Phẩm 21: Kinh Hoa Nghiêm – Thập-Hạnh – (Hán bộ sau quyển 19 – 20) – Song ngữ
English: Thomas Cleary – 1984.
Việt ngữ: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh – PL 2527 – 1983.
Compile: Lotus group.
Book Twenty-one: Ten Practices – page 401 – 431
Phẩm 21: Kinh Hoa Nghiêm – Thập-Hạnh – (Hán bộ sau quyển 19 – 20)
THEN THE ENLIGHTENING BEING Forest of Virtues, imbued with the
Buddha’s power, entered into absorption in the skillful meditation of
enlightening beings; when he had entered this absorption, there ap-
peared before him Buddhas from beyond as many lands as atoms in ten
thousand buddha-lands from each direction, and all were named Forest
of Virtues. They said to the enlightening being Forest of Virtues, “Very
good it is, O Child of Buddha, that you are able to enter this concentra-
tion in skillful meditation. Good man, it is the collective empowerment
of the Buddhas of the same name, as many as atoms in ten thousand
buddha-lands from each of the ten directions, and also the power of the
past vows and the spiritual force of Vairocana Buddha, as well as the
power of the virtues of the enlightening beings, that enables you to
enter this concentration and expound the teaching, for the sake of
increasing in enlightened knowledge, deep entry into the realm of
reality, comprehension of the realms of sentient beings, nonobstruction
in what is entered into, nonhindrance in the realm of activity, attain-
ment of infinite skill in means, embracing of the essence of all knowledge,
conscious realization of all truths, knowledge of all faculties, and ability
to uphold and explain all the teachings; in other words, it is for
initiating ten kinds of practice of enlightening beings. Good man, you
should receive the spiritual power of the Buddhas to expound this
teaching.”
Lúc bấy giờ, thừa thần-lực của đức Phật, Công-Ðức-Lâm Bồ-Tát nhập Bồ-Tát thiện-tư-duy tam-muội. Nhập tam-muội này rồi, mười phương đều quá ngoài vạn phật-sát vi-trần-số thế-giới, có vạn phật-sát vi-trần-số chư Phật đều hiện Công-Ðức-Lâm hiện ra nơi trước mà bảo Công-Ðức-Lâm Bồ-Tát rằng:
Lành thay Phật-tử! Ông có thể nhập thiện-tư-duy tam-muội này! Ðây mười phương đều vạn phật-sát vi-trần-số Như-Lai cùng một danh-hiệu đồng gia-hộ ông. Và cũng là nguyện-lực thần-lực của Phật Tỳ-Lô-Giá-Na và thiện-căn-lực của chúng Bồ-Tát khiến ông nhập tam-muội này để diễn thuyết pháp: Vì tăng-trưởng phật-trí, vì thâm-nhập pháp-giới, vì rõ chúng-sanh-giới, vì sở-nhập vô-ngại, vì sở-hành vô-chướng, vì được vô-lượng phương-tiện, vì nhiếp-thủ nhứt-thiết-trí tánh, vì giác-ngộ tất cả pháp, vì biết tất cả căn-tánh, vì có thể thọ-trì giảng-thuyết tất cả pháp. Nghĩa là phát khởi mười hạnh của Bồ-Tát.
Then the Buddhas bestowed on the enlightening being Forest of
Virtues unobstructed knowledge, unattached knowledge, uninterrupted
knowledge, teacherless knowledge, knowledge without folly, unvarying
knowledge, unerring knowledge, immeasurable knowledge, invincible
knowledge, unflagging knowledge, and knowledge that cannot be taken
away.
Why? Because the power of this concentration is naturally thus.
Này Phật-tử! Ông nên thừa oai-lực của Phật mà diễn thuyết pháp thập hạnh này.
Chư Phật khuyên cáo xong, liền ban cho Công-Ðức-Lâm Bồ-Tát vô-ngại-trí, vô-trước-trí, vô-đoạn-trí, vô-sư-trí, vô-si-trí, vô-dị-trí, vô-thất-trí, vô-lượng-trí, vô-thắng-trí, vô-giải-đãi-trí, vô-đoạt-trí.
Tại sao vậy? Vì công-lực của tam-muội này là như vậy.
Then the Buddhas each extended their right hands and patted the
enlightening being Forest of Virtues on the head, whereupon he rose
from concentration and addressed the enlightening beings, saying, “O
Buddha Children, the practice of enlightening beings is inconceivable,
equal to the space of the cosmos. Why? Because enlightening beings
cultivate practice in emulation of the Buddhas of past, present, and
future. Buddha-Children, great enlightening beings have ten kinds of
practices, which are expounded by the Buddhas of past, present, and
future. What are the ten? (1) The practice of giving joy; (2) beneficial
practice; (3) the practice of nonopposition; (4) the practice of indomita-
bility; (5) the practice of nonconfusion; (6) the practice of good manifes-
tation; (7) the practice of nonattachment; (8) the practice of that which
is difficult to attain; (9) the practice of good teachings; (10) the practice
of truth.
Chư Phật đều đưa tay hữu xoa đảnh của Công-Ðức-Lâm Bồ-Tát.
Lúc đó Công-Ðức-Lâm Bồ-Tát xuất định nói với chư Bồ-Tát rằng:
Thưa Phật-tử! Hạnh của Bồ-Tát chẳng thể nghĩ bàn được. Hạnh đó đồng với pháp-giới hư-không-giới. Vì Bồ-Tát học theo tam-thế chư Phật mà tu hành vậy.
Những gì là hạnh của Bồ-Tát? Thưa chư Phật-tử! Ðại Bồ-Tát có mười hạnh sau đây, mà tam-thế chư Phật đều tuyên nói: Một là Hoan-hỷ-hạnh; hai là Nhiêu-ích-hạnh; ba là Vô-vi-hạnh, bốn là Vô-khuất-nhiễu-hạnh; năm là Vô-si-loạn-hạnh; sáu là Thiện-hiện-hạnh; bảy là Vô-trước-hạnh; tám là Nan-đắc-hạnh; chín là Thiện-pháp-hạnh; mười là Chơn-thiệt-hạnh.
“What is the great enlightening being’s practice of giving joy? Here
the enlightening beings are magnanimous givers, bestowing whatever
they have with an equanimous mind, without regret, without hoping
for reward, without seeking honor, without coveting material benefits,
but only to rescue and safeguard all living beings, to include all living
beings in their care, to benefit all living beings, and to emulate the
original practice of all Buddhas, recall the original practice of all Buddhas,
delight in the original practice of all Buddhas, purify the original
practice of all Buddhas, further develop the original practice of all
Buddhas, make manifest the original practice of all Buddhas, and ex-
pound the original practice of all Buddhas, to cause all sentient beings
to be relieved of pain and suffering and attain comfort and happiness.
Thế nào là Bồ-Tát hoan-hỷ-hạnh?
Bồ-Tát này làm đại-thí-chủ, phàm có vật gì đều bố-thí được cả, lòng bình-đẳng không hề hối tiếc, chẳng trông quả báo, chẳng cầu tiếng tăm, chẳng tham lợi-tức, chỉ vì cứu-hộ tất cả chúng-sanh, vì nhiếp-thọ chúng-sanh, vì lợi-ích chúng-sanh, vì học tập bổn-hạnh của chư Phật, vì nhớ đến bổn-hạnh của chư Phật, vì thích mến bổn-hạnh của chư Phật, vì thanh-tịnh bổn-hạnh của chư Phật, vì tăng-trưởng bổn-hạnh của chư Phật, vì trụ-trì bổn-hạnh của chư Phật, vì hiển-hiện bổn-hạnh của chư Phật, vì diễn thuyết bổn-hạnh của chư Phật, vì khiến chúng-sanh thoát khổ được vui.
“When great enlightening beings cultivate this practice, they cause all
living beings joy and delight. In any place there is poverty and want,
they go there by the power of will to be born noble and wealthy, so
that even if every single moment countless beings come to the enlighten-
ing beings and say, ‘O benevolent one, we are poor and in need,
without sustenance, hungry and weak, worn out and miserable, on the
brink of death; please pity us and give us your flesh to cat so that we
may live,’ the enlightening beings would immediately give it to them,
to gladden and satisfy them. Even should countless hundreds of thou-
sands of beings come begging this way, the enlightening beings would
not shrink back, but would rather increase even more in kindness and
compassion. Indeed, because sentient beings all come seeking, the en-
lightening beings, seeing them, would become more joyful, and think,
‘I have gained a fine boon; these beings arc my field of blessings, they
arc my good friends and benefactors — without my asking them, they
come to cause me to enter into the Buddha’s teaching. I should now
cultivate learning in this way, not controverting the wishes of sentient
beings.’ They also form this thought: ‘May all the good that I have
done, do, and will do, cause me in the future, in all worlds, among all
beings, to receive an immense body, so as to satisfy all starving beings
with the flesh of this body, and may I not die so long as even a single
tiny creature is still not filled, and may the flesh I cut off be inexhaustible.
By this virtue may I attain unexcelled complete perfect enlightenment,
and experience great nirvana; and may those who eat my flesh also
attain perfect enlightenment, attain impartial knowledge, fulfill all Bud-
dha teachings, extensively perform Buddha work until entering extinc-
tion without remainder. If the heart of even one sentient being is
unfulfilled, I will not attain unexcelled perfect enlightenment.’
Lúc đại Bồ-Tát tu hạnh này, khiến tất cả chúng-sanh hoan-hỷ mến thích. Chốn nào, cõi nào nghèo thiếu, Bồ-Tát dùng nguyện-lực sanh nơi đó, làm nhà hào quý giàu có vô-tận; Giả-sử trong mỗi niệm có vô-lượng chúng-sanh đến chỗ Bồ-Tát, vì đói khát mà xin thịt nơi thân Bồ-Tát để ăn, Bồ-Tát liền móc thịt nơi thân mình để dưng cho họ, khiến lòng họ thỏa mãn vui mừng, không hề khiếp sợ từ chối, chỉ càng tăng-trưởng tâm từ-bình-đẳng. Vì thế nên chúng-sanh đều đến để xin cầu. Bồ-Tát thấy họ đến xin, lòng thêm hoan-hỷ, vì nghĩ rằng tôi được lợi lớn, các chúng-sanh này là phước-điền của tôi, là thiện-hữu của tôi. Tôi chẳng cầu chẳng thỉnh mà họ đến dạy tôi vào trong phật-pháp. Tôi phải tu học thật-hành như vậy không để trái ý chúng-sanh.
“Thus do enlightening beings benefit the living, yet without any
concept of self or any concept of sentient beings, or any concept of
existence, or any concept of life, without various concepts — no concept
of personality, no concept of person, no concept of human being, no
concept of doer or receiver — they only observe the infinity of the realm
of reality and the realm of sentient beings, their emptiness, absence of
cxistents, signlessness, insubstantiality, indeterminacy, nondependence,
and noncreation.
Bồ-Tát lại nghĩ rằng: nguyện những căn lành mà tôi đã, sẽ, hay đương thật hành là cho tôi thọ thân hình to lớn trong tất cả thế-giới để được đem thịt nơi thân cung cấp cho tất cả chúng-sanh bị đói khổ, thịt còn mãi cắt lấy vô-tận, nhẫn đến còn một chúng-sanh nhỏ chư no đủ thời tôi nguyện không xả mạng. Do thiện-căn này nguyện được vô-thượng bồ-đề, chứng đại-niết-bàn. Nguyện cho những chúng-sanh đã ăn thịt tôi, cũng đều được vô-thượng bồ-đề, được trí bình-đẳng, đủ những phật-pháp, rộng làm phật-sự, nhẫn đến nhập vô-dư niết-bàn. Nếu còn một chúng-sanh lòng chưa thỏa-mãn, tôi trọn chẳng chứng vô-thượng bồ-đề. Bồ-đề lợi-ích chúng-sanh như vậy mà không ngã-tưởng, chúng-sanh-tưởng, hữu-tưởng, mạng-tưởng, các thứ tưởng, bổ-đặc-già-la-tưởng, nhơn-tưởng, ma-nạp-bà-tưởng, tác-giả-tưởng, thọ-giả-tưởng. Chỉ quán pháp-giới chúng-sanh-giới vô-biên-tế, quán không-pháp, vô-sở-hữu pháp, vô-tướng-pháp, vô-thể-pháp, vô-xứ-pháp, vô-y-pháp, vô-tác-pháp.
“When they perform this contemplation, they do not see themselves,
they do not sec anything given, they do not see a receiver, they do not
see a field of blessings, they do not see a deed, they do not see any
reward, they do not see any result, they do not see a great result, they
do not see a small result.
Lúc quán như vậy, chẳng thấy tự thân, chẳng thấy vật-bố-thí, chẳng thấy người thọ, chẳng thấy phước-điền, chẳng thấy nghiệp, chẳng thấy báo, chẳng thấy quả, chẳng thấy đại-quả, chẳng thấy tiểu-quả.
“Then the enlightening beings observe that all the bodies taken on by
living beings in the past, future, and present eventually perish; then
they form this thought: ‘How remarkable it is how foolish and ignorant
sentient beings are; within birth and death they receive countless bodies,
which are perishable and transient, soon returning to decay and extinction:
having already passed away, now passing away, and yet to pass away,
they still cannot use the destructible body to seek the indestructible
body. I should learn all that the Buddhas learn, to realize omniscience,
know all truths, and explain to sentient beings the indestructible nature
of reality, which is equal in past, present, and future, and which accords
with utmost tranquility and serenity, to cause them to permanently
attain peace and happiness.’
“This is called the great enlightening beings’ first practice, of giving joy.
Lúc bấy giờ Bồ-Tát quán thân của tất cả tam-thế chúng-sanh đều liền hoại-diệt, mà nghĩ rằng: lạ thay cho chúng-sanh ngu-si, vô-trí, ở trong sanh tử, thọ vô-số thân mỏng manh chẳng tạm dừng, mau về nơi hoại diệt, hoặc đã, hoặc hiện, hoặc sẽ hoại-diệt, mà họ chẳng thể đem thân chẳng bền để cầu thân kiên-cố.
Tôi phải học tập những điều mà chư Phật đã học tập, để được chứng nhứt-thiết-trí, biết nhứt-thiết-pháp, rồi vì chúng-sanh diễn thuyết tam-thế bình-đẳng tùy thuận pháp-tánh tịch-tịnh bất-hoại, khiến họ được vĩnh-viễn an-ổn khoái-lạc.
Ðây gọI là Bồ-Tát Hoan-Hỷ-Hạnh thứ nhứt.
“What is the great enlightening beings’ beneficial practice? Here
enlightening beings maintain pure self-control, and their minds have no
attachment to color or form, sound, fragrance, flavor, or feeling. Also
they preach this to sentient beings. They do not seek power, social
status, wealth, appearance, or dominions. They have no attachment to
anything, but just firmly uphold pure conduct, thinking, ‘As I maintain
pure discipline, I shall surely get rid of all bondage, the torment of
craving, oppression, slander, and disturbance, and will attain the impar-
tial truth praised by the Buddhas.’
Chư Phật-tử! Những gì là Bồ-Tát Nhiêu-Ích-Hạnh?
Bồ-Tát này hộ-trì tịnh-giới, lòng không nhiễm trước sắc thinh hương vị xúc. Cũng đem sự vô-trước ấy nói với chúng-sanh, chẳng cầu oai-thế, chẳng cầu chủng-tộc, chẳng cầu giàu có, chẳng cầu sắc-tướng, chẳng cầu ngôi vua, tất cả đều không nhiễm trước. Chỉ bền giữ tịnh-giới. Tự nghĩ: tôi trì tịnh-giới, quyết sẽ bỏ lìa tất cả triền phược, tham cầu, nhiệt não các nạn bức ngặt, hủy báng loạn trược, mà được chánh-pháp bình-đẳng của Phật khen ngợi.
“When enlightening beings maintain pure discipline in this way, even
if countless devils should come to them in a single day, each bringing
countless goddesses all well versed in the arts of pleasure, beautiful and
alluring, with various amusing things, in order to disturb the enlighten-
ing beings’ attention on the Way, the enlightening beings think, ‘These
desires are hindrances to the Way and obstruct unexcelled enlightenment.’
Therefore, they do not conceive even a single thought of lust; their
minds are as pure as Buddha. The only exception is in terms of
expedient means to teach and transform sentient beings — yet they still
do not relinquish the determination for omniscience.
Lúc Bồ-Tát trì tịnh-giới như vậy, trong một ngày, giả-sử có vô-số đại ác-ma đem vô-số thiên-nữ tuyệt đẹp trang-sức lộng lẫy vũ nhạc đờn cát-tường đến muốn làm mê loạn đạo-tâm của Bồ-Tát này. Bồ-Tát này liền suy nghĩ rằng: cảnh ngũ-dục này là thứ chướng đạo, nhẫn đến chướng vô-thượng bồ-đề. Do đây nên Bồ-Tát chẳng có mộ niệm dục-tưởng, lòng thanh-tịnh như Phật. Chỉ trừ phương-tiện giáo-hóa chúng-sanh, nhưng vẫn không rời tâm nhứt-thiết-trí.
“Enlightening beings do not afflict a single sentient being in pursuit
of their own desires; they would rather die themselves than to do
anything which would afflict a single being.
“After enlightening beings have gotten to see the Buddha, they never
arouse a single thought of desire, much less act upon desire.
Bồ-Tát không vì nhơn-duyên ngũ-dục mà làm não hại một chúng-sanh, thà bỏ thân mạng chớ trọn không làm sự não chúng-sanh.
Bồ-Tát từ khi được thấy Phật đến nay, chưa từng có một niệm dục-tưởng, huống là làm theo.
“At this point, enlightening beings think, ‘All sentient beings, through-
out the long night of ignorance, think of desires, pursue desires, and are
attached to desires; their minds are set in their ways and they are
addicted to desires, whirling along with them, not having any freedom.
