05b. Kinh Tăng Chi Bộ – Chương Năm Pháp – The Book of the Fives – Phẩm 07 – 12 – Song ngữ

The Numerical Discourses of the Buddha

Kinh Tăng Chi Bộ (Anguttara Nikàya)

Anh ngữ: Bhikkhu Bodhi.

Việt ngữ: Hòa thượng Thích Minh Châu.

Compile: Lotus group

The Book of the Fives – Phẩm 07 – 12 – page 693 – 740 of 1925.

VII. Perceptions – [VII. Phẩm Tưởng]

 

61 (1) Perceptions (1) – [(I) (61) Các Tưởng (1)]

 

  1. “Bhikkhus, these five perceptions, when developed and cultivated, are of great fruit and benefit, culminating in the deathless, having the deathless as their consummation. What five?
  2. The perception of unattractiveness, the perception of death, the perception of danger, the perception of the repulsiveness of food, and the perception of non-delight in the entire world.

These five perceptions, when developed and cultivated, are of great fruit and benefit, culminating in the deathless, having the deathless as their consummation.”

  1. – Có năm tưởng này, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến quả lớn, lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, đưa đến cứu cánh bất tử. Thế nào là năm?
  2. Tưởng bất tịnh, tưởng chết, tưởng nguy hại, tưởng ghê tởm các món ăn, tưởng không có hân hoan đối với tất cả thế giới.

Năm tưởng này, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến quả lớn, lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, đưa đến cứu cánh bất tử.

 

62 (2) Perceptions (2) – [(II) (62) Các Tưởng (2)]

 

  1. “Bhikkhus, these five, perceptions, when developed and cultivated, are of great fruit and benefit, culminating in the deathless, having the deathless as their consummation. What five?
  2. The perception of impermanence, the perception of non-self, the perception of death, the perception of the repulsiveness of food, and the perception of non-delight in the entire world.

These five perceptions, when developed and cultivated, are of great fruit and benefit, culminating in the deathless, having the deathless as their consummation.”

  1. – Có năm tưởng này, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến quả lớn lợi ích, thể nhập vào bất tử, đưa đến cứu cánh bất tử. Thế nào là năm?
  2. Tưởng vô thường, tưởng vô ngã, tưởng chết, tưởng ghê tởm các món ăn, tưởng không có hân hoan đối với tất cả thế giới.

Những pháp này là năm tưởng, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến quả lớn, lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, đưa đến cứu cánh bất tử.

 

63 (3) Growth (1) – [(III) (63) Tăng Trưởng (1)]

 

  1. “Bhikkhus, growing in five ways, a male noble disciple grows by a noble growth, and he absorbs the essence and the best of this life. What five?
  2. He grows in faith, virtuous behavior, learning, generosity, and wisdom. Growing in these five ways, a male noble disciple grows by a noble growth, and he absorbs the essence and the best of this life.”

 

He who grows in faith and virtuous behavior,

in wisdom, generosity, and learning—

such a discerning superior man

absorbs for himself the essence of this life.

  1. – Này các Tỷ-kheo, tăng trưởng với năm tăng trưởng, vị Thánh đệ tử tăng trưởng, với Thánh tăng trưởng đem lại kiên cố, đem lại thù thắng cho tự thân. Thế nào là năm?
  2. Tăng trưởng với lòng tin, tăng trưởng với giới, tăng trưởng với học hỏi, tăng trưởng với bố thí, tăng trưởng với trí tuệ.

Tăng trưởng với năm tăng trưởng này, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử tăng trưởng với Thánh tăng trưởng, đem lại kiên cố, đem lại thù thắng cho tự thân.

Tăng trưởng với tín, giới,
Với tuệ, thí, nghe nhiều,
Vị Chân nhân quán sát,
Tự thân được kiên cố.

 

64 (4) Growth (2) – [(IV) (64) Tăng Trưởng (2)]

 

  1. “Bhikkhus, growing in five ways, a female noble disciple grows by a noble growth, and she absorbs the essence and the best of this life. What five?
  2. She grows in faith, virtuous behavior, learning, generosity, and wisdom. Growing in these five ways, a female noble disciple grows by a noble growth, and she absorbs the essence and the best of this life.”

 

She who grows in faith and virtuous behavior,

in wisdom, generosity, and learning-—

such a virtuous female lay follower

absorbs for herself the essence of this life.

  1. – Này các Tỷ-kheo, tăng trưởng với năm tăng trưởng, vị nữ Thánh đệ tử tăng trưởng với Thánh tăng trưởng, đem lại kiên cố, đem lại thù thắng cho tự thân. Thế nào là năm?
  2. Tăng trưởng với lòng tin, tăng trưởng với giới, tăng trưởng với học hỏi, tăng trưởng với bố thí, tăng trưởng với trí tuệ.

Tăng trưởng với năm tăng trưởng này, này các Tỷ-kheo, vị nữ Thánh đệ tử tăng trưởng với Thánh tăng trưởng, đem lại kiên cố, đem lại thù thắng cho tự thân.

Tăng trưởng với tín, giới,
Với tuệ, thí, nghe nhiều,
Vị trì giới như vậy,
Vị nữ Thánh đệ tử,
Tự thân được kiên cố,
Ngay liền trong đời này

 

65 (5) Discussion – [(V) (65) Nói Chuyện]

 

  1. “Bhikkhus, when a bhikkhu possesses five qualities, it is fitting for his fellow monks to hold a discussion with him. What five?
  2. (1) Here, a bhikkhu is himself accomplished in virtuous behavior, and he answers questions that come up in a discussion on accomplishment in virtuous behavior. (2) He is himself accomplished in concentration, and he answers questions that come up in a discussion on accomplishment in concentration. (3) He is himself accomplished in wisdom, and he answers questions that come up in a discussion on accomplishment in wisdom. (4) He is himself accomplished in liberation, and he answers questions that come up in a discussion on accomplishment in liberation. (5) He is himself accomplished in the knowledge and vision of liberation, and he answers questions that come up in a discussion on accomplishment in the knowledge and vision of liberation.

When a bhikkhu possesses these five qualities, it is fitting for his fellow monks to hold a discussion with him.”

  1. – Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đủ khả năng nói chuyện với các vị đồng Phạm hạnh. Thế nào là năm?
  2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo tự mình đầy đủ giới, trả lời câu hỏi đề cập đến từ câu chuyện về giới cụ túc, tự mình đầy đủ định, trả lời câu hỏi được đề cập đến từ câu chuyện về định cụ túc; tự mình đầy đủ tuệ, trả lời câu hỏi được đề cập đến từ câu chuyện về tuệ; tự mình đầy đủ giải thoát, trả lời câu hỏi được đề cập đến từ câu chuyện về giải thoát; tự mình đầy đủ giải thoát tri kiến, trả lời câu hỏi được đề cập đến từ câu chuyện về giải thoát tri kiến.

Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đủ khả năng nói chuyện với các vị đồng Phạm hạnh.

 

66 (6) Way of Life – [(VI) (66) Ðời Sống]

 

  1. “Bhikkhus, when a bhikkhu possesses five qualities, it is fitting for his fellow monks to live together with him. What five?

(1) Here, a bhikkhu is himself accomplished in virtuous behavior, and he answers questions posed during a discussion on accomplishment in virtuous behavior. (2) He is himself accomplished in concentration, and he answers questions posed during a discussion on accomplishment in concentration. (3) He is himself accomplished in wisdom, and he answers questions posed during a discussion on accomplishment in wisdom. (4) He is himself accomplished in liberation, and he answers questions posed during a discussion on accomplishment in liberation. (5) He is himself accomplished in the knowledge and vision of liberation, and he answers questions posed during a discussion

on accomplishment in the knowledge and vision of liberation.

When a bhikkhu possesses these five qualities, it is fitting for his fellow monks to live together with him.”

  1. – Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo với đời sống (của mình) làm gương cho các vị đồng Phạm hạnh. Thế nào là năm?
  2. Ở đây, Tỷ-kheo tự mình đầy đủ giới, trả lời câu hỏi được nói đến từ câu chuyện về giới cụ túc … (như trên) … từ câu chuyện về giải thoát tri kiến.

Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đủ khả năng, với đời sống của mình, làm gương cho các vị đồng Phạm hạnh.

 

67 (7) Bases for Psychic Potency (1) – [(VII) (67) Thần Thông (1)]

 

  1. “Bhikkhus, when any bhikkhu or bhikkhuni develops and cultivates five things, one of two fruits is to be expected: either final knowledge in this very life or, if there is a residue remaining, the state of non-returning. What five?
  2. “(1) Here, a bhikkhu develops the basis for psychic potency that possesses concentration due to desire and activities of striving. (2) He develops the basis for psychic potency that possesses concentration due to energy and activities of striving. (3) He develops the basis for psychic potency that possesses concentration due to mind and activities of striving. (4) He develops the basis for psychic potency that possesses concentration due to investigation and activities of striving. (5) Enthusiasm itself is the fifth.

“When, bhikkhus, any bhikkhu or bhikkhuni develops and cultivates these five things, one of two fruits is to be expected: either final knowledge in this very life or, if there is a residue remaining, the state of non-returning.”

  1. – Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào, này các Tỷ-kheo, tu tập năm pháp, làm cho sung mãn năm pháp, được chờ đợi là vị ấy được một trong hai quả, ngay trong hiện tại được chánh trí, hay nếu có dư y, chứng được Bất lai. Thế nào là năm?
  2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập thần túc câu hữu với dục định tinh cần hành, tu tập thần túc câu hữu với tinh tấn định tinh cần hành, tu tập thần túc câu hữu với tâm định tinh cần hành, tu tập thần túc câu hữu với tư duy định tinh cần hành, và thứ năm là tăng thượng tinh tấn.

Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào, này các Tỷ-kheo, tu tập năm pháp, làm cho sung mãn năm pháp, được chờ đợi là vị ấy được một trong hai quả: ngay trong hiện tại được chánh trí, hay nếu có dư ý, chứng được Bất lai.

 

68 (8) Bases for Psychic Potency (2) – [(VIII) (68) Thần Thông (2)]

 

  1. “Bhikkhus, before my enlightenment, while I was just a bodhisattva, not yet fully enlightened, I developed and cultivated five things. What five?
  2. “(1) I developed the basis for psychic potency that possesses concentration due to desire and activities of striving. (2) I developed the basis for psychic potency that possesses concentration due to energy and activities of striving. (3) I developed the basis for psychic potency that possesses concentration due to mind and activities of striving. (4) I developed the basis for psychic potency that possesses concentration due to investigation and activities of striving. (5) Enthusiasm itself was the fifth. “Because I had developed and cultivated these things with enthusiasm as the fifth, there being a suitable basis, I was capable

of realizing any state realizable by direct knowledge toward which I inclined my mind. “If I wished: ‘May I wield the various kinds of psychic potency: having been one, may I become many … [as in 5:23] … may I exercise mastery with the body as far as the brahma world,’ I was capable of realizing it, there being a suitable basis … [as in 5:23] … “If I wished: ‘May I, with the destruction of the taints, in this very life realize for myself with direct knowledge the taintless liberation of mind, liberation by wisdom, and having entered upon it, may I dwell in it,’ I was capable of realizing it, there being a suitable basis.”

  1. – Trước khi Ta giác ngộ, này các Tỷ-kheo, khi Ta chưa Chánh đẳng Chánh giác, còn là Bồ-tát, Ta đã tu tập năm pháp, làm cho sung mãn năm pháp. Thế nào là năm?
  2. Ta đã tu tập thần túc câu hữu với dục định tinh cần hành, đã tu tập thần túc câu hữu với tinh tấn định tinh cần hành, đã tu tập thần túc câu hữu với tâm định tinh cần hành, đã tu tập thần túc câu hữu với tư duy định tinh cần hành, và thứ năm là tăng thượng tinh tấn. Này các Tỷ-kheo, do Ta tu tập và làm cho sung mãn các pháp với tăng thượng tinh tấn là thứ năm, tùy theo Ta hướng tâm đến pháp nào cần được chứng ngộ với thắng trí, để có thể chứng ngộ với thắng trí, Ta có thể đạt đến pháp ấy, dầu thuộc hành xứ nào. Nếu Ta muốn, Ta có thể chứng được nhiều loại thần thông, tự thân có thể đạt được phạm thiên giới. Ở đây Ta có thể đạt đến pháp ấy, dầu thuộc hành xứ nào. Nếu Ta muốn… do đoạn tận các lậu hoặc ngay trong hiện tại với thắng trí, Ta tự mình chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, tại đấy, Ta có thể đạt đến pháp ấy, dầu thuộc hành xứ nào.

 

69 (9) Disenchantment – [(IX) (69) Nhàm Chán (1)]

 

  1. “Bhikkhus, these five things, when developed and cultivated, lead exclusively to disenchantment, to dispassion, to cessation, to peace, to direct knowledge, to enlightenment, to nibbana. What five?
  2. Here, a bhikkhu dwells contemplating the unattractiveness of the body, perceiving the repulsiveness of food, perceiving non-delight in the entire world, contemplating impermanence in all conditioned phenomena; and he has the

perception of death well established internally.

These five things, when developed and cultivated, lead exclusively to disenchantment, to dispassion, to cessation, to peace, to direct knowledge, to enlightenment, to nibbana.”

  1. – Có năm pháp này, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Thế nào là năm?
  2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo trú quán bất tịnh trên thân, với tưởng ghê tởm với các món ăn, với tưởng không hoan hỉ đối với tất cả thế giới, quán vô thường đối với tất cả hành, và tưởng về chết, nội tâm khéo an trú.

Này các Tỷ-kheo, năm pháp này được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

 

70 (10) Destruction of the Taints – [(X) (70) Nhàm Chán (2)]

 

  1. “Bhikkhus, these five things, when developed and cultivated, lead to the destruction of the taints. What five?
  2. Here, a bhikkhu dwells contemplating the unattractiveness of the body, perceiving the repulsiveness of food, perceiving non-delight in the entire world, contemplating impermanence in all conditioned phenomena; and he has the perception of death well established internally.

These five things, when developed and cultivated, lead to the destruction of the taints.”

  1. – Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến đoạn diệt các lậu hoặc. Thế nào là năm?
  2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo trú quán bất tịnh trên thân, với tưởng ghê tởm đối với các món ăn, với tưởng không hoan hỷ đối với tất cả thế giới, quán vô thường đối với tất cả hành, với tưởng về chết, nội tâm khéo an trú.

Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến đoạn diệt các lậu hoặc.

 

VIII. Future Perils – [VIII. Phẩm Chiến Sĩ]

 

71 (1) Liberation of Mind (1) – [(I) (71) Tâm Giải Thoát Quả (1)]

 

  1. “Bhikkhus, these five things, when developed and cultivated, have liberation of mind as their fruit, liberation of mind as their fruit and benefit; they have liberation by wisdom as their fruit, liberation by wisdom as their fruit and benefit. What five?
  2. Here, a bhikkhu dwells contemplating the unattractiveness of the body, perceiving the repulsiveness of food, perceiving non-delight in the entire world, contemplating impermanence in all conditioned phenomena; and he has the perception of death well established internally.

These five things, when developed and cultivated, have liberation of mind as their fruit, liberation of mind as their fruit and benefit; they have liberation by

wisdom as their fruit, liberation by wisdom as their fruit and benefit.

  1. “When a bhikkhu is liberated in mind and liberated by wisdom, he is called a bhikkhu who has removed the crossbar, filled in the moat, pulled out the pillar, a boltless one, a noble one with banner lowered, with burden dropped, detached.

“And how has a bhikkhu removed the crossbar?

  1. – Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến tâm giải thoát quả, tâm giải thoát lợi ích, tuệ giải thoát quả và tuệ giải thoát lợi ích. Thế nào là năm?
  2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trú tùy quán bất tịnh trên thân, với tưởng ghê tởm trong các món ăn, với tưởng không hoan hỷ đối với tất cả thế giới, tùy quán vô thường đối với tất cả hành, với tưởng về chết, vị ấy nội tâm khéo an trú.

Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến tâm giải thoát quả, tâm giải thoát lợi ích, tuệ giải thoát quả và tuệ giải thoát lợi ích.

  1. Này các Tỷ-kheo, khi nào Tỷ-kheo có tâm giải thoát và có tuệ giải thoát, này các Tỷ-kheo, vị ấy được gọi là Tỷ-kheo đã cất đi các vật chướng ngại, đã lấp các thông hào, đã nhổ lên cột trụ, đã mở tung các ổ khóa, là bậc Thánh đã hạ cây cờ xuống, đã đặt gánh nặng xuống, không có gì hệ lụy.

Và thế nào là Tỷ-kheo đã cất đi các chướng ngại?

 

  1. Here, a bhikkhu has abandoned ignorance, cut it off at the root, made it

like a palm stump, obliterated it so that it is no more subject to future arising. It is in this way that a bhikkhu has removed the crossbar.

“And how has a bhikkhu filled in the moat?

  1. Here, a bhikkhu has abandoned the wandering on in birth that brings renewed existence; he has cut it off at the root, made it like a palm stump,

obliterated it so that it is no more subject to future arising. It is in this way that a bhikkhu has filled in the moat.

“And how has a bhikkhu pulled out the pillar?

  1. Here, a bhikkhu has abandoned craving, cut it off at the root, made it

like a palm stump, obliterated it so that it is no more subject to future arising. It is in this way that a bhikkhu has pulled out the pillar.

“And how is a bhikkhu a boltless one?

  1. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đã đoạn trừ vô minh, đã cắt đứt tận gốc rễ, làm cho như thân cây tàla, làm cho không thể hiện hữu, không thể sinh khởi trong tương lai. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo đã cất đi các vật chướng ngại.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo đã lấp các thông hào?

  1. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo đã đoạn trừ tái sanh và sự luân chuyển sanh tử, đã cắt đứt tận gốc rễ, làm cho như thân cây tàla, làm cho không thể hiện hữu, không thể tái sanh trong tương lai. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo đã lấp các thông hào.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là vị Tỷ-kheo đã nhổ lên cột trụ?

  1. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đã đoạn trừ tham ái, đã cắt đứt tận gốc rễ, đã làm cho như thân cây tàla, đã làm cho không thể hiện hữu, không thể sanh khởi trong tương lai. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo đã nhổ lên cột trụ.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là vị Tỷ-kheo đã mở tung các ổ khóa?

 

  1. Here, a bhikkhu has

abandoned the five lower fetters, cut them off at the root, made

them like a palm stump, obliterated them so that they are no

more subject to future arising. It is in this way that a bhikkhu

is a boltless one.

“And how is a bhikkhu a noble one with banner lowered, with burden dropped, detached?

  1. Here, a bhikkhu has abandoned the conceit “I am,’ cut it off at the root, made it like a palm stump, obliterated it so that it is no more subject to future arising.

It is in this way that a bhikkhu is a noble one with banner lowered, with burden dropped, detached.”

  1. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đã đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, đã cắt đứt tận gốc rễ, đã làm cho như thân cây tàla, đã làm cho không thể hiện hữu, không thể tái sanh trong tương lai. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo đã mở tung các ổ khóa.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào gọi Tỷ-kheo là bậc Thánh đã hạ cây cờ xuống, đã đặt gánh nặng xuống, không có gì hệ lụy?

  1. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đã đoạn trừ ngã mạn, đã cắt đứt tận gốc rễ, đã làm cho như thân cây tàla, đã làm cho không thể hiện hữu, không thể sanh khởi trong tương lai. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi Tỷ-kheo là bậc Thánh đã hạ cây cờ xuống, đã đặt gánh nặng xuống, không còn gì hệ lụy.

 

72 (2) Liberation of Mind (2) – [(II) (72) Tâm Giải Thoát Quả (2)]

 

  1. “Bhikkhus, these five things, when developed and cultivated, have liberation of mind as their fruit, liberation of mind as their fruit and benefit; they have liberation by wisdom as their fruit, liberation by wisdom as their fruit and benefit. What five?
  2. The perception of impermanence, the perception of suffering in the impermanent, the perception of non-self in what is suffering, the perception of abandoning, the perception of dispassion.

These five things, when developed and cultivated, have liberation of mind as their fruit, liberation of mind as their fruit and benefit; they haye liberation by wisdom as their fruit, liberation by wisdom as their fruit and benefit.

  1. “When a bhikkhu is liberated in mind and liberated by wisdom, he is called a bhikkhu who has removed the crossbar, filled in the moat, pulled out the pillar, a boltless one, a noble one with banner lowered, with burden dropped, detached.

“And how is a bhikkhu one who has removed the crossbar?

4-8. … [all as in 5:71, down:] [86] … It is in this way that a bhikkhu is a noble one with banner lowered, with burden dropped, detached.”

  1. – Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến tâm giải thoát quả, tâm giải thoát lợi ích, tuệ giải thoát quả và tuệ giải thoát lợi ích. Thế nào là năm?
  2. Tưởng vô thường, tưởng khổ trong vô thường, tưởng vô ngã trong khổ, tưởng đoạn tận, tưởng ly tham.

Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến tâm giải thoát quả, tâm giải thoát lợi ích, tuệ giải thoát quả và tuệ giải thoát lợi ích.

  1. Khi nào vị Tỷ-kheo, này các Tỷ-kheo, có tâm giải thoát và tuệ giải thoát, này các Tỷ-kheo vị ấy được gọi là Tỷ-kheo đã cất đi các vật chướng ngại, đã lấp các thông hào, đã nhổ lên cột trụ, đã mở tung các ổ khóa, là bậc Thánh đã hạ cây cờ xuống, đã đặt gánh nặng xuống, không có gì hệ lụy.

Và thế nào là Tỷ-kheo đã cất đi các vật chướng ngại?

  1. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đã đoạn trừ vô minh, đã cắt đứt tận gốc rễ, đã làm cho như thân cây tàla, đã làm cho không thể hiện hữu, không thể tái sanh trong tương lai. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo đã cất đi các vật chướng ngại.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo đã lấp các thông hào?

  1. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo đã đoạn trừ tái sanh và sự luân chuyển sanh tử, đã cắt đứt tận gốc rễ, đã làm cho như thân cây tàla, đã làm cho không thể hiện hữu, không thể sanh khởi trong tương lai. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo dã lấp các thông hào.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo đã nhổ lên cột trụ?

  1. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo đã đoạn trừ tham ái, đã cắt đứt tận gốc rễ, đã làm cho như thân cây tàla, làm cho không thể hiện hữu, không thể sanh khởi trong tương lai. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo đã nhổ lên cột trụ.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo đã mở tung các ổ khóa?

  1. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đã đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, đã cắt đứt tận gốc rễ, đã làm cho như thân cây tàla, đã làm cho không thể hiện hữu, không thể sanh khởi trong tương lai. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo đã mở tung các ổ khóa.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào gọi Tỷ-kheo là bậc Thánh đã hạ cây cờ xuống, đã đặt gánh nặng xuống, không có gì hệ lụy?

  1. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đã đoạn trừ ngã mạn, đã cắt đứt tận gốc rễ, đã làm cho như thân cây tàla, đã làm cho không thể hiện hữu, không thể sanh khởi trong tương lai. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo bậc Thánh đã hạ cây cờ xuống, đã đặt gánh nặng xuống, không có gì hệ lụy.

 

73 (3) One Who’ Dwells in the Dhamma (1) – [(III) (73) Sống Theo Pháp (1)]

 

  1. Then a certain bhikkhu approached the Blessed One, paid homage to him, sat down to one side, and said:

– “It is said, Bhante, ‘one who dwells in the Dhamma, one who dwells in the Dhamma.’ In what way is a bhikkhu one who dwells in the Dhamma?”

  1. (1) “Here, bhikkhu, a bhikkhu learns the Dhamma: the discourses, mixed prose and verse, expositions, verses, inspired utterances, quotations, birth stories, amazing accounts, and questions-and-answers. He passes the day in learning the Dhamma but neglects seclusion and does not devote himself

to internal serenity of mind. This is called a bhikkhu who is absorbed in learning, not one who dwells in the Dhamma.

  1. (2) “Again, a bhikkhu teaches the Dhamma to others in detail as he has heard and learned it. He passes the day communicating, the Dhamma but neglects seclusion and does not devote himself to internal serenity of mind. This is called a bhikkhu who is absorbed in communication, not one who dwells in the

Dhamma. ‘

  1. Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

– “Sống theo pháp, sống theo pháp”, bạch Thế Tôn, được nói đến như vậy. Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo là vị sống theo pháp?

  1. – Ở đây, này Tỷ-kheo, Tỷ-kheo học thông suốt pháp tức là Khế kinh, Ứng tụng, Ký thuyết, Phúng tụng, Không hỏi tự nói, Như thị thuyết, Bổn sanh, Vị tằng hữu pháp, Trí giải hay Phương quảng. Vị ấy dùng trọn cả ngày để học thuộc lòng pháp, bỏ phế sống độc cư an tịnh, không nỗ lực chuyên chú vào nội tâm an chỉ. Này Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo thông đạt nhiều kinh điển, nhưng không sống theo pháp.
  2. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thuyết pháp cho các người khác một cách rộng rãi như đã được nghe, như đã được học thông suốt. Vị ấy dùng trọn cả ngày để trình bày pháp cho các người khác, bỏ phế sống độc cư an tịnh, không nỗ lực chuyên chú vào nội tâm an chỉ. Này Tỷ-kheo, đấy gọi là Tỷ-kheo thuyết trình nhiều, nhưng không sống theo pháp.

 

  1. (3) “Again, a bhikkhu recites the Dhamma in detail as he has heard it and learned it. He passes the day in recitation but neglects seclusion and does not devote himself to internal serenity of mind. This is called a bhikkhu who is absorbed in recitation, not one who dwells in the Dhamma.
  2. (4) “Again, a bhikkhu ponders, examines, and mentally inspects the Dhamma as he has heard it and learned it. He passes the day in thinking about the Dhamma but neglects seclusion and does not devote himself to internal serenity of mind. This is called a bhikkhu who is absorbed in thought, not one who dwells in the Dhamma.
  3. (5) “Here, a bhikkhu learns the Dhamma— the discourses, mixed prose and verse, expositions, verses, inspired utterances, quotations, birth stories, amazing accounts^ and questions-and-answers—but he does not pass the day [solely] in learning the Dhamma. He does not neglect seclusion but devotes himself to internal serenity of mind. It is in this w ay that a bhikkhu is

one who dwells in the Dhamma.

  1. “Thus, bhikkhu, I have taught the one absorbed in learning, the one absorbed in communication, the one absorbed in recitation, the one absorbed in thought, and the one who dwells in the Dhamma. Whatever should be done; by a compassionate teacher out of compassion for his disciples, seeking their welfare, that I have done for you. These are the feet of trees, these are empty

huts. Meditate, bhikkhu, do not be heedless. Do not have cause to regret it later. This is our instruction to you.”

