Kinh Tăng Chi Bộ – Chương IVC – Phẩm 07 – 12 – Song ngữ

The Numerical Discourses of the Buddha

Kinh Tăng Chi Bộ (Anguttara Nikàya)

Anh ngữ: Bhikkhu Bodhi.

Việt ngữ: Hòa thượng Thích Minh Châu.

Compile: Lotus group

 

The Book of the Fours – page 449 – 501 of 1925.

VII. Worthy Deeds – [VII. Phẩm Nghiệp Công Ðức]

 

61 (1) Worthy Deeds – [(I) (61) Bốn Nghiệp Công Ðức]

 

  1. Then the householder Anathapindika approached the Blessed One … The Blessed One said to him:
  2. “Householder, there are these four things that are wished for, desired, agreeable, and rarely gained in the world. What four?

(1) “One thinks: ‘May wealth come to me righteously!’ This is the first thing in the world that is wished for … and rarely gained in the world. (2) “Having gained wealth righteously … one thinks: ‘May fame come to me and to my relatives and preceptors!’ This is the second thing … rarely gained in the world. (3) “Having gained wealth righteously and having gained fame for oneself and for one’s relatives and preceptors, one thinks: ‘May I live long and enjoy a long-life span!’ This is the third thing … rarely gained in the world. (4) “Having gained wealth righteously, having gained fame for oneself and for one’s relatives and preceptors, living long and enjoying a long-life span, one thinks: ‘With the breakup of the body, after death, may I be reborn in a good destination, in a heavenly world!’ This is the fourth thing … rarely gained in the world.

“These are the four things that are wished for, desired, agreeable, and rarely gained in the world.

  1. “There are, householder, four [other] things that lead to obtaining those four things. What four? Accomplishment in faith, accomplishment in virtuous behavior, accomplishment in generosity, and accomplishment in wisdom.
  2. (1) “And what, householder, is accomplishment in faith? Here, a noble disciple is endowed with faith; he places faith in the enlightenment of the Tathagata thus: ‘The Blessed One is an arahant, perfectly enlightened, accomplished in true knowledge and conduct, fortunate, knower of the world, unsurpassed trainer of persons to be tamed, teacher of devas and humans, the Enlightened One, the Blessed One.’ This is called accomplishment in faith.
  3. (2) “And what is accomplishment in virtuous behavior? Here, a noble disciple abstains from the destruction of life … abstains from liquor, wine, and intoxicants, the basis for heedlessness.

This is called accomplishment in virtuous behavior.

  1. (3) “And what is accomplishment in generosity? Here, a noble disciple dwells at home with a mind free from the stain of miserliness, freely generous, openhanded, delighting in relinquishment, devoted to charity, delighting in giving and sharing. This is called accomplishment in generosity.
  2. Rồi gia chủ Anàthapindika đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với gia chủ Anàthapindika đang ngồi một bên:
  3. – Có bốn pháp này, này Gia chủ, khả lạc, khả hỷ, khả ý, khó được ở đời. Thế nào là bốn?“Mong rằng tài sản khởi lên cho ta đúng pháp”. Ðây là pháp thứ nhất, khả lạc, khả hỷ, khả ý, khó được ở đời. “Tài sản đã được đúng pháp, mong rằng tiếng tốt được đồn về ta, cùng với bà con, và các bậc Thầy”. Ðây là pháp thứ hai, khả lạc… khó được ở đời. “Tài sản đã được đúng pháp, tiếng tốt đã được đồn về ta, cùng với bà con, và các bậc Thầy, mong rằng ta sống lâu, hộ trì thọ mạng kéo dài”. Ðây là pháp thứ ba, khả lạc… khó được ở đời. “Tài sản đã được đúng pháp, tiếng tốt đã được đồn về ta, cùng với bà con, và các bậc Thầy, sau khi được sống lâu, hộ trì thọ mạng kéo dài, mong rằng khi thân hoại mạng chung, ta sanh lên cõi thiện, cõi Trời, cõi đời này”. Ðây là pháp thứ tư, khả lạc… khó được ở đời. Bốn pháp này, này Gia chủ, khả lạc, khả hỷ, khả ý, khó tìm được ở đời.
  4. Này Gia chủ, đối với bốn pháp khả lạc, khả hỷ, khả ý, khó được ở đời này, có bốn pháp đưa đến chứng được những pháp ấy. Thế nào là bốn? Ðầy đủ lòng tin, đầy đủ giới, đầy đủ bố thí, đầy đủ trí tuệ.
  5. Và này Gia chủ, thế nào là đầy đủ lòng tin? Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử có lòng tin, tin tưởng ở sự giác ngộ của Như Lai: Vị này là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Này Gia chủ, đây gọi là đầy đủ lòng tin.
  6. Và này Gia chủ, thế nào là đầy đủ giới? Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử từ bỏ sát sanh… từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu. Này Gia chủ, đây gọi là đầy đủ giới.
  7. Và này Gia chủ, thế nào là đầy đủ bố thí? Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử sống ở gia đình, tâm không bị cấu uế xan tham chi phối, bố thí rộng rãi, với bàn tay rộng mở, ưa thích từ bỏ, sẵn sàng để được yêu cầu, vui thích san sẻ vật bố thí. Này Gia chủ, đây gọi là đầy đủ bố thí.

 

  1. (4) “And. what is accomplishment in wisdom? If one dwells with a heart overcome by longing and unrighteous greed, one does what should be avoided and neglects one’s duty, so that one’s fame and happiness are spoiled. If one dwells with a. heart overcome by ill will … by dullness and drowsiness … by restlessness and remorse … by doubt, one does what should be avoided and neglects one’s duty, so that one’s fame and happiness are spoiled.
  2. “When, householder, a noble disciple has understood thus: ‘Longing and unrighteous greed are a defilement of the mind, he abandons them. When he has understood thus: ‘Ill will is a defilement of the mind,’ he abandons it. When he has understood thus: ‘Dullness and drowsiness are a defilement of the

Mind,’ he abandons them. When he has understood thus: ‘Restlessness

and remorse are a defilement of the mind,’ he abandons them. When he has understood thus: ‘Doubt is a defilement of the mind,’ he abandons it.

“When, householder, a noble disciple has understood thus. ‘Longing and unrighteous greed are a defilement of the mind’ and has abandoned them; when he has understood thus: ‘Ill will … Dullness and drowsiness … Restlessness and remorse … Doubt is a defilement of the mind,’ and has abandoned it, he is then called a noble disciple of great wisdom, of wide wisdom, one who sees the range, one accomplished in wisdom. This is called accomplishment in wisdom.

“These are the four [other] things that lead to obtaining the four things that are wished for, desired, agreeable, and rarely gained in the world.

  1. Và này Gia chủ, thế nào là đầy đủ trí tuệ? Này Gia chủ, sống với tâm vị dục tham chinh phục, làm việc không nên làm, không làm việc nên làm. Do làm việc không nên làm, không làm việc nên làm, vị ấy rời khỏi danh tiếng và an lạc. Này Gia chủ, sống với tâm vị sân hận chinh phục… sống với tâm bị hôn trầm thụy miên chinh phục… sống với tâm bị trạo hối chinh phục… sống với tâm bị nghi chinh phục, làm việc không nên làm, không làm việc đáng làm; do làm việc không nên làm, không làm việc đáng làm, vị ấy rời khỏi danh tiếng và an lạc.
  2. Này Gia chủ, Thánh đệ tử ấy, sau khi biết được dục tham là uế nhiễm của tâm, từ bỏ dục tham uế nhiễm của tâm; sau khi biết được sân hận là uế nhiễm của tâm, từ bỏ sân hận, uế nhiễm của tâm; sau khi biết được hôn trầm thụy miên là uế nhiễm của tâm; sau khi biết được trạo hối là uế nhiễm của tâm; sau khi biết được nghi là uế nhiễm của tâm, từ bỏ nghi, uế nhiễm của tâm; này Gia chủ, đây gọi là vị Thánh đệ tử có đại trí tuệ, có trí tuệ rộng lớn, bước vào giới vức minh kiến, đầy đủ trí tuệ. Ðây gọi là đầy đủ trí tuệ.Này Gia chủ, đối với bốn pháp khả lạc, khả hỷ, khả ý, khó được ở đời này, có bốn pháp này đưa đến chứng được những pháp ấy.

 

  1. “With wealth acquired by energetic striving, amassed by the strength of his arms, earned by the sweat of his brow, righteous wealth righteously gained, the noble disciple undertakes four worthy deeds. What four?
  2. (1) “Here, householder, with wealth acquired by energetic striving … righteously gained, the noble disciple makes himself happy and pleased and properly maintains himself in happiness; he makes his parents happy and pleased and properly maintains them in happiness; he makes his wife and children, his slaves, workers, and servants happy and pleased and properly maintains them in happiness; he makes his friends and companions happy and pleased and properly maintains them in happiness. This is the first case of wealth that has gone to good use, that has been properly utilized and used for a worthy cause.
  3. Vị Thánh đệ tử ấy, này Gia chủ, với tài sản thâu hoạch được do nỗ lực tinh tấn, tích lũy do sức mạnh cánh tay, do mồ hôi đổ ra, đúng pháp, thâu hoạch đúng pháp, là người đã làm bốn hành động. Thế nào là bốn?
  4. Ở đây, này Gia chủ, Thánh đệ tử, với tài sản thâu hoạch được do nỗ lực tinh tấn, tích lũy được do sức mạnh cánh tay, do mồ hôi đổ ra đúng pháp, thâu hoạch đúng pháp, tự làm mình an lạc, hoan hỷ, chơn chánh đem lại an lạc, giúp cha mẹ được an lạc hoan hỷ, giúp vợ con, người phục vụ, người làm công được an lạc, hoan hỷ, chơn chánh đem lại an lạc, giúp bạn bè thân hữu được an lạc hoan hỷ, là người chơn chánh đem lại an lạc. Này Gia chủ, đây là trường hợp thứ nhất, vị ấy đi đến được, đạt được sự hưởng thọ đúng phương xứ.

 

  1. (2) “Again, with wealth acquired by energetic striving … righteously gained, the noble disciple makes provisions against the losses that might arise from fire, floods, kings, thieves, or displeasing heirs; he makes himself secure against them: This is the second case of wealth that has gone to good use … for a

worthy cause.

  1. (3). “Again, with wealth acquired by energetic striving … righteously gained, the noble disciple makes the five oblations: to relatives, guests, ancestors, the king, and the deities. This is the third case of wealth that has gone to good use … for a worthy cause.
  2. Lại nữa, này Gia chủ, Thánh đệ tử, với tài sản thâu hoạch được do nỗ lực tinh tấn, tích lũy được do sức mạnh cánh tay, do mồ hôi đổ ra đúng pháp, thâu hoạch đúng pháp, với tài sản ấy, tự làm cho mình được an toàn, chống lại những tai họa từ lửa đến, từ nước đến, từ vua đến, từ ăn trộm đến, từ các thừa tự thù nghịch đến. Này Gia chủ, đây là trường hợp thứ hai vị ấy đi đến được, đạt được sự hưởng thọ đúng phương xứ.
  3. Lại nữa, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử với tài sản… thâu hoạch đúng pháp. Với tài sản ấy, vị ấy tổ chức năm loại lễ hiến cúng, hiến cúng cho bà con, hiến cúng cho khách, hiến cúng cho các vong linh quá khứ, hiến cúng cho vua, hiến cúng cho chư Thiên. Này Gia chủ, đây là trường hợp thứ ba vị ấy đi đến được, đạt được sự hưởng thọ đúng phương xứ.

 

  1. (4) “Again, with wealth acquired by energetic striving … righteously gained, the noble disciple establishes an uplifting offering of alms— an offering that is heavenly, resulting in happiness, conducive to heaven— to those ascetics and brahmins who refrain from intoxication and heedlessness, who are settled in patience and mildness, who tame themselves, calm themselves, and train themselves for nibbana. This is the fourth case of wealth that has gone to good use, that has been properly employed and used for a worthy cause.
  2. “These, householder, are the four worthy deeds that the noble disciple undertakes with wealth acquired by energetic striving, amassed by the strength of his arms, earned by the sweat of his brow, righteous wealth righteously gained. When anyone exhausts wealth on anything apart from these four worthy deeds, that wealth is said to have gone to waste, to have been

squandered, to have been used frivolously. But when anyone exhausts wealth on these four worthy deeds, that wealth is said to have gone to good use, to have been properly used, to have been utilized for a worthy cause.”

  1. Lại nữa, này Gia chủ, Thánh đệ tử với tài sản… thâu hoạch đúng pháp, đối với những vị Sa-môn, Bà-la-môn sống từ bỏ kiêu mạn, phóng dật, an trú trên nhẫn nhục, nhu hòa, an tịnh tự mình, nhiếp phục tự mình, làm lắng dịu tự mình; đối với những Sa-môn, Bà-la-môn như vậy, vị ấy tổ chức sự cúng dường tối thượng, thuộc về cõi Trời, đem đến quả lạc dị thục, đưa đến Thiên giới. Này Gia chủ, đây là trường hợp thứ tư vị ấy đi đến được, đạt được sự hưởng thọ đúng phương xứ.
  2. Vị Thánh đệ tử ấy, này Gia chủ, với tài sản thâu hoạch được do nỗ lực tinh tấn, tích lũy được do sức mạnh cánh tay, do mồ hôi đổ ra đúng pháp, thâu hoạch đúng pháp; với tài sản ấy, vị ấy là người đã làm được bốn hành động này. Nếu tài sản của ai, này Gia chủ, được tiêu dùng không đúng với bốn hành động này, những tài sản này được gọi là tài sản đi đến không lợi ích, đi đến không thành đạt, đạt được sự hưởng thọ không đúng phương xứ. Nếu những tài sản của ai, này Gia chủ, được tiêu dùng với bốn hành động này, những tài sản này được gọi là những tài sản đi đến lợi ích, đi đến thành đạt, đạt được sự hưởng thọ đúng phương xứ.

 

“I’ve enjoyed wealth,

supported my dependents,

and overcome adversities.

I have given an uplifting offering

and performed the five oblations.

I have served the virtuous monks,

the self-controlled celibate ones.

 

“I have achieved whatever purpose

a wise person, dwelling at home,

might have in desiring wealth;

what I have done brings me no regret.”

 

Recollecting this, a mortal

remains firm in the noble Dhamma.

They praise him here in this life,

and after death he rejoices in heaven.

Tài sản ta thọ hưởng, 
Gia nhân được nuôi dưỡng,
Chính nhờ các tài sản,
Do ta tránh tai họa,
Ta cúng dường tối thượng,
Làm năm loại hiến vật,
Hộ trì bậc trì giới,
Bậc tự điều, Phạm hạnh,
Mục đích gì bậc trí,
Trú nhà, cầu tài sản,
Mục đích ấy Ta đạt,
Ðược làm không hối hận.
Người nào nhớ nghĩ vậy,
An trú trên Thánh pháp,
Ðời này được tán thán,
Ðời sau được hoan hỷ,
Trên cảnh giới chư Thiên.

 

62 (2) Freedom front Debt – [(II) (62) Không Nợ]

 

  1. Then the householder Anathapindika approached the Blessed One … The Blessed One said to him:
  2. “Householder, there are these four kinds of happiness that may be achieved by a layperson who enjoys sensual pleasures, depending on time and occasion. What four? The happiness of ownership, the happiness of enjoyment, the happiness of freedom from debt, and the happiness of blamelessness.
  3. (1) “And what, householder, is the happiness of ownership?

Here, a clansman has acquired wealth by energetic striving, amassed by the strength of his arms, earned by the sweat of his brow, righteous wealth righteously gained. When he thinks, ‘I have acquired wealth by energetic striving … righteously gained,’ he experiences happiness and joy. This is called the happiness of ownership.

  1. (2) “And what is the happiness of enjoyment?

Here, with wealth acquired by energetic striving, amassed by the strength of his arms, earned by the sweat of his brow, righteous wealth righteously gained, a clansman enjoys his wealth and does meritorious deeds. When he thinks, ‘With wealth acquired by energetic striving… righteously gained, I enjoy my wealth and do meritorious deeds,’ he experiences happiness and joy. This is called the happiness of enjoyment.

  1. (3) “And what is the happiness of freedom from debt?

Here, a clansman has no debts to anyone, whether large or small. When he thinks, I have no debts to anyone, whether large or small,’ he experiences happiness and joy. This is called the happiness of freedom from debt.

  1. (4) “And what is the happiness of blamelessness?

Here, householder, a noble disciple is endowed with blameless bodily, verbal, and mental action. When he thinks, ‘I am endowed with blameless bodily, verbal, and mental action,’ he experiences happiness and joy. This is called the happiness of blamelessness. “These are the four kinds of happiness that a layperson who enjoys sensual pleasures m ay achieve, depending on time and occasion.”

 

Having known the happiness of freedom from debt,

one should recall the happiness of ownership.

Enjoying the happiness of enjoyment,

a mortal then sees things clearly with wisdom.

 

While seeing things clearly, the wise one

knows both kinds of happiness.

The other is not worth a sixteenth part

of the bliss of blamelessness.

  1. Rồi gia chủ Anàthapindika đi đến Thế Tôn, sau khi đến, ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với gia chủ Anàthapindika đang ngồi một bên:
  2. – Có bốn loại an lạc này, ngày Gia chủ, người tại gia thọ hưởng các dục thâu hoạch được, tùy thời gian, tùy thời cơ khởi lên cho vị ấy. Thế nào là bốn? Lạc sở hữu, lạc thọ dụng, lạc không mắc nợ, lạc không phạm tội.
  3. Và này Gia chủ, thế nào là lạc sở hữu?

Ở đây, này Gia chủ, tài sản của người thiện nam tử, thâu hoạch được do nỗ lực tinh tấn, tích lũy được do sức mạnh cánh tay, do mồ hôi đổ ra đúng pháp, thâu hoạch đúng pháp. Vị ấy suy nghĩ: “Ta có tài sản, thâu hoạch được do nỗ lực tinh tấn, tích lũy được do sức mạnh cánh tay… thâu hoạch đúng pháp.” Nghĩ vậy, vị ấy được lạc, được hỷ. Này Gia chủ, đây gọi là lạc sở hữu.

  1. Và này, thế nào là lạc tài sản?

Ở đây, này Gia chủ, thiện nam tử thọ hưởng những tài sản thâu hoạch được do nỗ lực tinh tấn, tích lũy được… thâu hoạch đúng pháp và làm các việc phước đức. Vị ấy nghĩ rằng: “Ta thọ hưởng những tài sản thâu hoạch được do nỗ lực tinh tấn… thâu hoạch đúng pháp và ta làm các phước đức.” Nghĩ vậy vị ấy được lạc, được hỷ. Này Gia chủ, đây gọi là lạc tài sản.

  1. Và này Gia chủ, thế nào là lạc không mắc nợ? Ở đây, này Gia chủ, vị thiện gia nam tử không có mắc nợ ai một điều gì, ít hay nhiều. Vị ấy nghĩ rằng: “Ta không có mắc nợ ai một điều gì, ít hay nhiều.” Nghĩ vậy, vị ấy được lạc, được hỷ. Này Gia chủ, đây gọi là lạc không mắc nợ.
  2. Và này Gia chủ, thế nào là lạc không phạm tội?

Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử thành tựu thân hành không phạm tội, thành tựu khẩu hành không phạm tội, thành tựu ý hành không phạm tội. Vị ấy nghĩ rằng: “Ta thành tựu thân hành không phạm tội, khẩu hành không phạm tội, ý hành không phạm tội”. Nghĩ vậy, vị ấy được lạc, được hỷ. Này Gia chủ, đây gọi là lạc không phạm tội.

Có bốn loại lạc này, này Gia chủ, người tại gia thọ hưởng các dục thâu hoạch được, tùy thời gian, tùy thời cơ, khởi lên cho vị ấy.

Ðược lạc không mắc nợ,
Nhớ đến lạc sở hữu,
Người hưởng lạc tài sản,
Với tuệ, thấy như thị,
Do thấy, vị ấy biết,
Sáng suốt cả hai phần,
Lạc vậy chỉ bằng được,
Bằng một phần mười sáu,
Lạc không có phạm tội.

 

63 (3) With Brahma – [(III) (63) Bằng Với Phạm Thiên]

 

(1) “Bhikkhus, those families dwell with Brahma where at home the mother and father are revered by their children. (2) Those families dwell with the first teachers where at home the mother and father are revered by their children. (3) Those families dwell with the first deities where at home the mother and

father are revered by their children. (4) Those families dwell with the gift-worthy where at home the mother and father are revered by their children.

  1. “‘Brahma,’ bhikkhus, is a designation for mother and father. ‘First teachers’ is a designation for mother and father. ‘First deities’ is a designation for mother and father. ‘Gift-worthy’ is a designation for mother and father. And why? Mother and father are very helpful to their children: they raise them, nurture them, and show them the world.”

 

Mother and father are called “Brahma,”

and also “first teachers.”

They are worthy of gifts from their children,

for they have compassion for their offspring.

Therefore, a wise person should revere them

and treat them with honor.

 

One should serve them with food and drink,

with clothes and bedding,

by massaging and bathing them,

and by washing their feet.

 

Because of that service

to mother and father,

the wise praise one in this world

and after death one rejoices in heaven.