Bồ-Tát thường nghĩ: các chúng-sanh mãi tưởng nhớ ngũ-dục, xu hướng ngũ-dục, tham trước ngũ-dục, lòng họ quyết phải say mê chìm đắm, rồi theo đó mà lưu-chuyển không được tự-tại.
I should cause these devils and these goddesses, and all sentient beings,
to abide by the unexcelled precepts; once they abide in pure discipline,
their minds will never turn back from the direction of universal
knowledge, and eventually they will attain unexcelled complete perfect
enlightenment, and finally enter complete extinction with no remainder.
Why? This is the work we ought to do. We should follow the Buddhas
in cultivating this learning, and having done so, divorce all bad actions
and get rid of the ignorance of the idea of self, enter all Buddha-
teachings by means of knowledge, and explain them to sentient beings,
to rid them of delusion, all the while knowing, however, that there is
no delusion apart from sentient beings and there are no sentient beings
apart from delusion, that there are no sentient beings within delusion
and no delusion within sentient beings, and also that it is not that
delusion is sentient beings or that sentient beings are a delusion — delusion
is not something inside or outside, and sentient beings are not some-
thing inside or outside. They know all things are unreal, suddenly
arising and suddenly perishing, having no solidity or stability, like
dreams, like reflections, like phantoms, like illusions, fooling the ignorant.
Nay tôi phải nên khiến bọn ma này cùng các thiên-nữ trụ nơi tịnh-giới, không thối-chuyển nơi nhứt-thiết-trí, được vô-thượng bồ-đề nhẫn đến vào vô-dư-niết-bàn. Vì đây là việc mà tôi phải thật hành. Tôi phải học tập theo Phật, phải rời bỏ ác-hạnh, chấp-ngã, si-mê. Dùng trí-huệ vào tất cả phật-pháp. Giảng thuyết cho chúng-sanh khiến họ trừ điên-đảo. Nhưng biết không ngoài chúng-sanh có điên-đảo, không ngoài điên-đảo có chúng-sanh, chẳng ở trong điên-đảo có chúng-sanh, chẳng ở trong chúng-sanh có điên-đảo. Cũng chẳng phải điên-đảo là chúng-sanh, chẳng phải chúng-sanh là điên-đảo. Ðiên-đảo chẳng phải nội- pháp ngoại-pháp, chúng-sanh cũng chẳng phải nội-pháp ngoại-pháp. Tất cả các pháp đều hư-vọng chẳng thiệt, chóng sanh chóng diệt không kiên-cố như mộng, như huyễn, như bóng, như vang, nói dối phỉnh kẻ ngu.
Those who understand in this way will be able to comprehend all
actions, to master birth and death as well as nirvana, to realize
enlightenment, to save themselves and cause others to gain salvation, to
liberate themselves and enable others to gain liberation, to conquer
themselves and cause others to be tamed, to become tranquil them-
selves and enable others to become tranquil, to be secure them-
selves and enable others to be secure, to be free from defilement
themselves and cause others to be free from defilement, to be pure
themselves and cause others to be pure, to be dispassionate themselves
and cause others to be dispassionate, to be happy themselves and cause
others to be happy.
“Here enlightening beings also form this thought: ‘I should follow all
the enlightened ones, detach from all worldly actions, fulfill all qualities
of buddhahood, abide in supreme equanimity, be impartial toward all
beings, clearly understand the objective realm, get rid of all error, cut
off all conceptualizations, abandon all attachments, and skillfully engi-
neer emancipation, to ever abide mentally in unexcelled, inexplicable,
independent, immutable, measureless, boundless, inexhaustible, formless,
most profound wisdom.’
“This is called the great enlightening beings’ second practice, of
beneficial action.
Hiểu được như vậy liền giác-ngộ được tất cả hành-pháp, thông đạt sanh tử và niết-bàn, chứng Phật bồ-đề, tự được độ và khến người được độ, tự được độ và khiến người được độ, tự giải-thoát và khiến người giải-thoát, tự điều-phục và khiến người điều-phục, được tịch-tịnh và khiến người tịch-tịnh, tự an-ổn và khiến người an-ổn, tự ly-cấu và khiến người ly-cấu, tự thanh-tịnh và khiến người thanh-tịnh, tự niết-bàn và khiến người niết-bàn, tự khoái-lạc và khiến người khoái-lạc.
Bồ-Tát này lại tự nghĩ rằng : tôi phải tùy thuận tất cả Như-Lai, rời tất cả hành-vi thế-gian, trọn nên tất cả phật-pháp, trụ nơi vô-thượng bình-đẳng, xem chúng-sanh bình-đẳng, rõ suốt cảnh-giới lìa lỗi, dứt phân biệt, bỏ chấp-trước, khéo xuất-ly, tâm luôn an-trụ nơi thậm-thâm trí-huệ vô-thượng vô-thuyết vô-y vô-động vô-lượng vô-biên vô-tận vô-sắc.
Ðây gọi là Bồ-Tát Nhiêu-Ích-Hạnh thứ hai.
“What is the great enlightening beings’ practice of nonopposition?
Here enlightening beings always practice tolerance and forbearance,
being humble and respectful, not harming self, others, or both; not
stealing or causing others to steal, not being attached to themselves, to
others, or to both; not seeking fame or profit. They only think, ‘I
should always expound the Teaching to sentient beings, to cause them
to divorce all evils, to cut off greed, anger, folly, pride, hypocrisy,
stinginess, jealousy, obsequiousness, and dishonesty, and cause them to
always abide peacefully in forbearance and harmony.’
“When enlightening beings achieve this forbearance, even if countless
beings should come to them and each being should produce countless
mouths and utter countless words — unpleasant words, unwholesome
words, displeasing words, undesirable words, words which arc not
those of the benevolent or the virtuous, words which are not those of
wisdom, words which are not in accord with sagacity, words which
sages do not approach, detestable words, and unbearable words — even
if they abuse and revile the enlightening beings with such speech, and,
furthermore, if they all had countless hands, bearing countless cudgels,
with which they attacked and injured the enlightening beings, without
relenting, for immeasurable cons, should enlightening beings encounter
such torture, their hair standing on end, their life about to end, they
form this thought: ‘If my mind is disturbed by this suffering, then I
have not mastered myself I am not self-possessed, I do not understand
myself, I am uncultivated, I am not properly stabilized, I am not at
peace, I am careless, I give rise to attachments — how can I enable others
to attain purity of mind?’
“Then the enlightening beings also think, ‘Since beginningless time I
have dwelt in birth and death and experienced its pains and vexations,’
and thus reflecting, they redouble their efforts, purify their minds, and
attain joy. They skillfully tune and concentrate themselves, and, them-
selves able to abide in the Buddha-tcaching, they also enable sentient
beings to attain the same condition. They further reflect, ‘This body is
empty and null, it has no self or possessions, it has no reality — it is void
by nature, with no duality. Neither pain nor pleasure has any existence,
because all things are empty. I should expound this teaching for people,
to enable all sentient beings to do away with their views. Therefore,
though I meet with suffering today, I should accept it with patience,
out of compassion for beings, to benefit beings, to pacify beings, out of
pity for beings, to take care of beings and not abandon them, to attain
enlightenment myself and also to enable others to attain enlightenment, so
that my mind will never regress, and so that I may progress on the way
of Buddhahood.’
“This is called the enlightening beings’ third practice, of nonopposition.
Những gì là Bồ-Tát Vô-Vi-Nghịch-Hạnh?
Bồ-Tát này thường tu nhẫn pháp: khiêm hạ cung-kính, chẳng tự hại, chẳng hại người, chẳng hại mình người, chẳng tự thủ-trước, chẳng thủ-trước người, chẳng thủ-trước cả hai, cũng chẳng tham cầu danh tiếng lợi lộc.
Chỉ nghĩ rằng: tôi phải luôn thuyết-pháp cho chúng-sanh, khiến họ lìa tất cả sự ác, dứt phiền-não, khiến họ luôn nhẫn-nhục nhu hòa.
Bồ-Tát thành-tựu nhẫn-pháp như vậy, giả-sử có vô-số chúng-sanh ác, đến chỗ Bồ-Tát, đem vô-số lời ác mắng nhiếc trêu chọc nguyền rủa, đồng thời cầm dao gậy đập chém trải qua vô-số kiếp không thôi. Bồ-Tát bị sự bức khổ vô cùng này, sắp phải chết, tự nghĩ rằng: tôi nhơn sự khổ nhục này, nếu lòng động loạn thời là tự chẳng điều-phục, tự chẳng giữ-gìn, tự chẳng sáng suốt, tự chẳng tu-tập, tự chẳng chánh-định, tự chẳng tịch-tịnh, tự chẳng ái-tích, tự sanh chấp-trước, thời đâu có thể làm cho người khác lòng được thanh-tịnh.
Lúc đó Bồ-Tát lại nghĩ: tôi từ vô-thỉ kiếp trụ nơi sanh-tử chịu nhiều khổ não.
Suy nghĩ như vậy rồi càng tự khích lệ thêm, khiến lòng thanh-tịnh mà được vui mừng, khéo tự điều-nhiếp, tự có thể tự an-trụ nơi trong phật-pháp, cũng khiến chúng-sanh đồng được pháp này. Lại suy nghĩ : thân này không tịch, không ngã, ngã-sở, không thiệt, tánh trống rỗng không hai, đều không có hoặc khổ hoặc vui, vì tất cả pháp đều trống không vậy. Tôi phải hiểu rõ để nói rộng cho người, khiến các chúng-sanh diệt trừ kiến-chấp này. Vì thế nên dầu nay tôi bị khổ nhục, tôi phải nhẫn thọ, vì thương xót chúng-sanh, vì lợi-ích chúng-sanh, vì an vui chúng-sanh, vì nhiếp-thọ chúng-sanh, vì chẳng bỏ chúng-sanh, vì để tự giác-ngộ và khiến người giác-ngộ, vì lòng không thối-chuyển xu-hướng phật-đạo.
Ðây là Bồ-Tát Vô-Vi-Nghịch-Hạnh thứ ba.
“What is great enlightening beings’ practice of indomitability? Here
the enlightening beings cultivate various forms of energy — foremost
energy, great energy, excellent energy, outstanding energy, supreme
energy, sublime energy, exalted energy, unsurpassed energy, unequalled
energy, comprehensive energy. They become naturally free from the
three poisons of greed, hatred, and delusion, naturally free from pride
and conceit, naturally not hypocritical, naturally not stingy or jealous,
naturally not deceitful, naturally conscientious. Ultimately they do not
make any effort that would afflict a single living being. They only
make efforts to cut off all afflictions, to pull out the roots of all
confusion, to get rid of all force of habit, to know all realms of living
beings, to know where all beings die and arc born, to know the
afflictions of all sentient beings, to know the inclinations of all sentient
beings, to know the perspectives of all sentient beings, to know the
superiority and inferiority of faculties of all sentient beings, to know the
mental activities of all sentient beings, to know all realms of phenomena,
to know the basic nature of all Buddha qualities, to know the equal
nature of all Buddha qualities, to know the equal nature of all time
frames, to attain the light of knowledge of all Buddha-tcachings, to
experience the knowledge of all Buddha-tcachings, to know the unique
true character of all Buddha-tcachings, to know the infinity of all
Buddha-tcachings, to attain far-reaching decisive knowledge of tech-
niques of all Buddha-tcachings, and to attain the knowledge to analyze
and expound the expressions and meanings of all Buddha-tcachings.
“Once enlightening beings have perfected these practices of energetic
effort, if someone should say to them, ‘Can you pass countless eons
enduring the pains of uninterrupted hell for the sake of each and every
being in countless worlds, cause those beings to each meet countless
Buddhas in the world, and through seeing Buddhas attain felicity and
finally enter extinction without remainder, after which you yourself
attain unexcelled complete perfect enlightenment?’ They would answer
I can.’ Then again if someone should say, ‘There are countless oceans —
you should drain them drop by drop with a hairtip; there arc countless
worlds — you should shatter them to atoms, and count each and every
drop of the oceans and atoms of the worlds, and for that number of
cons endure incessant suffering for the sake of living beings,’ the
enlightening beings would not have a moment of regret or resentment
on hearing such words — they would only be more joyful, feeling pro-
foundly happy and fortunate that they had attained such a great benefit
that they could by their power enable sentient beings to be forever
liberated from suffering. Enlightening beings, by these means which
they employ, enable all beings in all worlds to eventually reach ultimate
release without remainder.
“This is called the enlightening beings’ practice of indomitability.
Chư Phật-tử! Những gì là Bồ-Tát Vô-Khuất-Nhiễu-Hạnh?
Bồ-Tát này tu hạnh tinh-tấn: đệ nhứt tinh-tấn, đại tinh-tấn, thắng tinh-tấn, thù-thắng tinh-tấn, tối-thắng tinh-tấn, tối-diệu tinh-tấn, thượng tinh-tấn, vô-thượng tinh-tấn, vô-đẳng tinh-tấn, phổ-biến tinh-tấn.
Tánh không tham sân si, tánh không kiêu-mạn, phú-tàng, xan-tật, siểm-cuống, tánh tự tàm-quý. Trọn chẳng vì não chúng-sanh mà tinh-tấn, chỉ vì dứt tất cả phiền-não mà tinh-tấn, chỉ vì nhổ gốc phiền-não mà tinh-tấn, chỉ vì biết tất cả chúng-sanh-giới mà tinh-tấn, chỉ vì biết tất cả chúng-sanh chết đây sanh kia mà tinh-tấn, chỉ vì biết phiền-não của tất cả chúng-sanh mà tinh-tấn, chỉ vì biết cảnh-giới của tất cả chúng-sanh mà tinh-tấn, chỉ vì biết căn-cơ thắng liệt của tất cả chúng-sanh mà tinh-tấn, chỉ vì biết tâm hành của tất cả chúng-sanh mà tinh-tấn, chỉ vì biết tất cả pháp-giới mà tinh-tấn, chỉ vì biết tánh căn-bổn của tất cả phật-pháp mà tinh-tấn, chỉ vì biết tánh bình-đẳng của tất cả phật-pháp mà tinh-tấn, chỉ vì biết tánh tam-thế bình-đẳng mà tinh-tấn, chỉ vì được trí quang-minh của tất cả phật-pháp mà tinh-tấn, chỉ vì chứng trí của tất cả phật-pháp mà tinh-tấn, chỉ vì biết nhứt thiệt-tướng của tất cả phật-pháp mà tinh-tấn, chỉ vì biết tất cả phật-pháp vô-biên-tế mà tinh-tấn, chỉ vì được trí thiện-xảo quyết-định quảng-đại của tất cả phật-pháp mà tinh-tấn, chỉ vì được trí diễn thuyết cú nghĩa của tất cả phật-pháp mà tinh-tấn.
Bồ-Tát trọn nên hạnh tinh-tấn như vậy rồi, có thể vì mỗi mỗi chúng-sanh trong vô-số thế-giới mà chịu khỗ ở vô-gián địa-ngục trọn vô-số kiếp, để những chúng-sanh đó được gặp Phật, được hưởng vui, nhẫn đến được vô-dư niết-bàn, rồi mình sẽ chứng vô-thượng bồ-đề.
Giả-sử có người bảo: có vô-lượng vô-số đại-hải, ông sẽ lấy đầu sợi lông chấm từ giọt đến khô cạn, và nghiền vô-lượng vô-số thế-giới làm bụi, đếm biết rõ số giọt số bụi ấy, ông vì chúng-sanh trải qua kiếp số bằng số giọt số bụi ấy mà chịu khổ chẳng dứt.
Bồ-Tát dầu nghe lời trên đây, nhưng không hề có một niệm thối khiếp. Chỉ càng thêm hớn hở vui mừng: tôi may mắn được lợi lành lớn. Vì do sức của tôi mà vô-lượng chúng-sanh kia thoát khổ hẳn.
Bồ-Tát này đem phương-tiện thật hành trong tất cả thế-giới, làm cho tất cả chúng-sanh được rốt ráo vô-dư niết-bàn.
Ðây gọi là Bồ-Tát Vô-Khuất-Nhiễu-Hạnh thứ tư.
“What is great enlightening beings’ practice of nonconfusion? Here
enlightening beings perfect right mindfulness, their minds free from
distraction and disturbance, firm and imperturbable, consummately
pure, immeasurably vast, without any delusion or confusion. By virtue
of this right mindfulness they well understand all worldly speech and
are able to remember the verbal explanations of transmundane laws.
That is to say, they can remember the explanations of material and
immaterial phenomena; they can remember the explanations of the defi-
nition of the intrinsic nature of sensation, perception, conditioning,
and consciousness, without any confusion in their minds. In the world
they die in one place and are born in another without confusion in their
minds. They enter the womb and leave the womb without confusion in
their minds. They arouse the will for enlightenment without confusion
in their minds. They attend teachers without confusion in their minds.
They earnestly practice the Buddhas’ teachings without confusion in
their minds. They notice the doings of demons without confusion in
their minds. They divorce demonic activity without confusion in their
minds. They cultivate enlightening practice for countless eons without
confusion in their minds. The enlightening beings, having developed
this immeasurable right mindfulness, spend countless eons listening to
truthful teachings from enlightened and enlightening guides — profound
teachings relating to emptiness, vast teachings relating to activity in the
relative world, teachings relating to adornment by virtuous qualities,
teachings of all kinds of arrays of the qualities of the cosmos, all
interrelated, teachings expounding various bodies of words, phrases,
and sentences, teachings of the embellishments of enlightening beings,
teachings of the supremacy of the spiritual power and radiance of the
Buddhas, teachings of the purity of correct seeking of certain under-
standing, teachings of nonattachment to any world, teachings which
define all worlds, teachings of extremely broad scope, teachings of
removing the blinders of ignorance and understanding all beings, teach-
ings of what is common and what is not, teachings of the excellence of
enlightening knowledge, teachings of the independence of omniscience.