  1. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đọc tụng pháp một cách rộng rãi như đã được nghe, như đã được học thuộc lòng. Vị ấy dùng trọn cả ngày để tụng đọc, bỏ phế sống độc cư an tịnh, không nỗ lực chuyên chú vào nội tâm an chỉ. Này Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo đọc tụng nhiều, nhưng không sống theo pháp.
  2. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo với tâm tùy tầm tùy tứ, với ý tùy quán pháp như đã được nghe, như đã được học thuộc lòng. Vị ấy dùng trọn cả ngày suy tầm về pháp, bỏ phế sống độc cư an tịnh, không nỗ lực chuyên chú vào nội tâm an chỉ. Này Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo suy tầm nhiều, nhưng không sống theo pháp.
  3. Ở đây, này Tỷ-kheo, Tỷ-kheo học thuộc lòng pháp, tức là Khế kinh, Ứng tụng, Ký thuyết, Phúng tụng, Không hỏi tự nói, Như thị thuyết, Bổn sanh, Vị tằng hữu pháp, Trí giải hay Phương quảng. Vị ấy không dùng trọn cả ngày để học thuộc lòng pháp, không phế bỏ sống độc cư an tịnh, nỗ lực chuyên chú vào nội tâm an chỉ. Này Tỷ-kheo, như vậy Tỷ-kheo sống theo pháp.
  4. Này Tỷ-kheo, như vậy Ta đã thuyết về học thuộc lòng nhiều, đã thuyết về thuyết trình nhiều, đã thuyết về đọc tụng nhiều, đã thuyết về suy tầm nhiều, đã thuyết về sống theo pháp. Này Tỷ-kheo, điều gì bậc Ðạo Sư cần phải làm cho các đệ tử vì hạnh phúc, vì lòng thương tưởng, vì lòng từ khởi lên, các điều ấy, Ta đã làm cho các Thầy. Này Tỷ-kheo, đây là những gốc cây, đây là những căn nhà trống. Này Tỷ-kheo, hãy tu Thiền, chớ có phóng dật, chớ có để về sau sẽ phải hối tiếc. Ðấy là lời giáo giới của Ta cho các Thầy.

 

74 (4) One Who Dwells in the Dhamma (2) – [(IV) (74) Sống Theo Pháp (2)]

 

  1. Then a certain bhikkhu approached the Blessed One, paid homage to him, sat down to one side, and said:

– “It is said, Bhante, ‘one who dwells in the Dhamma, one who dwells in the Dhamma.’ In what way is a bhikkhu one who dwells in the Dhamma?”

  1. (1) “Here, bhikkhu, a bhikkhu learns the Dhamma—the discourses, mixed prose and verse, expositions, verses, inspired utterances, quotations, birth stories, amazing accounts, and questions-and-answers—but he does not go further and understand its meaning with wisdom. This is called a bhikkhu who

is absorbed in learning, not one who dwells in the Dhamma.

  1. (2) “Again, a bhikkhu teaches the Dhamma to others in detail as he has heard, and learned it, but he does not go further and understand its meaning with wisdom. This is called a bhikkhu who is absorbed in communication, not one who dwells in the Dhamma.
  2. Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, vị Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

– “Sống theo pháp, sống theo pháp”, bạch Thế Tôn, được nói đến như vậy. Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, là vị Tỷ-kheo sống theo pháp?

  1. – Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo học thuộc lòng pháp, tức là Khế kinh, Ứng tụng, Ký thuyết, Phúng tụng, Không hỏi tự nói, Như thị thuyết, Bốn sanh, Vị tằng hữu pháp, Trí giải hay Phương quảng, nhưng không rõ biết mục đích tối thượng với trí tuệ. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo học thuộc lòng nhiều, nhưng không sống theo pháp.
  2. Lại nữa, đây các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thuyết pháp cho các người khác một cách rộng rãi như đã được nghe, như đã học thuộc lòng, nhưng không rõ biết mục đích tối thượng với trí tuệ. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo thuyết trình nhiều, nhưng không sống theo pháp.

 

  1. (3) “Again, a bhikkhu recites the Dhamma in detail as he has heard it and learned it, but he does not go further and understand its meaning with wisdom. This is called a bhikkhu who is absorbed in recitation, not one who dwells in the Dhamma.
  2. (4) “Again, a bhikkhu ponders, examines, and mentally inspects the Dhamma as he has heard it and learned it, but he does not go further and understand its meaning with wisdom. This is called a bhikkhu who is absorbed in thought, not one who dwells in the Dhamma.
  3. (5) “Here, a bhikkhu learns the Dhamma— the discourses, mixed prose and verse, expositions, verses, inspired utterances, quotations, birth stories, amazing accounts, and questions-andainswers—but he goes further and understands its meaning with wisdom. It is in this way that a bhikkhu is one who dwells in the Dhamma.
  4. “Thus, bhikkhu, I have taught the one absorbed in learning, the one absorbed in communication, the one absorbed in recitation, the one absorbed in thought, and the one who dwells in the Dhamma. Whatever should be done by a compassionate teacher out of compassion for his disciples, seeking their welfare, that I have done for you. These are the feet of trees, these are empty huts. Meditate, bhikkhu, do not be heedless. Do not have cause to regret it later. This is our instruction to you.”
  5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đọc tụng pháp một cách rộng rãi như đã được nghe, như đã được học thuộc lòng, nhưng không rõ biết mục đích tối thượng với trí tuệ. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo đọc tụng nhiều, nhưng không sống theo pháp.
  6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo với tâm tùy tầm, tùy tứ, với ý tùy quán pháp như được nghe, như đã được học thuộc lòng, nhưng không rõ biết mục đích tối thượng với trí tuệ. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo suy tầm nhiều, nhưng không sống theo pháp.
  7. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo học thuộc lòng pháp, tức là Khế kinh, Ứng tụng, Ký thuyết, Phúng tụng, Không hỏi tự nói, Như thị thuyết, Bổn sanh, Vị tằng hữu pháp, Trí giải hay Phương quảng, và biết mục đích tối thượng với trí tuệ. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo sống theo pháp.
  8. Này các Tỷ-kheo, như vậy Ta đã thuyết về học thuộc lòng nhiều, đã thuyết về thuyết trình nhiều, đã thuyết về đọc tụng nhiều, đã thuyết về suy tầm nhiều, đã thuyết về sống theo pháp. Này các Tỷ-kheo, điều gì bậc Ðạo Sư cần phải làm cho các đệ tử, vì hạnh phúc, vì lòng thương tưởng, vì lòng từ khởi lên, các điều ấy, Ta đã làm cho các Thầy. Này các Tỷ-kheo, đây là những gốc cây, đây là những căn nhà trống. Này các Tỷ-kheo, hãy tu Thiền, chớ có phóng dật, chớ có để về sau phải hối tiếc. Ðây là lời giáo giới của Ta cho các Thầy.

 

75 (5) Warriors (1)

 

  1. “Bhikkhus, there are these five kinds of warriors found in the world. What five?
  2. (1) “Here, some warrior, when he sees the cloud of dust, sinks, founders, does not brace himself, and cannot enter the battle. There is, bhikkhus, such a warrior here. This is the first kind of warrior found in the world.
  3. (2) “Again, some warrior can endure the cloud of dust, but when he sees the crests of the standards, he sinks, founders, does not brace himself, and cannot enter the battle. There is, bhikkhus, such a warrior here. This is the second kind of warrior found in the world.
  4. (3) “Again, some warrior can endure the cloud of dust and the crests of the standards, but when he hears the uproar, he sinks, founders, does not brace himself, and cannot enter the battle. There is, bhikkhus, such a warrior here. This is the third kind of warrior found in the world.
  5. – Này các Tỷ-kheo, có năm hạng chiến sĩ này có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là năm?
  6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người chiến sĩ chỉ thấy bụi mù dấy lên đã chùn chân, rủn chí, không còn can đảm, không có thể tham gia chiến trận. Như vậy ở đây, này các Tỷ-kheo, là một hạng người chiến sĩ. Này các Tỷ-kheo, đây là người chiến sĩ thứ nhất có mặt hiện hữu ở đời.
  7. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây có người chiến sĩ có thể chịu đựng bụi mù dấy lên, nhưng khi thấy cờ xí dựng lên, liền chùn chân, rủn chí, không còn can đảm, không còn can đảm, không có thể tham gia chiến trận. Như vậy ở đây, này các Tỷ-kheo, là một hạng người chiến sĩ ở đời. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người chiến sĩ thứ hai có mặt, hiện hữu ở đời.
  8. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây có người chiến sĩ có thể chịu đựng bụi mù dấy lên, chịu đựng cờ xí dựng lên, nhưng khi nghe tiếng la hét, liền chùn chân, rủn chí, không còn can đảm, không có thể tham gia chiến trận. Như vậy ở đây, này các Tỷ-kheo, là một hạng người chiến sĩ. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người chiến sĩ thứ ba có mặt, hiện hữu ở đời.

 

  1. (4) “Again, some warrior can endure the cloud of dust, the crests of the standards, and the uproar, but he is struck down and wounded by blows. There is, bhikkhus, such a warrior here. This is the fourth kind of w arrior found in the world.
  2. (5) “Again, some warrior can endure the cloud of dust, the crests of the standards, the uproar, and the blows. Having triumphed in that battle, he emerges victorious and settles at the head of the battlefield. There is, bhikkhus, such a warrior here. This is the fifth kind of warrior found in the world.

“These are the five kinds of warriors found in the world.

  1. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây có hạng người chiến sĩ có thể chịu đựng bụi mù dấy lên, chịu đựng cờ xí dựng lên, chịu đựng tiếng la hét, nhưng khi bị thương trong chiến trận, liền thất kinh, thất đảm. Như vậy ở đây, này các Tỷ-kheo, là một hạng người chiến sĩ. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người chiến sĩ thứ tư có mặt, hiện hữu ở đời.
  2. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây có hạng người chiến sĩ có thể chịu đựng bụi mù dấy lên, chịu đựng cờ xí dựng lên, chịu đựng tiếng la hét, chịu đựng cuộc xáp chiến. Vị ấy, sau khi thắng trận, dự phần vào chiến thắng, cầm đầu trong chiến thắng. Như vậy ở đây, này các Tỷ-kheo, là một hạng chiến sĩ. Ðây là hạng người chiến sĩ thứ năm, này các Tỷ-kheo, có mặt, hiện hữu ở đời.

Năm hạng người chiến sĩ này, này các Tỷ-kheo, có mặt, hiện hữu ở đời.

 

  1. “So too, there are these five kinds of persons similar to warriors found among the bhikkhus. What five?
  2. (1) “Here, some bhikkhu, when he sees the cloud of dust, sinks, founders, does not brace himself, and cannot maintain the spiritual life. He discloses his weakness in the training, gives up the training, and reverts to the lower life. What is the cloud of dust in his case? The bhikkhu hears: In such and such

a village or town the women or girls are beautiful, attractive, graceful, possessing supreme beauty of complexion.’ Having heard this, he sinks, founders, does not brace himself, and cannot maintain the spiritual life. He discloses his weakness in the training, gives up the training, and reverts to the lower life. This is the cloud of dust in his case.

I say that this person is just like the warrior who, when he sees the cloud of dust, sinks, founders, does not brace himself, and cannot enter the battle. There is, bhikkhus, such a person here. This is the first kind of person similar to a warrior found among the bhikkhus.

  1. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, được ví dụ với năm hạng chiến sĩ này, có năm hạng người có mặt, hiện hữu giữa các Tỷ-kheo. Thế nào là năm?
  2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, khi thấy bụi mù dấy lên, liền chùn chân, rủn chí, không còn can đảm, không có thể tiếp tục đời sống Phạm hạnh, sau khi biểu lộ sự yếu kém trong học tập, liền bỏ học pháp, trở lui lại đời sống thế tục. Thế nào là bụi mù dấy lên đối với vị ấy? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo được nghe: “Tại một làng hay một thị trấn kia, có người phụ nữ hay thiếu nữ đẹp đẽ, khả ái, làm đẹp lòng người với sắc mặt đẹp thù thắng như hoa sen”. Khi được nghe vậy, vị ấy liền chùn chân, rủn chí, không còn can đảm, không thể tiếp tục đời sống Phạm hạnh, sau khi biểu lộ sự yếu kém trong học tập, liền bỏ học pháp, trở lui lại đời sống thế tục. Ðây là nghĩa bụi mù dấy lên đối với vị ấy.

Ví như, này các Tỷ-kheo, hạng người chiến sĩ ấy, khi mới thấy bụi mù dấy lên, liền chùn chân, rủn chí, không còn can đảm, không có thể tham dự chiến trận. Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố người này giống như ví dụ ấy. Như vậy ở đây, này các Tỷ-kheo, là một hạng người. Ðây là người, này các Tỷ-kheo, được ví dụ với hạng người chiến sĩ thứ nhất có mặt, hiện hữu giữa các Tỷ-kheo.

 

  1. (2) “Again, some bhikkhu can endure the cloud of dust, but when he sees the crests of the standards, he sinks, founders, does not brace himself, and cannot maintain the spiritual life. He discloses his weakness in the training, gives up the training, and reverts to the lower life. What are the crests of the standards in his case? The bhikkhu does not hear: ‘In such and such a village or town the women or girls are beautiful, attractive, graceful, possessing supreme beauty of complexion, but he himself sees a woman or a girl who is beautiful, attractive,

graceful, possessing supreme beauty of complexion. Having seen her, he sinks, founders, does not brace himself, and cannot maintain the spiritual life. He discloses his weakness in the training, gives up the training, and reverts to the lower life. These are the crests of the standards in his case. I say that this person is just like the warrior who can endure the cloud of dust, but when he sees the crests of the standards, he sinks, founders, does not brace himself, and cannot enter the battle. There is, bhikkhus, such a person here. This is the second kind

of person, similar to a warrior found among the bhikkhus.

  1. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo chịu đựng được bụi mù dấy lên, nhưng khi thấy cờ xí dựng lên, liền chùn chân, rủn chí, không còn can đảm, không có thể tiếp tục đời sống Phạm hạnh, sau khi biểu lộ sự yếu kém trong học tập, liền bỏ học pháp, trở lui lại đời sống thế tục. Thế nào là cờ xí dựng lên đối với vị ấy? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không có nghe: “Tại một làng hay thị trấn kia, có người phụ nữ hay thiếu nữ đạp đẽ, khả ái, làm đẹp lòng người với sắc mặt đẹp thù thắng như hoa sen”, nhưng vị ấy tự mình thấy một phụ nữ hay một thiếu nữ đẹp đẽ, khả ái, làm đẹp lòng người với sắc mặt đẹp thù thắng như hoa sen. Vị ấy, sau khi thấy người phụ nữ hay người thiếu nữ ấy, liền chùn chân, rủn chí, không còn can đảm, không thể có thể tiếp tục đời sống Phạm hạnh, sau khi biểu lộ sự yếu kém trong học tập, liền bỏ học pháp, trở lui lại đời sống thế tục. Ðây là nghĩa cờ xí dựng lên đối với vị ấy. Ví như, này các Tỷ-kheo, hạng người chiến sĩ ấy chịu đựng được bụi mù dấy lên, nhưng khi thấy cờ xí dựng lên, liền chùn chân, rủn chí, không còn can đảm, không có thể ra trận xáp chiến. Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố người này giống như ví dụ ấy. Như vậy ở đây, này các Tỷ-kheo, là một hạng người. Ðây là người, này các Tỷ-kheo, được ví dụ với hạng người chiến sĩ thứ hai có mặt, hiện hữu giữa các vị Tỷ-kheo

 

  1. (3) “Again, some bhikkhu can endure the cloud of dust and the-crests of the standards, but when he hears the uproar, he sinks, founders, does not brace himself, and cannot maintain the spiritual life. He discloses his weakness in the training, gives up the training, and reverts to the lower life. What is the uproar

in his case? When the bhikkhu has gone to the forest, to the foot of a tree, or to an empty hut, a woman approaches him, smiles at him, chats with him, laughs at him, and teases him. As the woman is smiling at him, chatting with him, laughing at him, and teasing him, he sinks, founders, does not brace himself, and cannot maintain the spiritual life. He discloses his weakness in the training, gives up the training, and reverts to the lower life. This is the uproar in his case. I say that this person is just like the warrior who can endure the cloud of dust and the crests of the standards, but when he hears the uproar, he sinks, founders, does not brace himself, and cannot enter the battle. There is, bhikkhus, such a person here. This is the third kind of person similar to a warrior found among the bhikkhus.

  1. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo chịu đựng được bụi mù dấy lên, chịu đựng được cờ xí dựng lên, nhưng khi nghe tiếng la hét, liền chùn chân, rủn chí, không còn can đảm, không có thể tiếp tục đời sống Phạm hạnh, sau khi biểu lộ sự yếu kém trong học tập, liền bỏ học pháp, trở lui lại đời sống thế tục. Thế nào là tiếng la hét đối với vị ấy? Ở đây, này các Tỷ-kheo, một nữ nhân đi đến vị Tỷ-kheo tại ngôi rừng, dưới một gốc cây hay tại ngôi nhà trống, cười nhạo Tỷ-kheo, nói mơn trớn, nói cười lớn tiếng, cợt nhả. Tỷ-kheo bị nữ nhân cười nhạo, nói mơn trớn, nói cười lớn tiếng, cợt nhả, liền chùn chân, rủn chí, không còn can đảm, không có thể tiếp tục đời sống Phạm hạnh, sau khi biểu lộ sự hèn yếu trong học tập, liền bỏ học pháp, trở lui lại đời sống thế tục. Ðây là nghĩa của tiếng la hét đối với vị ấy.

Ví như người chiến sĩ ấy, này các Tỷ-kheo, chịu đựng được bụi mù dấy lên, chịu đựng được cờ xí dựng lên, nhưng khi nghe tiếng la hét, liền chùn chân, rủn chí, không còn can đảm, không có thể ra trận xáp chiến. Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố người này giống như ví dụ ấy. Như vậy ở đây, này các Tỷ-kheo, là một hạng người. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người được ví dụ với người chiến sĩ thứ ba có mặt, hiện hữu giữa các Tỷ-kheo.

 

  1. (4) “Again, some bhikkhu can endure the cloud of dust, the crests of the standards, and the uproar, but he is struck down and wounded by a blow. What is the blow in his case? When the bhikkhu has gone to the forest, to the foot of a tree, or to an empty hut, a woman approaches him, sits down or lies down

next to him, and embraces him. When she does so, he has sexual intercourse with her without having given up the training and disclosed his weakness. This is the blow in his case. I say that this person is just like the warrior who can endure the cloud of dust, the crests of the standards, and the uproar, but who

is struck down and wounded by a blow. There is, bhikkhus, such a person here. This is the fourth kind of person similar to a warrior found among the bhikkhus.

  1. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo chịu đựng được bụi mù dấy lên, chịu đựng được cờ xí dựng lên, chịu đựng được tiếng la hét, nhưng bị thương trong khi xáp chiến lâm trận liền thất kinh thất đảm. Thế nào là xáp chiến lâm trận đối với vị ấy? Ở đây, này các Tỷ-kheo, khi đi đến ngôi rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, một nữ nhân đến Tỷ-kheo ấy, ngồi sát một bên, nằm sát một bên, vuốt ve mơn trớn. Tỷ-kheo ấy được nữ nhân ngồi sát một bên, nằm sát một bên, được vuốt ve mơn trớn, không từ bỏ học tập, không biểu lộ sự yếu kém trong học tập, (nhưng vị ấy lại) rơi vào hành dâm (với nữ nhân). Ðây là nghĩa xáp chiến lâm trận đối với vị ấy. Ví như người chiến sĩ ấy, này các Tỷ-kheo, chịu đựng được bụi mù dấy lên, chịu đựng được cờ xí dựng lên, chịu đựng được tiếng la hét, nhưng khi lâm trận xáp chiến, bị thương, thất kinh, thất đảm. Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố người này giống như ví dụ ấy. Như vậy ở đây, này các Tỷ-kheo, là một hạng người. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người được ví dụ với người chiến sĩ thứ tư có mặt, hiện hữu giữa các Tỷ-kheo.

 

  1. (5) “Again, some bhikkhu can endure the clouds of dust, the crests of the standards, the uproar, and a blow. Having triumphed in that battle, he emerges victorious and settles at the head of the battlefield. What is the victory in his case? When the bhikkhu has gone to the forest, to the foot of a tree, or to an

empty hut, a woman approaches him, sits down or lies down next to him, and embraces him. But he disentangles himself, frees himself, and goes off wherever he wants.

“He resorts to a secluded lodging: the forest, the foot of a tree, a mountain, a ravine, a hillside cave, a charnel ground, a jungle highland, the open air, a heap of straw. Gone to the forest, to the foot of a tree, or to an empty hut, he sits down, folding his legs crosswise, straightening his body, and establishing

mindfulness in front of him. Having abandoned longing for the world, he dwells with a mind free from longing; he purifies his mind from longing. Having abandoned ill will and hatred, he dwells with a mind free from ill will, compassionate toward all living beings; he purifies his mind from ill will and

hatred. Having abandoned dullness and drowsiness, he dwells free from dullness and drowsiness, percipient of light, mindful and clearly comprehending; he purifies his mind from dullness and drowsiness. Having abandoned restlessness and remorse, he dwells without agitation, with a mind inwardly peaceful; he purifies his mind from restlessness and remorse. Having

abandoned doubt, he dwells having gone beyond doubt, unperplexed about wholesome qualities; he purifies his mind from doubt.

“Having abandoned these five hindrances, defilements of the mind that weaken wisdom, secluded from sensual pleasures, secluded from unwholesome states, he enters and dwells in the first jhana … the fourth jhana, neither painful nor pleasant, which has purification of mindfulness by equanimity.

“When his mind is thus concentrated, purified, cleansed, unblemished, rid of defilement, malleable, wieldy, steady, and attained to imperturbability, he directs it to the knowledge of the destruction of the taints. He understands as it really is: This is suffering.’ He understands as it really is: ‘This is the origin of suffering.’ He understands as it really is: This is the cessation of suffering.’ He understands as it really is: This is the way leading to the cessation of suffering.’ He understands as it really is: ‘These are the taints.’ He understands as it really

is: ‘This is the origin of the taints.’ He understands as it really is: ‘This is the cessation of the taints.’ He understands as it really is: ‘This is the way leading to the cessation of the taints.’ When he knows and sees thus, his mind is liberated from the taint of sensual desire, from the taint of existence, and from the taint

of ignorance. When it is liberated, there comes the knowledge: ‘[It’s] liberated.’ He understands: ‘Destroyed is birth, the spiritual life has been lived, what had to be done has been done, there is no more coming back to any state of being.’ This is his victory in battle. “Bhikkhus, I say that this person is like the warrior who can endure the cloud of dust, the crests of the standards, the uproar, and the blow, and who, having triumphed in that battle, emerges victorious and settles at the head of the battlefield.

There is, bhikkhus, such a person here. This is the fifth kind of person similar to a warrior found among the bhikkhus. “These are the five kinds of persons similar to warriors found among the bhikkhus.”

  1. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo chịu đựng được bụi mù dấy lên, chịu đựng được cờ xí dựng lên, chịu đựng được tiếng la hét, chịu đựng được xáp chiến lâm trận. Vị ấy sau khi chiến thắng chiến trận ấy, chiến thắng trong chiến trận, vị ấy vẫn đứng hàng đầu trong trận chiến ấy. Thế nào là sự chiến thắng trong chiến trận đối với vị ấy? Ở đây, này các Tỷ-kheo, khi vị Tỷ-kheo đi đến ngôi nhà rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, có nữ nhân đi đến vị ấy, ngồi xuống sát một bên, nằm sát một bên, vuốt ve mơn trớn. Vị ấy, khi được nữ nhân ngồi sát một bên, nằm sát một bên, vuốt ve mơn trớn, liền gỡ mình ra, gỡ thoát ra, và ra đi chỗ nào mình muốn.

Và vị ấy đi đến một chỗ trống trải, khu rừng, gốc cây, ngọn núi, khe đá, hang núi, nghĩa địa, cao nguyên, ngoài trời, đống rơm. Rồi vị ấy đi đến khu rừng, đi đến gốc cây hay đi đến ngôi nhà trống, ngồi kiết già, lưng thẳng và để niệm trước mặt. Vị ấy, sau khi đoạn tận tham, an trú với tâm ly tham, gột sạch tâm khỏi tham, sau khi đoạn tận sân, an trú với tâm ly sân, có lòng thương tưởng đến tất cả loài hữu tình và chúng sanh, gột sạch tâm khỏi sân hận; sau khi đoạn tận hôn trầm thụy miên, an trú với tâm ly thụy miên hôn trầm, với tưởng ánh sáng, chánh niệm, tỉnh giác, gột sạch tâm khỏi hôn trầm thụy miên; sau khi đoạn tận trạo cử hối quá, an trú không trạo cử, nội tâm tịch tịnh, gột sạch tâm khỏi trạo cử hối quá; sau khi đoạn tận nghi, an trú với tâm vượt khỏi nghi ngờ, không còn nghi hoặc, gột sạch tâm khỏi nghi ngờ đối với các thiện pháp. Vị ấy, sau khi đoạn tận năm triền cái này, những pháp làm uế nhiễm tâm, làm yếu ớt trí tuệ, ly dục, ly các pháp bất thiện… chứng đạt và an trú sơ Thiền… an trú Thiền thứ tư.

Vị ấy với tâm định tĩnh, thanh tịnh, trong sáng, không cấu uế, ly các tùy phiền mão, nhu nhuyến, kham nhẫn, kiên trì, bất động, hướng tâm về trí đoạn tận các lậu hoặc. Vị ấy như thật rõ biết: “Ðây là Khổ”; như thật rõ biết: “Ðây là Khổ tập”; như thật rõ biết: “Ðây là khổ diệt”; như thật rõ biết: “Ðây là con Ðường đưa đến khổ diệt”; như thật rõ biết: “Những pháp này là những lậu hoặc”; như thật rõ biết: “Ðây là lậu hoặc tập khởi”; như thật rõ biết: “Ðây là lậu hoặc đoạn diệt”. Như thật rõ biết: “Ðây là con đường đưa đến lậu hoặc đoạn diệt”. Do vị ấy biết như vậy, thấy như vậy, tâm được giải thoát khỏi dục lậu, tâm được giải thoát khỏi hữu lậu, tâm được giải thoát khỏi vô minh lậu. Trong sự giải thoát trí khởi lên: “Ta đã được giải thoát”. Vị ấy rõ biết: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm, nay không còn trở lui trạng thái này nữa”. Ðây là sự chiến thắng trong trận chiến đối với vị ấy.

Ví như, này các Tỷ-kheo, người chiến sĩ chịu đựng được bụi mù dấy lên, chịu đựng được cờ xí dựng lên, chịu đựng được các tiếng la hét, chịu đựng được sự xáp chiến. Vị ấy, sau khi chiến thắng chiến trận ấy, chiến thắng trong chiến trận, vị ấy vẫn đứng hàng đầu trong trận chiến ấy. Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố người này giống như ví dụ ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là một hạng người. Này các Tỷ-kheo, đấy là hạng người được ví dụ với người chiến sĩ thứ năm có mặt, hiện hữu ở đời.

Những người này, này các Tỷ-kheo, được ví dụ với năm chiến sĩ có mặt, hiện hữu ở giữa các vị Tỷ-kheo.

 

76 (6) Warriors (2) – [(VI) (76) Người Chiến Sĩ (2)]

 

  1. “Bhikkhus, there are these five kinds of warriors found in the world. What five?
  2. (1) “Here, some warrior takes up a sword and shield, arms himself with a bow and quiver, and enters the fray of battle. He strives and exerts himself in the battle, but his foes slay him and finish him off. There is, bhikkhus, such a warrior

here. This is the first kind of warrior found in the world.

  1. (2) “Again, some warrior takes up a sword and shield, arms himself with a bow and quiver, and enters the fray of battle. He strives and exerts himself in the battle, but his foes wound him. [His comrades] carry him off apd bring him to his relatives. While he is being brought to his relatives, he dies along the w ay

even before he arrives. There is, bhikkhus, such a warrior here. This is the second kind of warrior found in the world.