  1. – Những gia đình nào, này các Tỷ-kheo, các cha mẹ được các con đảnh lễ cúng dường ở trong nhà, những gia đình ấy được xem là giống như Phạm thiên. Những gia đình nào, này các Tỷ-kheo, các cha mẹ được các con đảnh lễ cúng dường ở trong nhà, những gia đình ấy được xem là giống như bậc Ðạo sư thời xưa. Những gia đình nào, này các Tỷ-kheo, các cha mẹ được các con đảnh lễ cúng dường ở trong nhà, những gia đình ấy, này các Tỷ-kheo, được xem là giống như chư Thiên thời trước. Những gia đình nào, này các Tỷ-kheo, các cha mẹ được các con đảnh lễ cúng dường ở trong nhà, những gia đình ấy được xem là đáng được cúng dường.
  2. Phạm Thiên, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với mẹ cha; các bậc Ðạo sư thời xưa, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với mẹ cha; chư Thiên thuở xưa, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với mẹ cha; đáng được cung kính cúng dường, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với mẹ cha. Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, vì mẹ cha giúp đỡ rất nhiều cho các con, nuôi dưỡng chúng lớn và giới thiệu chúng vào đời này.

Mẹ cha gọi Phạm thiên,
Bậc Ðạo sư thời trước,
Xứng đáng được cúng dường,
Vì thương đến con cháu,
Do vậy bậc Hiền sĩ,
Ðảnh lễ và tôn trọng,
Dâng đồ ăn đồ uống,
Vải mặc và giường nằm,
Thoa bóp cả thân mình,
Tắm rửa cả chân tay.
Với sở hành như vậy,
Ðối với mẹ và cha,
Ðời này người hiền khen,
Ðời sau hưởng Thiên lạc.

 

64 (4) Hell – [(IV) (64) Ðịa Ngục]

 

  1. “Bhikkhus, one who possesses four qualities is cast into hell as if brought there. What four? He destroys life, takes what is not given, engages in sexual misconduct, and speaks falsely. One who possesses these four qualities is cast into hell as if brought there.”

2.

The destruction of life, taking what is not given,

the uttering of false speech,

and consorting with others’ wives:

the wise do not praise such deeds.

  1. – Thành tựu với bốn pháp, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục. Với bốn pháp gì? Sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, nói láo.

Thành tựu với bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục.

2.

Sát sanh và trộm cắp,
Cái được gọi nói láo,
Và đi đến vợ người,
Bậc trí không tán thán.

 

65 (5) Form – [(V) (65) Hình Thức Bên Ngoài]

 

  1. “Bhikkhus, there are these four kinds of persons found existing in the world. What four? (1) One who judges on the basis of form, whose confidence is based on form. (2) One who judges on the basis of speech, whose confidence is based on speech. (3) One who judges on the basis of austerity, whose confidence is based on austerity. (4) One who judges on the basis of the Dhamma, whose confidence is based on the Dhamma. These are the four kinds of persons found existing in the world.”

2.

Those who judge on the basis of form

and those who follow because of speech

have come under the control of desire and lust;

those people do not understand.

 

One who does not know the inside

and does not see the outside, ‘

a fool obstructed on all sides,

is carried away by speech.

 

One who does not know the inside

yet who clearly sees the outside,

seeing the fruit externally,

is also carried away by speech.

 

But one who understands the inside

and who clearly sees the outside,

seeing without hindrances,

is not carried away by speech.

  1. – Có bốn hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là bốn?

Hạng người đo lường sắc và thỏa mãn với sắc; hạng người đo lường tiếng và thỏa mãn với tiếng; hạng người đo lường với thô và thỏa mãn với thô; hạng người đo lường pháp và thỏa mãn với pháp. Bốn hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, hiện hữu ở đời.

2.

Những ai đo lường sắc,
Những ai đi đến tiếng,
Bị tham dục dắt dẫn,
Chúng không biết người ấy.
Không biết được nội tâm,
Không thấy được ngoại cảnh,
Kẻ ngu bị bao quanh,
Bị tiếng nói chi phối,
Không biết được nội tâm,
Quán thấy được ngoại cảnh,
Thấy được quả ở ngoài,
Bị tiếng nói chi phối.
Rõ biết được nội tâm,
Quán thấy được ở ngoài,
Thấy rõ không chướng ngại,
Không bị tiếng chi phối.

 

66 (6) Lustful – [(VI) (66) Tham Ái]

 

  1. “Bhikkhus, there are these four kinds of persons found existing in the world. What four? The lustful, the hating, the deluded, and the conceited. These are the four kinds of persons found existing in the world.”

2.

Beings enamored of tantalizing things,

seeking delight in whatever is pleasing,

low beings bound by delusion,

increase their bondage.

 

The ignorant go about

creating unwholesome kamma

born of lust, hatred, and delusion:

distressful deeds productive of suffering.

 

People hindered by ignorance,

blind, lacking eyes to see,

in accordance with their own nature,

do not think of it in such a way.

  1. – Có bốn hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là bốn? Có tham, có sân, có si, có mạn. Bốn hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt hiện hữu ở đời.

2.

Tham ái vật đẹp đẽ,
Thích thú sắc khả ái,
Bị cột bởi vô minh,
Các hữu tình hạ liệt,
Càng tăng trưởng trói buộc.
Cho đến kẻ có trí,
Làm các việc bất thiện,
Sanh từ tham, sân, si,
Khiến phiền muộn, khó chịu,
Làm đau khổ sanh khởi,
Kẻ vô minh bao vây,
Kẻ mù không có mắt,
Tự tánh họ là vậy,
Họ không thể nghĩ rằng,
Ta có thể như vậy
.

 

67 (7) Snakes – [(VII) (67) Vua Các Loài Rắn]

 

  1. On one occasion, the Blessed One was dwelling at Savatthi in Jeta’s Grove, Anathapindika’s Park. Now on that occasion, in Savatthi, a certain bhikkhu had been bitten by a snake and had died. Then a number of bhikkhus approached the Blessed One, paid homage to him, sat down to one side, and said:
  2. “Bhante, a certain bhikkhu here in Savatthi was bitten by a snake and died.”

[The Blessed One said:] “Surely, bhikkhus, that bhikkhu did not pervade the four royal families of snakes with a mind of loving-kindness. For if he had done so, he would not have been bitten by a snake and died. What are the four? The virupakkha royal family of snakes, the erapatha royal family of snakes, the

chabyaputta royal family of snakes, and the black go tamaka royal family of snakes. Surely, that bhikkhu did not pervade these four royal families of snakes with a mind of loving-kindness.

For if he had done so, he would not have been bitten by a snake and died …

“I enjoin you, bhikkhus, to pervade these four royal families of snakes with a mind of loving-kindness, for your own security, safety, and protection.”

I have loving-kindness for the viriipakkha snakes;

for the erapatha snakes I have loving-kindness.

I have loving-kindness for the chabyaputta snakes;

for the black gotamakas I have loving-kindness.

 

I have loving-kindness for footless creatures;

for those with two feet I have loving-kindness.

I have loving-kindness for those with four feet;

for those with many feet I have loving-kindness.

 

May footless beings not harm me;

may no harm come to me from those with two feet;

may four-footed beings not harm me;

may no harm come to me from those with many feet.

 

May all beings, all living things,

all creatures, every one,

meet with good fortune;

may nothing bad come to anyone.

 

The Buddha is measureless, the Dhamma is measureless, the Sahgha is measureless; creeping things, snakes, scorpions, centipedes, spiders, lizards, and rats are finite. I have made a safeguard, I have made protection. Let the creatures retreat. I pay homage to the Blessed One, homage to the seven Perfectly Enlightened Ones.

  1. Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika.

Lúc bấy giờ, một Tỷ-kheo ở Sàvatthi bị rắn cắn chết. Rồi nhiều Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

  1. – Ở đây, bạch Thế Tôn, một Tỷ-kheo ở Sàvatthi bị rắn cắn đã mệnh chung.

– Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, với từ tâm đã không hướng đến bốn gia đình vua các loài rắn. Nếu Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, với từ tâm có hướng đến bốn gia đình vua các loài rắn, thời này các Tỷ-kheo, vị ấy có thể không bị rắn cắn mà mạng chung. Thế nào là bốn gia đình vua các loài rắn?

Gia đình vua các loài rắn Virùpakkha, gia đình vua các loài rắn Eràpattha, gia đình vua các loài rắn Chabyàputta, gia đình vua các loài rắn Kanhàgotamaka; Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo với từ tâm đã không hướng đến bốn gia đình vua các loài rắn này. Nếu Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, với từ tâm có thể hướng đến bốn gia đình vua các loài rắn, thời này các Tỷ-kheo, vị ấy có thể không bị rắn cắn mà mạng chung. Này các Tỷ-kheo, Ta cho phép với từ tâm hướng đến bốn gia đình vua các loài rắn này để tự bảo vệ, để tự hộ trì, để tự che chở.

3.

Ta hãy có từ tâm
Với Virùpakkha,
Ta hãy có từ tâm
Với Eràpatha,
Ta hãy có từ tâm
Với Chabyaputta,
Ta hãy có từ tâm
Với Kanhàgotamaka,
Ta hãy có từ tâm
Với các loài không chân,
Ta hãy có từ tâm
Với các loài hai chân,
Ta hãy có từ tâm
Với các loài bốn chân,
Ta hãy có từ tâm,
Với các loài nhiều chân,
Mong rằng loài không chân
Không có làm hại ta,
Mong rằng loài hai chân
Không có làm hại ta,
Mong rằng loài bốn chân
Không có làm hại ta,
Mong rằng loài nhiều chân
Không có làm hại ta,
Mọi chúng sanh, hữu tình
Toàn thể mọi sinh vật,
Mong chúng thấy hiền thiện,
Chớ đi đến điều ác
.

“Ðức Phật là vô lượng, Pháp là vô lượng, chúng Tăng là vô lượng, có lượng là các loài bò sát, các loài rắn, các con bò cạp, các con một trăm chân, các loại nhện giăng tơ, các con thằn lằn và các loài chuột. Ta đã làm sự hộ trì. Ta đã làm sự che chở, mong rằng các loài hữu tình sẽ bỏ đi. Ta đảnh lễ đức Thế Tôn. Ta đảnh lễ bảy vị Chánh Ðẳng Giác.”

 

68 (8) Devadatta – [(VIII) (68) Devadatta]

 

  1. On one occasion, the Blessed One was dwelling at Rajagaha on Mount Vulture Peak soon after Devadatta had left. There the Blessed One, with reference to Devadatta, addressed the bhikkhus:

– “Bhikkhus, Devadatta’s gain, honor, and praise led to his own ruin and destruction. (1) Just as a plantain tree yields fruit to its own ruin and destruction, so Devadatta’s gain, honor, and praise led to his own ruin and destruction. (2) Just as a bamboo yields fruit to its own ruin and destruction, so Devadatta’s gain, honor, and praise led to his own ruin and destruction. (3) just as a reed yields fruit to its own ruin and destruction, so Devadatta’s gain, honor, and praise led to his Own ruin and destruction. (4) Just as a mule becomes pregnant to its own ruin and destruction, so Devadatta’s gain, honor, and praise led to his own ruin and destruction.”

2.

As its own fruit destroys the plantain,

as its fruit destroys the bamboo and reed,

as its embryo destroys the mule,

so does honor destroy the vile man.

  1. Một thời, Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại núi Gijjhakùta sau khi Devadatta bỏ đi không bao lâu. Tại đấy, Thế Tôn nhơn việc Devadatta bảo các Tỷ-kheo:

– Ðem đến hại mình, này các Tỷ-kheo, khi lợi dưỡng, cung kính, danh vọng khởi lên cho Devadatta; đem đến bất hạnh cho người, này các Tỷ-kheo, khi lợi dưỡng, cung kính, danh vọng khởi lên cho Devadatta! Ví như, này các Tỷ-kheo, một cây chuối khi sanh ra trái, đem đến hại mình; khi sanh ra trái, đem đến bất hạnh cho người khi sanh ra trái. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đem đến hại mình khi lợi dưỡng, cung kính, danh vọng khởi lên cho Devadatta, đem đến bất hạnh cho người khi lợi dưỡng, cung kính, danh vọng khởi lên cho Devadatta. Ví như, này các Tỷ-kheo, cây tre đem đến hại mình khi sanh ra trái, đem đến bất hạnh cho người khi sanh ra trái. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đem đến hại mình khi lợi dưỡng, cung kính, danh vọng khởi lên cho Devadatta. Ví như, này các Tỷ-kheo, cây lau đem đến hại mình khi sanh ra trái, đem đến bất hạnh cho người khi sanh ra trái. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đem đến hại mình khi lợi dưỡng, cung kính, danh vọng khởi lên cho Devadatta, đem lại bất hạnh cho người khi lợi dưỡng, cung kính, danh vọng khởi lên cho Devadatta. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ví như con la đem đến hại mình khi mang thai, đem đến bất hạnh cho người khi mang thai. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đem đến hại mình khi lợi dưỡng, cung kính, danh vọng khởi lên cho Devadatta, đem đến bất hạnh cho người khi lợi dưỡng, cung kính, danh vọng khởi lên cho Devadatta.

2.

Quả giết hại cây chuối,
Giết hại tre và lau,
Cung kính hại người ngu,
Thai tạng hại con la
.

 

69 (9) Striving – [(IX) (69) Tinh Cần]

 

  1. “Bhikkhus, there are these four strivings. What four?

Striving by restraint, striving by abandonment, striving by development, and striving by protection.

  1. (1) “And what, bhikkhus, is striving by restraint?

Here, a bhikkhu generates desire for the non-arising of unarisen bad unwholesome qualities; he makes an effort, arouses energy, applies his mind, and strives. This is called striving by

restraint.

  1. (2) “And what is striving by abandonment?

Here, a bhikkhu generates desire for the abandoning of arisen bad unwholesome qualities; he makes1 an effort, arouses energy, applies his mind, and strives. This is called striving by abandonment.

  1. (3) “And what is striving by development?

Here, a bhikkhu generates desire for the arising of unarisen wholesome qualities; he makes an effort, arouses energy, applies his mind, and strives. This is called striving by development.

  1. (4) “And what is striving by protection?

Here, a bhikkhu generates desire for the maintenance of arisen wholesome qualities, for their non-deciine, increase, expansion, and fulfillment by development; he makes an effort, arouses energy, applies his mind, and strives. This is called striving by protection. “These are the four strivings.”

 

Restraint and abandonment,

development and protection:

by means of these four strivings

taught by the Kinsman of the Sun

a bhikkhu who is ardent here

can attain the destruction of suffering.

  1. – Này các Tỷ-kheo, có bốn tinh cần này, thế nào là bốn?

Tinh cần chế ngự, tinh cần đoạn tận, tinh cần tu tập, tinh cần hộ trì.

  1. Này các Tỷ-kheo, thế nào là tinh cần chế ngự?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo với mục đích khiến cho các ác bất thiện pháp từ trước chưa sanh không cho sanh khởi, khởi lên ý muốn cố gắng, tinh tấn, sách tâm, trì tâm. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tinh cần chế ngự.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tinh cần đoạn tận?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo với mục đích đoạn tận các ác bất thiện pháp, khởi lên ý muốn cố gắng, tinh tấn, sách tâm, trì tâm. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tinh cần đoạn tận.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tinh cần tu tập?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo với mục đích làm cho sanh khởi các thiện pháp chưa sanh, khởi lên ý muốn cố gắng, tinh tấn, sách tâm, trì tâm. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tinh cần tu tập.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tinh cần hộ trì?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo với mục đích khiến cho các thiện pháp đã được sanh có thể duy trì, không có mù mờ, được tăng trưởng, được quảng đại, được tu tập, được viên mãn, khởi lên ý muốn cố gắng, tinh tấn, sách tâm, trì tâm. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tinh cần hộ trì.

Này các Tỷ-kheo, có bốn loại tinh cần này.

Chế ngự và đoạn tận,
Tu tập và hộ trì,
Bốn loại tinh cần này,
Ðược bà con mặt trời,
Ðược đức Phật thuyết giảng.
Ở đây vị Tỷ-kheo,
Với bốn tinh cần này,
Nhiệt tâm và nỗ lực.
Ðạt được khổ đoạn diệt
.

 

70 (10) Unrighteous – [(X) (70) Phi Pháp]

 

  1. “Bhikkhus, when kings are unrighteous, the royal vassals become unrighteous. When the royal vassals are unrighteous, brahmins and householders become unrighteous. When brahmins and householders are unrighteous, the people of the towns and countryside become unrighteous. When the people of the towns and countryside are unrighteous, the sun and moon proceed off course. When the sun and m oon proceed off course, the constellations and the stars proceed off course. When the constellations and the stars proceed off course, day and night proceed off course … the months and fortnights proceed off course … the seasons and years proceed off course. When the seasons and years proceed off course, the winds blow off course and at random. When the winds blow off course and at random, the deities become upset. When the deities are upset, sufficient rain does not fall. When sufficient rain does not fall, the crops ripen irregularly. When people eat crops that ripen irregularly, they become short-lived, ugly, weak, and sickly.
  2. “Bhikkhus, when kings, are righteous, the royal vassals become righteous. When the royal vassals are righteous, brahmins and householders become righteous. When brahmins and householders are righteous, the people of the towns and countryside become righteous. When the people of the towns and countryside are righteous, the sun and moon proceed on course. When the sun and moon proceed on course, the constellations and the stars proceed on course. When the constellations and the stars proceed on course, day and night proceed on course … the months and fortnights proceed on course … the seasons and years proceed on course. When the seasons and years proceed on course, the winds blow on course and dependably. When the winds blow on course and dependably, the deities do not become upset. When the deities are not upset, sufficient rain falls. When sufficient rain falls, the crops ripen in season. When people eat crops that ripen in season, they become long-lived, beautiful, strong, and healthy.”

 

When cattle are crossing [a ford],

if the chief bull goes crookedly,

all the others go crookedly

because their leader has gone crookedly.

 

So too, among human beings,

when the one considered the chief

behaves unrighteously,

other people do so as well. [76]

The entire kingdom is dejected •

if the king is unrighteous.

 

When cattle are crossing [a ford]

if the chief bull goes straight across,

all the others go straight across

because their leader has gone straight.

 

So too, among human beings,

when the one considered the chief

conducts himself righteously,

other people do so as well.

The entire kingdom rejoices

if the king is righteous.

  1. – Khi nào, này các Tỷ-kheo, các vua phi pháp có mặt, khi ấy, các đại thần phi pháp của vua có mặt. Khi nào các đại thần phi pháp của vua có mặt, khi ấy các Bà-la-môn gia chủ phi pháp có mặt. Khi nào các Bà-la-môn gia chủ phi pháp có mặt, khi ấy dân chúng thị thành và dân chúng các làng trở thành phi pháp. Khi nào dân chúng thị thành và ở các làng là phi pháp, khi ấy mặt trăng, mặt trời đi sai quỹ đạo. Khi nào mặt trăng, mặt trời đi sai quỹ đạo, khi ấy các dãy ngân hà, các loại sao đi sai quỹ đạo. Khi nào các dãy ngân hà, các loại sao đi sai quỹ đạo, khi ấy ngày đêm đi sai quỹ đạo. Khi nào ngày đêm đi sai quỹ đạo, khi ấy tháng và nửa tháng đi sai quỹ đạo. Khi nào tháng và nửa tháng đi sai quỹ đạo, khi ấy thời tiết và năm đi sai quỹ đạo. Khi nào thời tiết và năm đi sai quỹ đạo, khi ấy gió thổi sai lạc trái mùa. Khi nào gió thổi sai lạc trái mùa, khi ấy chư Thiên bực mình. Khi nào chư Thiên bực mình, khi ấy trời mưa không có điều hòa. Khi nào trời mưa không có điều hòa, khi ấy lúa chín trái mùa. Này các Tỷ-kheo, khi nào lúa chín trái mùa, khi ấy các loài Người nuôi sống với loại lúa ấy, thì thọ mạng sẽ ngắn, dung sắc xấu, yếu sức và nhiều bệnh.
  2. Khi nào, này các Tỷ-kheo, các vua đúng pháp có mặt, thì khi ấy các vị đại thần đúng pháp của vua có mặt. Khi nào các vị đại thần đúng pháp của vua có mặt, khi ấy các Bà-la-môn gia chủ đúng pháp có mặt. Khi nào các Bà-la-môn gia chủ đúng pháp có mặt, khi ấy dân chúng thị thành và dân chúng các làng trở thành đúng pháp. Khi nào dân chúng thị thành và ở các làng là đúng pháp, khi ấy mặt trăng, mặt trời đi đúng quỹ đạo. Khi nào mặt trăng, mặt trời đi đúng quỹ đạo, khi ấy các dãy ngân hà, các loại sao đi đúng quỹ đạo. Khi nào các dãy ngân hà, các loại sao đi đúng quỹ đạo, khi ấy ngày đêm đi đúng quỹ đạo. Khi nào ngày đêm đi đúng quỹ đạo, khi ấy tháng và nửa tháng đi đúng quỹ đạo. Khi nào tháng và nửa tháng đi đúng quỹ đạo, khi ấy thời tiết và năm đi đúng quỹ đạo. Khi nào thời tiết và năm đi đúng quỹ đạo, khi ấy gió thổi đúng mùa. Khi nào gió thổi đúng mùa, khi ấy chư Thiên hoan hỉ. Khi nào chư Thiên hoan hỉ, khi ấy trời mưa điều hòa. Khi nào trời trở mưa điều hòa, khi ấy, lúa chín đúng mùa. Này các Tỷ-kheo, khi nào lúa chín đúng mùa, khi ấy loài Người nuôi sống với loại lúa ấy, thọ mạng sẽ lâu dài, dung sắc đẹp đẽ, có sức mạnh và không có nhiều bệnh.