“Having heard these teachings, enlightening beings keep them con-
stantly in mind for an incalculable period of time. Why? When great
enlightening beings cultivate practices over countless eons, they never
afflict a single sentient being, which would cause loss of right mindfulness;
they do not ruin the right teaching, and do not cut off roots of
goodness — their minds are always expanding knowledge. Furthermore,
these enlightening beings cannot be confused or disturbed by any kind
of sound — loud sounds, coarse and garbled sounds, terrifying sounds,
pleasing sounds, displeasing sounds, car-shattering sounds, sense-
debilitating sounds. When the cnlightcnings hear such countless good
or bad sounds, even though the sounds fill countless worlds, they are
never disturbed or distracted for a moment. That is to say, their right
mindfulness is undisturbed, their state is undisturbed, their concentra-
tion is undisturbed, their entry into emptiness is undisturbed, their
practice of enlightening acts is undisturbed, their determination for
enlightenment is undisturbed, their recollection of the Buddhas is
undisturbed, their contemplation of truth is undisturbed, their knowl-
edge to civilize sentient beings is undisturbed, their knowledge to
purify sentient beings is undisturbed, their certain understanding of the
meaning of profundity is undisturbed.
“Because they do no evil, they have no obstruction of evil habits;
because they do not produce afflictions, they have no obstruction by
afflictions; because they do not slight the teaching, they have no barrier
to the teaching; because they do not slander and repudiate the truth,
they have no obstruction by retribution.
“Even if the aforementioned sounds should each fill countless worlds
ceaselessly for countless eons, each able to devastate the faculties, bodies
and minds of sentient beings, they still could not damage the minds of
these enlightening beings. Enlightening beings enter concentration, abide
in the teaching of the Sage, and meditate on and investigate all sounds,
becoming thoroughly familiar with the characteristics of origin, existence,
and disappearance of all sounds, and come to know the nature of the
origin, existence, and disappearance of all sounds: having heard them,
they do not give rise to covetousness or aversion, and don’t lose
mindfulness — they apprehend their characteristics precisely without being
influenced by or attached to them. They know all sounds have no
existence and are in reality ungraspable, that they have no creator and
no origin, that they arc equal to nirvana and have no differentiations.
“Thus do enlightening beings perfect tranquil, peaceful physical,
verbal, and mental action, never regressing, till they reach omniscience.
They skillfully enter all manner of meditative concentrations and know
that all concentrations are of the same one essence. They comprehend
that all things have no bounds and attain true knowledge of all things.
They attain profound concentration detached from all sounds. They
attain countless kinds of concentration. They increasingly develop a
boundlessly vast mind of great compassion.
“At this point enlightening beings attain countless concentrations in a
single instant, and, hearing such sounds, are not disturbed — they grad-
ually increase and broaden their concentration. They form this thought:
‘I should get all beings to abide peacefully in unsurpassed pure
mindfulness, so they may attain nonregression on the way to omniscience,
and ultimately attain to nirvana without remainder.’
“This is called the enlightening beings’ fifth practice, leaving confusion behind.
Những gì là Bồ-Tát Ly-Si-Loạn-Hạnh.
Chư Phật-tử! Bồ-Tát này thành-tựu chánh-niệm, tâm không tán loạn kiên-cố bất-động tối-thượng thanh-tịnh rộng lớn vô-lượng không có mê-hoặc.
Vì do chánh-niệm này nên khéo hiểu tất cả ngôn ngữ thế-gian, hay trì ngôn thuyết của các pháp xuất-thế, như là hay trì ngôn thuyết sắc-pháp phi-sắc-pháp, hay trì ngôn thuyết kiến lập sắc-tự-tánh, nhẫn đến hay trì ngôn thuyết thọ-tưởng-hành-thức tự-tánh mà tâm không si-loạn.
Ở trong thế-gian, chết đây sanh kia tâm không si-loạn. Nhập thai xuất thai tâm không si-loạn. Phát tâm bồ-đề tâm không si-loạn. Thờ thiện-tri-thức tâm không si-loạn, siêng tu phật-pháp tâm không si-loạn. Rõ biết ma-sự tâm không si-loạn. Lìa những ma-nghiệp tâm không si-loạn. Trong bất-khả-thuyết kiếp tu bồ-tát-hạnh tâm không si-loạn.
Bồ-Tát này thành-tựu vô-lượng chánh-niệm như vậy. Trong vô-lượng vô-số-kiếp được nghe chánh-pháp nơi chư Phật, Bồ-Tát, thiện-tri-thức. Như là thậm-thâm pháp, quảng-đại pháp, trang-nghiêm pháp, những thứ trang-nghiêm pháp, pháp diễn thuyết các loại danh cú văn thân, pháp Bồ-Tát trang-nghiêm, pháp Phật thần-lực quang-minh vô-thượng, pháp chánh-thắng-giải thanh-tịnh, pháp chẳng nhiễm-trước tất cả thế-gian, pháp phân-biệt tất cả thế-gian, pháp rất quảng-đại, pháp rời mê-si chiếu rõ tất cả cả chúng-sanh, pháp cùng đồng với tất cả thế-gian, pháp chẳng cùng đồng với tất cả thế-gian, pháp Bồ-Tát trí vô-thượng, pháp nhứt-thiết-trí tự-tại.
Bồ-Tát được nghe những pháp như vậy rồi trải qua vô-số kiếp chẳng quên chẳng mất, tâm thường ghi nhớ không gián-đoạn.
Tại sao vậy? Vì trong vô-lượng kiếp, lúc tu hành, Bồ-Tát trọn chẳng làm não loạn một chúng-sanh khiến họ mất chánh-niệm, chẳng hoại chánh-pháp, chẳng đọan thiện-căn, tâm luôn tăng-trưởng trí-huệ rộng-lớn.
Lại với Bồ-Tát này, những thứ âm-thinh không làm hoặc loạn được. Như là tiếng cao thần-thông, tiếng thô trược, tiếng khiến người cả sợ, tiếng đẹp lòng, tiếng chẳng đẹp lòng, tiếng huyên-loạn nhĩ-thức, tiếng trở hoại nhĩ-căn.
Bồ-Tát này dầu nghe vô-lượng vô-số âm thinh hay dở như vậy, nhưng chưa từng có một niệm tán-loạn. Nghĩa là chánh-niệm chẳng loạn, cảnh-giới chẳng loạn, tam-muội chẳng loạn, vào pháp thậm-thâm chẳng loạn, hành bồ-đề-hạnh chẳng loạn, phát bồ-đề-tâm chẳng loạn, nhớ niệm chư Phật chẳng loạn, quán pháp chơn thật chẳng loạn, trí hóa độ chúng-sanh chẳng loạn, trí thanh-tịnh chúng-sanh chẳng loạn, quyết rõ nghĩa thậm-thâm chẳng loạn. Vì chẳng làm nghiệp ác nên không ác-nghiệp-chướng, vì chẳng khởi phiền-não nên không phiền-não-chướng, vì chẳng khinh mạn pháp nên không pháp-chướng, vì chẳng hủy báng chánh-pháp nên không có báo-chướng.
Bồ-Tát này nhập chánh-định trụ nơi thành-pháp, tư-duy quan-sát tất cả âm-thinh, khéo biết tướng sanh-trụ-dị-diệt của âm-thinh, khéo biết tánh sanh-trụ-dị-diệt của âm-thinh. Nghe âm-thinh Bồ-Tát này không sanh lòng tham, sân, không mất chánh-niệm, khéo lấy tướng mà kh6ng nhiễm trước, biết tất cả âm-thinh đều là không chỗ có, thiệt chẳng thể được, không có tác-giả, cũng không bổn-tế, đồng với pháp-giới không sai khác.
Bồ-Tát này thành-tựu hạnh thân ngữ ý tịch-tịnh như vậy thẳng đến nhứt-thiết-trí không thối-chuyển, khéo vào tất cả môn thiền-định, biết các tam-muội đồng một thể-tánh, rõ tất cả pháp không có biên-tế, được tất cả pháp chơn-thiệt trí-huệ, được thậm-thâm tam-muội ly âm-thinh, được vô-số môn tam-muội, thêm lớn vô-lượng tâm đại-bình-đẳng.
Bấy giờ trong khoảng một niệm, Bồ-Tát này được vô-số trăm ngàn tam-muội. Nghe những tiếng như vậy tâm chẳng hoặc loạn, khiến tam-muội lần lần càng thêm rộng.
Bồ-Tát này nghĩ rằng: tôi phải làm cho tất cả chúng-sanh an-trụ trong niệm thanh-tịnh vô-thượng, nơi nhứt-thiết-trí được bất-thối-chuyển rốt ráo thành-tựu vô-dư niết-bàn.
Ðây gọi là Bồ-Tát Ly-Si-Loạn-Hạnh thứ năm.
“What is the great enlightening beings’ practice of good manifestation?
Here the enlightening beings are pure in thought, word, and deed; they
abide in nonacquisition, and demonstrate nonacquisitive thought, word,
and deed. They know that physical, verbal, and mental actions have no
absolute existence. Because they are tree from falsehood, they are tree
from bondage. What they demonstrate is without inherent nature and
depends on nothing. They abide in mental accord with reality. They
know the intrinsic nature of infinite minds. They know the inherent
nature of all things is ungraspable, formless, exceedingly profound and
difficult to penetrate. They abide in the absolute state, true thusness, the
essence of things; they appear in life by way of expedients, yet have no
retribution tor actions. Unborn and undying, they abide in the dis-
passionate, tranquil nature of the realm of nirvana. They abide in the
nature of true reality, absence of inherent reality or own-being. They
are beyond the power of speech to fully describe, they transcend all
worlds and do not depend on anything. They enter into the truth that is
tree from discrimination, bondage, and attachment. They enter the true
principle of supreme knowledge. They enter the transcendental truth
which cannot be understood or known by any worldlings. Such are the
characteristics of the enlightening beings’ expedient manifestations of
life.
“These enlightening beings formulate this thought: ‘The nature of all
sentient beings is naturelessness; the nature of all phenomena is uncreated;
the form of all lands of formlessness — in all worlds there only exists
verbal expression, and verbal expression has no basis in facts. Further-
more, facts have no basis in words. ’ Thus do enlightening beings
understand that all things are void, and all worlds are silent: all the
Buddha teachings add nothing — the Buddha teachings are no different
from the phenomena of the world, and the phenomena of the world are
no different from the Buddha teachings. The Buddha teachings and
worldly phenomena are neither mixed up nor differentiated. Knowing
that the nature of elements is equal, entering everywhere into the triple
world, never giving up the determination tor great enlightenment,
never retreating from the will to transform sentient beings, ever
expanding and increasing the heart of great compassion, they are a
reliance tor all living beings.
“Then enlightening beings also form this thought: ‘It I do not de-
velop and mature sentient beings, who will? If I do not pacify and
civilize sentient beings, who will? If I do not teach and renew sentient
beings, who will? It I do not awaken sentient beings, who will? It I do
not purity sentient beings, who will? This is my duty, my task.’ They
also form this thought: ‘It I alone understand this profound teaching,
then only 1 will attain liberation in unexcelled complete perfect
enlightenment, while all sentient beings, being blind, will enter perilous
paths, bound bv afflictions, like people seriously ill constantly suffering
pains. In the prison of craving and attachment, they are unable to get
out by themselves. I hcy will not leave the realms of hells, hungry
ghosts, animals, or the netherworld; they cannot extinguish suffering or
abandon evil deeds. Forever in the darkness of ignorance, they do not
see reality. Revolving in birth and death, they have no means of
emancipation. Living in the eight difficult situations, encrusted by all
sorts of defilements, all manner of afflictions cover their minds. De-
luded by false views, they do not travel the right path.’ Thus observing
sentient beings, enlightening beings think, ‘It would not be proper for
me to abandon these sentient beings while they are still undeveloped,
immature, and unruly, and myself attain unexcelled complete perfect
enlightenment. I should first transform these sentient beings, practicing
enlightening deeds tor unspeakably many eons, first developing the
undeveloped, and taming the unruly.’
“When these enlightening beings abide by this practice, if gods,
demons, ascetics, priests, or inhabitants of any worlds — cherubim, titans,
etc. — should get to see them, or sojourn with them for awhile, and
honor and respect them, serve them and give them offerings, or even
hear of them, once having crossed their minds these deeds will not be in
vain — they shall surely attain perfect enlightenment.
“This is called the great enlightening beings’ sixth practice, the practice of good manifestation.
Những gì là Bồ-Tát Thiện-Hiện-Hạnh?
Bồ-Tát này ba nghiệp thân-ngữ-ý đều thanh-tịnh, trụ và thị-hiện đều vô-sở-đắc. Biết được ba nghiệp đều vô-sở-hữu. Vì không hư-vọng nên không hệ-phược. Phàm chỗ thị-hiện đều vô-tánh vô-y. Trụ tâm như-thiệt, biết vô-lượng-tâm tự-tánh, biết tất cả pháp tự-tánh, vô-đắc vô-tướng rất sâu khó vào, trụ nơi chánh-vị chơn-như pháp-tánh. Phương-tiện xuất-sanh mà không nghiệp-báo, bất-sanh bất-diệt, trụ niết-bàn-giới, trụ tánh tịch-tịnh, trụ nơi tánh chơn-thiệt vô-tánh, đường ngữ ngôn dứt, siêu các thế-gian không sở-y, nhập pháp ly phân-biệt không phược-trước, nhập pháp trí tối-thắng chơn thật, nhập pháp chẳng phải thế-gian có thể rõ biết xuất-thế-gian.
Ðây là phương-tiện thiện-xảo thị-hiện sanh-tướng của Bồ-Tát này.
Bồ-Tát này nghĩ rằng: tất cả chúng-sanh vô-tánh làm tánh, tất cả các pháp vô-vi làm tánh, tất cả quốc-độ vô-tướng làm tánh, tất cả tam-thế chỉ có ngôn thuyết, tất cả ngôn thuyết ở trong các pháp không có y-xứ, tất cả các pháp ở trong ngôn-thuyết cũng không y-xứ.
Như vậy, Bồ-Tát này hiểu tất cả pháp thảy đều rất sâu, tất cả thế-gian thảy đều tịch-tịnh, tất cả phật-pháp không chỗ thêm, phật-pháp không khác pháp thế-gian, pháp thế-gian không khác phật-pháp. Phật-pháp và thế-gian-pháp không có tạp loạn, cũng không sai khác. Rõ biết pháp-giới thể-tánh bình-đẳng. Vào khắp tam-thế, vĩnh-viễn chẳng bỏ lìa tâm đại-bồ-đề. Luôn chẳng thối-chuyển tâm giáo-hóa chúng-sanh, càng thêm tăng-trưởng tâm đại từ-bình-đẳng, làm chỗ sở-y cho tất cả chúng-sanh.
Bấy giờ Bồ-Tát lại nghĩ rằng: tôi không thành-thục chúng-sanh thời ai sẽ thành-thục? Tôi chẳng điều-phục chúng-sanh thời ai sẽ điều-phục? Tôi chẳng giáo-hóa chúng-sanh thời ai sẽ giáo-hóa? Tôi chẳng giác ngộ chúng-sanh thời ai sẽ giác-ngộ? Tôi chẳng thanh-tịnh chúng-sanh thời ai sẽ thanh-tịnh? Ðây là những điều đáng cho tôi phải thật hành.
Bồ-Tát này lại nghĩ rằng : nếu tôi tự hiểu pháp thậm-thâm này, thời chỉ một tôi riêng được giải-thoát chứng vô-thượng bồ-đề, mà các chúng-sanh mù tối sa vào đường hiểm lớn bị những phiền-não triền-phược, như người bệnh nặng luôn thọ khổ thống, ở trong ngũc tham-ái không tự ra khỏi, chẳng rời địa-ngục, ngạ-quỷ, sús-sanh, cõi vua Diêm-La, chẳng diệt được khổ, chẳng bỏ nghiệp ác, thường ở si-ám chẳng thấy chơn-thiệt, luân-hồi sanh-tử không ra khỏi được, trụ nơi bát-nạn, những cấu nhiễm vấy nhơ, những phiền-não che chướng tâm họ, tà-kiến làm chẳng thật hành chánh-đạo.
Bồ-Tát này quán-sát những chúng-sanh rồi nghĩ rằng: nếu những chúng-sanh này chưa thành-thục, chưa điều-phục, tôi bỏ họ mà chứng vô-thượng bồ-đề thời không nên. Tôi sẽ trước giáo hóa chúng-sanh trong bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết kiếp thật hành hạnh Bồ-Tát. Kẻ chưa thành-thục trước làm cho được thành-thục, kẻ chưa điều-phục trước làm cho được điều-phục.
Bồ-Tát này lúc trụ hạnh trên đây, hàng chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, tất cả thế-gian, Càn-thát-bà, A-tu-la v.v… Nếu có ai được thấy và tạm thời đồng ở chung với Bồ-Tát này, rồi kính trọng cúng-dường, và tạm nghe qua tai một phen để tâm, đều không luốn uổng, tất định sẽ thành vô-thượng bồ-đề.
Ðây gọi là Bồ-Tát Thiện-Hiện-Hạnh thứ sáu.
“What is the great enlightening beings’ practice of nonattachment?
These great enlightening beings, with minds free from attachment, can
in every successive instant enter into countless worlds and adorn and
purify these countless worlds, their minds free from attachment to
anything in these worlds. They visit countless Buddhas, pay their
respects, wait on them, and present them with offerings of countless
flowers, perfumes, garlands, fragrant ointments, powdered incenses,
clothes, jewels, banners, parasols, and various other adornments, all
without number. These offerings are for the sake of the ultimate uncreated
truth, tor the sake of abiding in the inconceivable truth. In every instant
they see countless Buddhas; their minds are free from attachment to the
Buddha’s places, and they have no attachment to the buddha-lands
either. T hey also have no attachment to the distinguishing marks of the
Buddhas, and while they see the Buddhas’ auras of light and hear the
Buddha’s sermons, yet they have no attachment. They also have no
attachment to the congregations of the Buddhas and enlightening beings
of the worlds of the ten directions.
