Phẩm 29: Kinh Hoa Nghiêm – Thập-nhẫn – (Hán bộ cuối quyển 44) – Song ngữ

English: Thomas Cleary – 1984

Việt ngữ: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh – PL 2527 – 1983

Compile: Lotus group

Book Twenty-Nine: The Ten Acceptances – Page 817 – 835 (MsW: 870 – 888)

Phẩm 29: Kinh Hoa Nghiêm – Thập-nhẫn – (Hán bộ cuối quyển 44)

Then the great enlightening being Universally Good said to the en-

lightening beings, “Offspring of Buddha, great enlightening beings have

ten kinds of acceptance. If you acquire these acceptances, you will manage

to arrive at the stage of unhindered acceptance. What are the ten? They

are acceptance of the voice of the Teaching; conformative acceptance;

acceptance of the nonorigination of all things; acceptance of lllusoriness;

acceptance of being miragelike; acceptance of being dreamlike; accep-

tance of being echohke; acceptance of being like a reflection; acceptance

of being phantomlike; acceptance of being spacehke. These ten accep-

tances have been expounded, are being expounded, and will be ex-

pounded by the buddhas of past, present, and future.

Bấy giờ Phổ-Hiền Bồ-Tát bảo chư Bồ-Tát:

Chư Phật-tử! Ðại Bồ-Tát có mười thứ nhẫn, nếu được nhẫn nầy thời được đến nơi vô-ngại nhẫn-địa của tất cả Bồ-tát, tất cả phật-pháp vô-ngại vô-tận.

Ðây là mười nhẫn: âm-thanh nhẫn, thuận nhẫn, vô-sanh-pháp nhẫn, như huyễn nhẫn, như diệm nhẫn, như mộng nhẫn, như hưởng nhẫn, như ảnh nhẫn, như hóa nhẫn, như không nhẫn.

Mười nhẫn nầy, tam-thế chư Phật đã nói, nay nói, sẽ nói.

 

“What is great enlightening beings’ acceptance of the voice of the

Teaching? It means when they hear the teachings expounded by the

buddhas, they are not startled or frightened or overawed; they believe

deeply, understand, appreciate, aim for, concentrate on, remember,

practice, and abide by them. This is called great enlightening beings’

acceptance of the voice of the Teaching.

Chư Phật-tử! Thế nào là đại Bồ-Tát âm-thanh nhẫn?

Nghĩa là nghe những pháp của chư Phật nói, chẳng kinh chẳng hãi chẳng sợ, thâm tín ngộ giải, ưa thích xu-hướng, chuyên tâm ghi nhớ, tu tập an-trụ.

 

“What is great enlightening beings’ conformative acceptance? It means

they contemplate the Teaching, investigate it, impartially conform to it

without opposition, comprehend it, purify their minds, live correctly by

the Teaching, apply it, enter into it, and fulfill it. This is called great en-

lightening beings’ second acceptance, that of conforming to the Teaching.

Chư Phật-tử! Thế nào là đại Bồ-Tát thuận-nhẫn?

Nghĩa là ở nơi phật-pháp tư-duy quán-sát bình-đẳng không trái, tùy thuận biết rõ, khiến tâm thanh-tịnh, chánh trụ tu tập xu nhập thành-tựu.

 

“What is great enlightening beings’ acceptance of the nonorigination

of things? These great enlightening beings do not see that there is any-

thing at all that originates and do not see that there is anything at all that

perishes. Why? If there is no origination, there is no perishing; if there is

no perishing, there is no extinction; if there is no extinction, they are free

from defilements; if they are free from defilements, there is no differen-

tiation; if there is no differentiation, there is no location; if there is no

location, there is quiescence; if there is quiescence, there is detachment

from desire; if there is detachment from desire, there is no doing; if there

is no doing, there is no wish; if there is no wish, there is no dwelling; if

there is no dwelling, there is no coming and no going. This is called great

enlightening beings’ acceptance of the nonorigination of things.

Chư Phật-tử! Thế nào là đại Bồ-Tát vô-sanh-pháp nhẫn?

Ðại Bồ-Tát nầy chẳng thấy có chút pháp nào sanh, cũng chẳng thấy có chút pháp nào diệt. Tại sao vậy? Vì nếu đã vô-sanh thời vô-diệt. Nếu đã vô-diệt thì vô-tận. Nếu vô-tận thời ly-cấu. Nếu ly-cấu thời vô-sai-biệt. Nếu vô-sai-biệt thời vô-xứ-sở. Nếu vô-xứ-sở thời tịch-tịnh. Nếu tịch-tịnh thời ly-dục. Nếu ly-dục thời vô-tác. Nếu vô-tác thời vô-nguyện. Nếu vô-nguyện thời vô trụ. Nếu vô-trụ thời vô-khứ vô-lai. Ðây gọi là thứ ba, vô-sanh-pháp-nhẫn của đại Bồ-Tát.

 

Page 870 – 871 – The Ten Acceptances

 

“What is great enlightening beings’ acceptance of lllusoriness? These

great enlightening beings know all things are like illusions and arise from

causes and conditions. In one thing they understand many things, and

in many things they understand one thing. These enlightening beings,

knowing the lllusoriness of things, comprehend lands, comprehend sen-

tient beings, comprehend the cosmos, comprehend the equality of worlds,

comprehend the equality of appearances of buddhas, comprehend the

equality of past, present, and future, and accomplish various spiritual

powers and mystic transformations.

 

“Just as illusions are not elephants, not horses, not chariots, not walk-

ing, not men, not women, not boys, not girls, not trees, not leaves, not

flowers, not fruits, not earth, not water, not fire, not wind, not day, not

night, not a day, not a month, not a fortnight, not a year, not a hundred

years, not an eon, not many eons, not stable, not confused, not pure, not

alloyed, not one, not variegated, not broad, not narrow, not many, not

few, not finite, not infinite, not gross, not subtle, not any things at

all — variety is not illusion, illusion is not various, yet by illusion are

manifested all kinds of different things — in the same way do great

enlightening beings look upon all worlds as illusory; that is, the worlds

of action, the worlds of affliction, the worlds of lands, the worlds of

phenomena, the worlds of time, the worlds of dispositions, the worlds

of becoming, the worlds of decay, the worlds of movement, the worlds

of creativity. When great enlightening beings see all worlds as like

illusions, they do not see beings born or dying, they do not see countries

born or perishing, they do not see phenomena born or perishing, they do

not see a past that can be differentiated, they do not see a future that has a

beginning, they do not see a present that remains for even a moment;

they do not examine enlightenment, do not discriminate enlightenment,

do not see buddhas emerging, do not see buddhas passing away into

nirvana, do not see abiding by great vows, do not see entry into the

absolute, do not go out of the essence of equality.

 

“Though these enlightening beings develop buddha-lands, they know

lands have no differentiation; though they develop sentient beings, they

know sentient beings have no differentiation; though they examine the

cosmos, yet they abide peacefully in the essence of reality, silent and

unmoving; though they realize past, present, and future are equal, yet

they do not oppose the distinction of past, present, and future phenom-

ena; though they are fully complete in physical, mental, and sense ele-

ments, they do not rely on anything; though they liberate sentient beings,

yet they know the cosmos is impartial and makes no distinctions; though

they know all things are beyond words and cannot be verbally explained,

yet they always explain things with inexhaustible powers of analysis;

though they are not attached to the work of teaching beings, yet they do

not give up great compassion, turning the wheel of Teaching to liberate

all; though they reveal to them past causes and conditions, yet they

know that conditionality has no movement. This is called great enlight-

ening beings’ acceptance of lllusoriness.

Chư Phật-tử! Thế nào là như-huyễn-nhẫn?

Ðại Bồ-Tát nầy biết tất cả pháp đều như huyễn, từ nhơn duyên khởi. Ở trong một pháp hiểu nhiều pháp, trong nhiều pháp hiểu một pháp. Ðã biết các pháp như huyễn, đại Bồ-Tát nầy rõ thấu quốc-độ, chúng-sanh, pháp-giới. Rõ thấu thế-gian bình-đẳng, Phật xuất-thế bình-đẳng, tam-thế bình-đẳng. Thành-tựu những thần-thông biến-hóa.

Ví như huyễn chẳng phải voi, ngựa, xe, nam, nữ, đồng-nam, đồng-nữ, chẳng phải cây, lá, bông, trái, đất, nước, lửa, gió, chẳng phải ngày, đêm, mặt trời, mặt trăng, chẳng phải nửa tháng, một tháng, một năm, trăm năm,một kiếp, nhiều kiếp, chẳng phải định, loạn, thuần, tạp, một, khác, chẳng phải rộng, hẹp, nhiều, ít, lượng, vô-lượng, thô, tế. Huyễn chẳng phải tất cả sự vật, tất cả sự vật chẳng phải huyễn, nhưng do huyễn thị-hiện ra những sự vật sai khác.

Cũng vậy, đại Bồ-Tát quán tất cả thế-gian như huyễn. Những là nghiệp thế-gian, phiền-não thế-gian, quốc-độ thế-gian, pháp thế-gian, thời thế-gian, thú thế-gian, thành thế-gian, hoại thế-gian, vận-động thế-gian, tạo-tác thế-gian.