Khi đàn bò lội sông,
Ðầu đàn đi sai lạc,
Cả đàn đều đi sai,
Vì hướng dẫn sai lạc.
Cũng vậy, trong loài Người,
Vị được xem tối thắng,
Nếu sở hành phi pháp,
Còn nói gì người khác,
Cả nước bị đau khổ,
Nếu vua sống phi pháp.

Khi đàn bò lội sông,
Ðầu đàn đi đúng hướng,
Cả đàn đều đúng hướng,
Vì hướng dẫn đúng đường.
Cũng vậy trong loài Người,
Vị được xem tối thắng,
Nếu sở hành đúng pháp,
Còn nói gì người khác,
Cả nước được an vui,
Nếu vua sống đúng pháp.

 

VIII. Unmistakable – [VIII. Phẩm Không Hý Luận]

 

71 (1) Striving – [(I) (71) Không Có Hý Luận]

 

“Bhikkhus, a bhikkhu who possesses four qualities is practicing the unmistakable way and has laid the groundwork for the destruction of the taints. What four? Here, a bhikkhu is virtuous, learned, energetic, and wise. A bhikkhu who possesses these four qualities is practicing the unmistakable way and has

laid the groundwork for the destruction of the taints.”

– Thành tựu với bốn pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thực hành con đường thông suốt và có những căn bản thẳng tấn để đoạn diệt các lậu hoặc. Thế nào là bốn?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có giới, nghe nhiều, tinh cần tinh tấn, có trí tuệ.

Thành tựu với bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thực hành con đường thông suốt, và có những căn bản thẳng tấn để đoạn diệt các lậu hoặc.

 

72 (2) View – [(II) (72) Chánh Kiến]

 

“Bhikkhus, a bhikkhu who possesses four qualities is practicing the unmistakable way and has laid the groundwork for the destruction of the taints. What four? The thought of renunciation, the thought of good will, the thought of non-harming, and right view. A bhikkhu who possesses these four qualities is practicing the unmistakable way and has laid the groundwork for the destruction of the taints.”

– Thành tựu bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo thực hành con đường thông suốt và có những căn bản thẳng tấn để đoạn diệt các lậu hoặc. Thế nào là bốn?

Tầm viễn ly, tầm không sân, tầm không hại, chánh tri kiến.

Thành tựu với bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thực hành con đường thông suốt và có những căn bản thẳng tấn để đoạn diệt các lậu hoặc.

 

73 (3a) The Bad Person: The Bride (b) – [(III) (73) Bậc Chân Nhân]

 

  1. “Bhikkhus, one who possesses four qualities can be understood to be a bad peison. What four?

(1) ‘Here, bhikkhus, a bad person discloses the faults of others even when not asked about them, how much more then when asked. But when he is asked about them, then, led on by questions, he speaks about the faults of others without gaps or omissions, fully and in detail. It can be understood: ‘This fellow

is a bad person.’

  1. (2) “Again, a bad person does not disclose the virtues of others even when asked about them, how much less then when not asked. But when he is asked about them, then, though led on by questions, he speaks about the virtues of others with gaps and omissions, not fully or in detail. It can be understood: ‘This

fellow is a bad person.’

  1. (3) “Again, a bad person does not disclose his own faults even when asked about them, how much less then when not asked. But when he is asked about them, then, though led on by questions, he speaks about his own faults with gaps and omissions, not full nor in detail. It car, be understood: This fellow is a bad person,’
  2. – Thành tựu với bốn pháp, này các Tỷ-kheo, cần phải được hiểu không phải bậc Chân nhân. Thế nào là bốn?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, không phải bậc Chân nhân là người dầu không được hỏi, nói lên lời không tán thán người khác; còn nói gì nếu được hỏi!

Nhưng nếu được hỏi và phải trả lời, thời không dè dặt, không ngập ngừng, vị này nói lên lời không tán thán người khác, đầy đủ toàn bộ. Này các Tỷ-kheo, cẩn phải được hiểu, này các Tỷ-kheo, vị này không phải Chân nhân.

  1. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, không phải Chân nhân là người dầu được hỏi, không nói lên lời tán thán người khác; còn nói gì nếu không được hỏi!

Nhưng nếu được hỏi và phải trả lời, thời dè dặt và ngập ngừng, vị này nói lên lời tán thán người khác, không đầy đủ, không toàn bộ. Này các Tỷ-kheo, cần phải được hiểu, này các Tỷ-kheo, vị này không phải Chân nhân.

  1. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, không phải Chân nhân là người dầu được hỏi, không nói lên lời không tán thán về mình; còn nói gì nếu không được hỏi!

Nhưng nếu được hỏi và phải trả lời, thời dè dặt và ngập ngừng, vị này nói lên lời không tán thán về mình, không đầy đủ, không toàn bộ. Này các Tỷ-kheo, cần phải được hiểu, vị này không phải Chân nhân.

 

 

(4) “Again, a bad person discloses his own virtues even when not asked about them, how much more then when asked. But when he is asked about them, then, led on by questions, he speaks about his own virtues without gaps and omissions, fully and in detail. It can be understood: ‘This fellow is a bad

Person.’

“One who possesses these four qualities can be understood to be a bad person.

  1. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, không phải là Chân nhân là người dầu không được hỏi, cũng nói lên lời tán thán về mình; còn nói gì nếu được hỏi!

Nhưng nếu được hỏi và phải trả lời, không dè dặt, không ngập ngừng, vị này nói lên lời tán thán về mình, đầy đủ và toàn bộ. Này các Tỷ-kheo, cần phải được hiểu vị này không phải Chân nhân.

Thành tựu với bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, cần phải được hiểu không phải bậc Chân nhân.

 

  1. “Bhikkhus, one who possesses [another] four qualities can be understood to be a good person. What four?

(1) “Here, bhikkhus, a good person does not disclose the faults of others even when asked about them, how much less then when not asked. But when he is asked about them, then, though led on by questions, he speaks about the faults of others with gaps and omissions, not fully or in detail. It can be understood:’This fellow is a good person.’

  1. (2) “Again, a good person discloses the virtues of others even when not asked about them, how much more then when asked. But when he is asked about them, then, led on by questions, he speaks about the virtues of others without gaps and omissions, fully and in detail. It can be understood: ‘This fellow is a good person.’
  2. (3) “Again, a good person discloses his own faults even when not asked about them, how much more then when asked. But when he is asked about them, then, led on by questions, he speaks about his own faults without gaps and omissions, fully and in detail. It can be understood: ‘This fellow is a good

Person.’

  1. (4) ” Again, a good person does not disclose his own virtues even when asked about them, how much less then when not asked. But when he is asked about them, then, led on by questions, he speaks about his own virtues with gaps and omissions, not fully or in detail. It can be understood: ‘This fellow is a good person.’

“One who possesses these four qualities can be understood as a good person.

  1. Thành tựu với bốn pháp, này các Tỷ-kheo, cần phải được hiểu là bậc Chân nhân. Thế nào là bốn?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, bậc Chân nhân là người dầu có được hỏi, không nói lên lời không tán thán người khác; còn nói gì nếu không được hỏi!

Nhưng nếu được hỏi, và phải trả lời, dè dặt và ngập ngừng, vị ấy không nói lên lời tán thán người khác. Cần phải được hiểu, này các Tỷ-kheo, vị này là bậc Chân nhân.

  1. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, bậc Chân nhân là người dầu không được hỏi, cũng nói lên lời tán thán người khác; còn nói gì nếu được hỏi.

Nếu được hỏi và phải trả lời, không dè dặt, không ngập ngừng, vị ấy nói lời tán thán người khác, đầy đủ và toàn bộ. Cần phải được hiểu, này các Tỷ-kheo, vị này là bậc Chân nhân.

  1. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, bậc Chân nhân là Người, nếu không được hỏi, vẫn nói lên lời không tán thán về mình; còn nói gì nếu được hỏi!

Nếu được hỏi và phải trả lời, không dè dặt, không ngập ngừng, vị ấy nói lên lời không tán thán về mình, đầy đủ và toàn bộ. Cần phải được hiểu, này các Tỷ-kheo, vị này là bậc Chân nhân.

  1. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, bậc Chân nhân dầu có được hỏi cũng không nói lên lời tán thán về mình; còn nói gì nếu không được hỏi!

Nếu được hỏi và phải trả lời, dè dặt và ngập ngừng, vị ấy nói lên lời tán thán về mình, không đầy đủ; không toàn bộ. Cần phải được hiểu, này các Tỷ-kheo, vị này là bậc Chân nhân.

Thành tựu với bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, cần phải được hiểu là bậc Chân nhân.

73 (3b) The Bride – [(IV) (74) Người Vợ Trẻ]

 

  1. “Bhikkhus, when a bride is first brought into the home, whether at night or during the day, at first she sets up a keen sense of moral shame and moral dread toward her mother-in-law, her father-in-law, her husband, and even the slaves, workers, and servants. But after some time, as a result of living together and intimacy with them, she says to her mother-in-law, her father-in-law, and her husband: ‘Go away! What do you know?’
  2. – Ví như, này các Tỷ-kheo, người vợ trẻ, trong đêm hay ngày, được đưa về nhà chồng, nàng cảm thấy hết sức xấu hổ, sợ hãi trước mặt mẹ chồng, cha chồng, trước mặt chồng, cho đến trước mặt các người phục vụ, làm công. Sau một thời gian, do chung sống, do thân mật, nàng có thể nói với mẹ chồng, với cha chồng, với chồng: “Hãy đi đi, các người có biết được gì!”.

 

  1. “So too, when some bhikkhu here has gone forth from the household life into homelessness, whether by night or during the day, at first he sets up a keen sense of moral shame and moral dread toward the bhikkhus, the bhikkhunis, the male lay followers, the female lay followers, and even toward the monastery workers and novices. But after some time, as a result of living together and intimacy with them, he says even to his teacher and his preceptor: ‘Go away! What do you know?’
  2. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây có Tỷ-kheo, trong đêm hay ngày được xuất gia, từ bỏ gia đình sống không gia đình, cảm thấy hết sức xấu hổ, sợ hãi trước mặt các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ, cho đến trước những người làm vườn và những Sa-di. Sau một thời gian, do chung sống, do thân mật, vị ấy có thể nói với sư A-xà-lê, với sư Giáo thọ: “Hãy đi đi, các người có thể biết được gì!”.

 

  1. “Therefore, bhikkhus, you should train yourselves thus: ‘We will dwell with a mind like that of a newly arrived bride.’ It is in such a way that you should train yourselves.”
  2. Do vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải học tập như sau: “Ta sẽ sống với tâm người vợ trẻ khi mới đến nhà chồng”. Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải học tập.

 

74 (4) Foremost (1) – [(V) (75) Sự Tối Thượng]

 

“Bhikkhus, there are these four things that are foremost: What four? The foremost kind of virtuous behavior, the foremost kind of concentration, the foremost kind of wisdom, and the foremost kind of liberation. These are the four things that are foremost.”

Này các Tỷ-kheo, có bốn sự tối thượng này. Thế nào là bốn? Giới tối thượng, Ðịnh tối thượng, Tuệ tối thượng, Giải thoát tối thượng. Này các Tỷ-kheo, có bốn sự tối thượng này.

 

75 (5) Foremost (2) – [(V) (75) Sự Tối Thượng]

 

“Bhikkhus, there are these four things that are foremost. What four? The foremost of forms, the foremost of feelings, the foremost of perceptions, and the foremost among states of existence. These are the four things that are fo remost.”

Này các Tỷ-kheo, có bốn sự tối thượng này. Thế nào là bốn? Sắc tối thượng, thọ tối thượng, tưởng tối thượng, hữu tối thượng. Này các Tỷ-kheo, có bốn sự tối thượng này.

 

76 (6) Kusinara – [(VI) (76) Kusinàrà]

 

  1. On one occasion, the Blessed One was dwelling at Kusinara between the twin sal trees in the sal-tree grove of the Mallas at Upavattana, on the occasion of his final nibbana. There the Blessed One addressed the bhikkhus: “Bhikkhus!”

“Venerable sir!” those bhikkhus replied. The Blessed One said this:

  1. “Bhikkhus, it may be that even a single bhikkhu has some doubt or uncertainty about the Buddha, the Dhamma, or the Sahgha, about the path or the practice. Then ask, bhikkhus. Do not be remorseful later, thinking: ‘Our teacher was present before us, yet we could not bring ourselves to question the Blessed One when We were in his presence.’

When this was said, the bhikkhus were silent.

  1. A second time … A third time the Blessed One addressed the bhikkhus … And a third time the bhikkhus were silent.
  2. Then the Blessed One addressed the bhikkhus: “It may be the case, bhikkhus, that you do not ask out of respect for the teacher. Then report your questions to a friend.” When this was said, the bhikkhus were still silent.
  3. Then the Venerable Ananda said to the Blessed One:

– “It is astounding and amazing.’ Bhante! I am confident that there is not a single bhikkhu in this Sangha who has any doubt or uncertainty about the Buddha, the Dhamma, or the Sangha, about the path or the practice.”

– “You speak out of confidence, Ananda, but the Tathagata knows this for a fact. For among these five hundred bhikkhus, even the least is a stream-enterer, no longer subject to [rebirth in] the lower world, fixed in destiny, heading for

enlightenment.”

  1. Một thời Thế Tôn trú ở Kusinàrà, tại Upavattana, trong rừng cây Sàla của dân chúng Mallà, giữa những cây Sàla song thọ, trong khi Ngài sắp sửa nhập Niết-bàn. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:

– Này các Tỷ-kheo.

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:

  1. – Này các Tỷ-kheo, nếu có một Tỷ-kheo nào nghi ngờ hay phân vân gì về Phật, Pháp, chúng Tăng, Ðạo hay con đường thực hành, thời này các Tỷ-kheo, các Thầy hãy hỏi đi, sau chớ có hối tiếc: “Bậc Ðạo Sư có mặt trước chúng ta, mà chúng ta không tận mặt hỏi Thế Tôn.”

Khi được nói vậy, các Tỷ-kheo ấy giữ im lặng.

  1. Lần thứ hai, Thế Tôn… Lần thứ ba, Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo:

– Này các Tỷ-kheo, nếu có một Tỷ-kheo nào nghi ngờ hay phân vân gì về Phật, Pháp, chúng Tăng, Ðạo hay con đường thực hành, thời này các Tỷ-kheo, các Thầy hãy hỏi đi, về sau chớ có hối tiếc: “Bậc Ðạo Sư có mặt trước chúng ta, mà chúng ta không tận mặt hỏi Thế Tôn.”

Lần thứ ba, các Tỷ-kheo ấy giữ im lặng.

  1. Rồi Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo:

– Này các Tỷ-kheo, nếu có vị nào vì lòng kính trọng bậc Ðạo Sư mà không hỏi, thời, này các Tỷ-kheo, giữa bạn đồng tu, hãy hỏi nhau.

Khi được nói vậy, những Tỷ-kheo ấy giữ im lặng.

  1. Rồi Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, thật kỳ diệu thay! Bạch Thế Tôn, thật hy hữu thay! Bạch Thế Tôn, con tin rằng, trong chúng Tỷ-kheo này, không có một Tỷ-kheo nào có nghi ngờ hay phân vân gì đối với Phật, Pháp, chúng Tăng, Ðạo hay con đường thực hành.

– Này Ananda, Thầy có lòng tín thành nên nói vậy. Nhưng ở đây, này Ananda, Như Lai biết rằng trong chúng Tỷ-kheo này, không có một Tỷ-kheo nào có nghi ngờ hay phân vân gì đối với Phật, Pháp, chúng Tăng, Ðạo hay con đường thực hành. Này Ananda, trong 500 Tỷ-kheo này, Tỷ-kheo thấp nhất đã chứng được quả Dự lưu, không còn bị thối đọa, chắc chắn hướng đến Chánh Giác.

 

77 (7) Inconceivable Matters – [(VII) (77) Không Thể Nghĩ Ðược]

 

– “Bhikkhus, there are these four inconceivable matters that one should not try to conceive; one who tries to conceive them would reap either madness or frustration. What four? (1) The domain of the Buddhas is an inconceivable matter that one should not try to conceive; one who tries to conceive it would

reap either madness or frustration. (2) The domain of one in jhana is an inconceivable matter … (3) The result of kamma is an inconceivable matter … (4) Speculation about the world is an inconceivable matter that one should not try to conceive; one who tries to conceive it would reap either madness or frustration.

– These are the four inconceivable matters that one should not try to conceive; one who tries to conceive them would reap either madness or frustration.”

– Có bốn điều này không thể nghĩ đến được, này các Tỷ-kheo, nếu nghĩ đến, thời người suy nghĩ có thể đi đến cuồng loạn và thống khổ. Thế nào là bốn? Phật giới của các đức Phật, này các Tỷ-kheo, không thể nghĩ đến được, nếu nghĩ đến, thời người suy nghĩ có thể đi đến cuồng loạn và thống khổ. Thiền giới của người ngồi Thiền, này các Tỷ-kheo, không thể nghĩ được, nếu nghĩ… thống khổ. Quả dị thục của nghiệp, này các Tỷ-kheo, không thể nghĩ đến được, nếu nghĩ đến… thống khổ. Tâm tư thế giới, này các Tỷ-kheo, không thể nghĩ đến được, nếu nghĩ đến thời có thể đi đến cuồng loạn và thống khổ.

-Có bốn điều này không thể nghĩ đến được, này các Tỷ-kheo, nếu nghĩ đến, thời có thể đi đến cuồng loạn và thống khổ.

 

78 (8) Offerings – [(VII) (78) Thanh Tịnh Thí Vật]

 

  1. “Bhikkhus, there are these four purifications of offerings. What four?

(1) There is an offering that is purified through the donor but not through the recipients;

(2) there is an offering that is purified through the recipients but not through the donor;

(3) there is an offering that is not purified through either the donor

or the recipients;

(4) there is an offering that is-purified through both the donor and the recipients.

  1. (1) “And how, bhikkhus, is an offering purified through the donor but not through the recipients?

Here, the donor is virtuous and of good character, but the recipients are immoral and of bad character. It is in this way that an offering is purified through the donor but not through the recipients.

  1. (2) “And how is an offering purified through the recipients but not through the donor?

Here, the donor is immoral and of bad character, but the recipients are virtuous and of good character. It is in this way that an offering is purified through the recipients but not through the donor.

  1. (3) “And how is an offering not purified through either the donor or the recipients?

Here, the donor is immoral and of bad character, and the recipients too are immoral and of bad character.’ It is in this way that an offering is not purified through either the donor or the recipients.

  1. (4) “And how is an offering purified through both the donor and the recipients?

Here, the donor is virtuous and of good character, and the recipients too are virtuous and of good character. It is in this waY that an offering is purified through both the donof and the recipients. “These are the four purifications of offerings.”

  1. – Này các Tỷ-kheo, có bốn thanh tịnh thí vật này. Thế nào là bốn?

Có bố thí, này các Tỷ-kheo, thanh tịnh từ người cho, không thanh tịnh từ người nhận. Có bố thí, này các Tỷ-kheo, thanh tịnh từ người nhận, không thanh tịnh từ người cho. Có bố thí, này các Tỷ-kheo, không thanh tịnh từ người cho, cũng không thanh tịnh từ người nhận. Có bố thí, này các Tỷ-kheo, thanh tịnh từ người cho, cũng thanh tịnh từ người nhận.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là bố thí thanh tịnh từ người cho, không thanh tịnh từ người nhận?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, người cho có giới, theo thiện pháp, còn người nhận là ác giới, theo ác pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là bố thí thanh tịnh từ người cho, không thanh tịnh từ người nhận.

  1. Và thế nào, này các Tỷ-kheo, là bố thí, thanh tịnh từ người nhận, không thanh tịnh từ người cho?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, người bố thí ác giới, theo ác pháp, còn người nhận có giới, theo thiện pháp. Như vậy này các Tỷ-kheo, là bố thí, người nhận thanh tịnh, người cho không thanh tịnh.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là bố thí, người cho không thanh tịnh, và người nhận cũng không thanh tịnh?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, người cho là ác giới, theo ác pháp, và người nhận cũng là ác giới, theo ác pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là bố thí, người cho không thanh tịnh, người nhận cũng không thanh tịnh.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là bố thí, người cho thanh tịnh, người nhận cũng thanh tịnh?

Ở đây này các Tỷ-kheo, người bố thí có giới, theo thiện pháp, và người nhận cũng có giới, theo thiện pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là bố thí, người cho thanh tịnh, và người nhận cũng thanh tịnh.

Này các Tỷ-kheo, có bốn loại bố thí thanh tịnh này.