  1. (3) “Again, some warrior takes up a sword and shield, arms himself with a bow and quiver, and enters the fray of battle. He strives and exerts himself in the battle, but his foes wound him. [His comrades] carry him off and bring him to his relatives. His relatives nurse him and look after him, but while they are doing so he dies from that injury. There is, bhikkhus, such a warrior here. This is the third kind of warrior found in the world.
  2. (4) “Again, some warrior takes up a sword and shield, arms himself with a bow and quiver, and enters the fray of battle. He strives and exerts himself in the battle, but his foes wound him. [His comrades] carry him off and bring him to his relatives. His relatives nurse him and look after him, and as a result here covers from that injury. There is, bhikkhus, such a warrior here. This is the fourth kind of warrior found in the world.
  3. (5) “Again, some warrior takes up a sword arid shield, arms himself with a bow and quiver, and enters the fray of battle. Having triumphed in that battle, he emerges victorious and settles a t the head of the battlefield. There is, bhikkhus, such a warrior here. This is the fifth kind of warrior found in

the world.

“These are the five kinds of warriors found in the world.

 

1.- Có năm người chiến sĩ này, này các Tỷ-kheo, có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là năm?

  1. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người chiến sĩ cầm kiếm và mâu, đeo cung và tên, tham gia vào trận chiến ác liệt. Người ấy trong trận chiến ấy nỗ lực hăng hái. Nhưng các người khác, trong khi người ấy nỗ lực và hăng hái như vậy, đánh người ấy và áp đảo người ấy. Như vậy, ở đây này các Tỷ-kheo, có hạng người chiến sĩ như vậy. Ðây là hạng chiến sĩ thứ nhất có mặt, hiện hữu ở đời.
  2. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây có hạng người chiến sĩ cầm kiếm và mâu, đeo cung và tên, tham gia vào trận chiến ác liệt. Vị ấy, trong trận chiến ấy, nỗ lực, hăng hái. Nhưng các người khác làm cho người ấy bị thương, khiêng người ấy đi, chở người ấy đến các bà con. Khi chở người ấy đi và chưa đến các bà con, người ấy mệnh chung ở giữa đường. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có một hạng chiến sĩ như vậy. Ðây là hạng chiến sĩ thứ hai, này các Tỷ-kheo, có mặt, hiện hữu ở đời.
  3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây có hạng người chiến sĩ cầm kiếm và mâu, đeo cung và tên, tham gia vào trận chiến ác liệt. Vị ấy, trong trận chiến ấy, nỗ lực hăng hái. Nhưng các người khác làm cho người ấy bị thương và khiêng người ấy đi, chở người ấy đến các bà con. Và những người bà con săn sóc và nuôi dưỡng người ấy. Người ấy, trong khi được các người bà con săn sóc và nuôi dưỡng, bị mệnh chung vì vết thương ấy. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có một hạng người chiến sĩ như vậy. Ðây gọi là hạng chiến sĩ thứ ba có mặt, hiện hữu ở đời.
  4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây có người chiến sĩ cầm kiếm và mâu, đeo cung và tên, tham gia vào trận chiến ác liệt. Vị ấy, trong trận chiến ấy, nỗ lực hăng hái. Nhưng các người khác làm cho người ấy bị thương, và khiêng người ấy đi, chở người ấy đến các người bà con. Và những người bà con nuôi dưỡng và săn sóc người ấy. Người ấy, trong khi được các người bà con săn sóc và nuôi dưỡng, được chữa lành các vết thương ấy. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người chiến sĩ như vậy. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng chiến sĩ thứ tư có mặt, hiện hữu ở đời.
  5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây có hạng chiến sĩ cầm kiếm và mâu, đeo cung và tên, tham gia vào chiến trận ấy, chiến thắng trong chiến trận, vị ấy vẫn đứng hàng đầu trong chiến trận ấy. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng chiến sĩ như vậy. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng chiến sĩ thứ năm có mặt, hiện hữu ở đời.

Năm hạng chiến sĩ này, này các Tỷ-kheo, có mặt, hiện hữu ở đời.

 

  1. “So too, there are these five kinds of persons similar to warriors found among the bhikkhus. What five?
  2. (1) “Here, some bhikkhu dwells in dependence upon a certain village or town. In the morning, he dresses, takes his robe and bowl, and enters that village or town for alms, with body, speech, and mind unguarded, without having established mindfulness, his sense faculties unrestrained. There he sees

women with their dress in disarray and loosely attired. When he sees them, lust invades his mind. With his mind invaded by lust, he has sexual intercourse without having disclosed his weakness and given up the training.

This person, I say, is just like the warrior who takes up a sword and shield, arms himself with a bow and quiver, and enters the fray of battle, and whose foes slay him and finish him off while he is striving ahd exerting himself in battle. There is, bhikkhus, such a person here. This is the first kind of person similar to a warrior found among the bhikkhus.

  1. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có những hạng người được ví dụ với năm hạng chiến sĩ này có mặt, hiện hữu giữa các vị Tỷ-kheo. Thế nào là năm?
  2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo sống dựa vào ngôi làng hay thị trấn. Vị ấy, vào buổi sáng đắp y, cầm y bát đi vào làng hay thị trấn để khất thực, không phòng hộ thân, không phòng hộ lời, không phòng hộ tâm, niệm không an trú, các căn không được bảo vệ. Vị ấy ở đấy thấy một nữ nhân ăn mặc không tề chỉnh, ăn mặc không kín đáo. Ðược thấy nữ nhân ăn mặc không tề chỉnh, ăn mặc không kín đáo, tham dục tấn công tâm vị ấy. Tâm bị tham dục tấn công, không từ bỏ học tập, không biểu lộ sự yếu kém trong học pháp, vị ấy rơi vào hành dâm.

Ví như người chiến sĩ ấy, này các Tỷ-kheo, cầm gươm và mâu, đeo cung và tên tham gia vào trận chiến ác liệt. Vị ấy trong trận chiến ấy nỗ lực hăng hái. Nhưng các người khác, trong khi người ấy nỗ lực hăng hái như vậy, đánh người ấy và áp đảo người ấy. Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố người này giống như ví dụ ấy. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có một hạng người như vậy. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người được ví dụ với hạng chiến sĩ thứ nhất có mặt, hiện hữu giữa các Tỷ-kheo.

 

  1. (2) “Again, some bhikkhu dwells in dependence upon a certain village or town. In the morning, he dresses, takes his robe and bowl, and enters that village or town for alms … [and] lust invades his mind. With his mind invaded by lust, he burns bodily and mentally [with the fever of lust]. He thinks: ”Let me

return to the monastery and inform the bhikkhus: “Friends, I am obsessed by lust, oppressed by lust. I cannot maintain the spiritual life. Having disclosed my weakness in the training, I will give up the training and revert to the lower life.” ‘While he is returning to the monastery, even before he arrives, he discloses

his weakness in the training, gives up the training, and reverts to the lower life along the way.

This person, I say, is just like the warrior who takes up a sword and shield, arms himself with a bow and quiver, enters the fray of battle, is wounded by his foes while he strives and exerts himself in the battle, and is

then carried off and brought to his relatives but dies along the way even before he arrives. There is, bhikkhus, such a person here. This is the second kind of person similar to a warrior found among the bhikkhus.

  1. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống dựa vào một làng hay thị trấn. Vị ấy, vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát, đi vào làng ấy hay thị trấn ấy để khất thực, với thân không phòng hộ, với lời nói không phòng hộ, với tâm không phòng hộ, với niệm không an trú, với các căn không được bảo vệ. Ở đây, vị ấy thấy một nữ nhân ăn mặc không chỉnh tề, ăn mặc không kín đáo. Ðược thấy nữ nhân ăn mặc không chỉnh tề, ăn mặc không kín đáo, tham dục tấn công tâm vị ấy. Vị ấy, với tâm bị tham dục tấn công nên thân bị thiêu cháy, tâm bị thiêu cháy. Vị ấy nghĩ: “Ta hãy đi về khu vườn (chỗ Tăng ở) báo tin cho các Tỷ-kheo: “Này các Hiền giả, tôi bị tham dục tràn ngập, bị tham dục ám ảnh, tôi không có thể tiếp tục đời sống Phạm hạnh, tôi biểu lộ sự yếu kém trong học tập, từ bỏ học pháp, tôi trở về với đời sống thế tục”. Vị ấy, trên con đường đi đến khu vườn, còn ở giữa đường, biểu lộ sự yếu kém trong học tập, từ bỏ học pháp, trở về đời sống thế tục.

Ví như, này các Tỷ-kheo, người chiến sĩ cầm kiếm và mâu, đeo cung và tên, tham gia vào trận chiến ác liệt. Vị ấy, trong trận chiến ấy, nỗ lực hăng hái. Nhưng các người khác, trong khi người ấy nỗ lực hăng hái như vậy, làm cho người ấy bị thương, khiêng người ấy đi, chở người ấy, và đưa người ấy đến các bà con, người ấy mệnh chung giữa đường. Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố người này giống với ví dụ ấy. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có một hạng người như vậy. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người được ví dụ với người chiến sĩ thứ hai có mặt, hiện hữu giữa các Tỷ-kheo.

 

  1. (3) “Again, some bhikkhu dwells in dependence upon a certain village or town. In the morning, he dresses, takes his robe and bowl, and enters that village or town for alms … [and] lust invades his mind. With his mind invaded by lust, he bums bodily and mentally [with the fever of lust]. He thinks: ‘Let me

return to the monastery and inform the bhikkhus: “Friends, I am obsessed by lust, oppressed by lust. I cannot maintain the spiritual life. Having disclosed my weakness in the training, I will give up the training and revert to the lower life.'” He returns to the monastery and informs the bhikkhus: ‘Friends, I am obsessed by lust, oppressed by lust. I cannot maintain the spiritual life. Having disclosed my weakness in the training, I will give up the training and revert to the lower life.’ His fellow monks then exhort, and instruct him: ‘Friend, the Blessed One has stated that sensual pleasures provide little gratification, much suffering and anguish, and that the danger in them is more. With the simile of the skeleton the Blessed One has stated that sensual pleasures provide little gratification, much suffering and anguish, and that the danger in them is more. With the simile of the piece of meat … with the simile of the grass torch … with the simile of the charcoal pit … with the simile of the dream … with the simile of the borrowed goods … with the simile of fruits on a tree … with the simile of the butcher’s knife and block … with the simile of the sword stake … with the

simile of the snake’s head, the Blessed One has stated that sensual pleasures provide little gratification, much suffering and anguish, and that the danger in them is more. Enjoy the spiritual life. Do not think yoii are unable to follow the training, give it up, and revert to the lower life.’

While he is being exhorted and instructed by his fellow monks in this way, he protests: “Friends, although the Blessed One has stated that sensual pleasures provide little gratification, much suffering and anguish, and that the danger in them is more, still, I am unable to maintain the spiritual life. Having disclosed my weakness in the training, I will give up the training and revert to the lower life.’ Having disclosed his weakness in the training, he gives up the training and reverts to the lower life. This person, I say, is just like the warrior who takes up a sword and shield, arms himself with a bow and quiver, enters the fray of battle, is wounded by his foes while he strives and exerts himself in the battle, and is then carried off and brought to his relatives, who nurse him and look after him, but who dies from that injury. There is, bhikkhus, such a person here. This is the third kind of person similar to a warrior found among the bhikkhus.

  1. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo sống dựa vào một làng hay một thị trấn. Vị ấy vào buổi sáng đắp y, cầm y bát đi vào làng hay thị trấn ấy để khất thực, thân không phòng hộ, lời nói không phòng hộ, tâm không phòng hộ, niệm không an trú, các căn không được bảo vệ. Vị ấy ở đấy thấy nữ nhân ăn mặc không tề chỉnh, ăn mặc không kín đáo, tham dục tấn công vị ấy. Vị ấy với tham dục bị tấn công, nên thân bị thiêu cháy, tâm bị thiêu cháy. Vị ấy suy nghĩ như sau: “Ta hãy đi đến khu vườn báo tin cho các Tỷ-kheo: “Này các Hiền giả, tôi bị tham dục tràn ngập, bị tham dục ám ảnh. Tôi không thể tiếp tục đời sống Phạm hạnh, sau khi biểu hiện sự yếu kém trong học tập, tôi từ bỏ học pháp, sẽ trở về với đời sống thế tục”. Các vị đồng Phạm hạnh giáo giới, khuyên bảo như sau: “Này Hiền giả, Thế Tôn đã nói: “Các dục vị ngọt ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hại ở đây nhiều hơn. Các dục được Thế Tôn ví dụ như một khúc xương, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hại ở đây nhiều hơn. Các dục được Thế Tôn ví dụ như miếng thịt, khổ nhiều, não nhiều, nguy hại ở đây lại nhiều hơn. Các dục được Thế Tôn ví dụ như bó đuốc bằng cỏ, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hại ở đây lại nhiều hơn. Các dục được Thế Tôn ví dụ như một hố than hừng, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hại ở đây lại nhiều hơn. Các dục được Thế Tôn ví dụ như một cơn mộng, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hại ở đây lại nhiều hơn. Các dục được Thế Tôn ví dụ như vật dụng mượn dùng, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hại ở đây lại nhiều hơn. Các dục được Thế Tôn ví dụ như quả của cây, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hại ở đây lại nhiều hơn. Các dục được Thế Tôn ví dụ như lò thịt, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hại ở đây lại nhiều hơn. Các dục được Thế Tôn ví dụ như cây gậy nhọn, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hại ở đây lại nhiều hơn. Các dục được Thế Tôn ví dụ như đầu rắn, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hại ở đây lại nhiều hơn”. Tôn giả hãy tìm sự thoải mái trong Phạm hạnh! Tôn giả chớ biểu hiện sự yếu kém trong học tập, từ bỏ học pháp và trở lui đời sống thế tục”.

Vị ấy được các đồng Phạm hạnh giáo giới như vậy, khuyên bảo như vậy, liền nói như sau: “Này các Hiền giả, dầu cho Thế Tôn có nói các dục ngọt ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hại ở đây lại nhiều hơn, nhưng tôi không có thể tiếp tục đời sống Phạm hạnh. Sau khi biểu lộ sự yếu kém trong học tập, từ bỏ học pháp, tôi sẽ trở về đời sống thế tục”. Sau khi biểu lộ sự yếu kém trong học tập, sau khi từ bỏ học pháp, vị ấy trở lui đời sống thế tục.

Ví như, này các Tỷ-kheo, người chiến sĩ ấy, sau khi cầm kiếm và mâu, đeo cung và tên, tham gia vào trận chiến khốc liệt. Vị ấy, trong chiến trận ấy, nỗ lực, hăng hái. Nhưng các người khác trong khi có nỗ lực, hăng hái như vậy, làm cho người bị thương, khiêng người ấy đi, chở người ấy, và đưa người ấy đến các người bà con. Các người bà con săn sóc nuôi dưỡng người ấy. Người ấy, tuy được các người bà con săn sóc nuôi dưỡng nhưng bị mệnh chung vì vết thương ấy. Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố người này được ví như ví dụ ấy. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người như vậy. Này các Tỷ kheo, đây là hạng người được ví dụ với người chiến sĩ thứ ba có mặt, hiện hữu giữa các Tỷ-kheo.

 

  1. (4) “Again, some bhikkhu dwells in dependence upon a certain village or town. In the morning, he dresses, takes his robe and bowl, and enters that village or town for alms … lust invades his mind. With his mind invaded by lust, he burns bodily and mentally [with the fever of lust]. He thinks: ‘Let me return to the monastery and inform the bhikkhus: “Friends, I am obsessed by lust, oppressed by lust. I cannot maintain the spiritual life. Having disclosed my weakness in the training, I will give up the training and revert to the lower life.” ‘He returns to the monastery and informs the bhikkhus: Friends, I am obsessed by lust, oppressed by lust. I cannot maintain the spiritual life. Having disclosed my weakness in the training, I will give up the training and revert to the lower life.’

His fellow monks then exhort and instruct him: ‘Friend, the Blessed One

has stated that sensual pleasures provide little gratification, much suffering and anguish, and that the danger in them is more. With the simile of the skeleton … with the simile of the snake’s head, the Blessed One has stated that sensual pleasures provide little gratification, much suffering and anguish, and that the danger in them is more. Enjoy the spiritual life. Do not think you are unable to follow the training, give it up, and revert to the lower life.’ While he is being exhorted and instructed by his fellow monks in this way, he says: ‘I will try,

friends, I will carry on, I will enjoy it. I won’t think I am unable to follow the training, give it up, and revert to the lower life.’

This person, I say, is just like the warrior who takes up a sword and shield, arms himself w ith a bow and quiver, and enters the fray of battle, who is wounded by his foes while he strives and exerts himself in the battle, and is then carried off and brought to his relatives, who nurse him and look after him, and who

then recovers from that injury. There is, bhikkhus, such a person here. This is the fourth kind of person similar to a warrior found among the bhikkhus.

  1. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống dựa vào làng hay thị trấn. Vị ấy vào buổi sáng đắp y, cầm bát, đi vào ngôi làng hay thị trấn ấy để khất thực, với thân không phòng hộ, với lời không phòng hộ, với tâm không phòng hộ, với niệm không an trú, với các căn không được bảo vệ. Vị ấy ở đấy, thấy nữ nhân ăn mặc không chỉnh tề, ăn mặc không kín đáo. Sau khi thấy nữ nhân ăn mặc không chỉnh tề, ăn mặc không kín đáo, tham dục tấn công vị ấy. Vị ấy với tâm bị tham dục tấn công, nên thân bị thiêu cháy, tâm bị thiêu đốt. Vị ấy suy nghĩ như sau: “Ta hãy đi đến khu vườn, báo tin cho các Tỷ-kheo: “Này các Hiền giả, tôi bị tham dục tràn ngập, bị tham bị tham dục ám ảnh. Tôi không thể tiếp tục đời sống Phạm hạnh. Tôi tuyên bố sự yếu kém trong học tập, từ bỏ học pháp, trở về với đời sống thế tục”. Vị ấy đi đến khu vườn, báo tin cho các Tỷ-kheo: “Này các Hiền giả, tôi bị tham dục tràn ngập, bị tham dục ám ảnh. Tôi không thể tiếp tục đời sống Phạm hạnh; sau khi biểu lộ sự yếu kém trong học tập, từ bỏ học pháp, tôi trở về với đời sống thế tục”. Các vị đồng Phạm hạnh giáo giới khuyên bảo như sau: “Này hiền giả, Thế Tôn đã nói: “Các dục ngọt ít, đắng nhiều, não nhiều, sự nguy hại ở đây lại nhiều hơn… Các dục được Thế Tôn ví như đầu rắn, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hại ở đây lại nhiều hơn”. Tôn giả hãy tìm sự thoải mái trong Phạm hạnh. Hiền giả chớ biểu lộ sự kém trong học tập, từ bỏ học pháp và trở lui đời sống thế tục”.

Vị ấy được các đồng giáo giới như vậy, khuyên bảo như vậy, nói như vầy: “Thưa các Hiền giả, tôi sẽ nỗ lực. Thưa các Hiền giả, tôi sẽ cố gắng. Thưa các Hiển giả, tôi sẽ sống thoải mái. Nay tôi không biểu lộ sự yếu kém trong học tập, không từ bỏ học pháp, không trở lui về đời sống thế tục”.

Ví như, này các Tỷ-kheo, người chiến sĩ ấy cầm kiếm và mâu, đeo cung và tên, tham gia vào trận chiến ác liệt. Vị ấy trong trận chiến ấy, nỗ lực hăng hái. Nhưng các người khác, trong khi người ấy nỗ lực hăng hái như vậy, làm cho người ấy bị thương, khiêng người ấy đi, chở người ấy và đưa người ấy đến các bà con. Các người bà con săn sóc người ấy, nuôi dưỡng người ấy. Người ấy, nhờ các bà con săn sóc nuôi dưỡng, được chữa lành khỏi vết thương. Ta tuyên bố rằng, này các Tỷ-kheo, người này giống như ví dụ ấy. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người như vậy. Người này, này các Tỷ-kheo, được ví dụ với chiến sĩ thứ tư có mặt, hiện hữu giữa các vị Tỷ-kheo.

 

  1. (5) “Again, some bhikkhu dwells in dependence upon a certain village or town. In the morning, he dresses, takes his robe and bowl, and enters that village or town for alms with body, speech, and mind guarded, mindfulness established, and sense faculties restrained. Having seen a form with the eye, he does not grasp its marks and features. Since, if he left the eye faculty unrestrained, bad unwholesome states of longing and dejection might invade him, he practices restraint over it; he guards the eye faculty, he undertakes the restraint of the eye faculty. Having heard a sound with the ear … Having smelled an odor with the nose … Having tasted a taste with the tongue … [100] … Having felt a tactile object with the body … Having cognized a mental phenomenon with the mind, he does not grasp its marks and features. Since, if he left the mind faculty unrestrained, bad unwholesome states of longing and dejection might invade him, he practices restraint over it; he guards the mind faculty, he undertakes the restraint of the mind faculty.

After his. meal, on returning from his alms round, he resorts to a secluded lodging: the forest, the foot of a tree, a mountain, a ravine, a hillside cave, a charnel ground, a jungle highland, the open air, a heap of straw. Gone to the forest, to the foot of a tree, or to an empty hut, he sits down, folding his legs crosswise, straightening his body, and establishing mindfulness in front of him. Having abandoned longing for the world … [as in 5:75] … he purifies his mind from doubt. “Having abandoned these five hindrances, defilements of the mind that weaken wisdom, secluded from sensual pleasures, secluded from unwholesome states, he enters and dwells in the first jhana … the second jhana … the third jhana … the fourth jhana, neither painful nor pleasant, which has purification of mindfulness by equariimity. “When his mind is thus concentrated, purified, cleansed, unblemished, rid of defilement, malleable, wieldy, steady, and attained to imperturbability, he directs it to the knowledge of the destruction of the taints. He understands as it really is: ‘This is suffering’ … ‘Destroyed is birth, the spiritual life has been lived, what had to be done has been done, there is no more coming back to any state of being.’

This person, I say, is just like the warrior who takes up a sword and shield, arms himself with a bow and quiver, enters the fray of battle, and having triumphed in that battle, emerges victorious and settles at the head of the battlefield. There is, bhikkhus, such a person here. This is the fifth kind of person similar to a warrior found among the bhikkhus.

“These are the five kinds of persons similar to warriors found among the bhikkhus.”

  1. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống dựa vào một làng hay một thị trấn. Vị ấy vào buổi sáng đắp y, cầm bát y, vào làng hay thị trấn ấy để khất thực, với thân được phòng hộ, với lời được phòng hộ, với tâm được phòng hộ, với niệm được an trú, với các căn được bảo vệ. Vị ấy khi mắt thấy sắc, không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì, vì nhãn căn không được chế ngự, khiến tham ái ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên, vị ấy tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì nhãn căn, thực hành sự hộ trì nhãn căn. Khi tai nghe tiếng… mũi ngửi hương… lưỡi nếm vị… thân cảm xúc… ý nhận thức các pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì, khiến ý căn không được chế ngự, khiến tham ái ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên, vị Tỷ-kheo chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn.

Vị ấy, sau bữa ăn, trên con đường khất thực trở về, đi đến một chỗ sàng tọa trống trải, khu rừng, gốc cây, ngọn núi, khe núi, hang núi, bãi tha ma, cao nguyên, ngoài trời, đống rơm. Vị ấy đi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, ngồi kiết-gà, lưng thẳng, để niệm trước mặt. Vị ấy đoạn tận tham ở đời, an trú với tâm ly tham… chứng đạt và an trú sơ Thiền… chứng đạt và an trú Thiền thứ tư. Vị ấy với tâm định tĩnh, trong sáng, không cấu uế, các phiền não được đoạn trừ, nhu nhuyến, kham nhẫn, kiên trì, bất động, hướng tâm về trí đoạn tận các lậu hoặc. Vị ấy như thật rõ biết: “Ðây là khổ”, như thật rõ biết: “Ðây là khổ tập”, như thật rõ biết: “Ðây là khổ diệt”, như thật rõ biết: “Ðây là con đường đi đến khổ diệt… không còn trở lui trạng thái này nữa”.

Ví như, này các Tỷ-kheo, người chiến sĩ ấy cầm kiếm và mâu, đeo cung và tên, tham gia vào trận chiến ác liệt. Người ấy, sau khi chiến thắng trận ấy, chiến thắng trong chiến trận, vị ấy vẫn đứng đầu trong chiến trận ấy. Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố người này giống như ví dụ ấy. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có một hạng người như vậy. Ðây là hạng người được ví dụ với chiến sĩ thứ năm, hiện hữu giữa các Tỷ-kheo.

Này các Tỷ-kheo, có năm hạng người được ví dụ với năm người chiến sĩ này, có mặt, hiện hữu giữa các vị Tỷ-kheo.

 

77 (7) Future Perils (1) – [(VIII) (77) Sợ Hãi Trong Tương Lai (1)] – page 709

 

  1. “Bhikkhus, when a forest bhikkhu considers five future perils, it is enough for him to dwell heedful, ardent, and resolute for the attainment of the as-yet-unattained, for the achievement of the as-yet-unachieved, for the realization of the as-yetunrealized. What five?
  2. (1) “Here, a forest bhikkhu reflects thus: I am now dwelling all alone in the forest. But while I am living here, a snake might bite me, a scorpion might sting me, or a centipede might sting me. Because of that I might die, which would be an obstacle for me. Let me now arouse energy for the attainment of the as-yet-unattained, for the achievement of the as-yet-unachieved, for the realization of the as-yet-unrealized.’

This is the first future peril considering which it is enough for a forest bhikkhu to dwell heedful, ardent, and resolute … for the realization of the as-yet-unrealized.

  1. (2) “Again, a forest bhikkhu reflects thus: I am now dwelling all alone in the forest. But while I am living here, I might trip and fall down, or the food that I have eaten might harm me, or my bile or phlegm or sharp winds might become agitated in me. Because of that I might die, which would be an obstacle for me. Let me now arouse energy for the attainment of the as-yet-unattained, for the achievement of the as-yet-unachieved, for the realization of the as-yet-unrealized.’ This is the second future peril considering which it is enough for a forest bhikkhu to dwell heedful, ardent, and resolute … for the realization of

the as-yet-unrealized.

  1. – Này các Tỷ-kheo, do quán thấy năm sợ hãi trong tương lai này, thật là vừa đủ để vị Tỷ-kheo sống ở rừng không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, để chứng đắc những gì chưa chứng đắc, để chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ. Thế nào là năm?
  2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống ở rừng quán sát như sau: “Nay ta sống một mình trong rừng. Khi ta sống một mình trong rừng, con rắn có thể cắn ta, con bò cạp có thể cắn ta, con rít có thể cắn ta. Do vậy, ta có thể mệnh chung. Như vậy là chướng ngại cho ta. Vậy ta hãy cố gắng tinh tấn để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, để chứng đạt những gì chưa chứng đắc, để chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ”.

Này các Tỷ-kheo, do quán thấy sợ hãi thứ nhất này về tương lai, thật là vừa đủ để vị Tỷ-kheo sống ở trong rừng không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, để chứng đắc những gì chưa chứng đắc, để chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ.

