08b. Kinh Tăng Chi Bộ – Chương Tám Pháp – The Book of the Eights – Phẩm 04 – 06 – Song ngữ
The Numerical Discourses of the Buddha
Kinh Tăng Chi Bộ (Anguttara Nikàya)
Anh ngữ: Bhikkhu Bodhi.
Việt ngữ: Hòa thượng Thích Minh Châu.
Compile: Lotus group
IV. Giving – [IV. Phẩm Bố Thí]
31 (1) Giving (1) – [(I) (31) Bố Thí (1)]
- “Bhikkhus, there are these eight gifts. What eight?
- (1) Having insulted [the recipient], one gives a gift. (2) One gives a gift
from fear. (3) One gives a gift, [thinking]: ‘He gave to me.’ (4) One gives a gift, [thinking]: ‘He will give to me.’ (5) One gives a gift, [thinking]: ‘Giving is good.’ (6) One gives a gift, [thinking]: ‘I cook; these people do not cook. It isn’t right that I who cook should not give to those who do not cook.’ (7) One gives a gift,
[thinking]: ‘Because I have given this gift, I will gain a good reputation.’ (8) One gives a gift for the purpose of ornamenting the mind, equipping the mind.”
- – Này các Tỷ-kheo, có tám bố thí này. Thế nào là tám?
- Vì có người đến, nên bố thí; vì sợ hãi, nên bố thí; vì nghĩ rằng: “Người ấy đã cho ta, nên bố thí; Vì nghĩ rằng: “Người ấy sẽ cho ta, nên bố thí; vì nghĩ rằng: “Bố thí là tốt”, nên bố thí; vì nghĩ rằng: “Ta nấu, những người này không nấu. Thật Ta không xứng đáng là người nấu lại không cho người không nấu”, nên bố thí; vì nghĩ rằng: “Do ta cho bố thí này, nên tiếng tốt được truyền đi”, nên bố thí; vì trang nghiêm tâm, trang bị tâm, nên bố thí. Này các Tỷ-kheo, có tám bố thí này.
32 (2) Giving (2) – [(II) (32) Bố Thí (2)]
Faith, moral shame, and wholesome giving
are qualities pursued by the good person;
for this, they say, is the divine path
by which one goes to the world of the devas.
Tín, tàm và thiện thí
Những pháp thiện sĩ cầu
Ðường này gọi Thiện đạo
Ðường này đi Thiên giới
33 (3) Grounds – [(III) (33) Căn Bản Ðể Bố Thí]
- “Bhikkhus, there are these eight grounds for giving. What eight?
- (1) One gives a gift from desire. (2) One gives a gift from hatred. (3) One gives a gift from delusion. (4) One gives a gift from fear. (5) One gives a gift, thinking]: ‘Giving was practiced before by my father and forefathers; I should hot abandon
this ancient family custom.’ (6) One gives a gift, [thinking]: ‘Having given this gift, with the breakup of the body, after death, I will be reborn in a good destination, in a heavenly world.’ (7) One gives a gift, [thinking]: ”When I am giving this gift my mind becomes placid, and elation and joy arise.’ (8) One gives
a gift for the purpose of ornamenting the mind, equipping the mind. These are the eight grounds for giving.”
- – Này các Tỷ-kheo, có tám căn bản để bố thí. Thế nào là tám?
- Vì lòng dục nên bố thí; vì sân hận nên bố thí; vì ngu si nên bố thí; vì sợ hãi nên bố thí; vì nghĩ rằng: “Trước tổ tiên đã bố thí, trước đã làm. Ta không xứng đáng là người để truyền thống này bị bỏ phế” nên bố thí; vì nghĩ rằng: “Sau khi cho bố thí này, khi thân hoại mạng chung, sẽ được sanh lên thiện thú, Thiên giới, cõi đời này” nên bố thí; vì nghĩ rằng: “Khi ta bố thí này, tâm được tịnh tín, do hân hoan, hỷ được sanh” nên bố thí; để trang nghiêm tâm, trang bị tâm, nên bố thí.
Này các Tỷ-kheo, có tám căn bản để bố thí này.
34 (4) The Field – [(IV) (34) Thửa Ruộng]
- “Bhikkhus, a seed sown in a field that possesses eight factors does not bring forth abundant fruits, its [fruits] are not delectable, and it does not yield a profit. What eight factors?
- “Here, (1) the field has mounds and ditches; (2) it contains stones and gravel; (3) it is salty; (4) it is not deeply furrowed; (5) it does not have inlets [for the water to enter]; (6) it does not have outlets [for excess water to flow out]; (7) it does not have irrigation channels; and (8) it does not have boundaries. A seed
sown in a field that possesses these eight factors does not bring forth abundant fruits, its [fruits] are not delectable, and it does not yield a profit. ”So too, bhikkhus, a gift given to ascetics and brahmins who possess eight factors is not of great fruit and benefit, and it is not very brilliant or pervasive. What eight factors?
1.- Này các Tỷ-kheo, hột giống được gieo vào thửa ruộng thành tựu tám chi phần được xem là không quả lớn, không vị ngọt lớn, không phải địa điểm tăng thịnh. Thế nào là thành tựu tám chi phần?
- Này các Tỷ-kheo, ở đây thửa ruộng lồi lên lõm xuống, đầy đá và sạn, đất mặn, không có bề sâu, không có chỗ nước chảy ra, không có chỗ nước chảy vào, không có nước chảy, không có bờ đê. Như vậy, này các Tỷ-kheo, hột giống được gieo vào thửa ruộng thành tựu được tám chi phần được xem là không quả lớn, không vị ngọt lớn, không phải địa điểm tăng thịnh. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, bố thí giữa những Sa-môn, Bà-la-môn thành tựu tám chi phần, không có quả lớn, không lợi ích lớn, không có rung cảm lớn. Thế nào là thành tựu tám chi phần?
- Here, the ascetics and brahmins are of wrong view, wrong intention, wrong
speech, wrong action, wrong livelihood, wrong effort, wrong mindfulness, and wrong concentration. A gift given to ascetics and brahmins who possess these eight factors is not of great fruit and benefit, and if is not very brilliant or pervasive.
- “Bhikkhus, a seed sown in a field that possesses eight factors brings forth abundant fruits, its [fruits] are delectable, and it yields a profit. What eight factors?
- “Here, (1) the field does not have mounds and ditches; (2) it does not contain stones and gravel; (3) it is not salty; (4) it is deeply furrowed; (5) it has inlets [for the water to enter]; (6) it has outlets [for excess water to flow out]; (7) it has irrigation channels; and (8) it has boundaries. A seed sown in a field that possesses these eight factors brings forth abundant fruits, its [fruits] are delectable, and it yields a profit. “So too, bhikkhus, a gift given to ascetics and brahmins who possess eight factors is of great fruit and benefit, and it is extraordinarily brilliant and pervasive. What eight factors?
- Ở đây, này các Tỷ-kheo, các Sa-môn, các Bà-la-môn có tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định. Như vậy, này các Tỷ-kheo, bố thí giữa những Sa-môn, Bà-la-môn thành tựu tám chi phần, không có quả lớn, không lợi ích lớn, không có rung cảm lớn.
- Này các Tỷ-kheo, hột giống được gieo vào thửa ruộng thành tựu tám chi phần được xem là có quả lớn, có vị ngọt lớn, là địa điểm tăng thịnh. Thế nào là thành tựu tám chi phần?
- Này các Tỷ-kheo, ở đây thửa ruộng không lồi lên lõm xuống, không có đầy đá và sạn, không có đất mặn, có bề sâu, có chỗ nước chảy ra, có chỗ nước chảy vào, có nước chảy, có bờ đê. Như vậy, này các Tỷ-kheo, hột giống được gieo vào thửa ruộng thành tựu tám chi phần được xem là có quả lớn, có vị ngọt lớn, là địa điểm tăng thịnh. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, bố thí giữa những Sa-môn, Bà-la-môn thành tựu tám chi phần, có quả lớn, lợi ích lớn, có rực rỡ lớn, có rung cảm lớn. Thế nào là thành tựu tám chi phần?
- Here, the ascetics and brahmins are of right view, right intention, right
speech, right action, right livelihood, right effort, right mindfulness, and right concentration. A gift given to ascetics and brahmins who possess these eight factors is of great fruit and benefit, and it is extraordinarily brilliant and pervasive.”
When the field is excellent,
and the seed sown is excellent,
and there is an excellent supply of rain,
the yield of grain is excellent.
Its health is excellent;
its growth [too] is excellent;
its maturation is excellent;
its fruit truly is excellent.
So too when one gives excellent food
to those accomplished in virtuous behavior,
it arrives at several kinds of excellence,
for what one has done is excellent.
Therefore, if one desires excellence
let a person here be accomplished;
one should resort to those accomplished in wisdom;
thus, one’s own accomplishments flourish.
One accomplished in true knowledge and conduct,
having gained accomplishment of mind,
performs action that is accomplished
and accomplishes the good.
Having known the world as it is,
one should attain accomplishment in view.
One accomplished in mind advances
by relying on accomplishment in the path.
Having rubbed off all stains,
having attained nibbana,
one is then freed from all sufferings:
this is total accomplishment.
- Ở đây, này các Tỷ-kheo, các Sa-môn, các Bà-la-môn có chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Như vậy, này các Tỷ-kheo, bố thí giữa những Sa-môn, Bà-la-môn thành tựu tám chi phần, có quả lớn, lợi ích lớn, có rực rỡ lớn, có rung cảm lớn.
Khi ruộng được đầy đủ
Hột giống gieo đầy đủ
Khi mưa xuống đầy đủ
Lúa gặt được đầy đủ
Tai họa không có mặt
Tăng trưởng được đầy đủ
Rộng lớn được đầy đủ
Kết quả được đầy đủ
Cũng vậy, sự bố thí
Giữa những người đủ giới
Và vật liệu bố thí
Cũng được sắm đầy đủ
Ðưa đến sự đầy đủ
Vì sở hành đầy đủ
Vậy ai muốn đầy đủ
Phải tự mình đầy đủ
Phục vụ người đủ tuệ
Như vậy thành công đủ
Ðầy đủ trí và đức
Với tâm được đầy đủ
Làm nghiệp được đầy đủ
Lợi ích được đầy đủ
Như thật biết cuộc đời
Ðạt được kiến đầy đủ
Ðường đầy đủ đi đến
Tiến đến ý đầy đủ
Vất bỏ mọi cấu uế
Ðạt Niết-bàn cụ túc
Giải thoát mọi khổ đau
Tức đầy đủ vẹn toàn.
35 (5) Rebirth on Account of Giving – [(V) (35) Thọ Sanh Do Bố Thí]
- “Bhikkhus, there are these eight kinds of rebirth on account of
giving. What eight?
- (1) “Here, someone gives a gift to an ascetic or a brahmin: food and drink; clothing and vehicles; garlands, scents, and unguents; bedding, dwellings, and lighting. Whatever he gives, he expects something in return. He sees affluent khattiyas, affluent brahmins, or affluent householders enjoying themselves
furnished and endowed with the five objects of sensual pleasure. It occurs to him: ‘Oh, with the breakup of the body, after death, may I be reborn in companionship with affluent khattiyas, affluent brahmins or affluent householders!’ He sets his mind on this, fixes his mind on this, and develops this
state of mind. That aspiration of his, resolved on what is inferior, not developed higher, leads to rebirth there. With the breakup of the body, after death, he is reborn in companionship with affluent khattiyas, affluent brahmins, or affluent
householders – and that is for one who is virtuous, I say, not for
one who is immoral. The heart’s wish of one who is virtuous succeeds because of his purity.
- – Này các Tỷ-kheo, có tám thọ sanh do bố thí. Thế nào là tám?
- Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn với đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương, dầu thoa, đồ nằm, trú xứ, đèn đuốc. Người ấy bố thí và mong hưởng quả. Thấy các Sát-đế-lỵ đại phú hay các Bà-la-môn đại phú, hay các gia chủ đại phú, sung túc, đầy đủ, thọ hưởng năm dục trưởng dưỡng, người ấy suy nghĩ như sau: “Mong rằng, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cọng trú với Sát-đế-lỵ đại phú, hay với Bà-la-môn đại phú, hay với gia chủ đại phú “. Người ấy móng tâm như vậy, trú tâm như vậy, tu tâm như vậy, tâm người ấy hướng đến hạ liệt, không tu tập hướng thượng, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cọng trú với Sát-đế-lỵ đại phú, hay với Bà-la-môn đại phú, hay với gia chủ đại phú. Ta nói rằng: “Người ấy là người giữ giới, không phải là người ác giới”. Này các Tỷ-kheo, người giữ giới thành công, vì tâm hướng đến thanh tịnh.
3-4. (2) “Someone else gives a gift to an ascetic or a brahmin: food and drink … and lighting. Whatever he gives, he expects something in return. He has heard: ‘The devas [ruled by] the four great kings are long-lived, beautiful, and abound in happiness.’ It occurs to him: ‘Oh, with the breakup of the body, after death, may I be reborn in companionship with the devas [ruled by] the four great kings!’ He sets his mind on this, fixes his mind on this, and develops this state of mind. That aspiration of his, resolved on what is inferior, not developed higher,
leads to rebirth there. With the breakup of the body after death, he is reborn in companionship with the devas [ruled by] the four great kings – and that is for one who is virtuous, I say, not for one who is immoral. The heart’s wish of one who is virtuous succeeds because of his purity. “Someone else gives a gift to an ascetic or a brahmin: food and drink … and lighting. Whatever he gives, he expects something in return: He has heard: ‘The Tavatimsa devas … the Yama devas … the Tusita devas … the devas who delight in creation … the devas who control what is created by others are long-lived, beautiful, and abound in happiness.’ It occurs to him: ‘Oh, with the breakup of the body, after death, may I be reborn in companionship with the devas who control what is created by others!’ He sets his mind on this, fixes his mind on this, and develops this state of mind. That aspiration of his, resolved on what is inferior, not developed higher, leads to rebirth there. With the breakup of the body, after death, he is reborn in companionship with the devas who control what is created by others – and that is for one who is virtuous, I say, not for one who is immoral. The heart’s wish of one who is virtuous succeeds because of his purity.
3-4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn với đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương, dầu thoa, đồ nằm, trú xứ, đèn đuốc. Người ấy bố thí và mong hưởng quả. Nghe rằng: “Bốn Thiên vương thiên sống lâu, có dung sắc, được nhiều an lạc”, người ấy suy nghĩ như sau: “Mong rằng khi thân hoại mạng chung, được sanh cọng trú với chư Thiên ở Bốn Thiên vương … với chư Thiên ở cõi trời Ba mươi ba … với chư Thiên ở cõi Trời Dạ-ma … với chư Thiên ở cõi Trời Ðâu-xuất … với chư Thiên ở cõi Trời Hóa lạc thiên… với chư Thiên ở cõi Trời Tha hóa Tự tại thiên … “Người ấy móng tâm như vậy, trú tâm như vậy, tu tâm như vậy, tâm người ấy hướng đến hạ liệt, không tu tập hướng thượng, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cọng trú với chư Thiên ở cõi Bốn thiên vương … ở cõi Tha hóa Tự tại thiên, hay với Bà-la-môn đại phú, hay với gia chủ đại phú. Ta nói rằng: “Người ấy là người giữ giới, không phải là người ác giới”. Này các Tỷ-kheo, người giữ giới thành công, vì tâm hướng đến thanh tịnh.
- (8) “Someone else gives a gift to an ascetic or a brahmin: food and drink … and lighting. Whatever he gives, he expects something in return. He has heard: ‘The devas of Brahma’s company are long-lived, beautiful, and abound in happiness.’ It occurs to him: ‘Oh, with the breakup of the body, after death, may I be reborn in companionship with the devas of Brahma’s company!’ He sets his mind on this, fixes his mind on this, and develops this state of mind. That aspiration of his, resolved on what is inferior, not developed higher, leads to rebirth there. With the breakup of the body, after death, he is reborn in companionship with the devas of Brahma’s company – and that is for one who is virtuous, I say, not for one who is immoral; for one without lust, not for one with lust. The heart’s wish of one who is virtuous succeeds because of his purity.
“These, bhikkhus, are the eight kinds of rebirth on account of giving.”
- Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người bố thí cho Sa-môn, Bà-la-môn với đồ ăn, đồ uống… Nghe rằng: “: “Chư Thiên ở Phạm chúng thiên sống lâu, có dung sắc, được nhiều an lạc”, người ấy suy nghĩ như sau: “Mong rằng..” ….hay với gia chủ đại phú. Ta nói rằng: “Người ấy là người giữ giới, không phải là người ác giới, là người ly tham, không phải là người có tham”. Này các Tỷ-kheo, người giữ giới thành công, vì tâm hướng đến thanh tịnh. Này các Tỷ-kheo, người giữ giới thành công, vì tâm hướng đến ly tham. Này các Tỷ-kheo, tám pháp này là tám pháp thọ sanh do bố thí.
36 (6) Activity – [(VI) (36) Phước Nghiệp Sự]
- “Bhikkhus, there are these three bases of meritorious activity. What three?
- The basis of meritorious activity consisting in giving; the basis of meritorious activity consisting in virtuous behavior; and the basis of meritorious activity consisting in meditative development.
- (1) “Here, bhikkhus, someone has practiced the basis of meritorious activity consisting in giving to a limited extent; he has practiced the basis of meritorious activity consisting in virtuous behavior to a limited extent; but he has not undertaken the basis of meritorious activity consisting in meditative development. With the breakup of the body, after death, he is reborn among
humans in an unfavorable condition.