Lúc Bồ-Tát quán tất cả thế-gian như huyễn, chẳng thấy chúng-sanh sanh, chẳng thấy chúng-sanh diệt, chẳng thấy quốc-độ sanh diệt, chẳng thấy các pháp sanh diệt, chẳng thấy quá-khứ có thể phân-biệt được, chẳng thấy vị-lai có khởi tác, chẳng thấy hiện-tại một niệm trụ, chẳng thấy quán-sát bồ-đề, chẳng thấy Phật xuất-hiện, chẳng thấy Phật niết-bàn, chẳng thấy trụ đại-nguyện, chẳng thấy nhập chánh-vị, chẳng ngoài tánh bình-đẳng.

Ðại Bồ-Tát nầy dầu thành-tựu Phật-độ mà biết quốc-độ vô-sai-biệt. Dầu thành-tựu chúng-sanh mà biết chúng-sanh vô-sai-biệt. Dầu khắp quán pháp-giới mà an-trụ pháp-tánh vắng lặng chẳng động. Dầu thấu rõ tam-thế bình-đẳng mà chẳng trái phân-biệt pháp tam-thế. Dầu thành-tựu uẩn xứ mà dứt hẳn sở-y. Dầu độ thoát chúng-sanh mà rõ biết pháp-giới bình-đẳng không các thứ sai khác. Dầu biết các pháp xa lìa văn tự không thể ngôn thuyết mà thường thuyết pháp biện-tài vô-tận. Dầu chẳng chấp lấy việc giáo-hóa chúng-sanh mà chẳng bỏ đại-bi, vì độ tất cả mà chuyển pháp-luân. Dầu vì chúng-sanh khai thị nhơn duyên quá-khứ mà biết tánh nhơn-duyên không có động chuyển. Ðây gọi là như huyễn nhẫn thứ tư.

 

Page 872 – The Flower Ornament Scripture

 

“What is great enlightening beings’ acceptance of being miragelike?

These great enlightening beings know that all worlds are like mirages.

Just as mirages have no location, are not inside or outside, not existent or

nonexistent, not finite or eternal, not uniform or multiform or formless,

but just expressed in conventional terms, in the same way do enlight-

ening beings truly see and know all things, actually realizing this of all

things, attaining complete acceptance. This is called enlightening beings’

acceptance of being miragelike.

Chư Phật-tử! Thế nào là đại Bồ-Tát như diệm nhẫn?

Ðại Bồ-Tát nầy biết tất cả thế-gian đồng như dương-diệm.

Ví như dương-diệm chẳng có phương-sở, chẳng phải nội, ngoại, hữu, vô, đoạn, thường, chẳng phải một màu, nhiều màu, cũng chẳng phải không màu, chỉ tùy theo ngôn thuyết thế-gian mà hiển thị.

Cũng vậy, đại Bồ-Tát như thiệt quán-sát, rõ biết các pháp hiện chứng tất cả khiến được viên-mãn. Ðây gọi là như diệm nhẫn thứ năm của đại Bồ-Tát.

 

“What is great enlightening beings’ acceptance of being dreamlike?

Here great enlightening beings know all worlds are like dreams. Just as

dreams are neither of the world nor apart from the world, not of the

realm of desire, not of the realm of form, not of the formless realm, not

arising, not disappearing, not defiled, not pure, and yet obviously mani-

fest, in the same way do enlightening beings know all worlds to be like

dreams, unchanging, because of being free like dreams, because of clinging

like dreams, because of being inherently unconnected like dreams, be-

cause of being like the basic nature of dreams, because of being like

visions in dreams, because of being undifferentiated like dreams, because

of being like thoughts in dreams, because of being as when awakening

from a dream. This is called great enlightening beings’ acceptance of

being dreamlike.

Chư Phật-tử! Thế nào là đại Bồ-Tát như mộng nhẫn?

Ðại Bồ-Tát nầy biết tất cả thế-gian như mộng.

Ví như mộng chẳng phải thế-gian, chẳng phải rời thế-gian, chẳng phải dục-giới, sắc giới, vô-sắc-giới, chẳng phải sanh, diệt, nhiễm, tịnh, nhưng vẫn có hiển-thị.

Cũng vậy, đại Bồ-Tát biết tất cả thế-gian đồng như mộng. Vì không đổi khác, vì như tự-tánh của mộng, vì như mộng chấp trước, vì như mộng tánh ly, vì như bổn-tánh của mộng, vì như mộng hiện ra, vì như mộng vô-sai-biệt, vì như mộng tưởng phân-biệt, vì như lúc mộng thức giấc. Ðây gọi là như-mộng-nhẫn thứ sáu của đại Bồ-Tát.

 

“What is great enlightening beings’ acceptance of being echolike?

Here the great enlightening beings, hearing buddhas explain the truth,

seeing into the nature of things, applying this practically, achieving

realization and reaching the other shore, know that all sounds are the

same as echoes, with no coming or going, appearing in this way. The

great enlightening beings observe the voice of the buddhas as emerging

without emerging from inside or outside or both. Though they under-

stand that this voice does not emerge from inside, outside, or both, yet it

is possible to produce skillful expressions to accomplish explanation. Like

echoes in a valley, it is produced by conditions and is not at variance

with the nature of things. It enables sentient beings each to understand

according to kind and to be able to practice this learning.

 

“Just as the wife of the emperor of gods can produce a thousand tones

in one sound without consciously trying to do so, so also do great

enlightening beings enter the realm of nondiscrimination, develop a

voice that skillfully adapts to different types, and forever turn the wheel

of the Teaching in boundless worlds. These enlightening beings skillfully

observe all beings and preach to them with a universal tongue, their

voices pervading all lands in the ten directions unhindered, causing all to

hear the Teaching differently according to their needs. Though they

know sound has no origin, they manifest the sound of their voice every-

where; though they know there is nothing to say, they extensively

explain all things. Their wondrous voice is impartial, all understand it

according to species and type, while the enlightening beings compre-

hend this all by means of their knowledge. This is called great enlight-

ening beings’ acceptance of being echolike.

Chư Phật-tử! Thế nào là đại Bồ-Tát như-hưởng-nhẫn?

Ðại Bồ-Tát nầy nghe Phật thuyết pháp quán các pháp-tánh tu học thành-tựu đến bỉ-ngạn, biết tất cả âm-thanh đồng như vang không lai không khứ mà hiển thị như vậy.

Ðại Bồ-Tát nầy quán-sát tiếng của đức Như-Lai chẳng từ trong phát ra, chẳng từ ngoài phát ra, cũng chẳng từ nơi trong ngoài phát ra. Dầu biết rõ tiếng chẳng phải từ trong, từ ngoài, từ trong ngoài phát ra, mà có thể thị-hiện danh cú thiện-xảo diễn thuyết thành-tựu.

Ví như âm vang nơi hang từ duyên phát ra, mà cùng pháp-tánh không trái nhau. Khiến các chúng-sanh theo loài được hiểu biết và tu học.

Như Thiên-Ðế phu-nhơn, con gái vua A-Tu-La, tên Xá-Chi, trong một âm-thanh phát ra ngàn thứ âm-thanh, nhưng Phu-Nhơn vẫn không có tâm nghĩ làm cho phát ra như vậy.

Cũng vậy, đại Bồ-Tát nhập vô-phân-biệt-giới, thành-tựu tiếng tùy loại thiện-xảo, ở trong vô-biên thế-giới hằng chuyển pháp-luân. Ðại Bồ-Tát nầy khéo hay quán-sát tất cả chúng-sanh, dùng tướng lưỡi rộng dài mà vì họ thuyết pháp. Tiếng đó vô-ngại khắp cõi nước mười phương khiến chúng-sanh tùy sở-nghi nghe pháp đều riêng khác. Dầu biết tiếng không khởi mà khắp hiện âm-thanh. Dầu biết không sở-thuyết mà nói rộng các pháp. Diệu-âm bình-đẳng tùy loại đều hiểu riêng khác, đều dùng trí-huệ mà có thể rõ thấu. Ðây gọi là như-hưởng-nhẫn thứ bảy của đại Bồ-Tát.

 

Page 873 – The Ten Acceptances

 

“What is great enlightening beings’ acceptance of being like a reflec-

tion? These great enlightening beings are not born in the world, do not

die in the world; they are not in the world, not outside the world; they

do not act in the world, yet are not inactive in the world; they are not the

same as the world, yet are not different from the world; they do not go

to the world, nor do they not go to it; they do not dwell in the world,

nor do they not dwell in the world; they are not worldly or unworldly.

They are not cultivating the practices of enlightening beings, yet they do

not give up their great vow; they are neither real nor unreal. Though

they always carry out all Buddha teachings, yet they are able to manage

all mundane affairs; they do not follow the mundane stream, nor dwell

in the religious stream.

 

“Just as the sun, moon, men, women, houses, mountains, rivers,

springs, and so on, are reflected in anything clear — in oil, water, a jewel,

a mirror, and so on — and the reflections are neither one with nor dif-

ferent from the oil, water, jewel, or mirror, are neither separated nor

united, not flowing along in river currents, not sinking in lakes or wells,

appearing therein without being affected, and people know that such

and such a reflection is in such and such a place and not elsewhere, and,

though things far and near cast their reflections, there is no correspond-

ing distance of the images from one another, similarly great enlightening

beings know their own bodies and others’ bodies are all spheres of cogni-

tion and do not understand them dualistically as self and others, and

simultaneously appear in their own lands and other lands. Just as there

are no roofs, sprouts, stalks, nodes, branches, or leaves in a seed, yet it

can produce these things, so also do great enlightening beings distinguish

duality in that which is nondual, their skill in means completely fluid

and all-encompassing, without blockage. This is called great enlighten-

ing beings’ acceptance of being like a reflection.