 

79 (9) Business – [(IX) (79) Buôn Bán]

 

  1. Then the Venerable Sariputta approached the Blessed One, paid homage to him, sat down to one side, and said:

– “Bhante, (1) why is it that for one person here, the business he undertakes ends in failure? (2) Why is it that for another the same kind of business does not fulfill his expectations? (3) Why is it that for

still another the same kind of business fulfills his expectations? (4) And why is it that for still another the same kind of business surpasses his expectations?”

  1. (1) “Here, Sariputta, someone approaches an ascetic or a brahmin and invites him to ask for what he needs, but does not give him what was requested. When he passes away from there, if he comes back to this world, whatever business

he undertakes ends in failure.

  1. (2) “Someone else approaches an ascetic or a brahmin and invites him to ask for what he needs. He gives it to him but does not fulfill his expectations. When he passes away from there, if he comes back to this world, whatever business he undertakes does not fulfill his expectations.
  2. (3) “Someone else approaches an ascetic or a brahmin and invites him to ask for what he needs. He gives it to him and fulfills his expectations. When he passes away from there, if he comes back to this world, whatever business he undertakes fulfills his expectations.
  3. (4) “Someone else approaches an ascetic or a brahmin and invites him to ask for what he needs. He gives it to him and surpasses his expectations. When he passes away from there, if he comes back to this world, whatever business he undertakes surpasses his expectations.

“This, Sariputta, is the reason why for one person here the business he undertakes ends in failure, for another the same kind of business does not fulfill his expectations, for still another the same kind of business fulfills his expectations, and for still another the same kind of business surpasses his

expectations.”

  1. Rồi Tôn giả Sàriputta… ngồi một bên, Tôn giả Sàriputta bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, ở đây, có hạng người do buôn bán như vậy, đi đến thất bại? Do nhân gì, do duyên gì, bạch Thế Tôn, ở đây, có hạng người, do buôn bán như vậy, không thành tựu được như ý muốn? Do nhân gì, do duyên gì, bạch Thế Tôn, ở đây, có hạng người do buôn bán như vậy, thành tựu được như ý muốn? Do nhân gì, do duyên gì, ở đây có hạng người do buôn bán như vậy, lại được thành tựu ngoài ý muốn?

  1. – Ở đây, này Sàriputta, có hạng người đi đến vị Sa-môn hay Bà-la-môn và hứa hẹn như sau: “Thưa Tôn giả, hãy nói lên điều Tôn giả cần giúp đỡ”, nhưng người ấy không cho như đã được hứa. Nếu từ chỗ đấy mạng chung, đi đến chỗ này, dầu cho người ấy có buôn bán gì, buôn bán đi đến chỗ thất bại.
  2. Ở đây, này Sàriputta, có hạng người đi đến Sa-môn hay Bà-la-môn và hứa như: “Thưa Tôn giả, hãy nói lên điều Tôn giả cần giúp đỡ”, nhưng người ấy không cho như đã quyết định muốn cho. Nếu từ chỗ đấy mạng chung, đi đến chỗ này, dầu cho người ấy có buôn bán gì, buôn bán ấy không đi đến thành tựu như ý muốn.
  3. Ở đây, này Sàriputta, có hạng người đi đến Sa-môn hay Bà-la-môn và hứa như sau: “Thưa Tôn giả, hãy nói lên điều Tôn giả cần giúp đỡ”. Và người ấy cho như đã quyết định muốn cho. Nếu từ chỗ đấy mạng chung, đi đến chỗ này, dầu cho người ấy có buôn bán gì, buôn bán ấy đi đến thành tựu như ý muốn.
  4. Ở đây, này Sàriputta, có hạng người đi đến Sa-môn hay Bà-la-môn và hứa như sau: “Thưa Tôn giả, hãy nói lên điều Tôn giả cần giúp đỡ”, và người ấy cho hơn như đã quyết định muốn cho. Nếu từ chỗ đấy mạng chung đi đến chỗ này, dầu người ấy có buôn bán gì, buôn bán như vậy được thành tựu ngoài ý muốn.

Này Sàriputta, đây là nhân, đây là duyên, ở đây, có hạng người do buôn bán như vậy đi đến thất bại. Ðây là nhân, đây là duyên, này Sàriputta, ở đây, có hạng người do buôn bán như vậy, không thành tựu được như ý muốn. Ðây là nhân, đây là duyên, này Sàriputta, ở đây, có hạng người, do buôn bán như vậy, thành tựu được như ý muốn. Ðây là nhân, đây là duyên, này Sàriputta, ở đây, có hạng người do buôn bán như vậy được thành tựu ngoài ý muốn.

 

80 (10) Kamboja – [(X) (80) Tinh Túy của Sự Nghiệp]

 

  1. On one occasion, the Blessed One was dwelling at Kosambi in Ghosita’s Park. Then the Venerable Ananda approached the Blessed One, paid homage to him, sat down to one side, and said:

– “Bhante, why is it that women do not sit in council, or engage in business, or go to Kamboja?”

– “Ananda, women are prone to anger; women are envious; women are miserly; women are unwise. This is why women do not sit in council, engage in business, or go to Kamboja.”

  1. Một thời, Thế Tôn trú ở Kosambi, tại khu vườn Ghosita. Rồi Tôn giả Ananda đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:

– Do nhân gì, do duyên gì, bạch Thế Tôn, nữ nhân không ngồi giữa trong pháp đình, không có dấn thân vào sự nghiệp, không đi đến tinh túy của sự nghiệp?

– Phẫn nộ là nữ nhân, này Ananda. Tật đố là nữ nhân, này Ananda. Xan tham là nữ nhân, này Ananda. Ác tuệ là nữ nhân, này Ananda. Ðây là nhân, đây là duyên, này Ananda, nữ nhân không ngồi giữa pháp đình, không có dấn thân vào sự nghiệp, không đi đến tinh túy của sự nghiệp.

 

  1. Unshakable – [IX. Phẩm Không Có Rung Ðộng] – page 465 of 1925

 

81 (1) The Destruction of Life – [(I) (81) Ăn Trộm]

 

  1. “Bhikkhus, one possessing four qualities is deposited in hell as if brought there. What four? One destroys life, takes what is not given, engages in sexual misconduct, and speaks falsely. One possessing these four qualities is deposited in hell as if brought there.
  2. “Bhikkhus, one possessing four [other] qualities are deposited in heaven as if brought there. What four? One abstains from the destruction of life, from taking what is not given, from sexual misconduct, and from false speech. One possessing these four qualities are deposited in heaven as if brought there.”
  3. – Thành tựu với bốn pháp, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục. Thế nào là bốn?

Sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, nói láo. Thành tựu với bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục.

  1. Thành tựu với bốn pháp, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng được sanh lên cõi Trời. Thế nào là bốn?

Từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo. Thành tựu với bốn pháp, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng được sanh lên cõi Trời.

 

82 (2) False Speech – [(II) (82) Nói Láo]

 

“Bhikkhus, one possessing four qualities is deposited in hell as if brought there. What four? One speaks falsely, speaks divisively, speaks harshly, and indulges in idle chatter. One possessing these four qualities is deposited in hell as if brought

there.

“Bhikkhus, one possessing four [other] qualities are deposited in heaven as if brought there. What four? One abstains from false speech, from div isive speech, from harsh speech, and from; idle chatter. One possessing these four qualities are deposited in heaven as if brought there.”

(Như kinh trên, (81), chỉ khác bốn pháp là: nói láo, nói hai lưỡi, nói lời thô ác, nói lời phù phiếm.)

 

83 (3) Dispraise – [(III) (83) Tán Thán]

 

  1. “Bhikkhus, one possessing four qualities is deposited in hell as if brought there. What four? (1) Without investigating and scrutinizing, one speaks praise of one who deserves dispraise. (2) Without investigating and scrutinizing, one speaks dispraise of one who dieserves praise. (3) Without investigating and scrutinizing, one believes a matter that merits suspicion. (4) Without investigating and scrutinizing, one is suspicious about a matter that merits belief. Possessing these four qualities one is deposited in hell as if brought there.
  2. “Bhikkhus, one possessing four [other] qualities are deposited in heaven as if brought there. What four? (1) Having investigated and scrutinized, one speaks dispraise of onewho deserves dispraise. (2) Having investigated and scrutinized, one speaks praise of one who deserves praise. (3) Having investigated and

scrutinized, one is suspicious about a matter that merits suspicion. (4) Having investigated and scrutinized, one believes a matter that merits belief. Possessing these four qualities one is deposited in heaven as if brought there.”

  1. – Thành tựu với bốn pháp, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục. Thế nào là bốn?

Không suy tư, không thẩm sát, tán thán người không xứng đáng được tán thán; không suy tư, không thẩm sát, không tán thán người xứng đáng được tán thánh; không suy tư, không thẩm sat, tự cảm thấy tin tưởng đối với những chỗ không đáng tin tưởng; không suy tư, không thẩm sát, tự cảm thấy không tin tưởng đối với những chỗ đáng tin tưởng.

Thành tựu với bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục.

  1. Thành tựu với bốn pháp, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng được sanh lên cõi Trời.

Có suy tư, có thẩm sát, không tán thán người không xứng đáng được tán thán; có suy tư, có thẩm sát, tán thán người xứng đáng được tán thán; có suy tư, có thẩm sát, tự cảm thấy không tin tưởng đối với những chỗ không xứng đáng được tin tưởng; không suy tư, không thẩm sát, tự cảm thấy tin tưởng đối với những chỗ đáng tin tưởng.

Thành tựu với bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng được sanh lên cõi Trời.

 

84 (4) Anger – [(IV) (84) Phẫn Nộ]

 

  1. “Bhikkhus, one possessing four qualities is deposited in hell as if brought there. What four? One values anger, not the good Dhamma; one values denigration, not the good Dhamma; one values gain, not the good Dhamma; one values honor, not the good Dhamma. One possessing these four qualities is deposited in hell as if b rought there. “Bhikkhus, one possessing four [other] qualities is deposited in heaven as if brought there. What four? One values the good Dhamma, not anger; one values the good Dhamma, not denigration; one values the good Dhamma, not gain; one values the good Dhamma, not honor. One possessing these four qualities is deposited in heaven as if brought there.”

(Như kinh trên, (83), chỉ khác về bốn pháp: Tôn trọng phẫn nộ, không tôn trọng diệu pháp; tôn trọng gièm pha, không tôn trọng diệu pháp; tôn trọng lợi dưỡng, không tôn trọng diệu pháp; tôn trọng cung kính, không tôn trọng diệu pháp).

 

85 (5) Darkness – [(V) (85) Tối Tăm] – page 467 of 1925

 

  1. “Bhikkhus, there are these four kinds of persons found existing in the world. What four?

The one heading from darkness to darkness, the one heading from darkness to light, the one heading from light to darkness, and the one heading from light to light.

  1. (1) “And how, bhikkhus, is a person heading from darkness to darkness?

Here, some person has been reborn in a low family—a family of candalas, bamboo workers; hunters, cart makers, or flower scavengers— one that is poor, with little food and drink, that subsists with difficulty, where food and clothing are obtained with difficulty; and he is ugly, unsightly, dwarfish, with much illness—blind, crippled, lame, or paralyzed. He does not obtain food, drink, clothing, and vehicles; garlands, scents, and unguents; bedding, housing, and lighting. He engages in misconduct by body, speech, and mind. In consequence, with the breakup of the body, after death, he is reborn in the plane of misery, in a bad destination, in the lower world, in hell. It is in this way that a person is heading from darkness to darkness.

  1. (2) “And how is a person heading from darkness to light?

Here, some person has been reborn in a low family … Where food and clothing are obtained with difficulty; and he is ugly … or paralyzed. He does not obtain food … and lighting. He engages in good conduct by body, speech, and mind. In

consequence, with the breakup of the body, after death, he is reborn in a good destination, in a heavenly world. It is in this way that a person is heading from darkness to light.

  1. (3) “And how is a person heading from light to darkness?

Here, some person has been reborn in a high family—an affluent khattiya family, an affluent brahmin family, or an affluent householder family— one that is rich, with great wealth and property, with abundant gold and silver, with abundant treasures and belongings, with abundant wealth and grain; and he

is handsome, attractive, graceful, possessing supreme beauty of complexion. He obtains food, drink, clothing, and vehicles; garlands, scents, and unguents; bedding, housing, and lighting. He engages in misconduct by body, speech, and mind. In consequence, with the breakup of the body, after death, he is reborn in the plane of misery, in a bad destination, in the lower, world, in hell. It is in this way that a person is heading from light to darkness.

  1. (4) “And how is a person heading from light to light?

Here, some person has been reborn in a high family … with abundant wealth and grain; and he is handsome … possessing supreme beauty of complexion. He obtains food … and lighting. He engages in good conduct by body, speech, and mind. In consequence, with the breakup of the body, after death, he is reborn

in a good destination, in a heavenly world. It is in this way that a person is heading from light to light. “These, bhikkhus, are the four kinds of persons found exist ing in the world.”

  1. – Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người này có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là bốn?

Sống trong bóng tối, hướng đến bóng tối; sống trong bóng tối, hướng đến ánh sáng; sống trong ánh sáng, hướng đến bóng tối; sống trong ánh sáng, hướng đến ánh sáng.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người sống trong bóng tối, hướng đến bóng tối?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người được sanh trong một gia đình hạ tiện, gia đình một người đổ phân, hay gia đình một người thợ săn, đan rổ, hay gia đình người đan tre, làm bẫy sập, hay gia đình người đóng xe, hay gia đình người quét rác, hay trong một gia đình một người nghèo đói, ăn uống thiếu thốn, sanh kế khó khăn, khó tìm cho được đồ ăn, đồ mặc. Và người ấy lại xấu xí, khó ngó, còm lưng, nhiều bệnh hoạn, đui một mắt, quẹo tay bại chân, hay đi khấp khểnh, hay nửa thân tê liệt, không có được đồ ăn, đồ uống, đồ mặc, xe cộ, vòng hoa, hương, phấn sáp, chỗ năm, chỗ ở hay đèn. Người ấy sống với thân làm ác, sống với miệng nói ác, sống với ý nghĩ ác. Sau khi sống với thân làm ác, với miệng nói ác, với ý nghĩ ác, khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người trong bóng tối hướng đến bóng tối.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người sống trong bóng tối hướng đến ánh sáng?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người được sanh trong một gia đình hạ liệt… chỗ nằm, chỗ ở hay đèn. Người ấy sống với thân làm lành, sống với miệng nói lành, sống với ý nghĩ lành. Sau khi sống với thân làm lành, với miệng nói lành, với ý nghĩ lành, khi thân hoại mạng chung, được sanh lên cõi lành, cõi trời, cõi đời này. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người sống trong bóng tối hướng đến ánh sáng.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người sống trong ánh sáng hướng đến bóng tối?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người được sanh trong một gia đình cao quý, trong gia đình Sát-đế-lỵ giàu có, hay trong gia đình Bà-la-môn giàu có, hay trong gia đình gia chủ giàu có, phú hào có tài sản lớn, có của cải lớn, có nhiều vàng và bạc, có nhiều tài sản, vật dụng, nhiều tiền của, ngũ cốc. Người ấy lại đẹp trai, dễ nhìn, dễ thương, với màu da tuyệt đẹp, xinh xắn. Người ấy lại nhận được đồ ăn, đồ uống, áo mặc, xe cộ, vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, chỗ nằm, chỗ trú, đèn đuốc. Người ấy, thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác. Do thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Này các Tỷ-kheo, như vậy là hạng người sống trong ánh sáng hướng đến bóng tối.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người sống trong ánh sáng hướng đến ánh sáng?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người sanh ra trong gia đình cao quý, trong gia đình Sát-đế-lỵ giàu có, hay trong gia đình Bà-la-môn giàu có, hay trong gia đình gia chủ giàu có, phú hào có tài sản lớn, có của cải lớn, có nhiều vàng và bạc, có nhiều tài sản, vật dụng, có nhiều tiền của, ngũ cốc. Và người ấy đẹp trai, dễ nhìn, dễ thương, với màu da tuyệt đẹp, xinh xắn. Người ấy lại nhận được đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, chỗ nằm, chỗ trú, đèn đuốc. Người ấy, thân làm lành, miệng nói lành, ý nghĩ lành. Do thân làm lành, miệng nói lành, ý nghĩ lành, người ấy khi thân hoại mạng chung được sanh lên cõi lành, cõi trời, cõi đời này. Này các Tỷ-kheo, như vậy là người sống trong ánh sáng hướng đến ánh sáng.

 

86 (6) Bent Down – [(VI) (86) Thấp Kém]

 

“Bhikkhus, there are these four kinds of persons found existing in the world. What four? The one bent down who bends lower, the one bent down who rises, the one risen who bends down, and the one risen who rises higher.

“These are the four kinds of persons found existing in the world.”

Có bốn hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là bốn? Thấp và thấp, thấp và cao, cao và thấp, cao và cao.

Có bốn hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt hiện hữu ở đời.

 

87 (7) The Son – [(VII) (87) Các Hạng Sa Môn (1)]

 

  1. “Bhikkhus, there are these four kinds of persons found existing in the world. What four? The ascetic unshaken, the red-lotus ascetic, the white-lotus ascetic, and the delicate ascetic among ascetics.
  2. (1) “And how, bhikkhus, is a person an ascetic unshaken?

Here, a bhikkhu is a trainee practicing the way who dwells aspiring for the unsurpassed security from bondage. Just as the eldest son of a head-anointed khattiya king—one due to be anointed but not yet anointed— would have attained the unshaken, so too a bhikkhu is a trainee practicing the way who dwells aspiring for the unsurpassed security from bondage. It is in this way that a person is an ascetic unshaken.

  1. (2) “And how is a person a white-lotus ascetic?

Here, with the destruction of the taints, a bhikkhu has realized for himself

with direct knowledge, in this very life, the taintless liberation of mind, liberation by wisdom, and having entered upon it, he dwells in it; yet he does not dwell having contacted with the body the eight emancipations. It is in this way that a person is a white-lotus ascetic.

  1. (3) “And how is a person a red-lotus ascetic?

Here, with the destruction of the taints, a bhikkhu has realized for himself

with direct knowledge, in this very life, the taintless liberation of mind, liberation by wisdom, and having entered upon it, he dwells in it; and he dwells having contacted with the body the eight emancipations. It is in this way that a person is a red-lotus ascetic.

  1. – Có bốn hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là bốn?

Sa-môn bất động, Sa-môn sen trắng, Sa-môn sen hồng, Sa-môn tinh luyện trong các Sa-môn.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Sa-môn bất động?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là hạng hữu học, đang đi trên con đường, sống cố gắng hướng đến vô thượng an ổn khỏi các ách nạn. Ví như, này các Tỷ-kheo, vị trưởng nam vua Sát-đế-lỵ, xứng đáng để được làm lễ quán đảnh, nhưng chưa làm lễ quán đảnh, và đạt đến địa vị bất động. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo hữu học, đang đi trên con đường, sống cố gắng hướng đến vô thượng an ổn khỏi các ách nạn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng Sa-môn bất động.

  1. Và như thế nào, này các Tỷ-kheo, là hạng Sa-môn sen trắng?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo do đoạn diệt các lậu hoặc, tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, nhưng chưa với thân cảm giác được tâm giải thoát và an trú. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng Sa-môn sen trắng.

  1. Và như thế nào, này các Tỷ-kheo, là hạng Sa-môn sen hồng?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo do đoạn diệt các lậu hoặc, tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú tâm giải thoát, tuệ giải thoát, và với thân cảm giác được tâm giải thoát và an trú. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng Sa-môn sen hồng.

 

  1. (4) “And how is a person a delicate ascetic among ascetics?

Here, a bhikkhu usually uses a robe that has been specifically, offered to him, seldom one that has not been specifically offered to him; he usually eats almsfood that has been specifically offered, to him, seld6m almsfood that has not been specifically offered to him; he usually uses a lodging that has been specifically offered to him, seldom one that has not been specifically offered to him; he usually uses medicines and provisions for the sick that have been specifically offered to him, seldom those that have not been specifically offered to him. His fellow monks, those with whom he dwells, usually behave toward

him in agreeable ways by body, speech, and mind, seldom in disagreeable ways. They usually present him what is agreeable, seldom what is disagreeable. Discomfort originating from bile, phlegm, wind, or their combination; discomfort produced by change of climate; discomfort produced by careless behavior; discomfort produced by assault; or discomfort produced as the result of kamma—these do not often arise in him. He is seldom ill. He gains at will, without trouble or difficulty, the four jhanas that constitute the higher mind and are pleasant dwellings in this very life. With the destruction of the taints,

he has realized for himself with direct knowledge, in this very life, the taintless liberation of mind, liberation by wisdom, and having entered upon it, he dwells in it. It is in this way that a person is a delicate ascetic among ascetics.