1.- Này các Tỷ-kheo, có ba căn bản làm phước. Thế nào là ba?
- Căn bản làm phước do bố thí, căn bản làm phước do giới đức, căn bản làm phước do tu tập.
- Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người căn bản làm phước do bố thí trên một quy mô nhỏ, căn bản làm phước do giới đức trên một quy mô nhỏ, căn bản làm phước do tu tập trên một quy mô nhỏ. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh làm người không may mắn.
- (2) “Someone else has practiced the basis of meritorious activity consisting in giving to a middling extent; he has practiced the basis of meritorious activity consisting in virtuous behavior to a middling extent; but he has not undertaken the basis of meritorious activity consisting in meditative development. With the breakup of the body, after death, he is reborn among humans in a favorable condition.
- (3) “Someone else has practiced the basis of meritorious activity consisting in giving to a superior extent; he has practiced the basis of meritorious activity consisting.in virtuous behavior to a superior extent; but he has not undertaken the basis of meritorious activity consisting in meditative development. With the breakup of the body, after death, he is reborn in companionship with the devas [ruled by] the four great kings. There the four great kings, who had practiced superlatively the basis of meritorious activity consisting in giving and the basis of meritorious activity consisting in virtuous behavior surpass the dews [ruled by] the four great kings in ten respects: in celestial life span, celestial beauty, celestial happiness, celestial glory, and celestial authority; and in celestial forms, sounds, odors, tastes, and tactile objects.
- Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người căn bản làm phước do bố thí trên một quy mô vừa, căn bản làm phước do giới đức trên một quy mô vừa, không đạt được căn bản làm phước do tu tập. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh làm người có may mắn.
- Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người căn bản làm phước do bố thí trên một quy mô to lớn, căn bản làm phước do giới đức trên một quy mô to lớn, nhưng không đạt được căn bản làm phước do tu tập. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cọng trú với chư Thiên ở Tam thập Tam thiên. Tại đây, này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka sau khi làm thật nhiều căn bản phước nghiệp do bố thí, sau khi làm thật nhiều căn bản phước nghiệp do giới đức, vượt qua Bốn thiên vương trên mười điểm: tuổi thọ chư Thiên, dung sắc chư Thiên, an lạc chư Thiên, danh tiếng chư Thiên, Tăng thượng lực chư Thiên, thiên sắc, thiên hương, thiên vị, thiên xúc.
- (4) “Someone else has practiced the basis of meritorious activity consisting in giving to a superior extent; he has practiced the basis of meritorious activity consisting in virtuous behavior to a superior extent; but he has not undertaken the basis of meritorious activity consisting in meditative development.
With the breakup of the body, after death, he is reborn in companionship
with the Tavatimsa devas. There Sakka, ruler of the devas, who had practiced superlatively the basis of meritorious activity consisting in giving and the basis of meritorious activity consisting in virtuous behavior, surpasses the Tavatimsa devas in ten respects: in celestial life span … and tactile objects.
- Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người căn bản làm phước do bố thí trên một quy mô to lớn, căn bản làm phước do giới đức trên một quy mô to lớn, nhưng không đạt được căn bản làm phước do tu tập. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cọng trú với chư Thiên ở Tam thập Tam thiên. Tại đây, này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka sau khi làm thật nhiều căn bản phước nghiệp do bố thí, sau khi làm thật nhiều căn bản phước nghiệp do giới đức, vượt qua chư Thiên ở Tàvatimsa trên mười điểm: tuổi thọ chư Thiên, dung sắc chư Thiên, an lạc chư Thiên, danh tiếng chư Thiên, Tăng thượng lực chư Thiên, thiên sắc, thiên hương, thiên vị, thiên xúc.
- (5) “Someone else has practiced the basis of meritorious activity consisting in giving to a superior extent; he has practiced the basis of meritorious activity consisting in virtuous behavior to a superior extent; but he has not undertaken the basis of meritorious activity consisting in meditative development. With the
breakup of the body, after death, he is reborn in companionship with the Yama devas. There the young deva Suyama, who had practiced superlatively the basis of meritorious activity consisting in giving and the basis of meritorious activity consisting in virtuous behavior, surpasses the Yama devas in ten respects:
in celestial life span … and tactile objects.
- (6) “Someone else has practiced the basis of meritorious activity consisting in g iving to a superior extent; he has practiced the basis of meritorious activity consisting in virtuous behavior to a superior extent; but he has not undertaken the basis of meritorious activity consisting in meditative development. With the
breakup of the body, after death, he is reborn in companionship with the Tusita devas. There the young deva Santusita, who had practiced superlatively the basis of meritorious activity consisting in giving and the basis of meritorious activity consisting in virtuous behavior, surpasses the Tusita devas in ten respects: in celestial life span … and tactile objects.
- Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người căn bản làm phước do bố thí trên một quy mô to lớn, căn bản làm phước do giới đức trên một quy mô to lớn, nhưng không đạt được căn bản làm phước do tu tập. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cọng trú với chư Thiên ở Yàma thiên. Tại đây, này các Tỷ-kheo, Thiên tử Suyàma sau khi làm thật nhiều căn bản phước nghiệp do bố thí, sau khi làm thật nhiều căn bản phước nghiệp do giới đức, vượt qua chư Thiên ở Yàma trên mười điểm: tuổi thọ chư Thiên, … thiên vị, thiên xúc.
- Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người căn bản làm phước do bố thí trên một quy mô to lớn, căn bản làm phước do giới đức trên một quy mô to lớn, nhưng không đạt được căn bản làm phước do tu tập. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cọng trú với chư Thiên ở Tusità thiên. Tại đây, này các Tỷ-kheo, Thiên tử Santusità, sau khi làm thật nhiều căn bản phước nghiệp do bố thí, sau khi làm thật nhiều căn bản phước nghiệp do giới đức, vượt qua chư Thiên ở Tusità trên mười điểm: tuổi thọ chư Thiên, … thiên vị, thiên xúc.
- (7) “Someone else has practiced the basis of meritorious a ctivity consisting in giving to a superior extent; he has practiced the basis of meritorious activity consisting in virtuous behavior to a superior extent; but he has not undertaken the basis of meritorious activity consisting in meditative development. With the
breakup of the body, after death, he is reborn in companionship with the devas who delight in creation. There the young deva Sunimmita, who had practiced superlatively the basis of meritorious activity consisting in giving and the basis of meritorious activity consisting in virtuous behavior, surpasses the devas who delight in creation in ten respects: in celestial life span … and tactile objects.
- (8) “Someone else has practiced the basis of meritorious activity consisting in giving to a superior extent; he has practiced the basis of meritorious activity consisting in virtuous behavior to a superior extent; but he has not undertaken the basis of meritorious activity consisting in meditative development. With the
breakup of the body, after death, he is reborn in companionship with the devas who control what is created by others. There the young deva Vasavatti, who had practiced superlatively the basis of meritorious activity consisting in giving and the basis of meritorious activity consisting in virtuous behavior, surpasses
the devas who control what is created by others in ten respects: in celestial life span, celestial beauty, celestial happiness, celestial glory, and celestial authority; and in celestial forms, sounds, odors, tastes, and. tactile objects.
“These, bhikkhus, are the three bases of meritorious activity.”
- Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người căn bản làm phước do bố thí trên một quy mô to lớn, căn bản làm phước do giới đức trên một quy mô to lớn, nhưng không đạt được căn bản làm phước do tu tập. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cọng trú với chư Thiên ở Hóa lạc thiên. Tại đây, này các Tỷ-kheo, Thiên tử Sunimmita, sau khi làm thật nhiều căn bản phước nghiệp do bố thí, sau khi làm thật nhiều căn bản phước nghiệp do giới đức, vượt qua chư Thiên ở Hóa lạc thiên trên mười điểm: tuổi thọ chư Thiên, … thiên vị, thiên xúc.
- Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người căn bản làm phước do bố thí trên một quy mô to lớn, căn bản làm phước do giới đức trên một quy mô to lớn, nhưng không đạt được căn bản làm phước do tu tập. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cọng trú với chư Thiên ở Tha hóa tự tại thiên. Tại đây, này các Tỷ-kheo, Thiên tử Vasavattì, sau khi làm thật nhiều căn bản phước nghiệp do bố thí, sau khi làm thật nhiều căn bản phước nghiệp do giới đức, vượt qua chư Thiên ở Tha hóa Tự tại thiên trên mười điểm: tuổi thọ chư Thiên, … thiên vị, thiên xúc.
Này các Tỷ-kheo, có ba căn bản phước nghiệp này.
37 (7) The Good Person’s Gifts – [(VII) (37) Người Chân Nhân (1)]
- “Bhikkhus, there are these eight gifts of a good person. What eight?
- (1) He gives what is pure; (2) he gives what is excellent; (3) he gives a timely gift; (4) he gives what is allowable; (5) he gives after investigation; (6) he gives often; (7) while giving he settles his mind in confidence; and (8) having given, he is elated. These are the eight gifts of a good person.”
He gives what is pure and excellent,
allowable drinks and food at the proper time;
he gives gifts often to fertile fields of merit,
to those who lead the spiritual life.
He does not feel regret,
having given away many material things.
Those with deep insight praise
the gifts given in this way.
Having thus practiced charity
with a mind freely generous,
one intelligent and wise, rich in faith,
is reborn in a pleasant, unafflicted world.
- – Này các Tỷ-kheo, có tám bố thí này của bậc chân nhân. Thế nào là tám?
- Cho vật trong sạch; cho vật thù diệu; cho đúng thời; cho vật thích ứng; cho với sự cẩn thận; cho luôn luôn; tâm cho được tịnh tín; sau khi cho được hoan hỷ.
Này các Tỷ-kheo, có tám bố thí này của bậc chân nhân:
Trong sạch và thù diệu
Ðúng thời và thích ứng
Ðồ uống và đồ ăn
Luôn luôn làm bố thí
Trong các ruộng tốt lành
Sống theo đời Phạm hạnh
Không có gì hối tiếc
Bố thí nhiều tài vật
Những bố thí như vậy
Ðược bậc trí tán thán
Bậc Trí thí như vậy
Với tâm tín, giải thoát
Không hại, tâm an lạc
Bậc trí sanh ở đời.
38 (8) The Good Person – [(VIII) (38) Người Chân Nhân (2)]
- “Bhikkhus, when a good person is born in a family, it is for the good, welfare, and happiness of many people. It is for the good, welfare, and happiness of (1) his mother and father, (2) his wife and children, (3) his slaves, workers, and servants, (4) his friends and companions, (5) his departed ancestors, (6) the
king, (7) the deities, and (8) ascetics and brahmins. Just as a great rain cloud, nurturing all the crops, appears for the good, welfare, and happiness of many people, so too, when a good person is born in a family, it is for the good, welfare, and happiness of many people. It is for the good, welfare, and happiness of his mother and father … [245] … ascetics and brahmins.”
The wise person, dwelling at home,
truly lives for the good of many.
Day and night diligent toward
his mother, father, and ancestors,
he venerates them in accordance with the Dhamma,
recollecting what they did [for him] in the past.1709
Firm in faith, the pious man,
having known their good qualities,1710
venerates the homeless renouncers,
the mendicants who lead the spiritual life.1711
Beneficial to the king and the devas,
beneficial to his relatives and friends,
indeed, beneficial to all,
well established in the good Dhamma,
he has removed the stain of miserliness
and fares on to an auspicious world.
- – Này các Tỷ-kheo, bậc chân nhân sinh ra trong gia đình nào, đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho nhiều người; đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho cha mẹ; đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho vợ con; đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho người phục vụ, người làm công; đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho bạn bè thân hữu; đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho các hương linh đã mất; đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho vua chúa; đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho chư Thiên; đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho Sa-môn, Bà-la-môn.
- Ví như, này các Tỷ-kheo, một cơn mưa lớn làm cho các loại mùa màng đều thành tựu đầy đủ, đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho nhiều người. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, bậc Chân nhân sinh ra trong gia đình nào, đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho nhiều người; đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho cha mẹ; đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho vợ con; đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho người phục vụ, người làm công; đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho bạn bè thân hữu; đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho các hương linh đã mất; đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho vua chúa; đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho chư Thiên; đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho Sa-môn, Bà-la-môn.
Vì lợi ích nhiều người
Bậc trí sống gia đình
Không mệt mỏi ngày đêm
Cúng dường thật đúng pháp
Mẹ cha và tổ tiên
Nhớ ngày trước đã làm
Ðối xuất gia, không nhà
Kính lễ bậc Phạm hạnh
Tin vững trú, cúng dường
Biến pháp, khéo xử sự
Là người đem lợi ích
Cho vua, cho chư Thiên
Là người đem lợi ích
Cho bà con, bè bạn
Là người đem lợi ích
Cho tất cả mọi người
Khéo an trú diệu pháp
Nhiếp xan tham cấu uế
Hưởng cuộc đời hạnh phúc.
39 (9) Streams – [(IX) (39) Nguồn Nước Công Ðức]
- “Bhikkhus, there are these eight streams of merit, streams of the wholesome, nutriments of happiness – heavenly, ripening in happiness, conducive to heaven – that lead to what is wished for, desired, and agreeable, to one’s welfare and happiness. What eight?
- (1) “Here, a noble disciple has gone for refuge to the Buddha. This is the first stream of merit, stream of the wholesome, nutriment of happiness – heavenly, ripening in happiness, conducive to heaven – that leads to what is wished for, desired, and agreeable, to one’s welfare and happiness.
1.- Này các Tỷ-kheo, có tám nguồn nước công đức này, là nguồn nước thiện, món ăn cho an lạc làm nhơn sanh Thiên, quả dị thục an lạc, đưa đến cõi trời, dẫn đến khả ái, khả hỷ, khả ý, hạnh phúc, an lạc. Thế nào là tám?
- Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử quy y Phật. Này các Tỷ-kheo, đây là nguồn nước công đức thứ nhất, là nguồn nước thiện … hạnh phúc, an lạc.
- (2) “Again, a noble disciple has gone for refuge to the Dhamma. This is the second stream of merit … that leads to what is wished for, desired, and agreeable, to one’s welfare and happiness.
- (3) “Again, a noble disciple has gone for refuge to the Sangha. This is the third stream of merit … that leads to what is wished for, desired, and agreeable, to one’s welfare and happiness.
- Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử quy y Pháp. Này các Tỷ-kheo, đây là nguồn nước công đức thứ hai, là nguồn nước thiện … hạnh phúc, an lạc.
- Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử quy y Tăng. Này các Tỷ-kheo, đây là nguồn nước công đức thứ ba, là nguồn nước thiện … hạnh phúc, an lạc.
- “There are, bhikkhus, these five gifts, great gifts, primal, of long standing, traditional, ancient, unadulterated and never before adulterated, which are not being adulterated and will not be adulterated, not repudiated by wise ascetics and brahmins. What five?
- Này các Tỷ-kheo, có năm bố thí này, là đại bố thí, được biết là tối sơ, được biết là lâu ngày, được biết là truyền thống cổ xưa, trước không tạp loạn, hiện tại không tạp loạn, tương lai không tạp loạn, không bị những Sa-môn, những Bà-la-môn có trí khinh thường. Thế nào là năm?
- (4) “Here, a noble disciple, having abandoned the destruction of life, abstains from the destruction of life. By abstaining from the destruction of life, the noble disciple gives to an immeasurable number of being’s freedom from fear, enmity, and affliction. He himself in turn enjoys immeasurable freedom from fear, enmity, and affliction. This is the first gift, a great gift, primal, of long standing, traditional, ancient, unadulterated and never before adulterated, which is not being adulterated and will not be adulterated, not repudiated by wise ascetics
and brahmins. This is the fourth stream of merit … that leads to what is wished for, desired, and agreeable, to one’s welfare and happiness.
- Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử đoạn tận sát sanh, từ bỏ sát sanh. Này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử từ bỏ sát sanh, đem cho không sợ hãi cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hận thù cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hại cho vô lượng chúng sanh; sau khi cho vô lượng chúng sanh, không sợ hãi, không hận thù, không hại, vị ấy sẽ được san sẻ vô lượng không sợ hãi, không hận thù, không hại. Này các Tỷ-kheo, đây là bố thí thứ nhất, là đại bố thí, được biết là tối sơ, được biết là lâu ngày … không bị những Sa-môn, những Bà-la-môn có trí khinh thường. Này các Tỷ-kheo, đây là nguồn nước công đức thứ tư, là nguồn nước thiện … dẫn đến khả ái, khả hỷ, khả ý, hạnh phúc, an lạc.
- (5) – (8) “Again, a noble disciple, having abandoned the taking of what is not given, abstains from taking what is not given … abstains from sexual misconduct … abstains from false speech … abstains from liquor, wine, and intoxicants, the basis for heedlessness. By abstaining from liquor, wine, and intoxicants, the basis for heedlessness, the noble disciple gives to an immeasurable number of being’s freedom from fear, enmity, and affliction. He himself in turn enjoys immeasurable freedom from fear, enmity, and affliction. This is the fifth gift, a great gift, primal, of long standing, traditional, ancient, unadulterated and never before adulterated, which is not being adulterated and will not be adulterated, not repudiated by wise ascetics and brahmins. This is the eighth stream of merit … that leads to what is wished for, desired, and agreeable, to one’s welfare and happiness.