“Having heard the Buddhas’ teachings, their minds are joyful, and
the power of their will is greatly increased, so that they are able to
encompass and carry out the practices of enlightening beings; yet they
have no attachments.
“These enlightening beings, through unspeakably many cons, see
untold Buddhas appear in the world; they attend and supply each
Buddha for untold eons, never wearying of this. Seeing the Buddhas,
hearing their teachings, and seeing the magnificent arrays of the assem-
blies of enlightening beings, they are unattached to any of them. And
when they see impure worlds, they have no aversion. Why? Because
these enlightening beings observe according to the Buddha teachings.
In the teaching of the Buddhas, there is neither defilement nor purity,
neither darkness nor light, neither difference nor unity, neither truth
nor falsehood, neither security nor danger, no right path and no wrong
path.
“Thus do enlightening beings enter deeply into the realm of reality,
teaching and transforming sentient beings without forming attachments
to sentient beings. They accept and hold the teaching, yet they do not
form attachments to the teaching. They arouse the will for enlighten-
ment and abide in the abode of the Buddhas, yet they do not form
attachments to the abode of Buddhas. Though they speak, their minds
have no attachment to speech. They enter the various realms of life
with minds unattached to those realms. They comprehend concentration,
can enter and can dwell in concentration, but they have no attachment
to concentration. Going to visit countless buddha-lands, they may
enter, sec, or sojourn therein, but their minds have no attachment to
buddha-lands, and when they leave they do not miss them.
“Because great enlightening beings are able to be without attachment
in this way, their minds have no barriers to the Buddha teaching. They
comprehend the enlightenment of Buddhas, they realize the discipline
of the teaching, they abide by the right teaching of the Buddhas and
cultivate the practices of enlightening beings, they contemplate the
enlightening beings’ methods of liberation. Their minds are free from
attachment to the dwelling places of enlightening beings, and they also
have no attachments to the practices of enlightening beings. They clear
the way of enlightening beings and receive the prediction of enlightenment
which is given to enlightening beings. Having received the prediction,
they reflect, ‘Sentient beings are foolish and ignorant, without knowledge
or vision, without faith or understanding, lacking in intelligent action,
greedy and dishonest, covetous and grasping, revolving in the flow of
birth and death — they do not seek to sec the Buddha, they do not
follow enlightened guides, they do not trust the Buddha; they arc lost
in error, mistakenly entering dangerous paths; they do not respect the
Soviereign of the Ten Bowers, they do not realize the benevolence of
the enlightening beings. They arc attached to their dwelling places, and
when they hear that all things are empty, their minds are startled and
frightened, and they shy away from the true teaching and abide in false
teachings; they abandon the level, even path and enter perilous, difficult
paths. They reject the ideas of the Buddha and pursue the ideas of
demons. They arc firmly and relentlessly attached to existents’. Thus
observing sentient beings, enlightening beings increase in great compas-
sion and develop roots of goodness — and yet they are unattached.
“At this point enlightening beings also think, ‘1 should, for the sake
of a single sentient being, in each land in the worlds in the ten directions,
spend countless eons teaching and developing, and should do the same
for all sentient beings, without on this account wearying or giving up.’
“Furthermore, measuring the entire universe with a hairtip, at a
single point they pass unspeakably many unspeakable numbers of eons
teaching, edifying, and civilizing all beings, and also do likewise at each
and every point in the universe. Never for a moment do they cling to
self or entertain any conception of self or possession. At each point they
cultivate enlightening practice throughout the eons of the future, not
attached to the body, not attached to phenomena, not attached to
recollection, not attached to vows, not attached to concentration, not
attached to contemplation, not attached to tranquil stabilization, not
attached to spheres or objects, not attached to teaching and training
sentient beings, and not attached to entering the realm of reality.
“Why? The enlightening beings form this thought: ‘I should look
upon all objective realms as like phantoms, all Buddhas as like reflections,
enlightening practices as like dreams, Buddhas’ sermons as like echoes;
all worlds are like illusions, because they are upheld by the conse-
quences of actions; differentiated bodies are like apparitions, because
they are produced by the power of deeds; all sentient beings are like
mind, because they are defiled by various influences; all things are like
the limit of reality, because they cannot change.’
“They also form this thought: ‘I should carry on enlightening prac-
tices in all lands, in all worlds throughout space, moment after moment
clearly realizing all truths taught by the Buddha, with precise presence of
mind, free from attachments.’
“Thus do enlightening beings observe that the body has no self, and
they see the Buddha without hindrance. In order to transform sentient
beings, they expound various teachings, to cause them to have unlim-
ited joy and pure faith in the Buddha’s teaching. They rescue all
without weariness of mind. Because they are unwearied, if there are
any sentient beings in any world who are not mature or unruly in any
way, they go there and employ expedient methods to transform and
liberate them. By virtue of great commitment and will they remain
secure among those beings’ various kinds of speech, deeds, attachments,
devices, associations, routines, activities, perspectives, births, and deaths,
and teach them, not letting their minds be disturbed or discouraged,
and never for a moment forming any thought of attachment. Why?
Because they have attained nonattachment and independence. Their
own benefit and the benefit of others is fulfilled with purity.
“This is called the great enlightening beings’ seventh practice, of
nonattachment.
Những gì là Bồ-Tát Thiện-Hiện-Hạnh?
Chư Phật-tử! Bồ-Tát này dùng tâm vô-trước, ở trong mỗi niệm sẽ nhập vô-số thế-giới, nghiêm-tịnh vô-số thế-giới, với các thế-giới tâm không chấp-rước.
Bồ-Tát này qua đến chỗ của vô-số Như-Lai mà kính lễ công-đức. Dùng vô-số hoa, tràng-hoa, hương, hương bột, hương thoa, y-phục, trân-bửu, tràng-phan, lọng đẹp, đồ trang-nghiêm đều vô-số để cúng-dường chư Như-Lai.
Cúng-dường như vậy để rốt ráo pháp vô-tác, để trụ pháp bất-tư-nghị, ở trong mỗi niệm thấy vô-số Phật. Nơi chư Phật tâm không chấp-trước. Nơi các cõi Phật cũng không chấp-trước. Nơi tướng-hảo của Phật cũng không chấp-trước. Thấy quang-minh của Phật, nghe Phật thuyết-pháp cũng không chấp-trước. Nơi thập phương thế-giới và những chúng-hội của Phật Bồ-Tát cũng không chấp-trước. Nghe Phật-pháp xong, lòng hoan-hỷ chí-lực rộng lớn, có thể nhiếp-thọ, có thể hành-trì các hạnh Bồ-Tát, nhưng với phật-pháp vẫn không chấp-trước.
Bồ-Tát này trong bất-khả-thuyết kiếp, thấy bất-khả-thuyết Phật xuất thế, nơi mỗi đức Phật tôn thờ cúng-dường thảy đều trọn bất-khả-thuyết kiếp tâm không nhàm đủ. Thấy Phật nghe pháp và thấy Bồ-Tát chúng-hội trang-nghiêm đều không chấp trước. Thấy thế-giới uế trược cũng không ghét chán. Tại sao vậy? Vì Bồ-Tát này quán-sát đúng với phật-pháp. Trong phật-pháp, không cấu, không tịnh, không tối, không sáng, không khác, không đồng, không thiệt, không vọng, không an-ổn, không hiểm-nạn, không chánh-đạo, không tà-đạo.
Bồ-Tát thâm nhập pháp-giới như vậy giáo-hóa chúng-sanh, mà với chúng-sanh chẳng sanh chấp-trước; thọ-trì các pháp mà nơi các pháp chẳng chấp-trước; phát bồ-đề tâm trụ nơi phật trụ, mà nơi phật-trụ chẳng sanh chấp trước; dầu có ngôn thuyết mà không chấp ngôn thuyết; vào chúng-sanh-đạo mà không chấp chúng-sanh-đạo. Rõ biết tam-muội, hay nhập hay trụ mà nơi tam-muội mà tâm không chấp-trước. Qua đến vô-lượng phật-độ, hoặc vào, hoặc thấy, hoặc trụ mà nơi phật-độ tâm không chấp-trước, lúc bỏ đi cũng không luyến tiếc.
Vì Bồ-Tát này có thể không chấp-trước như vậy, nên tâm không chướng-ngại đối với phật-pháp, rõ Phật bồ-đề, chứng pháp tỳ-ni, trụ phật chánh-giác, thành-tựu bồ-tát-hạnh, trụ bồ-tát-tâm, tư-duy pháp giải-thoát của Bồ-Tát. Nơi trụ-xứ của Bồ-Tát tâm không nhiễm trước. Nơi việc làm của Bồ-Tát cũng không chấp-trước. Thanh-tịnh bồ-tát-đạo, thọ bồ-tát-ký. Ðược thọ-ký rồi tự nghĩ rằng : kẻ phàm-phu ngu-si không biết không thấy, không tin hiểu, không thật hành sáng suốt, ngoan-cố tham-trước, lưu chuyển sanh-tử chẳng cầu thấy Phật, chẳng theo bực Minh-Ðạo, chẳng tin đấng Ðiều-Ngự, mê lầm vào nơi hiểm-đạo, chẳng kính đức vua Thập-Lực, chẳng biết ơn Bồ-Tát, tham luyến trụ-xứ, nghe pháp-không thời quá sợ, xa chánh-pháp gần tà-pháp, bỏ đường bằng vào đường hiểm, trái với ý Phật, theo ý ma. Nơi các cõi hữu lậu bền chấp chẳng bỏ.
Bồ-Tát này quán-sát chúng-sanh như vậy, thêm lớn tâm đại-bình-đẳng, sanh các căn lành mà không chấp-trước.
Lúc đó Bồ-Tát này lại nghĩ rằng: Tôi sẽ vì một chúng-sanh nơi mỗi quốc-độ trong thập phương thế-giới, trải qua bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết kiếp giáo-hóa thành-thục. Như vì một chúng-sanh, vì tất cả chúng-sanh cũng như vậy. Trọn chẳng vì đây và nhàm lìa bỏ đi nơi khác.
Lại lấy đầu sợi lông khắp lường pháp-giới, nơi chỗ đầu một sợi lông trọn bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết kiếp giáo-hóa điều-phục tất cả chúng-sanh. Như nơi đầu một sợi lông, nơi tất cả đầu sợi lông đều như vậy. Chẳng chấp trước ngã, chẳng khởi tưởng ngã, ngã-sở. Nơi mỗi đầu sợi lông thành-tựu bồ-tát-hạnh tận vị-lai kiếp, chẳng chấp-trước nơi thân, nơi pháp, nơi niệm, nơi nguyện, nơi tam-muội, nơi quán-sát, nơi tịch-định, nơi cảnh-giới, nơi sự giáo-hóa điều-phục chúng-sanh. Cũng chẳng chấp-trước, nơi sự nhập pháp-giới.
Tại sao vậy ? Vì Bồ-Tát này nghĩ rằng: Tôi phải quán-sát tất cả pháp như huyễn, chư Phật như bóng, bồ-tát-hạnh như giấc mơ, Phật thuyết-pháp như vang, tất cả thế-gian như hóa, vì do nghiệp-báo chấp trì, thân sai-biệt như huyễn, vì do hành-lực khởi ra. Tất cả chúng-sanh như tâm, vì các thứ tạp-nhiễm, tất cả pháp như thiệt-tế, vì chẳng thể đổi khác.
Bồ-Tát này lại nghĩ rằng: Tôi sẽ thật hành bồ-tát-hạnh trong thập phương tất cả quốc-độ, niệm niệm rõ thấu tất cả phật-pháp, chánh-niệm hiện-tiền không chấp lấy.
Bồ-Tát quán thân vô-ngã như vậy thời thấy Phật vô-ngại. Vì giáo-hóa chúng-sanh mà diễn thuyết các pháp, làm cho họ đối với phật-pháp phát sanh vô-lượng hoan-hỷ và lòng tin thanh-tịnh. Cứu hộ tất cả chúng-sanh lòng không nhàm mỏi. Vì không nhàm mỏi nên trong tất cả thế-giới, nếu có chúng-sanh chưa thành-tựu, chưa điều-phục, thời liền đến đó dùng phương-tiện hóa-độ. Trong những chúng-sanh đó : các thứ tiếng, các thứ nghiệp, các thứ chấp, các thứ thi-vi, các thứ hòa-hợp, các thứ lưu-chuyển, các thứ việc làm, các thứ cảnh-giới, các thứ sanh, các thứ chết, Bồ-Tát này do đại-nguyện ở trong đó mà giáo-hóa họ, chẳng để tâm họ có động có thối, cũng chẳng có một niệm nhiễm-trước.
Tại sao vậy? Vì Bồ-Tát này đã được vô-trước, vô-y, tự-lợi và lợi-tha đều thanh-tịnh đầy đủ.
Ðây gọi là Bồ-Tát Vô-Trước-Hạnh thứ bảy.
“What is the great enlightening beings’ practice of that which is
difficult to attain? Here the enlightening beings perfect roots of good-
ness which are difficult to attain, invincible roots of goodness, supreme
roots of goodness, indestructible roots of goodness, unsurpassable roots
of goodness, inconceivable roots of goodness, inexhaustible roots of
goodness, independently powered roots of goodness, greatly influen-
tial roots of goodness, roots of goodness which arc of the same essence
as all Buddh as.
“When these enlightening beings carry out their practice, they attain
supreme understanding of the Buddha-teaching, they attain broad un-
derstanding of the Buddhas’ enlightenment. They never give up the
vows of enlightening beings, and for all ages their minds never weary.
They do not shrink from suffering, and they cannot be moved by any
demons. Under the care of all Buddhas, they fully carry out all the
difficult undertakings of enlightening beings. In cultivating enlighten-
ing practices, they are diligent and energetic, never lazy. They never
retreat from the vow of universal salvation.
“Once the enlightening beings abide in these difficult to accomplish
practices, they arc able to transmute immeasurable ages of birth and
death in every instant, without giving up the great vow of enlightening
beings. If any sentient beings serve and support them, or even see or
hear of them, they all will attain nonregression on the way to unex-
celled complete perfect enlightenment.
“Though the enlightening beings understand that sentient beings are
not existent, yet they do not abandon the realms of sentient beings.
They are like ship captains, not staying on this shore, not staying on the
other shore, not staying midway, yet able to ferry sentient beings from
this shore over to the other shore, because they are always traveling
back and forth. In the same way enlightening beings do not stay in
birth and death, do not stay in nirvana, and also do not stay in
midstream of birth and death, while they are able to deliver sentient
beings from this shore to the other shore, where it is safe and secure,
without sorrow or trouble. And they have no attachment to the num-
bers of sentient beings — they do not abandon one being for attachment
to many beings, and do not abandon many beings for attachment to
one being. They neither increase nor decrease the realms of sentient
beings; they neither exhaust nor perpetuate the realms of sentient beings;
they neither discriminate nor bifurcate the realms of sentient beings.
Why? Enlightening beings enter deeply into the realms of sentient
beings as the realm of truth; the realms of sentient beings and the realm
of truth are nondual. In the nondual there is no increase or decrease, no
origination or destruction, no existence or nonexistence, no grasping
and no reliance, no attachment and no duality. Why? Because enlight-
ening beings realize that all things and the realm of truth are nondual.
“Thus do enlightening beings, by means of appropriate techniques,
enter into the profound realm of truth and abide in formlessness while
adorning their bodies with pure forms. They understand that things
have no intrinsic nature, yet they are able to distinguish the characteris-
tics of all things. They do not grasp sentient beings, yet they are able to
know the numbers of sentient beings. They are not attached to worlds,
yet they appear physically in Buddha-lands. They do not discriminate
principles, yet they enter skillfully into the Buddha teachings; they
profoundly understand their meanings and principles and extensively
expound the verbal teachings. They comprehend the dispassionate real-
ity of all things, yet do not cease the path of enlightening. They do not
withdraw from enlightening, they always diligently cultivate inexhaust-
ible practice. They freely enter the pure realm of reality.
“It may be likened to drilling wood to produce fire: fires may be
unlimited but the fire doesn’t go out. In the same way do enlightening
beings liberate people without end, yet they remain in the world
forever without becoming extinct. They neither do nor do not reach an
ultimate end; neither do nor do not grasp, neither do nor do not rely,
are neither worldlings or Buddhists, neither ordinary people nor real-
ized people.
“When enlightening beings accomplish this difficult-to-attain state of
mind, and cultivate enlightening practice, they do not preach the doc-
trines of the two vehicles, they do not preach buddhism, they do not
talk about the world, they do not expound worldly doctrines, they
don’t explain sentient beings, they don’t say there are no sentient
beings, they don’t talk about purity or defilement. Why? Because
enlightening beings know all things have no defilement and no grasping,
do not proceed and do not recede.
“When enlightening beings practice this dispassionate, subtle, ex-
tremely deep and all-surpassing teaching, they do not think ‘I am
cultivating this practice, have cultivated this practice, will cultivate this
practice.’ They are not attached to physical or mental elements, or to
sense faculties, sense consciousness, or sense data, or to inner or outer
worlds. The great vows they undertake, their transcendent ways, and
all their methods are without attachments. Why? Because in the realm
of truth there arc no names corresponding to reality; in the vehicle of
listeners and the vehicle of the self-awakened there arc no real names; in
the vehicle of enlightening beings there arc no real names; in perfect
enlightenment there arc no real names; in the world of ordinary people
there arc no real names, nor in purity or impurity, in birth and death or
nirvana. Why? Because all things are nondual, yet none arc not dual.