Chư Phật-tử! Thế nào là đại Bồ-Tát như-ảnh-nhẫn?

Ðại Bồ-Tát nầy chẳng phải sanh ở thế-gian, chẳng phải mất ở thế-gian, chẳng phải ở trong thế-gian, chẳng phải ở ngoài thế-gian, chẳng phải du hành nơi thế-gian, chẳng phải đồng với thế-gian, chẳng phải khác với thế-gian, chẳng phải qua đến thế-gian, chẳng phải chẳng qua đến thế-gian, chẳng phải trụ ở thế-gian, chẳng phải chẳng trụ ở thế-gian, chẳng phải là thế-gian, chẳng phải xuất-thế-gian, chẳng phải tu bồ-tát-hạnh, chẳng phải bỏ đại-nguyện, chẳng phải thiệt, chẳng phải chẳng thiệt. Dầu thường hành tất cả phật-pháp mà có thể làm xong tất cả thế-sự. Chẳng theo thế-lưu cũng chẳng trụ pháp-lưu.

Ví như mặt trời, mặt trăng, nam, nữ và các vật như nhà cửa, núi rừng, sông suối vân vân, hiện bóng trong những vật thanh-tịnh như nước, dầu, châu bửu, gương sáng. Bóng cùng nước gương vân vân chẳng phải một, chẳng phải khác, chẳng phải ly, chẳng phải hiệp. Nơi trong giòng sông, bóng chẳng bị trôi, nơi giếng ao, bóng cũng hẳng bị chìm đắm. Dầu bóng hiện trong đó không chỗ chấp trước, nhưng các chúng-sanh biết ở chỗ đó có bóng ấy hiện, cũng biết chỗ kia không có bóng như vậy. Vật gần vật xa dầu đều hiện bóng, nhưng bóng không theo vật mà có gần xa.

Cũng vậy, đại Bồ-Tát hay biết tự-thân và tha-thân tất cả đều là cảnh-giới của trí chẳng nhận là hai mà cho là tự tha riêng khác. Dầu vậy nhưng nơi tự quốc-độ, nơi tha quốc-độ, đều riêng sai khác đồng thời hiện khắp.

Như một hột giống không có rễ, mầm, cọng, mắt, nhánh, lá, mà hay sanh khởi tất cả.

Cũng vậy, đại Bồ-Tát vô-nhị mà phân-biệt hai tướng phương-tiện thiện-xảo thông đạt vô-ngại. Ðây gọi là như-ảnh-nhẫn thứ tám của đại Bồ-Tát.

 

“When great enlightening beings achieve this acceptance, though

they do not travel to the lands of the ten directions, yet they can appear

in all buddha-lands, neither leaving here nor going there. They are like

reflections appearing everywhere, unhindered wherever they go, causing

sentient beings to see different bodies with the same appearance of solid-

ity as the world. However, these differentiations are not differentiation —

difference and nondifference do not obstruct one another. These great

enlightening beings are born from the lineage of the buddhas — their

bodies, speech, and minds are pure and unimpeded, so they are able to

acquire pure bodies of boundless forms.

 

“What is great enlightening beings’ acceptance of being phantomlike?

These great enlightening beings know all worlds are like phantoms —

that is, all sentient beings are phantoms of mentalization, being created

by consciousness and thought; all worldly realms are phantoms of acts

and conditioning, being created by discrimination; all pain and pleasure

are phantoms of delusion, being produced by arbitrary clinging; all

worlds are phantoms of unreal phenomena, being made apparent by

verbalization; all afflictions arc phantoms of discrimination, being

 

Page 874 – The Flower Ornament Scripture

 

created by thoughts. There is also the phantom of pure pacification,

being manifested by nondiscrimination; the phantom of not changing

through time, because of the equality of the uncreate; the phantom of

enlightening beings’ willpower, because of their extensive practices; the

phantom of buddhas’ great compassion, based on expedient demonstra-

tions; the phantoms of means of teaching, being expounded by wisdom,

expertise, and intellectual powers.

 

“Thus do enlightening beings know mundane and transmundane

phantoms; they know them by direct experience, with extensive knowl-

edge, boundless knowledge, factual knowledge, independent knowl-

edge, true knowledge, incapable of being overturned by false views,

going along with the events of the world without loss or corruption.

 

“Just as a phantom does not arise from the mind or from mental

states, does not arise from action, does not experience consequences, is

not born in the world, does not die in the world, cannot be pursued,

cannot be grasped or touched, is not long-lasting, is not momentary, is

not acting in the world, is not apart from the world, is not bound to one

location, is not ubiquitous, is not finite, is not infinite, does not weary or

rest, is not unwearying or unceasing, not ordinary, not holy, not defiled,

not pure, not born, not dead, not wise, not foolish, not seen, not unseen,

not based in the world, not entering the reality realm, not clever, not

dull, not grasping, not nongrasping, not birth and death, not nirvana,

not existent, not nonexistent, in the same way do enlightening beings

course through the world by skill in means, cultivating the path of en-

lightening beings, knowing worldly phenomena, multiplying their

bodies for phantomlike travel, not clinging to the world, not attached to

their own bodies, not conceptualizing anything in the world or them-

selves, not dwelling in the world, not leaving the world, not dwelling

on things, not aloof from things. Because of their fundamental vow they

do not abandon a single sentient being, they do not guide only a few

sentient beings, they do not discriminate things yet are not indiscrimi-

nate. They know the nature of things has no coming or going, and though

they have no existence, they fulfill the Buddha teachings, knowing

everything is like a phantom, neither existent nor nonexistent.

 

“When great enlightening beings thus abide in acceptance of being

phantomlike, they are able to fulfill the path of enlightenment of all

buddhas and benefit living beings. This is called enlightening beings’

acceptance of being phantomlike: when great enlightening beings achieve

this acceptance, like magicians, everything they do is phantomlike. They

do not dwell on anything in any buddha-land, do not cling to the world,

tirelessly proceed toward enlightenment without producing false ideas

about the Buddha teachings, cultivate the practices of enlightening

beings, and get rid of delusion. Though they have no body, yet they

manifest all bodies; though they have no abode, yet they abide in myriad

buddha-lands; though they have no form, yet they manifest myriad

forms; though they do not cling to ultimate truth, yet they clearly per-

ceive the essential nature of things, impartially and completely.

 

Page 875 – The Ten Acceptances

 

“These great enlightening beings, not relying on anything, are called

liberated; having shed all errors, they are called disciplined; entering the

congregations of all buddhas everywhere without moving, they are

called masters of spiritual power; well versed in the truth of nonorigina-

tion, they are called unregressing; imbued with all powers, which even

mountains cannot impede, they are called unobstructed.

Ðại Bồ-Tát thành-tựu như-ảnh-nhẫn nầy dầu chẳng qua đến cõi nước mười phương mà có thể hiện khắp tất cả cõi Phật. Cũng chẳng rời đây, cũng chẳng đến kia, như bóng hiện khắp chỗ du hành vô-ngại. Làm cho chúng-sanh thấy thân sai khác đồng với tướng cứng chắc của thế-gian. Nhưng sự sai khác nầy chính là chẳng phải sai khác. Khác cũng chẳng khác không có chướng ngại.

Ðại Bồ-Tát nầy từ nơi chủng-tánh Như-Lai mà sanh thân ngữ và ý thanh-tịnh vô-ngại nên có thể được thân vô-biên sắc tướng thanh-tịnh.

Chư Phật-tử! Thế nào là đại Bồ-Tát biết tất cả thế-gian thảy đều như hóa ? Nghĩa là tất cả chúng-sanh ý-nghiệp hóa, vì giác-tưởng sanh khởi. Tất cả thế-gian chư hành hóa, vì phân-biệt sanh khởi. Tất cả khổ vui điên-đảo hóa, vì vọng-thủ sanh khởi. Tất cả thế-gian pháp chẳng thiệt hóa, vì ngôn thuyết hiện khởi. Tất cả phiền-não phân-biệt hóa, vì tưởng niệm sanh khởi. Lại có thanh-tịnh điều-phục hóa, vì vô-phân-biệt hiện khởi. Nơi tam thế chẳng chuyển hóa, vì vô-sanh bình-đẳng. Bồ-Tát nguyện lực hóa, vì tu hành quảng-đại. Như-Lai đai-bi hóa, vì phương-tiện thị-hiện. Chuyển pháp-luân phương-tiện hóa, vì trí-huệ vô-úy biện-tài diễn-thuyết.

Ðại Bồ-Tát rõ biết thế-gian xuất-thế-gian hóa hiện như vậy, chứng biết, biết rộng lớn, biết vô-biên, biết đúng sự, biết tự-tại, biết chơn-thiệt. Chẳng phải hư-vọng-kiến có thể huynh động được. Tùy theo sở-hành của thế-gian cũng chẳng hư mất trí biết ấy.