  1. Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là hạng Sa-môn tinh luyện trong các hàng Sa-môn?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nhiều lần được yêu cầu nhận y, ít khi không được yêu cầu; nhiều lần được yêu cầu nhận đồ ăn khất thực, ít khi không được yêu cầu; nhiều lần được yêu cầu nhận sàng tọa, ít khi không được yêu cầu; nhiều lần được yêu cầu nhận dược phẩm trị bệnh, ít khi không được yêu cầu. Vị ấy sống với những vị đồng Phạm hạnh nào, các vị này đối với vị ấy, xử sự với nhiều thân nghiệp khả ái, với ít thân nghiệp không khả ái, với nhiều khẩu nghiệp khả ái, với ít khẩu nghiệp không khả ái, với nhiều ý nghiệp khả ái, với ít ý nghiệp không khả ái, giúp đỡ với nhiều giúp đỡ khả ái, với ít giúp đỡ không khả ái. Ở đây, một số cảm thọ khởi lên phát sanh từ mật hay phát sanh từ đàm, hay phát sanh từ gió, hay phát sanh từ sự gặp gỡ các nước trong thân thể; hay phát sinh từ sự thay đổi thời tiết, hay phát sanh từ sự gặp gỡ các nghịch vận, hay phát sanh từ các công kích thình lình bên ngoài vào, hay do quả dị thục của nghiệp; những số cảm thọ ấy không khởi lên nhiều, vị ấy ít bị bệnh tật. Ðối với bốn Thiền thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, có được không khó khăn, có được không mệt nhọc, có được không phí sức; do đoạn diệt các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng Sa-môn tinh luyện trong các hàng Sa-môn.

 

  1. “If, bhikkhus, one could rightly say of anyone: ‘He is a delicate ascetic among ascetics, it is precisely of me that one might say this. For I usually use a robe that has been specifically offered to me, seldom one that has not been specifically offered to me; I usually eat almsfood that has been specifically offered to me, seldom almsfood that has not been specifically offered to me; I

usually use a lodging that has been specifically offered to me, seldom one that has not been specifically offered to me; I usually use medicines and provisions for the sick that have been specifically offered to me, seldom those that have not been specifically offered to me. Those bhikkhus with whom I dwell

usually behave toward me in agreeable ways by body, speech, and mind, seldom in disagreeable ways. They usually present me what is agreeable, seldom what is disagreeable. Discomfort originating from bile, phlegm, wind, or their combination; discomfort produced by change of climate; discomfort produced by careless behavior; discomfort produced by assault; or discomfort

produced as the result of kamma— these do not often arise in me. I am seldom ill. I gain at will, without trouble or difficulty, the four jhanas that-constitute the higher mind and are pleasant dwellings in this v e ry life. With the destruction

of the taints, I have realized for myself with direct knowledge, in this very life, the taintless liberation of mind, liberation by wisdom, and having entered upon it, I dwell in it. If one could rightly say of anyone: ‘He is a delicate ascetic among ascetics, it is precisely of me that one might say this.

“These, bhikkhus, are the four kinds of persons found existing in the world.”

  1. Này các Tỷ-kheo, nếu nói một cách chơn chánh, nói về hạng Sa-môn tinh luyện giữa các Sa-môn, thời này các Tỷ-kheo, nói một cách chơn chánh là nói về Ta là hạng Sa-môn tinh luyện giữa các Sa-môn. Này các Tỷ-kheo, Ta nhiều lần được yêu cầu nhận y, ít khi không được yêu cầu; nhiều lần được yêu cầu nhận đồ ăn khất thực, ít khi không được yêu cầu; nhiều lần được yêu cầu nhận sàng tọa, ít khi không được yêu cầu; nhiều lần được yêu cầu nhận dược phẩm trị bệnh, ít khi không được yêu cầu. Ta sống với các Tỷ-kheo nào, các vị ấy đối với Ta, xử sự với nhiều thân nghiệp khả ái, với ít thân nghiệp không khả ái; với nhiều khẩu nghiệp khả ái, với ít khẩu nghiệp không khả ái; với nhiều ý nghiệp khả ái, với ít ý nghiệp không khả ái; giúp đỡ với nhiều giúp đỡ khả ái, với ít giúp đỡ không khả ái. Phàm có những cảm thọ nào khởi lên, phát sanh từ mật, hay phát sinh từ đàm, hay phát sanh từ gió, hay phát sanh từ sự gặp gỡ các nước trong thân thể, hay phát sanh từ sự thay đổi thời tiết, hay phát sanh từ sự gặp gỡ các nghịch vận, hay phát sanh từ sự công kích thình lình bên ngoài vào, hay do quả dị thục các nghiệp; những cảm thọ ấy không khởi lên nhiều nơi Ta. Ta ít bị bệnh tật. Ðối với bốn Thiền, thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, Ta có được không khó khăn, có được không mệt nhọc, có được không phí sức. Do đoạn diệt các lậu hoặc, ngay trong hiện tai, với thắng trí, Ta chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Này các Tỷ-kheo, nếu có nói một cách chơn chánh, nói về hạng Sa-môn tinh luyện giữa các Sa-môn, thời này các Tỷ-kheo, nói một cách chơn chánh là nói về Ta là hạng Sa-môn tinh luyện giữa các Sa-môn.

Này các Tỷ-kheo, đây là bốn hạng người có mặt, hiện hữu ở đời.

 

88 (8) Fetters – [(VIII) (88) Các Hạng Sa Môn (2)]

 

  1. “Bhikkhus, there are these four kinds of persons found existing in the world. What four? The ascetic unshaken, the white-lotus ascetic, the red-lotus ascetic, and the delicate ascetic among ascetics.
  2. (1) “And how, bhikkhus, is a person an ascetic unshaken?

Here, with the utter destruction of three fetters, a bhikkhu is a stream-enterer. no longer subject to [rebirth in] the lower world, fixed in destiny, heading for enlightenment. It is in this way that a person is an ascetic unshaken.

  1. (2) “And how is a person a white-lotus ascetic?

Here, with the utter destruction of three fetters and with the diminishing

of greed, hatred, and delusion, a bhikkhu is a once-returner who, after coming back to this world only one more time, will make an end of suffering. It is in this way that a person is a white-lotus ascetic.

  1. (3) “And how is a person a red-lotus ascetic?

Here, with the utter destruction of the five lower fetters, a bhikkhu is one of

spontaneous birth, due to attain final nibbana there without returning from that world. It is in this way that a person is a red-lotus ascetic.

  1. (4) “And how is a person a delicate ascetic among ascetics?

Here, with the-destruction of the taints, a-bhikkhu has realized for himseif with direct knowledge, in this very life, the taintless liberation of mind, liberation by wisdom, and having entered upon it, he dwells in it. It is in this way that a person is a delicate ascetic among ascetics.

“These, bhikkhus, are the four kinds of persons found existing in the world.”

  1. – Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người này có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là bốn?

Sa-môn bất động, Sa-môn sen trắng, Sa-môn sen hồng, Sa-môn tinh luyện.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng Sa-môn bất động?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo do đoạn diệt ba kiết sử, là bậc Dự lưu, không còn bị đọa lạc, quyết chắc hướng đến giác ngộ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng Sa-môn bất động.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng Sa-môn sen trắng?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sau khi đoạn diệt ba kiết sử, làm cho nhẹ bớt tham, sân, si, là bậc Nhất lai, chỉ có một lần trở lui đời này rồi chấm dứt khổ đau. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng Sa-môn sen trắng.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng Sa-môn sen hồng?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo do đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, là vị Bất lai, từ đấy nhập Niết-bàn, không phải trở lui từ thế giới ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng Sa-môn sen hồng.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng Sa-môn tinh luyện giữa các Sa-môn?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, do đoạn tận các lậu hoặc, Tỷ-kheo ngay trong hiện tại với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng Sa-môn tinh luyện giữa các Sa-môn.

Này các Tỷ-kheo, bốn hạng Sa-môn này có mặt, xuất hiện ở đời.

 

89 (9) View – [(IX) (89) Các Hạng Sa Môn]

 

  1. “Bhikkhus, there are these four kinds of persons found existing in the world. What four? The ascetic unshaken, the white-lotus ascetic, the red-lotus ascetic, and the delicate ascetic among ascetics.
  2. (1) “And how, bhikkhus, is a person an ascetic unshaken?

Here, a bhikkhu is one of right view, right intention, right speech, right action, right livelihood, right effort, right mindfulness, and right concentration. It is in this way that a person is an ascetic unshaken.

  1. (2) “And how is a person a white-lotus ascetic?

Here, a bhikkhu is one of right view, right intention, right speech, right action, right livelihood, right effort, right mindfulness, right concentration, right knowledge, and right liberation; yet he does not dwell having contacted with the body the eight emancipations. It is in this way that a person is a white-lotus

ascetic.

  1. (3) “And how is a person a red-lotus ascetic?

Here, a bhikkhu is one of right view, right intention, right speech, right action,

right livelihood, right effort, right mindfulness, right concentration, right knowledge, and right liberation; and he dwells having contacted with the body the eight emancipations. It is in this way that a person is a red-lotus ascetic.

  1. (4) “And how is a person a delicate ascetic among ascetics?

Here, a bhikkhu usually uses a robe that has been specifically offered to him, seldom one that has not been specificalty offered to him … [as in 4:87] … If one could rightly say of anyone: ‘He is a delicate ascetic among ascetics, it is precisely of me that one might say this.

“These, bhikkhus, are the four kinds of persons found existing in the world.”

  1. – Có bốn hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là bốn?

Sa-môn bất động, Sa-môn sen trắng, Sa-môn sen hồng, Sa-môn tinh luyện giữa các Sa-môn.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng Sa-môn bất động?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng Sa-môn bất động.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng Sa-môn sen trắng?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có chánh tri kiến…, chánh định, chánh trí, chánh giải thoát, nhưng không có an trú với thân cảm giác tám giải thoát. Như vậy này các Tỷ-kheo, là hạng Sa-môn sen trắng.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng Sa-môn sen hồng?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo có chánh tri kiến… chánh giải thoát, an trú với thân cảm giác tám giải thoát. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng Sa-môn sen hồng.

  1. Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là hạng Sa-môn tinh luyện giữa các Sa-môn?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nhiều lần được yêu cầu nhận y, ít không được yêu cầu… Này các Tỷ-kheo, nếu nói một cách chơn chánh, nói về hạng Sa-môn tinh luyện giữa các Sa-môn, này các Tỷ-kheo, nói một cách chơn chánh là nói về Ta, là hạng Sa-môn tinh luyện giữa các Sa-môn.

Này các Tỷ-kheo, đây là bốn hạng người có mặt, hiện hữu ở đời.

 

90 (10) Aggregates – [(X) (90) Các Hạng Sa Môn]

 

  1. “Bhikkhus, there are these four kinds of persons found existing in the world. What four? The ascetic unshaken, the white-lotus ascetic, the red-lotus ascetic, and the delicate ascetic among ascetics.
  2. (1) “And how, bhikkhus, is a person an ascetic unshaken?

Here, a bhikkhu is a trainee who. has not attained his mind’s ideal, one who dwells aspiring for the unsurpassed security from bondage. It is in this way that a person is an ascetic unshaken.

  1. (2) “And how is a person a white-lotus ascetic?

Here, a bhikkhu dwells contemplating arising and vanishing in the five

aggregates subject to clinging: ‘Such is form, such its origin, such its passing away; such is feeling, such its origin, such its passing away; such is perception, such its origin, such its passing away; such are volitional activities, such their origin, such their passing away; such is consciousness, such its origin, such

its passing aw ay’; yet he does not dwell having contacted with the body the eight emancipations. It is in this way that a person is a white-lotus ascetic.

  1. (3) “And how is a person a red-lotus ascetic?

Here, a bhikkhu dwells contemplating arising and vanishing in the five aggregates subject to clinging: ‘Such is form, such its origin, such its passing away; such is feeling … such is perception … such are volitional activities … such is consciousness, such its origin, such its- passing away’; and he dwells having contacted with the body the eight emancipations. It is in this way that a person

is a red-lotus ascetic.

  1. (4) “And how is a person a delicate ascetic among ascetics?

Here, a bhikkhu usually uses a robe that has been specifically offered to him, Seldom, one that has not been specifically offered to him … [as in 4:8 7] … If one could rightly say of anyone: ‘He is a delicate ascetic among ascetics, it is precise of me that one might say this.

“These, bhikkhus, are the four kinds of persons found existing in the world.”

  1. – Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người này có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là bốn?

Sa-môn bất động, Sa-môn sen trắng, Sa-môn sen hồng, Sa-môn tinh luyện giữa các Sa-môn.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Sa-môn bất động?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị hữu học, ý chưa đạt được mục đích, đang sống hướng đến vô thượng an ổn khỏi các khổ ách. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng Sa-môn bất động.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng Sa-môn sen trắng?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống tùy quán sự sanh diệt trong năm thủ uẩn: “Ðây là sắc, đây là sắc tập khởi, đây là sắc chấm dứt; đây là thọ… đây là tưởng… đây là các hành… đây là thức, đây là thức tập khởi, đây là thức chấm dứt”. Nhưng vị ấy chưa an trú với thân cảm giác tám giải thoát. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng Sa-môn sen trắng.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng Sa-môn sen hồng?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo sống, tùy quán sanh diệt trong năm thủ uẩn: “Ðây là sắc… đây là thức chấm dứt”. Và vị ấy an trú với thân cảm giác tám giải thoát. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng Sa-môn sen hồng.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng Sa-môn tinh luyện giữa các Sa-môn?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nhiều lần được yêu cầu nhận y, ít khi không được yêu cầu… Này các Tỷ-kheo, nếu nói một cách chơn chánh, nói về hạng Sa-môn tinh luyện giữa các Sa-môn, người ấy này các Tỷ-kheo, nói một cách chơn chánh là nói về Ta, là hạng Sa-môn tinh luyện giữa các Sa-môn.

Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người này có mặt, hiện hữu ở đời.

 

  1. Asuras – [X.- Phẩm Asura (A-tu-la)]

 

91 (1) Asuras – [(I) (91) Các A Tu La]

 

  1. “Bhikkhus, there are these four kinds of persons found existing in the world. What four? The asura with a retinue of asuras, the asura with a retinue of devas, the deva with a retinue of asuras, and the deva with a retinue of devas.
  2. (1) “And how, bhikkhus, is a person an asura with a retinue of asuras?

Here, someone is immoral, of bad character, and his retinue is immoral, of bad character. It is in this way that someone is an asura with a retinue of asuras.

  1. (2) “And how is a person an asura with a retinue of devas?

Here, someone is immoral, of bad character, but his retinue is virtuous, of good character. It is in this way that someone is an asura with a retinue of devas.

  1. (3) “And how is a person a deva with a retinue of asuras?

Here, someone is virtuous, of good character, but his retinue is immoral, of bad character. It is in this way that someone is a deva with a retinue of asuras.

  1. (4) “And how is a person a deva with a retinue of devas?

Here, someone is virtuous, of good character, and his retinue is virtuous, of good character. It is in this way that someone is a deva with a retinue of devas.

“These, bhikkhus, are the four kinds of persons found existing in the world.”

  1. – Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người này có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là bốn?

A-tu-la với quyến thuộc A-tu-la, A-tu-la với quyến thuộc chư Thiên; chư Thiên với quyến thuộc A-tu-la; chư Thiên với quyến thuộc chư Thiên.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người A-tu-la với quyến thuộc A-tu-la?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người ác giới, theo ác pháp, hội chúng của người ấy cũng ác giới, theo ác pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người A-tu-la với quyến thuộc A-tu-la.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người A-tu-la với quyến thuộc chư Thiên?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người ác giới, theo ác pháp, nhưng hội chúng của người ấy có giới, theo pháp hành. Như vậy này các Tỷ-kheo, là hạng người A-tu-la với quyến thuộc chư Thiên.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người chư Thiên với quyến thuộc A-tu-la?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người giữ giới, theo pháp lành, còn hội chúng của người ấy ác giới, theo ác pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người chư Thiên với quyến thuộc A-tu-la.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng chư Thiên với quyến thuộc chư Thiên?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người có giới, theo pháp lành, và hội chúng của người ấy cũng có giới, theo pháp lành. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người chư Thiên với quyến thuộc chư Thiên.

Bốn hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, hiện hữu ở đời.

 

92 (2) Concentration (1) – [(II) (92) Ðịnh (1)]

 

“Bhikkhus, there are these four kinds of persons found existing in the world. What four? (1) Here, some person gains internal serenity of mind but not the higher wisdom of insight into phenomena. (2) Some other person gains the higher wisdom of insight into phenomena but not internal serenity of mind.

(3) Still another gain neither internal serenity of mind nor the higher wisdom of insight into phenomena. (4) And still another gain both internal serenity of mind and the higher wisdom of insight into phenomena. These are the four kinds of persons found existing in the world.”

– Có bốn hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là bốn?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người được nội tâm chỉ, nhưng không được tăng thượng tuệ pháp quán. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người được tăng thượng tuệ pháp quán, nhưng không được nội tâm chỉ. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người không được nội tâm chỉ, cũng không được tăng thượng tuệ pháp quán. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người được nội tâm chỉ và cũng được tăng thượng tuệ pháp quán.

Này các Tỷ-kheo, bốn hạng người này có mặt, hiện hữu ở đời.

 

93 (3) Concentration (2) – [(III) (93) Ðịnh (2)]

 

  1. “Bhikkhus, there are these four kinds of persons found existing in the world. What four? (1) Here, some person gains internal serenity of mind but not the higher wisdom of insight into phenomena. (2) Some other person gains the higher wisdom of insight into phenomena but not internal serenity of mind.

(3) Still another gains neither internal serenity of mind nor the higher wisdom of insight into phenomena. (4) And still another gains both internal serenity of mind and the higher wisdom of insight into phenomena.

  1. (1) “Bhikkhus, the person among these who gains internal serenity of mind but not the higher wisdom of insight into phenomena should base himself on internal serenity of mind and make an effort to gain the higher wisdom of insight into phenomena. Then, some time later, he gains both internal serenity

of mind and the higher wisdom of insight into phenomena.

  1. (2) “The person who gains the higher wisdom of insight into phenomena but not internal serenity of m ind should base himself on the higher wisdom of insight into phenomena and make ah effort to gain internal serenity of mind. Then, some time later, he gains both the higher w isdom of insight into phenomena and internal serenity of mind.
  2. (3) “The person who gains’neither internal serenity of mind nor the higher wisdom of insight into phenomena should put forth extraordinary desire, effort, zeal, enthusiasm, indefatigability, mindfulness, and clear comprehension to obtain both those wholesome -qualities. Just as one whose clothes or head

had caught fire would put forth extraordinary desire, effort, zeal, enthusiasm, indefatigability, mindfulness, and clear comprehension to extinguish [the fire on] his clothes or head, so that person should put forth extraordinary desire, effort, zeal, enthusiasm, indefatigability, mindfulness, and clear comprehension

to obtain both those wholesome qualities. Then, some time later, he gains both internal serenity of mind and the higher wisdom of insight into phenomena.

  1. (4) “The person who gains both internal serenity of mind and the higher wisdom of insight into phenomena should base himself on those same wholesome qualities and make a further effort to reach the destruction of the taints.

“These, bhikkhus, are the four kinds of persons found existing in the world.”

  1. – Có bốn hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là bốn?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người được nội tâm chỉ, không được tăng thượng tuệ pháp quán. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người được tăng thượng tuệ pháp quán, nhưng không được nội tâm chỉ. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người không được nội tâm chỉ, không được tăng thượng tuệ pháp quán. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người được nội tâm chỉ, cũng được tăng thượng tuệ pháp quán.

  1. Tại đấy, này các Tỷ-kheo, hạng người này được nội tâm chỉ, không được tăng thượng tuệ pháp quán. Sau khi người ấy an trú nội tâm chỉ, chú tâm thực hành tăng thượng tuệ pháp quán, người ấy, sau một thời gian được nội tâm chỉ, và được tăng thượng tuệ pháp quán.
  2. Tại đấy, này các Tỷ-kheo, hạng người này được tăng thượng tuệ pháp quán, không được nội tâm chỉ. Sau khi người ấy an trú trên tăng thượng tuệ pháp quán, chú tâm thực hành nội tâm chỉ; người ấy sau một thời gian được tăng thượng tuệ pháp quán, và được nội tâm chỉ.
  3. Tại đấy, này các Tỷ-kheo, hạng người này, không được nội tâm chỉ, không được tăng thượng tuệ pháp quán. Người ấy, này các Tỷ-kheo, để chứng đắc các thiện pháp ấy, cần phải thực hiện tăng thượng ý muốn, tinh tấn, cố gắng, nỗ lực, tâm không thối chuyển, chánh niệm, tỉnh giác.

Ví như, này các Tỷ-kheo, khi khăn bị cháy hay đầu bị cháy, và để dập tắt khăn và đầu, cần phải thực hiện tăng thượng ý muốn, tinh tấn, cố gắng, nỗ lực, tâm không thối chuyển, chánh niệm, tỉnh giác. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, người ấy, để chứng đắc các thiện pháp ấy, cần phải thực hiện tăng thượng ý muốn, tinh tấn, cố gắng, nỗ lực, tâm không thối chuyển, chánh niệm, tỉnh giác. Sau một thời gian, vị ấy thành người có được nội tâm chỉ và tăng thượng tuệ pháp quán.

  1. Tại đấy, này các Tỷ-kheo, hạng người này có được nội tâm chỉ, có được tăng thượng tuệ pháp quán, người ấy, này các Tỷ-kheo, sau khi an trú trong các thiện pháp ấy, cần phải chú tâm tu tập hơn nữa để đoạn diệt các lậu hoặc.

Này các Tỷ-kheo, bốn hạng người này có mặt, hiện hữu ở đời.