“These, bhikkhus, are the eight streams of merit, streams of the wholesome, nutriments of happiness – heavenly, ripening in happiness, conducive to heaven – that lead to what is wished for, desired, and agreeable, to one’s welfare and happiness.”
40 (10) Conducive – [(X) (40) Rất Là Nhẹ]
- (1) “Bhikkhus, the destruction of life, repeatedly pursued, developed, and cultivated, is conducive to hell, to the animal realm, and to the sphere of afflicted spirits; for one reborn as a human being the destruction of life at minimum conduces to a short life span.
1.- Này các Tỷ-kheo, sát sanh được thực hiện, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến địa ngục, đưa đến loại bàng sanh, đưa đến cõi ngạ quỷ. Quả dị thục hết sức nhẹ của sát sanh là được làm người với tuổi thọ ngắn.
- (2) “Taking what is not given, repeatedly pursued, developed, and cultivated, is conducive to hell, to the animal realm, and to the sphere of afflicted spirits; for one reborn as a human being taking what is not given at minimum conduces to loss of wealth.
- Này các Tỷ-kheo, lấy của không cho được thực hiện, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến địa ngục, đưa đến loại bàng sanh, đưa đến cõi ngạ quỷ. Quả dị thục hết sức nhẹ của lấy của không cho là được làm người với sự tổn hại tài sản.
- (3) “Sexual misconduct, repeatedly pursued, developed, and cultivated, is conducive to hell, to the animal realm, and to the sphere of afflicted spirits; for one reborn as a human being sexual misconduct at minimum conduces to enmity and rivalry.
- (4) “False speech, repeatedly pursued, developed, and cultivated, is conducive to hell, to the animal realm, and to the sphere of afflicted spirits; for one reborn as a human being false speech at minimum conduces to false accusations.
- Này các Tỷ-kheo, tà hạnh trong các dục được thực hiện, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến địa ngục, đưa đến loại bàng sanh, đưa đến cõi ngạ quỷ. Quả dị thục hết sức nhẹ của tà hạnh trong các dục là được làm người với sự oán thù của kẻ địch.
- Này các Tỷ-kheo, nói láo được thực hiện, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến địa ngục, đưa đến loại bàng sanh, đưa đến cõi ngạ quỷ. Quả dị thục hết sức nhẹ của nói láo là được làm người bị vu cáo không đúng sự thật.
- (5) “Divisive speech, repeatedly pursued, developed, and cultivated, is conducive to hell, to the animal realm, and to the sphere of afflicted spirits; for one reborn as a human being divisive speech at minimum conduces to being divided from one’s friends.
- (6) “Harsh speech, repeatedly pursued, developed, and cultivated, is conducive to hell, to the animal realm, and to the sphere of afflicted spirits; for one reborn as a human being harsh speech at minimum conduces to disagreeable sounds.
- Này các Tỷ-kheo, nói hai lưỡi được thực hiện, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến địa ngục, đưa đến loại bàng sanh, đưa đến cõi ngạ quỷ. Quả dị thục hết sức nhẹ của nói hai lưỡi là được làm người với bạn bè bị đổ vỡ.
- Này các Tỷ-kheo, nói ác khẩu được thực hiện, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến địa ngục, đưa đến loại bàng sanh, đưa đến cõi ngạ quỷ. Quả dị thục hết sức nhẹ của nói ác khẩu là được làm người và được nghe những tiếng không khả ý.
(7) “Idle chatter, repeatedly pursued, developed, and cultivated, is conducive to hell, to the animal realm, and to the sphere of afflicted spirits; for one reborn as a human being idle chatter at minimum conduces to others distrusting one’s words.
(8) “Drinking liquor and wine, repeatedly pursued, developed, and cultivated, is conducive to hell, to the animal realm, and to the sphere of afflicted spirits; for one reborn as a human being drinking liquor and wine at minimum conduces to madness.”
- Này các Tỷ-kheo, nói lời phù phiếm được thực hiện, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến địa ngục, đưa đến loại bàng sanh, đưa đến cõi ngạ quỷ. Quả dị thục hết sức nhẹ của nói lời phù phiếm là được làm người và được nghe những lời khó chấp nhận.
- Này các Tỷ-kheo, uống men rượu, rượu nấu, được thực hiện, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến địa ngục, đưa đến loại bàng sanh, đưa đến cõi ngạ quỷ. Quả dị thục hết sức nhẹ của uống rượu mem, rượu nấu là được làm người với tâm điên loạn.
- Uposatha – [V. Phẩm Ngày Trai Giới]
41 (1) In Brief – [(I) (41) Các Trai Giới]
- Thus, have I heard:
On one occasion, the Blessed One was dwelling at Savatthi in Jeta’s Grove, Anathapindika’s Park. There the Blessed One addressed the bhikkhus: “Bhikkhus!” “Venerable sir!” those bhikkhus replied.
The Blessed One said this:
- Như vầy tôi nghe:
Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvavatthì tại Jetanava, khu vườn ông Anàthapindika, ở đấy Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: “Này các Tỷ-kheo”, – “Bạch Thế Tôn”.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
- “Bhikkhus, observed complete in eight factors, the uposatha is of great fruit and benefit, extraordinarily brilliant and pervasive. And how is the uposatha observed complete in eight factors, so that it is of great fruit and benefit, extraordinarily brilliant and pervasive?
- – Này các Tỷ-kheo, ngày trai giới thành tựu tám chi phần, được thực hành thời có được quả lớn, có lợi ích lớn, có rực rỡ lớn; có biến mãn lớn. Như thế nào, này các Tỷ-kheo, là ngày trai giới thành tựu tám chi phần, được thực hành thời có được quả lớn, có lợi ích lớn, có rực rỡ lớn; có biến mãn lớn?
- (1) “Here, bhikkhus, a noble disciple reflects thus: ‘As long as they live the arahants abandon and abstain from the destruction of life; with the rod and weapon laid aside, conscientious and kindly, they dwell compassionate toward all living beings. Today, for this night and day, I too shall abandon and abstain
from the destruction of life; with the rod and weapon laid aside, conscientious and kindly, I too shall dwell compassionate toward all living beings. I shall imitate the arahants in this respect and the uposatha will be observed by me.’ This is the first factor it possesses.
- Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: “Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán đoạn tận sát sanh, từ bỏ sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu tình. Hôm nay, đêm này và ngày nay, ta cũng đoạn tận sát sanh, từ bỏ sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu tình. Với chi phần này, Ta theo gương vị A-la-hán, ta sẽ thực hành trai giới “. Ðây là chi phần thứ nhất được thành tựu.
- (2) ‘”As long as they live the arahants abandon and abstain from taking what is not given; they take only what is given, expect only what is given, and dwell honestly without thoughts of theft. Today, for this night and day, I too shall abandon and abstain from taking what is not given; I shall accept only what
is given, expect only what is given, and dwell honestly without thoughts of theft. I shall imitate the arahants in this respect and the uposatha will be observed by me.’ This is the second factor it possesses.
- “Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán đoạn tận lấy của không cho, chỉ lấy những vật đã cho, chỉ mong những vật đã cho, tự sống thanh tịnh, không có trộm cướp. Hôm nay, đêm này và ngày nay, ta cũng đoạn tận lấy của không cho, chỉ lấy những vật đã cho, chỉ mong những vật đã cho, tự sống thanh tịnh, không có trộm cướp. Với chi phần này, Ta theo gương vị A-la-hán, ta sẽ thực hành ngày trai giới”. Ðây là chi phần thứ hai được thành tựu.
- (3) ‘”As long as they live the arahants abandon sexual activity and observe celibacy, living apart, abstaining from sexual intercourse, the common person’s practice. Today, for this night and day, I too shall abandon sexual activity and observe celibacy, living apart, abstaining from sexual intercourse, the common
person’s practice. I shall imitate the arahants in this respect and the uposatha will be observed by me.’ This is the third factor it possesses.
- “Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán đoạn tận phi Phạm hạnh, hành Phạm hạnh, sống xa lánh, từ bỏ dâm dục hèn hạ. Hôm nay, đêm này và ngày nay, ta cũng đoạn tận phi Phạm hạnh, hành Phạm hạnh, sống xa lánh, từ bỏ dâm dục hèn hạ. Với chi phần này, Ta theo gương vị A-la-hán, ta sẽ thực hành ngày trai giới “. Ðây là chi phần thứ ba được thành tựu.
- (4) ” ‘As long as they live the arahants abandon and abstain from false speech; they speak truth, adhere to truth; they are trustworthy and reliable, no deceivers of the world. Today, for this night and day, I too shall abandon and abstain from false speech; I shall speak truth, adhere to truth; I shall be trustworthy and reliable, no deceiver of the world. I shall imitate the arahants in this respect and the uposatha will be observed by me.’ This is the fourth factor it possesses.
- “Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán đoạn tận nói láo, từ bỏ nói láo, nói những lời chân thật, y chỉ sự thật, chắc chắn, đáng tin cậy, không lường gạt đời. Hôm nay, đêm này và ngày nay, ta cũng đoạn tận nói láo, từ bỏ nói láo, nói những lời chân thật, y chỉ sự thật, chắc chắn, đáng tin cậy, không lường gạt đời. Với chi phần này, Ta theo gương vị A-la-hán, ta sẽ thực hành ngày trai giới “. Ðây là chi phần thứ tư được thành tựu.
- (5) “‘A s long as they live the arahants abandon and abstain from liquor, wine, and intoxicants, the basis for heedlessness. Today, for this night and day, I too shall abandon and abstain from liquor, wine, and intoxicants, the basis for heedlessness. I shall imitate the arahants in this respect and the uposatha will
be observed by me.’ This is the fifth factor it possesses.
- “Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán đoạn tận đắm say men rượu men, rượu nấu, từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu. Hôm nay, đêm này và ngày nay, ta cũng đoạn tận đắm say men rượu men, rượu nấu, từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu. Với chi phần này, Ta theo gương vị A-la-hán, ta sẽ thực hành ngày trai giới “. Ðây là chi phần thứ năm được thành tựu.
- (6) “‘As long as they live the arahants eat once a day, abstaining from eating at night and from food outside the proper time. Today, for this night and day, I too shall eat once a day, abstaining from eating at night and from food outside the proper time. I shall imitate the arahants in this respect and the uposatha will be observed by me.’ This is the sixth factor it possesses.
- “Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán dùng mỗi ngày một bữa, không ăn ban đêm, từ bỏ không ăn ban đêm, từ bỏ ăn phi thời. Hôm nay, đêm này và ngày nay, ta cũng dùng mỗi ngày một bữa, không ăn ban đêm, từ bỏ không ăn ban đêm, từ bỏ ăn phi thời. Với chi phần này, Ta theo gương vị A-la-hán, ta sẽ thực hành ngày trai giới “. Ðây là chi phần thứ sáu được thành tựu.
- (7) “‘As long as they live the arahants abstain from dancing, singing, instrumental music, and unsuitable shows, and from adorning and beautifying themselves by wearing garlands and applying scents and unguents. Today, for this night and day, I too shall abstain from dancing, singing, instrumental music,
and unsuitable shows, and from adorning and beautifying myself by wearing garlands and applying scents and unguents. I shall imitate the arahants in this respect and the uposatha will be observed by me.’ This is the seventh factor it possesses.
- “Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán từ bỏ không đi xem múa, hát, nhạc, diễn kịch, không trang sức bằng vòng hoa, hương liệu, dầu thoa và các thời trang. Hôm nay, đêm này và ngày nay, ta cũng từ bỏ không đi xem múa, hát, nhạc diễn kịch, không trang sức bằng vòng hoa, hương liệu, dầu thoa và các thời trang. Với chi phần này, Ta theo gương vị A-la-hán, ta sẽ thực hành ngày trai giới “. Ðây là chi phần thứ bảy được thành tựu.
- (8) “‘As long as they live the arahants abandon and abstain from the use of high and luxurious beds; they lied own on a low resting place, either a small bed or a straw mat. Today, for this night and day, I too shall abandon and abstain from the use of high and luxurious beds; I shall lie down on a low resting place,
either a small bed or a straw mat. I shall imitate the arahants in this respect and the uposatha will be observed by me.’ This is the eighth factor it possesses.
“It is in this way, bhikkhus, that the uposatha is observed complete in eight factors, so that it is of great fruit and benefit, extraordinarily brilliant and pervasive.”
- “Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán đoạn tận, không dùng các giường cao, giường lớn, từ bỏ không dùng các giường cao, giường lớn. Hôm nay, đêm này và ngày nay, ta cũng đoạn tận, không dùng các giường cao, giường lớn, từ bỏ không dùng các giường cao, giường lớn. Với chi phần này, Ta theo gương vị A-la-hán, ta sẽ thực hành ngày trai giới “. Ðây là chi phần thứ tám được thành tựu.
Này các Tỷ-kheo, ngày trai giới thành tựu tám chi phần được thực hành như vậy, thời có được quả lớn, có lợi ích lớn, có rực rỡ lớn, có biến mãn lớn.
42 (2) In Detail – [(II) (42) Ngày Trai Giới]
- “Bhikkhus, observed complete in eight factors, the uposatha is of great fruit and benefit, extraordinarily brilliant and pervasive. And how is the uposatha observed complete in eight factors, so that it is of great fruit and benefit, extraordinarily brilliant and pervasive?
- – Này các Tỷ-kheo, ngày trai giới thành tựu tám chi phần, được thực hành thời có được quả lớn, có lợi ích lớn, có rực rỡ lớn; có biến mãn lớn. Như thế nào, này các Tỷ-kheo, là ngày trai giới thành tựu tám chi phần, được thực hành thời có được quả lớn, có lợi ích lớn, có rực rỡ lớn; có biến mãn lớn?
2-3. (1) “Here, bhikkhus; a noble disciple reflects thus: ‘As long as they live the arahants abandon and abstain from the destruction of life; with the rod and weapon laid aside, conscientious and kindly, they dwell compassionate toward all living beings. Today, for this night and day, I too shall abandon and abstain
from the destruction of life; with the rod and weapon laid aside, conscientious and kindly, I too shall dwell compassionate toward all living beings. I shall imitate the arahants in this respect and the uposatha will be observed by me.’ This is the first factor it possesses …
[As in 8:41 down to:] …
(8) “‘As long as they live the arahants abandon and abstain from the use; of high and luxurious beds; they lie down on a low resting place, either a small bed or a straw mat. Today, for this night and day, I too shall abandon and abstain from the use of high and luxurious beds; I shall lie down on a low resting place,
either a small bed or a straw mat. I shall imitate the arahants in this respect and the uposatha will be observed by me.’ This is the eighth factor it possesses.
“It is in this way, bhikkhus, that the uposatha is observed complete in eight factors, so that it is of great fruit and benefit, extraordinarily brilliant and pervasive. “To what extent is it of great fruit and benefit? To what extent is it extraordinarily brilliant and pervasive?
2-3. … (giống như kinh 41 trên, từ đoạn số 22 đến 10) … (Ðây là chi phần thứ tám được thành tựu )
– Này các Tỷ-kheo, ngày trai giới thành tựu tám chi phần, được thực hành thời có được quả lớn, có lợi ích lớn, có rực rỡ lớn; có biến mãn lớn. Ðến như thế nào là quả lớn? Ðến như thế nào là lợi ích lớn? Ðến như thế nào là rực rỡ lớn? Ðến như thế nào là biến mãn lớn?
- Suppose one were to exercise sovereignty and kingship over these sixteen great countries abounding in the seven precious substances, that is, [the countries of] the Angans, the Magadhans, the Kasis, the Kosalans, the Vajjis, the Mallas, the Cetis, the Vangas, the Kurus, the Pancalas, the Macchas, the Surasenas, the Assakas, the Avantis, the Gandharans, and the Kambojans: this would not be worth a sixteenth part of the uposatha observance complete
in those eight factors. For what reason? Because human kingship is poor compared to celestial happiness.
- Ví như, này các Tỷ-kheo, có người áp đặt chủ quyền cai trị trên mười sáu quốc độ lớn này tràn đầy bảy báu, như Anga, Magadha, Kàsìkosala, Vajjì, Cetì, Vamsà, Kurù, Pancàlà, Macchà, Sùrasenà, Asska, Avantì, Gandhàrà, Kambojà. Nhưng chủ quyền ấy không bằng một phần mười sáu của một ngày trai giới thành tựu tám chi phần. Vì cớ sao? Nhỏ nhoi, này các Tỷ-kheo, là quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc chư Thiên.
- “For the devas [ruled by] the four great kings, a single night and day is equivalent to fifty human years; thirty such days make up a month, and twelve such months make up a year. The life span of those devas is five hundred such celestial years. It is possible, bhikkhus, for a woman or man who observes the
uposatha complete in these eight factors, with the breakup of the body, after death, to be reborn in companionship with the devas [ruled by] the four great kings. It was with reference to this that I said human kingship is poor compared to celestial happiness.
- Năm mươi năm của một đời người, này các Tỷ-kheo, bằng một đêm một ngày của chư Thiên Bốn thiên vương. Ba mươi đêm của đêm ấy làm thành một tháng, mười hai tháng của tháng ấy làm thành một năm. Năm mươi năm chư Thiên của năm ấy làm thành thọ mạng của chư Thiên Bốn thiên vương. Sự kiện này có xảy ra, này các Tỷ-kheo: “Ở đây, có người đàn bà hay đàn ông, sau khi thực hành trai giới thành tựu tám chi phần, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cọng trú với chư Thiên Bốn thiên vương”. Do vậy, Ta nói: “Nhỏ nhoi thay, này các Tỷ-kheo, là quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc chư Thiên “.
