Many Lives – Many Masters
Tiền Kiếp Và Luân Hồi Có Thật Không?
English: Dr. Brian L. Weiss
Việt ngữ: Thích Tâm Quang
Compile: Middle Way Group
- Mục Lục – Tiền Kiếp Và Luân Hồi Có Thật Không? – Song ngữ
- Mục Lục – Song ngữ
Mục Lục – Tiền Kiếp Và Luân Hồi Có Thật Không? – Many Lives, Many Masters
LỜI NGƯỜI DỊCH
LỜI TỰA
CHƯƠNG MỘT
CHƯƠNG HAI
CHƯƠNG BA
CHƯƠNG BỐN
CHƯƠNG NĂM
CHƯƠNG SÁU
CHƯƠNG BẨY
CHƯƠNG TÁM
CHƯƠNG CHÍN
CHƯƠNG MƯỜI
CHƯƠNG MƯỜI MỘT
CHƯƠNG MƯỜI HAI
CHƯƠNG MƯỜI BA
CHƯƠNG MƯỜI BỐN
CHƯƠNG MƯỜI LĂM
CHƯƠNG MƯỜI SÁU
PHẦN KẾT
VỀ TÁC GIẢ
NHẬN XÉT CỦA MỘT SỐ NHÀ TRÍ THỨC
LỜI NGƯỜI DỊCH
Thời đại ngày nay là thời đại khoa học, nhưng có thể nói chính xác hơn là thời đại khoa học vật chất, còn khoa học tinh thần thì có lẽ mới chỉ là những bước đi chập chững. Từ thượng cổ người ta đã suy nghĩ và tìm hiểu xem có tiền kiếp và luân hồi không, nhưng cho tới nay hầu như chưa có câu trả lời “khoa học”. Những ý niệm, khái niệm, ý tưởng về điều đó vẫn là một vấn đề nhức nhối gây bán tín bán nghi. Thì đây, tác phẩm này đích thực là một công trình khoa học dưới dạng thức văn học về tiền kiếp và luân hồi, một vấn đề xuyên suốt quá trình triết học, tôn giáo trong lịch sử loài người. Đúng như tác giả, Bác Sĩ Brian L. Weiss viết “loài người đã chống lại những thay đổi và không chấp nhận những ý tưởng mới”. Quả thật là như vậy. Vì đây là những vấn đề hết sức khó chứng minh một cách khoa học nhưng lại thật đơn giản trong khoa học tôn giáo đích thực. Bạn đọc hoàn toàn có thể tự do so sánh đối chiếu để tìm ra chân lý. Bạn có thể tin rằng có nhiều tiền kiếp và nhiều lần luân hồi hay không, điều đó cũng chẳng khác câu chuyện của Galileo xưa kia. Dù sao, trái đất vẫn cứ quay. Vì đây là chuyện khoa học nên nó được viết rất chân thật, giản dị, trong sáng song rất hấp dẫn vì xen lẫn hiện tại, quá khứ, những suy tư quí báu của tác giả. Tin chắc rằng bạn đọc sẽ rút ra được những kết luận bổ ích cho cuộc sống, và biết đâu nó cũng thay đổi hẳn cuộc sống của mình. Tự biết khả năng còn nhiều hạn chế, nhưng với tấm lòng nhiệt thành chúng tôi cố gắng hoàn thành dịch phẩm này, mong mang được ít nhiều lợi lạc cho người đọc. Chúng tôi xin chân thành cảm tạ chư Tôn Đức đã khích lệ và góp nhiều ý kiến bổ ích. Đặc biệt chúng tôi xin tri ân Đạo Hữu Trần Quốc Cường đã bỏ nhiều công phu để hiệu đính, sửa chữa những thiếu sót sai lầm, một đóng góp to lớn trong việc phát hành tác phẩm này. Chúng tôi cũng xin chân thành tri ân các Đạo Hữu Diệu Linh Phạm Bích Kiều – Bác Sĩ Richard J. Kochenburger, Kỳ Châu – Diệu Thức cùng các bạn đạo tại Houston Texas, Chơn Phổ Nguyễn Thị Phương, Trí Quang Nguyễn Thế Nhiệm, Bác Sĩ Hoàng Giang, Đạo Hữu Trần Minh Tài, Nguyên Khiêm Lương Thị Thanh Kiểm, Võ Hiếu Liêm – Đặng Thị Hạnh, Minh Hỷ Phan Duyệt – Diệu Tâm Nguyễn ThịThuyên, D.S Hoàng Trọng Bình – D.S Nguyễn Thị Vân, Diệu Chơn Lương Thị Mai, Nguyễn Thị Thúy, Nguyễn Mạnh Cương, Nguyễn Thị Mai Hương, Nguyễn Hữu Tuấn, Nguyễn Thị Mai Trang, Nguyễn Thị Mai Trinh, Nguyễn Hữu Nhung, Nguyễn Cung Thị Hỷ đã phát tâm cúng dường ấn tống tác phẩm này. Chúng tôi xin hồi hướng công đức hoằng pháp này lên Ngôi Tam Bảo thùy từ gia hộ Quý Đạo Hữu cùng bửu quyến thân tâm thường an lạc, hạnh phúc và các hương linh Ninh Viết Khánh, pháp danh Tuệ Trường, Bùi Kim Hạnh, pháp danh Diệu Ngôn, Châu Nguyệt Vân Thu, Nguyễn Mỹ Linh, Hoàng Văn Nhượng, Nguyễn Ngọc Hoạt và Phương Thị Tính, pháp danh Diệu Thủy, Nguyễn Thị Thái, Phan Thị Lộc vãng sanh Cực Lạc Quốc.