They arc like space, which anywhere in the universe, whether past,
present, or future, cannot be apprehended, yet it is not that there is no
space. Thus do enlightening beings observe all things to be ungraspable,
yet not nonexistent. They sec things as they are, without neglecting
their tasks, everywhere demonstrating the practices of enlightening
activities; they do not give up their great vows, civilizing sentient beings,
turning the wheel of true teaching. They do not violate cause and effect
and do not deny it, and do not deviate from the impartial truth. Equal to
the Buddhas of all times, they do not cut off the lineage of buddhahood,
they do not violate the character of reality. Entering deeply into the
teaching, their expository ability is endless. They hear the teaching
without attachment; reaching the profound depths of the teaching, they
are able to expound it skillfully, hearts without tear. They do not give
up the abode of Buddhas, but they do not violate natural laws; they
appear throughout the world, yet arc not attached to the world.
“Thus do enlightening beings achieve the mind of wisdom which is
difficult to attain. Cultivating various practices, they free sentient beings
from the three woeful states of hell, ghosthood, and animality, teaching
and enlightening, taming and civilizing, placing them on the Way of
the Buddhas of all times, making them unshakable.
“Furthermore, they form this thought: ‘Beings in the world are
ungrateful and even hostile to one another; with false views and cling-
ing attachments, illusions and delusions, they are ignorant and unwise;
having no faith, they follow bad associates, and develop various kinds
of perverse cleverness. They are full of various afflictions, like craving
and ignorance. This is where I am to cultivate the practice of enlighten-
ing beings. If people who are grateful, intelligent, wise and knowing
filled the world, I would not cultivate the practices of enlightening
beings therein. Why? I have no attraction or opposition to sentient
beings, I seek nothing from them, I do not seek even so much as a
single word of praise.’ Cultivating enlightening practices forever and
ever, they never have a single thought of doing it for themselves — they
only want to liberate all sentient beings, to purify them so that they
attain eternal emancipation. Why? Because those who would be enlight-
ened guides must be thus — not grasping, not seeking, just practicing
the enlightening Way for the sake of beings, to enable them to reach the
peaceful, secure other shore and attain complete perfect enlightenment.
“This is called the great enlightening beings’ eighth practice, that
which is difficult to attain.
Những gì là Bồ-Tát Nan-Ðắc-Hạnh?
Bồ-Tát này thành-tựu căn lành khó được, căn lành khó phục, căn lành tối-thắng, căn lành chẳng thể hư, căn lành không thể hơn, căn lành chẳng nghĩ bàn, căn lành vô-tận, căn lành sức tự-tại, căn lành oai-đức lớn, căn lành đồng một tánh với tất cả Phật.
Lúc đó Bồ-Tát này tu các công-hạnh, ở trong phật-pháp được sự hiểu tối-thắng, nơi Phật bồ-đề được sự hiểu quảng-đại, chưa từng thôi nghĩ nơi nguyện Bồ-Tát, tận tất cả kiếp lòng không mệt mỏi, với tất cả khổ chẳng sanh nhàm lìa, chỗ tất cả chúng ma không bị dao động, được tất cả Phật hộ-niệm, làm đầy đủ tất cả khổ hạnh của Bồ-Tát, siêng thành-tựu bồ-tát-hạnh không lười trễ, nơi đại-thừa nguyện luôn chẳng thối chuyển.
Bồ-Tát này an-trụ nơi nan-đắc-hạnh rồi ở trong mỗi niệm có thể chuyển vô-số kiếp sanh tử mà chẳng bỏ đại-nguyện của Bồ-Tát.
Nếu có chúng-sanh nào tôn-kính cúng-dường nhẫn đến thấy nghe, Bồ-Tát này đều được chẳng thối-chuyển nơi vô-thượng bồ-đề.
Bồ-Tát này dầu biết chúng-sanh chẳng phải có, nhưng chẳng bỏ tất cả chúng-sanh-giới. Ví như thuyền-trưởng chẳng dừng bờ này, chẳng đậu bờ kia, chẳng dừng giữa dòng, mà có thể đưa chúng từ bờ này qua đến bờ kia, vì qua lại không thôi nghỉ vậy.
Bồ-Tát này cũng như thế, chẳng trụ sanh-tử, chẳng trụ niết-bàn, cũng chẳng trụ giữa dòng sanh-tử, mà có thể độ chúng-sanh từ bờ sanh-tử này, đặt họ trên bờ niết-bàn-kia, nơi an-ổn vô-úy không ưu-não.
Bồ-Tát này chẳng chấp-trước chúng-sanh, chẳng bỏ một chúng-sanh mà đến với số đông, chẳng bỏ số đông mà đến một, chẳng tăng chẳng giảm đối với chúng-sanh-giới, cũng chẳng sanh diệt, chẳng tận chẳng trưởng, chẳng phân biệt, chẳng riêng khác đối với chúng-sanh-giới.
Tại sao vậy? Vì Bồ-Tát này thâm-nhập chúng-sanh-giới như pháp-giới, chúng-sanh-giới, pháp-giới không có hai. Trong pháp không hai không tăng không giảm, không sanh không diệt, không hữu không vô, không lấy không tựa, cũng không chấp trước nơi không hai. Vì Bồ-Tát rõ biết tất cả pháp pháp-giới vô-nhị vậy.
Bồ-Tát này dùng phương-tiện như vậy nhập thâm pháp-giới, trụ nơi vô-tướng, dùng tướng thanh-tịnh trang-nghiêm thân mình. Rõ pháp vô-tánh mà có thể phân-biệt tất cả pháp-tướng, chẳng chấp lấy chúng-sanh mà có thể biết-rõ số chúng-sanh, chẳng chấp-trước thế-giới mà có thể hiện thân khắp phật-sát, chẳng phân-biệt pháp mà khéo vào phật-pháp, thâm đạt nghĩa lý mà diễn rộng ngôn giáo, rõ chơn-tế ly-dục của tất cả pháp mà chẳng dứt đạo Bồ-Tát, chẳng thối bồ-tát-hạnh, thường siêng tu tập hạnh vô-tận, tự-tại vào nơi thanh-tịnh pháp-giới.
Ví như cọ gỗ để lấy lửa, lửa cháy vô-lượng mà lửa chẳng tắt.
Cũng thế, việc Bồ-Tát giáo-hóa chúng-sanh không cùng tận, mà ở thế-gian thường-trụ chẳng diệt. Chẳng phải rốt ráo, chẳng phải không rốt ráo, chẳng phải lấy, chẳng phải không lấy, chẳng phải sở-y, chẳng phải không sở-y, chẳng phải thế-pháp, chẳng phải phật-pháp, chẳng phải phàm, chẳng phải thánh.
Bồ-Tát này thành-tựu tâm nan-đắc như vậy, lúc tu-tập hạnh Bồ-Tát, chẳng phải nói pháp nhị-thừa, chẳng nói Phật, chẳng nói thế-gian, chẳng nói pháp thế-gian, chẳng nói chúng-sanh, chẳng nói không chúng-sanh, chẳng nói cấu, chẳng nói tịnh.
Tại sao vậy? Vì Bồ-Tát này biết tất cả pháp, không nhiễm không thủ, chẳng chuyển chẳng thối.
Bồ-Tát này lúc ở trong pháp tịch-diệt thậm-thâm tối-thắng vi-diệu như vậy mà tu-hành, cũng chẳng có quan-niệm tôi hiện thành-tựu, đã tu, hay sẽ tu những hạnh đó, chẳng chấp-trước uẩn-xứ-giới, nội thế-gian, ngoại thế-gian, nội-ngoại thế-gian. Cũng chẳng chấp-trước những đại-nguyện, những ba-la-mật và tất cả pháp của mình.
Tại sao vậy? Vì trong pháp-giới không có pháp gọi là hướng Thanh-Văn thừa, hướng Ðộc-Giác thừa, hướng Bồ-Tát thừa, hướng vô-thượng bồ-đề, không có pháp gọi là hướng phàm-phu-giới, hướng nhiễm, hướng tịnh, hướng sanh-tử, hướng niết-bàn. Vì các pháp vốn vô-nhị, vô-bất-nhị vậy.
Ví như hư-không, trong thập-phương ba thời, tìm vốn không được, nhưng chẳng phải là không có hư-không.
Cũng thế, Bồ-Tát quán : tất cả pháp đều bất-khả-đắc, nhưng chẳng phải là không có tất cả pháp; đúng thật không khác, chẳng mất chỗ làm, khắp hiện tu hành hạnh bồ-tát; chẳng bỏ đại-nguyện điều-phục chúng-sanh, chuyển chánh pháp-luân; chẳng hoại nhơn quả, cũng chẳng trái nơi diệu-pháp bình-đẳng; khắp đồng với tam-thế Như-Lai chẳng dứt phật-chủng, chẳng hư thiệt-tướng; thâm nhập nơi pháp, biện-tài vô-tận; nghe pháp chẳng chấp, đến đáy sâu của pháp, khéo khai-diễn, không lòng e sợ; chẳng rời phật-trụ, chẳng trái thế-pháp; hiện khắp thế-gian mà chẳng nhiễm trước thế-gian.
Bồ-Tát này thành-tựu tâm trí huệ nan-đắc như vậy, tu tập các hạnh, nơi ba ác-đạo cứu vớt chúng-sanh, giáo-hóa điều-phục, đặt họ vào trong đạo của tam-thế Phật, không để lay động.
Bồ-Tát này lại nghĩ rằng: chúng-sanh thế-gian chẳng biết ân báo, lại thù oán nhau, tà-kiến chấp-trước mê-lầm điên-đảo ngu-si vô-trí, không có tín-tâm, theo bọn ác sanh niệm ác, tham ái vô-minh các thứ phiền-não đều đầy dẫy, chính nơi đây là chỗ tôi thành-tựu bồ-tát-hạnh. Giả-sử đầy cả thế-gian này đều là người biết ân-nghĩa thông-minh trí-tuệ và thiện-tri-thức, thời tôi không thật hành bồ-tát-hạnh trong đó. Tại sao vậy ? Vì đối với chúng-sanh, tôi trọn không mong, không cầu gì cả. Tôi tu bồ-tát-hạnh tận vị-lai kiếp, chưa từng có một niệm vị-kỷ. Tôi chỉ muốn độ thoát chúng-sanh, khiến họ thanh-tịnh được giải-thoát vĩnh-viễn. Vì tôi là nhà dìu-dắt sáng suốt của chúng-sanh, thời theo phép, phải không chấp lấy không mong cầu, chỉ vì chúng-sanh mà tu đạo bồ-tát khiến họ được đến nơi bờ an-ổn kia và thành vô-thượng bồ-đề.
Ðây gọi là Bồ-Tát Nan-Ðắc-Hạnh thứ tám.
“What is the great enlightening beings’ practice of good teachings?
Here the enlightening beings act as pure, cool reservoirs of truth for the
sake of beings of all worlds — celestial and human beings, devils and
gods, ascetics and priests, etc. Maintaining true teaching, they do not
let the seed of buddhahood be cut off. Because they attain the spell of
pure light, in teaching and predicting enlightenment their intellectual
powers arc inexhuastible. Because they attain the spell of complete
meaning their comprehension of meanings is inexhaustible. Because they
attain the spell of realization of true principles, their comprehension of
principles is inexhaustible. Because they attain the spell of explanatory
expression, their comprehension of words is inexhaustible. Because
they attain the spell of nonobstruction of inexhaustible meanings of
boundless words and phrases, their unimpeded comprehension is
inexhaustible. Because they attain the spell of nonobstruction of inex-
haustible meanings of boundless words and phrases, their unimpeded
comprehension is inexhaustible. Because they arc anointed by the spell
ot the Buddhas’ coronation, their delightful eloquence is inexhaustible.
Because they attain the spell of enlightenment without relying on another,
their illuminating discourse is inexhaustible. Because they attain the
spell of adaptive explanation, their adaptive discourse is inexhaustible.
Because they attain the spell of elucidation and analysis of all kinds of
bodies of words, phrases, and sentences, their explanatory eloquence is
inexhaustible. Because they attain the spell of boundless versatility,
their boundless elucidation is inexhaustible.
“The great compassion of these enlightening beings is strong and
steadfast, extending to all creatures. Throughout the universe they
change their bodies to a golden color and carry out the deeds of
Buddhas time and time again; adapting to the faculties, natures, and
inclinations of sentient beings, with a universal tongue within one voice
they manifest unlimited sounds, teaching as appropriate to the occasion,
bringing joy to all. Even if there were countless beings in innumerable
conditions, all in the same assembly, that assembly so vast it fills
untold worlds, and each had innumerable mouths each capable of
producing billions of sounds, and each should ask the enlightening
beings different questions all at once, the enlightening beings would be
able to take on all the questions instantly and reply to them and cause
their doubts to be removed. As this is true of one assembly, so it is also
of countless assemblies.
“Furthermore, even if every single spot as big as a hairtip should in
every successive moment produce unspeakably many unspeakable num-
bers of congregations, throughout the cons of the future — those cons
may be exhausted, but the congregations are infinite — and all of them
should every moment ask different questions in different words, enlight-
ening beings could receive them all in a single instant, without fear or
timidity, without doubt or error, thinking, ‘Even if all sentient beings
come and question me, I will expound the truth to them ceaselessly,
endlessly, causing them all to rejoice and dwell in the path of virtue,
and also cause them to understand all words and expressions and be
able to explain various principles to sentient beings, yet without discrimi-
nation in regard to language. Even if they come and ask difficult
questions in countless various ways of speaking, I will receive them all
at once and answer them all in one voice, causing them all to understand,
without omitting anything.’ This is because they have been anointed
with omniscience, because they have found the unobstructed treasury
of the potential of enlightenment, because they have attained the sphere
of light of all truths, and because they arc replete with universal
knowledge.
“Once the enlightening beings abide in the practice of good teachings,
they can purify themselves, and also can benefit all sentient beings by
appropriate means without attachments, not seeing that there arc any
sentient beings that attain emancipation.
“As they do in this universe, so in countless universes do they turn
golden, and, fully equipped with the wondrous voice, with no barrier
to any truth, perform Buddha work.
“These enlightening beings develop ten kinds of body; the transcen-
dent body which enters into boundless realms, due to annihilating all
worldlmcss; the immanent body which enters into boundless realms,
due to birth in all worlds; the unborn body, due to abiding in the
impartiality of birthlessncss; the undying body, due to all expression of
extinction being ungraspable; the nonreal body, due to attainment of
accord with reality; the nonfalse body, due to adaptive appearance; the
unchanging body, being removed from death in one place and rebirth
in another; the nondisintegrating body, the nature of the realm of
reality being indestructible; the uniform body, being beyond all manner
of speaking, past, present, or future; the formless body, due to ability
to observe the characteristics of things.
“Developing these ten bodies, enlightening beings are a house for all
sentient beings, because they raise all roots of goodness; they arc saviors
for all sentient beings, because they enable them to attain great peace;
they are a refuge for all sentient beings, because they act as a great
reliance for them; they arc guides for all sentient beings, because they
enable them to attain unsurpassed emancipation; they are teachers of all
sentient beings, because they cause them to enter into the truth;
they are lamps for all sentient beings, because they cause them to
see clearly the consequences of actions; they arc lights for all sentient
beings, because they cause the extremely profound wondrous truth to
be illuminated; they arc a torch for all in all times, because they cause
them to clearly understand the truth; they are illumination for all worlds,
because they cause them to enter the state of radiant light; they are
clarifiers for all realms of being, because they reveal the powers of the
enlightened.
“This is called the great enlightening beings’ ninth practice, of good
teachings. When enlightening beings abide in this practice, they are a
pure cool reservoir of truth for all sentient beings, because they can
plumb the source of all the Buddha teachings.
Những gì là Bồ-Tát Thiện-Pháp-Hạnh?
Bồ-Tát này vì tất cả thế-gian: Trời, Người, Ma, Phạm, Sa-Môn, Bà-La-Môn, Càn-Thát-Bà v.v… mà làm ao pháp thanh-lương, nhiếp trì chánh-pháp, chẳng dứt phật-chủng. Vì được thanh-tịnh quang-minh, đà-la-ni nên thuyết-pháp thọ-ký biện-tài vô-tận. Vì được cụ-túc-nghĩa đà-la-ni nên nghĩa biện vô-tận. Vì được giác-ngộ thiệt-pháp đà-la-ni nên pháp-biện vô-tận. Vì được huấn-thích ngôn-từ đà-la-ni nên từ-biện vô-tận. Vì được vô-biên văn-cú vô-tận-nghĩa vô-ngại-môn đà-la-ni nên vô-ngại-biện vô-tận. Vì được Phật-quán-đảnh đà-la-ni nên hoan-hỷ vô-tận. Vì được bất-do-tha-ngộ đà-la-ni-môn nên quang-minh biện vô-tận. Vì được đồng-biện đà-la-ni-môn nên đồng biện vô-tận. Vì được chủng-chủng nghĩa-thân, cú-thân, văn-thân huấn-thích đà-la-ni-môn nên huấn-thích biện vô-tận. Vì được vô-biên đà-la-ni nên vô-biên biện vô-tận.
Bồ-Tát này tâm đại-bi kiên-cố nhiếp khắp chúng-sanh, nơi đại-thiên thế-giới, biến ra thân kim-sắc mà làm phật-sự. Tùy theo căn-tánh và sở-thích của các chúng-sanh, dùng lưỡi rộng dài, trong một tiếng hiện vô-lượng tiếng, đúng theo thời nghi mà thuyết pháp làm cho chúng-sanh đều hoan-hỷ.