- “For the Tavatimsa devas, a single night and day is equivalent to a hundred human years; thirty such days make up a month, and twelve such months make up a year. The life span of those devas is a thousand such celestial years. It is possible, bhikkhus, for a woman or man who observes the uposatha complete in these eight factors, with the breakup of the body, after death, to be reborn in companionship with the Tavatimsa devas. It was with reference to this that I said human kingship is poor compared to celestial happiness.
- Một trăm năm của một đời người, này các Tỷ-kheo, bằng một đêm một ngày của chư Thiên cõi trời Ba mươi ba. Ba mươi đêm của đêm ấy làm thành một tháng, mười hai tháng của tháng ấy làm thành một năm. Một ngàn năm chư Thiên của năm ấy làm thành thọ mạng của chư Thiên cõi trời Ba mươi ba. Sự kiện này có xảy ra, này các Tỷ-kheo: “Ở đây, có người đàn bà hay đàn ông, sau khi thực hành ngày trai giới thành tựu tám chi phần, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cọng trú với chư Thiên cõi trời Ba mươi ba”. Do vậy, Ta nói: “Nhỏ nhoi thay, này các Tỷ-kheo, là quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc chư Thiên”.
- “For the Yama devas, a single night and day is equivalent to two hundred human years; thirty such days make up a month, and twelve such m onths make up a year. The life span of those devas is two thousand such celestial years. It is possible, bhikkhus, for a woman or man who observes the uposatha complete
in these eight factors, with the breakup of the body, after death, to be reborn in companionship with the Yama devas. It was with reference to this that I said human kingship is poor compared to celestial happiness.
- Hai trăm năm của một đời người, này các Tỷ-kheo, bằng một đêm một ngày của chư Thiên cõi trời Yàma. Ba mươi đêm của đêm ấy làm thành một tháng, mười hai tháng của tháng ấy làm thành một năm. Hai ngàn năm chư Thiên của năm ấy làm thành thọ mạng của chư Thiên cõi trời Yàma. Sự kiện này có xảy ra, này các Tỷ-kheo: “Ở đây, có người đàn bà hay đàn ông, sau khi thực hành ngày trai giới thành tựu tám chi phần, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cọng trú với chư Thiên cõi trời Yàma”. Do vậy, Ta nói: “Nhỏ nhoi thay, này các Tỷ-kheo, là quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc chư Thiên”.
“For the Tusita devas, a single night and day is equivalent to four hundred human years; thirty such days make up a month, and twelve such months make up a year. The life span of those devas is four thousand such celestial years. If is possible, bhikkhus, for a woman or man who observes the uposatha complete
in these eight factors, with the breakup of the body, after death, to be reborn in companionship with the Tusita devas. It was with reference to this that I said human kingship is poor compared to celestial happiness.
Bốn trăm năm của một đời người, này các Tỷ-kheo, bằng một đêm một ngày của chư Thiên cõi trời Tusità (Ðâu-Xuất). Ba mươi đêm của đêm ấy làm thành một tháng, mười hai tháng của tháng ấy làm thành một năm. Bốn ngàn năm chư Thiên của năm ấy làm thành thọ mạng của chư Thiên cõi trời Tusità. Sự kiện này có xảy ra, này các Tỷ-kheo: “Ở đây, có người đàn bà hay đàn ông, sau khi thực hành ngày trai giới thành tựu tám chi phần, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cọng trú với chư Thiên cõi trời Tusità”. Do vậy, Ta nói: “Nhỏ nhoi thay, này các Tỷ-kheo, là quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc chư Thiên”.
“For the devas who delight in creation, a single night and day is equivalent to eight hundred human years; thirty such days make up a month, and twelve such months make up a year. The life span of those devas is eight thousand such celestial years. It is possible, bhikkhus, for a woman or man who observes
the uposatha complete in these eight factors, with the breakup of the body, after death, to be reborn in companionship with the devas who delight in creation. It was with reference to this that I said human kingship is poor compared to celestial happiness.
Tám trăm năm của một đời người, này các Tỷ-kheo, bằng một đêm một ngày của chư Thiên cõi trời Hóa lạc. Tám ngàn năm chư Thiên của năm ấy làm thành thọ mạng của chư Thiên cõi trời Hóa lạc. Sự kiện này có xảy ra, … với hạnh phúc chư Thiên”.
“For the devas who control what is created by others, a single night and day is equivalent to sixteen hundred human years; thirty such days make up a month, and twelve such months, make up a year. The life span of those devas is sixteen thousand such celestial years. It is possible, bhikkhus, for. a woman or man who observes the uposatha complete in these eight factors, with the breakup of the body, after death, to be reborn in companionship with the devais who control what is created by others. It was with reference to this that I said human kingship is poor compared to celestial happiness.”
One should not kill living beings or take what is not given;
one should not speak falsehood or drink intoxicants;
one should refrain from sexual activity, from unchastity;
one should not eat at night or at an improper time.
One should not wear garlands or apply scents;
one should sleep on a [low] bed or a mat on the ground;
this, they say, is the eight-factored uposatha
proclaimed by the Buddha,
who reached the end of suffering.
As far as the sun and moon revolve,
shedding light, so beautiful to gaze upon,
dispellers of darkness, moving through the firmament,
they shine in the sky, brightening up the quarters.
Whatever wealth exists in this sphere …
pearls, gems, and excellent beryl,
horn gold and mountain gold,
and the natural gold called hataka …
those are not worth a sixteenth part
of an uposatha complete in the eight factors,
just as all the hosts of stars
[do not match] the moon’s radiance.
Therefore, a virtuous woman or man,
having observed the uposatha complete in eight factors
and having made merit productive of happiness,
blameless goes to a heavenly state.
Mười sáu trăm năm của một đời người, này các Tỷ-kheo, bằng một đêm một ngày của chư Thiên cõi trời Tha hóa Tự tại. Ba mươi đêm của đêm ấy làm thành một tháng, mười hai tháng của tháng ấy làm thành một năm. Mười sáu ngàn năm chư Thiên của năm ấy làm thành thọ mạng của chư Thiên cõi trời Tha hóa Tự tại. Sự kiện này có xảy ra, này các Tỷ-kheo: “Ở đây, có người đàn bà hay đàn ông, sau khi thực hành ngày trai giới thành tựu tám chi phần, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cọng trú với chư Thiên cõi trời Tha hóa Tự tại. Do vậy, Ta nói: “Nhỏ nhoi thay, này các Tỷ-kheo, là quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc chư Thiên “.
Chớ giết hại loại sanh
Chớ lấy của không cho
Chớ nói lời nói láo
Chớ uống thứ rượu say
Từ bỏ phi Phạm hạnh
Từ bỏ không dâm dục
Không ăn vào ban đêm
Tránh không ăn phi thời
Không mang các vòng hoa
Không dùng các hương liệu
Hãy nằm trên tấm thảm
Trải dài đất làm giường
Chính hạnh trai giới này
Ðược gọi có tám phần
Do đức Phật nói lên
Ðưa đến đoạn tận khổ
Mặt trăng và mặt trời
Cả hai thấy lành tốt
Chỗ nào chúng đi tới,
Chúng chói sáng hào quang
Chúng làm mây sáng chói
Giữa hư không chúng đi
Trên trời chúng chói sáng
Sáng rực mọi phương hướng
Trong khoảng không gian ấy
Tài sản được tìm thấy
Trân châu và ngọc báu
Lưu ly đá cầu may
Vàng cục trong lòng đất
Hay loại Kancana
Cùng loại vàng sáng chói
Ðược gọi Hataka
Tuy vậy chúng giá trị
Chỉ một phần mười sáu
Với hạnh giữ trai giới
Ðầy đủ cả tám mặt
Kể cả ánh sáng trăng
Với cả vòm trời sao
Vậy người nữ, người nam
Giữ gìn theo tịnh giới
Hành Bồ-tát trai giới
Ðầy đủ cả tám mặt
Làm các thiện công đức
Ðem lại nhiều an lạc
Ðược sanh lên cõi trời
Không bị người cười chê.
43 (3) Visakha (1) – [(III) (43) Visàkhà]
- On one occasion the Blessed One was dwelling at Savatthi in Migaramata’s Mansion in the Eastern Park. Then Visakha Migaramata approached the Blessed One, paid homage to him, and sat down to one side. The Blessed One then said to her:
- ”Visakha, observed complete in eight factors, the uposatha is of great fruit and benefit, extraordinarily brilliant and pervasive. And how is the uposatha observed complete in eight factors, so that it is of great fruit and benefit, extraordinarily brilliant and perv asive?”
[All as in 8:42, including the verses.]
- Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvavatthì, tại Ðông Viên, lâu đài mẹ của Migàrà. Rồi Visàkhà, mẹ của Migàrà đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Visàkhà, mẹ của Migàrà đang ngồi một bên:
- – Này Visàkhà, ngày trai giới đầy đủ tám chi phần được thực hành, thời có được quả lớn, có lợi ích lớn, có rực rỡ lớn, có biến mãn lớn … (giống như kinh 42 với cả bài kệ, với những thay đổi cần thiết).
44 (4) Vasettha – [(IV) (44) Vàsettha]
- On one occasion, the Blessed One was dwelling at Vesali in the hall with the peaked roof in the Great Wood. Then the male lay follower Vasettha approached the Blessed One, paid homage to him, and sat down to one side. The Blessed One then said to him: “Vasettha, observed complete in eight factors, the uposatha is of great fruit and benefit, extraordinarily brilliant and pervasive. And how is the uposatha observed complete in eight factors, so that it is of great fruit and benefit, extraordinarily brilliant and pervasive? “
[A11 as in 8:42, including the verses.]
- Một thời, Thế Tôn trú ở Vesàli, tại Mahàvana, ngôi nhà có nóc nhọn, rồi nam cư sĩ Vàsettha đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với nam cư sĩ đang ngồi một bên: … (Ðức Phật nói lại như kinh 4,2 kể cả bài kệ, với những thay đổi cần thiết)…
- When this w as said, the male lay follower Vasettha said to the Blessed One: – “Bhante, if my beloved relatives and family members would observe the uposatha complete in eight factors, that would lead to their welfare and happiness for a long time. If all khattiyas would observe the uposatha complete in eight factors, that would lead to their welfare and happiness for a long time. If all brahmins … vessas … suddas would observe the uposatha complete in eight factors, that would lead to their welfare and happiness for a long time.”
- Khi được nói như vậy, nam cư sĩ Vàsettha bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, nếu người bà con huyết thống thân mến của con thực hành ngày trai giới, với đầy đủ tám chi phần này, như vậy, các bà con huyết thống thân mến của con được hạnh phúc an lạc lâu dài. Bạch Thế Tôn, nếu tất cả các Sát-đế-lỵ thực hành ngày trai giới, với đầy đủ tám chi phần, tất cả các được hạnh phúc an lạc lâu dài. Bạch Thế Tôn, nếu tất cả Bà-la-môn … các Phệ-Xá … các Thủ-đà thực hành ngày trai giới với đầy đủ tám chi phần, tất cả các Thủ-đà được hạnh phúc an lạc lâu dài.
- “So it is, Vasettha, so it is! If all khattiyas would observe the uposatha complete in eight factors, that would lead to their welfare and happiness for a long time. If all brahmins … vessas … suddas would observe the uposatha complete in eight factors, that would lead to their welfare and happiness for a long time. If the world with its devas, Mara, and Brahma, this population with its ascetics and brahmins, its devas and humans, would observe the uposatha complete in eight factors, that would lead to the welfare and happiness of the world for a long time. If these great sal trees would observe the uposatha complete in eight factors, that would lead to the welfare and happiness of
these great sal trees for a long time, [if they could choose]. How much more then for a human being!”
- – Như vậy là phải, này Vàsettha! Này Vàsettha, nếu tất cả các Sát-đế-lỵ thực hành ngày trai giới, với đầy đủ tám chi phần, tất cả các Sát Ðế Lỵ được hạnh phúc an lạc lâu dài. Này Vàsettha, nếu tất cả Bà-la-môn … các Phệ-Xá … các Thủ-đà thực hành ngày trai giới với đầy đủ tám chi phần, tất cả các Thủ-đà sẽ được hạnh phúc an lạc lâu dài. Này Vàsettha, nếu thế giới chư Thiên, với các ác ma, các Phạm thiên, hay quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn thực hành ngày trai giới, với đầy đủ tám chi phần, như vậy, thế giới chư Thiên, các ác ma, các Phạm thiên, hay quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, sẽ được hạnh phúc an lạc lâu dài. Này Vàsettha, nếu các cây sàlà lớn này có thể thực hành ngày trai giới với đầy đủ tám chi phần, sẽ được hạnh phúc an lạc lâu dài, nếu chúng có tư duy, nói gì đến loài người.
45 (5) Bojjha – [(V) (45) Bojjhà]
- On one occasion, the Blessed One was dwelling at Savatthi at Jeta’s Grove, Anathapindika’s Park. Then the female lay follower Bojjha approached the Blessed One, paid homage to him, and sat down to one side. The Blessed One then said to her: “Bojjha, observed complete in eight factors, the uposatha is
of great fruit and benefit, extraordinarily brilliant and pervasive …
[All as in 8:42, including the verses.]
- Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvavatthì, tại Jetanava, khu vườn ông Anàthapindika. Rồi nữ cư sĩ Bojjhà đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với cư sĩ Bojjhà đang ngồi xuống một bên:
- … (Thế Tôn nói lại kinh 42, kể cả bài kệ, với những thay đổi cần thiết) …
46 (6) Anuruddha – [(VI) (46) Tôn Gỉả Anuruddha]
- On one occasion, the Blessed One was dwelling at Kosambi in Ghosita’s Park. Now on that occasion the Venerable Aniiruddha had gone off to pass the day and was in seclusion when a number of agreeable-bodied deities approached him, paid homage to him, stood to one side, and said to him:
– “Bhante Anuruddha, we agreeable-bodied deities exert mastery and exercise control over three things. We immediately acquire whatever color we want. We immediately acquire whatever pleasure we want. And we immediately acquire whatever voice we want. We agreeable-bodied deities exert mastery and
exercise control over these three things.”
- Một thời, Thế Tôn trú ở Kosambi, tại khu vườn Ghosita. Lúc bấy giờ Tôn giả Anuruddha, đang đi nghỉ ban ngày, ngồi Thiền tịnh. Rồi rất nhiều Thiên nữ với thân khả ái đi đến Tôn giả Anuruddha, sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Anuruddha rồi đứng một bên. Ðứng một bên, các Thiên nữ ấy thưa với Tôn giả:
– Chúng tôi là những thiên nữ với thân khả ái. Trên ba địa hạt, chúng tôi có quyền lực và có tự tại! Thưa Tôn giả, chúng tôi muốn có hình sắc như thế nào, chúng tôi liền được hình sắc ấy ngay lập tức. Chúng tôi muốn được tiếng như thế nào, chúng tôi liền được tiếng như thế ấy ngay lập tức. Chúng tôi muốn được lạc thọ như thế nào, chúng tôi liền được lạc ấy ngay lập tức. Thưa Tôn giả Anurudha, chúng tôi là những thiên nữ với thân khả ái. Trên ba địa hạt, chúng tôi có quyền lực và có tự tại.
- Then the Venerable Anuruddha thought: “May all these deities become blue, of blue complexion, with blue clothes and blue ornaments.’ Having known the Venerable Anuruddha’s thought, those deities all became blue, of blue complexion, with blue clothes and blue ornaments. Then the Venerable Anuruddha thought “May all these deities become yellow … red … white, of white complexion, with white clothes and white o rnaments.’ Having known the Venerable Anuruddha’s thought, those deities all became white, of white complexion, with white clothes and white ornaments. Then one of those deities sang, one danced, and one snapped her fingers. Just as, when a musical quintet is well trained and its rhythm well coordinated, and it is composed of skilled
musicians, its music is exquisite, tantalizing, lovely, captivating, and intoxicating, just so those deities’ performance was exquisite, tantalizing, lovely, captivating, and intoxicating. Thereupon the Venerable Anuruddha drew in his sense faculties. Then those deities, [thinking:] “Master Anuruddha is not enjoying [this],” disappeared right on the spot.
- Rồi Tôn giả Anuruddha suy nghĩ: “Mong rằng các Thiên nữ này tất cả trở thành xanh, dung sắc xanh, y áo xanh, trang điểm xanh”. Rồi các Thiên nữ ấy, biết được tâm của Tôn giả Anuruddha, tất cả đều trở thành xanh, dung sắc xanh, y áo xanh, trang điểm xanh. Rồi Tôn giả Anuruddha suy nghĩ như sau: “Mong rằng các Thiên nữ này tất cả trở thành vàng … tất cả trở thành đỏ … tất cả trở thành trắng, dung sắc trắng, y áo trắng, trang sức trắng. Rồi các Thiên nữ ấy, biết được tâm của Tôn giả Anuruddha, tất cả đều trở thành trắng, dung sắc trắng, y áo trắng, trang sức trắng. Rồi các Thiên nữ ấy, một người hát, một người múa, một người vỗ tay. Ví như năm loại nhạc khí, khéo hòa điệu, khéo chơi, khéo đánh bởi người thiện xảo, thời tiếng phát ra được đáng ưa, khả lạc, khả dục, khả ái, mê ly. Cũng vậy, là nhạc của các Thiên nữ khéo trang điểm ấy, tiếng phát ra được đáng ưa, khả lạc, khả dục, khả ái, mê ly. Nhưng Tôn giả Anuruddha giữ các căn nhiếp phục. Các Thiên nữ ấy nghĩ rằng: “Tôn giả Anuruddha không có thưởng thức”, liền biến mất tại chỗ.