Sau cùng chúng tôi kính mong Chư Tôn Thiền Đức, các bậc thức giả cao minh, các bậc thiện trí thức, các bạn đạo ân nhân hoan hỉ bổ chính những sai lầm thiếu sót để tác phẩm được hoàn chỉnh hơn trong kỳ tái bản.
Xuân Bính Tuất, Phật Lịch 2549, Dương Lịch 2006
Tỳ Kheo Thích Tâm Quang
Bác Sĩ BRIAN L. WEISS – Dr. Brian L. Weiss
To Carole, my wife,
Whose love has nourished and sustained me for longer than I can remember. We are together, to the end of time.
Tặng Carole, Người Bạn Đường Của Tôi,
Tình yêu của Carole đã nuôi dưỡng và nâng đỡ tôi khiến tôi không bao giờ quên
Chúng tôi luôn bên cạnh nhau, cho đến giây phút cuối cùng.
My thanks and love go to my children, Jordan and Amy, who for gave me for stealing so much time from them to write this book.
Lời cảm ơn và tình thương yêu của tôi gửi đến các con tôi Jordan và Amy, vì đã thứ lỗi cho tôi làm cho các con mất nhiều thì giờ để viết tác phẩm này.
I also thank Nicole Paskow for transcribing the audiotapes of the therapy sessions.
Tôi cũng xin cảm ơn Nicole Paskow đã ghi âm những buổi trị liệu.
Julie Rubin’s editorial suggestions after reading the first draft of this book were most valuable.
Cảm ơn Julie Rubin về những ý kiến biên tập quí báu sau khi đọc bản thảo đầu tiên của tác phẩm này.
My heartfelt thanks go to Barbara Gess, my editor at Simon & Schuster, for her expertise and her courage.
Gửi lời cảm ơn chân thành tới Barbara Gess, biên tập viên, nhà xuất Bản Simon và Schuster, vì tài năng chuyên môn và lòng can đảm của bà.
My deep appreciation goes to all of the others, here and there, who have made this book possible.
Cảm kích sâu xa của tôi tới tất cả những người ở khắp nơi, đã khiến cho tác phẩm này được thành tựu.
Bác Sĩ BRIAN L. WEISS
LỜI TỰA – PREFACE
I know that there is a reason for everything. Perhaps at the moment that an event occurs we have neither the insight nor the foresight to comprehend the reason, but with time and patience it will come light.
Tôi biết mọi chuyện đều có lý do. Có lẽ vào lúc một sự việc nào đó xẩy ra chúng ta không thấu hiểu hay biết nhìn xa trông rộng để nhận thức thấu đáo lý do đó, nhưng với thời gian và kiên nhẫn, nguyên nhân này sẽ được đưa ra ánh sáng.
So, it was with Catherine. I first met her in 1980 when she was twenty-seven years old. She had come to my office seeking help for her anxiety, panic attacks, and phobias. Although these symptoms had been with her since childhood, in the recent past they had become much worse. Every day she found herself more emotionally paralyzed and less able to function. She was terrified and understandably depressed.