Ví như hóa chẳng từ nơi tâm phát khởi, chẳng từ nơi tâm-pháp phát-khởi, chẳng từ nơi nghiệp phát khởi, chẳng thọ quả báo, chẳng phải thế-gian sanh, chẳng phải thế-gian diệt, chẳng thể theo dõi, chẳng thể rờ chạm, chẳng phải còn lâu, chẳng phải giây lát, chẳng phải ở nơi thế-gian, chẳng phải rời thế-gian, chẳng chuyên thuộc một phương, chẳng thuộc khắp các phương, chẳng phải hữu-lượng, chẳng phải vô-lượng, chẳng nhàm, chẳng dứt, chẳng phải chẳng nhàm dứt, chẳng phải phàm, chẳng phải thánh, chẳng phải nhiễm, chẳng phải tịnh, chẳng phải sanh, chẳng phải tử, chẳng phải trí, chẳng phải ngu, chẳng phải thấy, chẳng phải chẳng thấy, chẳng phải y-tựa thế-gian, chẳng phải nhập pháp-giới, chẳng phải thông-minh, chẳng phải đần-độn, chẳng phải lấy, chẳng phải chẳng lấy, chẳng phải sanh-tử, chẳng phải niết-bàn, chẳng có, chẳng phải không có.

Ðại Bồ-Tát phương-tiện thiện-xảo như vậy, du hành thế-gian tu hạnh bồ-tát. Biết rõ thế-pháp phân thân hóa hiện mà đến, chẳng chấp thế-gian, chẳng lấy tự thân, nơi thế-gian và thân không phân-biệt. Chẳng trụ thế-gian, chẳng rời thế-gian, chẳng trụ nơi pháp, chẳng rời nơi pháp. Do bổn nguyện nên chẳng bỏ một chúng-sanh-giới, chẳng điều-phục thiểu chúng-sanh-giới, chẳng phân-biệt nơi pháp, chẳng phải chẳng phân-biệt. Biết các pháp-tánh không lai không khứ. Dầu không chỗ có mà tròn đầy phật-pháp. Rõ pháp như hóa, chẳng có chẳng không.

Ðại Bồ-Tát lúc an trụ như-hóa-nhẫn đều hay tròn đủ tất cả đạo bồ-đề của chư Phật lợi-ích chúng-sanh.

Ðây gọi là như hóa nhẫn thứ chín của đại Bồ-Tát.

 

“What is great enlightening beings’ acceptance of being spacelike?

These great enlightening beings understand that all phenomena are like

space because they are signless; all worlds are like space because they have

no origin; all things are like space because they are nondual; all actions of

sentient beings are like space because they have no course; all buddhas are

like space because they have no discrimination; all buddhas’ powers are

like space because they have no distinctions; all meditation concentra-

tions are like space because of equality of past, present, and future; all the

principles the buddhas teach are like space because they cannot be ex-

plained in words; all buddha-bodies are like space because they have no

attachment and no obstruction. In this way enlightening beings, by

means of the device of being spacelike, comprehend that all things have

no existence.

Ðại Bồ-Tát thành-tựu như-hóa-nhẫn nầy, phàm việc làm ra đều đồng với hóa, ví như hóa-sĩ.

Nơi tất cả cõi Phật không chỗ y-trụ. Nơi tất cả thế-gian không chỗ chấp lấy. Nơi tất cả phật-pháp chẳng sanh phân-biệt. Dầu vậy mà hướng đến Phật bồ-đề không rời mỏi, tu hạnh bồ-tát, rời những điên-đảo. Dầu không có thân mà hiện tất cả thân. Dầu không chỗ trụ mà trụ các quốc-độ. Dầu không có sắc mà hiện khắp các sắc. Dầu chẳng chấp lấy thiệt-tế mà chiếu sáng pháp-tánh bình-đẳng viên-mãn.

Chư Phật-tử! Ðại Bồ-Tát nầy nơi tất cả pháp không chỗ y-chỉ nên gọi là bực giải thoát. Thảy đều bỏ rời tất cả lỗi lầm nên gọi là bực điều-phục. Chẳng động chẳng chuyển vào khắp tất cả chúng-hội Như-Lai nên gọi là bực thần-thông. Nơi pháp vô-sanh đã được thiện-xảo nên gọi là bực vô-thối. Ðủ tất cả lực, núi Tu-Di núi Thiết-Vi không làm chướng được, nên gọi là bực vô-ngại.

 

“When great enlightening beings comprehend all things by the

knowledge that recognizes and accepts their spacelike nature, they

acquire spacelike bodies, spacelike physical action, spacelike speech,

spacelike minds, and spacelike mental action. Just as space, the harbor

of all things, is not born and does not perish, so also are all the bodies

of realities of great enlightening beings unborn and imperishable. Just

as space is indestructible, similarly are the powers of knowledge of great

enlightening beings indestructible; just as all worlds rest in space while

space rests on nothing, similarly all true teachings rest on great enlighten-

ing beings while they rest on nothing. Just as space, without any origin

or destruction, can hold the origin and destruction of all worlds, similarly

great enlightening beings, without aim or attainment, can show aim and

attainment, causing all worldlings to cultivate purity. Just as space, with-

out direction or angles, can manifest innumerable directions and angles,

similarly great enlightening beings, without actions or consequences, are

able to show all kinds of actions and consequences. Just as space is not

walking or standing yet can reveal all kinds of postures and movements,

similarly great enlightening beings are not walking or standing yet can

differentiate all movements. Just as space is not form and not not form,

yet can reveal all kinds of forms, similarly great enlightening beings are

not mundane corporeality or transmundane corporeality, yet can mani-

fest all forms. Just as space is not old or new, yet can perdure, revealing

all things, similarly great enlightening beings are not ancient or recent,

but can perdure, revealing the practices carried out by enlightening

beings. Just as space is not clean or dirty, yet is not apart from cleanness

and pollution, similarly great enlightening beings are not obstructed or

unobstructed, yet are not apart from obstruction and nonobstruction.

Just as all worlds appear to space while space does not appear to all

 

Page 876 – The Flower Ornament Scripture

 

worlds, similarly all things appear to great enlightening beings while

great enlightening beings do not appear to all things. Just as space pene-

trates everywhere, without boundaries, similarly great enlightening

beings penetrate all things, yet their minds have no boundaries.

 

“Why is this? Because enlightening beings’ doings are like space.

That is to say, all their practices, all their purifications, and all their

accomplishments are all impartial, of one substance, one flavor, one

essence, of the same measure as space, pure and all-pervasive. Thus do

they witness and know all things without fabricated notions of things,

purify all buddha-lands, perfect all supporting bodies, comprehend all

realms without confusion, embody all powers, which are indestructible,

fulfill all virtues, which are boundless, arrive at the realm of all profound

truths, master the paths of all ways of transcendence, sit on all adaman-

tine seats of enlightenment everywhere, utter all voices adapting to all

species, and operate the cycles of the Teaching for all worlds according

to proper timing. This is called great enlightening beings’ acceptance of

being spacelike.

 

“When great enlightening beings attain these acceptances, they acquire

a body that does not come from anywhere because it does not go any-

where; they acquire a birthless body, having no extinction; they acquire

a mofionless body, having no disintegration; they acquire an insubstan-

tial body, being beyond falsehood; they acquire a uniform body, being

formless; they acquire an infinite body, the power of buddhahood being

infinite; they acquire an impartial body, being the same characteristic of

Thusness; they acquire an undifferentiated body, seeing past, present,

and future as equal; they acquire a body that reaches everywhere, their

pure eye perceiving equally, without obstruction; they acquire a body

free from the realm of desire, knowing that all phenomena neither form

nor dissolve; they acquire a body as boundless as space, their store of

virtue being as inexhaustible as space; they acquire a body of endless

knowledge of the equality of the nature of things, knowing the forms

of all things are one form and their nature is natureless, like space; they

acquire a body of infinite, unobstructed sound, being unopposed and

unobstructed like space; they acquire a body of pure action of enlighten-

ing beings endowed with all skills, being unhindered in all places, like

space; they acquire a body of continuity of succession of the oceans of all

Buddha teachings, because like space they cannot be brought to an end;

they acquire a body manifesting infinite buddha-lands within all buddha-

lands, being free from greed and attachment, unbounded as space; they

acquire a body ceaselessly manifesting all aspects of miraculous power,

being boundless as the sky and ocean; they acquire a body of indestruc-

tible durable strength, sustaining all worlds like space; they acquire a

body with all senses clear and sharp, indestructible as adamant, because

like space they cannot be burned by the fires that end an eon; they acquire

a body of power to hold all worlds, their power of knowledge being like

space.

 

Page 877 – The Ten Acceptances

 

“These are called the ten acceptances of enlightening beings.”

Chư Phật-tử! Thế nào là đại Bồ-Tát như-không-nhẫn?

Ðại Bồ-Tát nầy rõ tất cả pháp-giới như hư-không, vì vô-tướng. Tất cả thế-giới như hư-không, vì vô-khởi. Tất cả pháp như hư-không vì vô-nhị. Tất cả chúng-sanh hạnh như hư-không, vì vô-sở-hành. Tất cả Phật như hư-không, vì vô-phân-biệt. Tất cả phật-lực như hư-không, vì vô-sai-biệt. Tất cả thiền-định như hư-không, vì tam-thế bình-đẳng. Tất cả pháp diễn thuyết như hư-không, vì chẳng ngôn thuyết được. Tất cả thân Phật như hư-không, vì vô-trước vô-ngại.