 

94 (4) Concentration (3) – [(IV) (94) Thiền Ðịnh]

 

  1. “Bhikkhus, there are these four kinds of persons found existing in the world. What four?

(1) Here, bhikkhus, some person gains internal serenity of mind but not the higher wisdom of insight” into phenomena. (2) Some other person gains the higher wisdom of insight into phenomena but not internal serenity of

mind: (3) Still another gains neither internal serenity of mind nor the higher wisdom of insight into phenomena. (4) And still another gains both internal serenity of mind and. the higher wisdom of insight into phenomena.

  1. (1) “Bhikkhus, the person among these who gains internal serenity of mind but not the higher wisdom of insight in to phenomena should approach one who gains the higher wisdom of insight into phenomena and inquiry of him: ‘How, friend, should conditioned phenomena be seen? How should conditioned

phenomena be explored? How should conditioned phenomena be discerned by insight?’ The other then answers him as he has seen and understood the matter thus: Conditioned phenomena should be seen in such a way, explored in such a

way, discerned by insight in such a way.’ Then, some time later, he gains both internal serenity of mind and the higher wisdom of insight into phenomena.

  1. – Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người này có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là bốn?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người chứng được nội tâm chỉ, không chứng được tăng thượng tuệ pháp quán. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người chứng được tăng thượng tuệ pháp quán, không chứng được nội tâm chỉ. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người không chứng được nội tâm chỉ, không chứng được tăng thượng tuệ pháp quán. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người chứng được nội tâm chỉ, chứng được tăng thượng tuệ pháp quán.

  1. Tại đây, này các Tỷ-kheo, hạng người này chứng được nội tâm chỉ… (xem 93, 2).Sau khi đi đến hạng người chứng được tăng thượng tuệ pháp quán, người này cần phải nói như sau: “Thưa Hiền giả, các hành cần phải thấy thế nào, các hành cần phải biết thế nào, các hành cần phải quán thế nào?”. Người ấy trả lời cho vị này: “Như đã được thấy, như đã được biết, như vậy, này Hiền giả, các hành cần phải được thấy; như vậy, các hành cần phải được biết; như vậy, các hành cần phải quán”. Vị này sau một thời gian, chứng được nội tâm chỉ, chứng được tăng thượng tuệ pháp quán.

 

  1. (2) “The person who gains the higher wisdom of insight into phenomena but not internal serenity of m ind should approach one who gains internal serenity of mind and inquire of him: ‘How, friend, should the mind be steadied? How should the mind be composed? How should the mind be unified? How

should the mind be concentrated? The other then answers him as he has seen and understood the matter thus: ‘The mind should be steadied in such a way, composed in such a way, unified in such a way, concentrated in such a way.’ Then, some time later, he gains both the higher wisdom of insight into phenomena and internal serenity of mind.

  1. (3) “The person who gains neither internal serenity of mind nor the higher wisdom of insight into phenomena should approach one who gains both and inquire of him: ‘How, friend should the mind be steadied? How should the mind be composed? How should the mind be unified? How should the mind be concentrated? How should conditioned phenomena be seen? How should conditioned phenomena be explored? How should conditioned phenomena be. discerned by insight?’ The other then answers him as he has seen and Understood the matter thus: ‘The mind should be steadied, in such a way, composed in such a way, unified in such a way, concentrated in such a

way. Conditioned phenomena should be seen in such a way, explored in such a way, discerned by insight in such a way.’ Then, some time later, he gains both internal serenity of mind and the higher wisdom of insight into phenomena.

  1. Tại đấy, này các Tỷ-kheo, hạng người này chứng được tăng thượng tuệ pháp quán, không chứng được nội tâm chỉ. Người này sau khi đi đến hạng người chứng được nội tâm chỉ này, cần phải nói như sau: “Thưa Hiền giả, tâm cần phải an lập thế nào? Tâm cần phải an trú thế nào. Tâm cần phải nhứt tâm thế nào? Tâm cần phải định tĩnh thế nào? Người ấy trả lời cho vị này: “Như đã được thấy, như đã được biết, như vậy, thưa Hiền giả, tâm cần phải an lập; như vậy, tâm cần phải an trú; như vậy, tâm cần phải nhứt tâm; như vậy, tâm cần phải định tĩnh.” Vị ấy sau một thời gian, chứng được tăng thượng tuệ pháp quán, chứng được nội tâm chỉ.
  2. Tại đấy, này các Tỷ-kheo, hạng người này không chứng được nội tâm chỉ, không chứng được tăng thượng tuệ pháp quán. Người này, này các Tỷ-kheo, sau khi đi đến hạng người chứng nội tâm chỉ, chứng được tăng thượng tuệ pháp quán, người này cần phải nói như sau: “Thưa Hiền giả, tâm cần phải an lập thế nào? Tâm cần phải an trú thế nào? Tâm cần phải nhứt tâm thế nào? Tâm cần phải định tĩnh thế nào? Các hành cần phải thấy thế nào? Các hành cần phải biết thế nào? Các hành cần phải quán thế nào?” Người ấy trả lời cho vị này: “Như đã được thấy, như đã được biết, như vậy, này Hiền giả, tâm cần phải an lập; như vậy, tâm cần phải an trú. Như vậy, tâm cần phải nhứt tâm; như vậy, tâm cần phải định tĩnh; như vậy, các hành cần phải thấy; như vậy, các hành cần phải biết; như vậy, các hành cần phải quán”. Vị ấy, sau một thời gian chứng được nội tâm chỉ, chứng được tăng thượng tuệ pháp quán.

 

  1. (4) “The person who gains both internal serenity of mind and the higher wisdom of insight into phenomena should base himself on those^Same wholesome qualities and make a further effort for the destruction of the taints.

“These, bhikkhus, are the’fOur kinds of persons found existing in the world.”

  1. Tại đấy, này các Tỷ-kheo, hạng người này chứng được nội tâm chỉ, chứng được tăng thượng tuệ pháp quán. Vị này, này các Tỷ-kheo, sau khi an trú trong các thiện pháp, cần phải tu tập chú tâm vào sự đoạn diệt các lậu hoặc.

Này các Tỷ-kheo, bốn hạng người này có mặt hiện hữu ở đời.

 

95 (5) Cremation Brand – [(V) (95) Que Lửa]

 

  1. “Bhikkhus, there are these four kinds of persons found existing in the world. What four? (1) One who is practicing neither for his own welfare ‘nor for the welfare of others; (2) one who is practicing for the’welfare of others but not for his own welfare; (3) one who is practicing for his own welfare but not for the

welfare of others; and (4) one who is practicing both for his own welfare and for the welfare of others.

  1. (1) “Suppose, bhikkhus, a cremation brand was blazing at both ends and meared with dung in the middle: it could not be used as timber either in the village or in the forest. Just like this, I say, is the person who is practicing neither for his own welfare nor for the welfare of others.
  2. (2) “Bhikkhus, the person among these who is practicing for the welfare of others but not for his own welfare is the more excellent and sublime of the [first] two persons. (3) The person practicing for his own welfare but not for the welfare of others is the more excellent and sublime of the [first] three persons.
  3. (4) The person practicing both for his own welfare and for the welfare of others is the foremost, the best, the preeminent, the supreme, and the finest of these fOur persons. Just as from a cow comes milk, from milk curd, from curd butter, from butter ghee, and from ghee cream-of-ghee, which is reckoned the foremost of all these, so the person practicing both for his own welfare and for the welfare of others is the foremost, the best, the preeminent, the supreme, and the finest of these four persons.

“These, bhikkhus, are the four kinds of persons found existing in the world,”

  1. – Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là bốn?

Không hướng đến lợi mình, lợi người; hướng đến lợi người, không lợi mình; hướng đến lợi mình, không lợi người; hướng đến lợi mình và lợi người.

  1. Ví như, này các Tỷ-kheo, một que lửa lấy từ đống lửa thiêu xác, hai đầu đều cháy đỏ, ở giữa được trét với phân, không có tác dụng là đồ chụm lửa ở làng, hay ở rừng. Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng người này giống như ví dụ ấy, tức là người không hướng đến lợi mình và lợi người.
  2. Tại đây, này các Tỷ-kheo, hạng người này hướng đến lợi người, không lợi mình. Người này so với hạng người kia, vi diệu hơn, thù thắng hơn. Ở đây, này các Tỷ-kheo, hạng người này hướng đến lợi mình, không lợi người. Hạng người này so với hai hạng người kia, vi diệu hơn thù thắng hơn. Tại đây, này các Tỷ-kheo, hạng người này hướng đến lợi mình và lợi người, hạng người này so với ba hạng người trên, là tối thượng, tối thắng, thượng thủ, vô thượng và cực thắng.
  3. Ví như, này các Tỷ-kheo, từ bò có sữa, từ sữa có lạc, từ lạc có sanh tô, từ sanh tô có thục tô, từ thục tô có đề hồ và đây gọi là tối thượng. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, hạng người này hướng đến lợi mình và lợi người, hạng người này so với ba hạng người trên là tối thượng, tối thắng, thượng thủ, vô thượng và cực thắng.

Bốn hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, hiện hữu ở đời.

 

96 (6) Lust – [(VI) (96) Lợi Mình (1)]

 

  1. “Bhikkhus, there are these four kinds of persons found existing in the world. What four? (1) One who is practicing for his own welfare but not for the welfare of others; (2) one who is practicing for the welfare of others but not for his own welfare; (3) one who is practicing neither for his own welfare nor for the

welfare of others; and (4) one who is practicing both for his own welfare and for the welfare of others.

  1. (1) “And how, bhikkhus, is a person practicing for his own welfare but not for the welfare of others?

Here, some person practices to remove his own lust, hatred, and delusion but does not encourage others to remove their lust, hatred, and delusion. It is in this way that a person is practicing for his own welfare but not for the welfare of others.

  1. (2) “And how is a person practicing for the welfare of others but not for his own welfare?

Here, some person encourages others to remove their lust, hatred, and delusion, but does not practice to remove his own lust, hatred, and delusion. It is in this way that a person is practicing for the welfare of others but not for his own welfare.

  1. (3) “And how is a person practicing neither for his own welfare nor for the welfare of others?

Here, some person does not practice to remove his own lust, hatred, and delusion, nor does he encourage others to remove their lust, hatred, and delusion. It is in this way that a person is practicing neither for his. Own welfare nor for the welfare of others.

  1. (4) “And how is a person practicing both for his own welfare and for the welfare of others?

Here, some person practices to remove his own lust, hatred, and delusion, and he encourages others to remove their lust, hatred, and delusion. It is in this way that a person is practicing both for his own welfare and for the welfare of others.

“These, bhikkhus, are the four kinds of persons found existing in the world.”

  1. – Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người này có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là bốn?

Hạng người hướng đến lợi mình, không lợi người; hạng người hướng đến lợi người, không lợi mình; hạng người không hướng đến lợi mình, không hướng đến lợi người; hạng người hướng đến lợi mình và lợi người.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người hướng đến lợi mình, không lợi người?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người hướng đến nhiếp phục tham cho mình, không khích lệ người khác nhiếp phục tham, hướng đến nhiếp phục sân cho mình… nhiếp phục si cho mình, không khích lệ người khác nhiếp phục si. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người hướng đến lợi mình, không lợi người.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người hướng đến lợi người, không lợi mình?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người không hướng đến nhiếp phục tham cho tự mình, khích lệ nhiếp phục tham cho người, không hướng đến nhiếp phục sân cho tự mình… không hướng đến nhiếp phục si cho tự mình, khích lệ nhiếp phục si cho người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người hướng đến lợi người, không lợi mình.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người không hướng đến lợi mình, không hướng đến lợi người?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người không hướng đến nhiếp phục tham cho tự mình, không khích lệ người khác nhiếp phục tham, không nhiếp phục sân cho tự mình, không khích lệ người khác nhiếp phục sân… không nhiếp phục si cho tự mình, không khích lệ người khác nhiếp phục si. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người không hướng đến lợi mình, không hướng đến lợi người.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người hướng đến lợi mình và lợi người?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người hướng đến nhiếp phục tham cho tự mình, và khích lệ người khác nhiếp phục tham, hướng đến nhiếp phục sân cho tự mình… hướng đến nhiếp phục si cho tự mình và khích lệ người khác nhiếp phục si. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người hướng đến lợi ích cho mình và cho người.

Này các Tỷ-kheo, bốn hạng người này có mặt, hiện hữu ở đời.

 

97 (7) Quick-Witted – [(VII) (97) Lợi Ích Cho Mình (2)]

 

  1. “Bhikkhus, there are these four kinds of persons found existing in the world. What four? (1) One who is practicing for his own welfare but not for the welfare of others; (2) one who is practicing for the w elfare of others but not for his own welfare; (3) one who is p racticing neither for his own welfare nor for the

welfare of others; and (4) one who is practicing both for his own welfare and for the welfare of others.

  1. (1) “And how, bhikkhus, is a person practicing for his own welfare but not for the welfare of others?

Here, some person is quick in attending to wholesome teachings, is able, to retain in mind the teachings he has heard, and examines the meaning of the teachings he has retained. Having understood the meaning and the Dhamma, he practices in accordance with the Dhamma. However, he is not a good speaker with a good delivery; he is not gifted with speech that is polished, clear,

articulate, expressive of the meaning; and he does not instruct, encourage, inspire, and gladden his fellow monks. It is in this way that a person is practicing for his own welfare but not for the welfare of others.

  1. (2) “And how is a person practicing for the welfare of others but not for his own welfare?

Here, some person is not quick in attending to wholesome teachings, is unable to retain in mind the teachings he has heard, and does not examine the meaning of the teachings he has retained. Having no understanding of the meaning and the Dhamma, he does not practice in accordance with the Dhamma. However, he is a good speaker with a good delivery; he is gifted with speech that is polished, clear, articulate, expressive of the meaning; and he instructs, encourages, inspires, and gladdens his fellow monks. It is in this way

that a person is practicing for the welfare of others but not for his own welfare. 4. (3) “And how is a person practicing neither for his own welfare nor for the welfare of others? Here, some person is not quick in attending to wholesome teachings … he does not practice in accordance with the Dhamma. Moreover, he is not a good speaker with a good delivery … and he does not instruct,

encourage, inspire, and gladden his fellow monks. It is in this way that a person is practicing neither for his own welfare nor for the welfare of others.

  1. (4) “And how is a person practicing both for his own welfare and for the welfare of others?

Here, some person is quick in attending to wholesome teachings … he practices in accordance with the Dhamma. Moreover, he is a good speaker with a good

Delivery … and he instructs, encourages, inspires, and gladdens his fellow monks. It is in this way that a person is practicing both for his own welfare and for the welfare of others. “These, bhikkhus, are the four kinds of persons found existing in the world.”

  1. (Như kinh (96), đoạn đầu)
  2. – Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người hướng đến lợi mình, không lợi người?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người, mau mắn nhận xét trong các thiện pháp, thọ trì các pháp đã được nghe, suy tư ý nghĩa các pháp đã được thọ trì, sau khi hiểu nghĩa, hiểu pháp, thực hành pháp, tùy pháp; nhưng không phải là người thiện ngôn, khéo nói, dùng những lời tao nhã, phát âm chính xác, rõ ràng, khiến cho nghĩa lý được minh bạch; không phải là người thuyết giảng, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các vị đồng Phạm hạnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người hướng đến lợi mình, không có lợi người.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người hướng đến lợi người, không có lợi mình?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người không mau mắn nhận xét trong các thiện pháp, không thọ trì các pháp đã được nghe, không suy tư ý nghĩa các pháp đã được thọ trì, không có sau khi hiểu nghĩa, hiểu pháp, thực hành pháp tùy pháp; là người thiện ngôn, khéo nói, dùng những lời tao nhã, phát âm chính xác rõ ràng, khiến cho nghĩa lý được minh bạch; là người thuyết giảng, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các vị đồng Phạm hạnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người hướng đến lợi người, không có lợi mình.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người, không hướng đến lợi mình và lợi người?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người không có mau mắn nhận xét trong các thiện pháp… không có sau khi hiểu nghĩa, hiểu pháp, thực hành pháp, tùy pháp; không phải là người thiện ngôn, khéo nói… làm cho hoan hỷ các vị đồng Phạm hạnh. Như vậy này các Tỷ-kheo, là hạng người không hướng đến lợi mình và lợi người.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người hướng đến lợi mình và lợi người?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người mau mắn nhận xét trong các thiện pháp… sau khi hiểu nghĩa, hiểu pháp, thực hành pháp, tùy pháp. Là người thiện ngôn, khéo nói… làm cho hoan hỷ các vị đồng Phạm hạnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người hướng đến lợi mình và lợi người.

Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người có mặt, hiện hữu ở đời.

 

98 (8) One’s Own Welfare – [(VIII) (98) Lợi Mình (3)]

 

“Bhikkhus, there are these four kinds of persons found existing in the world. What four? (1) One who is practicing for his own welfare but not for the welfare of others; (2) one who is practicing for the welfare of o thers but not for his own welfare; (3) one who is practicing neither for his own welfare nor for the

welfare of others; and (4) one who is practicing both for his own welfare and for the welfare of others. These are the four kinds of persons found existing in the world.”

Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là bốn?

Hướng đến lợi mình, không lợi người; hướng đến lợi người, không lợi mình; không hướng đến lợi mình, lợi người; hướng đến lợi mình, lợi người.

Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người này có mặt, hiện hữu ở đời.

 

99 (9) Training Rules – [(IX) (99) Những Học Pháp]

 

  1. “Bhikkhus, there a re these four kinds of persons found existing in the world. What four? (1) One who is practicing for his own welfare but not for the welfare of others; (2) one who is practicing for the welfare of others but not for his own welfare; (3) one who is p racticing neither for his own welfare nor for the

welfare of others; and (4) one who is practicing both for his own welfare and for the welfare of others.

  1. (1) “And how, bhikkhus, is a person practicing for his own welfare but not for the welfare of others?

Here, some person himself abstains from the destruction of life but does not encourage others to abstain from the destruction of life. He himself abstains from taking what is not given but does not encourage others to abstain from taking what is not given. He himself abstains from sexual misconduct but does not encourage others to abstain from sexual misconduct. He himself abstains from false speech but does not encourage others to abstain from false speech. He himself abstains from liquor, wine, and intoxicants, the basis for heedlessness, but does not encourage others to abstain from them. It is in this way that a person is practicing for his own welfare but not for the welfare of others.

  1. (2) ”And how is a person practicing for the welfare of others

but not for his own welfare?

Here, some person does not himself abstain from the destruction of life but he encourages others to abstain from the destruction of life … He does not himself

abstain from liquor, wine, and intoxicants, the basis for heedlessness, but he encourages others to abstain from them. It is in this way that a person is practicing for the welfare of others but not for his own welfare.

  1. (3) “And how is a person practicing neither for bis. own welfare nor for the welfare of others?

Here, some person does not himself abstain from the destruction of life and does not encourage others to abstain from the destruction of life … He does not

himself abstain from liquor, wine, and intoxicants, the basis for heedlessness, and does not encourage others to abstain from them. It is in this way that a person is practicing neither for his own welfare nor for the welfare of others.

  1. (4) “And how is a person practicing both for his own welfare and for the welfare of others? Here, some person himself abstains from the destruction of life and encourages others to abstain from the destruction of life … He himself abstains from liquor, wine, and intoxicants, the basis for heedlessness, and encourages others to abstain from them. It is in this way that he is practicing both for his own welfare and for the welfare of others.

“These, bhikkhus, are the four kinds of persons found existing in the world.”

  1. – Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là bốn?

Hướng đến lợi mình, không lợi người; hướng đến lợi người, không lợi mình; không hướng đến lợi mình, lợi người; hướng đến lợi mình, lợi người.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người hướng đến lợi mình, không lợi người?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người tự mình từ bỏ sát sanh, không khích lệ người khác từ bỏ sát sanh; tự mình từ bỏ lấy của không cho, không khích lệ người khác từ bỏ lấy của không cho; tự mình từ bỏ tà hạnh trong các dục, không khích lệ người khác từ bỏ tà hạnh trong các dục;… tự mình từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu; nhưng không khích lệ người khác từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người hướng đến lợi mình, không lợi người.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người hướng đến lợi người, không lợi mình?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người tự mình không từ bỏ sát sanh, khích lệ người khác từ bỏ sát sanh; tự mình không từ bỏ lấy của không cho;… tự mình không bỏ tà hạnh trong các dục;… tự mình không từ bỏ nói láo… tự mình không từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu; khích lệ người khác từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người hướng đến lợi người, không lợi mình.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người không hướng đến lợi mình, lợi người?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người tự mình không từ bỏ sát sanh, không khích lệ người khác từ bỏ sát sanh; tự mình không từ bỏ lấy của không cho;… tự mình không từ bỏ tà hạnh trong các dục;… tự mình không từ bỏ nói láo… tự mình không từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu; không khích lệ người khác từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người không hướng đến lợi mình, lợi người.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người hướng đến lợi mình, lợi người?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người tự mình từ bỏ sát sanh, khích lệ người khác từ bỏ sát sanh; tự mình từ bỏ lấy của không cho… tự mình từ bỏ tà hạnh trong các dục… tự mình từ bỏ nói láo… tự mình từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu, khích lệ người khác từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người hướng đến lợi mình và lợi người.

Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người này có mặt, hiện hữu ở đời.

