This gate of teaching does not
come into the hands of anyone but great enlightening beings.
Chư Phật tử! Ví như trượng phu ăn chút ít chất kim cang trọn không tiêu tất phải xuyên lủng thân lọt ra ngoài. Vì chất kim cang chẳng cùng ở chung với nhục thân tạp uế.
Nơi đức Như Lai, gieo một ít căn lành cũng như vậy, tất phải xuyên thấu tất cả phiền não hữu vi hạnh đến nơi trí vô vi cứu cánh. Vì chút thiện căn này chẳng cùng ở chung với những hữu vi hạnh phiền não.
Chư Phật tử! Giả sử cỏ khô chất đống lớn bằng núi Tu Di, ném vào cỏ một đóm lửa nhỏ tất sẽ cháy hết cả. Vì lửa hay cháy vậy.
Nơi đức Như Lai, gieo một ít thiện căn cũng như vậy, tất hay cháy hết tất cả phiền não rốt ráo đến Vô dư Niết bàn. Vì chút thiện căn tánh rốt ráo vậy.
Chư Phật tử! Ví như núi Tuyết có cây Dược vương tên là Thiện Kiếp. Nếu ai được thấy thời cặp mắt được thanh tịnh. Nếu ai được nghe thời tai được thanh tịnh. Nếu ai được ngửi thời mũi được thanh tịnh. Nếu ai được nếm thời lưỡi được thanh tịnh. Nếu ai được chạm đến thời thân thanh tịnh. Nếu có ai lấy đất nơi gốc cây ấy, cũng có thể dùng để trị bịnh được.
Ðức Như Lai Ðẳng Chánh Giác cũng như vậy, có thể làm tất cả sự lợi ích cho chúng sanh. Nếu có ai thấy sắc thân Như Lai thời mắt được thanh tịnh. Nếu ai được nghe danh hiệu Phật thời tai được thanh tịnh. Nếu ai ngửi được giới hương Như Lai thời mũi được thanh tịnh. Nếu ai nếm được pháp vị của Như Lai thời lưỡi được thanh tịnh, đủ tướng rộng dài, hiểu pháp ngữ ngôn. Nếu ai được chạm đến quang minh của Như Lai thời thân được thanh tịnh rốt ráo được pháp thân vô thượng. Nếu ai nhớ niệm đức Như Lai thời được niệm Phật tam muội thanh tịnh. Nếu ai cúng dường chỗ đất của đức Như Lai đi qua, và tháp miếu thờ Phật cũng được đủ thiện căn trừ diệt tất cả họa phiền não, được vui của Hiền Thánh.
Chư Phật tử! Nay tôi nói với các Ngài: Mặc dầu có chúng sanh vì nghiệp chướng che đậy nên thấy nghe nơi Phật mà chẳng có lòng mến tin, vẫn cũng gieo được căn lành không luống uổng, nhẫn đến rốt ráo nhập Niết bàn.
Ðại Bồ Tát phải biết ở nơi đức Như Lai, thấy nghe gần gũi gieo trồng căn lành như vậy, đều lìa tất cả pháp bất thiện, đầy đủ thiện pháp.
Chư Phật tử! Ðức Như Lai dùng tất cả ví dụ nói nhiều sự, không có ví dụ nào nói được pháp này. Vì bất tư nghì, đường tâm trí tuyệt vậy. Chư Phật, chư Bồ Tát chỉ tùy tâm của chúng sanh khiến họ hoan hỷ mà nói ví dụ, chớ chẳng phải là rốt ráo.
Pháp môn này gọi là chỗ bí mật của đức Như Lai, gọi là chỗ mà tất cả thế gian chẳng biết được, gọi là nhập Như Lai ấn, gọi là khai cửa đại trí, gọi là thị hiện chủng tánh Như Lai, gọi là thành tựu tất cả Bồ Tát, gọi là tất cả thế gian không làm hư hoại được, gọi là một bề tùy thuận cảnh giới Như Lai, gọi là hay thanh tịnh tất cả chúng sanh giới, gọi là diễn thuyết Như Lai căn bổn thiệt tánh pháp bất tư nghì rốt ráo.