Giả-sử có bất-khả-thuyết nghiệp-báo vô-số chúng-sanh đồng họp chung một chỗ, hội đó rộng lớn khắp bất-khả-thuyết thế-giới, Bồ-Tát này ngồi trong chúng-hội ấy. Chúng-sanh trong hội-trường đó, mỗi mỗi đều có vô-số miệng, mỗi miệng nói ra trăm ngàn ức na-do-tha tiếng, đồng thời nói, lời lẽ khác nhau, Bồ-Tát này liền trong một niệm đều có thể nhận hiểu và giải đáp tất cả cho họ đều hết nghi lầm. Như trong một đại-hội trên đây, trong bất-khả-thuyết hội cũng đều như vậy cả.
Lại giả-sử nơi đầu một sợi lông, trong mỗi niệm xuất-hiện bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết đạo-tràng chúng-hội, bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết đầu sợi lông đều như vậy tận vị-lai kiếp, số kiếp đó có thể tận, chúng-hội vô-tận. Những chúng-hội này, trong mỗi niệm dùng ngôn từ riêng biệt, gạn hỏi riêng biệt. Bồ-Tát này trong một niệm có thể nhận biết cả, không sợ không khiếp, không nghi không lầm, mà nghĩ rằng: dầu tất cả chúng-sanh đồng thời đến hỏi tôi, tôi sẽ vì họ mà thuyết pháp không dứt không cùng, khiến họ đều vui mừng trụ nơi thiện-đạo, lại khiến họ khéo hiểu tất cả ngôn từ.
Bồ-Tát này có thể thuyết các pháp cho chúng-sanh mà nơi ngũ ngôn vẫn không phân-biệt. Giả-sử bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết các thứ ngôn-từ đồng thời vấn nạn, Bồ-Tát này trong một niệm nhận được cả, một tiếng đều đáp cả, đều khiến tỏ ngộ không sót, vì đã được nhứt-thiết-trí quán-đảnh vậy, vì được vô-ngại-tạng vậy, vì được nhứt-thiết-pháp viên-mãn quang-minh vậy, vì đầy đủ nhứt-thiết-trí vậy.
Bồ-Tát này an-trụ Thiện-Pháp-Hạnh rồi thời có thể tự thanh-tịnh, cũng có thể dùng phương-tiện vô-sở-trước mà lợi ích khắp tất cả chúng-sanh, chẳng thấy có chúng-sanh được giải-thoát.
Như tại Ðại-Thiên thế-giới này như vậy, ở bất-khả-thuyết Ðại-Thiên thế-giới biến thân kim-sắc, diệu-âm đầy-đủ, tự-tại thật hành phật-sự không bị chướng-ngại.
Bồ-Tát này thành-tựu mười thứ thân : những là thân chẳng phải các loài, vào vô-biên pháp-giới, vì diệt tất cả thế-gian; thân các loài vào vô-biên pháp-giới vì sanh tất cả thế-gian; thân bất-sanh vì trụ pháp vô-sanh bình-đẳng; thân bất-diệt vì tất cả diệt, ngôn-ngữ không thể được; thân chẳng thiệt vì được như thiệt; thân chẳng vọng vì tùy nghi ứng hiện; thân chẳng dời vì chết đây sanh kia; thân chẳng hoại vì pháp-giới tánh không hoại; thân một tướng vì bồ-tát thời ngữ-ngôn đã dứt; thân vô-tướng vì khéo có thể quán-sát pháp-tướng.
Bồ-Tát này thành-tựu mười thứ thân như vậy, là nhà của tất cả chúng-sanh vì thêm lớn các thiện-căn; là chỗ cứu của tất cả chúng-sanh vì khiến họ được rất an-ổn; là chỗ về của tất cả chúng-sanh vì làm chỗ y-tựa lớn cho họ; là nhà dìu dắt của tất cả chúng-sanh vì khiến họ được vô-thượng giải-thoát; là thầy của tất cả chúng-sanh vì khiến họ vào pháp chơn-thiệt; là ngọn đèn của tất cả chúng-sanh vì khiến họ thấy rõ nghiệp-báo; là ánh sáng của tất cả chúng-sanh vì khiến họ soi rõ diệu-pháp thậm-thâm, là ngọn đuốc của tất cả tam-thế vì khiến họ hiểu ngộ thiệt pháp; là soi sáng tất cả thế-gian vì khiến họ vào trong bực quang-minh; là ánh sáng của tất cả các loài vì thị-hiện Như-Lai tự-tại.
Ðây gọi là Bồ-Tát Thiện-Pháp-Hạnh thứ chín. Bồ-Tát an-trụ hạnh này làm ao pháp mát-mẻ cho tất cả chúng-sanh, vì có thể cùng tận nguồn tất cả phật-pháp.
“What is the great enlightening beings’ practice of truth? Here the
enlightening beings perfect true speech — they can act in accord with
what they say, and can speak according to what they do. These enlight-
ening beings study the true words of the Buddhas of all times, they
enter the nature of the lineage of the Buddhas of all times, they equal
the roots of goodness of the Buddhas of all times, they apprehend the
nondual speech of the Buddhas of all times. Learning from the enlight-
ened ones, their knowledge and wisdom is consummate.
“These enlightening beings develop the knowledge of what is so and
what is not so in regard to sentient beings, the knowledge of conse-
quences of past, future, and present actions, the knowledge of sharpness
and dullness of all faculties, the knowledge of various realms, the
knowledge of various understandings, the knowledge of where all paths
lead, the knowledge of defilement or purity and proper or improper
timing of all meditations, liberations, and concentrations, the knowl-
edge of past abodes in all worlds, the knowledge of clairvoyance, and
the knowledge of the end of all taints — yet they don’t give up carrying
out all the practices of enlightening beings. Why? Because they want to
teach and enlighten all living beings and purify them.
“The enlightening beings also conceive this overwhelming determina-
tion: ‘If I attain complete perfect enlightenment first without having
established all sentient beings on the path of unsurpassed liberation, I
would be violating my original vow — that would never do, so I should
first cause all sentient beings to attain unexcelled enlightenment and
nirvana without remainder, and then after that fulfill buddhahood.
Why? Sentient beings have not asked me to set my mind on enlighten-
ment — I of my own accord act as an unsolicited friend to sentient
beings, wishing to first cause all beings to fully develop their good
potential and attain omniscience. This is why I am supreme — because I
am not attached to any world. I am highest, because I dwell in the state
of unsurpassed self-control. I am free from all blindness, because I
understand that sentient beings arc boundless. I am done, because my
original vow is accomplished. I am versatile, because of the adornment
of virtues of enlightening beings. I am reliable, because of the accep-
tance of the Buddhas of all times.’
“Because the enlightening beings do not give up their fundamental
vow, they gain entry to the adornment of unexcelled knowledge and
wisdom. They benefit living beings, causing them all to be fulfilled;
they attain final consummation of their original vow. Their knowledge
has free access to all truths. They cause all sentient beings to attain to
purity. Instant to instant they travel throughout the worlds of the ten
directions, instant to instant visiting countless buddha-lands, instant to
instant seeing countless Buddhas and the pure lands the Buddhas adorned.
They show the independent spiritual power of the Enlightened pervad-
ing the space of the cosmos.
“These enlightening beings manifest innumerable bodies, entering all
worlds without relying on anything. In their bodies they manifest all
lands, all beings, all phenomena, and all Buddhas. These enlightening
beings know the various thoughts, desires, understandings, results of
actions, and roots of goodness of all living beings, and appear to them
in accordance with their needs, in order to civilize and tame them. They
look upon the enlightening beings as like phantoms, all things as like
magic tricks, the appearance of Buddhas in the world as like reflections,
all worlds as like dreams. They attain the inexhaustible treasury of
bodies of meanings and expressions. They are in command of right
mindfulness, and they have certain knowledge of all truths. Their
wisdom is supreme and they enter into the true character of all
concentrations, and abide in the state of nonduality of one essence.
“Because sentient beings all cling to duality, great enlightening beings
abide in great compassion; cultivating this teaching to annihilate alflictions,
they attain the ten powers of buddahood and enter the reality realm
which is like the net of Indra. Accomplishing the unhindered liberation
of the enlightened, they are valiants among humans; roaring the lion’s
roar, they attain fearlessness, and arc able to turn the wheel of the
unimpeded pure teaching. Attaining liberation of intellect, they know
thoroughly all objects in the world. Stopping the whirlpool of birth and
death, they enter the ocean of wisdom. Preserving the right teachings
of the Buddhas of past, present, and future for the sake of all sentient
beings, they reach the fountainhead of the real character of the ocean of
all Buddha teachings.
“Once enlightening beings dwell in this practice of truth, any beings
who associate with them are caused to open up in understanding, be
full of joy and completely pure. This is called the great enlightening
beings’ tenth practice, of truth.”
Những gì là Bồ-Tát Chơn-Thiệt-Hạnh?
Bồ-Tát này thành-tựu lời chắc thật đệ-nhứt, có thể làm đúng như lời, có thể nói đúng như làm.
Bồ-Tát này học chơn-thiệt ngữ của tam-thế chư Phật, nhập chủng-tánh của tam-thế chư Phật, đồng thiện-căn với tam-thế chư Phật, được lời vô-nhị của tam-thế chư Phật, theo Như-Lai học thành-tựu trí-huệ.
Bồ-Tát này thành-tựu trí : biết chúng-sanh thị-xứ phi-xứ, trí biết-tam-thế nghiệp-báo, trí biết các căn-tánh lợi-độn, trí biết các thế-giới, trí biết các tri-giải, trí biết tất cả đạo chỗ đến, trí biết các thiền, tam-muội, giải-thoát cấu-tịnh, khởi phải thời hay phi-thời, trí biết tất cả thế-giới túc-trụ tùy niệm, trí thiên-nhãn, trí lậu-tận, mà chẳng rời tất cả bồ-tát-hạnh. Tại sao vậy? Vì muốn giáo-hóa tất cả chúng-sanh đều khiến thanh-tịnh.
Bồ-Tát này lại sanh tâm tăng-thượng như vầy: nếu tôi chẳng làm cho tất cả chúng-sanh trụ nơi đạo vô-thượng giải-thoát, mà tôi trước thành vô-thượng bồ-đề thời trái bổn-nguyện của tôi, không nên như vậy. vì thế nên tôi phải làm cho tất cả chúng-sanh trước được vô-thượng bồ-đề vào vô-dư niết-bàn rồi sau tôi sẽ thành Phật. Vì chẳng phải chúng-sanh thỉnh tôi phát tâm, tội tự vì chúng-sanh mà làm bạn chẳng chờ thỉnh, muốn khiến tất cả chúng-sanh trước đầy đủ căn lành chứng nhứt-thiết-trí. Do đây nên tôi là tối-thắng vì chẳng nhiễm trước thế-gian, là tối-thượng vì trụ bực vô-thượng điều-ngự, là rời mù lòa vì hiểu chúng-sanh không ngằn mé, tôi làm đã xong vì thành-tựu bổn-nguyện, tôi là bồ-tát khéo biến-hóa vì công-đức trang-nghiêm, tôi là khéo nương tựa vì được tam-thế chư Phật nhiếp-thọ.
Vì Bồ-Tát này không rời bỏ bổn-nguyện nên được vào bực vô-thượng trí-huệ trang-nghiêm, lợi-ích chúng-sanh khiến đầy đủ, tùy bổn-nguyện đều được rốt-ráo, với tất cả pháp được trí-huệ tự-tại, khiến tất cả chúng-sanh khắp được thanh-tịnh, niệm niệm đi khắp được thanh-tịnh, niệm niệm đi khắp thập-phương thế-giới, niệm niệm đến khắp bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-độ, niệm niệm đều thấy bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết chư Phật, và Phật-độ trang-nghiêm thanh-tịnh, thị-hiện Như-Lai tự-tại thần-lực khắp pháp-giới hư-không-giới.
Bồ-Tát này hiện vô-lượng thân vào khắp thế-gian mà không sở-y. Ở trong thân mình hiện tất cả cõi, tất cả chúng-sanh, tất cả pháp, tất cả Phật.
Bồ-Tát này biết chúng-sanh: các thứ tưởng niệm, các thứ ưa muốn, các thứ hiểu biết, các thứ nghiệp báo, các thứ thiện-căn, tùy cơ nghi mà hiện thân để điều-phục họ.
Bồ-Tát này quán-sát chư Bồ-Tát như huyễn, tất cả pháp như hóa, Phật xuất thế như bóng, tất cả thế-gian như giấc mơ, được tạng nghĩa-thân, văn-thân vô-tận, chánh-niệm tự-tại, trí-huệ tối-thắng quyết-định rõ biết tất cả các pháp, nhập tất cả tam-muội chơn-thật-tánh, trụ nơi nhứt-tánh không hai.
Vì chúng-sanh đều chấp-trước nơi hai, nên Bồ-Tát này an-trụ nơi đại-bình-đẳng thành-tựu hành pháp tịch-diệt như vậy, được Phật thập-lực, nhập nhơn-đà-la võng pháp-giới, thành-tựu Như-Lai vô-ngại giải-thoát, hùng-mãnh trong loài người, đại sư-tử hống, được vô-úy chuyển pháp-luân vô-ngại thanh-tịnh, được trí-huệ giải-thoát rõ biết tất cả cảnh-giới thế-gian, tuyệt dứt dòng sanh tử vào biển lớn trí-huệ, vì tất cả chúng-sanh mà hộ-trì chánh-pháp của tam-thế Phật, đến tột đáy nguồn thiệt-tướng của biển lớn tất cả pháp.
Bồ-Tát trụ nơi Chơn-Thiệt-Hạnh này rồi, tất cả thế-gian: Trời, Người, Ma, Phạm, Sa-Môn, Bà-La-Môn, Càn-Thát-Bà, A-Tu-La v.v… có ai gần-gũi, thời đều làm cho được tỏ ngộ hoan-hỷ thanh-tịnh.
Ðây gọi là Bồ-Tát Chơn-Thiệt-Hạnh thứ mười.
Then, because of the spiritual power of the Buddha, in each of the
ten directions as many worlds as atoms in a buddha-land quaked in six
ways, moving, moving everywhere, moving equally everywhere, rising,
rising everywhere, rising equally everywhere, surging, surging every-
where, surging equally everywhere, shaking, shaking everywhere, shak-
ing equally everywhere, roaring, roaring everywhere, roaring equally
everywhere, crashing, crashing everywhere, crashing equally everywhere.
It rained beautiful celestial flowers, celestial perfumes and incense,
celestial garlands and raiment, celestial jewels and ornaments. Heavenly
music played and celestial lights shone, conveying the subtle voices of
all celestial beings. The miracles that appeared when the ten practices
were expounded in the Suyama heaven of this world also appeared
likewise in all the worlds of the ten directions.
Also, due to the spiritual power of the Buddha, from each of the ten
directions as many enlightening beings as atoms in a hundred thousand
buddha-lands came to this world from beyond worlds as numerous as
atoms in a hundred thousand buddha-lands; filling the ten directions,
they said to the enlightening being Forest of Virtue, “Excellent, O
Child of Buddha; you can skillfully expound the practices of enlighten-
ing beings. We arc all similarly named Forest of Virtues and the worlds
we live m are all called Banner of Virtue, and the Buddhas of those
lands arc all named Universal Virtue. At our Buddhas’ places this
teaching is also expounded — the assembly, words, and principles arc all
the same, nothing more and nothing less. Child of Buddha, we have all
come to this assembly through the power of the Buddhas to be witnesses
for you. This is also true ot all the worlds in the ten directions.”
Then the enlightening being Forest of Virtues, by the spiritual power
of the Buddha, looked over all the congregations in the ten directions,
throughout the cosmos. Because he wanted to cause the lineage of
Buddhas to continue, to cause the family of enlightening beings to be
pure, to cause those who undertake vows not to regress, to cause
practitioners to persevere, to cause all peoples in all times to be equal, to
contact all the strains of Buddhas of all times, to expound roots of
goodness that have been cultivated, to observe and analyze all faculties,
inclinations, understandings, afflictions, habits, and mental activities,
and to clarify the enlightenment of all Buddhas, said in verse:
Lúc bấy giờ, do thần-lực của đức Phật, mười phương đều có phật-sát vi-trần-số thế-giới chấn-động sáu cách. Khắp nơi, trời rưới thiên-hoa, thiên-hương, thiên-tràng-hoa, thiên-y, thiên-bửu, thiên-trang-nghiêm-cụ, tấu thiên-nhạc, phóng thiên-quang-minh, diễn thông thần-biến. Thập phương thế-giới đều như vậy cả.
Lại do thần-lực của đức Phật, mười phương đều quá ngoài mười vạn phật-sát vi-trần-số thế-giới, có mười vạn phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát câu-hội, đồng nói với Công-Ðức-Lâm Bồ-Tát rằng: ‘Lành thay Phật-tử! Ngài khéo diễn nói các hạnh Bồ-Tát. Chúng tôi đồng hiệu Công-Ðức-Lâm cả, thế-giới của chúng tôi ở đồng hiệu Công-Ðức-Tràng, chư Như-Lai ở cõi chúng tôi đồng hiệu Phổ-Công-Ðức cũng nói pháp này. Chúng-hội, quyến-thuộc, ngôn-từ, nghĩa-lý cũng đều như nơi đây không có tăng giảm.
Thưa Phật-tử! Thừa oai-lực của Phật, chúng tôi đến đây để chứng-minh cho ngài.