 

100 (10) Potaliya – [(X) (100) Potaliya]

 

  1. Then the wanderer Potaliya approached the Blessed One and exchanged greetings with him. When they had exchanged greetings and cordial talk, the wanderer Potaliya sat down to one side, and the Blessed One then said to him:
  2. “Potaliya, there are these four kinds of persons found existII ing in the world. What four? (1) Here, some person speaks dispraise of someone who deserves dispraise, and the dispraise is accurate, truthful, and timely; but he does not speak praise of someone who deserves praise, though the praise would be

accurate, truthful, and timely. (2) Some other person speaks praise of someone who deserves praise, and the praise is accurate, truthful, and timely; but he does not speak dispraise of someone who deserves dispraise, though the dispraise would be accurate, truthful, and timely. (3) Still another person does

not speak dispraise of someone who deserves dispraise, though the dispraise would be accurate, truthful, and timely; and he does not speak praise of someone who deserves praise, though the praise would be accurate, truthful, and timely. (4) And still another person speaks dispraise of someone who deserves dispraise, and the dispraise is accurate, truthful, and timely; and

he also speaks praise of someone who deserves praise, and the praise is accurate, truthful, and timely.

  1. Rồi du sĩ Potaliya đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với du sĩ Potaliya đang ngồi một bên:
  2. – Này Potaliya, có bốn hạng người này có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là bốn?

Ở đây, này Potaliya, có hạng người nói lời không tán thán đối với người không đáng được tán thán, đúng sự kiện, đúng sự thật, đúng thời; không nói lời tán thán đối với hạng người đáng được tán thán, đúng sự kiện, đúng sự thật, đúng thời. Ở đây, này Potaliya, có hạng người nói lên lời tán thán hạng người đáng được tán thán, đúng sự kiện, đúng sự thật, đúng thời; không nói lời không tán thán đối với hạng người không đáng được tán thán, đúng sự kiện, đúng sự thật, đúng thời. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người không nói lời không tán thán đối với hạng người không đáng được tán thán, đúng sự kiện, đúng sự thật, đúng thời; không nói lời tán thán đối với hạng người đáng được tán thán, đúng sự kiện, đúng sự thật, đúng thời. Ở đây, này Potaliya, có hạng người nói lời không tán thán đối với hạng người không đáng tán thán, đúng sự kiện, đúng sự thật, đúng thời; và nói lời tán thán đối với hạng người đáng được tán thán, đúng sự kiện, đúng sự thật, đúng thời.

 

  1. These are the four kinds of persons found existing in the world. Now, Potaliya, which among these four kinds of persons seems to you the most excellent and sublime?”

– “There are, Master Gotama, those four kinds of persons found existing in the world.  Of those four, the one that seems to me the most excellent and sublime is the one who does not speak dispraise of someone Who deserves dispraise, though the dispraise would be accurate, truthful, and timely; and who does

not speak praise of someone who deserves praise, though the praise would be accurate, truthful, and timely. For what reason? Because what excels, Master Gotama, is equanimity.”

  1. “There are, Potaliya, those four kinds of persons found existing in the world. Of those four, the one that is the most excellent and sublime is the one who speaks dispraise of someone who deserves dispraise, and the dispraise is accurate, truthful, and timely; and who also speaks praise of someone who deserves praise, and the praise is accurate, truthful, and timely.
  2. Này Potaliya, có bốn hạng người này có mặt, hiện hữu ở đời. Này Potaliya, trong bốn hạng người này hạng người nào Ông chấp nhận là vi diệu hơn, thù thắng hơn?

– Thưa Tôn giả Gotama, có bốn hạng người này, có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là bốn?

Ở đây, thưa Tôn giả Gotama, có hạng người nói lời không tán thán đối với hạng người không đáng được tán thán… không nói lời tán thán đối với người xứng đáng được tán thán, đúng sự kiện, đúng sự thật, đúng thời. Ở đây, thưa Tôn giả Gotama, có hạng người nói lời tán thán đối với hạng người đáng được tán thán… không nói lời không tán thán đối với hạng người không đáng được tán thán, đúng sự kiện, đúng sự thật, đúng thời. Ở đây, thưa Tôn giả Gotama, có hạng người không nói lời không tán thán đối với hạng người không đáng được tán thán… không nói lời tán thán đối với hạng người được tán thán, đúng sự kiện, đúng sự thật, đúng thời.

Ở đây, thưa Tôn giả Gotama, có hạng người nói lời không tán thán đối với hạng người không đáng được tán thán, đúng sự kiện, đúng sự thật, đúng thời; nói lời tán thán đối với hạng người đáng được tán thán, đúng sự kiện, đúng sự thật, đúng thời. Thưa Tôn giả Gotama, có bốn hạng người này có mặt, hiện hữu ở đời. Trong bốn hạng người này, thưa Tôn giả Gotama, hạng người này không nói lời không tán thán đối với hạng người không đáng được tán thán, đúng sự kiện, đúng sự thật, đúng thời; không nói lời tán thán đối với hạng người xứng đáng được tán thán, đúng sự kiện, đúng sự thật, đúng thời, hạng người này đối với tôi đáng được chấp nhận là vi diệu hơn, thù thắng hơn trong bốn hạng người trên. Vì cớ sao? Thưa Tôn giả Gotama, thật là vi diệu tức là xả này.

  1. – Này Potaliya, có bốn hạng người này có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là bốn?… Này Potaliya, có bốn hạng người này… ở trong đời. Này Potaliya, trong bốn hạng người này, này Potaliya, hạng người này, nói lời không tán thán đối với hạng người không đáng được tán thán, đúng sự kiện, đúng sự thật, đúng thời; nói lời tán thán đối với hạng người đáng được tán thán, đúng sự kiện, đúng sự thật, đúng thời, hạng người này vi hơn, thù thắng hơn, đối với bốn hạng người trên. Vì cớ sao? Này Potaliya, thật là vi diệu, tức là tại đây, tại đây rõ biết đúng thời.

 

  1. For what reason? Because what excels, Potaliya, is knowledge of the proper time to speak in any particular case.” “There are, Master Gotama, those four kinds of persons found existing in the world. Of those four, the one that seems

to me the most excellent and sublime is the one who speaks dispraise of someone who deserves dispraise, and the dispraise is accurate, truthful, and timely; and who also speaks praise of someone who deserves praise, and the praise is accurate, truthful, and timely. For what reason? Because what excels,

Master Gotama, is knowledge of the proper time to speak in any particular case.

“Excellent, Master Gotama! Excellent, Master Gotama! Master Gotama has made the Dhamma clear in many ways, as though he were turning upright what had been overthrown, revealing what was hidden, showing the way to one who was lost, or holding up a. lamp in the darkness so those with good eyesight can see forms. I now go for refuge to Master Gotama, to the Dhamma, and to the Sahgha of bhikkhus. Let Master Gotama consider me a lay follower who from today has gone for refuge for life.”

  1. – Thưa Tôn giả Gotama, có bốn hạng người… hiện hữu ở đời. Thế nào là bốn?… Thưa Tôn giả Gotama, có bốn hạng người này có mặt, hiện hữu ở đời. Trong bốn hạng người này, thưa Tôn giả Gotama, hạng người nói lời không tán thán đối với hạng người không đáng tán thán… nói lời tán thán đối với hạng người đáng được tán thán, đúng sự kiện, đúng sự thật, đúng thời; hạng người này, tôi chấp nhận là vi diệu hơn, thù thắng hơn bốn hạng người trên. Vì cớ sao? Thưa Tôn giả Gotama, thật là vi diệu tức là tại đây, tại đây rõ biết đúng thời. Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Thật hy hữu thay, thưa Tôn giả Gotama! Thưa Tôn giả Gotama, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống… để cho người có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, pháp được Tôn giả Gotama tuyên thuyết với nhiều pháp môn. Con nay xin quy y Tôn giả Gotama… từ nay cho đến trọn đời, con xin quy ngưỡng.

 

The Third Fifty

  1. Clouds – [XI. Phẩm Mây Mưa]

 

101 (1) Clouds (1) – [(I) (101) Mây Mưa (1)]

 

  1. On one occasion, the Blessed One was dwelling at. Savatthl in feta’s Grove, Anathapindika’s Park. There the Blessed One addressed the bhikkhus:

– Bhikkhus!”

– “Venerable sir!” those bhikkhus replied. The Blessed One said this:

  1. “Bhikkhus, there are these four kinds of clouds. What four? The one that thunders but does not. rain; the one that rains but does not thunder; the one that neither thunders nor rains; arid the one that both thunders and rains. These are the four kinds of clouds.
  2. So too, there are these four kinds of persons similar to clouds found existing in the world. What four? The one who thunders but does not rain; the; one who rains but does not thunder; the One who neither thunders nor rains; and the one who both thunders and rains.
  3. (1) “And how, bhikkhus, is a person one who thunders but does not rain?

Here, someone is a talker, not a doer. It is in this way that a person is one who thunders but does not rain. So, I say, this person is just like a cloud that thunders but does not rain.

  1. (2) “And how is a person one who rains but does not thunder?

Here, someone is a doer, not a talker. It is in this way that a person is one who rains but does not thunder. So, I say, this person is just like a cloud that rains but does not thunder.

  1. (3) “And how is a person one who neither thunders nor rains?

Here, someone is neither a talker nor a doer. It is in this way that a person is one who neither thunders nor rains. So, I say, this person is just like a cloud that neither thunders nor rains.

  1. (4) “And how is a person one who both thunders and rains?

Here, someone is both a talker and a doer. It is in this way that a person is one who both thunders and rains. So, I say, this person is just like a cloud that both thunders and rains.

“These, bhikkhus, are the four kinds of persons similar to clouds found existing in the world.”

  1. Như vầy tôi nghe:

Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn của ông Anàthapindika. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:

– Này các Tỷ-kheo.

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:

2.- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại mây mưa này. Thế nào là bốn? Có sấm, không có mưa; có mưa, không có sấm; không có sấm, cũng không có mưa; có sấm và có mưa. Này các Tỷ-kheo, có bốn loại mây mưa này.

  1. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người được ví dụ với các loại mây mưa này, có mặt hiện hữu ở đời. Thế nào là bốn? Hạng người có sấm, không có mưa; hạng người có mưa, không có sấm; hạng người không có sấm, không có mưa; hạng người có sấm và có mưa.
  2. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người có sấm, không có mưa?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người có nói, không có làm. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người có sấm không có mưa. Ví như, này các Tỷ-kheo, loại mây có sấm, không có mưa ấy, này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng hạng người này giống như ví dụ ấy.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người có mưa, không có sấm?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người có làm, không có nói. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người có mưa, không có sấm. Ví như, này các Tỷ-kheo, loại mây chỉ có mưa, không có sấm ấy, Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, hạng người này giống như ví dụ ấy.

  1. Và này các Tỷ kheo, thế nào là hạng người không có sấm, cũng không có mưa?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người không có nói, không có làm. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người không có sấm, không có mưa. Ví như, này các Tỷ-kheo, loại mây không có sấm, không có mưa ấy, Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, hạng người này giống như ví dụ ấy.

  1. Và này các Tỷ kheo, thế nào là hạng người có sấm và có mưa?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người có nói và có làm. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người có sấm và có mưa. Ví như, này các Tỷ-kheo, loại mây có sấm và có mưa ấy, Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, hạng người này giống như ví dụ ấy.

Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người giống như các loại mây này có mặt, hiện hữu ở đời.

 

102 (2) Clouds (2) – [(II) (102) Mây Mưa (2)]

 

1-2. “Bhikkhus, there are these four kinds of clouds. What four? [as above] …

  1. (1) “And how, bhikkhus, is a person one who thunders but does not rain? Here, someone masters the Dhamma—the discourses, mixed prose and verse, expositions, verses, inspired utterances, quotations, birth stories, amazing accounts, and questions-and-answers—but he does not understand as it

really is: ‘This is suffering, and ‘This is the origin of suffering, and ‘This is the cessation of suffering, and ‘This is the way leading to the cessation of suffering, It is in. this way that a person is one who thunders but does not rain. So, I say, this person is just Like a cloud that thunders but does not rain.

  1. (2) “And how is a person one who rains but does not thunder? Here, someone does not master the Dhamma—the discourses … questions-and-answers— but he understands as it really is: ‘This is suffering’ … ‘This is the way leading to the

cessation of suffering.’ It is in this w ay that a person is one who rains but does not thunder. So, I say, this person is just like a cloud that rains but does not thunder.

  1. (3) “And how is a person one who neither thunders nor rains? Here, someone does not master the Dhamma— the discourses … questions-and-answers— and he does not understand as it really is: ‘This is suffering’ … ‘This is the way leading to the cessation of suffering. It is in this way that a person is one who neither thunders nor rains. So, I say, this person is just like a cloud that neither thunders nor rains.
  2. (4) “And how is a person one who both thunders and rains? Here, someone masters the Dhamma—the discourses, mixed prose and verse, expositions, verses, inspired utterances, quotations, birth stories, amazing accounts, and questions-and answers— and he understands as it really is: ‘This is suffering,

and ‘This is the origin of suffering, and ‘This is the cessation of suffering, and ‘This is the way leading to the cessation of suffering. It is in this way that a person is one who both thunders and rains. So, I say, this person is just like a cloud that both thunders and rains.

“These, bhikkhus, are the four kinds of persons similar to clouds found existing in the world.”

  1. – Này các Tỷ-kheo, có bốn loại mây mưa này. Thế nào là bốn? Có sấm, không có mưa; có mưa, không có sấm; không có sấm, không có mưa; có sấm và có mưa. Này các Tỷ-kheo, có bốn loại mây mưa này.
  2. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người được ví dụ như các loại mây mưa này, có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là bốn? Hạng người có sấm, không có mưa; hạng người có mưa, không có sấm; hạng người không có sấm, không có mưa; hạng người có sấm và có mưa.
  3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người có sấm, không có mưa?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người thuộc lòng Pháp, Khế kinh, Ứng tụng, Ký thuyết, Kệ tụng, Không hỏi tự nói, Như thị thuyết, Bổn sanh, Vị tằng hữu pháp, Quảng thuyết. Vị ấy không như thật quán tri: “Ðây là Khổ”, …”Ðây là Khổ tập”, … “Ðây là Khổ diệt”, … không như thật quán tri: “Ðây là con Ðường đưa đến Khổ diệt”. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người có sấm không có mưa. Ví như, này các Tỷ-kheo, loại mây có sấm, không có mưa ấy, Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, hạng người này giống như ví dụ ấy.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người có mưa, không có sấm?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người không có học thuộc lòng Pháp, như Khế kinh, ứng tụng, … Quảng thuyết. Vị ấy như thật quán tri: “Ðây là Khổ”, …”Ðây là Khổ tập”, … “Ðây là Khổ diệt”, … như thật quán tri: “Ðây là con Ðường đưa đến Khổ diệt”. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người có mưa, không có sấm. Ví như, này các Tỷ-kheo, loại mây chỉ có mưa, không có sấm ấy. Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, hạng người này giống như ví dụ ấy.

  1. Và này các Tỷ kheo, thế nào là hạng người không có sấm và không có mưa?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người không học thuộc lòng Pháp như Khế kinh… Quảng thuyết. Vị ấy không như thật quán tri: “Ðây là Khổ”, …”Ðây là Khổ tập”, … “Ðây là Khổ diệt”,… không như thật quán tri: “Ðây là con Ðường đưa đến Khổ diệt”. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người không có sấm, không có mưa. Ví như, này các Tỷ-kheo, loại mây không có sấm, không có mưa, Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, hạng người này giống như ví dụ ấy.

  1. Và này các Tỷ kheo, thế nào là hạng người có sấm và có mưa?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người học thuộc lòng Pháp như Khế kinh… Quảng thuyết. Người ấy như thật quán tri: “Ðây là Khổ”, …”Ðây là Khổ tập”, … “Ðây là Khổ diệt”… như thật quán tri: “Ðây là con Ðường đưa đến Khổ diệt”. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người có sấm và có mưa. Ví như, này các Tỷ-kheo, loại mây có sấm và có mưa ấy, Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, người này giống như ví dụ ấy.

Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người giống như các loại mây này có mặt, hiện hữu ở đời.

 

103 (3) Pots – [(III) (103) Cái Ghè]

 

  1. “Bhikkhus, there are these four kinds of pots. What four?

The one that is empty and covered; the one that is full and open; the one that is empty and open; and the one that is full and covered. These are the four kinds of pots.

  1. So too, there are these four kinds of persons similar to pots found existing in the world. What four? The one who is empty and covered; the one who is full and open; the one who is empty and open; and the one who is full and covered.
  2. (1) “And how, bhikkhus, is a person empty and covered?

Here, someone inspires confidence by his m anner of going forward and returning, looking ahead and looking aside, drawing in and extending the limbs, wearing his robes and carrying his outer robe and bowl; but he does not understand as it really is: ‘This is suffering, and ‘This is the origin of suffering, and ‘This is the cessation of suffering, and ‘This is the way leading to the cessation of suffering.’ It is in this way that a person is empty arid’covered. So, I say, this person is just like a pot that is empty and covered.

  1. (2) “And how is a person full and open?

Here, someone does not inspire confidence by his manner of going forward and returning … and carrying his outer robe and bowl; but he understands as it really is: ‘This is suffering’ … ‘This is the way leading to the cessation of suffering. It is in this way that a person is full and open. So, I say, this person is just like a pot that is full and open.

  1. (3) “A n d how is a person empty and open?

Here, someone does not inspire confidence by his manner of going forward and returning … and carrying his outer robe and bowl; and he does not understand as it really is: ‘This is suffering’… ‘This is the way leading to the cessation of suffering. It is in this way that a person is empty and open. So, I say, this person is just like a pot that is empty and open.

  1. (4) “And how is a person full and covered?

Here, someone inspires confidence by his manner of going forward and returning, looking ahead and looking aside, drawing in and extending the limbs, wearing his robes and carrying his outer robe, and bowl; and he understands as it really is: ‘This is suffering, and ‘This is the origin of suffering, and ‘This is the cessation of suffering, and ‘This is the way leading to the cessation of suffering. It is in this way that a person is full and covered. So, I say, this person is just like a pot that is fuil and covered.

“These, bhikkhus, are the four kinds of persons similar to pots found existing in the world.”

  1. – Này các Tỷ-kheo, có bốn loại ghè này. Thế nào là bốn?

Trống và bịt; đầy và mở; trống và mở; đầy và bịt. Này các Tỷ-kheo, có bốn loại ghè này.

  1. Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, có bốn hạng người được ví như các loại ghè này có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là bốn?

Trống và bịt, đầy và mở, trống và mở, đầy và bịt.

  1. Và này các Tỳ-kheo, thế nào là hạng người trống và bịt?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người có thái độ không dễ thương, khi đi tới đi lui, khi ngó phía trước, ngó hai bên, khi co tay duỗi tay, khi mang áo tăng-già-lê, bình bát và y, Vị ấy như thật quán tri: “Ðây là Khổ”, …”Ðây là Khổ tập”, … “Ðây là Khổ diệt”… không như thật quán tri:”Ðây là con Ðường đưa đến Khổ diệt”. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người trống và bịt. Ví như, này các Tỷ-kheo, các ghè trống và bịt ấy, Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, người này giống như ví dụ ấy.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người đầy và mở?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người có thái độ dễ thương, khi đi tới đi lui, khi ngó phía trước, ngó hai bên, khi co tay duỗi tay, khi mang áo tăng-già-lê, bình bát và y, Vị ấy không như thật quán tri: “Ðây là Khổ”, …”Ðây là Khổ tập”, … “Ðây là Khổ diệt”… như thật quán tri: “Ðây là con Ðường đưa đến Khổ diệt”. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người đầy và mở. Ví như, này các Tỷ-kheo, các ghè đầy và mở ấy, Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, người này giống như ví dụ ấy.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người trống và mở?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người không có thái độ dễ thương, khi đi tới đi lui, khi ngó phía trước, ngó hai bên, khi co tay duỗi tay, khi mang áo tăng-già-lê, bình bát và y, Vị ấy không như thật quán tri: “Ðây là Khổ”, …”Ðây là Khổ tập”, … “Ðây là Khổ diệt”… không như thật quán tri: “Ðây là con Ðường đưa đến Khổ diệt”. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người trống và mở, Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, người này giống như ví dụ ấy.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người đầy và bịt?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người có thái độ dễ thương, khi đi tới, đi lui, khi ngó phía trước, ngó hai bên, khi co tay, duỗi tay, khi mang áo tăng-già-lê, mang y bát, vị ấy như thật quán tri: “Ðây là Khổ”, …”Ðây là Khổ tập”, … “Ðây là Khổ diệt”… như thật quán tri: “Ðây là con Ðường đưa đến Khổ diệt”. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người đầy và bịt. Ví như, này các Tỷ-kheo, các ghè đầy và bịt ấy, Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, người này giống như ví dụ ấy.

Này các Tỷ-kheo, bốn hạng người giống như các loại ghè này có mặt, hiện hữu ở đời.