Chư Phật tử! Pháp môn này đức Như Lai chẳng nói với những chúng sanh khác. Chỉ nói với chư Bồ Tát xu hướng Ðại thừa, chỉ nói với chư Bồ Tát ngồi nơi bất tư nghì thừa. Pháp môn này chẳng vào tay của tất cả chúng sanh khác, chỉ trừ chư Ðại Bồ Tát.
“It is like, for example, the seven treasures of a universal ruler, by
which universal rulership is shown; these treasures do not come into the
hands of anyone but the crown prince born of the first wife who has
developed the characteristics of a sage ruler. If the universal ruler does
not have a son with many virtues, after the ruler’s life ends the treasures
will disperse and perish in seven days. The treasure of this scripture is
also like this: it does not come into the hands of anyone but the true off-
spring of the sovereign Buddha, born m the house of Buddha, who plant
the roots of goodness characteristic of buddhas. If there are no true off-
spring of Buddha, this teaching will perish before long. Why? Because
those in the two lesser vehicles of individual salvation do not hear this
scripture, much less absorb and hold it, read, recite, or copy it, or analyze
and explain it — only the great enlightening beings can do these things.
Chư Phật tử! Ví như Chuyển Luân Thánh Vương có bảy báu. Nhơn bảy báu này mà hiển bày Luân Vương. Bảy báu này chẳng vào tay chúng sanh khác chỉ trừ Thái tử do Ðệ Nhất phu nhân sanh, đầy đủ trọn vẹn các tướng Thánh Vương. Nếu Chuyển luân Thánh Vương không có Thái tử đầy đủ đức tướng, thời sau khi Thánh Vương thăng hà trong vòng bảy ngày các báu đều tan mất.
Cũng vậy, kinh này chẳng vào tay của các chúng sanh khác, chỉ trừ chơn tử của đức Như Lai Pháp Vương sanh nhà Như Lai, gieo căn lành Như Lai. Nếu không có những chơn tử này, thời pháp môn đây chẳng bao lâu sẽ tan mất. Vì tất cả hàng nhị thừa chẳng được nghe kinh này huống là thọ trì, đọc tụng, biên chép, phân biệt giải thuyết. Chỉ có chư Bồ Tát mới có thể được như vậy.
“Therefore, great enlightening beings, hearing this teaching, shall
Page 1018 – The Flower Ornament Scripture
rejoice and receive it with respect. Why? Because great enlightening
beings appreciating this scripture will quickly attain unexcelled, com-
plete perfect enlightenment. Even if enlightening beings spend countless
eons practicing the six ways of transcendence and cultivating the various
elements of enlightenment, as long as they have not heard this teaching
of the inconceivable great power of Buddha, or if they have heard it and
do not believe or understand it, do not follow it, enter it, or attain it,
they cannot be called true enlightening beings, because they cannot be
born in the house of Buddha. If they get to hear this teaching of the
immeasurable, inconceivable, unobstructed, unhindered knowledge of
Buddha, and having heard it, take it to heart, follow it, and awaken to
it, these people will be born in the house of Buddha, accord with the
sphere of all buddhas, be endowed with all qualities of enlightening
beings, detach from all mundane things, develop the conduct of all
buddhas, realize the true nature of all enlightening beings, have no
doubts about the power of Buddha, abide in the teacherless truth, and
plunge deeply into the unimpeded realm of buddhahood.
Do những cớ trên đây, chư Ðại Bồ Tát nghe pháp môn này nên rất vui mừng, dùng tâm tôn trọng cung kính đảnh lễ. Vì Ðại Bồ Tát tin ưa kinh này thời mau được Vô thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.
Chư Phật tử! Giả sử có Bồ Tát trong vô lượng trăm ngàn ức na do tha kiếp thật hành sáu môn ba la mật, tu tập những pháp Bồ Ðề phần, nếu chưa nghe pháp môn đại oai đức bất tư nghì củ Như Lai đây. Hoặc nghe rồi mà chẳng tin, chẳng hiểu, chẳng thuận, chẳng nhập, thời chẳng được gọi là chơn thiệt Bồ Tát. Vì chẳng được sanh nhà Như Lai. Nếu được nghe pháp môn vô chướng ngại trí huệ vô lượng bất tư nghì của Như Lai đây, nghe rồi tin hiểu tùy thuận ngộ nhập. Nên biết người này sanh nhà Như Lai, tùy thuận cảnh giới của tất cả Như Lai, đầy đủ pháp Bồ Tát, an trụ cảnh giới nhứt thiết chủng trí, xa lìa tất cả những pháp thế gian, xuất sanh tất cả công hạnh của Như Lai, thông đạt tất cả pháp tánh của Bồ Tát, nơi đức tự tại của Phật không lòng nghi lầm, trụ nơi pháp vô sư, thâm nhập cảnh giới vô ngại của Như Lai.