Cũng như vậy với Catherine. Tôi gặp cô lần đầu vào năm 1980 khi cô hai mươi bẩy tuổi. Cô đến văn phòng tôi để chữa bệnh trầm cảm, lên cơn sợ hãi, và ám ảnh sợ. Tuy cô đã có những triệu chứng này từ hồi còn thơ ấu, nhưng gần đây tình trạng càng ngày càng tồi tệ hơn. Hàng ngày cô cảm thấy tinh thần bị tê liệt và hoạt động kém. Cô sợ hãi và bị suy nhược.
In contrast to the chaos that was going on in her life at that time, my life was flowing smoothly. I had a good stable marriage, two young children, and a flourishing career.
Trái với sự chao đảo xẩy ra trong đời sống của cô vào lúc đó, đời sống của tôi trôi chẩy suông sẻ. Tôi có gia đình khá vững vàng, hai con nhỏ, và một sự nghiệp đang phát triển.
From the beginning, my life seemed always to have been on a straight course. I had grown up in a loving home. Academic success had come easily, and by my sophomore year in college I had made the decision to become a psychiatrist.
Từ lúc đầu, đời sống của tôi dường như luôn luôn thăng tiến. Tôi lớn lên trong một gia đình yêu thương. Thành công ở đại học đến với tôi dễ dàng, và ngay vào năm đại học thứ hai tôi đã có quyết tâm trở thành một bác sĩ tâm thần học.
I was graduated Phi Beta Kappa, magna cum laude, from Columbia University in-New York in 1966. I then went to the Yale University School of Medicine and received my M.D. degree in 1970. Following an internship at the New York University-Bellevue Medical Center, I returned to Yale 11 Many Lives, Many Masters 10 Brian L. Weiss, M.D, to complete my residency in psychiatry. Upon completion, I accepted a faculty position at the University of Pittsburgh. Two years later, I joined the faculty of the University of Miami, heading the psychopharmacology division. There I achieved national recognition in the fields of biological psychiatry and substance abuse. After four years at the university, I was promoted to the rank of Associate Professor of Psychiatry at the medical school, and I was appointed Chief of Psychiatry at a large university-affiliated hospital in Miami. By that time, I had already published thirty-seven scientific papers and book chapters in my field.
Tôi được cấp bằng Phi Beta Kappa, Cấp II (Magna Cum Laude) tại Trường Đại Học Columbia ở Nữu Ước năm 1966. Rồi tôi vào Trường Đại Học Y Khoa Yale và nhận bằng Bác Sĩ Y khoa năm 1970. Sau khi thực tập nội trú tại Trung Tâm Đại Học Y Khoa Nữu Ước – Bellevue, tôi trở lại Đại Học Yale để hoàn tất chương trình thực tập nội trú. Sau khi hoàn tất, tôi nhận một chức vụ của khoa tại Đại Học Pittsburg. Hai năm sau, tôi tham gia giảng dạy y khoa tại đại học Miami, trưởng ban dược lý trị liệu. Nơi đây tôi được nhà nước công nhận trong lãnh vực tâm thần sinh học và lạm dụng vật chất. Sau bốn năm ở trường Đại học tôi được đề bạt làm Trợ Lý Giáo Sư ngành Tâm thần tại trường Y khoa, và được bổ nhiệm làm Trưởng Khoa Tâm Thần tại một bênh viện lớn đã sát nhập với Trường Đại Học Miami. Vào lúc này tôi đã công bố ba mươi bẩy tham luận khoa học và sách đề tài trong lĩnh vực của tôi.
Years of disciplined study had trained my mind to think as a scientist and physician, molding me along the narrow paths of conservatism in my profession. I distrusted anything that could not be proved by traditional scientific methods. I was aware of some of the studies in parapsychology that were being conducted at major universities across the country, but they did not hold my attention. It all seemed too farfetched to me.
Nhiều năm nghiên cứu khắt khe đã rèn luyện tâm trí tôi suy nghĩ với tư cách khoa học gia và thầy thuốc, hướng tôi đi theo con đường bảo thủ hẹp hòi trong nghề nghiệp của tôi. Tôi không tin vào cái gì nếu không thể chứng minh được bằng phương pháp khoa học truyền thống. Tôi có ý thức về một số nghiên cứu trong khoa cận tâm lý được thực hiện tại các đại học lớn trong nước, nhưng những nghiên cứu này cũng không làm cho tôi chú ý. Tất cả điều đó dường như quá cường điệu đối với tôi.