- Then, in the evening, the Venerable Anuruddha emerged from seclusion and approached the Blessed One. He paid homage to the Blessed One, sat down to one side, and said to him: “Here, Bhante, I had gone off to pass the day and was in seclusion … [He reports everything that happened down to:] …Then those deities, [thinking:] ‘Master Anuruddha is not enjoying [this], disappeared right on the spot.
“Bhante, how many qualities should a woman possess so that, with the breakup of the body, after death, she is reborn in companionship with the agreeable-bodied deities?”
- Bạch Thế Tôn. Con suy nghĩ như sau: “Mong rằng các Thiên nữ này tất cả trở thành xanh, dung sắc xanh, y áo xanh, trang điểm xanh”. Rồi các Thiên nữ ấy, biết được tâm của con, tất cả đều trở thành xanh, dung sắc xanh, y áo xanh, trang điểm xanh. Rồi bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: “Mong rằng các Thiên nữ này tất cả trở thành vàng … tất cả trở thành đỏ … tất cả trở thành trắng, dung sắc trắng, y áo trắng, trang sức trắng. Rồi bạch Thế Tôn, các Thiên nữ ấy, biết được tâm của con, tất cả đều trở thành trắng, dung sắc trắng, y áo trắng, trang sức trắng. Rồi bạch Thế Tôn, các Thiên nữ ấy, một người hát, một người múa, một người vỗ tay. Ví như năm loại nhạc khí, khéo hòa điệu, khéo chơi, khéo đánh bởi người thiện xảo, thời tiếng phát ra được đáng ưa, khả lạc, khả dục, khả ái, mê ly. Cũng vậy, là nhạc của các Thiên nữ khéo trang điểm ấy, tiếng phát ra được dịu ngọt, đáng ưa, khả lạc, khả dục, khả ái, mê ly. Nhưng bạch Thế Tôn, con giữ các căn nhiếp phục. Các Thiên nữ ấy nghĩ rằng: “Con không có thưởng thức”, liền biến mất tại chỗ.
Bạch Thế Tôn, thành tựu bao nhiêu pháp, nữ nhân sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với các Thiên nữ ấy với thân khả ái?
- “If she possesses eight qualities, Anuruddha, a woman, with
the breakup of the body, after death, is reborn in companionship
with the agreeable-bodied deities. What eight?
- – Này, Anuruddha, đầy đủ tám pháp, nữ nhân sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với các Thiên nữ ấy với thân khả ái. Thế nào là tám?
- (1) “Here, Anuruddha, to whichever husband her parents give her – doing so out of a desire for her good, seeking her welfare, taking compassion on her, acting out of compassion for her – a woman rises before him and retires after him, undertaking whatever needs to be done, agreeable in her conduct and
pleasing in her speech. (2) “She honors, respects, esteems, and venerates those whom her husband respects – his mother and father, ascetics and brahmins – and when they arrive she offers them a seat and water, (3) “She is skillful and diligent in attending to her husband’s domestic chores, whether knitting or weaving; she possesses sound judgment about them in order to carry out and arrange them properly. (4) “She finds out what her husband’s domestic helpers whether slaves, messengers, or workers – have done and left undone; she finds out the condition of those who are ill; and she distributes to each an appropriate portion of food. (5) “She guards and protects whatever income her husband brings home – whether money, grain, silver, or gold – and she is not a spendthrift, thief, wastrel, or squanderer of his earnings. (6) “She is a female lay follower who has gone for refuge to the Buddha, the Dhamma, and the Sangha.
(7) “She is virtuous, abstaining from the destruction of life, taking what is not given, sexual misconduct, false speech, and liquor, wine, and intoxicants, the basis for heedlessness. (8) “She is generous, one who dwells at home with a heart devoid of the stain of miserliness, freely generous, openhanded,
delighting in relinquishment, devoted to charity, delighting in giving and sharing. “Possessing these eight qualities, Anuruddha, a woman, with the breakup of the body, after death, is reborn in companionship with the agreeable-bodied deities.”
She does not despise her husband,
the man who constantly supports her,
who ardently and eagerly
always brings her whatever she wants.
Nor does a good woman scold her husband
with speech caused by jealousy;
the wise woman shows veneration
to all those whom her husband reveres.
She rises early, works diligently,
manages the domestic help;
she treats her husband in agreeable ways
and safeguards the wealth he earns.
The woman who fulfills her duties thus,
following her husband’s will and wishes,
is reborn among the devas
called “the agreeable ones.”
- Ở đây, này Anuruddha, nữ nhân đối với người chồng nào mẹ cha gả cho, vì muốn lợi ích, vì tìm hạnh phúc, vì lòng thương tưởng, vì lòng từ mẫn khởi lên đối với người ấy, nữ nhân dậy trước, đi ngủ sau cùng, vui lòng nhận mọi công việc, xử sự đẹp lòng, lời nói dễ thương. Những ai có người chồng kính trọng Sa-môn, Bà-la-môn như cha mẹ, nữ nhân ấy cung kính tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, và khi họ đến, sẽ dâng hiến chỗ ngồi và nước. Phàm có những việc trong nhà, thuộc về len hay vải bông, ở đây, nữ nhân ấy thông thạo, không biếng nhác, tự tìm phương pháp làm, vừa đủ để tự mình làm, vừa đủ để sắp đặt người làm. Trong nhà người chồng, phàm có nô tỳ nào, hay người đưa tin, hay người công thợ, nữ nhân biết công việc của họ với công việc đã làm, biết sự thiếu xót của họ với công việc không làm; biết sức mạnh hay sức không mạnh của những người đau bệnh; biết chia các đồ ăn, loại cứng và loại mềm, mỗi người tùy theo từng phần của mình. Phàm có tiền bạc, lúa gạo, bạc và vàng người chồng đem về, nữ nhân ấy bảo vệ, phòng hộ chúng, giữ gìn để khỏi ăn trộm, ăn cắp, kẻ uống rượu, kẻ phá hoại. Nữ cư sĩ quy y Phật, quy y Pháp, Quy y Tăng. Nữ cư sĩ giữ giới, từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu. Nữ cư sĩ bố thí, sống ở gia đình với tâm tư từ bỏ uế của xan tham, bố thí rộng rãi, với bàn tay cởi mở, vui thích từ bỏ, sẵn sàng đáp ứng các yêu cầu, vui thích chia xẻ các vật dụng bố thí. Thành tựu tám pháp này, nữ nhân sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với các chư Thiên ấy với thân khả ái.
Hãy thường yêu thương chồng
Luôn nỗ lực cố gắng
Người đem lại lạc thú
Chớ khinh thường người chồng
Chớ làm chồng không vui
Chớ làm chồng tức tối
Với những người ganh tị
Chồng cung kính những ai
Hãy đảnh lễ tất cả
Vì nàng người có trí
Hoạt động thật nhanh nhẹn
Giữa các người làm việc
Xử sự thật khả ái
Biết giữ tài sản chồng
Người vợ xử như vậy
Làm thỏa mãn ước vọng,
Ưa thích của người chồng,
Sẽ được sanh tại chỗ
Các chư Thiên khả ái.
47 (7) Visakha (2) – [(VII) (47) Visàkhà]
- On one occasion, the Blessed One was dwelling at Savatthi in Migaramata’s Mansion in the Eastern Park. Then Visakha Migaramata approached the Blessed One the Blessed One then said to her:
- “Visakha, possessing eight qualities, a woman, with the breakup of the body, after death, is reborn in companionship with the agreeable-bodied deities. What eight?”
[As in 8:46, including the verses.]
- Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvavatthì, tại Ðông viên, lâu đài mẹ của Migàrà. Rồi Visàkhà, mẹ của Migàrà đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Visàkhà, mẹ của Migàrà đang ngồi một bên:
- … (Thế Tôn thuyết như kinh số 46 và bài kệ, với những thay đổi cần thiết).
48 (8) Nakula – [(VIII) (48) Nakulamàtà]
- On one occasion the Blessed One was dwelling among the Bhaggas in Sumsumaragira in the deer park at Bhesakala Grove. Then the housewife Nakulamata approached the Blessed One the Blessed One then said to her:
- “Nakulamata, possessing eight qualities, a woman, with the breakup of the body, after death, is reborn in companionship with the agreeable-bodied deities. What eight?”
[As in 8:46, including the verses.]
- Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Bhagga, tại núi Summuràma, rừng Bhesakala, tại vườn Lộc Uyển. Rồi nữ dân chúng Nakulamàtà đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi Thế Tôn nói với nữ gia chủ Nakulamàtà đang ngồi một bên:
- … (Thế Tôn thuyết như kinh số 46 và bài kệ, với những thay đổi cần thiết).
49 (9) The Present World (1) – [(IX) (49) Ở Ðời Này (1)]
- On one occasion the Blessed One was dwelling at Savatthi in Migaramata’s Mansion in the Eastern Park. Then Visakha Migaramata approached the Blessed One …The Blessed One then said to her:
- “Visakha, possessing four qualities, a woman is heading for victory in the present world and her life in this world succeeds. What four?
- Here, a woman is capable at her work; she manages the domestic help; she behaves agreeably to her husband; and she safeguards his earnings. (1) “And how, Visakha, is a woman capable at her work?
- Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvavatthì, tại Ðông viên, lâu đài mẹ của Migàrà. Rồi Visàkhà, mẹ của Migàrà đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Visàkhà, mẹ của Migàrà đang ngồi một bên:
- – Này Visàkhà, đầy đủ bốn pháp, nữ nhân thành tựu sự chiến thắng ở đời này. Ðời này rơi vào tầm tay của nàng. Thế nào là bốn?
- Here, a woman is skillful and diligent in attending to her husband’s domestic chores, whether knitting or weaving; she possesses sound judgment about them in order to carry out and arrange them properly. It is in this way that a woman is
capable at her work. (2) “And how does a woman manage the domestic help?
- Here, a woman finds out what her husband’s domestic helpers – whether slaves, messengers, or workers – have done and left undone; she finds out the condition of those who are ill; and she distributes to each an appropriate portion of food. It is in this way that a woman manages the domestic help.
(3) “And how does a woman behave agreeably to her husband?
- Ở đây, này Visàkhà, nữ nhân có khả năng khéo làm các công việc, biết thâu nhiếp các người phục vụ, sở hành vừa ý chồng, biết giữ gìn tài sản cất chứa. Này Visàkhà, thế nào là nữ nhân có khả năng khéo làm các công việc?
- Ở đây, này Visàkhà, nữ nhân phàm có những công việc trong nhà, thuộc về len hay vải bông, ở đây, nữ nhân ấy thông thạo, không biếng nhác, tự tìm phương pháp làm, vừa đủ để tự mình làm, vừa đủ để sắp đặt người làm. Như vậy, này Visàkhà, là nữ nhân có khả năng khéo làm những công việc. Và này Visàkhà, thế nào là nữ nhân biết thâu nhiếp các người phục vụ?
- Here, a woman would not commit any misdeed that her husband would consider disagreeable, even at the cost of her life. It is in this way that a woman behaves agreeably to her husband. (4) “And how does a woman safeguard his earnings?
- Here, a woman guards and protects whatever income her husband brings home – whether money or grain, silver or gold – and she is not a spendthrift, thief, wastrel, or squanderer of his earnings. It is in this way that a woman safeguards his earnings.
- “Possessing these four qualities, a woman is heading for victory in the present world and her life in this world succeeds.
- “Possessing four [other] qualities, Visakha, a woman is heading for victory in the other world and her life in the other world succeeds. What four?
- Here, a woman is accomplished in faith, accomplished in virtuous behavior, accomplished in generosity, and accomplished in wisdom. (5) “And how, Visakha, is a woman accomplished in faith?
- Ở đây, này Visàkhà, trong nhà người chồng, phàm có nô tỳ nào, hay người đưa tin, hay người công thợ, nữ nhân biết công việc của họ với công việc đã làm, biết sự thiếu xót của họ với công việc không làm; biết sức mạnh hay sức không mạnh của những người đau bệnh; biết chia các đồ ăn, loại cứng và loại mềm, mỗi người tùy theo từng phần của mình. Như vậy, này Visàkhà, là nữ nhân biết thâu nhiếp những người phục vụ. Và này Visàkhà, thế nào là nữ nhân sở hành vừa ý chồng?
- Ở đây, này Visàkhà, nữ nhân, những gì người chồng không vừa ý, dầu cho có vì sanh mạng, nàng cũng không làm. Như vậy, này Visàkhà, là nữ nhân sở hành vừa ý chồng. Và này Visàkhà, thế nào là nữ nhân biết giữ gìn tài sản thâu hoạch được?
- Ở đây, này Visàkhà, Phàm có tiền bạc, lúa gạo, bạc và vàng người chồng đem về, nữ nhân ấy bảo vệ, phòng hộ chúng, giữ gìn để khỏi bọn ăn trộm, ăn cắp, kẻ uống rượu, kẻ phá hoại. Như vậy, là nữ nhân biết giữ gìn tài sản thâu hoạch được.
Thành tựu bốn pháp này, này Visàkhà, nữ nhân thành tựu với sự chiến thắng ở đời. Ðời nay rơi vào trong tầm tay của nàng.
- Này Visàkhà, đầy đủ bốn pháp, nữ nhân thành tựu sự chiến thắng ở đời sau. Ðời sau rơi vào tầm tay của nàng. Thế nào là bốn?
- Ở đây, này Visàkhà, nữ nhân đầy đủ lòng tin, đầy đủ giới đức, đầy đủ bố thí, đầy đủ trí tuệ. Và này Visàkhà, thế nào là nữ nhân đầy đủ lòng tin?
- Here, a woman is endowed with faith. She places faith in the enlightenment of the Tathagata thus: “The Blessed One is an arahant, perfectly enlightened, accomplished in true knowledge and conduct, fortunate, knower of the world, unsurpassed trainer of persons to be tamed, teacher of devas and humans,
the Enlightened One, the Blessed One.’ It is in this way that a woman is accomplished in faith. (6) “And how is a woman accomplished in virtuous behavior?
- Here, a woman abstains from the destruction of life … from liquor, wine, and intoxicants, the basis for heedlessness. It is in this way that a woman is accomplished in virtuous behavior. (7) “And how is a woman accomplished in generosity?
- Here, a woman dwells at home with a heart devoid of the stain of miserliness, freely generous, openhanded, delighting in relinquishment,
devoted to charity, delighting in giving and sharing. It is in this way that a woman is accomplished in generosity. (8) “And how is a woman accomplished in wisdom?
- Here, a woman is wise; she possesses the wisdom that discerns arising
and passing away, which is noble and penetrative and leads to the complete destruction of suffering. It is in this way that a woman is accomplished in wisdom.
- Ở đây, này Visàkhà, nữ nhân có lòng tin, tin tưởng ở sự giác ngộ của Như Lai: “Ðây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn “. Như vậy, này Visàkhà, là nữ nhân đầy đủ lòng tin. Và này Visàkhà, thế nào là nữ nhân đầy đủ giới đức?
- Ở đây, này Visàkhà, từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu. Như vậy, này Visàkhà, là nữ nhân đầy đủ giới đức. Và này Visàkhà, thế nào là nữ nhân đầy đủ bố thí?
- Ở đây, này Visàkhà, nữ nhân sống ở gia đình với tâm tư từ bỏ cấu uế của xan tham, bố thí rộng rãi, với bàn tay cởi mở, vui thích từ bỏ, sẵn sàng đáp ứng các yêu cầu, vui thích chia xẻ các vật dụng bố thí. Như vậy, này Visàkhà, là nữ nhân đầy đủ bố thí. Và này Visàkhà, thế nào là nữ nhân đầy đủ trí tuệ?
- Ở đây, này Visàkhà, nữ nhân có trí tuệ, thành tựu trí tuệ về sanh diệt, với Thánh thể nhập đưa đến chơn chánh đoạn diệt khổ đau. Như vậy, này Visàkhà, là nữ nhân đầy đủ trí tuệ.
“Possessing these four qualities, Visakha, a woman is heading for victory in the other world and her life in the other world succeeds.”
Capable in attending to her work,
managing the domestic help,
she treats her husband in agreeable ways
and safeguards the wealth he earns.
Rich in faith, possessed of virtue,
charitable and devoid of miserliness,
she constantly purifies the path
that leads to safety in the future life.
They call any woman
who has these eight qualities,
virtuous, firm in Dhamma,
a speaker of truth.
Accomplished in sixteen aspects,
complete in eight factors,
such a virtuous female lay follower
is reborn in an agreeable deva world.
Thành tựu bốn pháp này, này Visàkhà, nữ nhân thành tựu sự chiến thắng ở đời sau. Ðời sau rơi vào trong tầm tay của nàng.
Khéo làm các công việc
Thâu nhiếp người phục vụ
Sở hành vừa ý chồng
Giữ gìn của cất chứa
Ðầy đủ tín và giới
Bố thí, không xan tham
Rửa sạch đường thượng đạo
Ðến đời sau an lành
Như vậy là tám pháp
Nữ nhân có đầy đủ
Ðược gọi bậc có giới
Trú pháp, nói chân thật
Ðủ mười sáu hành tướng
Thành tựu tám chi phần
Nữ cư sĩ như vậy
Với giới hạnh đầy đủ
Sanh làm vị Thiên nữ
Với thân thật khả ái.