“After great enlightening beings have heard this teaching, then they
can know infinite things by knowledge of equality; then they can part
with arbitrary discriminations by means of a straightforward, honest
mind; then they can see the buddhas before them by means of supreme
devofion; then they can enter the impartial realm of space by means of
the power of attention; then they can travel the boundless cosmos by
means of free thought; then they can acquire all virtues by means of the
power of knowledge and wisdom; then they can shed all worldly defile-
ments by means of spontaneous knowledge; then they can enter the net-
work of all ten directions by means of the will for enlightenment; then
they can know the buddhas of all times are of one and the same essence,
by means of great observation; then they can enter this teaching by the
knowledge of dedication of roots of goodness, entering without enter-
ing, not clinging to a single thing, always observing things through one
universal principle. Great enlightening beings, perfecting these accom-
plishments, attain teacherless, spontaneous knowledge with a minimum
of effort.”
Then Universally Good, to recapitulate, spoke these verses:
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát nghe pháp này rồi, thời có thể dùng bình đẳng trí biết vô lượng pháp, thời hay dùng tâm chánh trực lìa các phân biệt. Thời có thể dùng thắng dục lạc hiện tiền được thấy chư Phật. Thời có thể dùng sức tác ý nhập hư không giới bình đẳng. Thời có thể dùng niệm tự tại đi vô biên pháp giới. Thời có thể dùng sức trí huệ đủ tất cả công đức. Thời có thể dùng trí tự nhiên lìa tất cả cấu nhiễm thế gian. Thời có thể dùng tâm Bồ Ðề vào tất cả thế giới mười phương. Thời có thể dùng sức quán sát lớn biết tam thế chư Phật đồng một thể tánh. Thời có thể dùng trí thiện căn hồi hướng vào khắp pháp như vầy: chẳng vào mà vào, chẳng phan duyên nơi một pháp, hằng dùng một pháp quán sát tất cả pháp.
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát thành tựu công đức như vậy, dùng chút ít công lực liền được vô sư tự nhiên trí.
Phổ Hiền đại Bồ Tát muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng:
Immeasurable are the virtues attained
By seeing, hearing, and honoring buddhas;
Ultimately endless in action,
Needed to destroy afflictions and remove misery.
As when a man ingests a little diamond
It is not digested but must pass through,
The virtues of honoring buddhas
Destroy illusion and lead to adamantine knowledge.
Page 1019 – Manifestation of Buddha
Just as straw piled high as a mountain
A tiny ember of fire will burn up,
The small virtue of honoring buddhas
Will end affliction and lead to nirvana.
In the Snowy mountains is an herb called good to see
Which relieves all sickness when seen, heard of, smelled, or touched;
If any see or hear of buddhas,
They will gain excellent virtues and reach buddha-knowledge.