Bồ-Tát dùng phương-tiện như hư-không rõ thấu tất cả pháp đều không chỗ có.

Ðại Bồ-Tát dùng nhẫn-trí như hư-không lúc thấu rõ tất cả pháp thời được thân và thân-nghiệp như hư-không, được ngữ và ngữ-nghiệp như hư-không, được ý và ý-nghiệp như hư-không.

Ví như hư-không, tất cả pháp y-tựa, chẳng sanh chẳng diệt.

Cũng vậy, đại Bồ-Tát, tất cả pháp thân chẳng sanh chẳng diệt.

Ví như hư-không, chẳng thể phá hoại được. Cũng vậy, đại Bồ Tát, tất cả trí-huệ các lực chẳng thể phá hoại được.

Ví như hư-không là chỗ y-chỉ của tất cả thế-gian mà không sở-y. Cũng vậy, đại Bồ-Tát là chỗ y-chỉ của tất cả pháp mà không sở-y.

Ví như hư-không bất sanh bất diệt mà hay giữ lấy tất cả thế-gian sanh diệt. Cũng vậy, đại Bồ-Tát không hướng không đắc mà hay thị-hiện hướng đắc, khiến khắp thế-gian tu hành thanh-tịnh.

Ví như hư-không chẳng có chỗ chẳng có góc mà hay hiển-hiện vô-biên chỗ góc. Cũng vậy, đại Bồ-Tát không nghiệp không báo mà hay hiển-thị những thứ nghiệp báo.

Ví như hư-không chẳng đi chẳng đứng mà hay thị-hiện các thứ oai-nghi. Cũng vậy, đại Bồ-Tát chẳng đi chẳng đứng mà hay phân-biệt tất cả các hành.

Ví như hư-không chẳng phải sắc chẳng phẳng phải phi-sắc mà hay thi-hiện các loại màu sắc. Cũng vậy, đại Bồ-Tát chẳng phải sắc thế-gian, chẳng phải sắc xuất thế-gian mà hay thị-hiện tất cả thân sắc.

Ví như hư-không chẳng phải lâu chẳng phải gần mà hay ở lâu hiển hiện tất cả vật. Cũng vậy, đại Bồ-Tát chẳng phải lâu chẳng phải gần mà hay ở lâu hiển-thị những hạnh của Bồ-Tát làm.

Ví như hư-không chẳng phải tịnh chẳng phải uế, chẳng rời tịnh uế. Cũng vậy, đại Bồ-Tát chẳng phải chướng chẳng phải không chướng, chẳng rời chướng không chướng.

Ví như hư-không tất cả thế-gian đều hiện ra trước, chẳng phải hiện ra trước tất cả thế-gian. Cũng vậy, đại Bồ-Tát tất cả pháp đều hiện ra trước, chẳng phải hiện ra trước tất cả pháp.

Ví như hư-không vào khắp tất cả mà không biên-tế. Cũng vậy, đại Bồ-Tát vào khắp tất cả pháp, mà tâm Bồ-Tát không biên-tế. Tõi sao vậy ? Vì chỗ làm của Bồ-Tát như hư-không. Nghĩa là việc tu tập, việc nghiêm-tịnh, việc thành-tựu thảy đều bình-đẳng, một thể, một vị, một thứ phần lượng. Như hư-không thanh-tịnh khắp tất cả chỗ.

Ðại Bồ-Tát như vậy chứng biết tất cả pháp, với tất cả pháp không có phân-biệt. Nghiêm-tịnh tất cả Phật-độ. Viên-mãn tất cả thân vô-sở-y. Rõ tất cả phương không có mê lầm. Ðủ tất cả lực chẳng thể phá hoại. Ðầy đủ tất cả vô-biên công-đức. Ðã đến tất cả pháp-xứ thậm-thâm. Thông đạt tất cả đạo ba-la-mật. Ngồi khắp tất cả tòa kim-cang. Phát khắp tất cả tiếng tùy loại. Vì tất cả thế-gian mà chuyển pháp-luân chưa từng lỗi thời.

Ðây gọi là hư-không-nhẫn thứ mười của đại Bồ-Tát.

Ðại Bồ-Tát thành-tựu nhẫn nầy thời được thân Như-Lai, vì vô-khứ. Ðược thân vô-sanh vì vô-diệt. Ðược thân bất-động, vì vô-hoại. Ðược thân chơn-thiệt, vì rời hư-vọng. Ðược thân nhứt-tướng, vì vô-tướng. Ðược thân vô-lượng, vì phật-lực vô-lượng. Ðược thân bình-đẳng, vì đồng tướng như. Ðược thân vô-sai-biệt, vì quán tam-thế bình-đẳng. Ðược thân đến tất cả chỗ, vì tịnh nhãn chiếu khắp không chướng ngại. Ðược thân rời dục-tế, vì biết tất cả pháp không hiệp tan. Ðược thân hư-không vô-biên-tế, vì phước-đức-tạng vô tận như hư-không. Ðược thân biện-tài vô-đoạn vô-tận pháp-tánh bình-đẳng, vì biết tất cả, pháp-tướng chỉ là một tướng, không tánh làm tánh như hư-không. Ðược thân âm-thanh vô-lượng vô-ngại, vì không chướng ngại như hư-không. Ðược thân đầy đủ tất cả bồ-tát hạnh thiện-xảo thanh-tịnh, vì nơi tất cả chỗ đều không chướng-ngại như hư-không. Ðược thân tất cả phật-pháp thứ đệ tiếp nối, vì chẳng thể đoạn tuyệt như hư-không. Ðược thân trong tất cả cõi Phật hiện vô-lượng phật-độ, vì rời tham chấp như hư-không vô-biên. Ðược thân thị-hiện tất cả pháp tự-tại không thôi nghỉ, vì như hư-không chẳng có biên-tế. Ðược thân tất cả thế-lực kiên cố chẳng thể phá hoại, vì như hư-không nhiệm-trì tất cả thế-gian. Ðược thân các căn sáng lẹ như kim-cang kiên-cố không thể phá hoại, vì như hư-không tất cả kiếp hỏa chẳng đốt cháy được. Ðược thân có sức giữ lấy tất cả thế-gian, vì sức trí-huệ như hư-không.

Chư Phật-tử! Trên đây gọi là mười nhẫn của đại Bồ-Tát.

 

Then the great enlightening being Universally Good, in order to

restate this teaching, spoke these verses:

Bấy giờ Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa nầy mà nói kệ rằng:

 

Just as people of the world

Hearing of a mine ofjewels

Become glad at heart

Because they can obtain them.

So enlightening beings.

Endowed with great wisdom,

Hearing the buddhas’ teaching,

The most profound character of nullity,

Become calm at heart

When they hear this teaching.

 

They are not startled or frightened,

Nor are they overawed;

Great beings seeking enlightenment,

Hearing this grandiose message,

Minds pure, able to accept,

Have no doubt about it.

 

Thinking to themselves that by hearing this

Exceedingly profound and subtle teaching

They will become omniscient

Guides of heaven and earth,

Enlightening beings, hearing this message,

Are very glad at heart.

 

Producing steadfast determination,

Vowing to seek the buddhas’ truths,

Because they incline to enlightenment

Their minds are gradually tamed.

 

It causes their faith to grow,

Not repudiating truth —

Therefore, hearing this message.

Their minds are able to accept it.

 

Immutable, stable,

They cultivate enlightening practice;

In their quest for enlightenment.

They proceed wholeheartedly toward that path.

 

Diligent, vigorous, never turning back,

They do not cast off the yoke of virtues.

 

Page 878 – The Flower Ornament Scripture

 

Because they seek enlightenment.

Their minds are without fear;

Hearing the truth, they become yet braver

And serve the buddhas, gaining rapport with them.

 

As someone of great fortune

Who has found a treasure of gold

Makes whatever ornaments

Are suitable to wear,

So do enlightening beings,

Hearing this most profound doctrine,

Think and increase the ocean of knowledge.

Thereby cultivating conformity to the teaching.

 

The existence of things they know accordingly,

The nonexistence of things they also know accordingly;

As the truth of the teaching is thus,

Thus do they know all things.

 

Achieving a pure mind.

Thoroughly clear, full of joy.

They know things arise from conditions

And vigorously cultivate practice;

They see all things impartially

And comprehend their inherent nature.

 

Not straying from the Buddha’s teaching,

They are aware of all things;

Their determination is always firm

As they purify enlightenment.

 

Immovable as mountains,

Single-mindedly seeking true awakening,

With a mind inspired to effort

They also cultivate the path of concentration,

Practicing diligently for countless eons,

With never any regression or digression.

 

The principles enlightening beings enter

Are the sphere of action of buddhas;

Able to know them thoroughly.

Their minds without aversion or slofh,

As the Peerless One teaches,

They look upon things impartially.

 

Without impartial acceptance

None can attain equammous knowledge;

 

Page 879 – The Ten Acceptances

 

Following the Buddha’s teaching,

They accomplish this facet of acceptance;

They know things as they are

Yet have no notion of things.