50 (10) The Present World (2) – [(X) (50) Ðời Này (2)]
- “Bhikkhus, possessing four qualities, a woman is heading for victory in the present world and her life in this world succeeds. What four?
[What follows is identical with 8:49, inclusive of the verses, but addressed to the bhikkhus.]
… (Thế Tôn nói lại kinh 49 và cả bài kệ cho các Tỷ-kheo).
The Second Fifty
- Gotami – [VI. Phẩm Gotamì]
51 (1) Gotami – [(I) (51) Mahàpajàpatì Gotamì]
- On one occasion, the Blessed One was dwelling among the Sakyans at Kapilavatthu in the Banyan Tree Park. Then Mahapajapati Gotami approached the Blessed One, paid homage to him, stood to one side, and said to him:
– “Bhante, it would be good if women could obtain the going forth from the household life into homelessness in the Dhamma and discipline proclaimed by the Tathagata.”
– “Enough, Gotami! Do not favor the going forth of women from the household life info homelessness in the Dhamma and discipline proclaimed by the Tathagata.”
2-3 . A second time … A third time Mahapajapati Gotami said to the Blessed One:
– “Bhante, it would be good if women could obtain the going forth from the household life into homelessness in the Dhamma and discipline proclaimed by the Tathagata.”
– “Enough, Gotami! Do not favor the going forth of women from the household life into homelessness in the Dhamma and discipline proclaimed by the Tathagata.”
Then Mahapajapati Gotami, thinking: “The Blessed One does not allow the going forth of women from the household life into homelessness, “miserable and saddened, wept with a tearful face. She then paid homage to the Blessed One, circumambulated him keeping the right side toward him, and departed.
- Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, khu vườn Nigrodha. Rồi Mahàpajàpatì Gotamì đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng một bên, Mahàpajàpatì Gotamì bạch Thế Tôn:
– Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu nữ nhân được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng.
– Thôi vừa rồi, này Gotamì, chớ có ưa thích nữ nhân được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng.
- Lần thứ hai, Mahàpajàpatì Gotamì bạch Thế Tôn:
– Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu nữ nhân được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng.
– Thôi vừa rồi, này Gotamì, chớ có ưa thích nữ nhân được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng.
- Lần thứ ba, Mahàpajàpatì Gotamì bạch Thế Tôn:
– Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu nữ nhân được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng.
– Thôi vừa rồi, này Gotamì, chớ có ưa thích nữ nhân được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng.
Rồi Mahàpajàpatì Gotamì biết được: “Thế Tôn không chấp nhận cho nữ nhân được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng”, liền khổ đau, sầu muộn, nước mắt đầy mặt, khóc than, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi ra đi.
- Having stayed in Kapilavatthu as long as he wanted, the Blessed One set out on tour toward Vesali. Wandering on tour, he eventually arrived at Vesali. Where, he dwelled in the hall with the peaked roof in the Great Wood.
Then Mahapajapati Gotami had her hair cut off, put on ochre robes, and together with a number of Sakyan women, set out toward Vesali. Eventually, she reached Vesali and [went to] the hall with the peaked roof in the Great Wood. Then, with her feet swollen and her body covered with dust, miserable and saddened, weeping with a tearful face, she stood outside the entrance. The Venerable Ananda saw her standing there in such a condition and said to her:
– “Gotami, why are you standing outside the entrance with your feet swollen and your body covered with dust, miserable and saddened, weeping with a tearful face?”
– “I do so, Bhante Ananda, because the Blessed One does not allow the going forth of women from the household life into homelessness.”
– “Well then, Gotami, you wait right here [a moment] while I ask the Blessed One to grant women the going forth.”
- Rồi Thế Tôn, sau khi ở Kapilavatthu cho đến khi vừa ý, rồi ra đi đến Vesàli, tiếp tục bộ hành rồi đến Vesàli.
Ở đấy, Thế Tôn ở Vesàli, tại Ðại Lâm, ở ngôi nhà có nóc nhọn. Rồi Mahàpajàpatì Gotamì, với tóc cạo sạch, đắp áp cà-sa, cùng với nhiều nữ nhân Sàkya ra đi đến Vesàli, tiếp tục bộ hành và đến Vesàli, tại Ðại Lâm, ở ngôi nhà có nóc nhọn. Rồi Mahàpajàpatì Gotamì, với chân bị sưng, tay chân lấm bụi khổ đau, sầu muộn, nước mắt đầy mặt, khóc than, đứng ngoài cửa chính. Tôn giả Ananda thấy Mahàpajàpatì Gotamì với chân bị sưng, tay chân lấm bụi khổ đau, sầu muộn, nước mắt đầy mặt, khóc than, đứng ngoài cửa chính, thấy vậy liền nói với Mahàpajàpatì Gotamì:
– Thưa Gotamì, vì sao lại đứng ở cửa với chân bị sưng, tay chân lấm bụi khổ đau, sầu muộn, nước mắt đầy mặt, khóc than như vậy?
– Thưa Tôn giả Ananda, vì rằng Thế Tôn không chấp nhận cho nữ nhân xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật do Như Lai tuyên thuyết.
– Vậy thưa Gotamì, hãy đứng chờ ở đây, chờ cho đến khi tôi xin phép Thế Tôn; để nữ nhân được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng.
- Then the Venerable Ananda approached the Blessed One, paid homage to him, sat down to one side, and said to him:
– “Bhante, Mahapajapatl Gotami is standing outside the entrance with her feet swollen and her body covered with dust, miserable and saddened, weeping with a tearful face, because the Blessed One does not allow the going forth of women. Bhante, it would be good if women could obtain the going forth from the household life into homelessness in the Dhamma and discipline
proclaimed by the Tathagata.”
– “Enough, Ananda! Do not favor the going forth of women from the household life into homelessness in the Dhamma and discipline proclaimed by the Tathagata.”
A second time … A third time the Venerable Ananda said to the Blessed One:
– “Bhante, it would be good if women could obtain the going forth from the household life into homelessness in the Dhamma and discipline proclaimed by the Tathagata.”
– “Enough, Ananda! Do not favor the going forth of women from the household life into homelessness in the Dhamma and discipline proclaimed by the Tathagata.”
- Rồi Tôn giả Ananda đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, có Mahàpajàpatì Gotamì với chân bị sưng, tay chân lấm bụi khổ đau, sầu muộn, nước mắt đầy mặt, khóc than đứng ở ngoài cửa nói rằng: “Thế Tôn cho phép nhận cho nữ nhân xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng”. Lành thay! Bạch Thế Tôn, nếu nữ nhân được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng.
– Thôi vừa rồi, này Ananda, chớ có ưa thích nữ nhân được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật do Thế Tôn thuyết giảng.
Lần thứ hai … Lần thứ ba, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
– Lành thay! Bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn cho phép nữ nhân được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật do Thế Tôn thuyết giảng.
– Thôi vừa rồi, này Gotamì, chớ có ưa thích nữ nhân được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật do Thế Tôn thuyết giảng.
- Then it occurred to the Venerable Ananda. “The Blessed One does not allow the going forth of women from the household life into homelessness. Let me ask the Blessed One for the going forth of women in some other way.”
Then the Venerable Ananda said to the Blessed One:
– “Bhante, if a woman were to go forth from the household life into homelessness in the Dhamma and discipline proclaimed by the Tathagata, would it be possible for her to realize the fruit of stream-entry, the fruit of once-returning, the fruit of non-returning, and the fruit of arahantship?”
– “It would be, Ananda.
– “If, Bhante, it would be possible for a woman to realize the fruit of stream-entry, the fruit of once-returning, the fruit of non-returning, and the fruit of arahantship, [and considering that] Mahapajapatl GotamI had been very helpful to the Blessed One – having been his maternal aunt, wet-nurse, and foster
mothier who nurtured him with breast milk when his mother died – it would be good if women could obtain the going forth from the household life into homelessness in the Dhamma and discipline proclaimed by the Tathagata.”
- Rồi Tôn giả suy nghĩ như sau: “Thế Tôn không chấp nhận cho nữ nhân được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng. Vậy ta hãy dùng phương pháp khác để xin Thế Tôn cho phép nữ nhân được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình “.
Rồi Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, không biết nữ nhân sau khi xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng, có thể chứng được Dự lưu quả, Nhất lai quả, Bất lai quả hay A-la-hán quả không?
– Này Ananda, sau khi xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng, nữ nhân có thể chứng được Dự lưu quả, Nhất lai quả, Bất lai quả hay A-la-hán quả.
– Bạch Thế Tôn, sau khi xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng, nữ nhân có thể chứng được Dự lưu quả, Nhất lai quả, Bất lai quả hay A-la-hán quả. Lại nữa, bạch Thế Tôn, Mahàpajàpatì đã giúp đỡ Thế Tôn rất nhiều trong vai người dì, người vú, người kế mẫu, khi mẹ của Thế Tôn mệnh chung, lại cho Thế Tôn bú sữa. Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu nữ nhân được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng.
- “If, Ananda, Mahapajapatl Gotami accepts eight principles of respect, let that itself be her full ordination: (1) “A bhikkhuni who has been ordained for a hundred years should pay homage to a bhikkhu who has been ordained that
same day, should rise up for him, reverentially salute him, and behave courteously toward him. This principle should be honored, respected, esteemed, and venerated, and should not be transgressed as long as life lasts.
(2) “A bhikkhuni should not enter upon the rains in a place where there are no bhikkhus. This principle, too, should be honored, respected, esteemed, and venerated, and should not be transgressed as long as life lasts. (3) “Every half-month a bhikkhuni should ask the Sangha of bhikkhus about two things: about [the day] of the uposatha, and about coming for the exhortation. This principle,
too, should be honored, respected, esteemed, and venerated, and should not be transgressed as long as life lasts. (4) “When a bhikkhuni has observed the rains, she should invite correction before both Sanghas in regard to three things:
in regard to anything seen, heard, or suspected. This principle, too, should be honored, respected, esteemed, and venerated, and should not be transgressed as long as life lasts. (5) “A bhikkhuni who has committed a grave offense should
observe a half-month’s penalty period before both Sanghas. This principle, too, should be honored, respected, esteemed, and venerated, and should not be transgressed as long as life lasts. (6) “A probationer who has completed two years of training in the six principles should seek full ordination from both
Sanghas. This principle, too, should be honored, respected, esteemed, and venerated, and should not be transgressed as long as life lasts. (7) “A bhikkhuni must in no way insult or revile a bhikkhu. This principle, too, should be honored, respected, esteemed, and venerated, and should not be transgressed as long as life lasts. (8) “From today on, Ananda, bhikkhunis are prohibited from admonishing bhikkhus, but bhikkhus are not prohibited from admonishing bhikkhunis. This principle, too, should be honored, respected, esteemed, and venerated, and should not be transgressed as long as life lasts. “If, Ananda, Mahapajapati Gotaml accepts these eight principles of respect, let thait itself be her full ordination.”
- – Này Ananda, nếu Mahàpajàpatì Gotamì chấp nhận tám kính pháp, thời Gotamì có thể được thọ cụ túc giới: Dầu cho thọ đại giới một trăm năm, một Tỷ-kheo-ni đối với một Tỷ-kheo mới thọ đại giới trong một ngày cũng phải đảnh lễ, đứng dậy, chắp tay, xử sự đúng pháp. Pháp này sau khi cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, cho đến trọn đời không được vượt qua. Tỷ-kheo-ni không có thể an cư mùa mưa tại chỗ không có Tỷ-kheo. Pháp này sau khi cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, cho đến trọn đời không được vượt qua. Nửa tháng một lần, Tỷ-kheo-ni cần phải thỉnh chúng Tỷ-kheo hỏi ngày trai giới và đến để thuyết giới. Pháp này, sau khi cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, cho đến trọn đời không được vượt qua. Sau khi an cư mùa mưa xong, Tỷ-kheo-ni cần phải làm lễ Tự tứ trước hai Tăng chúng về ba vấn đề được thấy, được nghe và nghi. Pháp này, sau khi cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, cho đến trọn đời không được vượt qua. Tỷ-kheo-ni phạm trọng tội phải hành pháp pakkhamànattam (man-na-đọa) cho đến nửa tháng. Pháp này, sau khi cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, cho đến trọn đời không được vượt qua. Sau khi học tập sáu pháp trong hai năm, phải đến xin thọ cụ túc giới trước hai Tăng chúng. Pháp này, sau khi cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, cho đến trọn đời không được vượt qua. Không vì duyên cớ gì, một Tỷ-kheo-ni có thể mắng nhiếc, chỉ trích một Tỷ-kheo. Pháp này, sau khi cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, cho đến trọn đời không được vượt qua. Này Ananda, bắt đầu từ hôm nay, có sự giáo giới phê bình giữa các Tỷ-kheo về Tỷ-kheo-ni, không có sự giáo giới phê bình giữa các Tỷ-kheo-ni về các Tỷ-kheo. Pháp này, sau khi cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, cho đến trọn đời không được vượt qua. Này Ananda, nếu Mahàpajàpatì Gotamì chấp nhận tám kính pháp này, thời cho phép Mahàpajàpatì Gotamì được thọ cụ túc giới.
- Then the Venerable Ananda, having learned these eight principles of respect from the Blessed One, went to Mahapajapati Gotaml and said to her:
– “If, Gotami, you accept eight principles of respect, that itself will be your full ordination: (1) “A bhikkhuni who has been ordained for a hundred years should pay homage to a bhikkhu who has been ordained that same day, should rise up for him, reverentially salute him, and behave properly toward him. This principle should be honored, respected, esteemed, and venerated, and should not be transgressed as long as life lasts … (8) “From today bhikkhunis are prohibited from admonishing bhikkhus, but bhikkhus are not prohibited from admonishing bhikkhunis. This principle, too, should be honored, respected, esteemed, and venerated, and should not be transgressed as long as life lasts.
“If, Gotaml, you accept these eight principles of respect, that itself will be your full ordination.”
– “Bhante Ananda, if a woman or a man – young, youthful, and fond of ornaments, with head bathed – obtains a garland of blue lotuses, jasmine flowers, or lilies, she or he would accept it with both hands and place it on top of her or his head. In the same way, I accept these eight principles of respect as not to be transgressed as long as life lasts.”
- Rồi Tôn giả Ananda, sau khi học từ Thế Tôn tám trọng pháp này, rồi đi đến Mahàpajàpatì Gotamì, sau khi đến, nói với Mahàpajàpatì Gotamì:
– Nếu Mahàpajàpatì Gotamì chấp nhận tám kính pháp này, thời Gotamì sẽ được thọ cụ túc giới: “Dầu cho thọ đại giới một trăm năm, một Tỷ-kheo-ni … không có sự giáo giới phê bình giữa các Tỷ-kheo-ni về các Tỷ-kheo. Pháp này, sau khi cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, cho đến trọn đời không được vượt qua”. Nếu Gotamì chấp nhận tám trọng pháp này, thời Gotamì sẽ được thọ cụ túc giới.
– Thưa Tôn giả Ananda, ví như một người đàn bà hay một người đàn ông, còn đang tuổi trẻ, tánh ưa trang sức, sau khi gội đầu xong, sau khi được một vòng hoa sen xanh hay một vòng vũ quý hoa, hay một vòng thiên tư hoa (hay cự thắng hoa) dùng hai tay cầm lấy vòng hoa ấy và đặt lên đỉnh đầu. Cũng vậy, thưa Tôn giả, tôi xin chấp nhận tám kính pháp này, cho đến trọn đời không có vượt qua.
- Then the Venerable Ananda approached the Blessed One, paid homage to him, sat down to one side, and said:
– “Bhante, Mahapajapati Gotami has accepted the eight principles of respect as things not to be transgressed as long as life lasts.”
– “If, Ananda, women had not obtained the going forth from the household life into homelessness in the Dhamma and discipline proclaimed by the Tathagata, the spiritual life would have been of long duration; the good Dhamma would have stood firm even for a thousand years. However, Ananda, because women
have gone forth from the household life into homelessness in the Dhamma and discipline proclaimed by the Tathagata, now the spiritual life will not be of long duration; the good Dhamma will last only five hundred years. “Just as, A nanda, prowling burglars easily assail those families that have many women and few men, so in whatever Dhamma and discipline women obtain the going forth from
the household life into homelessness, that spiritual life does not last long.
“Just as, A nanda, when a field of hill rice has ripened, if the bleaching disease attacks it, that field of hill rice does not last long, so in whatever Dhamma and discipline women obtain the going forth from the household life into homelessness, that spiritual life does not last long. “Just as, Ananda, when a field of sugar cane has ripened, if the rusting disease attacks it, that field of sugar cane does not last long, so in whatever Dhamma and discipline women obtain the going forth from the household life into homelessness, that
spiritual life does riot last long. “Just as, Ananda, a man might build a dyke around a large reservoir as a precaution so that the water would not overflow,
so too, as a precaution I have prescribed for bhikkhunis the eight principles of respect as things not to be transgressed as long as life lasts.”
- Rồi Tôn giả Ananda đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, Mahàpajàpatì Gotamì đã chấp nhận tám kính pháp này, cho đến trọn đời không có vượt qua.