Thấy nghe cúng dường chư Như Lai
Thời được công đức vô biên lượng
Ở trong hữu vi trọn không hết
Tất diệt phiền não lìa những khổ
Như người nuốt chút ít kim cang
Tất không tiêu được phải ra ngoài
Công đức cúng dường đấng Thập Lực
Diệt phiền não đến kim cang trí
Như cỏ khô bằng núi Tu Di
Ném đóm lửa nhỏ đều cháy hết
Chút ít công đức cúng dường Phật
Tất đoạn phiền não đến Niết bàn
Núi Tuyết có thuốc tên Thiện Kiến
Thấy nghe ngửi chạm tiêu các bịnh
Nếu ai thấy nghe đấng Thập Lực
Ðược thắng công đức đến Phật trí
Then, by the spiritual power of Buddha, and by natural law, untold
hundreds of quintillions of worlds in each of the ten directions quaked in
six ways: surging up in the east, sinking in the west; surging up in the
west, sinking in the east; surging up in the south, sinking in the north;
surging up in the north, sinking in the south; surging up on the peri-
phery, sinking in the middle; surging up in the middle, sinking on the
periphery — moving in eighteen ways: trembling, trembling all over,
trembling equally all over; rising, rising all over, rising equally all over;
surging, surging all over, surging equally all over; quaking, quaking all
over, quaking equally all over; roaring, roaring all over, roaring equally
all over; crashing, crashing all over, crashing equally all over. There
rained clouds of all kinds of flowers, parasols, banners, pennants, fra-
grances, garlands, perfumes, ornaments, and radiant jewels, all surpassing
those of the heavens, as well as clouds of enlightening beings singing
eulogies, clouds of different bodies of untold enlightening beings, clouds
of true awakening, clouds of purifying inconceivable worlds, clouds
raining the sounds of the words of the buddhas, filling boundless uni-
verses. As on this earth the power of Buddha manifested in this way,
causing all enlightening beings to rejoice greatly, so did this transpire in
all worlds throughout the ten directions.
Bấy giờ do thần lực của Phật, do pháp như vậy, mười phương đều có mười bất khả thuyết trăm ngàn ức na do tha thế giới sáu cách chấn động : những là Ðông vọt Tây lặn, Tây vọt Ðông lặn, Nam vọt Bắc lặn, Bắc vọt Nam lặn, mé vọt giữa lặn, giữa vọt mé lặn, Mười tám tướng động : những là động, biến động, đẳng biến động, dũng biến dũng, đẳng biến dũng, khởi biến khởi, đẳng biến khởi, chấn biến chấn, đẳng biến chấn, hống biến hống, đẳng biến hống, kích biến kích, đẳng biến kích. Mưa mây hoa hơn cõi trời, mây lọng, mây tràng, mây phan, mây hương, mây tràng hoa, mây hương thoa, mây đồ trang nghiêm, mây đại quang minh ma ni bửu, mây chư Bồ Tát ca ngợi, mây thân sai khác của bất khả thuyết Bồ Tát. Mưa mây thành Chánh giác, mây nghiêm tịnh bất tư nghì thế giới, mây âm thanh ngữ ngôn của Phật đầy khắp vô biên thế giới.
Như ở bốn châu thiên hạ này thần lực của đức Như Lai thị hiện như vậy, làm cho chư Bồ Tát rất hoan hỷ, cùng khắp mười phương tất cả thế giới đều cũng như vậy.
At that time, in each of the ten directions, past as many worlds as atoms
in eighty unspeakable numbers of hundreds of septillions of buddha-
lands, there were eighty unspeakable numbers of hundreds of septillions
of buddhas, alike named Universally Good, who all appeared to the en-
lightening beings and said, “Bravo, Offspring of Buddha! You are able,
imbued with the power of the enlightened, conforming to the nature of
reality, to expound the teaching of the manifestation of Buddha. We
buddhas of the same name, eighty unspeakable numbers of hundreds of
septillions of us in each of the ten directions, all expound this teaching.
And what we expound, so do all Buddhas in all worlds in the ten direc-
tions. In this assembly as many great enlightening beings as atoms in
a hundred thousand buddha-lands have attained the concentration of
spiritual powers of all enlightening beings; we give them the prediction
that they will attain unexcelled, complete perfect enlightenment in one
Page 1020 – The Flower Ornament Scripture
lifetime. As many sentient beings as atoms in a buddha-land have roused
the determination for unexcelled, complete perfect enlightenment; we
also give them a prediction, that in the future, after as many eons as
atoms in unspeakable buddha-lands, they will all become buddhas, all
with the same name. Supreme Realm of the Enlightened. In order to
enable the enlightening beings of the future to hear this teaching, we all
preserve it together. As the sentient beings are liberated in this world, so
are the sentient beings liberated in all worlds in the cosmos.”
Bấy giờ mười phương đều qua khỏi tám mươi bất khả thuyết trăm ngàn ức na do tha Phật sát vi trần số thế giới, đều có tám mươi bất khả thuyết trăm ngàn ức na do tha Phật sát vi trần số Như Lai đồng hiệu Phổ Hiền đều hiện ra trước Phổ Hiền Bồ Tát mà bảo rằng:
Lành thay Phật tử! Nhà ngươi có thể thừa oai lực của Phật, tùy thuận pháp tánh mà diễn nói pháp Như Lai xuất hiện bất tư nghì.