  1. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống ở trong rừng quán sát như sau: “Nay ta sống một mình trong rừng. Khi ta sống một mình trong rừng, ta có thể vấp ngã và té xuống, cơm ta ăn có thể làm ta mắc bệnh khi ăn, hay mật có thể làm ta khuấy động, hay niêm dịch (đàm) có thể làm ta khuấy động, các gió như kiếm có thể làm ta khuấy động, do vậy ta có thể mệnh chung. Như vậy là chướng ngại cho ta. Vậy ta hãy hăng hái, cố gắng để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, để chứng đắc những gì chưa chứng đắc, để chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ”.

Này các Tỷ-kheo, do quán thấy sợ hãi thứ hai này về tương lai, thật là vừa đủ để vị Tỷ-kheo sống ở rừng không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, để chứng đắc những gì chứa chứng đắc, để chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ.

 

  1. (3) “Again, a forest bhikkhu reflects thus: I am now dwelling all alone in the forest. But while I am living here, I might encounter wild beasts, such as a lion, a tiger, a leopard, a bear, or a hyena, and they might take my life. Because of that I would die, which would be an obstacle for me. Let me now arouse energy for the attainment of the as-yet-unattained, for the achievement of the as-yet-unachieved, for the realization of the as-yet-unrealized. This is the third future peril considering which it is enough for a forest bhikkhu to dwell heedful, ardent, and resolute … for the realization of the as-yet-unrealized.
  2. (4) “Again, a forest bhikkhu reflects thus: I am now dwelling all alone in the forest. But while I ain living here, I might encounter hoodlums escaping a crime or p lanning one and they might take my life. Because of that I would die, which would be an obstacle for me. Let me now arouse energy for the attainment

of the as-yet-unattained, for the achievement of the as-yetunachieved, for the realization of the as-yet-unrealized.’ This is the fourth future peril considering which it is enough for a forest bhikkhu to dwell heedful, ardent, and resolute … for the realization of the as-yet-unrealized.

  1. (5) “Again, a forest bhikkhu reflects thus: I am now dwelling all alone in the forest. But in the forest, there are wild spirits, and they might take my life. Because of that I would die, which would be an obstacle for me. Let me now arouse energy for the attainment of the as-yet-unattained, for the achievement of the as-yet-unachieved, for the realization of the as-yet-unrealized.’ This is the fifth future peril considering which it is enough for a forest bhikkhu to dwell heedful, ardent, and resolute … for the realization of the as-yet-unrealized.

“These, bhikkhus, are the five future perils considering which it is enough for a forest bhikkhu to dwell heedful, ardent, and resolute for the attainment of the as-yet-unattained, for the achievement of the as-yet-unachieved, for the realization of the as-yet-unrealized.”

  1. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống ở rừng quán sát như sau: “Nay ta sống một mình trong rừng. Sống một mình trong rừng, ta chung sống với các loài thú nguy hiểm, như sư tử, cọp, báo, gấu, dã can. Chúng có thể đoạt mạng sống của ta, có thể làm ta mệnh chung. Như vậy là một sự chướng ngại cho ta. Vậy ta hãy hăng hái tinh cần để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, để chứng đắc những gì chưa chứng đắc, để chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ”.

Này các Tỷ-kheo, do quán thấy sợ hãi thứ ba này về tương lai, thật là vừa đủ để vị Tỷ-kheo sống ở rừng không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, để chứng đắc những gì chưa chứng đắc, để chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ.

  1. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống ở rừng quán sát như sau: “Nay ta sống một mình trong rừng. Trong khi ta sống một mình trong rừng, ta chung sống với các loài ăn trộm, ăn cắp đã hành nghề. Chúng có thể đoạt mạng sống của ta, chúng có thể làm ta mạng chung và như vậy là một chướng ngại cho ta. Vậy ta hãy hăng hái tinh cần, để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, để chứng đắc những gì chưa chứng đắc, để chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ”.

Này các Tỷ-kheo, do quán thấy sợ hãi thứ tư này về tương lai, thật là vừa đủ để vị Tỷ-kheo sống ở rừng không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, để chứng đắc những gì chưa chứng đắc, để chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ.

  1. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống ở rừng quán sát như sau: “Nay ta sống một mình ở trong rừng. Ở trong rừng có những loài phi nhân nguy hiểm, chúng có thể đoạt mạng sống của ta làm ta mệnh chung, như vậy là một chướng ngại cho ta. Vậy ta hãy hăng hái tinh cần để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, chứng đắc những gì chưa chứng đắc, chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ”.

Này các Tỷ-kheo, do quán thấy sợ hãi thứ năm này về tương lai, thật là vừa đủ để Tỷ-kheo sống ở rừng không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, để chứng đắc những gì chưa chứng đắc, chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ.

Này các Tỷ-kheo, do quán thấy năm sợ hãi về tương lai này, thật là vừa đủ để Tỷ-kheo sống ở rừng không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, chứng đắc những gì chưa chứng đắc, chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ.

 

78 (8) Future Perils (2) – [(VIII) (78) Sợ Hãi Trong Tương Lai (2)]

 

  1. “Bhikkhus, when a forest bhikkhu considers five future perils, it is enough for him to dwell heedful, ardent, and resolute for the attainment of the as-yet-unattained, for the achievement of the as-yet-unachieved, for the realization of the as-yet-unrealized. What five?
  2. (1) “Here, a bhikkhu reflects thus: ‘I am now young, a blackhaired young man endowed with the blessing of youth, in the prime of life. But there will come a time when old age assails this body. Now when one is old, overcome by old age, it is not easy to attend to the Buddhas’ teaching; it is not easy to resort to remote lodgings in forests and jungle groves. Before that unwished for, undesirable, disagreeable condition comes upon me, let me in advance arouse energy for the attainment of the as-yet-unattained, for the achievement of the as-yet-unachieved, for the realization of the as-yet-unrealized. Thus, when I am in that condition, I will dwell at ease even though I am old.’

This is the first future peril considering which it is enough for a bhikkhu to dwell heedful, ardent, and resolute … for the realization of the as-yet-unrealized.

  1. – Này các Tỷ-kheo, do quán thấy năm sự sợ hãi về tương lai này, thật là vừa đủ để Tỷ-kheo sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, chứng đắc những gì chưa chứng đắc, chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ. Thế nào là năm?
  2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán sát như sau: “Nay ta còn trẻ, niên thiếu, còn thanh niên, tóc đen nhánh, trong buổi thanh xuân, trong sơ kỳ tuổi đời. Nhưng rồi đến thời già sẽ xúc chạm thân này. Khi đã già yếu, và bị già chinh phục, thật không dễ gì để tác ý đến giáo pháp của các đức Phật, thật không dễ gì để sống tại các trú xứ rừng núi cao nguyên xa vắng. Trước khi trạng thái ấy đến với ta, không đáng ưa, không đáng thích, không khả ý, ta hãy hăng hái tinh cần trước khi thời ấy đến, để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, chứng đắc những gì chưa chứng đắc, chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ. Và nếu thành tựu trạng thái ấy, có bị già, ta sẽ sống được thoải mái”.

Này các Tỷ-kheo, do quán thấy sợ hãi thứ nhất này về tương lai, như vậy là vừa đủ để Tỷ-kheo sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, chứng đắc những gì chưa chứng đắc, chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ.

 

  1. (2) “Again, a bhikkhu reflects thus: I am now seldom ill or afflicted; I possess an even digestion that is neither too cool nor too hot but moderate and suitable for striving. But there will come a time when illness assails this body. Now when

one is ill, overcome by illness, it is not easy to attend to the Buddhas’ teaching; it is not easy to resort to remote lodgings in forests and jungle groves. Before that unwished for, undesirable, disagreeable condition comes upon me, let me in advance arouse energy for the attainment of the as-yet-unattained, for the achievement of the as-yet-unachieved, for the realization of the as-yet-unrealized. Thus, when I am in that condition, I will dwell at ease even though I am ill.’

This is the second future peril considering which it is enough for a bhikkhu to dwell heedful, ardent, and resolute … for the realization of the

as-yet-unrealized.

  1. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo quán sát như sau: “Nay ta ít bệnh, ít não, sự tiêu hóa được điều hòa, không lạnh quá, không nóng quá, trung bình, hợp với tinh tấn, nhưng rồi đến thời bệnh sẽ xúc chạm thân này. Khi đã bị bệnh và bị bệnh chinh phục, thật không dễ gì tác ý đến giáo pháp của các đức Phật, thật không dễ gì để sống tại các trú xứ rừng núi cao nguyên xa vắng. Trước khi trạng thái ấy đến với ta, không đáng ưa, không đáng thích, không khả ý, ta hãy hăng hái tinh cần trước khi thời ấy đến, để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, chứng đắc những gì chưa chứng đắc, chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ. Và nếu thành tựu trạng thái ấy, dầu có bị bệnh, ta sẽ sống được thoải mái”.

Này các Tỷ-kheo, do quán thấy sợ hãi thứ hai này về tương lai, như vậy là vừa đủ để vị Tỷ-kheo sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, chứng đắc những gì chưa chứng đắc, chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ.

 

  1. (3) “Again, a bhikkhu reflects thus: ‘Food is now plentiful; there has been a good harvest and almsfood is abundant, so that one can easily subsist by means of gleaning. But there will come a time of famine, a poor harvest, when almsfood is hard to obtain and one cannot easily subsist by means of gleaning. In a time of famine, people migrate to places where food is plentiful and living conditions there are congested and crowded. Now when living conditions are congested and crowded, it is not easy to attend to the Buddhas’ teaching; it is hot easy to resort to remote lodgings in forests and jungle groves. Before that

unwished for, undesirable, disagreeable condition comes upon me, let me in advance arouse energy for the attainment of the as-yet-unattained, for the achievement of the as-yet-unachieved, for the realization of the as-yet-unrealized. Thus, when I am in that condition, I will dwell at ease even in a famine.’

This is the third future peril considering which it is enough for a bhikkhu to dwell heedful, ardent, and resolute … for the realization of

the as-yet-unrealized.

  1. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo quán sát như sau: “Nay không có đói kém, được mùa, đồ ăn khất thực dễ kiếm được, thật dễ dàng để nuôi sống bằng khất thực nỗ lực. Nhưng rồi đến thời có nạn đói, mất mùa, đồ ăn khất thực nỗ lực được, không dễ gì nuôi sống bằng khất thực nỗ lực. Và những người bị nạn đói sẽ dời đến chỗ nào được nhiều đồ ăn; tại đấy, phải sống với quần chúng, phải sống với hỗn tạp. Khi phải sống với quần chúng, phải sống với hỗn tạp, thật không dễ gì để tác ý đến giáo pháp của các đức Phật, thật không dễ gì để sống tại các trú xứ rừng núi cao nguyên xa vắng. Trước khi trạng thái ấy đến với ta, không đáng ưa, không đáng thích, không khả ý, ta hãy hăng hái tinh cần trước khi thời ấy đến, để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, chứng đắc những gì chưa chứng đắc, chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ. Và nếu thành tựu trạng thái ấy, có bị đói kém, ta sẽ sống được thoải mái”.

Này các Tỷ-kheo, do quán thấy sợ hãi thứ ba này về tương lai, như vậy là vừa đủ để vị Tỷ-kheo sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, chứng đắc những gì chưa chứng đắc, chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ.

  1. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán sát như sau: “Nay các loài Người sống với nhau thuận hòa, hoan hỷ với nhau, không cãi lộn nhau, hòa hợp như nước với sữa, sống nhìn nhau với cặp mắt ái kính. Nhưng rồi đến thời có sự sợ hãi về nạn cướp rừng, dân chúng trong nước leo lên xe để đi trốn tại nơi nào có sự sợ hãi, dân chúng di động đến chỗ có sự an ổn. Tại đấy, phải sống với quần chúng, phải sống với hỗn tạp, thật không dễ với quần chúng, sống với hỗn tạp, thật không dễ gì để tác ý đến giáo pháp của các đức Phật, thật không dễ gì để sống tại các trú xứ rừng núi cao nguyên xa vắng. Trước khi trạng thái ấy đến với ta, không đáng ưa, không đáng thích, không khả ý, ta phải hăng hái tinh cần trước khi thời ấy đến để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, chứng đắc những gì chưa chứng đắc, chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ. Và nếu thành tựu trạng thái ấy, có gặp sự sợ hãi, ta sẽ sống được thoải mái”.

Này các Tỷ-kheo, do quán thấy sợ hãi thứ tư này về tương lai, như vậy là vừa đủ để Tỷ-kheo sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, chứng đắc những gì chưa chứng đắc, chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ.

 

  1. (4) ” Again, a bhikkhu reflects thus: ‘People are now dwelling in concord, harmoniously, without disputes, blending like milk and water, viewing each other with eyes of affection. But there will come a time of peril, of turbulence in the wilderness, when the people of the countryside, mounted on their vehicles, flee on all sides. In a time of peril, people migrate to places where there is safety and living conditions there are congested and crowded. Now when living conditions are congested and crowded, it is not easy to attend to the Buddhas’ teaching; it is not easy to resort to remote lodgings in forests and jungle groves. Before that unwished for, undesirable, disagreeable condition comes upon me, let me in advance arouse energy for the attainment of the as-yet-unattained, for the achievement of the as-yetunachieved, for the realization of the as-yet-unrealized. Thus, when I am in that condition, I will dwell at ease even in time

of peril.’ This is the fourth future peril considering which it is enough for a bhikkhu to dwell heedful, ardent, and resolute … for the realization of the as-yet-unrealized.

  1. (5) “Again, a bhikkhu reflects thus: ‘The Sangha is now dwelling at ease— in concord, harmoniously, without disputes, with a single recitation. But there will come a time when there will be a schism in the Sangha. Now when there is a schism in the Sangha, it is not easy to attend to the Buddhas’ teaching; it is not easy to resort to remote lodgings in forests and jungle groves. Before that unwished for, undesirable, disagreeable condition comes upon me, let me in advance arouse energy for the attainment of the as-yet-unattained, for the achievement of the as-yet-unachieved, for the realization of the as-yet-unrealized. Thus, when I am in that condition, I will dwell at ease even though there is a schism in the Sangha.’

This is the fifth future peril considering which it is enough for a bhikkhu to dwell heedful, ardent, and resolute … for the realization of the as-yet-unrealized.

“These, bhikkhus, are the five future perils considering which it is enough for a bhikkhu to dwell heedful, ardent, and resolute for the attainment of the as-yet-unattained, for the achievement of the as-yet-unachieved, for the realization of

the as-yet-unrealized.”

  1. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán sát như sau: ” Nay chúng Tăng hòa hợp, cùng nhau hoan hỷ, không tranh luận nhau, sống thoải mái cùng chung một lời dạy… nhưng rồi đến thời chúng Tăng chia rẽ. Khi chúng Tăng chia rẽ, thật không dễ gì để tác ý đến giáo pháp của các đức Phật. Thật không dễ gì để sống tại các trú xứ rừng núi, cao nguyên xa vắng. Trước khi trạng thái ấy đến với ta, không đáng ưa, không đáng thích, không khả ý, ta hãy hăng hái tinh cần trước khi thời ấy đến, để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, chứng đắc những gì chưa chứng đắc, chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ. Và nếu thành tựu trạng thái ấy, chúng Tăng có chia rẽ, ta sẽ sống được thoải mái”.

Này các Tỷ-kheo, do quán thấy sợ hãi thứ năm này về tương lai, như vậy là vừa đủ để vị Tỷ-kheo sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, chứng đắc những gì chưa chứng đắc, chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ.

Này các Tỷ-kheo, do quán thấy năm sợ hãi này về tương lai, thật là vừa đủ để vị Tỷ-kheo sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, chứng đắc những gì chưa chứng đắc, chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ.

 

79 (9) Future Perils (3) – [(IX) (79) Sợ Hãi Trong Tương Lai (3)] – page 713

 

  1. “Bhikkhus, there are these five future perils as yet unarisen that will arise in the future. You should recognize them and make an effort to abandon them. What five?
  2. (1) “In the future, there will be bhikkhus who are undeveloped in body, virtuous behavior, mind, and wisdom. They will give full ordination to others but will not be able to discipline them in the higher virtuous behavior, the higher mind, and the higher wisdom. These [pupils] too will be undeveloped

in body, virtuous behavior, mind, and wisdom. They in turn will give full ordination to others but will not be able to discipline them in the higher virtuous behavior, the higher mind, and the higher wisdom. These [pupils] too will be undeveloped in body, virtuous behavior, mind, and wisdom. Thus, bhikkhus, through corruption of the Dhamma comes corruption of the discipline, and from corruption of the discipline comes corruption

of the Dhamma. This is the first future peril as yet unarisen that will arise in the future. You should recognize it and make an effort to abandon it.

  1. – Có năm sợ hãi về tương lai này, này các Tỷ-kheo, nay chưa sanh khởi, nhưng sẽ sanh khởi trong tương lai. Các Thầy cần phải hoàn toàn rõ biết chúng, sau khi rõ biết, cần phải tinh tấn đoạn trừ chúng. Thế nào là năm?
  2. Này các Tỷ-kheo, sẽ có những vị Tỷ-kheo trong tương lai, thân không tu tập, giới không tu tập, tâm không tu tập, tuệ không tu tập. Do thân không tu tập, giới không tu tập, tâm không tu tập, tuệ không tu tập, nếu họ thọ đại giới cho các người khác, họ sẽ không có thể huấn luyện trong tăng thượng giới, trong tăng thượng tâm, trong tăng thượng tuệ. Các người ấy sẽ trở thành những người thân không tu tập, giới không tu tập, tâm không tu tập, tuệ không tu tập. Do thân không tu tập, giới không tu tập, tâm không tu tập, tuệ không tu tập, họ sẽ thọ đại giới cho các người khác, họ không có thể huấn luyện trong tăng thượng giới, trong tăng thượng tâm, trong tăng thượng tuệ. Các người ấy sẽ trở thành những người thân không tu tập, giới không tu tập, tâm không tu tập, tuệ không tu tập. Như vậy, này các Tỷ-kheo, do Pháp ô nhiễm, nên Luật bị ô nhiễm; do Luật ô nhiễm, nên Pháp bị ô nhiễm.

Này các Tỷ-kheo, đây là sợ hãi thứ nhất về tương lai, nay chưa sanh khởi, nhưng sẽ sanh khởi trong tương lai; các Thầy cần phải hoàn toàn rõ biết chúng. Sau khi hoàn toàn rõ biết, các Thầy cần phải tinh tấn để đoạn trừ chúng.

 

  1. (2) “Again, in the future there will be bhikkhus who are undeveloped in body, virtuous behavior, mind, and wisdom. They will give dependence to others but will not be able to discipline them in the higher virtuous behavior, the higher mind, and the higher wisdom. These [pupils] too will be undeveloped in body, virtuous behavior, mind, and wisdom. They in turn will give dependence to others but will not be able to discipline them in the higher virtuous behavior, the higher mind, and the higher wisdom. These [pupils] too will be undeveloped in body, virtuous behavior, mind, and wisdom. Thus, bhikkhus, through corruption of the Dhamma comes corruption of the discipline, and from corruption of the discipline comes corruption of the Dhamma.

This is the second future peril as yet unarisen that will arise in the future. You should recognize it and make an effort to abandon it.

  1. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo trong tương lai sẽ trở thành những người thân không tu tập, giới không tu tập, tâm không tu tập, tuệ không tu tập, họ làm y chỉ sư cho các người khác. Họ không có thể huấn luyện trong tăng thượng giới, trong tăng thượng tâm, trong tăng thượng tuệ. những người ấy sẽ trở thành những người thân không tu tập, giới không tu tập, tâm không tu tập, tuệ không tu tập. Các người ấy, do thân không tu tập, giới không tu tập, tâm không tu tập, tuệ không tu tập, lại làm y chỉ sư cho những người khác, họ không có thể huấn luyện trong tăng thượng giới, trong tăng thượng tâm, trong tăng thượng tuệ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, do Pháp ô nhiễm, nên Luật bị ô nhiễm. Do Luật ô nhiễm, nên Pháp bị ô nhiễm.

Này các Tỷ-kheo, đây là sự sợ hãi thứ hai về tương lai, nay chưa sanh khởi, nhưng sẽ sanh khởi trong tương lai, các Thầy cần phải hoàn toàn rõ biết chúng. Sau khi hoàn toàn rõ biết, các Thầy cần phải tinh tấn để đoạn trừ chúng.

 

  1. (3) “Again, in the future there will be bhikkhus who are undeveloped in body, virtuous behavior, mind, and wisdom. While engaged in talk pertaining to the Dhamma, in questions-and-answers, they will slide down into a dark Dhamma but will not recognize it. Thus, bhikkhus, through corruption of the Dhamma comes corruption of the discipline, and from corruption of the discipline comes corruption of the Dhamma.

This is the third future peril as yet unarisen that will arise in the future.

You should recognize it and make an effort to abandon it.

  1. (4) “Again, in the future there will be bhikkhus who a re undeveloped

in body, virtuous behavior, mind, and wisdom. When those discourses spoken by the Tathagata are being recited that are deep, deep in meaning, world-transcending, connected with emptiness, they will not want to listen to them, will not lend an ear to them, or apply their rninds to understand them; they will

not think those teachings should be studied and learned. But when those discourses are being recited that are mere poetry composed by poets, beautiful in words and phrases, created by outsiders, spoken by disciples, they will want to listen to them, lend an ear to them, and apply their minds to understand

them; they will think those teachings should be studied and learned. Thus, bhikkhus, through corruption of the Dhamma comes corruption of the discipline, and from corruption of the discipline comes corruption of the Dhamma.

This is the fourth future peril as yet unarisen that will arise in the future. You

should recognize it and make an effort to abandon it.

  1. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo trong tương lai sẽ trở thành những người thân không tu tập, giới không tu tập, tâm không tu tập, tuệ không tu tập. Do thân không tu tập, giới không tu tập, tâm không tu tập, tuệ không tu tập, khi họ thuyết về Thắng pháp hay về Quảng thuyết (Trí giải luận), họ rơi vào hắc pháp, không có thể giác ngộ rõ ràng. Này các Tỷ-kheo, đây là do ô nhiễm Pháp, nên sanh ô nhiễm Luật; do ô nhiễm Luật, nên sanh ô nhiễm Pháp.

Này các Tỷ-kheo, đây là sợ hãi thứ ba về tương lai, nay chưa sanh khởi, nhưng sẽ sanh khởi trong tương lai, các Thầy cần phải hoàn toàn rõ biết chúng. Sau khi hoàn toàn rõ biết, các Thầy cần phải tinh tấn để đoạn tận chúng.

  1. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, sẽ có những Tỷ-kheo trong tương lai thân không tu tập, giới không tu tập, tâm không tu tập, tuệ không tu tập. Do thân không tu tập, giới không tu tập, tâm không tu tập, tuệ không tu tập, đối với các kinh tạng do Như Lai tuyên thuyết, thâm sâu, ý nghĩa sâu kín, siêu thế, liên hệ đến không, khi các kinh ấy được thuyết giảng, họ không có nghe, họ không có lắng tai, họ không an trú tâm liễu giải, họ không nghĩ rằng các kinh ấy cần phải học tập, cần phải học thuộc lòng. Còn những kinh điển do các thi sĩ làm, những bài thi, với những chữ văn hoa, với những câu văn hoa, thuộc ngoại điển do các đệ tử thuyết, trong khi các kinh ấy được thuyết giảng, họ sẽ lắng nghe, họ sẽ lóng tai, họ an trú tâm liễu giải. Các pháp ấy, họ sẽ nghĩ cần phải học tập, cần phải học thuộc lòng. Này các Tỷ-kheo, đây là do Pháp ô nhiễm, nên Luật ô nhiễm; do Luật ô nhiễm, nên Pháp ô nhiễm.

Này các Tỷ-kheo, đây là sợ hãi thứ tư về tương lai, nay chưa sanh khởi, nhưng sẽ sanh khởi trong tương lai, các Thầy cần phải hoàn toàn rõ biết chúng. Sau khi hoàn toàn rõ biết, các Thầy cần phải tinh tấn để đoạn tận sợ hãi ấy.

 

  1. (5) “Again, in the future there will be bhikkhus who are undeveloped in body, virtuous behavior, mind, and wisdom. The elder bhikkhus— being undeveloped in body, virtuous behavior, mind, and wisdom—will be luxurious and lax, leaders in backsliding, discarding the duty of solitude; they will not arouse energy for the attainment of the as-yet-unattained, for the achievement of the as-yet-unachieved, for the realization of the as-yet-unrealized. Those in the next generation will follow their example. They, too, will be luxurious and lax, leaders in backsliding, discarding the duty of solitude; they, too, will not

arouse energy for the attainment of the as-yet-unattained, for the achievement of the as-yet-unachieved, for the realization of the as-yet-unrealized. Thus, bhikkhus, through corruption of the Dhamma comes corruption of the discipline, and from corruption of the discipline comes corruption of the Dhamma.

This is the fifth future peril as yet unarisen that will arise in the future. You should recognize it and make an effort to abandon it.

“These, bhikkhus, are the five future perils as yet unarisen that will arise in the future. You should recognize them and make an effort to abandon them.”

  1. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, sẽ có những Tỷ-kheo trong tương lai thân không tu tập, giới không tu tập, tâm không tu tập, tuệ không tu tập. Do thân không tu tập, giới không tu tập, tâm không tu tập, tuệ không tu tập nên các trưởng lão Tỷ-kheo sẽ sống đầy đủ, biếng nhác dẫn đầu trong thối đọa, từ bỏ gánh nặng viễn ly, không có hăng hái tinh tấn để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, chứng đắc những gì chưa chứng đắc, chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ. Và quần chúng về sau sẽ đi theo tà kiến của họ. Họ sẽ trở thành những người sống đầy đủ, biếng nhác, dẫn đầu trong thối đọa, từ bỏ gánh nặng, viễn ly, sẽ không hăng hái tinh tấn để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, để chứng đắc những gì chưa chứng đắc, để chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, do nhiễm ô về Pháp, đưa đến nhiễm ô về Luật; do nhiễm ô về Luật, đưa đến nhiễm ô về Pháp.

Này các Tỷ-kheo, đây là sợ hãi thứ năm về tương lai, hiện nay chưa sanh khởi, nhưng sẽ sanh khởi trong tương lai, các Thầy cần phải hoàn toàn rõ biết chúng. Sau khi hoàn toàn rõ biết, cần phải tinh tấn để đoạn tận sự sợ hãi ấy.

Này các Tỷ-kheo, năm sợ hãi về tương lai này, nay chưa sanh khởi, nhưng sẽ sanh khởi trong tương lai. Các Thầy cần phải hoàn toàn rõ biết chúng. Sau khi hoàn toàn rõ biết, các Thầy cần phải tinh tấn để đoạn tận những sự sợ hãi ấy.

 

80 (10) Future Perils (4) – [(X) (80) Sự Sợ Hãi Trong Tương Lai (4)]

 

  1. “Bhikkhus, there are these five future perils as yet unarisen that will arise in the future. You should recognize them and make an effort to abandon them. What five?
  2. (1) “In the future, there will be bhikkhus who desire fine robes. They will give up the use of rag robes, give up remote lodgings in forests and jungle groves, and having converged upon the villages, towns, and capital cities, will take up their residence there; and they will engage in many kinds of wrong and improper searches for the sake of a robe.

This is the first future peril as yet unarisen that will arise in the future. You

should recognize it and make an effort to abandon it.