– Này Ananda, nếu nữ nhân không được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng, thời này Ananda, Phạm hạnh được an trú lâu dài, và diệu pháp được tồn tại đến một ngàn năm. Vì rằng, này Ananda, nữ nhân được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật này, nay này Ananda, Phạm hạnh sẽ không được an trú lâu dài, thời này Ananda, diệu pháp được tồn tại năm trăm năm. Ví như, này Ananda, những gia đình nào có nhiều phụ nữ, ít đàn ông, thời những gia đình ấy rất dễ bị các đạo tặc, trộm cắp não hại. Cũng vậy, này Ananda, nữ nhân được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật này, nên Phạm hạnh sẽ không được an trú lâu dài. Ví như, này Ananda, khi nào một chứng bệnh được tên là “trắng như xương” rơi vào một ruộng lúa đã chín, thời ruộng lúa ấy không có an trú lâu dài. Cũng vậy, này Ananda, khi nào nữ nhân được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật này, thời Phạm hạnh này không có an trú lâu dài. Ví như, này Ananda, khi nào một chứng bệnh được tên là “đỏ sét” rơi vào một ruộng mía đã chín, thời ruộng mía ấy không có an trú lâu dài. Cũng vậy, này Ananda, khi nào nữ nhân được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật này, thời Phạm hạnh này không được an trú lâu dài. Ví như, này Ananda, một người vì nghĩ đến tương lai xây dựng bờ đê cho một hồ nước lớn để nước không thể chảy qua, cũng vậy, này Ananda, vì nghĩ đến tương lai, Ta mới ban hành kính tám pháp này, cho các Tỷ-kheo-ni cho đến trọn đời không vượt qua.
52 (2) Exhortation – [(II) (52) Ai Giáo Giới?]
- On one occasion the Blessed One was dwelling at Vesali in the hall with the peaked roof in the Great Wood. Then the Venerable Ananda approached the Blessed One, paid homage to him, sat down to one side, and said to him:
– “Bhante, how many qualities should a bhikkhu possess to be agreed upon as an exhorter of bhikkhunis?”
– “Ananda, a bhikkhu should possess eight qualities to be agreed upon as an exhorter of bhikkhunls. What eight?
- Một thời, Thế Tôn trú ở Vesàli, tại Ðại Lâm, ở ngôi nhà có nóc nhọn. Rồi Tôn giả Ananda đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
– Thành tựu bao nhiêu pháp, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo nên được chấp nhận là vị giáo giới cho các Tỷ-kheo-ni?
– Này Ananda, thành tựu tám pháp, Tỷ-kheo nên được chấp nhận là vị giáo giới cho các Tỷ-kheo-ni. Thế nào là tám?
- (1) “Here, Ananda, a bhikkhu is virtuous … [as in 8:2 § 4] … Having undertaken the training rules, he trains in them. (2) “He has learned much … [as in 8:2 § 5] … and penetrated well by view. (3) “Both Patimokkhas have been well transmitted to him in detail, well analyzed, well mastered, well determined in terms of the rules and their detailed explication. (4) “He is a good speaker with a good delivery; he is gifted with speech that is polished, clear, articulate, expressive of the meaning. (5) “He is capable of instructing, encouraging, inspiring, and gladdening the Sangha of bhikkhurus with a Dhamma talk. (6) “He is pleasing and agreeable to most of the bhikkhunis. (7) “He has never before committed a grave offense against a woman wearing the ochre robe who has gone forth under the Blessed One. (8) “He has seniority of twenty years or more.
“A bhikkhu should possess these eight qualities to be agreed upon as an exhorter of bhikkhunis.”
- Ở đây, này Ananda, Tỷ-kheo có giới đức, sống được chế ngự với sự chế ngự của giới bổn, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong những lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học tập trong các pháp. Vị ấy nghe nhiều, thọ trì điều đã được nghe, chất chứa điều đã được nghe; những pháp ấy, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, nghĩa lý văn cú cụ túc, đề cao đời sống Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh; những pháp ấy, vị ấy đã được nghe nhiều, đã nắm giữ, đã ghi nhớ tụng đọc nhiều lần, chuyên ý quan sát, khéo thể nhập chánh kiến. Ðối với vị ấy, hai giới bổn Pàtimokkha được khéo trao truyền lại một cách rộng rãi, khéo phân tích, khéo thông hiểu, khéo quyết định thành sutta (ngôn ngữ) và thành âm vận. Vị ấy có một giọng nói dễ nghe, phát âm tốt, lời nói tao nhã, phát ngôn không bập bẹ, giải thích nghĩa lý minh xác. Vị ấy có khả năng thuyết giảng pháp thoại cho chúng Tỷ-kheo-ni, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, được phần lớn các Tỷ-kheo-ni ái mộ, thích ý. Trước khi y chỉ Thế Tôn, xuất gia, đắp áo cà-sa, vị ấy không có phạm trọng tội nào, được hai mươi tuổi an cư hay hơn hai mươi tuổi an cư.
Thành tựu tám pháp này, này Ananda, vị Tỷ-kheo được chấp nhận là vị giáo giới cho các Tỷ-kheo-ni.
53 (3) Brief – [(III) (53) Pháp Tóm Tắt] – page 1193
- On one occasion the Blessed One was dwelling at Vesali in the hall with the peaked roof in the Great Wood. Then Mahapajapati Gotami approached the Blessed One, paid homage to him, stood to one side, and said to him:
– “Bhante, it would be good if the Blessed One would teach me the Dhamma in brief, so that, having heard the Dhamma from the Blessed One, I might dwell
alone, withdrawn, heedful, ardent, and resolute.”
- Một thời, Thế Tôn trú ở Vesàli, tại Mahàvana, ở ngôi nhà có nóc nhọn. Rồi Mahàpajàpatì Gotamì đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng một bên, Mahàpajàpatì Gotamì bạch Thế Tôn:
– Lành thay, bạch Thế Tôn! Thế Tôn hãy thuyết pháp vắn tắt cho con, sau khi Thế Tôn thuyết pháp, con sẽ sống một mình, an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
- “Gotami, those things of which you might know: ‘These things lead (1) to passion, not to dispassion; (2) to bondage, not to detachment; (3) to building up, not to dismantling; (4) to strong desires, not to fewness of desires; (5) to non-contentment, not to contentment; (6) to company, not to solitude; (7) to laziness, not to the arousing of energy; (8) to being difficult to support, not to being easy to support, you should definitely recognize: ‘This is not the Dhamma; this is not the discipline; this is not the teaching of the Teacher.’
- – Này Gotamì, những pháp nào bà biết: “Những pháp này đưa đến tham dục, không phải ly tham; đưa đến hệ phước, không đưa đến ly hệ phước; đưa đến tích tập, không đưa đến không tích tập; đưa đến dục lớn, không đưa đến ít dục; đưa đến không biết đủ, không đưa đến biết đủ; đưa đến tụ hội, không đưa đến nhàn tịnh; đưa đến biếng nhác, không đưa đến tinh tấn; đưa đến khó nuôi dưỡng, không đưa đến dễ nuôi dưỡng”. Này Gotamì, hãy thọ trì nhứt hướng rằng: “Ðó là không phải Pháp, đó là không phải Luật, đó là không phải lời dạy của bậc Ðạo sư”.
- But, Gotami, those things of which you might know: ‘These things lead (1) to dispassion, not to passion; (2) to detachment, not to bondage; (3) to dismantling, not to building up; (4) to fewness of desires, not to strong desires;
(5) to contentment, not to non-contentment; (6) to solitude, not to company; (7) to the arousing of energy, not to laziness; (8) to being easy to support, not to being difficult to support,’ you should definitely recognize: ‘This is the Dhamma; this is the discipline; this is the teaching of the Teacher.'”
- Và này Gotamì, những pháp nào bà biết: “Những pháp đưa đến ly tham, không đưa đến tham dục; đưa đến ly hệ phước, không đưa đến hệ phước; đưa đến không tích tập, không đưa đến tích tập; đưa đến ít dục, không đưa đến dục lớn; đưa đến biết đủ, không đưa đến không biết đủ; đưa đến nhàn tịnh, không đưa đến tụ hội; đưa đến tinh tấn, không đưa đến biếng nhác; đưa đến dễ nuôi dưỡng, không đưa đến khó nuôi dưỡng”. Này Gotamì, hãy thọ trì nhứt hướng rằng: “Ðó là Pháp, đó là Luật, đó là lời dạy của bậc Ðạo sư”.
54 (4) Dighajanu – [(IV) (54) Dìghajanu, Người Koliya]
- On one occasion, the Blessed One was dwelling among the Koliyans
near the Koliyan town named Kakkarapatta. There the young Koliyan Dighajanu approached the Blessed One, paid homage to him, sat down to one side, and said to him:
– “Bhante, we are laymen enjoying sensual pleasures, living at home in a house full of children. We use sandalwood from Kasi; we wear garlands, scents, and unguents; we receive gold and silver. Let the Blessed One teach us the Dhamma in a way that will lead to our welfare and happiness in this present life
and in future lives.”
- Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Koliya, tại một thị trấn của dân chúng Koliya tên là Kakkarapatta. Rồi Koliya tử Dìghajànu (đầu gối dài) đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Koliya tử Dìghajànu bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, chúng con là những người gia chủ thọ hưởng những dục vọng, sống hệ phược với vợ con, dùng các hương chiên-đàn ở Kàsi đeo, và dùng các vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, thọ lãnh vàng và bạc; bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết pháp cho những người như chúng con, thuyết như thế nào để những pháp ấy đem đến cho chúng con hạnh phúc an lạc ngay trong hiện tại, và hạnh phúc an lạc trong tương lai.
- “There are, Byagghapajja, these four things that lead to the welfare and happiness of a clansman in this present life. What four?
- Accomplishment in initiative, accomplishment in protection, good friendship, and balanced living. (1) “And what is accomplishment in initiative?
- – Này Byagghapajja (chân cọp), có các pháp này đưa đến hạnh phúc hiện tại, an lạc hiện tại cho thiện nam tử. Thế nào là bốn?
- Ðầy đủ sự tháo vát, đầy đủ phòng hộ, làm bạn với thiện, sống thăng bằng điều hòa. Này Byagghapajja, thế nào là đầy đủ sự tháo vát?
- Here, whatever may be the means by which a clansman earns his living – whether by farming, trade, raising cattle, archery, government service, or some other craft – he is skillful and diligent; he possesses sound judgment about it in order to carry out and arrange it properly. This is called accomplishment in initiative. (2) “And what is accomplishment in protection?
- Ở đây, này Byagghapajja, thiện nam tử làm nghề gì để sống, hoặc nghề nông, hoặc đi buôn, hoặc nuôi bò, hoặc làm người bắn cung, hoặc làm việc cho vua, hoặc bất cứ nghề gì, trong các nghề ấy, người ấy thiện xảo, không biết mệt, biết suy tư hiểu phương tiện vừa đủ để tự làm và điều khiển người khác làm; này Byagghapajja, đây gọi là đầy đủ sự tháo vát. Và này Byagghapajja, thế nào là đầy đủ phòng hộ?
- Here, a clansman sets up protection and guard over the wealth he has acquired by initiative and energy, amassed by the strength of his arms, earned by the sweat of his brow, righteous wealth righteously gained, thinking: ‘How cah I prevent kings and thieves from taking it, fire from burning it, floods from sweeping it off, and displeasing heirs from taking it?’ This is called accomplishment in protection. (3) “And what is good friendship?
- Ở đây, này Byagghapajja, những tài sản của thiện nam tử do tháo vát tinh tấn thâu hoạch được, do sức mạnh bàn tay cất chứa được, do mồ hôi đổ ra đúng pháp, thâu hoạch được đúng pháp, vị ấy giữ gìn chúng, phòng hộ và bảo vệ: “Làm thế nào các tài sản này của ta không bị vua mang đi, không bị trộm cướp mang đi, không bị lửa đốt, không bị nước cuốn trôi, không bị các người con thừa tự không khả ái cướp đoạt”. Này Byagghapajja, đây gọi là đầy đủ sự phòng hộ. Và này Byagghapajja, thế nào là làm bạn với thiện?
- Here, in whatever village or town a clansman lives, he associates with householders or their sons – whether young but of mature virtue, or old
and of mature virtue – who are accomplished in faith, virtuous behavior, generosity, and wisdom; he converses with them and engages in discussions with them. Insofar as they are accomplished in faith, he emulates them with respect to their accomplishment in faith; insofar as they are accomplished in virtuous behavior, he emulates them with respect to their accomplishment
in virtuous behavior; insofar as they are accomplished in generosity, he emulates them with respect to their accomplishment in generosity; insofar as they are accomplished in wisdom, he emulates them with respect to their accomplishment in wisdom. This is called good friendship. (4) “And what is balanced living?
- Ở đây, này Byagghapajja, thiện nam tử sống tại làng hay tại thị trấn. Tại đấy có gia chủ hay con người gia chủ, những trẻ được nuôi lớn trong giới đức, hay những người lớn tuổi được lớn lên trong giới đức, đầy đủ lòng tin, đầy đủ giới đức, đầy đủ bố thí, đầy đủ trí tuệ, vị ấy làm quen, nói chuyện, thảo luận. Với những người đầy đủ lòng tin, vị ấy học tập với đầy đủ lòng tin. Với những người đầy đủ giới đức, vị ấy học tập với đầy đủ giới đức. Với những người đầy đủ bố thí, vị ấy học tập với đầy đủ bố thí. Với những người đầy đủ trí tuệ, vị ấy học tập với đầy đủ trí tuệ. Này Byagghapajja, đây gọi là làm bạn với thiện. Và này Byagghapajja, thế nào là sống thăng bằng, điều hòa?
- Here, a clansman knows his income and expenditures and leads a balanced life, neither too extravagant nor too frugal, [aware]: In this way my income
will exceed my expenditures rather than the reverse.’ Just as
an appraiser or his apprentice, holding up a scale, knows: ‘By so much it has dipped down, by so much it has gone up, so a clansman knows his income and expenditures and leads a balanced life, neither too extravagant nor too frugal, [aware]: ‘In this way my income will exceed my expenditures rather
than the reverse.’ “If this clansman has a small income but lives luxuriously,
others would say of him: ‘This clansman eats his wealth just like an eater of figs.’ But if he has a large income but lives sparingly, others would say of him: ‘This clansman may even starve himself.’ But it is called balanced living when a clansman knows his income and expenditures and leads a balanced life, neither too extravagant nor too frugal, [aware]: ‘In this way my income will exceed my expenditures rather than the reverse.’
- Ở đây, này Byagghapajja, thiện nam tử sau khi biết tài sản nhập, và sau khi biết tài sản xuất, sinh sống một cách điều hòa, không quá phung phí, không quá bỏn xẻn. Vị ấy suy nghĩ: “Ðây là tiền nhập của ta, sau khi trừ đi tiền xuất, còn lại như vậy; không phải đây là tiền xuất của ta, sau khi trừ đi tiền nhập, còn lại như vậy”. Ví như, này Byagghapajja, người cầm cân hay đệ tử người cầm cân, sau khi cầm cân biết rằng: “Với chừng ấy, cân nặng xuống, hay với chừng ấy, cân bổng lên”. Cũng vậy, này Byagghapajja, thiện nam tử sau khi biết tài sản nhập, và sau khi biết tài sản xuất, sinh sống một cách điều hòa, không quá phung phí, không quá bỏn xẻn. Vị ấy suy nghĩ: “Ðây là tiền nhập của ta, sau khi trừ đi tiền xuất, còn lại như vậy; không phải đây là tiền xuất của ta, sau khi trừ đi tiền nhập, còn lại như vậy”. Này Byagghapajja, nếu thiện nam tử này tiền nhập vào ít, nhưng sống nếp sống rộng rãi, hoang phí, thời người ta nói về người ấy như sau: “Người thiện nam tử này ăn tài sản của vị ấy như ăn trái cây sung”. Này Byagghapajja, nếu người thiện nam tử này có tiền nhập lớn, nhưng sống nếp sống cơ cực, thời người ta sẽ nói về vị ấy như sau: “Người thiện nam tử này sẽ chết như người chết đói”. Khi nào, này Byagghapajja, thiện nam tử này, sau khi biết tài sản nhập, và sau khi biết tài sản xuất, sống nếp sống thăng bằng đìều hoà, không quá phung phí, không quá bỏn xẻn. Vị ấy suy nghĩ: “Ðây là tiền nhập của ta, sau khi trừ đi tiền xuất, còn lại như vậy; không phải đây là tiền xuất của ta, sau khi trừ đi tiền nhập, còn lại như vậy”. Này Byagghapajja, đây gọi là nếp sống thăng bằng điều hòa.
- “The wealth thus amassed has four sources of dissipation: womanizing, drunkenness, gambling, and bad friendship, bad companionship, bad comradeship. Just as if there were a large reservoir with four inlets and four outlets, and a man would close the inlets and open the outlets, and sufficient rain does not fall, one could expect the water in the reservoir to decrease
rather than increase; so, the wealth thus amassed has four sources of dissipation: womanizing … bad comradeship.
- Như vậy, này Byagghapajja, có bốn cửa xuất để tiêu phí tài sản thâu nhập: “Ðam mê đàn bà, đam mê rượu chè, đam mê cờ bạc; bạn bè kẻ ác, thân hữu kẻ ác, giao du kẻ ác”. Ví như, này Byagghapajja, một hồ nước lớn, có bốn cửa nước chảy vào, có bốn cửa nước chảy ra, có người đóng lại các cửa nước chảy vào, mở ra các cửa nước chảy ra, trời lại không mưa đúng lúc, như vậy, này Byagghapajja, chờ đợi là hồ nước ấy bị giảm thiểu, không có tăng trưởng. Cũng vậy, này Byagghapajja, có bốn cửa xuất để tiêu phí tài sản được thâu nhập: “: “Ðam mê đàn bà, đam mê rượu chè, đam mê cờ bạc; bạn bè kẻ ác, thân hữu kẻ ác, giao du kẻ ác”.