Này Phật tử! Mười phương chúng ta tám mươi bất khả thuyết trăm ngàn ức na do tha Phật sát vi trần số chư Phật đồng hiệu Phổ Hiền đều nói pháp này.
Này Phật tử! Nay trong pháp hội này có mười vạn sát vi trần số đại Bồ Tát được tất cả thần thông tam muội của Bồ Tát, chư Phật chúng ta đều thọ ký họ một đời sẽ dược Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Lại có Phật sát vi trần số chúng sanh phát Bồ đề tâm, chư Phật chúng ta cũng thọ ký họ ở đời vị lai trải qua bất khả thuyết Phật sát vi trần số kiếp, đều được thành Phật đồng hiệu là Phật Thù Thắng Cảnh Giới.
Chư Phật chúng ta vì muốn cho chư Bồ Tát vị lai được nghe pháp này, nên đều cùng hộ trì. Như hóa độ chúng sanh nơi bốn châu thiên hạ này, mười phương trăm ngàn ức na do tha vô số vô lượng, nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết pháp giới hư không tất cả thế giới, hóa độ chúng sanh cũng đều như vậy.
Then, owing to the spiritual power of the buddhas of the ten direc-
tions, owing to the power of the original vows of Vairocana, because the
natural order is so, because of the power of roots of goodness, because
the buddhas activate knowledge in an instant, because buddhas respond
to conditions without missing the time, because they awaken enlighten-
ing beings at appropriate times, because their past deeds have no loss or
decay, because they foster the attainment of the great practice of Univer-
sal Good, and because they manifest the mastery of omniscience, in each
of the ten directions, past as many worlds as atoms in ten unspeakable
numbers of tens of quadrillions of buddha-lands, there were as many en-
lightening beings as atoms in ten unspeakable numbers of tens of qua-
drillions of buddha-lands who came here, filling all universes in the ten
directions, showing the vast magnificent adornments of enlightening
beings, emitting networks of great beams of light, shaking all worlds in
the ten directions, demolishing the palaces of all demons, extinguishing
the pains of the states of ill, revealing the power of all enlightened ones,
singing praises of the infinite different virtuous qualities of the enlight-
ened, showering all kinds of rains, manifesting infinite different bodies,
receiving the teachings of infinite buddhas. By the spiritual power of
Buddha, they each said, “Bravo, offspring of Buddha: you are able to
explain this indestructible teaching of buddhas. We are all named Uni-
versally Good, and we each have come here from the presence of a
buddha called Freedom Marked by Universality, from worlds called
Universal Light. In those worlds we also expound this teaching, with
the same expressions, the same principles, the same explanations, the
same certitude, without increase or decrease. We have all come here,
by the spiritual power of Buddha, and by having attained the Buddhas’
teaching, to be witnesses for you. And as we come here, the same is
true of all worlds in the whole cosmos, throughout space, in all ten
directions.”
Bấy giờ do thần lực của thập phương chư Phật, do nguyện lực của Tỳ Lô Giá Na, do pháp như vậy, do sức thiện căn, do Như Lai khởi trí chẳng vượt ngoài tâm niệm, do Như Lai ứng duyên chẳng lỗi thời, do tùy thời giác ngộ chư Bồ Tát, do thưở trước tu hành không hư mất, do làm cho được hạnh Phổ Hiền quảng đại, do hiển hiện tất cả trí tự tại, nên mười phương đều qua khỏi mười bất khả thuyết trăm ngàn ức na do tha Phật sát vi trần số Bồ Tát đồng đến nơi đây, đầy khắp tất cả mười phương pháp giới, thị hiện sự quảng đại trang nghiêm của Bồ Tát, phóng lưới đại quang minh, chấn động tất cả mười phương thế giới, làm hư tan tất cả cung điện của các loài ma, tiêu diệt tất cả những khổ ác đạo, hiển hiện tất cả oai đức của Như Lai, ca ngâm khen ngợi vô lượng pháp công đức sai biệt của Như Lai, khắp mưa tất cả những thứ mưa, thị hiện vô lượng thân sai biệt, lãnh thọ vô lượng Phật pháp, do thần lực của Phật nên đồ nói rằng:
Lành thay Phật tử! Ngài có thể nói pháp bất khả hoại của Như Lai đây.