 

All the gods

Of the thirty-three heavens

Eat from the same vessel

Yet their food is not the same:

The various foods they eat

Do not come from the ten directions —

They spontaneously appear in the vessel

According to the actions of the gods.

 

In the same way do enlightening beings

Observe all phenomena

As arising from conditions —

Having no origin, they have no destruction;

Having no destruction, they have no extinction;

If there is no extinction, there is no defilement.

 

In the changing things of the world

They know there is no change;

There being no change, there is no location,

And no location means nullity.

 

Their minds without attachment.

They vow to liberate all the living,

Thinking only of the Buddha Way,

Never distracted or perturbed,

Ever with compassionate will

Acting expediently in the world.

 

Diligently seeking the ten powers.

They are in the world without lingering;

Without coming or going,

They expediently teach the truth.

 

These acceptances are supreme.

Comprehending truth without end,

Entering the cosmos of reality.

Yet actually without entering anywhere.

 

Enlightening beings abiding in these acceptances

See the buddhas everywhere

Simultaneously giving them directions —

This is called getting the joy of buddhahood.

 

Page 880 – The Flower Ornament Scripture

 

They comprehend the nullity and purity

Of all things of all times,

Yet can influence sentient beings

Into the path of virtue.

 

The various things of the world

Are all illusory;

If one can know this is so,

One’s mind will be unshakable.

 

All acts are born from mind.

Therefore it is said mind is like magic:

If one gets rid of this false imagination.

One extinguishes all paths of existence.

 

Just as a skillful magician

Causes forms to appear,

Causing the masses to crave them in vain,

While they ultimately get nothing,

So also is the world —

All in it is illusion,

Without essence or origin.

Yet appearing variously.

 

Liberating living beings,

Letting them know things are illusory,

Living beings, too, are not other than illusion —

On comprehending illusion, there are no “living beings.”

 

Living beings and lands.

All things there are in all times,

In the same way, without exception,

Are all illusory.

 

Making illusory forms of men and women,

Elephants, horses, cattle, and sheep,

Houses, ponds, springs, and such,

Gardens, groves, flowers, and fruits.

Illusory things have no awareness

And also have no abode;

Ultimately of the character of nullity.

They only appear according to imagination.

 

Enlightening beings are able to see

Things of the world this way —

All things, existent and nonexistent,

 

Page 881 – The Ten Acceptances

 

They realize are illusions;

Living beings and lands

Are made by various acts.

 

Entering the realm of illusion,

They have no attachment therein;

Thus attaining skillfulness.

They are tranquil, free from folly.

 

In the state of nonobstruction

Manifesting great power everywhere,

The courageous offspring of Buddha

Accordingly enter the sublime Teaching,

Accurately perceiving all conceptions

As wrapping up the world in their mesh.

The conceptions like mirages

Causing beings to misunderstand.

 

Enlightening beings, knowing conceptions well,

Get rid of all delusions.

Living beings, each different,

Are not the same in form and type;

Enlightening beings understand these are all conceptions,

All without true reality.

 

All beings in the ten directions

Are shrouded by conceptions;

If they would give up erroneous views.

They would end their conceptions of the world.

 

The world is like a mirage.

Differentiated because of conceptions;

Knowing the world is an ideation,

One is freed from delusion of thought, view, and mind.

 

Just as a mirage in the heat

People think is water.

Yet the water does not exist

And the wise should not seek it.

The same is true of sentient beings:

Worldly states are all nonexistent.

Like mirages, existing in the perception —

This is the realm of the unobstructed mind.

 

If one detaches from conceptions

One will get rid of false descriptions,

 

Page 882 – The Flower Ornament Scripture

 

Liberating all the ignorant

Who are attached to ideas.

 

Avoiding pride and conceit,

Eliminating conceptions of the world.

Dwelling on the point of extinction and infinity,

This is enlightening beings’ method.

 

Enlightening beings realize things of the world

Are all like dreams,

Neither having nor lacking location,

Eternally null in essence.

 

All things have no discrimination;

Like dreams, they are not different from mind —

The worlds of past, present, and future

Are all like this.

 

The substance of dreams has no birth or destruction

And also has no location.

The three worlds are all like this —

Those who see this are freed in mind.

 

Dreams are not in the world,

Nor are they unworldly:

Not discriminating these two.

One enters the stage of acceptance.

 

Just like seeing in dreams

Various different forms,

So also is the world

No different from a dream.

 

Those in dream-concentration

Realize all in the world is like a dream,

Not the same and not different.

Not one and not various.

 

The acts of beings and lands.

Polluted and pure,

They understand all

Are equal to dreams.

 

The practices of enlightening beings

As well as their great vows

They understand are all like dreams,

No different from the world.

 

Page 883 – The Ten Acceptances

 

Realizing the world is empty,

They do not destroy the things of the world.

Like long, short, and such forms,

As seen in a dream.

 

This is called acceptance of the dreamlike;

Understanding things of the world by this,

One swiftly attains unhindered wisdom

To liberate sentient beings.

 

Cultivating such practice

Produces broad understanding.

Knowing well the nature of things.

Without mental attachment to things.

 

All the various sounds and voices

Of all realms of the world

Are not internal or external:

Realizing all are like echoes,

Like hearing all kinds of echoes,

The mind doesn’t discriminate.

 

When enlightening beings hear sounds

Their minds are also like this;

Looking to the buddhas

And listening to the sound of their teachings,

Their discourses without number,

Though they hear, they are not attached.

 

As echoes come from nowhere,

So do the voices they hear;

Yet they can distinguish the principles

And not violate or mistake them.

 

They understand utterances

While not discriminating among voices;

Knowing all voices are empty and null.

They broadcast pure, clear sounds.

 

Understanding truth is not in words,

They enter the wordless realm,

Yet can explain in words,

Like echoes filling the world.

 

They know the ways of speech

And are vocally well equipped;

 

Page 884 – The Flower Ornament Scripture

 

While knowing the nature of sound is null.

They speak the language of the world.

 

According to the voice of the world

They show the same differentiations,

Their voice pervading everywhere

Awakening living beings.

 

Enlightening beings, attaining this acceptance,

Influence the world with a pure message,

Skillfully explaining past, present, and future.

Without attachment to the world.

 

Because they want to help the world.

They single-mindedly seek enlightenment,

While always entering the nature of things

Without discriminatory thought therein.

 

They see all worlds

To be null, devoid of intrinsic nature,

Yet always cultivate practice intently

In order to benefit beings.

 

Not dwelling in the world,

Not leaving the world,

They do not rely on anything in the world —

Reliance cannot be found.

 

They know the nature of the world

And are not attached to that nature;

While they do not rely on beings,

They teach beings to transcend.

 

They know the inherent nature

Of everything in the world;

Understanding things are not dual,

They still have no attachment to nonduality.

 

Their minds are not apart from the world.

Nor do they dwell on the world;

It is not outside the world

That they cultivate all-knowledge.

 

Just as reflections in water

Are not inside or outside.

Enlightening beings seeking enlightenment

 

Page 885 – The Ten Acceptances

 

Know the world is not the world:

They do not dwell in or leave the world,

Because the world is inexplicable;

And they are not inside or outside.

Appearing in the world like reflections.

 

Entering this profound truth,

They are thoroughly purified;

Not giving up their original vow,

They are radiant lamps of wisdom.

 

Worlds without bound

Their knowledge enters, all equally;

Edifying beings everywhere.

They cause them to give up attachments.

 

Contemplating the most profound truth,

Aiding living beings.

Henceforth they enter into knowledge

And cultivate all its ways.

 

Enlightening beings examine all things,

Clearly realize all are like phantoms.

And carry out phantomlike practice,

Never giving it up.

 

Conforming to phantomlike nature,

They practice the way of enlightenment;

All things are like phantoms.

 

And so is enlightening beings’ practice.

 

All worldly realms

And infinite acts

Are equally phantomlike,

Ultimately resting in nullity.

 

The buddhas of all times

Are all like phantoms too;

Originally vowing to perform certain deeds.

They metamorphose into buddhas.

 

Buddh as liberate phantom beings

By great kindness and compassion;

The liberation is also phantomlike;

By phantom power they teach them.

 

Page 886 – The Flower Ornament Scripture

 

Knowing the world is all phantomlike,

They do not discriminate worldly realms;

Phantom phenomena, various, different.

All come from differences of action.

 

Cultivating enlightening practices.

Adorning phantom treasuries.

With arrays of infinite goodness

They make the world according to deeds.

 

Phantomlike things are beyond conception,

And they do not conceptualize things;

Both things and concepts are null and void —

Such is enlightening beings’ practice.

 

The sea of phantoms understood by knowledge,

The phantom nature stamps the world;

Phantoms are not things born and perishing —

The same is true of knowledge.

 

The tenth acceptance clearly sees

Sentient beings and phenomena

Are null and void in essence,

Like space, with no location.

 

Attaining this spacelike knowledge.

One is forever free from grasping and clinging;

Like space, it has no variation

And is unobstructed in the world.

 

Achievement of acceptance of being like space

Is, like space, inexhaustible:

Objects are like space,

Yet one does not think of them as space.

 

Space has no intrinsic nature.

And yet it is not nothingness.

But has no variation —

The power of knowledge is also like this.