  1. (2) “Again, in the future there will be bhikkhus who desire fine almsfood. They will give up going on alms round, give up remote lodgings in forests and jungle groves, and having converged upon the villages, towns, and capital cities, will take up their residence there, seeking the finest delicacies with the tips

of their tongues; and they will engage in m any kinds of wrong and improper searches for the sake of almsfood.

This is the second future peril as yet unarisen that will arise in the future.

You should recognize it and make an effort to abandon it.

  1. – Có năm sợ hãi về tương lai này, hiện chưa sanh khởi, nhưng sẽ sanh khởi trong tương lai, các Thầy cần phải hoàn toàn rõ biết chúng. Sau khi hoàn toàn rõ biết, các Thầy cần phải tinh tấn để đoạn tận những sợ hãi ấy.
  2. Này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo trong tương lai sẽ tham muốn các y tốt đẹp. Do họ tham muốn các y tốt đẹp, họ sẽ từ bỏ các y nhặt nơi đống rác, họ sẽ từ bỏ các khu rừng, các vùng cao nguyên, các trú xứ xa vắng, họ sẽ đi đến các làng, thị trấn, kinh đô vua chúa và sống tại các chỗ ấy. Vì nhân y áo, họ sẽ rơi vào những hành vi tầm cầu không thích hợp.

Này các Tỷ-kheo, đây là sợ hãi thứ nhất về tương lai, hiện nay chưa sanh khởi, nhưng sẽ sanh khởi trong tương lai. Các Thầy cần phải hoàn toàn rõ biết chúng. Sau khi hoàn toàn rõ biết, cần phải tinh tấn để đoạn trừ sợ hãi ấy.

  1. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo trong tương lai sẽ tham muốn các đồ ăn khất thực ngon lành. Do họ tham muốn các đồ ăn khất thực ngon lành, họ sẽ từ bỏ nếp sống khất thực, từ bỏ các khu rừng, các vùng cao nguyên, các trú xứ xa vắng. Họ sẽ đi vào các làng, thị trấn, kinh đô của vua và sinh sống tại đấy, tìm cầu các món ăn thượng vị, như với đầu lưỡi. Do nhân đồ ăn khất thực, họ sẽ rơi vào nhiều hành động tầm cầu không thích hợp.

Này các Tỷ-kheo, đây là sợ hãi thứ hai về tương lai, hiện nay chưa sanh khởi, nhưng sẽ sanh khởi trong tương lai. Các Thầy cần phải hoàn toàn rõ biết chúng. Sau khi hoàn toàn rõ biết, cần phải tinh tấn để đoạn trừ sợ hãi ấy.

 

  1. (3) “Again, in the future there will be bhikkhus who desire fine lodgings. They will give up dwelling at the foot of a tree, will give up remote lodgings in forests and jungle groves, and having converged upon the villages, towns, and capital cities, will take up their residence there; and they will engage in many kinds of wrong and improper searches for the sake of lodgings.

This is the third future peril as yet unarisen that will arise in the future. You should recognize it and make an effort to abandon it.

  1. (4) “Again, in the future there will be bhikkhus who bond closely with bhikkhunls, female probationers, and novices. When they form such close bonds, it can be expected that they will live the spiritual life dissatisfied, commit a certain defiled offense, or give up the training and revert to the lower life.

This is the fourth future peril as yet unarisen that will arise in the future. You should recognize it and make an effort to abandon it.

  1. (5) “Again, in the future there will be bhikkhus who bond closely with monastery workers and novices. When they form such close bonds, it can be expected that they will engage in the use of various kinds of stored-up goods and give gross hints in regard to the ground and vegetation. This is the fifth

future peril as yet unarisen that will arise in the future. You should recognize it and make an effort to abandon it.

“These, bhikkhus, are the five future perils as yet unarisen that will arise in the future. You should recognize them and make an effort to abandon them.”

  1. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo trong tương lai sẽ tham muốn sàng tọa tốt đẹp. Do họ tham muốn các sàng tọa tốt đẹp, họ sẽ từ bỏ nếp sống dưới gốc cây, họ sẽ từ bỏ các khu rừng, các vùng cao nguyên, các trú xứ xa vắng. Họ sẽ đi vào các làng, thị trấn, kinh đô của vua và sinh sống tại đấy. Vì nhân sàng tọa, họ sẽ rơi vào nhiều hành động tầm cầu không thích hợp.

Này các Tỷ-kheo, đây là sợ hãi thứ ba về tương lai, hiện nay chưa sanh khởi, nhưng sẽ sanh khởi trong tương lai. Các Thầy cần phải hoàn toàn rõ biết chúng. Sau khi hoàn toàn rõ biết, cần phải tinh tấn để đoạn trừ sợ hãi ấy.

  1. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, sẽ có những Tỷ-kheo trong tương lai sẽ sống liên hệ với Tỷ-kheo-ni, các chánh học nữ, các Sa-di-ni. Khi sống liên hệ với Tỷ-kheo-ni, chánh học nữ, Sa-di-ni, này các Tỷ-kheo, được chờ đợi là: Họ sẽ không thích thú sống Phạm hạnh, hay họ sẽ rơi vào một trong những tội lỗi ô nhiễm, sẽ từ bỏ học pháp và trở lui lại đời sống thế tục.

Này các Tỷ-kheo, đây là sợ hãi thứ tư về tương lai, hiện nay chưa sanh khởi. Các Thầy cần phải hoàn toàn rõ biết chúng. Sau khi hoàn toàn rõ biết, cần phải tinh tấn để đoạn trừ sợ hãi ấy.

  1. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, sẽ có những Tỷ-kheo trong tương lai sống liên hệ với các người có hệ lụy đến khu vườn, với các Sa-di. Khi sống liên hệ với các người có hệ lụy đến khu vườn và với các Sa-di, này các Tỷ-kheo, được chờ đợi là họ sẽ sống và tận hưởng các vật liệu cất chứa, và họ sẽ làm các thô tướng đối với đất đai và đối với các sản phẩm trồng trọt.

Này các Tỷ-kheo, đây là sợ hãi thứ năm về tương lai, hiện nay chưa sanh khởi, nhưng sẽ sanh khởi trong tương lai. Các Thầy cần phải hoàn toàn rõ biết chúng. Sau khi hoàn toàn rõ biết, các Thầy cần phải tinh tấn để đoạn tận sự sợ hãi ấy.

Năm sự sợ hãi về tương lai này, này các Tỷ-kheo, hiện nay chưa sanh khởi, nhưng sẽ sanh khởi trong tương lai. Các Thầy cần phải hoàn toàn rõ biết chúng. Sau khi hoàn toàn rõ biết, các Thầy cần phải tinh tấn để đoạn tận những sợ hãi ấy.

 

  1. Elders – [IX. Phẩm Trưởng Lão]

 

81 (1) Provoking Lust – [(I) (81) Khả Ái]

 

  1. “Bhikkhus, possessing five qualities, an elder bhikkhu is displeasing and disagreeable to his fellow monks and is neither respected nor esteemed by them. What five?
  2. (1) He is filled with lust toward that which provokes lust; (2) he is filled with

hatred toward that which provokes hatred; (3) he is deluded by that which deludes; (4) he is agitated by that which agitates; (5) and he is intoxicated by that which intoxicates. Possessing these five qualities, an elder bhikkhu is displeasing and disagreeable to his fellow monks and is neither respected nor esteemed by them.

  1. “Bhikkhus, possessing five [other] qualities, an elder bhikkhu is pleasing and agreeable to his fellow monks and is respected and esteemed by them. What five?
  2. (1) He is not filled with lust toward that which provokes lust; (2) he is not filled with hatred toward that which provokes hatred; (3) he is not deluded

by that which deludes; (4) he is not agitated by that which agitates; (5) and he is not intoxicated by that which intoxicates. Possessing these five qualities, an elder bhikkhu is pleasing and agreeable to his fellow monks and is respected and esteemed by them-“

  1. – Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm hạnh không được ái mộ, không được ưa thích, không được tôn trọng, không được làm gương để tu tập. Thế nào là năm?
  2. Bị tham ái bởi những gì khả ái, bị hiềm hận bởi những gì đáng hiềm hận, bị si mê bởi những gì đáng si mê, bị phẫn nộ bởi những gì đáng phẫn nộ, bị say đắm bởi những gì đáng say đắm. Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo Trưởng Lão đối với các vị đồng Phạm hạnh không được ái mộ, không được ưa thích, không được tôn trọng, không được làm gương để tu tập.
  3. Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm hạnh được ái mộ, được ưa thích, được tôn trọng, được làm gương để tu tập. Thế nào là năm?
  4. Không bị tham bởi những gì khả ái, không bị hiềm hận bởi những gì đáng hiềm hận, không bị si mê bởi những gì đáng si mê, không bị phẫn nộ bởi những gì đáng phẫn nộ, không bị say đắm bởi những gì đáng say đắm. Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo Trưởng Lão đối với các vị đồng Phạm hạnh được ái mộ, được ưa thích, được tôn trọng, được làm gương để tu tập.

 

82 (2) Devoid of Lust – [(II) (82) Ly Tham]

 

  1. “Bhikkhus, possessing five qualities, an elder bhikkhu is displeasing and disagreeable to his fellow monks and is neither respected nor esteemed by them. What five?
  2. He is not devoid of lust; he is not devoid of hatred; he is not devoid of delusion; he is denigrating; and he is insolent.

Possessing these five qualities … nor esteemed by them.

  1. “Bhikkhus, possessing five [other] qualities an elder bhikkhu is pleasing and agreeable to his fellow monks and is respected and esteemed by them. What five?
  2. He is devoid of lust; he is devoid of hatred; he is devoid of delusion; he is not denigrating; and he is not insolent.

Possessing these five qualities … and esteemed by them.”

  1. – Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm hạnh không được ái mộ, không được ưa thích, không được tôn trọng, không được làm gương để tu tập. Thế nào là năm?
  2. Không ly tham, không ly sân, không ly si, hư ngụy và não hại.

Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm hạnh không được ái mộ, không được ưa thích, không được tôn trọng, không được làm gương để tu tập.

  1. Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm hạnh được ái mộ, được ưa thích, được tôn trọng, được làm gương để tu tập. Thế nào là năm?
  2. Ly tham, ly sân, ly si, không hư ngụy và không não hại. Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm hạnh được ái mộ, được ưa thích, được tôn trọng, được làm gương để tu tập.

 

83 (3) A Schemer – [(III) (83) Lừa Ðảo]

 

  1. “Bhikkhus, possessing five qualities, an elder bhikkhu is displeasing and disagreeable to his fellow monks and is neither respected nor esteemed by them. What five?
  2. He is a schemer, a flatterer, a hinter, a belittler, and one who pursues gain with gain. Possessing these five qualities … nor esteemed by them.
  3. “Bhikkhus, possessing five [other] qualities, an elder bhikkhu is pleasing and agreeable to his fellow monks and is respected and esteemed by them. What five?
  4. He is not a schemer, a flatterer, a hinter, a belittler, or one who pursues gain with gain.

Possessing these five qualities. . . and esteemed by them.”

  1. – Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm hạnh không được ái mộ, không được ưa thích, không được tôn trọng, không được làm gương để tu tập. Thế nào là năm?
  2. Lừa đảo, siểm nịnh (hư đàm), hiện tướng (gợi ý), gièm pha, lấy lợi cầu lợi. Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm hạnh không được ái mộ, không được ưa thích, không được tôn trọng, không được làm gương để tu tập.
  3. Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm hạnh được ái mộ, được ưa thích, được tôn trọng, được làm gương để tu tập. Thế nào là năm?
  4. Không lừa đảo, không siểm nịnh, không hiện tướng, không gièm pha, không lấy lợi cầu lợi. Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm hạnh được ái mộ, được ưa thích, được tôn trọng, được làm gương để tu tập.

 

84 (4) Devoid of Faith – [(IV) (84) Lòng Tin]

 

  1. “Bhikkhus, possessing five qualities, an elder bhikkhu is displeasing and disagreeable to his fellow monks and is neither respected nor esteemed by them. What five?
  2. He is devoid of faith, morally shameless, morally reckless, lazy, and unwise.
  3. Possessing these five qualities … nor esteemed by them. “Bhikkhus, possessing five [other] qualities, an elder bhikkhu is pleasing and agreeable to his fellow monks and is respected and esteemed by them. What five?
  4. He is endowed with faith, has a sense of moral shame, has moral dread, and is energetic and wise. Possessing these five qualities … and esteemed by them.”
  5. – Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm hạnh không được ái mộ, không được ưa thích, không được tôn trọng, không được làm gương để tu tập. Thế nào là năm?
  6. Không tín, không hổ thẹn, không biết sợ, biếng nhác và ác tuệ. Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm hạnh không được ái mộ, không được ưa thích, không được tôn trọng, không được làm gương để tu tập.
  7. Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm hạnh được ái mộ, được ưa thích, được tôn trọng, được làm gương để tu tập. Thế nào là năm?
  8. Có lòng tin, có hổ thẹn, có biết sợ, tinh cần, tinh tấn và có tuệ. Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm hạnh được ái mộ, được ưa thích, được tôn trọng, được làm gương để tu tập.

 

85 (5) Cannot Patiently Endure – [(V) (85) Không Kham Nhẫn]

 

  1. “Bhikkhus, possessing five qualities, an elder bhikkhu is displeasing and disagreeable to his fellow monks and is neither respected nor esteemed by them. What five?
  2. He cannot patiently endure forms, sounds, odors, tastes, and tactile objects. Possessing these five qualities . . . nor esteemed by them.
  3. “Bhikkhus, possessing five [other] qualities, an elder bhikkhu is pleasing and agreeable to his fellow monks and is respected and esteemed by them. What five?
  4. He can patiently endure forms, sounds, odors, tastes, and tactile objects. Possessing these five qualities … and esteemed by them.”

(1-4) … (Như kinh trên, chỉ khác về năm pháp, đó là: không kham nhẫn đối với các sắc, không kham nhẫn đối với các tiếng, không kham nhẫn đối với các hương, không kham nhẫn đối với các vị, không kham nhẫn đối với các xúc. Còn về năm thiện pháp là kham nhẫn đối với các sắc… các tiếng… các hương… các vị và các xúc).

 

86 (6) Analytical Knowledges – [(VI) (86) Vô Ngại Giải]

 

“Bhikkhus, possessing five qualities, an elder bhikkhu is pleasing and agreeable to his fellow monks and is respected and esteemed by them. What five?

He has attained the analytical knowledge of meaning, the analytical knowledge of the Dhamma, the analytical knowledge of language, the analytical knowledge of discernment, and he is skillful and diligent in attending to the diverse chores that are to be done for his fellow monks; he possesses sound judgment about them in order to carry out and arrange them properly.

Possessing these five qualities … and esteemed by them.”

– Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm hạnh được ái mộ, được ưa thích, được tôn trọng, được làm gương để tu tập. Thế nào là năm?

Ðạt được nghĩa vô ngại giải, đạt được pháp vô ngại giải, đạt được từ vô ngại giải, đạt được biện tài vô ngại giải, đối với các sự việc, các vị đồng Phạm hạnh cần phải làm, hoặc lớn hay nhỏ, vị ấy thiện xảo, không có biếng nhác, thành tựu trí phương tiện. Ở đây vừa đủ để làm, vừa đủ đến khiến người làm.

Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm hạnh được ái mộ, được ưa thích, được tôn trọng, được làm gương để tu tập.

 

87 (7) Virtuous – [(VII) (87) Giới]

 

“Bhikkhus, possessing five qualities, an elder bhikkhu is pleasing and agreeable to his fellow monks and is respected and esteemed by them. What five?

(1) “He is virtuous; he dwells restrained by the Patimokkha, possessed of good conduct and resort, seeing danger in minute faults. Having undertaken the training rules, he trains in them. (2) “He has learned much, remembers what he has learned, and accumulates what he has learned. Those teachings that are good in the beginning, good in the middle, and good in the end, with the right meaning and phrasing, which proclaim the perfectly complete and pure spiritual life—such teachings as these he has learned much of, retained in mind, recited verbally, mentally investigated, and penetrated well by view. (3) “He is a good speaker with a good delivery; he is gifted with speech that is polished, clear, articulate, expressive of the meaning. (4) “He gains at will, without trouble or difficulty, the four jhanas that constitute the higher mind and are pleasant dwellings in this very life. (5) “With the destruction of the taints, he has realized for himself with direct knowledge, in this very life, the taintless liberation of mind, liberation by wisdom, and having entered upon it, he dwells in it.

“Possessing these five qualities, bhikkhus, an elder bhikkhu is pleasing and agreeable to his fellow monks and is respected and esteemed by them.”

  1. – Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm hạnh được ái mộ, được ưa thích, được tôn trọng, được làm gương để tu tập. Thế nào là năm?
  2. Có giới, sống được bảo vệ với sự bảo vệ của giới bổn, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sự sợ hãi trong các tội nhỏ nhiệm, chấp nhận và học tập các học pháp, nghe nhiều, thọ trì điều được nghe, tích tập điều được nghe. Các pháp nào sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, đề cao đời sống Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh, những pháp ấy, vị ấy đã nghe nhiều, đã nắm giữ, đã ghi nhớ nhờ đọc nhiều lần, chuyên ý quán sát, khéo thành tựu nhờ chánh kiến; thiện ngôn dùng lời thiện ngôn, lời nói tao nhã, ý nghĩa minh bạch, giọng nói không bập bẹ, phều phào, giải thích nghĩa lý minh xác, chứng được không khó khăn, chứng được không mệt nhọc, chứng được không phí sức bốn Thiền, thuộc tăng thượng tâm, đem đến hiện tại lạc trú. Do đoạn tận các lậu hoặc, vị ấy tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát.

Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo Trưởng lão đối với các vị đồng Phạm hạnh được ái mộ, được ưa thích, được tôn trọng, được làm gương để tu tập.

 

88 (8) An Elder – [(VIII) (88) Vị Trưởng Lão]

 

  1. “Bhikkhus, possessing five qualities, an elder bhikkhu is acting for the harm of many people, for the unhappiness of many people, for the ruin, harm, and suffering of many people, of devas and humans. What five?
  2. “(1) An elder is of long standing and has long gone forth. (2) ‘He is well known and famous and has a retinue of many people, including householders and monastics. (3) He gains robes, almsfood, lodgings, and medicines and provisions for the sick. (4) He has learned much, remembers what he has learned, and accumulates what he has learned. Those teachings that are good in the beginning, good in the middle, and good in the end, with the right meaning and phrasing, which proclaim the perfectly complete and pure spiritual life— such teachings as these he has learned much of, retained in mind, recited verbally,

mentally investigated, and penetrated well by view. (5) He holds wrong view and has a distorted perspective. “He draws many people away from the good Dhamma and establishes them in a bad Dhamma. Thinking, ‘The elder bhikkhu

is of long standing and has long gone forth,’ they follow his example. Thinking, “The elder bhikkhu is well known and famous and has a retinue o f many people, including householders and monastics,’ they follow his example. Thinking, ‘The elder bhikkhu gains robes, almsfood, lodgings, and medicines

and provisions for the sick,’ they follow his example. Thinking, ‘The elder bhikkhu has learned much, remembers what he has learned, and accumulates what he has learned,’ they follow his example.

“Possessing these five qualities, an elder bhikkhu is acting for the harm of many people, for the unhappiness of many people, for the ruin, harm, and suffering of many people, of devas and humans.

  1. – Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo Trưởng lão đem lại bất hạnh cho đa số, đem lại không an lạc cho đa số, đem lại không lợi ích, bất hạnh, đau khổ cho chư Thiên và loài Người. Thế nào là năm?
  2. Vị Tỷ-kheo Trưởng lão là bậc kỳ cựu, xuất gia đã lâu ngày, được nhiều người biết đến, có danh vọng, được một số đông người tại gia, xuất gia đoanh vây, nhận được các vật dụng cần thiết như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Bậc nghe nhiều, thọ trì điều được nghe, tích tập điều được nghe. Các pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, đề cao đời sống Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh, những pháp ấy, vị ấy đã nghe nhiều, đã nắm giữ, đã ghi nhớ nhờ đọc nhiều lần, chuyên ý quan sát, khéo thành tựu, nhờ chánh kiến. Vị ấy có tà kiến, có tri kiến điên đảo. Vị ấy làm cho nhiều người từ bỏ diệu pháp, chấp nhận phi diệu pháp. Vì vị Tỷ-kheo Trưởng lão là bậc kỳ cựu, xuất gia đã lâu ngày, nhiều người làm theo tri kiến vị ấy. Vì vị Tỷ-kheo Trưởng lão được nhiều người biết đến, có danh vọng, được một số đông người tại gia, xuất gia đoanh vây, nhiều người làm theo tri kiến vị ấy. Vì rằng, vị Tỷ-kheo Trưởng lão nhận được các vật dụng cần thiết như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, nhiều người làm theo tri kiến vị ấy. Vì rằng vị Tỷ-kheo là bậc nghe nhiều, thọ trì điều được nghe, tích tập điều được nghe, nhiều người làm theo tri kiến vị ấy.

Thành tựu năm pháp này, vị Tỷ-kheo Trưởng lão đem lại bất hạnh cho đa số, đem lại không an lạc cho đa số, đem lại không lợi ích, bất hạnh, đau khổ cho chư Thiên và loài Người.

 

  1. “Bhikkhus, possessing five [other] qualities, an elder bhikkhu is acting for the welfare of many people, for the happiness of many people, for the good, welfare, and happiness of many people, of devas arid human beings. What fiye?
  2. “(1) An elder is of long standing and has long gone forth. (2) He is well known and famous and has a retinue of many people, including householders and monastics. (3) He gains robes, almsfood, lodgings, and medicines and provisions for the sick. (4) He has learned much, remembers what he has learned, and

accumulates what he has learned. Those teachings that are good in the beginning … he has penetrated well by view. (5) He holds right view ahd has a correct perspective. “He draws many people aw ay from a bad Dhamma and

establishes them in the good Dhamma. Thinking, ‘The elder bhikkhu is of long standing and has long gone forth, they follow his example. Thinking, ‘The elder bhikkhu is well known and famous and has a retinue of many people, including householders and monastics, they follow his example. Thinking, ‘The elder bhikkhu gains robes, almsfood, lodgings, and medicines and provisions for the sick, they follow his example, Thinking, ‘The elder bhikkhu has learned much, remembers what he has learned, and accumulates what he has learned, they follow his example.

“Possessing these five qualities, an elder bhikkhu is acting for the welfare of many people, for the happiness of many people, for the good, welfare, and happiness of many people, of devas and humans.”

  1. Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo Trưởng lão đem lại hạnh phúc cho đa số, đem lại an lạc cho đa số, đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho chư Thiên và loài Người. Thế nào là năm?
  2. Vị Tỷ-kheo Trưởng lão là bậc kỳ cựu, xuất gia đã lâu ngày, được nhiều người biết đến, có danh vọng, được một số đông người tại gia, xuất gia đoanh vây, nhận được các vật dụng cần thiết như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Bậc nghe nhiều, thọ trì điều được nghe, tích tập điều được nghe. Các pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, đề cao đời sống Phạm hạnh, hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh, những pháp ấy, vị ấy đã nghe nhiều, đã nắm giữ, đã ghi nhớ nhờ đọc nhiều lần, chuyên ý quan sát, khéo thành tựu nhờ chánh kiến. Vị ấy có chánh kiến, không có tri kiến điên đảo. Vị ấy làm cho nhiều người từ bỏ phi diệu pháp, chấp nhận diệu pháp. Vì vị Tỷ-kheo Trưởng lão là bậc kỳ cựu xuất gia đã lâu ngày, nhiều người làm theo tri kiến vị ấy. Vì vị Tỷ-kheo Trưởng lão đã được nhiều người biết đến, có danh vọng, được số đông người tại gia xuất gia doanh vây, nhiều người làm theo tri kiến vị ấy. Vì rằng vị Tỷ-kheo Trưởng lão nhận được các vật dụng cần thiết như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, nhiều người làm theo tri kiến vị ấy. Vì rằng vị Tỷ-kheo Trưởng lão là bậc nghe nhiều, thọ trì điều được nghe, tích tập điều được nghe, nhiều người làm theo tri kiến vị ấy.

Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo Trưởng lão đem lại hạnh phúc cho đa số, đem lại an lạc cho đa số, đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho chư Thiên và loài Người.

 

89 (9) A Trainee (1) – [(IX) (89) Vị Tỷ Kheo Hữu Học (1)]

 

  1. “Bhikkhus, these five qualities lead to the decline of a bhikkhu who is a trainee. What five?
  2. Delight in work, delight in talk, delight in sleep, and delight in company; and he does not review the extent to which his mind is liberated.

These five qualities lead to the decline of a bhikkhu who is a trainee.

  1. “Bhikkhus, these five qualities lead to the non-decline of a bhikkhu who is a trainee. What five?
  2. Not delighting in work, not delighting in talk, not delighting in sleep, not delighting in company; and he reviews the extent to which his mind is liberated.

These five qualities lead to the non-decline of a bhikkhu who is a trainee.”

 

90 (10) A Trainee (2) – [(X) (90) Vị Tỷ Kheo Hữu Học (2)]

 

  1. “Bhikkhus, these five things le’ad to the decline of a bhikkhu who is a trainee. What five?
  2. (1) “Here, a bhikkhu who is a trainee has many tasks and duties and is competent in various chores that must be done, so he neglects seclusion and does not devote himself to internal serenity of mind. This is the first thing that leads to the decline of a bhikkhu who is a trainee.
  3. (2) “Again, a bhikkhu who is a trainee spends the day on some trifling work, so he neglects seclusion and does not devote himself to internal serenity of mind. This is the second thing that leads to the decline of a bhikkhu who is a trainee.
  4. (3) “Again, a bhikkhu who is a trainee bonds closely with householders and monastics, socializing in an unfitting manner typical of Iaypeople, so he neglects seclusion and does not devote himself to internal serenity of mind. This is the third thing that leads to the decline of a bhikkhu who is a trainee.
  5. – Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, khiến Tỷ-kheo hữu học thối chuyển. Thế nào là năm?
  6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo hữu học có nhiều công việc, có nhiều việc phải làm, khéo léo trong công việc phải làm, từ bỏ độc cư Thiền tịnh, không chuyên chú vào nội tâm tịnh chỉ. Ðây là pháp thứ nhất khiến Tỷ-kheo hữu học thối chuyển.
  7. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo hữu học suốt ngày làm những công việc nhỏ nhặt, từ bỏ độc cư Thiền tịnh, không có chuyên chú vào nội tâm tịnh chỉ. Ðây là pháp thứ hai khiến vị Tỷ-kheo hữu học thối chuyển.
  8. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo hữu học sống liên hệ nhiều với các vị tại gia và xuất gia, hệ lụy với các sự việc tại gia không thích đáng, từ bỏ độc cư Thiền tịnh, không chuyên chú vào nội tâm tịnh chỉ. Ðây là pháp thứ ba khiến Tỷ-kheo hữu học thối chuyển.

 

  1. (4) “Again, a bhikkhu who is a trainee enters a village too early and returns too late in the day, so he neglects seclusion and does not devote himself to internal serenity of mind. This is the fourth thing that leads to the decline of a bhikkhu who is a trainee.
  2. (5) “Again, a bhikkhu who is a trainee does not get to hear at will, without trouble or difficulty, talk concerned with the austere life that is conducive to opening up the heart, that is, talk on fewness of desires, on contentment, on solitude, on not getting bound up [with others], on arousing energy, on virtuous

behavior, on concentration, on wisdom, on liberation, on the knowledge and vision of liberation; so, he neglects seclusion and does not devote himself to internal serenity of mind. This is the fifth thing that leads to the decline of a bhikkhu who is a trainee.