Then I met Catherine. For eighteen months I used conventional methods of therapy to help her overcome her symptoms. When nothing seemed to work, I tried hypnosis. In a series of trance states, Catherine recalled “past-life” memories that proved to be the causative factors of her symptoms. She also was able to act as a conduit for information from highly evolved “spirit entities,” and through them she revealed many of the secrets of life and of death. In just a few short months, her symptoms disappeared, and she resumed her life, happier and more at peace than ever before.
Rồi tôi gặp Catherine. Trong mười tám tháng tôi đã sử dụng phương pháp trị liệu thông thường để giúp cô khắc phục những triệu chứng của cô. Khi thấy không có gì hiệu quả, tôi thử thôi 16ien. Trong trạng thái mơ màng từng đợt, Catherine nhớ lại tiền kiếp chứng minh những nhân tố đã gây ra những triệu chứng cho cô. Cô cũng có thể hành động như cáp thông tin từ “thực thể tinh thần” tiến hóa cao và qua họ, cô đã cho thấy nhiều bí mật về đời sống và cái chết. Chỉ vài tháng ngắn ngủi, những triệu chứng của cô biến mất, và cô đã tiếp tục cuộc sống, hạnh phúc và an lạc hơn trước nhiều.
Nothing in my background had prepared me for this. I was absolutely amazed when these events unfolded.
Không có gì trong học vấn và kinh nghiệm của tôi đã sửa soạn cho tôi về việc này. Tôi tuyệt đối ngỡ ngàng khi những biến chuyển này bộc lộ.
I do not have a scientific explanation for what happened. There is far too much about the human mind that is beyond our comprehension. Perhaps, under hypnosis, Catherine was able to focus in on the part of her subconscious mind that stored actual past-life memories, or perhaps she had tapped into what the psycho analyst Carl Jung termed the collective unconscious, the energy source that surrounds us and contains the memories of the entire human race.
Tôi không có lời giải thích khoa học nào về điều đã xẩy ra. Tâm trí con người có quá nhiều cái vượt khỏi tầm nhận thức của chúng ta. Có lẽ, do thôi miên, Catherine đã có thể tập trung vào phần tiềm thức chứa những ký ức thực sự về tiền kiếp hay có thể cô đã kết nối vào cái mà nhà phân tâm học Carl Jung gọi là tập hợp vô thức, nguồn gốc của năng lượng bao quanh húng ta và chứa đựng những ký ức về toàn thể loài người.
Scientists are beginning to seek these answers. We, as a society, have much to gain from research into the mysteries of the mind, the soul, the continuation of life after death, and the influence of our past-life experiences on our present behavior. Obviously, the ramifications are limitless, particularly in the fields of medicine, psychiatry, theology, and philosophy.
Các khoa học gia đang bắt đầu tìm kiếm câu trả lời ấy. Chúng ta, là một xã hội, đạt được nhiều cái do khám phá ra những bí mật của tâm trí, linh hồn và sự tiếp tục sau khi chết, và ảnh hưởng của những kinh nghiệm của tiền kiếp đối với cách ứng xử hiện tại của chúng ta. Rõ ràng, những sự phân nhánh là vô hạn, đặc biệt trong lĩnh vực y học, tâm thần học, thần học, và triết học.
However, scientifically rigorous research in this area is in its infancy. Strides are being made to uncover this information, but the process is slow and is met with much resistance by scientists and lay people alike.
Tuy nhiên sự nghiên cứu khoa học mạnh mẽ trong lĩnh vực này chỉ ở trong trứng nước. Đã có những tiến bộ lớn trong việc khám phá ra kiến thức này, nhưng tiến trình lại chậm và vấp phải sự phản kháng của các khoa học gia cũng như của dân chúng.
Throughout history, humankind has been resistant to change and to the acceptance of new ideas. Historical lore is replete with examples. When Galileo discovered the moons of Jupiter, the astronomers of that time refused to accept or even to look at these satellites because the existence of these moons conflicted with their accepted beliefs. So, it is now with psychiatrists and other therapists, who refuse to examine and evaluate the considerable evidence being gathered about survival after bodily death and about past-life memories. Their eyes stay tightly shut.