9.”The wealth thus amassed has four sources of accretion: one avoids womanizing, drunkenness, and gambling, and cultivates good friendship, good companionship, good comradeship. Just as if there were a large reservoir with four inlets and four outlets, and a man would open the inlets and close the outlets, and sufficient rain falls; one could expect the water in the reservoir to increase rather than decrease, so the wealth amassed has four sources of accretion: one avoids womanizing … and cultivates good friendship.
“These are the four things that lead to the welfare and happiness of a clansman in this very life.
- Như vậy, Này Byagghapajja, có bốn cửa vào để tài sản được hưng khởi: “: “Không say đắm đàn bà, không say đắm rượu chè, không say đắm cờ bạc; bạn bè với thiện, thân hữu với thiện, giao du với thiện”. Ví như, này Byagghapajja, một hồ nước lớn, có bốn cửa nước chảy vào, có bốn cửa nước chảy ra, có người đóng lại các cửa nước chảy ra, mở ra các cửa nước chảy vào, và trời lại mưa đúng lúc, như vậy, này Byagghapajja, chờ đợi là hồ nước ấy tăng trưởng, không có giảm thiểu. Cũng vậy, này Byagghapajja, có bốn cửa vào để tài sản được hưng khởi: “Không say đắm đàn bà, không say đắm rượu chè, không say đắm cờ bạc; bạn bè với thiện, thân hữu với thiện, giao du với thiện”.
Bốn pháp này, này Byagghapajja, đưa đến hạnh phúc hiện tại, an lạc hiện tại cho các thiện nam tử.
- “There are, Byagghapajja, these four [other] things that lead to a clansman’s welfare and happiness in future lives. What four?
- Accomplishment in faith, accomplishment in virtuous behavior, accomplishment in generosity, and accomplishment in wisdom. (5) “And what is accomplishment in faith?
- Có bốn pháp này, này Byagghapajja, đưa đến hạnh phúc tương lai, an lạc tương lai cho thiện nam tử. Thế nào là bốn?
- Ðầy đủ lòng tin, đầy đủ giới đức, đầy đủ bố thí, đầy đủ trí tuệ. Và này Byagghapajja, thế nào là đầy đủ lòng tin?
- Here, a clansman is endowed with faith. He places faith in the enlightenment of the Tathagata thus: ‘The Blessed One is an arahant … teacher
of devas and humans, the Enlightened One, the Blessed One.’ This is called accomplishment in faith. (6) “And what is accomplishment in virtuous behavior?
- Here, a clansman abstains from the destruction of life, from taking what is not given, from sexual misconduct, from false speech, and from liquor, wine, and intoxicants, the basis for heedlessness. This is called accomplishment in virtuous behavior. (7) “And what is accomplishment, in generosity?
- Ở đây, này Byagghapajja, thiện nam tử có lòng in, tin tưởng ở sự giác ngộ của Như Lai: “Ðây là Thế Tôn … bậc Thiên Nhân sư, Phật, Thế Tôn “. Này Byagghapajja, đây gọi là đầy đủ lòng in. Và này Byagghapajja, thế nào là đầy đủ giới đức?
- Ở đây, này Byagghapajja, thiện nam tử từ bỏ sát sanh … từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu. Này Byagghapajja, đây gọi là đầy đủ giới đức. Và này Byagghapajja, thế nào là đầy đủ bố thí?
- Here, a clansman dwells at home with a heart devoid of the stain of
miserliness, freely generous, openhanded, delighting in relinquishment, one devoted to charity, delighting in giving and sharing. This is called accomplishment in generosity. (8) “And what is accomplishment in wisdom?
- Here, a clansman is wise; he possesses the wisdom that discerns arising
and passing away, which is noble and penetrative and leads to the complete destruction of suffering. This is called accomplishment in wisdom.
- Ở đây, này Byagghapajja, thiện nam tử sống ở gia đình, với tâm không bị cấu uế, xan tham chi phối, bố thí rộng rãi, với bàn tay mở rộng, vui thích từ bỏ, sẵn sàng để được yêu cầu, vui thích chia xẻ vật bố thí. Này Byagghapajja, đây gọi là đầy đủ bố thí. Và này Byagghapajja, thế nào là đầy đủ trí tuệ?
- Ở đây, này Byagghapajja, thiện nam tử có trí tuệ, thành tựu trí tuệ về sanh diệt, với thánh thể nhập (quyết trạch), chơn chánh chấm dứt khổ đau. Này Byagghapajja, đây gọi là đầy đủ trí tuệ.
“These are the four [other] things that lead to the welfare and happiness of a clansman in future lives.”
Enterprising in his occupations,
heedful in his arrangements,
balanced in his way of living,
he safeguards the wealth he earns.
Endowed with faith, accomplished in virtue,
charitable and devoid of miserliness,
he constantly purifies the path
that leads to safety in future lives.
Thus, these eight qualities
of the faithful seeker of the household life
are said by the one who is truly named
to lead to happiness in both states:
to good and welfare in this very life,
and to happiness in future lives.
Thus, for those dwelling at home,
their generosity and merit increase.
Tháo vát trong công việc
Không phóng dật, nhanh nhẹn
Sống đời sống thăng bằng
Giữ tài sản thâu được
Có tin, đầy đủ giới
Bố thí, không xan tham
Rửa sạch đường thượng đạo
An toàn trong tương lai
Ðây chính là tám pháp
Bậc tín chủ tìm cầu
Bậc chân thật tuyên bố
Ðưa đến lạc hai đời
Hạnh phúc cho hiện tại
Và an lạc tương lai
Ðây trú xứ gia chủ
Bố thí, tăng công đức.
55 (5) Ujjaya – [(V) (55) Bà-La-Môn Ujjaya]
- Then the brahmin Ujjaya approached the Blessed One and exchanged greetings with him. When they had concluded their greetings and cordial talk, he sat down to one side and said to the Blessed One:
– “Master Gotama, I wish to go abroad. Let Master Gotama teach me the Dhamma about things that would lead to my welfare and happiness in this present life and in future lives.”
- [What follows is identical with 8:54, inclusive of the four verses, but addressed to the brahmin.]
- Rồi Bà-la-môn Ujjaya đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu liền ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Ujjaya bạch Thế Tôn:
– Chúng con muốn đi nước ngoài, Tôn giả Gotama hãy thuyết pháp cho những người như chúng con, thuyết pháp như thế nào để những pháp ấy đem lại cho chúng con hạnh phúc hiện tại, an lạc hiện tại, hạnh phúc tương lai, an lạc tương lai.
- … (như bài kinh 54 kể cả bài kệ, với những thay đổi cần thiết ) .
56 (6) Peril – [(VI) (56) Sợ Hãi]
- “Bhikkhus, (1) ‘peril’ is a designation for sensual pleasures. (2) ‘Suffering’ is a designation for sensual pleasures. (3) ‘Disease’ is a designation for sensual pleasures. (4) ‘A boil’ is a designation for sensual pleasures. (5) ‘A dart’ is a designation for sensual pleasures. (6) ‘A tie’ is a designation for sensual pleasures. (7) ‘A swamp’ is a designation for sensual pleasures. (8) ‘A womb’
is a designation for sensual pleasures.
1.- Sợ hãi, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với các dục. Ðau khổ, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với các dục. Bệnh tật, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với các dục. Cục bướu, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với các dục. Mũi tên, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với các dục. Trói buộc, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với các dục. Bùn, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với các dục. Thai tạng, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với các dục.
- “And why, bhikkhus, is ‘peril’ a designation for sensual pleasures?
One excited by sensual lust, bound by desire and lust, is not freed from the peril pertaining to this present life or from the peril pertaining to future lives; therefore ‘peril’ is a designation for sensual pleasures.
- Như thế nào, này các Tỷ-kheo, sợ hãi là đồng nghĩa với các dục?
Vì rằng, những ai bị dục ái nhiễm, những ai bị dục tham trói buộc, không được giải thoát khỏi sợ hãi hiện tại, không được giải thoát khỏi sợ hãi trong tương lai; do vậy, sợ hãi là đồng nghĩa với các dục.
- “And why is ‘suffering’ … ‘disease’ … ‘a boil ‘ … ‘a dart’ … ‘a tie’ … ‘a swamp’ … ‘a womb’ a designation for sensual pleasures?
One excited by sensual lust, bound by desire and lust, is not freed from the womb pertaining to this present life or from the womb pertaining to future lives; therefore ‘a womb’ is a designation for sensual pleasures.”
Peril, suffering, and disease,
a boil, a dart, and a tie,
a swamp and a womb:
these describe the sensual pleasures
to which the worldling is attached.
Being immersed in what is enjoyable,
he again goes to the womb.
But when a bhikkhu is ardent
and does not neglect clear comprehension,
in such a way he transcends
this miserable bog;
he surveys this trembling population
that has fallen into birth and old age.
- Vì rằng, này các Tỷ-kheo, khổ … bệnh … cục bướu … mũi tên … trói buộc … bùn … Như thế nào thai tạng là đồng nghĩa với các dục?
Vì rằng, những ai bị dục ái nhiễm, những ai bị dục tham trói buộc, không được giải thoát khỏi sợ hãi hiện tại, không được giải thoát khỏi sợ hãi trong tương lai; do vậy, sợ hãi là đồng nghĩa với các dục.
Sợ hãi, khổ và bệnh
Cục bướu và mũi tên
Trói buộc và bùn lầy
Cả hai cùng thai tạng
Chúng được gọi tình dục
Chỗ phàm phu ái nhiễm
Chìm đắm trong sắc đẹp
Chúng lại vào thai tạng
Khi Tỷ-kheo nhiệt tình
Không thả lỏng tỉnh giác
Vượt đường hiểm nạn này
Con đường khó vượt qua
Vị ấy nhìn chúng sanh
Ðang sống trong sợ hãi
Vì bị sanh và già
Ám ảnh và chinh phục.
57 (7) Worthy of Offerings (1) – [(VII) (57) Xứng Ðáng Ðược Cúng Dường (1)]
- “Bhikkhus, possessing eight qualities, a bhikkhu is worthy of gifts, worthy of hospitality, worthy of offerings, wrorthy of reverential salutation, an unsurpassed field of merit for the world. What eight?
1.- Thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được chắp tay, là ruộng phước vô thượng ở đời. Thế nào là tám?
- (1) “Here, a bhikkhu is virtuous … Having undertaken the training rules, he trains in them. (2) “He has learned much … and penetrated well by view. (3) ”He has good friends, good companions, good comrades. (4) “He is one of right view possessing a right perspective. (5) “He gains at will, without trouble or difficulty, the four jhanas that constitute the higher mind and are dwellings in happiness in this very life. (6) “He recollects his manifold past abodes, that is, one birth,
two births … [as in 8:11] … thus he recollects his manifold past abodes with their aspects and details. (7) “With the divine eye, which is purified and surpasses the human … [as in 8:11] … he understands how beings fare in
accordance with their kamma. (8) “With the destruction of the taints, he has realized for himself with direct knowledge, in this very life, the taintless
liberation of mind, liberation by wisdom, and having entered upon it, he dwells in it.
“Possessing these eight qualities, a bhikkhu is worthy of gifts, worthy of hospitality, worthy of offerings, worthy of reverential salutation, an unsurpassed field of merit for the world.”
- Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo giữ giới … chấp nhận và học tập trong các học pháp; nghe nhiều, khéo thể nhập trong chánh tri kiến; làm bạn với thiện, thân hữu với thiện, giao du với thiện; có chánh tri kiến, thành tựu chánh kiến; chứng được bốn Thiền thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, chứng được không khó khăn, chứng được không mệt nhọc, chứng được không phí sức; nhớ được nhiều đời trước, như một đời, hai đời … nhớ được nhiều đời trước với các tướng trạng với các chi tiết; với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân … rõ biết các chúng sanh, tùy theo hạnh nghiệp của chúng; do đoạn diệt các lậu hoặc … chứng ngộ, chứng đạt và an trú.
Thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đáng được cung kính … là ruộng phước vô thượng ở đời.
58 (8) Worthy of Offerings (2) – [(VIII) (58) Xứng Ðáng Ðược Cúng Dường (2)]
- “Bhikkhus, possessing eight qualities, a bhikkhu is worthy of gifts, worthy of hospitality, worthy of offerings, worthy of reverential salutation, an unsurpassed field of merit for the world. What eight?
1.- Thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được chắp tay, là ruộng phước vô thượng ở đời. Thế nào là tám?
- (1) “Here, a bhikkhu is virtuous … Having undertaken the training rules, he trains in them. (2) “He has learned much … and penetrated well by view. (3) “He has aroused energy; he is strong, firm in exertion, and has not cast off the duty of cultivating wholesome qualities. (4) “He is a forest dweller, one who resorts to remote lodgings. (5) ”He has vanquished discontent and delight; he overcame
discontent whenever it arose. (6) “He has vanquished fear and terror; he overcame fear and terror whenever they arose. (7) “He gains at will, without trouble or difficulty, the four jhanas that constitute the higher mind and are dwellings in happiness in this very life. (8) “With the destruction of the taints, he has realized for himself with direct knowledge, in this very life, the taintless
liberation of mind, liberation by wisdom, and having entered upon it, he dwells in it.
“Possessing these eight qualities, a bhikkhu is worthy of gifts, worthy of hospitality, worthy of offerings, worthy of reverential salutation, an unsurpassed field of merit for the world.”
- Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo giữ giới … chấp nhận và học tập trong các học pháp; nghe nhiều, khéo thể nhập trong chánh tri kiến; sống tinh cần tinh tấn, nỗ lực kiên trì, không bỏ rơi gánh nặng trong các thiện pháp; sống tại rừng núi, tại các trú xứ xa vắng, chịu đựng lạc và bất lạc, luôn luôn nhiếp phục bất lạc nổi lên; chịu đựng sợ hãi và khiếp đảm, luôn luôn nhiếp phục sợ hãi và khiếp đảm nổi lên; chứng được bốn Thiền thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, chứng được không khó khăn, chứng được không mệt nhọc, chứng được không phí sức; do đoạn diệt các lậu hoặc … chứng ngộ, chứng đạt và an trú.
Thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đáng được cung kính … là ruộng phước vô thượng ở đời.
59 (9) Eight Persons (1) – [(IX) (59) Tám Hạng Người (1)]
- “Bhikkhus; these eight persons are worthy of gifts, worthy of hospitality, worthy of offerings, worthy of reverential salutation, an unsurpassed field of merit for the world. What eight?
- – Có tám hạng người này, này các Tỷ-kheo, đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được chắp tay, là ruộng phước vô thượng ở đời. Thế nào là tám?
- The stream-enterer, the one practicing for realization of the fruit of stream-entry; the once-returner, the one practicing for realization of the fruit of once-returning; the non-returner, the one practicing for realization of the fruit of non-returning; the arahant, the one practicing for realization of the fruit of arahantship.
These eight persons, bhikkhus, are worthy of gifts, worthy of hospitality, worthy of offerings, worthy of reverential salutation, an unsurpassed field of merit for the world.”
The four practicing the way
and the four established in the fruit:
this is the upright Sahgha
composed in wisdom and virtuous behavior.
For people intent on sacrifice,
for living beings seeking merit,
making merit that ripens in the acquisitions,
what is given to the Sahgha bears great fruit.
- Bậc Dự lưu, bậc đã hướng đến sự chứng ngộ quả Dự lưu; Bậc Nhất lai, bậc đã hướng đến sự chứng ngộ quả Nhất lai; Bậc Bất lai, bậc đã hướng đến sự chứng ngộ quả bất lai; Bậc A-la-hán, bậc đã hướng đến sự chứng ngộ quả A-la-hán.
Tám hạng người này, này các Tỷ-kheo, đáng được cung kính … là ruộng phước vô thượng ở đời.
Bốn vị đã trú quả
Tăng chúng này chánh trực
Trí tuệ, giới, Thiền định
Loài Người cúng thí vật
Chúng sanh cầu phước đức
Làm công đức tái sanh
Tăng chúng tăng quả lớn.
60 (10) Eight Persons (2) – [(X) (60) Tám Hạng Người (2)]
- “Bhikkhus, these eight persons are worthy of gifts. . . an unsurpassed
field of merit for the world. What eight?
- The stream-enterer, the one practicing for realization of the fruit of stream-entry … the arahant, the one practicing for realization of the fruit of arahantship. These eight persons, bhikkhus, are worthy of gifts … an unsurpassed field of merit for the world.”
The four practicing the way
and the four established in the fruit:
the eight persons among beings
this is the foremost Sahgha.
For people intent on sacrifice,
for living beings seeking merit,
making merit that ripens in the acquisitions,
what is given here bears great fruit.
1-2. … (giống như đoạn 1, 2 của kinh trên, chỉ có bài kệ hơi khác) …
Bốn vị đã hướng đến
Bốn vị đã trú quả
Tăng chúng này tối thắng
Tám người giữa chúng sanh
Loài Người cúng thí vật
Chúng sanh cầu phước đức
Làm công đức tái sanh
Tăng chúng tăng quả lớn.
Sources:
Tài liệu tham khảo:
- http://www.budsas.org/uni/u-kinh-tangchibo/tangchi08-0406.htm
- http://lirs.ru/lib/sutra/The_Numerical_Discourses_of_the_Buddha,Anguttara_Nikaya,Bodhi,2012.pdf
- https://theravada.vn/tang-chi-bo-chuong-viii-tam-phap-iv-pham-bo-thi-pham-4-6/