“These five things lead to the decline of a bhikkhu who is a trainee.

  1. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo hữu học đi vào làng quá sớm, từ giã làng quá muộn, từ bỏ độc cư Thiền tịnh, không chuyên chú vào nội tâm tịnh chỉ. Ðây là pháp thứ tư khiến vị Tỷ-kheo hữu học thối chuyển.
  2. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo hữu học đối với các câu chuyện nghiêm trang, khai tâm như các câu chuyện về ít dục, câu chuyện về tri túc, câu chuyện về viễn ly, câu chuyện về không hội họp, câu chuyện về tinh cần, tinh tấn, câu chuyện về giới, câu chuyện về định, câu chuyện về tuệ, câu chuyện về giải thoát, câu chuyện về giải thoát tri kiến. Các câu chuyện ấy, vị ấy có được có khó khăn, có được có mệt nhọc, có được có phí sức. Vị ấy từ bỏ độc cư Thiền tịnh, không chuyên chú vào nội tâm tịnh chỉ. Ðây là pháp thứ năm khiến vị Tỷ-kheo hữu học thối chuyển.

 

  1. “Bhikkhus, these five things lead to the non-decline of a bhikkhu who is a trainee. What five?
  2. (1) “Here, a bhikkhu who is a trainee does not have many tasks and duties; though he is competent in the various chores that must be done, he does not neglect seclusion but devotes himself to internal serenity of mind. This is the first thing that leads to the non-decline of a bhikkhu who is a trainee.
  3. (2) “Again, a bhikkhu who is a trainee does not spend the day on some trifling work, so he does not neglect seclu sion but devotes himself to internal serenity of mind. This is the second thing that leads to the non-decline of a bhikkhu who is a trainee.
  4. (3) “Again, a bhikkhu who is a trainee does not bond closely with householders and monastics, socializing in an unfitting manner typical of laypeople, so he does not neglect seclusion but devotes himself to internal serenity of mind. This is the third thing that leads to the non-decline of a bhikkhu who is a trainee.
  5. Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, không khiến vị Tỷ-kheo hữu học thối chuyển. Thế nào là năm?
  6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo hữu học không có nhiều công việc, không có nhiều việc phải làm, không khéo léo trong công việc phải làm, không từ bỏ độc cư Thiền tịnh, chuyên chú vào nội tâm tịnh chỉ. Ðây là pháp thứ nhất không khiến vị Tỷ-kheo hữu học thối chuyển.
  7. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo hữu học không suốt ngày làm những công việc nhỏ nhặt, không từ bỏ độc cư Thiền tịnh, chuyên chú vào nội tâm tịnh chỉ. Ðây là pháp thứ hai không khiến vị Tỷ-kheo hữu học thối chuyển.
  8. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo hữu học không sống liên hệ nhiều với các vị tại gia và xuất gia, không hệ lụy với các việc tại gia không thích đáng, không từ bỏ độc cư Thiền tịnh, chuyên chú vào nội tâm tịnh chỉ. Ðây là pháp thứ ba không khiến vị Tỷ-kheo hữu học thối chuyển.

 

  1. (4) “Again, a bhikkhu who is a trainee does not enter a village too early or return too late in the day, so he does not neglect seclusion but devotes himself to internal serenity of mind. This is the fourth thing that leads to the non-decline of a bhikkhu who is a trainee.
  2. (5) “Again, a bhikkhu who is a trainee gets to hear at will, without trouble or difficulty, talk concerned with the. Austere life that is conducive to opening up the heart, that is, talk on fewness of desires … on the knowledge and vision of liberation; so, he does not neglect seclusion but devotes himself to internal

serenity of mind. This is the fifth thing that leads to the nondecline of a bhikkhu who is a trainee.

“These five things lead to the non-decline of a bhikkhu who is a trainee.”

  1. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo hữu học không đi vào làng quá sớm, không từ giã làng quá muộn, không từ bỏ độc cư Thiền tịnh, chuyên chú vào nội tâm tịnh chỉ. Ðây là pháp thứ tư không khiến vị Tỷ-kheo hữu học thối chuyển.
  2. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo hữu học đối với các câu chuyện nghiêm trang, khai tâm, như câu chuyện về ít dục, câu chuyện về tri túc, câu chuyện về viễn ly, câu chuyện về không hội họp, câu chuyện về tinh cần tinh tấn, câu chuyện về giới, câu chuyện về định, câu chuyện về tuệ, câu chuyện về giải thoát, câu chuyện về giải thoát tri kiến. Các câu chuyện ấy có được không khó khăn, có được không mệt nhọc, có được không phí sức, không từ bỏ độc cư Thiền tịnh, chuyên chú vào nội tâm tịnh chỉ. Ðây là pháp thứ năm, này các Tỷ-kheo, không đưa đến thối chuyển cho vị Tỷ-kheo hữu học.

Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, không khiến vị Tỷ-kheo hữu học thối chuyển.

 

  1. Kakudha – [X. Phẩm Kakudha] – page 722

 

91 (1) Accomplishments (1) – [(I) (91) Ðầy Ðủ (1)]

 

  1. “Bhikkhus, there are these five accomplishments. What five?
  2. Accomplishment in faith, accomplishment in virtuous behavior, accomplishment in learning, accomplishment in generosity, and accomplishment in wisdom. These are the five accomplishments.”
  3. – Này các Tỷ-kheo, có năm đầy đủ này. Thế nào là năm?
  4. Tín đầy đủ, giới đầy đủ, nghe đầy đủ, thí đầy đủ, tuệ đầy đủ.

Này các Tỷ-kheo, đây là năm đầy đủ.

 

92 (2) Accomplishments (2) – [II (92) Ðầy Dủ (2)]

 

  1. “Bhikkhus, there are these five accomplishments. What five?

Accomplishment in virtuous behavior, accomplishment in concentration, accomplishment in wisdom, accomplishment in liberation, and accomplishment in the knowledge and vision of liberation.

These are the five accomplishments.”

  1. – Này các Tỷ-kheo, có năm đầy đủ này. Thế nào là năm?
  2. Giới đầy đủ, định đầy đủ, tuệ đầy đủ, giải thoát đầy đủ, giải thoát tri kiến đầy đủ.

Này các Tỷ-kheo, đây là năm đầy đủ.

 

93 (3) Declarations – [(III) (93) Trả Lời]

 

  1. “Bhikkhus, there are these five declarations of final knowledge. What five?
  2. (1) One declares final knowledge because of one’s dullness and stupidity; (2) one declares final knowledge because one has evil desires and is motivated by desire; (3) one declares final knowledge because one is mad and mentally

deranged; (4) one declares final knowledge because one overrates oneself; and (5) one correctly declares final knowledge.

These are the five declarations of final knowledge.”

  1. – Này các Tỷ-kheo, có năm cách trả lời về chánh trí này. Thế nào là năm?
  2. Vì đần độn, vì ngu si, trả lời về chánh trí; vì ác dục, vì bị dục chi phối, trả lời về chánh trí, vì kiêu mạn, vì tâm tán loạn trả lời về chánh trí; vì tăng thượng mạn, trả lời về chánh trí; vì hoàn toàn chơn chánh, trả lời về chánh trí.

Này các Tỷ-kheo, có năm cách trả lời về chánh trí này.

 

94 (4) Dwelling at Ease – [(IV) (94) Lạc Trú]

 

  1. “Bhikkhus, there are these five kinds of dwelling at ease. What five?
  2. (1) Here, secluded from sensual pleasures, secluded from unwholesome states, a bhikkhu enters and dwells in the first jhana … (2) … the second jhana … (3) … the third jhana … (4) … the fourth jhana. (5) With the destruction of the taints, he has realized for himself with direct knowledge, in this very life, the taintless liberation of mind, liberation by wisdom, and having entered upon it, he dwells in it. These are the five kinds of dwelling at ease.”
  3. – Này các Tỷ-kheo, có năm lạc trú này. Thế nào là năm?
  4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo ly dục, ly pháp bất thiện, chứng đạt và an trú Sơ Thiền, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ, làm cho tịnh chỉ tầm và tứ… chứng đạt và an trú Thiền thứ hai… Thiền thứ ba… Thiền thứ tư… do đoạn tận các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt, và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát.

Này các Tỷ-kheo, những pháp này là năm lạc trú.

 

95 (5) The Unshakable – [(V) (95) Bất Ðộng]

 

  1. “Bhikkhus, possessing five things, a bhikkhu in no long time penetrates to the unshakable. What five?

Here, a bhikkhu has attained the analytical knowledge of meaning, the analytical knowledge of the Dhamma, the analytical knowledge of language, and the analytical knowledge of discernment; and he reviews the extent to which his mind is liberated.

Possessing these five things, a bhikkhu in no long time penetrates to the

unshakable.”

  1. – Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không bao lâu thể nhập vào bất động. Thế nào là năm?
  2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đạt được nghĩa vô ngại giải, đạt được pháp vô ngại giải, đạt được từ vô ngại giải, đạt được biện tài vô ngại giải, quán sát tâm như đã giải thoát.

Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không bao lâu thể nhập vào bất động.

 

96 (6) What One Has Learned – [(VI) (96) Nghe Pháp]

 

  1. “Bhikkhus, possessing five things, a bhikkhu pursuing mindfulness of breathing in no long time penetrates to the unshakable. What five?
  2. (1) Here, a bhikkhu has few undertakings, few tasks, is easy to support, and is easily contented with the requisites of life. (2) He eats little and is intent on abstemiousness regarding food. (3) He is seldom drowsy and is intent on vigilance. (4) He has learned much, remembers what he has learned, and accumulates what he has learned. Those teachings that are good in the beginning, good in the middle, and good in the end, with the right meaning and phrasing, which proclaim the perfectly complete and pure spiritual life—such teachings as these he has learned much of, retained in mind, recited verbally, mentally investigated, and penetrated well by view. (5) He reviews the extent to which his mind is liberated.

Possessing these five things, a bhikkhu pursuing mindfulness of breathing in no long time penetrates to the unshakable.”

  1. – Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo thực hành Niệm hơi thở vô hơi thở ra, không bao lâu thể nhập vào bất động. Thế nào là năm?
  2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo muốn không có nhiều, công việc không có nhiều, nuôi sống dễ dàng, khéo tri túc với những nhu yếu ở đời, ăn uống ít, không chuyên lo về bao tử; ít thụy miên, chuyên chú trong giác tỉnh; nghe nhiều, thọ trì nhiều, tích lũy điều đã nghe; các pháp nào sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, tán thán Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh, các pháp ấy, Tỷ-kheo đã nghe nhiều, đã nắm giữ, đã ghi nhớ nhờ đọc nhiều lần, chuyên ý quán sát, khéo thành tựu nhờ chánh kiến; quán sát tâm như đã được giải thoát.

Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thực hành Niệm hơi thở vô hơi thở ra, không bao lâu thể nhập vào bất động.

 

97 (7) Talk – [(VII) (97) Nói Chuyện]

 

“Bhikkhus, possessing five things, a bhikkhu developing mindfulness of breathing in no long time penetrates to the unshakable. What five?

(1) Here, a bhikkhu has few undertakings … (2) He eats little … (3) He is seldom drowsy … (4) He gets to hear at will, without trouble or difficulty, talk concerned with the austere life that is conducive to opening up the heart, that is, talk on fewness of desires, on contentment, on solitude, on not getting bound up [with others], on arousing energy, on virtuous behavior, on concentration, on wisdom, on liberation, on the knowledge and vision of liberation. (5) He reviews the extent to which his mind is liberated.

Possessing these five things, a bhikkhu developing mindfulness of breathing in no long time penetrates to the unshakable.”

  1. – Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập Niệm hơi thở vô hơi thở ra, không bao lâu thể nhập vào bất động. Thế nào là năm?
  2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo muốn không có nhiều, việc làm không có nhiều, nuôi sống dễ dàng, khéo tri túc với những nhu yếu ở đời; ăn uống ít, không chuyên lo về bao tử; ít thụy miên, chuyên chú vào giác tỉnh; đối với các câu chuyện nghiêm trang, khai tâm, như câu chuyện về ít dục, câu chuyện về tri túc, câu chuyện về viễn ly, câu chuyện về không hội họp, câu chuyện về tinh cần tinh tấn, câu chuyện về giới, câu chuyện về định, câu chuyện về tuệ, câu chuyện về giải thoát, câu chuyện về giải thoát tri kiến, các câu chuyện ấy, vị ấy có được không khó khăn, có được không mệt nhọc, có được không phí sức; vị ấy quán sát tâm như đã được giải thoát.

Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo tu tập Niệm hơi thở vô hơi thở ra, không bao lâu thể nhập vào bất động.

 

98 (8) A Forest Dweller – [(VIII) (98) Rừng]

 

  1. “Bhikkhus, possessing five things, a bhikkhu cultivating mindfulness of breathing in no long time penetrates to the unshakable. What five?

(1) Here, a bhikkhu has few undertakings … (2) He eats little … (3) He is seldom drowsy … (4) He is a forest dweller who resorts to remote lodgings. (5) He eviews the extent to which his mind is liberated.

Possessing these five things, a bhikkhu cultivating mindfulness of breathing in no long time penetrates to the unshakable.”

  1. – Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo làm cho sung mãn Niệm hơi thở vô hơi thở ra, không bao lâu thể nhập vào bất động. Thế nào là năm?
  2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo muốn không có nhiều, việc làm không có nhiều, nuôi sống dễ dàng, khéo tri túc với những nhu yếu ở đời; ăn uống ít, không chuyên lo về bao tử, ít thụy miên, chuyên chú vào giác tỉnh; sống ở trong rừng, sống tại các sàng tọa xa vắng; quán sát tâm như đã được giải thoát.

Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo làm cho sung mãn Niệm hơi thở vô hơi thở ra, không bao lâu thể nhập vào bất động.

 

99 (9) The Lion – [(IX) (99) Con Sư Tử]

 

  1. “Bhikkhus, in the evening the lion, the king of beasts, comes out from his lair, stretches his body, surveys the four quarters all around, and roars his lion’s roar three times. Then he sets out in search of game.

(1) “If he gives a blow to an elephant, he always gives the blow respectfully, not disrespectfully. (2) If he gives a blow to a buffalo … (3) … to a cow … (4) … to a leopard … (5) If he gives a blow to any smaller animals, even a hare or a cat,

he gives the blow respectfully, not disrespectfully. For what reason? [Thinking:] ‘Let my training not be lost.’

  1. “The lion, bhikkhus, is a designation for the Tathagata, the Arahant, the Perfectly Enlightened One. When the Tathagata teaches the Dhamma to an assembly, this is his lion’s roar. (1) If the Tathagata teaches the Dhamma to bhikkhus, he teaches it respectfully, not disrespectfully. (2) If the Tathagata teaches the Dhamma to bhikkhunis … (3) … to male lay followers … (4) … to female lay followers, he teaches it respectfully, not disrespectfully. (5) If the Tathagata teaches the Dhamma to worldlings, even to food-carriers and hunters, he teaches it respectfully, not disrespectfully. For what reason? Because the Tathagata has respect for the Dhamma, reverence for the

Dhamma.”

  1. – Con sư tử, này các Tỷ-kheo, vào buổi chiều, từ hang đi ra, sau khi từ hang đi ra, nó duỗi chân; sau khi nó duỗi chân, nó ngó xung quanh cả bốn phương; sau khi nó ngó xung quanh cả bốn phương, ba lần nó rống tiếng rống con sư tử; sau khi ba lần rống tiếng rống con sư tử, nó ra đi tìm mồi. Nếu nó vồ bắt con voi, nó vồ bắt rất cẩn thận, chu đáo, không phải không cẩn thận, chu đáo. Nếu nó vồ bắt con thủy ngưu, nó vồ bắt rất cẩn thận, chu đáo, không phải không cẩn thận, chu đáo. Nếu nó vồ bắt con báo, nó vồ bắt rất cẩn thận, chu đáo, không phải không cẩn thận, chu đáo. Nếu nó vồ bắt các con vật nhỏ khác như thỏ hay mèo, nó vồ bắt rất cẩn thận, chu đáo, không phải không cẩn thận, chu đáo. Vì cớ sao? “Mong rằng uy lực của ta không có thất bại”.
  2. Con sư tử, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với bậc A-la-hán Chánh Ðẳng Giác. Khi Như Lai thuyết pháp cho hội chúng, tức là rống tiếng rống con sư tử. Này các Tỷ-kheo, nếu Như Lai thuyết pháp cho các vị Tỷ-kheo, Như Lai thuyết pháp hết sức cẩn thận, chu đáo, không phải không cẩn thận, chu đáo. Nếu Như Lai thuyết pháp cho các vị Tỷ-kheo Ni, Như Lai thuyết pháp hết sức cẩn thận, chu đáo, không phải không cẩn thận, chu đáo. Nếu Như Lai thuyết pháp cho các hàng nam cư sĩ, Như Lai thuyết pháp hết sức cẩn thận, chu đáo, không phải không cẩn thận, chu đáo. Nếu Như Lai thuyết pháp cho các hàng nữ cư sĩ, Như Lai thuyết pháp hết sức cẩn thận, chu đáo, không phải không cẩn thận, chu đáo. Nếu Như Lai thuyết pháp cho các hàng phàm phu , cho các người bắt chim hay xin ăn, Như Lai thuyết pháp hết sức cẩn thận, chu đáo, không phải không cẩn thận, chu đáo. Vì cớ sao? Vì Như Lai là bậc tôn trọng Pháp, này các Tỷ-kheo, là bậc tôn kính Pháp.

 

100 (10) Kakudha – [(X) (100) Kakudha]

 

Thus, have I heard, on one occasion the Blessed One was dwelling at Kosambi in Ghosita’s Park. Now on that occasion, Kakudha the Koliyan son, the Venerable Mahamoggallana’s attendant, had recently died and been reborn among a certain group of mind-made [deities]. His body was two or three times the size of the fields of a Magadhan village, but he did not obstruct either himself or others with that body. Then the young deva Kakudha approached the Venerable

Mahamoggallana, paid homage to him, stood to one side, and said to him:

– “Bhante, such a desire arose in Devadatta: ‘I will take charge of the Sangha of bhikkhus.’ And together with the arising of this thought, Devadatta lost that psychic potency.”

This is what the young deva Kakudha said. He then paid homage to the Venerable Mahamoggallana, circumambulated him keeping the right side toward him, and disappeared right there. Then the Venerable Mahamoggallana approached the Blessed One, paid homage to him, sat down to one side, and reported all that had happened.

– [The Blessed One said:] “But, Moggallana, have you encompassed his mind with your mind and understood of the young deva Kakudha: ‘Whatever the young deva Kakudha says is all true and not otherwise’?”

– “Yes, Bhante.”

– “Take note of this statement, Moggallana! Now that foolish man will, of his own accord, expose himself. “There are, Moggallana, these five kinds of teachers found in the world. What five?

  1. Một thời, Thế Tôn trú ở Kosambì, tại khu vườn Ghosita. Lúc bấy giờ Kakudha, người Koliya, là thị giả của Tôn giả Mahàmoggallàna vừa mệnh chung và sanh ra với một thân do ý tạo, thân ấy với tự thể có được (to rộng) ví như hai hay ba thửa ruộng làng ở Magadha. Vị ấy, với tự thể như vậy, không làm cho tự mình hay làm cho người khác bị bệnh. Rồi Thiên tử Kakudha đi đến Tôn giả Mahàmoggallàna; sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Mahàmoggallàna rồi đứng một bên. Thiên tử Kakudha thưa với Tôn giả Mahàmoggallàna:

– Thưa Tôn giả, Devadatta có khởi lên ý muốn như sau: “Ta sẽ lãnh đạo chúng Tăng”. Với tâm khởi lên như vậy, thưa Tôn giả, thần thông của Devadatta bị thối thất.

Thiên tử Kakudha nói lên như vậy, nói như vậy xong, đảnh lễ Tôn giả Mahàmoggallàna, thân phía hữu hướng về ngài rồi biến mất tại chỗ. Rồi Tôn giả Mahàmoggallàna đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Mahàmoggallàna bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, Kakudha, người xứ Koliya, là thị giả của con, mệnh chung không bao lâu, sanh ra với thân do ý tạo thành, thân ấy với tự thể có được (to rộng) ví như hai hay ba thửa ruộng làng ở Magadha. Vị ấy với tự thể như vậy, không làm cho tự mình hay làm cho người khác bị bệnh. Rồi Thiên tử Kakudha đi đến con; sau khi đến, đảnh lễ con rồi đứng một bên. Sau khi đứng một bên, bạch Thế Tôn, Thiên tử Kakudha thưa với con: “Thưa Tôn giả, Devadatta có khởi lên ý muốn như sau: “Ta sẽ lãnh đạo chúng Tăng”. Với tâm khởi lên như vậy. Thưa Tôn giả, thần thông của Devadatta bị thối thất”. Thiên tử Kakudha, bạch Thế Tôn, nói lên như vậy. Nói như vậy xong, đảnh lễ con, rồi thân phía hữu hướng về con rồi biến mất.

– Này Moggallàna, có phải Thầy với tâm của mình biết được tâm của Thiên tử Kakudha rằng: “Ðiều gì Thiên tử Kakudha nói lên, tất cả đều là như vậy, không thể khác được”?

– Bạch Thế Tôn, với tâm của con, con biết được tâm của Thiên tử Kakudha rằng: “Ðiều gì Thiên tử Kakudha nói lên, tất cả đều là như vậy, không thể khác được”.

– Này Moggallàna, hãy phòng hộ lời nói này! Này Moggallàna, hãy phòng hộ lời nói này. Nay kẻ ngu si ấy sẽ tự mình thấy rõ tự mình. Này Moggallàna, có năm bậc Ðạo sư này có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là năm?

 

  1. (1) “Here, some teacher whose behavior is unpurified claims: I am one whose behavior is purified. My behavior is purified, cleansed, undefiled.’ His disciples know him thus: This honorable teacher, though of unpurified behavior, claims: “I am one whose behavior is purified. My behavior is purified, cleansed, undefiled.” Now he would not like it if we were to report this to the laypeople. How can we treat him in a way that he would not like? Further, he is honored with robes, almsfood, lodgings, and medicines and provisions for the sick. A person will be known by what he himself does. His disciples cover up such a teacher with respect to his behavior, and such a teacher expects to be covered up by his disciples with respect to his behavior.
  2. Ở đây, này Moggallàna, có vị Ðạo sư, giới không thanh tịnh lại tự cho rằng: “Ta có giới thanh tịnh. Giới của ta thanh tịnh, chói sáng, không có uế nhiễm”. Nhưng các đệ tử biết về vị ấy như sau: “Tôn giả Ðạo sư này có giới không thanh tịnh, lại tự nghĩ rằng: “Ta có giới thanh tịnh. Giới của ta thanh tịnh, trong sáng, không uế nhiễm”. Nếu ta tin cho các cư sĩ biết như vậy, thời vị Ðạo sư sẽ không bằng lòng. Và nếu vị ấy không bằng lòng, thời chúng ta sẽ xử sự như thế nào mới được”. Và vị ấy nhận được các vật dụng nhu yếu như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Những gì tự ngã sẽ làm, tự ngã sẽ được biết do việc làm ấy. Như vậy, này Moggallàna, các đệ tử che chở giới cho bậc Ðạo sư, và bậc Ðạo sư như vậy chờ đợi các đệ tử che chở về giới cho mình.

 

  1. (2) “Again, some teacher whose livelihood is unpurified claims: I am one whose livelihood is purified. My livelihood is purified, cleansed, undefiled. His disciples know him thus: This honorable teacher, though of unpurified livelihood, claims: “I am one whose livelihood is purified. My livelihood is purified, cleansed, undefiled.’ Now he would not like it if we were to report this to the laypeople. How can we treat him in a way that he would not like? Further, he is honored with robes, almsfood, lodgings, and medicines and provisions for the sick.

A person will be known by what he himself does. His disciples cover up such a teacher with respect to his livelihood, and such a teacher expects to be covered up by his disciples with respect to his livelihood.

  1. Lại nữa, này Moggallàna ở đây có bậc Ðạo sư mạng sống không thanh tịnh, lại tự cho rằng: “Ta có mạng sống thanh tịnh. Mạng sống của ta thanh tịnh chói sáng, không có uế nhiễm”. Nhưng các đệ tử biết về vị ấy như sau: “Vị Tôn giả Ðạo sư này có mạng sống không thanh tịnh, lại tự nghĩ rằng: “Ta có mạng sống thanh tịnh. Mạng sống của ta thanh tịnh, trong sáng, không uế nhiễm”. Nếu chúng ta tin cho các cư sĩ biết như vậy, thời vị Ðạo sư ấy không bằng lòng, và nếu vị ấy không bằng lòng, thời chúng ta sẽ xử sự như thế nào mới được”. Và vị ấy nhận được các vật dụng nhu yếu như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Những gì tự ngã sẽ làm, tự ngã sẽ được biết do việc làm ấy. Như vậy, này Moggallàna, các đệ tử che chở mạng sống cho bậc Ðạo sư, và bậc Ðạo sư như vậy chờ đợi các đệ tử che chở mạng sống cho mình.

 

  1. (3) “Again, some teacher whose Dhamma teaching is unpurified claims: I am one whose Dhamma teaching is purified. My Dhamma teaching is purified, cleansed, undefiled. His disciples know him thus: ‘This honorable teacher, though of unpurified Dhamma teaching, claims: “I am one whose Dhamma teaching is purified. My Dhamma teaching is purified, cleansed, undefiled.” Now he would not like it if we were to report this to the laypeople. How can we treat him in a way that he would not like? Further, he is honored with robes, almsfood, lodgings, and medicines and provisions for the sick: A person will be known by what he himself does.’ His disciples cover up such a teacher with respect to his Dhamma teaching, and such a teacher expects to be covered up by his disciples

with respect to his Dhamma teaching.

  1. Lại nữa, này Moggallàna, ở đây có bậc Ðạo sư thuyết pháp không thanh tịnh, lại tự cho rằng: “Ta thuyết pháp thanh tịnh. Thuyết pháp của ta thanh tịnh, chói sáng, không có uế nhiễm”. Nhưng các đệ tử biết về vị ấy như sau: “Tôn giả Ðạo sư này thuyết pháp không thanh tịnh, lại tự nghĩ rằng: “Ta thuyết pháp thanh tịnh. Thuyết pháp của ta thanh tịnh, trong sáng, không uế nhiễm”. Nếu chúng ta tin cho các cư sĩ biết như vậy, thời vị Đạo sư ấy sẽ không bằng lòng. Và nếu vị ấy không bằng lòng, thời chúng ta sẽ xử sự như thế nào mới được”. Và vị ấy nhận được các vật dụng nhu yếu như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Những gì tự ngã sẽ làm, tự ngã sẽ được biết do việc làm ấy. Như vậy, này Moggallàna, các đệ tử phòng hộ sự thuyết pháp cho bậc Ðạo sư, và bậc Ðạo sư như vậy chờ đợi các đệ tử che chở thuyết pháp cho mình.