Suốt dòng lịch sử, loài người luôn chống lại sự thay đổi và không chấp nhận những ý kiến mới. Toàn bộ hiểu biết và truyền thuyết lịch sử đầy những thí dụ. Khi Galileo khám phá ra những vệ tinh của Mộc Tinh, những nhà thiên văn học lúc đó đã từ chối, không chấp nhận và thâm chí không xem xét những vệ tinh này vì sự hiện hữu của các vệ tinh này mâu thuẫn với niềm tin đã được chấp thuận của họ. Vậy nên ngày nay các nhà tâm thần học và các bác sĩ chuyên khoa khác cũng từ chối xem xét và đánh giá chứng tích được thâu thập về sự sống sót sau khi thân xác chết và về những ký ức về tiền kiếp. Họ đã nhắm mắt.
This book is my small contribution to the ongoing research in the field of parapsychology, especially the branch dealing with our experiences before birth and after death. Every word that you will be reading is true. I have added nothing, and I have deleted only those parts that were repetitious. I have slightly changed Catherine’s identity to ensure confidentiality. It took me four years to write about what happened, four years to garner the courage to take the professional risk of revealing this unorthodox information.
Tác phẩm này là sự đóng góp nhỏ nhoi của tôi vào tiến trình nghiên cứu trong lĩnh vực cận tâm lý, nhất là ngành nghiên cứu những kinh nghiệm trước khi sinh và sau khi chết. Mỗi lời nói mà bạn đọc là sự thật. Tôi không thêm gì cả, và tôi chỉ bỏ những phần lặp đi lặp lại. Tôi đã thay đổi chút ít nhận dạng của Catherine để bảo đảm sự bảo mật. Tôi đã mất bốn năm để viết về cái đã xẩy ra, bốn năm để có can đảm liều lĩnh trong nghề nghiệp tiết lộ những tin tức không truyền thống này.
Suddenly one night while I was taking a shower, I felt compelled to put this experience down on paper. I had a strong feeling that the time was right, that I should not withhold the information any longer. The lessons I had learned were meant to be shared with others, not to be kept private. The knowledge had come through Catherine and now had to come through me. I knew that no possible consequence I might face could prove to be as devastating as not sharing the knowledge I had gained about immortality and the true meaning of life.
Đột nhiên một đêm trong khi tôi đang tắm, tôi cảm thấy như bị ép buộc phải viết ra những gì đã kinh qua. Tôi có một cảm giác mạnh là đã đến lúc tôi không nên giữ tin tức này lâu hơn nữa. Những bài học mà tôi biết phải được chia sẻ với những người khác và không nên giữ riêng cho mình. Kiến thức phát ra qua Catherine và nay phát qua tôi. Tôi biết rằng không có hậu quả nào có thể xảy ra nếu tôi phải đương đầu có thể chứng tỏ là tàn phá bằng việc không chia sẻ kiến thức mà tôi có được về sự bất tử và ý nghĩa thực sự của cuộc sống.
I rushed out of the shower and sat down at my desk with the stack of audio tapes I had made during my sessions with Catherine. In the wee hours of the morning, I thought of my old Hungarian grand father who had died while I was still a teenager. Whenever I would tell him that I was afraid to take a risk, he would lovingly encourage me by repeating his favorite English expression: “Vat the hell,” he would say, “vat the hell.”
Tôi vội vàng ra khỏi phòng tắm, ngồi vào bàn với chồng băng thâu trong những buổi làm việc với Catherine. Vào lúc gần sáng, tôi nghĩ đến ông nội, người Hung ga ri của tôi đã chết khi tôi hãy còn là một thiếu niên. Bất cứ khi nào tôi nói với ông là tôi sợ liều lĩnh, ông cũng khuyến khích tôi một cách thương yêu bằng cách nhắc lại câu thành ngữ tiếng Anh ưa thích của ông: “địa ngục gì mà sợ“, ông sẽ nói. “địa ngục gì mà sợ“.
Sources:
- Tài liệu tham khảo:
- https://tienvnguyen.net/a2066/tien-kiep-va-luan-hoi-co-that-khong-many-lives-many-masters-
- https://tienvnguyen.net/images/file/Wful-wTe1ggQAFce/manylivesmanymasters.pdf
https://tienvnguyen.net/images/file/sLziGUbf1ggQALdp/tienkiepvaluanhoicothatkhong.pdf