Công-Ðức-Lâm Bồ-Tát thừa thần-lực của đức Phật quan-sát khắp mười phương tất cả chúng-hội, cùng tận pháp-giới, vì muốn phật-chủng chẳng dứt, vì muốn chủng-tánh Bồ-Tát thanh-tịnh, vì muốn nguyện chủng-tánh chẳng thối chuyển, vì muốn hạnh chủng-tánh thường tương-tục, vì muốn tam-thế chủng-tánh đều bình-đẳng, vì muốn nhiếp tam-thế tất cả phật-chủng, vì muốn khai diễn những thiện-căn của mình vun-trồng, vì muốn quan-sát tất cả căn-tánh, vì muốn hiểu phiền-não, tập-khí, tâm-hành chỗ-làm, vì muốn soi rõ Phật bồ-đề, nên nói kệ rằng:
Wholehearted honor to the Lords of Ten Powers,
Undcfiled, totally pure, the unobstructed seers;
Their realm is profound and far-reaching, beyond compare,
They abide in the spacchke Path.
The supreme among humans in the past,
With immeasurable virtue, tree from attachments.
Foremost in valor, without any peer:
Those beyond the dusts travel this Path.
Now m the lands of the ten directions
The ultimate truth is ably explained:
Free from all faults, utterly pure,
The independent travel this path.
The future lions among humans
Travel everywhere throughout the cosmos;
Having evoked the Buddhas’ mind of compassion,
The benefactors travel this path.
The incomparable honored ones of all times
Naturally destroy the darkness of ignorance,
Equanimous toward all things;
Th osc of great power travel this path.
They see countless, boundless worlds everywhere,
All their beings and conditions.
Yet having seen do not discriminate falsely;
The impertubable travel this path.
Understanding everything in the cosmos.
Most clear about the ultimate truth,
They forever destroy anger, pride, and tolly:
The virtuous travel this path.
Accurately distinguishing sentient beings.
They enter into the true nature of all phenomena,
Spontaneously understanding without relying on others;
The spacelike travel this path.
To all lands throughout space
They go and teach, through many examples.
What they teach pure and irrefutable;
The supreme sages travel this path.
The Flower Ornament Scripture
Throughly stable, unregressing,
They accomplish the noble, supreme teaching;
Will power inexhaustible, they reach the other shore:
Good practitioners travel this path.
All stages, infinitely boundless,
Their vast, most deep and subtle realms,
All they know and sec, without exception;
The lions of philosophy travel this path.
Understanding the meanings of all expressions.
Crushing all disputes,
They are certain of the truth, without a doubt;
The great sages travel this path.
Getting rid of the errors and ills of the world.
Giving peace and happiness to all beings,
They can be peerless great guides;
Th ose of excellent virtue travel this path.
They always give impartially to beings.
Causing them all to rejoice,
Their minds pure, free from all taint;
The peerless ones travel this path.
Their mental actions are pure and well tuned;
Divorcing sophistry, they speak without fault.
Their magnificent aura’s admired by all;
The supreme travel this path.
Entering truth, reaching the other shore.
Abiding in virtue, minds forever at rest.
The Buddhas always protect them;
Those who extinguish being travel this path.
Detached from self, free from affliction.
Always proclaiming the truth aloud,
They reach all lands in the ten directions;
The incomparable travel this path.
Having fulfilled transcendent generosity.
Adorned by a hundred marks of blessing,
All who see them are joyful;
The supremely wise travel this path.
The state of knowledge, hard to enter,
They can abide in by subtle wisdom,
Their minds ultimately impcrtubablc;
Those firm in practice travel this path.
Able to enter all realms of being in the cosmos
And find the ultimate wherever they enter,
Their spiritual powers free and all-embracing;
Those illumined by truth travel this path.
The incomparably great sages
Cultivate the nonduality of concentration,
Their minds always in equipoise, enjoying tranquility;
The all-seers travel this path.
The interpenetration and distinction
Of minute and great lands
They know all in their proper spheres;
The mountain-kings of knowledge travel this path.
Their intellects are always clear and clean,
Without attachments in the world;
Keeping the precepts, they reach the other shore:
The pure-minded travel this path.
Knowledge and wisdom boundless, inexpressible,
Pervading the space of the cosmos,
They ably learn to abide therein;
Those of indestructible wisdom travel this path.
Their knowledge enters and pervades
The realms of all Buddhas of all times,
Never for a moment growing tired or wearied:
The supreme travel this path.
Well able to discern the elements of the ten powers.
They know where all paths lead;
Their actions arc unhindered and they arc free:
Those embodying virtue travel this path.
All the sentient beings there are
In the infinite worlds in the ten directions
They will rescue without forsaking:
The fearless travel this path.
Earnestly practicing the Buddha teachings.
Their minds ever vigorous and indefatigable.
They purify all the worlds:
The great dragon kings travel this path.
Knowing the dissimilarities in beings’ faculties
And the countless differences in inclination and understanding,
They clearly comprehend all kinds of realms:
Those who go everywhere travel this path.
To infinite lands in the worlds of the ten directions
They go and are born, countless times,
With never a thought of weariness or disdain:
The joyful ones travel this path.
Radiating nets of countless lights
Illuminating all worlds.
They enter the nature of reality wherever the light shines:
The good-mmded travel this path.
Causing the lands of the ten directions to tremble —
Countless billions of trillions,
They do not cause the beings to fear:
This is the path traveled by benefactors of the world.
Understanding all principles of language,
They are consummately skilled in dialogue.
Their brilliant discursive intellect knowing all:
This is the path traveled by the fearless.
They understand the various lands with various orientations,
Discerning, thinking, finding the ultimate,
Causing all to abide in the state of inexhaustibility:
This is the path traveled by those of superior intellect.
Their virtues arc infinitely numerous —
They cultivate them all in search of the Buddha way.
And reach the other shore of them all:
This is the path traveled by the inexhaustible workers.
The world-transcending philosophers
With supreme eloquence roar the lion’s roar,
Causing all living beings to reach the other shore;
This is the path traveled by the pure-minded.
They have already been crowned
With the supreme teaching of the Buddhas;
Their minds always dwell in the truth:
The broadminded travel this path.
Sentient beings have innumerable differences;
They comprehend their minds thoroughly,
Maintaining with certainty the treasury of Buddha teachings:
Those like polar mountains travel this path.
They are able to reveal countless sounds
In each and every word
Enabling beings to understand in accord with their kind:
The unhindered seers travel this path.
Their knowledge has impartial access
To all rules of language,
While they dwell in the realm of real truth;
This is the path traveled by those who see the essence.
Abiding at peace in the deep ocean of truth,
Able to verify all actualities
They understand the true aspect of signlcssncss of things:
This is the path traveled by those who sec the truth.
They travel to every buddha-land
Over countless, boundless eons.
Observing and meditating ceaselessly:
This is the path traveled by the indefatigable.
Infinite, countless Buddhas,
Their names each different,
They clearly see in the space of a point:
This is the path traveled by those of pure virtue.
They see Buddhas in the space of a point,
Their number beyond measure or speech,
The same true for every phenomenon:
The children of Buddhas travel this path.
Measureless, boundless, countless eons
They clearly sec in an instant,
And know their length has no fixed characteristics:
This is the path traveled by the liberated.
They can cause all who sec them to benefit,
All planting affinities with the Buddha-tcaching —
Yet they have no attachment to their deeds:
This is the path traveled by the most excellent.
Meeting Buddhas for billions of cons
With never a thought of weariness.
The joy in their hearts increases more and more:
This is the path traveled by those who don’t sec in vain.
Observing the realms of all beings
Over countless, boundless eons,
They’ve never seen that a single being exists:
This is the path of the steadfast heroes.
Cultivating boundless stores of virtue and knowledge,
They arc pure, cool universal reservoirs of virtue
Benefiting all beings:
The foremost of humans travel this path.
The various species in the universe,
Filling space, uncountable,
They know all exist in terms of words:
This is the path traveled by lion roarers.
Able in each individual concentration
To enter countless concentrations,
They arrive at the recondite depths of the teaching:
The expounders of the moon travel this path.
With the power of acceptance they practice earnestly and reach the
other shore,
Able to accept the supreme teaching of dispassionate extinction,
Their minds cquanimous and imperturbable:
This is the path traveled by those of boundless knowledge.
At one scat m one world
Their bodies are unmoving, ever tranquil,
Yet they manifest their bodies in everything;
Those of boundless bodies travel this path.
Countless, boundless lands
They cause to enter at once into one atom.
Which is able to contain all unhindered:
Th ose of boundless thought travel this path.
Comprehending what is so and what is not,
They are able to enter the realm of all the ten powers
And accomplish the supreme powers of the enlightened:
This is the path traveled by the foremost in power.
Countless, boundless consequences ot acts
In past, future, and present ages,
They always comprehend by knowledge:
This is the path traveled by those ot consummate understanding.
Understanding right and wrong timing in the world,
They civilize beings according to necessity,
In every case adapting to their needs;
Th is is the path traveled by those who comprehend.
Guarding well their action, speech, and thought.
Always making them apply the teaching in practice,
They divorce all attachments and conquer all demons;
This is the path traveled by the wise.
Able to skillfully adapt the teachings,
And able to enter the impartiality ot true thusness.
Their eloquent exposition is inexhaustible:
This is the path ot Buddha practice.
Having fulfilled the method ot mental command,
Able to rest in the treasury of nonobstruction,
They comprehend all realms of reality:
This is the path ot those who delve deeply.
Equal in mind, same in knowledge
As all Buddhas ot all times.
They are of one nature and one character:
This is the path ot the unimpeded.
Having removed all veils ot ignorance
And entered deeply into the ocean ot knowledge,
They bestow pure eyes on all sentient beings:
This is the path ot those with eyes.
Having fulfilled the impartial, nondual practice of spiritual powers
Of all the Guides,
They attain the independent power of the Enlightened:
This is the path of the well-cultivated.
They travel through all worlds
Showering everywhere the boundless rain of wondrous teaching.
Causing all to gain certain understanding of the meaning:
This is the path of the Clouds of Teaching.
Able to produce nonregressing pure faith
In the Buddhas’ knowledge and liberation,
They produce the roots of knowledge and wisdom by faith:
This is the path traveled by those who learn well.
Able to know in a single instant
All living beings, without exception,
They comprehend the intrinsic nature of beings’ minds:
This is the path of those who realize naturelessness.
To all lands in the cosmos, countless,
They can travel by projection.
Their bodies most subtle, beyond comparison:
This is the path of peerless action.
Buddha-lands are boundless and countless;
There are infinite Buddhas therein:
Enlightening beings appear before them all.
Attending, providing, engendering respect.
Enlightening beings can, with a single body.
Enter concentration, become poised in stillness.
And cause that body to appear as countless bodies
Each rising from concentration.
The abode of enlightening beings is most profound and subtle;
Their practices and deeds arc free from nonsense.
Their minds are pure, always happy,
Able to cause all beings joy.
The differences in faculties and expedients
Are clearly apparent to their knowledge,
Yet they realize all faculties have no basis:
This is the path of the tamers of the intractable.
Able to expediently distinguish with skill
They are versatile masters of all teachings.
The worlds of the ten directions are each different:
They live therein and perform Buddha work.
Their faculties arc subtle, so arc their deeds;
They are able to expound the truth broadly to beings;
Who would not rejoice on hearing them?
This is the path traveled by those equal to space.
Their eye of knowledge is pure, without peer.
They sec all things clearly,
This knowledge expediently distinguishing them:
This is the path traveled by the peerless.
All inexhaustible great virtues
They have cultivated to consummation,
To cause all beings to be pure:
This is the path traveled by the incomparable.
Urging all to cultivate the aids to the Path,
Causing all to dwell on the ground of method.
They liberate beings without number
Without ever forming a concept of beings.
They observe all opportunities and affinities.
First protecting others’ minds, making them noncontentious.
Showing all sentient beings the place of peace;
Th is is the path traveled by the skillful.
Perfecting highest, ultimate knowledge,
Replete with measureless, boundless knowledge,
They arc fearless among all groups of people:
This is the path of the knowers of means.
All worlds and all phenomena
They can enter into with freedom;
They also enter all congregations
And liberate countless beings.
In all lands in the ten directions
They beat the great drum of truth and awaken the living;
As givers of teaching they arc unsurpassed:
This is the path traveled by the unperishing.
With one body sitting crosslegged upright
They fill countless worlds in the ten directions
Yet cause their bodies not to be crowded:
This is the path of those with the body of reality.
In one doctrine, one statement,
They can explain boundless principles,
And no limit to them can be found:
This is the path traveled by those of boundless knowledge.
They learn the Buddhas’ liberations well,
Attain Buddha-knowledgc without obstruction,
Develop fearlessness and become valiants of the world:
This is the path traveled by the skillful.
They know the oceans of worlds in the ten directions
And also know the oceans of all buddha-lands.
And comprehend the oceans of knowledge and truth;
All who see them arc filled with joy.
Sometimes they show entering the womb, sometimes birth,
Sometimes the attainment of enlightenment —
Thus they cause all worldlings to sec:
This is the path traveled by the unbounded.
In countless billions of lands
They manifest themselves entering nirvana
But really they don’t give up their vows for extinction:
This is the path of the heroic philosophers.
The indestructible, esoteric unique subtle body
Is equal to the Buddhas’, no different.
But all sentient beings each sec it differently:
This is the path of the one true body.
The real cosmos is all equal, without distinction.
Containing infinite, boundless meanings;
They enjoy contemplating oneness, minds unmoving:
This is the path of knowers of all times.
In terms of sentient beings and enlightening teachings,
Their constructions and empowerments are consummate;
Their supporting power is the same as the Buddhas:
The supreme upholders of teaching travel this path.
Their power of psychic travel is unimpeded, like Buddhas’,
Their clairvoyance is unhindered and utterly pure.
Their auditory faculties, unobstructed, can hear well:
This is the path of those with unhindered minds.
All their spiritual powers are fully complete.
All developed according to their knowledge;
They know all, without peer:
This is the path traveled by the wise.
Their minds are rightly concentrated, unwavering,
Their knowledge is boundlessly vast,
They comprehend all realms:
This is the path traveled by the all-sccrs.
Having already arrived at the shore of all virtue
They can deliver beings one after another,
Their minds ultimately never wearying:
This is the path traveled by the constantly diligent.
They know and sec the teachings
Of the Buddhas of all times.
And are born in the family of the enlightened:
The Buddha-childrcn travel this path.
They have fully developed adaptive speech
And skillfully refute all opposition,
And always can proceed toward enlightenment:
This is the path of those with boundless wisdom.
One light illumines boundlessly,
Filling all lands in the ten directions.
Causing all worlds to gain great brightness:
This is the path of the darkness destroyers.
According to what should be seen and supported
They manifest the pure body of the enlightened,
Teaching and edifying billions of beings
And adorning buddha-lands the same way.
In order to enable sentient beings to transcend the world
They cultivate all the sublime practices;
This activity is boundlessly great:
H ow could anyone be able to know?
Even if the body were reproduced to an unspeakable number,
Equal to the space of the cosmos,
And all should together laud their virtues.
They could not finish them in a billion eons.
Enlightening beings’ virtues have no bounds;
They have fulfilled all cultivation:
Even countless, boundless Buddhas
Could not tell of them all in measureless eons,
How much less could mundane gods and humans,
Listeners and self-illumined ones,
Be able in unlimited eons
To sing their praises exhaustively.
Nhứt tâm kính lễ đấng Thập-Lực
Ly-cấu, thanh-tịnh, thấy vô-ngại,
Cảnh-giới sâu xa, không ngang sánh
Trụ, như hư-không, có trong đạo.
Quá-khứ, đấng Tối-Thắng trong người
Công-đức vô-lượng không sở-trước
Dũng-mãnh đệ-nhứt không sánh bằng
Bực ly-trần kia hành đạo này.
Hiện-tại thập-phương các quốc-độ
Hay khéo khai diễn đệ-nhứt-nghĩa
Lìa những lỗi ác rất thanh-tịnh
Bực vô-y-kia làm đạo này.
Vị-lai bao nhiêu đấng Nhơn-sư
Du hành cùng khắp trong pháp-giới
Ðã phát tâm đại-bi của Phật
Bực nhiêu-ích kia hành đạo này.
Tam-thế tất cả đấng vô-tỉ
Tự-nhiên trừ-diệt ngu-si tối
Nơi tất cả pháp đều bình-đẳng
Bực đại-lực kia hành đạo này.
Thấy khắp vô-lượng vô-biên cõi
Tất cả các cõi và các loài
Thấy rồi nơi tâm không phân biệt
Bực vô-động kia hành đạo này.
Tất cả các cõi và các loài
Thấy rồi nơi tâm không phân-biệt
Bực vô-động kia hành đạo này.
Tất cả pháp-giới đều sáng tỏ
Nơi đệ-nhứt-nghĩa rất thanh-tịnh
Trọn phá sân mạn và ngu-si
Bực công-đức kia hành đạo này.
Nơi các chúng-sanh khéo phân-biệt
Ðều vào tánh pháp-giới chơn-thiệt
Tự nhiên giác-ngộ chăng do người
Bực đẳng-không kia hành đạo này.
Khăp hư-không bao nhiêu quốc-độ
Ðều đến thuyết-pháp rộng khai dụ
Lời nói thanh-tịnh không bị-hoại
Bực thắng-mâu-ni hành đạo này.
Trọn vẹn bền chắc không thối chuyển
Thành-tựu tôn trọng pháp tối-thắng
Nguyện-lực vô-tận đến bờ-kia
Bực thiện-tu kia hành đạo này.
Vô-lượng vô-biên tất cả bực
Cảnh-giới quảng đại rất sâu diệu
Ðều thấy biết được chẳng còn sót
Bực Nhơn-Sư kia hành đạo này.
Xa lìa thế-gian những lỗi họa
Cho khắp chúng-sanh vui an ổn
Hay làm vô-đẳng đại-đạo-sư
Bực thắng-đức kia hành đạo này.
Luôn đem vô-úy ban chúng-sanh
Khiến khắp tất cả đều vui thích
Lòng họ thanh-tịnh lìa nhiễm trược
Bực vô-đẳng kia hành đạo này.