Này Phật tử! Chư Bồ Tát chúng tôi đều hiệu Phổ Hiền, đều từ thế giới Phổ Quang Minh chỗ của đức Như Lai Phổ Tràng Tự Tại mà đến đây. Tất cả thế giới đó đều nói pháp này. Văn cú như vậy, nghĩa lý như vậy, tuyên thuyết như vậy, quyết định như vậy, đều đồng ở đây chẳng thêm chẳng bớt.
Chư Bồ Tát chúng tôi đều do thần lực của Phật, do được pháp Như Lai nên đến nơi đây để chứng minh cho Ngài.
Như chúng tôi đến đây, mười phương khắp hư không khắp pháp giới tất cả thế giới bốn châu thiên hạ cũng như vậy.
Then the enlightening being Universally Good — with the spiritual
power of Buddha, looking over all the great congregations of enlight-
ening beings, wishing to recapitulate the immense power of the mani-
festation of Buddha, the indestructibility of the true teaching of the
enlightened, how infinite roots of goodness are not in vain, how the
emergence of buddhas in the world always comprises all supreme quali-
ties, the ability to observe skillfully the minds of all sentient beings and
teach them the truth according to their needs, without missing the right
Page 1021 – Manifestation of Buddha
time, producing the infinite light of truth of enlightening beings; the
adornments of freedom of all buddhas, and how all enlightened ones are
one body, no different, produced by great practices of the past — said
in verse:
Bấy giờ Phổ Hiền Bồ Tát thừa thần lực của Phật, quán sát tất cả Bồ Tát đại chúng, muốn tuyên rõ lại oai đức quảng đại xuất hiện của Như Lai, chánh pháp chẳng thể trở hoại của Như Lai, vô lượng thiện căn đều chẳng luống, chư Phật xuất thế ắt đủ tất cả pháp tối thắng, giỏi quán sát được tâm chúng sanh tùy nghi thuyết pháp chưa từng lỗi thời, sanh Bồ Tát vô lượng pháp quang, tất cả chư Phật tự tại trang nghiêm, tất cả Như Lai một thân không khác sanh khởi do từ đại hạnh thuở trước. Nói kệ rằng:
The actions of all buddhas
Are beyond mundane similitudes;
In order to enlighten sentient beings.
They make similes of nonsimiles for illustration.
This subtle, mysterious, profound teaching
Is hard to get to hear in a billion ages;
Those with vigor, wisdom, and self-control
Can get to hear this mystery.
Any who hear this teaching and rejoice
Have served countless buddhas;
Being absorbed into the power of Buddha,
Gods and humans honor and praise them.
This is the foremost wealth transcending the world:
This can liberate all living beings.
This can produce the pure Path —
You should keep it attentively.
Tất cả Như Lai những công hạnh
Thế gian ví dụ không kịp được
Vì khiến chúng sanh được ngộ giải
Chẳng dụ làm dụ mà hiển thị
Pháp thậm thâm vi mật như vậy
Trăm ngàn muôn kiếp khó được nghe
Người tinh tấn trí huệ điều phục
Mới được nghe nghĩa bí áo này
Nếu nghe pháp này sanh hoan hỉ
Kia từng cúng dường vô lượng Phật
Ðược Phật gia trì chỗ nhiếp thọ
Trời người ca ngợi thường cúng dường
Ðây là pháp cứu thế đệ nhứt
Ðây hay cứu độ những quần phẩm
Ðây hay xuất sanh đạo thanh tịnh
Các Ngài thọ trì chớ phóng dật.
Sources:
Tài liệu tham khảo:
- https://thienphatgiao.wordpress.com/2013/06/02/kinh-hoa-nghiem-thich-tri-tinh-dich-tap-3-8/17/
- https://terebess.hu/zen/mesterek/avatamsaka-cleary.pdf
- https://thuvienhoasen.org/p16a560/37-pham-nhu-lai-xuat-hien
- https://quangduc.com/a51858/hoa-giai-nghiep-doi-truoc