 

Space has no beginning,

No middle, and no end;

Its measure cannot be found —

Enlightening beings’ knowledge is also thus.

 

Thus observing the nature of things,

All like space,

 

Page 887 – The Ten Acceptances

 

With no origin or destruction,

Is the attainment of enlightening beings:

Themselves abiding in the principle of being spacelike.

They also explain it to others,

Conquering all demons —

This is the method of the acceptances.

 

The distinctions of features of the world

Are empty, without any marks;

Entering into signlessness,

All signs are equal.

 

By one single means

They enter all worlds:

That is knowing that all things in all times

Are in essence equal to space.

 

Knowledge and voice

And the enlightening beings’ body

Are in essence like space —

All are quiescent and void.

 

These ten acceptances

Are cultivated by offspring of buddhas;

Their minds rest at peace.

And they explain them to others.

 

Learning them well.

They develop great power;

The powers of truth and knowledge

Become means to enlightenment.

 

Arriving at these acceptances,

They achieve unobstructed knowledge

Transcending the masses

And turn the unexcelled wheel of the Teaching.

 

The great practices they carry out

Are beyond measure —

Only the ocean of knowledge of the Tamer

Can know them in detail.

 

Giving up their egos to cultivate practice.

They plunge into the profound nature of reality;

Their minds always dwelling on pure truths.

These they give to others.

 

Page 888 – The Flower Ornament Scripture

 

The number of living beings

And atoms in lands may be known,

But no limit can be ascertained

To the virtues of enlightening beings.

 

Enlightening beings are able to accomplish

These ten acceptances;

Their wisdom and their conduct

No sentient beings can fathom.

Như trong đời có người
Nghe chỗ có kho báu
Vì có thể hưởng được
Nên lòng rất vui mừng.
Cũng vậy, đại trí – huệ
Bồ – Tát chơn phật – tử
Ðược nghe các phật – pháp
Tướng thậm – thâm tịch – diệt,
Lúc nghe thâm – pháp nầy
Trong tâm được an – ổn
Chẳng kinh cũng chẳng hãi
Cũng chẳng sanh sợ – sệt.
Ðại – Sĩ cầu bồ – đề
Nghe tiếng quảng đại nầy
Tâm tịnh hay kham nhẫn
Nơi đây không nghi lầm.
Tự nghĩ : do nghe được
Pháp thậm – thâm vi – diệu
Sẽ thành nhứt – thiết – trí
Nhơn – Thiên Ðại – Ðạo – Sư.
Bồ – Tát nghe tiếng nầy
Trong lòng rất hoan – hỉ
Phát sanh ý kiên – cố
Nguyện cầu các phật – pháp
Vì mến thích bồ – đề
Nên tâm lần điều phục
Lòng tin thêm tăng trưởng
Không trái chê chánh – pháp.
Thế nên nghe tiếng nầy
Nơi lòng được kham nhẫn
An trụ vững chẳng động.
Tu hành hạnh Bồ – Tát.
Vì cầu đạo bồ – đề
Chuyên tu hướng về đó
Tinh – tấn không thối chuyển
Chẳng bỏ những thiện nghiệp.
Vì cầu đạo bồ – đề
Trong lòng không sợ hãi
Nghe pháp thêm dũng – mãnh
Cúng Phật khiến hoan – hỉ.
Như có người đại – phước
Gặp được kho chơn – kim
Theo thân chỗ nên đeo
Chế tạo đồ trang – nghiêm.
Bồ – Tát cũng như vậy
Nghe nghĩa thậm – thâm này.
Tư – duy thêm trí – huệ
Ðể tu pháp tùy thuận.
Pháp hữu cũng thuận biết,
Pháp vô cũng thuận biết,
Tùy pháp đó như vậy
Như vậy biết các pháp.
Thành – tựu tâm thanh – tịnh
Minh triệt rất hoan – hỷ
Biết pháp theo duyên khởi
Dũng – mãnh siêng tu tập.
Bình – đẳng quán các pháp
Biết rõ tự tánh đó
Chẳng trái phật pháp – tạng
Biết khắp tất cả pháp.
Chí nguyện thường kiên cố
Nghiêm tịnh Phật bồ – đề
Bất – động như Tu – Di
Nhứt tâm cầu chánh – giác.
Do phát tâm tinh – tấn
Lại tu đạo tam – muội
Vô – lượng kiếp siêng làm
Chưa từng có thối thất.
Pháp của Bồ – Tát nhập
Là chỗ đi của Phật
Nơi đây rõ biết được
Thời không lòng lười chán.
Như lời chư Phật dạy
Bình – đẳng quán các pháp
Chẳng phải nhẫn bất – đẳng.
Thành được trí bình – đẳng.
Tùy thuận lời Phật nói
Thành – tựu môn pháp nầy
Biết rõ đúng như pháp
Cũng chẳng phân – biệt pháp.
Trong Tam – Thập – Tam Thiên
Có bao nhiêu Thiên – Tử
Cùng đồng ăn một bát
Ðồ ăn đều khác nhau.
Ðồ ăn riêng nhiều món
Chẳng từ mười phương đến
Ðúng theo nghiệp đã tu
Tự – nhiên hiện trong bát.
Bồ – Tát cũng như vậy
Quán – sát tất cả pháp
Ðều từ nhơn duyên khởi
Vô – sanh nên vô – diệt,
Vô – diệt nên vô – tận,
Vô – tận nên vô – nhiễm,
Nơi pháp biến – dị kia
Biết rõ không biến – dị.
Không đổi thời không xứ
Không xứ thời tịch – diệt,
Trong lòng không nhiễm trước
Nguyện độ các chúng – sanh.
Chuyên niệm nơi phật-pháp
Chưa từng có tán động
Mà dùng tâm bi nguyện
Phương – tiện đi trong đời.
Siêng cầu nơi thập – lực
Ở đời mà chẳng trụ,
Không đi cũng không đến
Phương – tiện khéo thuyết pháp.
Nhẫn nầy là trên hết
Biết pháp là vô – tận
Vào nơi chơn pháp – giới
Thiệt cũng không sở – nhập.
Bồ – Tát trụ nhẫn nầy
Thấy khắp các Như – Lai
Ðồng thời thọ ký cho
Gọi là thọ Phật – chức.
Thấu rõ pháp tam – thế
Tướng tịch – diệt thanh – tịnh
Mà đều độ chúng – sanh
Ðể ở trong đường lành.
Các loại pháp thế – gian
Tất cả đều như huyễn
Nếu biết được như vậy
Thời tâm không bị động
Các nghiệp từ tâm sanh
Nên nói tâm như huyễn
Nếu rời phân – biệt nầy
Diệt hết cõi hữu – lậu.
Ví như nhà huyễn – thuật
Khắp hiện các sắc tượng
Cho chúng luống tham vui
Rốt ráo vô – sở – đắc.
Thế – gian cũng như vậy
Tất cả đều như huyễn
Vô – tánh cũng vô – sanh
Thị – hiện có các thứ.
Ðộ thoát các chúng – sanh
Khiến biết pháp như huyễn
Chúng -sanh chẳng khác huyễn
Biết huyễn không chúng – sanh.
Chúng – sanh và quốc – độ
Những pháp trong tam – thế
Như vậy đều không thừa
Tất cả đều như huyễn.
Huyễn làm hình nam nữ
Và voi, ngựa, trâu, dê
Nhà cửa, núi, suối, ao
Vườn, rừng, cùng bông, trái,
Vật huyễn không tri – giác
Cũng không có trụ xứ
Rốt ráo tướng tịch – diệt
Chỉ theo phân – biệt hiện.
Bồ – Tát được như vậy
Thấy khắp các thế – gian
Tất cả pháp hữu vô
Thấu rõ đều như huyễn.
Chúng – sanh và quốc – độ
Các thứ nghiệp tạo ra
Vào nơi như – huyễn – tế
Với kia không nương chấp.
Ðược thiện – xảo như vậy
Tịch – diệt không hí – luận
Trụ nơi bực vô – ngại
Khắp hiện oai – lực – lớn.
Các Phật – tử dũng – mãnh
Tùy thuận nhập diệu – pháp
Khéo quán tất cả tưởng
Ràng – rịt các thế – gian.
Các tưởng như dương – diệm
Khiến chúng hiểu điên – đảo.
Chúng – sanh đều riêng khác
Hình loại chẳng phải một
Thấu rõ đều là tưởng
Bỏ rời những điên – đảo.
Chúng – sanh đều riêng khác
Hình loại chẳng phải một
Thấu rõ đều là tưởng
Tất cả không chơn – thiệt.
Các chúng – sanh mười phương
Ðều bị tưởng che ngăn
Nếu bỏ thấy điên – đảo
Thời diệt tưởng thế – gian.
Thế – gian như dương – diệm
Do tưởng có sai khác
Biết thế – gian do tưởng
Xa lìa ba điên – đảo.
Như – nắng quá gắt nóng
Người đời cho là nước
Thiệt ra không có nước
Người trí chẳng nên cầu.
Chúng – sanh cũng như vậy
Ðời loài đều không có
Như diệm ở nơi tưởng
Cảnh – giới tâm vô – ngại.
Nếu lìa những vọng tưởng
Cũng lìa những hí – luận
Kẻ ngu – si chấp tưởng
Ðều khiến được giải – thoát.
Xa lìa tâm kiêu – mạn
Trừ diệt tưởng thế – gian
Ở chỗ tận vô – tận
Phương – tiện của Bồ – Tát.
Bồ – Tát biết thế pháp
Tất cả đều như mộng
Chẳng chỗ, chẳng không chỗ
Thể – tánh hằng tịch – diệt.
Các pháp vô – phân – biệt
Như mộng, tâm không khác
Tam thế những thế – gian
Tất cả đều như vậy.
Tánh mộng không sanh – diệt
Cũng không có phương sở
Ba cõi đều như vậy
Người thấy tâm giải – thoát.
Mộng chẳng tại thế – gian
Chẳng tại phi thế – gian
Cả hai chẳng phân – biệt
Ðược nhập nơi bực nhẫn.
Như trong mộng ngó thấy
Những cảnh loại khác nhau,
Thế – gian cũng như vậy
Cùng mộng không sai khác.
Người trụ trong mộng – định
Biết đời đều như mộng
Chẳng phải đồng và khác
Chẳng phải một và nhiều.
Chúng – sanh các cõi, nghiệp,
Tạp – nhiễm và thanh – tịnh
Như vậy đều biết rõ
Cùng mộng đều bình – đẳng.
Hạnh của Bồ – Tát làm
Và cùng các đại nguyện
Biết rõ đều như mộng
Cùng thế – gian không khác.
Biết thế – gian không tịch
Chẳng hoại nơi thế – pháp
Như chiêm bao ngó thấy
Những hình sắc dài vắn.
Gọi đây : như – mộng – nhẫn
Nhơn đây biết thế pháp
Mau thành trí vô – ngại
Rộng độ các chúng – sanh.
Tu hành hạnh như vậy
Xuất sanh trí rộng lớn
Khéo biết các pháp – tánh
Nơi pháp tâm không chấp.
Tất cả các thế – gian
Những âm – thanh sai khác
Chẳng phải trong, chẳng ngoài
Biết đó đều như vang.
Như nghe các tiếng vang
Tâm chẳng sanh phân – biệt
Bồ – Tát nghe âm – thanh
Không phân – biệt cũng vậy.
Chiêm ngưỡng các Như – Lai
Và nghe nói pháp – âm
Diễn khế – kinh vô – lượng
Dầu nghe mà không chấp.
Như vang không lai khứ
Tiếng đã nghe cũng vậy
Mà hay phân – biệt pháp
Cùng pháp không trái lầm.
Khéo biết các âm – thanh
Nơi tiếng không phân – biệt
Biết tiếng đều không – tịch
Khắp phát âm thanh – tịnh
Biết pháp chẳng tại lời
Khéo vào vô – ngôn – tế
Mà hay hiện ngôn thuyết
Như vang khắp thế – gian.
Biết rõ ngôn – ngữ – đạo
Ðầy đủ phần âm – thanh
Biết thanh – tánh không tịch
Dùng thế – ngôn để nói
Như âm – thanh thế – gian
Hiện đồng pháp phân – biệt
Tiếng đó đều cùng khắp
Khai ngộ các quần – sanh.
Bồ – Tát được nhẫn nầy
Tịnh – âm độ thế – gian
Khéo diễn thuyết ba đời
Nơi đời không chấp trước.
Vì muốn lợi thế – gian
Chuyên ý cầu bồ – đề
Mà thường nhập pháp – tánh
Nơi đó vô – phân – biệt.
Quán khắp các thế – gian
Tịch – diệt không thể – tánh
Mà thường làm lợi ích
Tu hành ý chẳng động.
Chẳng trụ nơi thế – gian
Cũng chẳng rời thế – gian
Nơi thế không sở – y
Y – xứ bất – khả – đắc.
Rõ biết tánh thế – gian
Nơi tánh không nhiễm trước
Dầu chẳng nương thế – gian
Giáo hóa khiến siêu độ.
Bao nhiêu pháp thế – gian
Ðều biết tự – tánh nó
Rõ pháp không có hai
Cũng không chấp không hai
Tâm cũng chẳng rời thế – gian
Cũng chẳng trụ thế – gian
Chẳng phải ngoài thế – gian
Tu hành nhứt – thiết – trí.
Ví như bóng trong nước
Chẳng phải trong chẳng ngoài
Bồ – Tát cầu bồ – đề
Biết thế chẳng phải thế
Chẳng nơi thế trụ xuất
Vì thế bất – khả – thuyết
Cũng chẳng trụ trong ngoài
Như bóng hiện thế – gian.
Nhập nghĩa thậm – thâm nầy
Lìa nhơ đều sáng suốt
Chẳng bỏ tâm bổn – thệ
Ðèn trí – huệ chiếu khắp.
Thế – gian không biên – tế
Trí nhập cũng vô – biên
Giáo hóa khắp quần – sanh
Khiến họ bỏ những chấp.
Quán – sát pháp thậm – thâm
Lợi ích những quần – sanh
Từ đây nhập vào trí
Tu hành tất cả đạo.
Bồ – Tát quán các pháp
Biết chắc đều như hóa
Mà tu hạnh như hóa
Rốt ráo trọn chẳng bỏ.
Tùy thuận hóa – tự – tánh
Tu tập đạo bồ – đề
Tất cả pháp như hóa
Bồ – Tát hạnh cũng vậy.
Tất cả các thế – gian
Và cùng vô – lượng nghiệp
Bình – đẳng đều như hóa
Rốt ráo trụ tịch – diệt.
Những Phật trong tam thế
Tất cả cũng như hóa
Bổn – nguyện tu các hạnh
Biến – hóa thành Như – Lai.
Phật dùng đại từ bi
Ðộ thoát hóa chúng – sanh
Ðộ thoát cũng như hóa
Hóa – lực vì thuyết pháp.
Biết thế – gian như hóa
Chẳng phân – biệt thế – gian
Hóa – sự nhiều loại khác
Ðều do nghiệp sai – biệt.
Tu tập hạnh bồ – đề
Trang – nghiêm nơi hóa – thành
Vô – lượng khéo trang – nghiêm
Như nghiệp làm thế – gian.
Pháp nầy rời phân – biệt
Cũng chẳng phân – biệt pháp
Cả hai đều tịch – diệt
Hạnh Bồ – Tát như vậy.
Hóa – hải rõ nơi trí,
Hóa – tánh ấn thế -gian
Hóa chẳng phải sanh diệt
Trí – huệ cũng như vậy.
Nhẫn thứ mười quán rõ
Chúng – sanh và các pháp
Thể – tánh đều tịch – diệt
Không xứ – sở như không
Ðược trí như – không nầy
Lìa hẳn các chấp trước
Như hư – không vô – tướng
Nơi thế – gian vô – ngại