Ý-nghiệp thanh-tịnh rất điều thiện
Rời những hí-luận miệng không lỗi
Oai-quang viên-mãn chúng tôn kính
Bực tối-thắng kia hành đạo này.
Vào chơn-thiệt-nghĩa, đến bờ kia
Trụ nơi công-đức lòng tịch-tịnh
Chư Phật hộ niệm luôn chẳng quên
Bực diệt-hữu kia hành đạo này.
Xa lìa ngã, không não hại
Luôn dùng đại-âm tuyên chánh-pháp
Thập phương quốc-độ đều cùng khắp
Bực tuyệt ví-dụ hành đạo này.
Ðàn ba-la-mật đã hoàn thành
Trăm phước tướng-hảo dùng trang-nghiêm
Chúng-sanh nhìn thấy đều vui đẹp
Bực huệ tối-thắng hành đạo này.
Trí-địa rất sâu khó vào được
Hay dùng diệu-huệ khéo an-trụ
Tâm đó rốt ráo chẳng giao động
Bực kiên-cố-hạnh hành đạo này.
Tất cả pháp-giới đều vào được
Tùy nơi chỗ vào đều rốt ráo
Thần-thông tự-tại gồm tất cả
Bực pháp quang-minh hành đạo này.
Ðấng vô-đẳng-đẳng đại Mâu-Ni
Siêng tu tam-muội không hai tướng
Tâm thường tại định thích tịch-tịnh
Bực phổ-kiến kia hành đạo này.
Quốc-độ vi-tế cùng quảng-đại
Thiệp nhập lẫn nhau đều sai khác
Như cảnh-giới kia đều biết rõ
Bực trí sơn-vương hành đạo này.
Ý luôn sáng sạch lìa nhơ bợn
Ở trong ba cõi không tham chấp
Hộ-trì giới-hạnh đến bờ-kia
Bực tịnh-tâm đây hành đạo này.
Trí-huệ vô-biên không nói được
Cùng khắp pháp-giới hư-không giới
Khéo hay tu học trụ trong đó
Bực kim-cang huệ hành đạo này.
Cảnh-giới tam-thế tất cả Phật
Trí-huệ khéo vào đều cùng khắp
Chưa từng tạm khởi lòng nhàm mỏi
Bực tối-thắng kia hành đạo này.
Hay khéo phân-biệt pháp thập-lực
Rõ biết tất cả chỗ đạo đến
Thân nghiệp vô-ngại được tự-tại
Bực công-đức thân hành đạo này.
Thập-phương vô-lượng vô-biên cõi
Chỗ có tất cả các chúng-sanh
Tôi đều cứu hộ mà chẳng bỏ
Bực vô-úy kia hành đạo này.
Nơi những phật-pháp siêng tu học
Lòng luôn tinh-tấn chẳng lười mỏi
Sửa trị tất cả các thế-gian
Bực đại long-vương hành đạo này.
Rõ biết chúng-sanh căn chẳng đồng
Muốn, hiểu, vô-lượng riêng sai khác
Các loài các cõi đều thấu tỏ
Bực phổ nhập kia hành đạo này.
Thập phương thế-giới vô-lượng cõi
Ðều đến thọ sanh không số lượng
Chưa từng một niệm sanh mỏi nhàm
Bực hoan-hỷ kia hành đạo này.
Khắp phóng vô-lượng lưới quang-minh
Soi sáng vô-lượng các thế-gian
Quang-minh chiếu đến vào pháp-tánh
Bực thiện-huệ kia hành đạo này.
Chấn động mười phương các quốc-độ
Vô-lượng ức số na-do-tha
Chẳng để chúng-sanh có kinh sợ
Bực lợi-thế kia hành-đạo này.
Khéo hiểu tất cả các ngữ ngôn
Vấn nạn đối đáp đều rốt ráo
Thông triết biện huệ đều biết cả
Bực vô-úy kia hành đạo này.
Khéo biết các cõi ngửa hoặc úp
Phân biệt tư-duy đều rốt ráo
Ðều khiến trụ nơi chỗ vô-tận
Bực thắng-huệ kia hành đạo này.
Công-đức vô-lượng na-do-tha
Vì cầu phật-đạo đều tu tập
Tất cả đều được đến bờ kia
Bực vô-tận hạnh hành đạo này.
Vượt hơn đại luận-sư thế-gian
Biện-tài đệ-nhứt sư-tử hống
Khiến khắp quần-sanh đến bờ kia
Ðây bực tịnh-tâm hành đạo này.
Chư Phật quán-đảnh pháp đệ-nhứt
Ðã được pháp này rưới trên đảnh
Tâm luôn an-trụ môn chánh-pháp
Bực quảng-đại-âm hành đạo này.
Tất cả chúng-sanh khác vô-lượng
Rõ thấu tâm họ đều cùng khắp
Quyết định hộ-trì Phật-pháp-tạng
Bực Như-tu-di hành đạo này.
Có thể ở trong mỗi ngữ ngôn
Khắp vì thị-hiện vô-lượng tiếng
Khiến chúng theo loài đều được hiểu
Bực vô-ngại-kiến hành đạo này.
Tất cả pháp : văn-tự ngữ-ngôn
Trí đều khéo vào chẳng phân-biệt
Trụ trong các cảnh-giới chơn-thiệt
Bực kiến-tánh kia hành đạo này.
An-trụ biển pháp rất sâu lớn
Khéo hay ấn-định tất cả pháp
Rõ môn vô-tướng chơn-thật pháp
Bực thấy thật kia hành đạo này.
Mỗi mỗi phật-độ đều qua đến
Tận cả vô-lượng vô-biên kiếp
Quán-sát tư-duy chẳng tạm-dừng
Bực chẳng trễ lười hành đạo này.
Vô-lượng vô-số chư Như-Lai
Các thứ danh hiệu đều chẳng đồng
Nơi một đầu lông đều thấy rõ
Bực tịnh-phước kia hành đạo này.
Nơi một đầu lông thấy chư Phật
Số đó vô-lượng bất-khả-thuyết
Tất cả pháp-giới đều cũng vậy
Chư Phật-tử kia hành đạo này.
Vô-lượng vô-biên vô-số kiếp
Ở trong một niệm đều thấy rõ
Biết thời dài vắn tướng bất-định
Bực hạnh-giải-thoát hành đạo này.
Hay khiến người thấy không luống qua
Ðều nơi phật-pháp gieo nhơn-duyên
Mà nơi sở-tác lòng không chấp
Bực tối-thắng kia hành đạo này.
Na-do-tha kiếp thường gặp Phật
Trọn chẳng một niệm sanh mỏi nhàm
Tâm hoan-hỷ đó càng thêm lớn
Bực bất-không-biến hành đạo này.
Tận cả vô-lượng vô-biên kiếp
Quan-sát tất cả chúng-sanh-giới
Chưa từng thấy có một chúng-sanh
Ðây bực kiên-cố hành đạo này.
Tu-tập vô-biên tạng phước-trí
Khắp làm ao công-đức thanh-lương
Lợi-ích tất cả các quần-sanh
Bực đệ-nhứt kia hành đạo này.
Pháp-giới chỗ có các phẩm loại
Cùng khăp hư-không vô-số-lượng
Rõ kia đều nương ngôn-thuyết có
Bực sư-tử-hống hành đạo này.
Có thể trong mỗi mỗi tam-muội
Vào khắp vô-số các tam-muội
Ðều đến pháp-môn chỗ kín nhiệm
Ðây bực luận-nguyệt hành đạo này.
Nhẫn-lực siêng tu đến bờ kia
Hay nhẫn pháp tịch-diệt tối-thắng
Tâm đó bình-đẳng chẳng giao-động
Bực vô-biên-trí hành đạo này.
Nơi một thế-giới một chỗ ngồi
Thân Phật chẳng đồng luôn yên lặng
Mà tất cả chỗ đều hiện thân
Bực vô-biên-thân hành đạo này.
Vô-lượng vô-biên các quốc-độ
Ðều khiến đồng vào trong một trần
Khắp được bao dung không chướng ngại
Bực vô-biên-tư hành đạo này.
Thấu rõ thị-xứ và phi-xứ
Nơi những lực-xứ khắp vào được
Thành-tựu thượng-lực của Như-Lai
Bực đệ-nhứt-lực hành đạo này.
Quá-khứ vị-lai và hiện-tại
Vô-lượng vô-biên các nghiệp-báo
Thường dùng trí-huệ đều rõ biết
Bực thông-đạt kia hành đạo này.
Rõ thấu thế-gian thời, phi-thời
Tùy nghi điều-phục các chúng-sanh
Ðều thuận căn-cơ chẳng lầm lỗi
Bực thiện-liễu kia hành đạo này.
Khéo gìn thân ngữ và ý-nghiệp
Luôn khiến y pháp mà tu hành
Lìa những chấp-trước phục chúng ma
Bực trí-tâm kia hành đạo này.
Ở trong các pháp được thiện-xảo
Hay vào chơn-như chỗ bình-đẳng
Biện-tài tuyên nói không cùng tận
Ðây bực phật-hạnh hành đạo này.
Môn đà-la-ni đã viên-mãn
Khéo hay an-trụ tạng vô-ngại
Nơi các pháp-giới đều thông-đạt
Bực thâm nhập kia hành đạo này.
Tam-thế chỗ có tất cả Phật
Tâm đều bình-đẳng đồng trí-huệ
Một tánh một tướng không sai khác
Bực vô-ngại-chủng hành đạo này.
Ðã vạch tất cả màn ngu-si
Thâm nhập biển trí-huệ rộng lớn
Thí khắp chúng-sanh mắt thanh-tịnh
Bực hữu-mục kia hành đạo này.
Ðã đủ tất cả các đạo-sư
Bình-đẳng thần-thông hạnh vô-nhị
Ðược sức tự-tại của Như-Lai
Ðây bực thiện-thành-tựu hành đạo này.
Ði khắp tất cả các thế-gian
Khắp rưới vô-biên mưa diệu-pháp
Ðều khiến nơi nghĩa được hiểu chắc
Bực pháp-vân kia hành đạo này.
Ðược nơi phật-trí và giải-thoát
Tin sâu thanh-tịnh trọn chẳng thối
Do tin hay sanh gốc trí-huệ
Ðây bực thiện-học hành đạo này.
Hay nơi một niệm đều rõ biết
Tất cả chúng-sanh không thừa sót
Rõ tâm tự-tánh của chúng-sanh
Bực đạt vô-tánh hành đạo này.
Pháp-giới tất cả các quốc-độ
Hóa vô-số thân đều qua đến
Thân đó tối diệu không gì sánh
Bực vô-tỉ-hạnh hành đạo này.
Phật-sát vô-biên vô-lượng-số
Vô-lượng chư Phật ngự trong đó
Bồ-Tát nơi kia đều hiện-tiền
Gần-gũi cúng-dường và tôn-trọng.
Bồ-Tát hay dùng riêng một thân
Nhập trong tam-muội mà tịch-định
Khiến thấy thân mình vô-hạn-số
Mỗi mỗi đều từ tam-muội dậy.
Chỗ Bồ-Tát trụ rất vi-diệu
Sở-hành sở-tác vượt hí-luận
Trong tâm thanh-tịnh thường vui thích
Hay khiến chúng-sanh đều vui mừng.
Căn-tánh phương-tiện đều sai-biệt
Hay dùng trí-huệ thấy rõ cả
Mà rõ căn-tánh không sở-y
Bực điều-nan-điều hành đạo này.
Hay dùng phương-tiện khéo phân-biệt
Nơi tất cả pháp được tự-tại
Thập phương thế-giới đều chẳng đồng
Ðều ở trong đó làm phật-sự.
Căn-tánh vi-diệu hạnh cũng vậy
Hay vì chúng-sanh rộng thuyết-pháp
Người được nghe ai chẳng vui mừng
Bực đẳng-hư-không hành đạo này.
Trí-nhãn thanh-tịnh không ai bằng
Nơi tất cả pháp đều thấy rõ
Trí-huệ như vậy khép phân biệt
Ðây bực vô-đẳng hành đạo này.
Chỗ có vô-tận phước rộng lớn
Tất cả tu hành khiến rốt ráo
Khiến các chúng-sanh đều thanh-tịnh
Ðây bực vô-tỉ hành đạo này.
Khuyên khắp tu thành pháp trợ-đạo
Ðều khiến được trụ nơi phương-tiện
Ðộ thoát chúng-sanh vô-hạn-số
Chưa từng tạm khởi tưởng chúng-sanh.
Tất cả cơ-duyên đều quan-sát
Trước hộ lòng họ khiến vô-tránh
Khắp dạy chúng-sanh chỗ an-ổn
Ðây bực phương-tiện hành đạo này.
Thành-tựu trí tối-thượng đệ-nhứt
Ðầy đủ vô-lượng vô-biên trí
Ở trong tứ-chúng vô-sở-úy
Ðây bực phương-tiện hành đạo này.
Tất cả thế-giới và các pháp
Ðều hay vào khắp được tự-tại
Cũng vào trong tất cả chúng-hội
Ðộ thoát chúng-sanh vô-hạn-số.
Mười phương trong tất cả quốc-độ
Ðánh trống pháp lớn ngộ quần-sanh
Làm chủ thí-pháp rất vô-thượng
Ðây bực bất-diệt hành đạo này.
Một thân kiết-già ngồi ngay thẳng
Ðầy khắp mười phương vô-lượng cõi
Mà khiến thân đó không chật hẹp
Ðây bực pháp-thân hành đạo này.
Có thể trong một nghĩa một chữ
Diễn thuyết vô-lượng vô-biên pháp
Mà nơi ngằn mé vẫn không cùng
Bực vô-biên-trí hành đạo này.
Giải-thoát của Phật khéo tu học
Ðược Phật trí-huệ không chướng-ngại
Thành-tựu vô-úy làm thế-hùng
Ðây bực phương-tiện hành đạo này.
Rõ biết mười phương thế-giới hải
Cũng biết tất cả phật-sát hải
Trí-hải pháp-hải đều rõ biết
Chúng-sanh được thấy đều vui thích.
Hoặc hiện nhập thai và sơ sinh
Hoặc hiện đạo-tràng thành chánh-giác
Như vậy đều khiến thế-gian thấy
Ðây bực vô-biên hành đạo này.
Trong vô-lượng ức số quốc-độ
Thị-hiện thân mình nhập niết-bàn
Thiệt chẳng bỏ nguyện quy tịch-diệt
Ðây bực hùng-luận hành đạo này.
Một diệu-thân kiên-cố vi-mật
Cùng Phật bình-đẳng không sai-khác
Tùy các chúng-sanh đều thấy khác
Bực một thân thiệt hành đạo này.
Pháp-giới bình-đẳng không sai khác
Ðầy đủ vô-lượng vô-biên nghĩa
Thích quán một tướng tâm không dờI
Bực tam-thế trí hành đạo này.
Nơi các chúng-sanh và phật-pháp
Kiến lập gia-trì trọn rốt ráo
Những sức gia-trì đồng với Phật
Bực tối-thượng-trì hành đạo này.
Thần-túc vô-ngại rất thanh-tịnh
Nhĩ-căn thanh-tịnh khéo lóng nghe
Bực vô-ngại-ý hành đạo này.
Bao nhiêu thần-thông đều đầy đủ
Tùy trí-huệ kia trọn thành-tựu
Khéo biết tất cả chẳng ai bằng
Ðây bực hiền-trí hành đạo này.
Nơi tâm chánh-định chẳng dao-động
Nơi trí quảng-đại không biên-tế
Bao nhiêu cảnh-giới đều thấu tỏ
Bực nhứt-thiết-kiến hành đạo này.
Ðã đến bờ tất cả công-đức
Hay theo thứ-đệ độ chúng-sanh
Nơi tâm rốt-ráo không nhàm đủ
Bực thường tinh-tấn hành đạo này.
Tam-thế chỗ có những phật-pháp
Tất cả nơi đây đều biết thấy
Từ nơi phật-tánh mà sanh ra
Các Phật-tử kia hành đạo này.
Tùy thuận ngôn từ đã thành-tựu
Các phái dị-luận khéo khuất phục
Thường hay xu-hướng phật-bồ-đề
Bực vô-biên-huệ hành đạo này.
Phóng một quang-minh chiếu vô-tận
Thập-phương quốc-độ đều cùng-khắp
Khiến khắp thế-gian được sáng rõ
Ðây bực phá-ám hành đạo này.
Tùy kia đáng thấy đáng cúng-dường
Vì hiện Như-Lai thân thanh-tịnh
Giáo-hoá chúng-sanh trăm ngàn ức
Trang-nghiêm phật-sát cũng như vậy.
Vì khiến chúng-sanh xuất thế-gian
Tất cả diệu-hạnh đều tu-tập
Hạnh này rộng lớn không ngằn mé
Thế nào mà có người biết được.
Giả-sử phân-thân bất-khả-thuyết
Ðồng với pháp-giới đồng hư-không
Ðều đồng ca ngợi công-đức kia
Trăm ngàn muôn kiếp không hết được.
Công-đức Bồ-Tát vô-lượng-biên
Tất cả tu hành đều đầy đủ
Giả-sử vô-lượng vô-biên Phật
Trong vô-lượng kiếp nói chẳng hết.
Huống là thế-gian trời và người
Tất cả Thinh-Văn cùng Duyên-Giác
Có thể vô-lượng vô-biên kiếp
Ca ngợi tuyên-dương rốt-ráo được !
HẾT TẬP 2 KINH HOA NGHIÊM
Sources:
Tài liệu tham khảo:
- https://thienphatgiao.wordpress.com/2013/06/02/kinh-hoa-nghiem-thich-tri-tinh-dich/24/
- https://terebess.hu/zen/mesterek/avatamsaka-cleary.pdf
- https://thuvienhoasen.org/p16a539/21-pham-thap-hanh
- http://www.cttbusa.org/avatamsaka/avatamsaka21.asp