 

  1. (4) “Again, some teacher whose explanations are unpurified claims: I am one whose explanations, are purified. My explanations are purified, cleansed, undefiled. His disciples know him thus: This honorable teacher, though giving unpurified explanations, claims: ” l am one whose explanations are purified. My explanations are purified, cleansed, undefiled.” Now he would not like it if we were to report this to the laypeople. How can we treat him in a way that he would not like? Further, he is honored with robes, almsfood, lodgings, and medicines and provisions for the sick. A person will be known by what he himself does. His disciples cover up such a teacher with respect to his explanations, and such a teacher expects to be covered up by his disciples with respect to his explanations.
  2. Lại nữa, này Moggallàna, ở đây có bậc Ðạo sư trả lời không thanh tịnh, lại tự cho rằng: “Ta trả lời thanh tịnh. Trả lời của ta thanh tịnh, chói sáng, không có uế nhiễm”. Nhưng các đệ tử biết về vị ấy như sau: “Tôn giả Ðạo sư này trả lời không thanh tịnh, lại nghĩ rằng: “Ta trả lời thanh tịnh. Trả lời của ta thanh tịnh, chói sáng, không uế nhiễm”. Nếu chúng ta tin cho các cư sĩ biết như vậy, thời vị Ðạo sư ấy sẽ không bằng lòng và nếu vị ấy không bằng lòng, thời chúng ta sẽ xử sự như thế nào mới được”. Và vị ấy nhận được các vật dụng nhu yếu như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Những gì tự ngã sẽ làm, tự ngã sẽ được biết do việc làm ấy. Như vậy, này Moggallàna, các đệ tử che chở trả lời cho bậc Ðạo sư, và bậc Ðạo sư như vậy chờ đợi các đệ tử che chở trả lời cho mình.

 

  1. (5) “Again, some teacher whose knowledge and vision are unpurified claims: ‘I am one whose knowledge and vision are purified. My knowledge and vision are purified, cleansed, undefiled. His disciples know him thus: ‘This honorable teacher, though of unpurified knowledge and vision, claims: “I am one whose knowledge and vision are purified. My knowledge and vision are purified, cleansed, undefiled.’ Now he would not like it if we were to report this to the laypeople. How can we treat him in a way that he would not like? Further, he is

honored with robes, almsfood, lodgings, and medicines and provisions for the sick. A person will be known by what he himself does. His disciples cover up such a teacher with respect to his knowledge and vision, and such a teacher expects to be covered up by his disciples with respect to his knowledge and

vision.

“These are five kinds of teachers found in the world.

  1. Lại nữa, này Moggallàna, ở đây có bậc Ðạo sư tri kiến không thanh tịnh, lại tự cho rằng: “Ta có tri kiến thanh tịnh. Tri kiến của ta thanh tịnh, chới sáng, không có uế nhiễm”. Nhưng các đệ tử biết về vị ấy như sau: “Tôn giả Ðạo sư này tri kiến không thanh tịnh, lại tự nghĩ rằng: “Ta có tri kiến thanh tịnh. Tri kiến của ta thanh tịnh, trong sáng, không có uế nhiễm”. Nếu chúng ta tin cho các cư sĩ biết như vậy, thời vị Ðạo sư sẽ không bằng lòng và nếu vị ấy không bằng lòng, thời chúng ta sẽ xử sự như thế nào mới được”. Và vị ấy nhận được các vật dụng nhu yếu như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Những gì tự ngã sẽ làm, tự ngã sẽ được biết do việc làm ấy. Như vậy, này Moggallàna, các đệ tử che chở tri kiến cho bậc Ðạo sư, và bậc Ðạo sư như vậy chờ đợi các đệ tử che chở tri kiến cho mình.

 

  1. (1) “But, Moggallana, I am one whose behavior is purified, and I claim: ‘I am one whose behavior is purified. My behavior is purified, cleansed, undefiled.’ My disciples do not cover me up with respect to my behavior, and I do not expect to be covered up by my disciples with respect to my behavior. (2) I am

one whose livelihood is purified and I claim: I am one whose livelihood is purified. My livelihood is purified, cleansed, undefiled. My disciples do not cover me up with respect to my livelihood, and I do not expect to be covered up by my disciples with respect to my livelihood. (3) I am one whose Dhamma teaching is purified and I claim: ‘I am one whose Dhamma teaching is purified. My Dhamma teaching is purified, cleansed, undefiled. My disciples do not cover me up with respect to my Dhamma teaching, and I do not expect to be covered up by my disciples with respect to my Dhamma teaching. (4) I am one whose explanations are purified and I claim: I am one whose explanations are purified. My explanations are purified, cleansed, undefiled. My disciples do not cover me up with respect to my explanations, and I do not expect to be covered up by my disciples with respect to my explanations. (5) I am one whose knowledge and vision are purified and I claim: I am one whose knowledge and vision are purified. My knowledge and vision are purified, cleansed, undefiled. My disciples do not cover me up with respect to my knowledge and vision, and

I do not expect to be covered up by my disciples with respect to my knowledge arid vision.”

  1. Này Moggallàna, Ta có giới thanh tịnh, và Ta tự biết: “Giới của Ta thanh tịnh, trong sáng, không có uế nhiễm”. Các đệ tử không có che chở Ta về giới, và Ta không có chờ đợi các đệ tử che chở Ta về giới. Mạng sống của Ta thanh tịnh, Ta tự rõ biết: “Mạng sống của Ta thanh tịnh, trong sáng, không có uế nhiễm”. Các đệ tử không có che chở Ta về mạng sống, và Ta không có chờ đợi các đệ tử che chở cho Ta về mạng sống. Thuyết pháp của Ta thanh tịnh, Ta tự rõ biết: “Thuyết pháp của Ta thanh tịnh, Ta tự rõ biết: “Thuyết pháp của Ta thanh tịnh, trong sáng, không có uế nhiễm”. Các đệ tử không có che chở Ta về thuyết pháp và Ta không có chờ đợi các đệ tử che chở Ta về thuyết pháp. Các câu trả lời của Ta thanh tịnh, Ta tự rõ biết :” Các câu trả lời của Ta thanh tịnh, trong sáng, không có uế nhiễm”. Các đệ tử không có che chở Ta về các câu trả lời, và Ta không có chờ đợi các đệ tử che chở Ta về các câu trả lời. Tri kiến của Ta thanh tịnh, Ta tự rõ biết: “Tri kiến của Ta thanh tịnh, trong sáng, không có uế nhiễm”. Các đệ tử không có che chở Ta về tri kiến, và Ta không có chờ đợi các đệ tử che chở Ta về tri kiến.

 

The Third Fifty

  1. Dwelling at Ease – [XI. Phẩm An Ổn Trú]

 

101 (1) Timidity – [(I) (101) Ðáng Sợ Hãi]

 

  1. “Bhikkhus, there are these five qualities that make for self-confidence in a trainee. What five?
  2. Here, a bhikkhu is endowed with faith and is virtuous, learned, energetic, and wise. (1) Whatever timidity there is in one without faith does not exist in one endowed with faith; therefore, this quality makes for selfconfidence in a trainee. (2) Whatev er timidity there is in one who is immoral does not exist in one who is virtuous; therefore, this quality makes for self-confidence in a trainee. (3) Whatever timidity there is in one who is unlearned does not exist in one who is learned; therefore, this quality makes for self-confidence in a trainee. (4) Whatever timidity there is in one who is lazy does not exist in one who is energetic; therefore, this quality makes for self-confidence in a trainee. (5) Whatever timidity there is in one who is unwise does not exist in one who is wise; therefore, this quality makes for self-confidence in a trainee.

These are the five qualities that make for self-confidence in a trainee.”

  1. – Này các Tỷ-kheo, có năm pháp này làm cho bậc Hữu học không có sợ hãi. Thế nào là năm?
  2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có lòng tin, có giới, có nghe nhiều, có tinh cần tinh tấn, có trí tuệ. Cái gì làm cho kẻ không có lòng tin sợ hãi, này các Tỷ-kheo, cái ấy không làm cho người có lòng tin sợ hãi. Do vậy, pháp này là pháp làm cho bậc Hữu học không sợ hãi. Cái gì làm cho kẻ ác giới sợ hãi, này các Tỷ kheo, cái ấy không làm cho người có giới sợ hãi. Do vậy, pháp này là pháp làm cho bậc Hữu học không sợ hãi. Cái gì làm cho kẻ ít nghe sợ hãi, này các Tỷ-kheo, cái ấy không làm cho người nghe nhiều sợ hãi. Do vậy, pháp này là pháp làm cho bậc Hữu học không sợ hãi. Cái gì làm cho kẻ biếng nhác sợ hãi, này các Tỷ-kheo, cái ấy không làm cho kẻ tinh cần tinh tấn sợ hãi. Do vậy, pháp này là pháp làm cho bậc Hữu học không sợ hãi. Cái gì làm cho kẻ ác tuệ sợ hãi, này các Tỷ-kheo, cái ấy không làm cho người có trí tuệ sợ hãi. Do vậy, pháp này là pháp làm cho bậc Hữu học không sợ hãi.

Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, là các pháp làm cho bậc Hữu học không sợ hãi.

 

102 (2) Suspected – [(II) (102) Ðáng Nghi Ngờ]

 

  1. “Bhikkhus, on five grounds a bhikkhu is suspected and distrusted as ‘an evil bhikkhu’ though he be of unshakable character. What five?
  2. Here, a bhikkhu often visits prostitutes, widows, unmarried women, eunuchs, or bhikkhunis. On these five grounds, a bhikkhu is suspected and distrusted as

‘an evil bhikkhu’ though he be of unshakable character.”

  1. – Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo bị mất tin tưởng và bị nghi ngờ là “ác Tỷ-kheo”, dầu cho vị ấy đã đạt được bất động. Thế nào là năm?
  2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đi đến chỗ dâm nữ, đi đến nhà đàn bà góa, đi đến nhà có con gái già, hay đi đến nhà các hoạn quan, hay đi đến chỗ các Tỷ-kheo-ni.

Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo bị mất tin tưởng và bị nghi ngờ là ác Tỷ-kheo, dầu cho vị ấy đã đạt được bất động.

 

103 (3) A Thief – [(III) (103) Kẻ Ăn Trộm]

 

  1. “Bhikkhus, possessing five factors, a master thief breaks into houses, plunders wealth, commits banditry, and ambushes highways. What five?
  2. Here, a master thief (1) depends upon the uneven, (2) on thickets, and (3) on powerful people; (4) he offers bribes, and (5) he moves alone.

(1) “And how does a master thief depend on the uneven?

  1. Here, a master thief depends on rivers that are hard to cross and rugged mountains. It is in this way that a master thief depends on the uneven.

(2) “And how does a master thief depend on thickets?

  1. Here, a master thief depends on a thicket of cane, a thicket of trees, a

coppice, or a large dense jungle. It is in this way that a master thief depends on thickets. (3) “And how does a m a s te r thief depend on powerful people?

  1. Here, a master thief depends on kings or royal ministers. He thinks: If anyone accuses me of anything, these kings or royal ministers will dismiss the case.’ If anyone accuses him of anything, those kings or royal ministers dismiss the

case. It is in this way that a master thief depends on powerful

people. (4) “And how does a master thief offer bribes?

  1. – Thành tựu năm chi phần, này các Tỷ-kheo, một kẻ ăn trộm lớn xâm nhập vào nhà cửa, mang đồ ăn trộm ra đi, thành người ăn trộm riêng rẽ, thành người cướp chận đường. Thế nào là năm?
  2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, kẻ ăn trộm lớn dựa vào sự hiểm trở (của con đường), dựa vào sự rậm rạp (của núi rừng), dựa vào quyền thế, là kẻ hối lộ, là kẻ ăn trộm một mình. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là kẻ ăn trộm lớn dựa vào sự hiểm trở?
  3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, kẻ ăn trộm lớn dựa vào các con sông khó lội qua hay núi non hiểm trở. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là kẻ ăn trộm lớn dựa vào sự hiểm trở. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là kẻ ăn trộm lớn dựa vào sự rậm rạp?
  4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, kẻ ăn trộm lớn dựa vào sự rậm rạp của cỏ, cây, bụi cây và của rừng rậm hoang vu. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là kẻ ăn trộm lớn dựa vào sự rậm rạp. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là kẻ ăn trộm lớn dựa vào uy lực?
  5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, kẻ ăn trộm lớn dựa vào vua hay các vị đại thần của vua. Anh ta suy nghĩ như sau: “Nếu có ai nói điều gì về ta, các vị vua này hay các vị đại thần của vua sẽ nói những lời che chở cho ta”. Nếu có ai nói điều gì về anh ta, các vua và các vị đại thần ấy nói che chở cho anh ta. Như vậy, này các Tỷ-kheo, kẻ ăn trộm lớn dựa vào uy lực. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là kẻ ăn trộm lớn dựa vào hối lộ tài sản?

 

  1. Here, a master thief is rich, with great wealth and property. He thinks: If

anyone should accuse me of anything, I’ll placate him with a bribe.’ If anyone accuses him of anything, he placates him with a bribe. It is in this way that a master thief offers bribes. (5) “And how does a master thief move alone?

  1. Here, a master thief executes his raids all alone. For what reason? [With

the thought:] ‘My secret deliberations shouldn’t spread to others!’ It is in this way that a master thief moves alone.

“It is by possessing these five factors that a master thief breaks into houses, plunders wealth, commits banditry, and ambushes highways.

  1. Ở đây, này các Tỷ-kheo, kẻ ăn trộm lớn giàu có, có tiền của nhiều, có tài sản lớn. Anh ta nghĩ như sau: “Nếu có ai nói gì đến ta, từ nay ta sẽ hối lộ người ấy với tài sản”. Nếu có người nói gì đến anh ta, anh ta liền hối lộ với tài sản. Như vậy, này các Tỷ-kheo, kẻ ăn trộm lớn hối lộ với tài sản. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là kẻ ăn trộm lớn là kẻ ăn trộm riêng rẽ?
  2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có kẻ ăn trộm lớn đoạt các tài vật một mình. Vì cớ sao? Anh ta suy nghĩ: “Mong rằng không ai bàn bạc chỗ trốn với ta rồi làm ta rối loạn”. Như vậy, này các Tỷ-kheo, kẻ ăn trộm lớn thành kẻ ăn trộm riêng rẽ.

Thành tựu năm chi phần này, kẻ ăn trộm lớn xâm nhập vào nhà cửa, mang đồ ăn trộm ra đi, thành người ăn trộm riêng rẽ, thành người cướp chận đường.

 

  1. “So too, bhikkhus, possessing five qualities, an evil bhikkhu maintains himself in a maimed and injured condition, is blameworthy and subject to reproach by the wise, and generates much demerit. What five?
  2. Here, an evil bhikkhu (1) depends on the uneven, (2) depends on thickets, and (3) depends on powerful people; (4) he offers bribes and (5) moves alone. (1) “And how does an evil bhikkhu depend on the uneven?
  3. Here, an evil bhikkhu engages in unrighteous bodily, verbal, and mental action. It is in this way that an evil bhikkhu depends on the uneven. (2) “And how does an evil bhikkhu depend on thickets?
  4. Here, an evil bhikkhu holds wrong view; he has adopted an extremist view. It is in this way that an evil bhikkhu depends upon thickets. (3) “And how does an evil bhikkhu d epend on powerful people?
  5. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, thành tựu năm pháp, kẻ ác Tỷ-kheo tự mình xử sự như kẻ mất gốc, bị tổn thương, có tội lỗi, bị những bậc trí quở trách, và làm nhiều điều vô phước. Thế nào là năm?
  6. Ở đây, này các Tỷ-kheo, ác Tỷ-kheo dựa vào hiểm trở, dựa vào rậm rạp, dựa vào uy lực, hối lộ tài sản và hành động một mình. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ác Tỷ-kheo dựa vào hiểm trở?
  7. Ở đây, này các Tỷ-kheo, ác Tỷ-kheo thành tựu thân nghiệp hiểm nạn, thành tựu ngữ nghiệp hiểm nạn, thành tựu ý nghiệp hiểm nạn. Như vậy, này các Tỷ-kheo, thế nào là ác Tỷ-kheo dựa vào hiểm nạn. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo dựa vào rừng rậm?
  8. Ở đây, này các Tỷ-kheo, ác Tỷ-kheo có tà kiến và thành tựu tri kiến cực đoan. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là ác Tỷ-kheo dựa vào rừng rậm. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ác Tỷ-kheo dựa vào uy lực?

 

  1. Here, an evil bhikkhu depends on kings or royal ministers. He thinks: If anyone should accuse me of anything, these kings or royal ministers will dismiss the case.’ If anyone accuses him of anything, those kings or royal ministers dismiss the case. It is in this way that an evil bhikkhu depends on the powerful

people. (4) “And how does an evil bhikkhu offer bribes?

  1. Here, an evil bhikkhu gains robes, almsfood, lodgings, and medicines and

provisions for the sick. He thinks: If anyone should accuse me of anything, I’ll placate him with one of these gains.’ If anyone accuses him of anything, he placates him with one of his gains. It is in this way that an evil bhikkhu offers bribes. (5) “And how does an evil bhikkhu move alone?

  1. Here, an evil bhikkhu sets up a solitary residence for himself in the borderlands. Approaching families there, he obtains gains. It is in this

way that an evil bhikkhu moves alone.

“It is by possessing these five qualities that an evil bhikkhu maintains himself in a maimed and injured condition, is blameworthy and subject to reproach by the wise, and generates much demerit.”

  1. Ở đây, này các Tỷ-kheo, ác Tỷ-kheo dựa vào vua và các vị đại thần của vua. Vị ấy suy nghĩ: “Nếu có ai nói gì về ta, các vua ấy và các đại thần ấy nói lời với mục đích che chở cho ta”. Nếu có ai nói gì về vị ấy, các vua chúa hay các vị đại thần của vua nói lời với mục đích che chở. Như vậy, này các Tỷ-kheo, ác Tỷ-kheo dựa vào uy lực. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ác Tỷ-kheo hối lộ tài sản?
  2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, ác Tỷ-kheo nhận được các vật dụng nhu yếu như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Vị ấy suy nghĩ như sau: “Nếu có ai nói gì về ta, ta sẽ hối lộ người ấy với vật dụng thâu được!” Và nếu có người nói gì về vị ấy, vị ấy hối lộ với vật dụng thâu được. Như vậy, này các Tỷ-kheo, ác Tỷ-kheo hối lộ với tài sản. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ác Tỷ-kheo hành động một mình?
  3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, ác Tỷ-kheo sống một mình tức là ở các địa phương biên địa. Tại đấy, vị ấy đến các gia đình và nhận được các lợi dưỡng. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là ác Tỷ-kheo hành động một mình.

Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, ác Tỷ-kheo tự mình xử sự như người bị mất gốc, bị tổn thương, có phạm tội, bị các người trí quở trách, làm nhiều điều vô phước.

 

104 (4) Delicate – [(IV) (104) Ðem Lại An Lạc]

 

  1. “Bhikkhus, possessing five qualities, a bhikkhu is a delicate ascetic among ascetics. What five?
  2. (1) He usually uses a robe that has been specifically offered to him, seldom one that has not been specifically offered to him; he usually eats almsfood

that has been specifically offered to him, seldom almsfood that has not been specifically offered to him; he usually uses a lodging that has been specifically offered to him, seldom one that has not been specifically offered to him; he usually uses medicines and provisions for the sick that have been specifically offered to him, seldom those that have not been specifically offered to him. (2) His fellow monks, those with whom he dwells, usually behave toward him in agreeable ways by body, speech, and mind, seldom in d isagreeable ways. They usually present him what is agreeable, seldom what is disagreeable. (3) Discomfort originating from bile, phlegm, wind, or their combination; discomfort produced by change of climate; discomfort produced by careless behavior; discomfort produced by assault; or discomfort produced as

the result of kamma— these do not often arise in him. He is seldom ill. (4) He gains at will, without trouble or difficulty, the four jhanas that constitute the higher mind and are pleasant dwellings in this very life. (5) With the destruction of the taints, he has realized for himself with direct knowledge, in this very life, the taintless liberation of mind, liberation by wisdom, and having entered upon it, he dwells in it.

It is by possessing these five qualities that a bhikkhu is a delicate ascetic among ascetics.

  1. – Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là người đem lại an lạc của Sa-môn cho các Sa-môn. Thế nào là năm?
  2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo được yêu cầu hưởng thụ nhiều y áo, không phải ít yêu cầu, được yêu cầu hưởng thụ nhiều đồ ăn khất thực, không phải ít yêu cầu; được yêu cầu hưởng thụ nhiều sàng tọa, không phải ít yêu cầu; được yêu cầu hưởng thụ nhiều dược phẩm trị bệnh, không phải ít yêu cầu. Vị này sống với các vị đồng Phạm hạnh, và các vị này xử sự đối với vị ấy với thân hành nhiều khả ý, không phải ít khả ý; xử sự với khẩu hành nhiều khả ý, không phải ít khả ý; xử sự với ý hành nhiều khả ý, không phải ít khả ý. Những vị này giúp đỡ vị ấy với sự giúp đỡ khả ý, không phải ít khả ý. Và những cảm thọ nào do mật khởi lên, do gió khởi lên, hay do sự phối hợp (của ba sự kiện trên), hay do sự thay đổi thời tiết, hay do sự săn sóc bất cẩn, hay do sự xâm nhập của một vài sự kiện (như một vài chứng bệnh), hay do kết quả của nghiệp, những sự kiện ấy khởi lên không có nhiều. Vị ấy ít bệnh hoạn và đối với bốn Thiền, thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú (vị ấy) chứng được không khó khăn, chứng được không mệt nhọc, chứng được không phí sức. Do đoạn diệt các lậu hoặc, vị ấy ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát.

Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là người đem lại sự an lạc của Sa-môn cho các hàng Sa-môn.

 

  1. “If, bhikkhus, one could rightly say of anyone: ‘He is a delicate ascetic among ascetics, it is precisely of me that one might say this. (1) For I usually use a robe that has been specifically offered to me, seldom one that has not been specifically offered to me; I usually eat almsfood that has been specifically

offered to me, seldom almsfood that has not been specifically offered to me; I usually use a lodging that has been specifically offered to me, seldom one that has not been specifically offered to me; I usually use medicines and provisions for the sick that have been specifically offered to me, seldom those that have not been specifically offered to me. (2) Those bhikkhus with whom I dwell usually behave toward me in agreeable ways by body, speech, and mind, seldom in disagreeable ways. They usually present me what is agreeable, seldom what is disagreeable. (3) Discomfort originating from bile, phlegm,

wind, or their combination; discomfort produced by change of climate; discomfort produced by careless behavior; discomfort produced by assault; or discomfort produced as the result of kamma—these do not often arise in me. I am seldom ill. (4) I gain at will, without trouble or difficulty, the four jhanas

that constitute the higher mind and are pleasant dwellings in this very life. (5) With the destruction of the taints, I have realized for myself with direct knowledge, in this very life, the taintless liberation of mind, liberation by wisdom, and having entered upon it, I dwell in it.

If, bhikkhus, one could rightly say of anyone: “He is a delicate ascetic among ascetics, it is precisely of me that one might say this.”

  1. – Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là người đem lại an lạc của Sa-môn cho các Sa-môn. Thế nào là năm?
  2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo được yêu cầu hưởng thụ nhiều y áo, không phải ít yêu cầu, được yêu cầu hưởng thụ nhiều đồ ăn khất thực, không phải ít yêu cầu; được yêu cầu hưởng thụ nhiều sàng tọa, không phải ít yêu cầu; được yêu cầu hưởng thụ nhiều dược phẩm trị bệnh, không phải ít yêu cầu. Vị này sống với các vị đồng Phạm hạnh, và các vị này xử sự đối với vị ấy với thân hành nhiều khả ý, không phải ít khả ý; xử sự với khẩu hành nhiều khả ý, không phải ít khả ý; xử sự với ý hành nhiều khả ý, không phải ít khả ý. Những vị này giúp đỡ vị ấy với sự giúp đỡ khả ý, không phải ít khả ý. Và những cảm thọ nào do mật khởi lên, do gió khởi lên, hay do sự phối hợp (của ba sự kiện trên), hay do sự thay đổi thời tiết, hay do sự săn sóc bất cẩn, hay do sự xâm nhập của một vài sự kiện (như một vài chứng bệnh), hay do kết quả của nghiệp, những sự kiện ấy khởi lên không có nhiều. Vị ấy ít bệnh hoạn và đối với bốn Thiền, thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú (vị ấy) chứng được không khó khăn, chứng được không mệt nhọc, chứng được không phí sức. Do đoạn diệt các lậu hoặc, vị ấy ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát.

Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là người đem lại sự an lạc của Sa-môn cho các hàng Sa-môn.

 

105 (5) At Ease – [(V) (105) An Ổn Trú]

 

  1. “Bhikkhus, there are these five means of dwelling at ease. What five?
  2. (1) Here, a bhikkhu maintains bodily acts of lovingkindness toward his fellow monks, both openly and privately. (2) He maintains verbal acts of loving-kindness toward his fellow monks, both openly and privately. (3) He maintains mental acts of loving-kindness toward his fellow monks, both openly and privately. (4) He dwells both openly and privately possessing in common with his fellow monk’s virtuous behavior that is unbroken, flawless, unblemished, unblotched, freeing, praised by the wise, ungrasped, leading to concentration. (5) He dwells both openly and privately possessing in common with his fellow monks, the view that is noble and emancipating, which leads one who acts upon it to the complete destruction of suffering.

These, bhikkhus, are the five means of dwelling at ease.”

  1. – Này các Tỷ-kheo, có năm an ổn trú này, Thế nào là năm?
  2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo an trú từ thân nghiệp đối với các đồng Phạm hạnh, cả trước mặt và sau lưng; an trú từ khẩu nghiệp đối với các đồng Phạm hạnh, trước mặt và sau lưng; an trú từ ý nghiệp đối với các đồng Phạm hạnh, trước mặt và sau lưng; đối với các giới không bị bể vụn, không bị sứt mẻ, không bị nhiễm ô, không bị uế nhiễm, đem lại giải thoát, được người trí tán thán, không bị chấp thủ, đưa đến Thiền định, vị ấy sống thành tựu các giới như vậy đối với các đồng Phạm hạnh, trước mặt và sau lưng, và đối với tri kiến này, thuộc bậc Thánh đưa đến xuất ly, được người thực hành chân chánh đoạn diệt khổ đau, vị ấy sống thành tựu tri kiến như vậy đối với các đồng Phạm hạnh, trước mặt và sau lưng.

Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, là năm an ổn trú.

 

106 (6) Ananda – [(VI) (106) Tôn Giả Ananda]

 

  1. On one occasion, the Blessed One was dwelling at Kosambi in Ghosita’s Park. Then the Venerable Ananda approached the Blessed One, paid homage to him, sat down to one side, and said:

– “(1) Bhante, in what way can a bhikkhu dwell at ease while living in the Sangha?”

– “When, Ananda, a bhikkhu is himself accomplished in virtuous behavior but does not exhort others in regard to virtuous behavior, to this extent he can dwell at ease while living in the Sangha.”

(2) “But, Bhante, might there be another way by which a bhikkhu

can dwell at ease while living in the Sangha?”

“There can be, Ananda. When a bhikkhu is himself accomplished

in virtuous behavior but does not exhort others in regard to virtuous behavior, and he examines himself but does not examine others, to this extent he can dwell at ease while living in the Sangha.”

(3) “But, Bhante, might there be another way by which a bhikkhu can dwell at ease while living in the Sangha?”

– “There can be, Ananda.