Thành – tựu sức không – nhẫn
Như hư – không vô – tận
Cảnh – giới như hư – không
Chẳng phân – biệt hư – không.
Hư – không không thể tánh
Cũng chẳng phải đoạn diệt
Cũng không những sai khác
Trí – lực cũng như vậy
Hư – không không sơ – tế
Cũng không có trung, hậu
Lượng đó bất – khả – đắc
Trí Bồ – Tát cũng vậy.
Quán pháp – tánh như vậy
Tất cả như hư – không
Không sanh cũng không diệt
Sở – đắc của Bồ – Tát.
Tự trụ pháp như – không
Lại vì chúng – sanh nói
Hàng – phục tất cả ma
Phương – tiện của nhẫn nầy.
Tướng thế – gian sai khác
Ðều không chẳng có tướng
Vào nơi chỗ vô – tướng
Các tướng đều bình – đẳng.
Chỉ dùng một phương – tiện
Vào khắp các thế – gian
Là biết pháp tam – thế
Ðều đồng tánh hư – không.
Trí – huệ cùng âm thanh
Và thân của Bồ – Tát
Tánh đó như hư – không
Tất cả đều tịch – diệt.
Mười thứ nhẫn như vậy
Phật – tử đã tu hành
Tâm họ khéo an – trụ
Rộng vì chúng – sanh nói.
Nơi đây khéo tu học
Thành – tựu sức quảng – đại
Pháp – lực và trí – lực
Là phương – tiện bồ – đề.
Thông đạt môn nhẫn nầy
Thành – tựu trí vô – ngại
Vượt hơn tất cả chúng
Chuyển pháp – luân vô – thượng.
Hạnh quảng – đại đã tu
Lượng đó bất – khả – đắc
Ðiều – Ngự – Sư trí – hải
Mới phân – biệt biết được
Bỏ ngã mà tu hành
Nhập vào pháp – tánh sâu
Tâm thường trụ tịnh – pháp
Dùng đây thí quần – sanh.
Chúng – sanh và sát – trần
Còn biết được số đó
Công – đức của Bồ -Tát
Không thể biết hạn lượng.
Bồ – Tát hay thành – tựu
Mười thứ nhẫn như vậy
Trí – huệ và công – hạnh
Chúng – sanh chẳng lường được.

 

Sources:

Tài liệu tham khảo:

  1. https://thienphatgiao.wordpress.com/2013/06/02/kinh-hoa-nghiem-thich-tri-tinh-dich-tap-3-8/9/
  2. https://terebess.hu/zen/mesterek/avatamsaka-cleary.pdf
  3. https://thuvienhoasen.org/p16a551/29-pham-thap-nhan