When a bhikkhu is himself accomplished in virtuous behavior but does not exhort others in regard to virtuous behavior, and he examines himself but does

not examine others, and he is not well known but is not agitated by lack of renown, to this extent he can dwell at ease while living in the Sangha.”

(4) “But, Bhante, might there be another way by which a bhikkhu can dwell at ease while living in the Sangha?”

– “There can be, Ananda.

When a bhikkhu is himself accomplished in virtuous behavior but does not exhort others in regard to virtuous behavior; and he examines himself but does

not examine others; and he is not well known but is not agitated by lack of renown; and he gains at will, without trouble or difficulty, the four jhanas that constitute the higher mind and are pleasant dwellings in this very life, to this extent he can dwell at ease while living in the Sangha.”

 

  1. Một thời, Thế Tôn ở Kosambì, tại khu vườn Ghosita. Rồi Tôn giả Ananda đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:

– Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, chúng Tỷ-kheo Tăng sống an ổn trú?

– Này Ananda, khi nào vị Tỷ-kheo tự mình đầy đủ giới và không làm phiền hà người khác với tăng thượng giới. Cho đến như vậy, này Ananda, chúng Tỷ-kheo Tăng sống an ổn trú.

– Bạch Thế Tôn, có pháp môn nào khác, nhờ vậy chúng Tỷ-kheo Tăng sống an ổn trú?

– Có thể có, này Ananda!

Thế Tôn nói:

– Này Ananda, khi nào Tỷ-kheo đầy đủ giới và không làm phiền hà người khác với tăng thượng giới, tự quán sát mình không quán sát người khác. Cho đến như vậy, này Ananda, chúng Tỷ-kheo Tăng sống an ổn trú.

– Bạch Thế Tôn, có pháp môn nào khác, nhờ vậy chúng Tỷ-kheo Tăng sống an ổn trú?

– Có thể có, này Ananda!

Thế Tôn nói:

– Này Ananda, khi nào vị Tỷ-kheo đầy đủ giới và không làm phiền hà người khác với tăng thượng giới, tự quán sát mình, không quán sát người khác, chưa trở thành có danh tiếng, và không cảm thấy bực phiền vì không được có danh tiếng. Cho đến như vậy, này Ananda, chúng Tỷ-kheo Tăng sống an ổn trú.

– Bạch Thế Tôn, có pháp môn nào khác, nhờ vậy chúng Tỷ-kheo Tăng sống an ổn trú?

– Có thể có, này Ananda!

Thế Tôn nói:

– Này Ananda, khi nào Tỷ-kheo đầy đủ giới và không làm phiền hà người khác với tăng thượng giới, tự quán sát mình, không quán sát người khác, chưa trở thành có danh tiếng, và không cảm thấy bực phiền vì không được có danh tiếng, đối với bốn thiền, thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, chứng được không khó khăn, chứng được không mệt nhọc, chứng được không phí sức. Cho đến như vậy, này Ananda, chúng Tỷ-kheo Tăng sống an ổn trú.

 

(5) “But, Bhante, might there be another way by which a bhikkhu

can dwell at ease while living in the Sangha?”

– “There can be, Ananda.

When a bhikkhu is himself accomplished in virtuous behavior but does not exhort others in regard to virtuous behavior; and he examines himself but does

not examine others; and he is not well known but is not agitated by lack of renown; and he gains at will, without trouble or difficulty, the four jhanas that constitute the higher mind and are pleasant dwellings in this very life; arid, with the destruction of the taints, he has realized for himself with direct kno wledge,

in this very life, the taintless liberation of mind, liberation by wisdom, and having entered upon it, he dwells in it, to this extent he can dwell at ease while living in the Sangha. And, Ananda, I say there is no other way of dwelling at ease more excellent or sublime than this.”

– Bạch Thế Tôn, có pháp môn nào khác, nhờ vậy chúng Tỷ-kheo Tăng sống an ổn trú?

– Có thể có, này Ananda!

Thế Tôn nói:

– Này Ananda, khi nào Tỷ-kheo đầy đủ giới và không làm phiền hà người khác với tăng thượng giới, tự quán sát mình, không quán sát người khác, chưa trở thành có danh tiếng, và không cảm thấy bực phiền vì không được có danh tiếng, đối với bốn thiền, thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, chứng được không khó khăn, chứng được không mệt nhọc, chứng được không phí sức. Do đoạn tận các lậu hoặc, vị ấy tự mình với thắng trí ngay trong hiện tại chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Cho đến như vậy, này Ananda, chúng Tỷ-kheo Tăng sống an ổn trú.

Ngoài các an ổn trú này, này Ananda, Ta tuyên bố không có một an ổn trú nào khác cao thượng hơn, thù diệu hơn.

 

107 (7) Virtuous Behavior – [(VII) (107) Giới]

 

  1. “Bhikkhus, possessing five qualities, a bhikkhu is worthy of gifts, worthy of hospitality, worthy of offerings, worthy of reverential salutation, an unsurpassed field of merit for the world. What five?
  2. Here, a bhikkhu is accomplished in virtuous behavior, accomplished in concentration, accomplished in wisdom, accomplished in liberation, and accomplished in the knowledge and vision of liberation.

Possessing these five qualities, a bhikkhu is worthy of gifts, worthy of hospitality, worthy of offerings,

worthy of reverential salutation, an unsurpassed field of merit for the world.”

  1. – Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, là phước điền vô thượng ở đời. Thế nào là năm?
  2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đầy đủ giới, đầy đủ định, đầy đủ tuệ, đầy đủ giải thoát, đầy đủ giải thoát tri kiến.

Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, là phước điền vô thượng ở đời.

 

108 (8) One Beyond Training – [(VIII) (108) Vô Học]

 

  1. “Bhikkhus, possessing five qualities, a bhikkhu is worthy of gifts … an unsurpassed field of merit for the world. What five?
  2. Here, a bhikkhu possesses the aggregate of virtuous behavior of one beyond training, the aggregate of concentration of one beyond training, the aggregate of wisdom of one beyond training, the aggregate of liberation of one beyond training, the aggregate of the knowledge and vision of liberation of one beyond training.

Possessing these five qualities, a bhikkhu is worthy of gifts … an unsurpassed field of merit for the world.”

  1. – Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, là phước điền vô thượng ở đời.
  2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thành tựu vô học giới uẩn, thành tựu vô học định uẩn, thành tựu vô học tuệ uẩn, thành tựu vô học giải thoát uẩn, thành tựu vô học giải thoát tri kiến uẩn.

Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đáng được cung kính… là phước điền vô thượng ở đời.

 

109 (9) At Home in the Four Quarters – [(IX) (109) Người Bốn Phương]

 

  1. “Bhikkhus, possessing five qualities, a bhikkhu is at home in the four quarters.” What five?
  2. (1) Here, a bhikkhu is virtuous; he dwells restrained by the Patimokkha, possessed of good conduct and resort, seeing danger in minute faults. Having undertaken the training rules, he trains in them. (2) He has learned much, remembers what he has learned, and accumulates what he has learned. Those teachings that are good in the beginning, good in the middle, and good in the end, with the right meaning and phrasing, which proclaim the perfectly complete and pure spiritual life— such teachings as these he has learned much of, retained in mind, recited verbally, mentally investigated, and penetrated well by view. (3) He is content with any kind of robes, almsfood, lodgings, and medicines and provisions for the sick. (4) He gains at will, without trouble or difficulty, the four jhanas that constitute the higher mind and are pleasant

dwellings in this very life. (5) With the destruction of the taints, he has realized for himself with direct knowledge, in this very life, the taintless liberation of mind, liberation by wisdom, and having entered upon it, he dwells in it. Possessing these five qualities, a bhikkhu is at home in the four quarters.”

  1. – Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là người bốn phương. Thế nào là năm?
  2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có giới, sống được bảo vệ với sự bảo vệ của giới bổn, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong các tội nhỏ nhiệm, chấp nhận và học tập trong các học pháp, là bậc nghe nhiều, thọ trì điều đã được nghe, tích tập điều đã được nghe. Ðối với các pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, tán thán đời sống Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh, các pháp như vậy, vị ấy nghe nhiều, thọ trì nhiều đã ghi nhớ nhờ đọc nhiều lần, chuyên ý quán sát, khéo thành tựu nhờ chánh kiến, biết đủ với các vật dụng nhu yếu như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Ðối với bốn Thiền thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, vị ấy chứng đắc không khó khăn, chứng đắc không mệt nhọc, chứng đắc không phí sức. Do đoạn diệt các lậu hoặc, vị ấy ngay trong hiện tại tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát.

Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là vị bốn phương hướng.

 

110 (10) Forest – [(X) (110) Khu Rừng]

 

  1. “Bhikkhus, possessing five qualities, a bhikkhu is fit to resort to remote lodgings in forests and jungle groves. What five?
  2. (1) Here, a bhikkhu is virtuous … he trains in them. (2) He has learned much … and penetrated well by view. (3) He has aroused energy for abandoning unwholesome qualities and acquiring wholesome qualities; he is strong, firm in exertion, not casting off the duty of cultivating wholesome qualities. (4) He gains at will, without trouble or difficulty, the four jhanas that constitute the higher mind and are pleasant dwellings in this very life. (5) With the destruction of the taints, he has realized for himself with direct knowledge, in this very life, the taintless liberation of mind, liberation by wisdom, and having entered upon it, he dwells in it.

Possessing these five qualities, a bhikkhu is fit to resort to remote lodgings in forests and jungle groves.”

  1. – Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sử dụng sàng tọa (trú xứ) thuộc rừng núi cao nguyên xa vắng. Thế nào là năm?
  2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có giới… (xem Kinh 109 ở trên) chấp nhận và học tập trong các học pháp, là bậc nghe nhiều… chuyên ý quán sát, khéo thành tựu nhờ chánh kiến, sống tinh cần tinh tấn… nỗ lực kiên trì, không từ bỏ gánh nặng đối với các thiện pháp, đối với bốn Thiền, thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, chứng đắc không khó khăn, chứng đắc không mệt nhọc, chứng đắc không phí sức, do đoạn diệt các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình chứng ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát.

Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo là vừa đủ để sử dụng các sàng tọa thuộc rừng núi cao nguyên xa vắng.

 

XII. Andhakavinda – [XII. Phẩm Andhakavinda] – page 736 of 1925

 

111 (1) A Visitor of Families – [(I) (111) Ði Ðến Các Gia Ðình]

 

  1. “Bhikkhus, possessing five qualities, a bhikkhu who is a visitor of families is displeasing and disagreeable to them and is neither respected nor esteemed by them. What five?
  2. (1) He presumes intimacy upon mere acquaintance; (2) he distributes

things that he does not own; (3) he consorts with those who are divided; (4) he whispers in the ear; and (5) he makes excessive requests.

Possessing these five qualities, a bhikkhu who is a visitor of families is displeasing and disagreeable to them and is neither respected nor esteemed by them.

  1. “Bhikkhus, possessing five [other] qualities, a bhikkhu who is a visitor of families is pleasing and agreeable to them and is respected and esteemed by them. What five?

(1) He does not presume intimacy upon mere acquaintance; (2) he does not distribute things that he does not own; (3) he does not consort with those who are divided; (4) he does not whisper in the ear; and (5) he does not make excessive requests.

Possessing these five qualities, a bhikkhu who is a visitor of families is pleasing and agreeable to them and is respected and esteemed by them.”

  1. – Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thân cận các gia đình, không được các gia đình ái mộ, thích ý, kính trọng, noi gương để tu tập. Thế nào là năm?
  2. Vị ấy thân mật với người không thân tín, can thiệp vào việc không có thẩm quyền, ra vào với các phần tử chống đối, nói riêng một bên tai, xin quá nhiều.

Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thân cận các gia đình, không được các gia đình ái mộ, thích ý, kính trọng, noi gương để tu tập.

  1. Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thân cận các gia đình, được các gia đình ái mộ, thích ý, kính trọng, noi gương để tu tập. Thế nào là năm?

Vị ấy không thân mật với người không thân tín, không can thiệp vào việc không có thẩm quyền, không ra vào với các phần tử chống đối, không nói riêng một bên tai, không xin quá nhiều.

Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thân cận các gia đình, được các gia đình ái mộ, thích ý, kính trọng, noi gương để tu tập.

 

112 (2) An Attendant Monk – [(II) (112) Sa Môn Tùy Tùng]

 

  1. “Bhikkhus, possessing five qualities, someone should not be taken along as an attendant monk. What five?
  2. (1) He walks too far behind or too close; (2) he does not take your bowl when it is full; (3) he does not restrain you when your speech is bordering on an offense; (4) he keeps on interrupting you while you are speaking; and (5) he is unwise, stupid, obtuse.

Possessing these five qualities, someone should not be taken along as an

attendant monk.

  1. “Bhikkhus, possessing five [other] qualities, someone may be taken along as an attendant monk. What five?
  2. (1) He does not walk too far behind or too close; (2) he takes your bowl when

it is full; (3) he restrains you when your speech is bordering on an offense; (4) he does not keep on interrupting you while you are speaking; and (5) he is wise, intelligent, astute.

Possessing these five qualities, someone may be taken along as an attendant

Monk.”

  1. – Này các Tỷ-kheo, thành tựu năm pháp, một Tỷ-kheo không đáng được nhận làm Sa-môn tùy tùng. Thế nào là năm?
  2. Ði quá xa hay quá gần, không cầm lấy bình bát đã được chứa đầy, không ngăn chặn lời nói đưa đến phạm tội, ngắt lời nói của người khác, người ác tuệ đần độn, câm điếc.

Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo không đáng được nhận làm Sa-môn tùy tùng.

  1. Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo đáng được nhận làm Sa-môn tùy tùng. Thế nào là năm?
  2. Không đi quá xa hay không quá gần, cầm lấy bình bát đã được chứa đầy, ngăn chặn lời nói đưa đến phạm tội, không ngắt lời nói của người khác, người có trí tuệ, không đần độn, không câm điếc.

Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo đáng được nhận làm Sa-môn tùy tùng.

 

113 (3) Concentration – [(III) (113) Thiền Ðịnh]

 

  1. “Bhikkhus, possessing five qualities, a bhikkhu is incapable of entering and dwelling in right concentration. What five?
  2. Here, a bhikkhu cannot patiently endure forms, sounds, odors, tastes, and tactile objects.

Possessing these five qualities, a bhikkhu is incapable of entering and dwelling in right concentration.

  1. “Bhikkhus, possessing five [other] qualities, a bhikkhu is capable of entering and dwelling in right concentration. What five?
  2. Here, a bhikkhu can patiently endure forms, sounds, odors, tastes, and tactile objects.

Possessing these five qualities, a bhikkhu is capable of entering and dwelling in right concentration.”

  1. – Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không có thể đạt đến và an trú chánh định. Thế nào là năm?
  2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không kham nhẫn các sắc, không kham nhẫn các tiếng, không kham nhẫn các hương, không kham nhẫn các vị, không kham nhẫn các xúc.

Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không có thể đạt đến và an trú chánh định.

  1. Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có thể đạt đến và an trú chánh định. Thế nào là năm?
  2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo kham nhẫn các sắc, kham nhẫn các tiếng, kham nhẫn các hương, kham nhẫn các vị, kham nhẫn các xúc.

Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có thể đạt đến và an trú chánh định.

 

114 (4) Andhakavinda – [(IV) (114) Tại Andhakavinda]

 

  1. On one occasion, the Blessed One was dwelling among the Magadhans at Andhakavinda. Then the Venerable Ananda approached the Blessed One, paid homage to him, and sat down to one side. The Blessed One then said to him:

– “Ananda, those bhikkhus who are newcomers, who have recently gone forth, who have just come to this Dhamma and discipline, should be encouraged, settled, and established by you in five things. What five?

  1. (1) “They should be encouraged, settled, and established in the restraint of the Patimokkha thus: ‘Come, friends, be virtuous; dwell restrained by the Patimokkha, possessed of good conduct and resort, seeing danger in minute faults. Having undertaken the training rules, train in them.’
  2. (2) “They should be encouraged, settled, and established in the restraint of the sense faculties thus: ‘Come, friends, guard the doors of the sense faculties; take mindfulness as protector; be mindful and alert, possessing a protected mind, a mind under the protection of mindfulness.’
  3. (3) “They should be encouraged, settled, and established in limiting their speech thus: ‘Come, friends, do not talk much. Put limits on your speech,
  4. (4) “They should be encouraged, settled, and established in bodily seclusion thus: ‘Come, friends, be forest dwellers. Resort to remote lodgings in forests and jungle groves.’
  5. (5) “They should be encouraged, settled, and established in a correct perspective thus: ‘Come, friends, hold right view and have a correct perspective.’

“Ananda, those bhikkhus who are newcomers, who have recently gone forth, who have just come to this Dhamma and discipline, should be encouraged, settled, and established by you in these five things.”

  1. Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Magadha, tại Andhakavinda. Rồi Tôn giả Ananda đi đến Thế Tôn; sau khi đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda đang ngồi một bên:

– Những Tỷ-kheo nào, này Ananda, là tân học xuất gia không bao lâu, mới đến trong Pháp và Luật này, các Tỷ-kheo ấy, này Ananda, thật sự cần phải khích lệ, cần phải làm cho nhập vào và làm cho an trú trong năm pháp. Thế nào là trong năm pháp?

  1. “Hãy đến, này các Hiền giả, các Thầy cần phải giữ giới, sống được bảo vệ với sự bảo vệ của giới bổn, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhiệm, chấp nhận và học tập trong các học pháp”. Như vậy, họ cần được khích lệ, cần phải làm cho nhập vào và làm cho an trú trong sự bảo vệ của giới bổn.
  2. “Hãy đến, này các Hiền giả, các Thầy cần phải sống với các căn môn phải được chế ngự, thành tựu với niệm được phòng hộ, với niệm thận trọng sáng suốt, với ý được khéo phòng hộ, với tâm được chánh niệm bảo vệ”. Như vậy, họ cần được khích lệ, cần phải làm cho nhập vào, cần làm cho an trú trong sự bảo vệ các căn.
  3. “Hãy đến, này các Hiền giả, hãy nói ít lại, hãy hạn chế lời nói”. Như vậy, họ cần được khích lệ, cần phải làm cho nhập vào, cần làm cho an trú trong sự hạn chế lời nói.
  4. “Hãy đến, này các Hiền giả, hãy là những người sống trong rừng, hãy sử dụng các trú xứ núi rừng cao nguyên xa vắng”. Như vậy, họ cần phải được khích lệ, cần làm cho nhập vào, cần làm cho an trú trong nếp sống thân viễn ly.
  5. “Hãy đến, này các Hiền giả, hãy có chánh tri kiến, thành tựu chánh kiến”. Như vậy, họ cần phải được khích lệ, cần làm cho nhập vào, cần làm cho an trú trong chánh kiến.

Này Ananda, các Tỷ-kheo nào tân học, xuất gia không bao lâu, mới đến trong Pháp Luật này, này Ananda, các Tỷ-kheo ấy cần phải được thầy khích lệ, cần phải làm cho nhập vào, cần làm cho an trú trong năm pháp này.

 

115 (5) Miserly – [(V) (115) Xan Lẫn]

 

  1. “Bhikkhus, possessing five qualities, a bhikkhuni is deposited in hell as if brought there. What five?
  2. She is miserly with dwellings, families, gains, praise, and the Dhamma. Possessing these five qualities, a bhikkhuni is deposited in hell as if brought there.
  3. “Bhikkhus, possessing five [other] qualities, a bhikkhuni is deposited in. heaven as if brought there. What five?
  4. She is not miserly with dwellings, families, gains, praise, and the Dhamma. Possessing these five qualities, a bhikkhuni is deposited in heaven as if brought there.”
  5. – Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo-ni tương xứng như vậy bị rơi vào địa ngục. Thế nào là năm?
  6. Xan tham về chỗ ở, xan tham về sự giúp đỡ các gia đình, xan tham về các vật dụng được cúng dường, xan tham tán thán, xan tham về pháp.

Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo-ni tương xứng như vậy bị rơi vào địa ngục.

  1. Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo-ni tương xứng như vậy được sanh lên cõi Trời. Thế nào là năm?
  2. Không xan tham về chỗ ở, không xan tham về sự giúp đỡ các gia đình, không xan tham về các vật dụng được cúng dường, không xan tham về tán thán, không xan tham về pháp.

Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo-ni tương xứng như vậy được sanh lên cõi Trời.

 

116 (6) Praise – [(VI) (116) Tán Thán]

 

  1. “Bhikkhus, possessing five qualities, a bhikkhuni is deposited in hell as if brought there. What five?
  2. (1) Without investigating and scrutinizing, she speaks praise of one who deserves dispraise.

(2) Without investigating and scrutinizing, she speaks dispraise of one who deserves praise. (3) Without investigating and scrutinizing, she believes a matter that merits suspicion. (4) Without investigating and scrutinizing, she is suspicious about a matter that merits belief. (5) She squanders gifts given out of

faith.

Possessing these five qualities, a bhikkhuni is deposited in hell as if brought there.

  1. “Bhikkhus, possessing five [other] qualities, a bhikkhuni is deposited in heaven as if brought there. What five?

(1) Having investigated and scrutinized, she speaks dispraise of one who deserves dispraise. (2) Having investigated and scrutinized, she speaks praise of one who deserves praise. (3) Having investigated and scrutinized, she is suspicious about a matter that merits suspicion. (4) Having investigated and scrutinized, she believes a matter that merits belief. (5) She does not squander

gifts given out of faith.

Possessing these five qualities, a bhikkhuni is deposited in heaven as if brought there.”

  1. – Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni tương xứng như vậy bị rơi vào địa ngục. Thế nào là năm?
  2. Không suy xét, không thẩm sát, tán thán người không đáng được tán thán; không suy xét, không thẩm sát, không tán thán người đáng được tán thán; không suy xét, không thẩm sát, đặt lòng tin vào những chỗ không đáng được tịnh tín; không suy xét, không thẩm sát, không đặt lòng tin vào những chỗ đáng được tịnh tín; bác bỏ các vật dụng tín thí.

Do thành tựu năm pháp này, Tỷ-kheo-ni như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục.

  1. Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni tương xứng như vậy được sanh lên cõi Trời. Thế nào là năm?

Có suy xét, có thẩm sát, không tán thán người không đáng được tán thán; có suy xét, có thẩm sát, tán thán người đáng được tán thán; có suy xét, có thẩm sát, không đặt lòng tin vào những chỗ không đáng được tịnh tín; có suy xét, có thẩm sát, đặt lòng tin vào những chỗ đáng được tịnh tín; không bác bỏ các vật dụng tín thí.

Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni như vậy tương xứng được sanh lên cõi Trời.

 

117 (7) Envious – [(VII) (117) Ganh Tỵ]

 

  1. “Bhikkhus, possessing five qualities, a bhikkhuni is deposited in hell as if brought there. What five?
  2. (1) Without investigating and scrutinizing, she speaks praise of one who deserves dispraise.

(2) Without investigating and scrutinizing, she speaks dispraise of one who deserves praise. (3) She is envious (4) and miserly. (5) She squanders gifts given out of faith.

Possessing these five qualities, a bhikkhuni is deposited in hell as if brought

there.

  1. “Bhikkhus, possessing five [other] qualities, a bhikkhuni is deposited in heaven as if brought there. (1) Having investigated and scrutinized, she speaks dispraise of one who deserves dispraise. (2) Having investigated and scrutinized, she speaks praise of one who deserves praise. (3) She is free from envy. (4) and from miserliness. (5) She does not squander gifts given out of faith.

Possessing these five qualities, a bhikkhuni is deposited in heaven as if brought there.”

  1. – Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo-ni như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục. Thế nào là năm?
  2. Không suy xét, không thẩm sát, tán thán người không đáng được tán thán; không suy xét, không thẩm sát, không tán thán người đáng được tán thán; ganh tị; xan tham; bác bỏ các vật dụng tín thí.

Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo-ni như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục.

  1. Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo-ni như vậy tương xứng được sanh lên cõi Trời.
  2. Có suy xét, có thẩm sát, không tán thán người không đáng được tán thán; có suy xét, có thẩm sát, tán thán người đáng được tán thán; không có ganh tị; không có xan tham; không bác bỏ các vật tín thí.

Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo-ni như vậy tương xứng được sanh lên cõi Trời.

 

118 (8) View – [(VIII) (118) Tri Kiến]

 

  1. “Bhikkhus, possessing five qualities, a bhikkhuni is deposited in hell as if brought there. What five?
  2. (1) Without investigating and scrutinizing, she speaks praise of one who deserves dispraise. (2) Without investigating and scrutinizing, she speaks

dispraise of one who deserves praise. (3) She holds wrong view. (4) and has wrong intentions. (5) She squanders gifts given out of faith.

Possessing these five qualities, a bhikkhuni is deposited in hell as if brought there,

  1. “Bhikkhus, possessing five [other] qualities, a bhikkhuni is deposited in heaven as if brought there. What five?

(1) Having investigated and scrutinized, she speaks dispraise of one who

deserves dispraise. (2) Having investigated and scrutinized, she speaks praise of one who deserves praise. (3) She holds right view. (4) and has right intentions. (5) She does not squander gifts given out of faith.

Possessing these five qualities, a bhikkhuni is deposited in heaven as if brought there.”

  1. – Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo-ni như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục. Thế nào là năm?
  2. Không suy xét, không thẩm sát, tán thán người không đáng được tán thán; không suy xét, không thẩm sát, không tán thán người đáng được tán thán; có tà kiến; có tà tư duy; bác bỏ các vật tín thí.

Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo-ni như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục.

  1. Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo-ni như vậy tương xứng được sanh lên cõi Trời. Thế nào là năm?

Có suy xét, có thẩm sát, không tán thán người không đáng được tán thán; có suy xét, có thẩm sát, tán thán người đáng được tán thán; có chánh tri kiến; có chánh tư duy; không bác bỏ các vật tín thí.

Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo-ni như vậy tương xứng được sanh lên cõi Trời.

 

119 (9) Speech – [(IX) (119) Lời Nói]

 

[As in 5:118, but replace the third and fourth qualities leading to hell and heaven respectively with the following:]

“… (3) She is of wrong speech and … (4) wrong action … (3) She is of right speech and (4) right action.”

… (Giống như kinh số 118 ở trên, chỉ có khác trong kinh này: tà tinh tấn, tà niệm thế cho tà tri kiến, tà tư duy và chánh tinh tấn, chánh niệm thế cho chánh tri kiến, chánh tư duy của kinh trước).

 

120 (10) Effort – [(X) (120) Tinh Tấn]

 

[As in 5:118, but replace the third and fourth qualities leading to hell and heaven respectively with the following:]

“… (3) She is of wrong effort and (4) wrong mindfulness … (3) She is of right effort and (4) right mindfulness.”

… (Giống như kinh số 118) ở trên, chỉ có khác trong kinh này: tà tinh tấn, tà niệm thế cho tà tri kiến, tà tư duy và chánh tinh tấn, chánh niệm thế cho chánh tri kiến, chánh tư duy của kinh trước).

 

Sources:

Tài liệu tham khảo:

  1. http://www.budsas.org/uni/u-kinh-tangchibo/tangchi05-0106.htm
  2. http://lirs.ru/lib/sutra/The_Numerical_Discourses_of_the_Buddha,Anguttara_Nikaya,Bodhi,2012.pdf
  3. https://theravada.vn/tang-chi-bo-chuong-v-nam-phap-vii-pham-tuong-pham-7-12/