 

104 (4a) Pools of Water – [(IV) (104a) Hồ Nước (1)]

 

  1. “Bhikkhus, there are these four kinds of pools of water. What four? The one that is shallow but appears to be deep; the one that is deep but appears to be shallow; the one that is shallow and appears to be shallow; and the one that is deep and appears to be deep. These are the four kinds of pools of water.
  2. So too, there are these four kinds of persons similar to pools of water found existing in the world. What four? The one who is shallow but appears to be deep; the one who is deep but appears to be shallow; the one who is shallow and appears to be shallow; and the one who is deep and appears to be deep.
  3. (1) “And how, bhikkhus, is a person one who is shallow but appears to be deep? Here, someone inspires confidence by his manner of going forward and returning, looking ahead and looking aside, drawing in and extending the limbs, wearing his robes and carrying his outer robe and bowl; but he does not understand as it really is: ‘This is suffering, and ‘This is the origin of suffering,’ and ‘This is the cessation of suffering, and ‘This is the way leading to the cessation of suffering.’ It is in this way that a person is shallow but appears to be deep. So, I say, this person is just like a pool of water that is shallow but appears to be deep.

(2) “And how is a person one who is deep but appears to be shallow? Here, someone does not inspire confidence by his manner of going forward and returning … and carrying his outer robe and bowl; but he understands as it really is: ‘This is suffering’ … ‘This is the way leading to the cessation of suffering. It is in this way that a person is deep but appears to be shallow. So, I say, this person is just like a pool of water that is deep but appears to be shallow.

(3) “And how is’a person one who is shallow and appears to be shallow? Here, someone does not inspire confidence by his manner of going forward and returning … and carrying his outer robe and bowl; and he does not understand as it really is: ‘This is suffering’… ‘This is the way leading to the cessation of

Suffering. It is in this way that a person is shallow and appears to be shallow. So, I say, this person is just like a pool of water that is shallow and appears to be shallow.

(4) “And how is a person one who is deep and appears to be deep? Here, someone inspires confidence by his manner of going forward and returning, looking ahead and looking aside, drawing in and extending the limbs, wearing his robes and carrying his outer robe and bowl; and he understands as it really

is: ‘This is suffering,’ and ‘This is the origin of suffering, and ‘This is the cessation of suffering, and ‘This is the way leading to the cessation of suffering.’ It is in this way that a person is deep and appears to be deep. So, I say, this person is just like a pool of water that is deep and appears to be deep.

“These, bhikkhus, are the four kinds of persons similar to pools of water found existing in the world.”

  1. – Này các Tỷ-kheo, có bốn loại hồ nước này. Thế nào là bốn? Cạn có vẻ sâu, sâu có vẻ cạn, cạn có vẻ cạn, sâu có vẻ sâu. Này các Tỷ-kheo, có bốn loại hồ nước này.
  2. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người được ví dụ với hồ nước này có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là bốn?

Cạn có vẻ sâu, sâu có vẻ cạn. Cạn có vẻ cạn, sâu có vẻ sâu.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người cạn có vẻ sâu?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người có thái độ dễ thương … (như kinh 103, từ số 3 cho đến số 6).

 

(V) (104b) Các Hồ Nước (2)

  1. – Này các Tỷ-kheo, có bốn loại hồ nước này. Thế nào là bốn? Cạn có vẻ sâu, sâu có vẻ cạn, cạn có vẻ cạn, sâu có vẻ sâu. Này các Tỷ-kheo, có bốn loại hồ nước này.
  2. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người được ví dụ với hồ nước này có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là bốn?

Cạn có vẻ sâu, sâu có vẻ cạn. Cạn có vẻ cạn, sâu có vẻ sâu.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người cạn có vẻ sâu?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người có thái độ dễ thương … (như kinh 103, từ số 3 cho đến số 6).

 

105 (5) Mangoes – [(VI) (106) Các Trái Xoài]

 

  1. “Bhikkhus, there are these four kinds of mangoes. What four?

The one that is unripe but appears ripe; the one that is ripe but appears unripe; the one that is unripe and appears unripe; and the one that is ripe and appears ripe. These are the four kinds of mangoes.

  1. So too, there are these four kinds of persons similar to mangoes found existing in the world. What four? The one who is unripe but appears ripe; the one who is ripe but appears unripe; the one who is unripe and appears unripe; and the one

who is ripe and appears ripe.

(1) “A nd how, bhikkhus, is a person one who is unripe but appears to be ripe?  Here, someone inspires confidence by his manner of going forward and returning, looking ahead and looking aside, drawing in and extending the limbs, wearing his robes and carrying his outer robe and bowl; but he does not understand as it really is: ‘This is suffering, and ‘This is the origin of suffering, and ‘This is the cessation of suffering, and ‘This is the way leading to the cessation of suffering. It is in this way that a person is unripe but appears to be ripe. So, I say, this person is just like a mango that is unripe but appears

to be ripe.

(2) “And how is a person one who is ripe but appears to be unripe? Here, someone does not inspire confidence by his manner of going forward and returning … and carrying his outer robe and bowl; but he understands as it really is: ‘This is suffering’ … ‘This is the way leading to the cessation of suffering. It is in this w ay that a person is ripe but appears to be unripe. So,

I say, this person is just like a mango that is ripe but appears to be unripe.

(3) “And how is a person one who is unripe and appears to be unripe? Here, someone does not inspire confidence by his manner of going forward and returning … and carrying his outer robe and bowl; and he does not understand as it really is: ‘This is suffering’ … ‘This is the way leading to the cessation of

suffering.’ It is in this way that a person is unripe and appears to be unripe. So, I say, this person is just like a mango that is unripe and appears to be unripe.

(4) “And how is a person one who is ripe and appears to be ripe? Here, someone inspires confidence by his manner of going forward and returning, looking ahead and looking aside, drawing in and extending the limbs, wearing his robes and carrying his outer robe and bowl; and he understands as it really is: ‘This

is suffering, and ‘This is the origin of suffering, and ‘This is the cessation of suffering,’ and ‘This is the way leading to the cessation of suffering. It is in this way that a person is ripe and appears to be ripe. So, I say, this person is just like a mango that is ripe and appears to be ripe.

“These, bhikkhus, are the four kinds of persons similar to mangoes found existing in the world.”

  1. – Này các Tỷ-kheo, có bốn loại xoài này. Thế nào là bốn?

Chưa chín có vẻ chín, chín có vẻ chưa chín, chưa chín có vẻ chưa chín, chín có vẻ chín, Này các Tỷ-kheo, có bốn loại xoài này.

  1. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người được ví dụ với bốn loại xoài này. Thế nào là bốn

? (như kinh 103, từ số 3 đến số 6)

 

106 (6) [Mangoes] – (VI) (106) Các Trái Xoài

 

[No text of this sutta occurs in any edition. The uddana verse at the end of the vagga says: dve honti ambani, “there are two [on] mangoes,” which is apparently why Be assigns the title. Mp says only, “The sixth is clear.” Both Ce and Be, referring to this comment, have a note: “The commentary says, ‘The sixth is clear,” but it is not found in the canonical text.”]

  1. – Này các Tỷ-kheo, có bốn loại xoài này. Thế nào là bốn?

Chưa chín có vẻ chín, chín có vẻ chưa chín, chưa chín có vẻ chưa chín, chín có vẻ chín, Này các Tỷ-kheo, có bốn loại xoài này.

  1. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người được ví dụ với bốn loại xoài này. Thế nào là bốn? (như kinh 103, từ số 3 đến số 6)

 

107 (7) Mice – [(VII) (107) Các Loại Chuột]

 

  1. “Bhikkhus, there are these four kinds of mice. What four? The one that makes a hole but does not live in it; the one that lives in a hole but does not make one; the one that neither makes a hole nor lives in one; and the one that both makes a hole and lives in it. These are the four kinds of mice.
  2. So too, there are these four kinds of persons similar to mice found existing in

the world. What four? The one who makes a hole but does not live in it; the one who lives in a hole but does not make one; the one who neither makes a hole nor lives in one; and the one who both makes a hole and lives in it.

  1. (1) “And how, bhikkhus, is a person one who makes a hole but does not live in it?

Here, someone masters the Dhamma — the discourses, mixed prose and verse, expositions, verses, inspired utterances, quotations, birth stories, amazing accounts, and questions-and-answers— but he does not understand as

it really is: ‘This is suffering, and ‘This is the origin of suffering, and ‘This is the cessation of suffering, and ‘This is the way leading to the cessation of suffering. It is in this way that a person is one who makes a hole but does not live in it. So, I say, this person is just like a mouse that makes a hole but does not live in it.

  1. (2) “And how is a person one who lives in a hole but does not make one? Here, someone does not master the Dhamma — the discourses … questions-and-answers—but he understands as it really is: ‘This is suffering’ … ‘This is the way leading to the cessation of suffering. It is in this way that a person is one who lives in a hole but does not make one. So, I say, this person is just like a mouse that lives in a hole but does not make one.

(3) “And how is a person one who neither makes a hole nor lives in one? Here, someone does not master the Dhamma—the discourses … questions-and-answers—and he does not understand as it really is: ‘This is suffering’ … This is the way leading to the cessation of suffering.’ It is in this way that a person is one who neither makes a hole nor lives in one. So, I say, this person is just like a mouse that neither makes a hole nor lives in one.

(4) “And how is a person one who both makes a hole and lives in it? Here, someone masters the Dhamma— the discourses, mixed prose and verse, expositions, verses, inspired utterances, quotations, birth stories, amazing accounts, and questions-andanswers—and he understands as it really is: ‘This is suffering,’ and ‘This is the origin of suffering, and ‘This is the cessation of suffering, and ‘This is the way leading to the cessation of suffering.’ It is in this way that a person is one who both makes a hole and lives in it. So, I say, this person is just like a mouse that both makes a hole and lives in it.

“These, bhikkhus, are the four, kinds of persons similar to mice found existing in the world.”

  1. – Này các Tỷ-kheo, có bốn loại chuột này. Thế nào là bốn?

Ðào hang không ở, ở không đào hang, không đào hang không ở, có đào hang có ở. Này các Tỷ-kheo, có bốn loại chuột này.

  1. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người được ví dụ với các loại chuột này có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là bốn?

Ðào hang không ở, ở không đào hang, không đào hang không ở, có đào hang có ở. Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người này.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người có đào hang, nhưng không ở?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người thuộc lòng Pháp như Khế kinh… Quảng thuyết. Vị ấy không như thật quán tri: “Ðây là Khổ”, …”Ðây là Khổ tập”, … “Ðây là Khổ diệt” … “Ðây là con Ðường đưa đến Khổ diệt”. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người đào hang, nhưng không ở. Ví như, này các Tỷ-kheo, loại chuột có đào hang, nhưng không ở ấy, Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, hạng người này giống như ví dụ ấy.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người có ở, không đào hang? (xem như kinh 102).

 

108 (8) Bulls – [(VIII) (108) Các Loại Bò Ðực]

 

  1. “Bhikkhus, there are these four kinds of bulls. What four?

The one wrathful toward its own cattle, not toward the cattle of others; the one wrathful toward the cattle of others, not toward its own cattle; the one wrathful both toward its own cattle and toward the cattle of others; and the one wrathful neither toward its own cattle nor toward the cattle of others. These are the four kinds of bulls.

  1. So too, there are these four kinds of persons similar to bulls found existing in the world. What four?

The one wrathful toward his own cattle, not toward the cattle of others; the one wrathful toward the cattle of others, not toward his own cattle; the one wrathful both toward his own cattle and toward the cattle of others; and the one wrathful neither toward his own cattle nor tow ard the cattle of others.

  1. (1) “And how, bhikkhus, is a person wrathful toward his own cattle, not toward the cattle of others?

Here, someone intimidates his own retinue but not the retinues of others. It is in this way that a person is w rathful toward his own cattle, not toward the cattle of others. So, I say, this person is just like a bull wrathful toward its own cattle, not toward the cattle of others.

  1. (2) “And how is a person wrathful toward the cattle of others, not toward his own cattle?

Here, someone intimidates the retinues of others but not his own retinue. It is in this way that a person is wrathful toward the cattle of others, not toward his own cattle. So, I say, this person is just like a bull wrathful

toward the cattle of others, not toward his own cattle.

  1. (3) “And how is a person wrathful both toward his own cattle and toward the cattle of others?

Here, someone intimidates both the retinues of others and also his own retinue. It is in this way that a person is wrathful both toward his own cattle and toward the cattle of others. So, I say, this person is just like a bull wrathful both toward his own cattle and toward the cattle of others.

  1. (4) “And how is a person wrathful neither toward his own cattle nor toward the cattle of others?

Here, someone does not intimidate his own retinue or the retinues of others. It is in this way that a person is wrathful neither toward his own cattle nor toward the cattle of others. So, I say, this person is just like

a bull wrathful neither toward his own cattle nor toward the cattle of others.

“These, bhikkhus, are the four kinds of persons similar to bulls found existing in the world.”

  1. – Này các Tỷ-kheo, có bốn loại bò đực này. Thế nào là bốn?

Hung dữ với đàn bò của mình, không hung dữ với đàn bò của người; hung dữ với đàn bò của người, không hung dữ với đàn bò của mình; hung dữ với đàn bò của mình, hung dữ với đàn bò của người; không hung dữ với đàn bò của mình, không hung dữ với đàn bò của người. Này các Tỷ-kheo, có bốn loại bò đực này.

  1. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người được ví như các loại bò đực này, có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là bốn?

Hạng người hung dữ với đàn bò của mình, không hung dữ với đàn bò của người; hạng hung dữ với đàn bò của người, không hung dữ với đàn bò của mình; hạng hung dữ với đàn bò của mình và hung dữ với đàn bò của người; hạng không hung dữ với đàn bò của mình, không hung dữ với đàn bò của người.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người hung dữ với đàn bò của mình, không hung dữ với đàn bò của người?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người là một khiếp đảm cho hội chúng của mình, không là một khiếp đảm cho hội chúng của người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người hung dữ với đàn bò của mình, không hung dữ với đàn bò của người. Ví như, này các Tỷ-kheo, loại bò đực hung dữ với đàn bò của mình, không hung dữ với đàn bò của người ấy, Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, hạng người này giống như ví dụ ấy.

  1. Thế nào, này các Tỷ-kheo, là hạng người hung dữ với đàn bò của người, không hung dữ với đàn bò của mình?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người là một khiếp đảm cho hội chúng của người, không là một khiếp đảm cho hội chúng của mình. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người hung dữ với đàn bò của người, không hung dữ với đàn bò của mình. Ví như, này các Tỷ-kheo, loại bò đực hung dữ với đàn bò của người, không hung dữ với đàn bò của mình ấy, Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, hạng người này giống như ví dụ ấy.

  1. Thế nào, này các Tỷ-kheo, là hạng người hung dữ với đàn bò của mình, hung dữ với đàn bò của người?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người là một khiếp đảm cho hội chúng của mình và cho hội chúng của người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người… (như trên)… giống như ví dụ ấy.

  1. Thế nào, này các Tỷ-kheo, là hạng người không hung dữ với đàn bò của mình và không hung dữ với đàn bò của người?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người không là một khiếp đảm cho đàn bò của mình, không là một khiếp đảm cho đàn bò của người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người không hung dữ với đàn bò của mình, không hung dữ với đàn bò của người. Ví như, này các Tỷ-kheo, loại bò đực không hung dữ với đàn bò của mình và không hung dữ với đàn bò của người. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng, người này giống như ví dụ ấy.

Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người được ví dụ với các loại bò đực này, có mặt, hiện hữu ở đời.

 

109 (9) Trees – [(IX) (109) Các Cây]

 

  1. “Bhikkhus, there are these four kinds of trees. What four?

The one made of softwood that is surrounded by softwood [trees]; the one made of softwood that is surrounded by hardwood [trees]; the one made of hardwood that is surrounded by softwood [trees]; and the one made of hardwood that is surrounded by hardwood [trees]. These are the four kinds of trees.

  1. So too, there are these four kinds of persons similar to trees found existing in the world. What four? The one made of softwood who is surrounded by softwood [trees]; the one made of softwood who is surrounded by hardwood [trees]; the one made of hardwood who is surrounded by softwood [trees]; and

the one made of hardwood who is surrounded by hardwood [trees].

  1. (1) “And how, bhikkhus, is a person made of softwood and surrounded by softwood [trees]?

Here, someone is immoral, of bad character, and his retinue is also immoral, of bad character. It is in this way that a person is made of softwood and surrounded by softwood [trees]. So, I say, this person is just like a tree made of softwood and surrounded by softwood [trees].

  1. (2) “And how is a person made of softwood but surrounded by hardwood [trees]?

Here, someone is immoral, of bad character, but his retinue is virtuous, of good character. It is in this way that a person is m ade of softwood but surrounded by hardwood [trees]. So, I say, this person is just like a tree made of softwood

but surrounded by h ardwo od [trees].

  1. (3) “And how is a person made of hardwood but surrounded by softwood [trees]?

Here, someone is virtuous, of good character, but his retinue is immoral, of bad character. It is in this way that a person is m ad e of hardwood but surrounded by softwood [trees]. So, I say, this person is just like a tree made of hardwood but surrounded by softwood [trees].

  1. (4) “‘And how is a p e rson made of hardwood and surrounded by hardwood [trees]?

Here, someone is virtuous, of good character, and his retinue is also virtuous, of good character. It is in this way that a p erson is made of hacdwood and surrounded by hardwood [trees]. So, I say, this person is just like a tree made

of hardwood and surrounded by hardwood [trees].

“These, bhikkhus, are the four kinds of persons similar to trees found existing in the world.”

1.- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại cây này. Thế nào là bốn?

Có giác cây, bao vây với giác cây; có giác cây bao vây với lõi cây; có lõi cây bao vây với giác cây; có lõi cây bao vây với lõi cây. Này các Tỷ-kheo, có bốn loại cây này.

  1. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người được ví dụ như bốn loại cây này có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là bốn?

Hạng người là giác cây, bao vây với giác cây; hạng người là giác cây, bao vây với lõi cây; hạng người là lõi cây, bao vây với giác cây; hạng người là lõi cây, bao vây với lõi cây.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người là giác cây bao vây với giác cây?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người ác giới, theo ác pháp, hội chúng người ấy cũng ác giới, theo ác pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người giác cây bao vây với giác cây. Ví như, này các Tỷ-kheo, loại cây là giác cây, bao vây với giác cây ấy. Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, hạng người này giống như ví dụ ấy.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người là giác cây bao vây với lõi cây?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người ác giới, theo ác pháp, hội chúng người ấy có giới, theo thiện pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người giác cây bao vây với lõi cây. Ví như… giống như ví dụ ấy.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người là lõi cây bao vây với giác cây?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người có giới, theo thiện pháp, nhưng hội chúng của người ấy theo ác giới, ác pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người lõi cây bao vây với giác cây. Ví như… giống như ví dụ ấy.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người là lõi cây bao vây với lõi cây?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người có giới, theo thiện pháp, hội chúng người ấy cũng có giới, theo thiện pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người có lõi cây bao vây với lõi cây. Ví như, này các Tỷ-kheo, là hạng người lõi cây bao vây với lõi, Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, hạng người này giống như ví dụ ấy.

Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người giống như ví dụ các cây này, có mặt hiện hữu ở đời.

 

110 (10) Vipers – [(X) (110) Các Con Rắn]

 

  1. “Bhikkhus, there are these four kinds of vipers. What four?

The one whose venom is quick to come up but not virulent; the one whose venom is virulent but not quick to come up; the one whose venom is both quick to come up and virulent; and the one whose venom is neither quick to come up nor virulent. These are the four kinds of vipers.

  1. So too, there are these four kinds of persons similar to vipers found existing in the world. What four? The one whose venom is quick to come up but not virulent; the one whose venom is virulent but not quick to come up; the one whose venom is both quick to come up and virulent; and the one whose venom is neither quick to come up nor virulent.
  2. (1) “And how, bhikkhus, is a person one whose venom is quick to come up but not virulent?

Here, someone often becomes angry, but his anger does not linger for a long time. It is in this way that a person is one whose venom is quick to come up

but not virulent. So, I say, this person is just like a viper whose venom is quick to come up but not virulent

  1. (2) “And how is a person one whose venom is virulent but not quick to come up?

Here, someone does not often become angry, but his anger lingers for a long time. It is in this way that a person is one whose venom is virulent but not quick to come up. So, I say, this person is just like a viper whose venom is virulent but not quick to come up.

  1. (3) “And how is a person one whose venom is both quick to come up and virulent?

Here, someone often becomes angry, and his anger lingers for a long time. It is in this way that a person is one whose venom is both quick to come up and virulent. So, I say, this person is just like a viper whose venom is both quick to come up and virulent.

  1. (4) “And how is a person one whose venom is neither quick to come up nor virulent?

Here, someone does not often become angry, and his anger does not linger for a long time. It is in this way that a person is one whose venom is neither quick to come up nor virulent. So, I say, this person is just like a viper whose venom is neither quick to come up nor virulent.

“These, bhikkhus, are the four kinds of persons similar to vipers found existing in the world.”

  1. – Này các Tỷ-kheo, có bốn loại rắn. Thế nào là bốn?

Loại rắn có nọc độc, nhưng không ác độc; loại ác độc nhưng không nọc độc; loại có nọc độc và ác độc; loại không có nọc độc, không có ác độc. Này các Tỷ-kheo, có bốn loại rắn độc này.

  1. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người được ví dụ với các loại rắn này có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là bốn?

Hạng người có nọc độc nhưng không ác độc; hạng người ác độc nhưng không nọc độc; hạng người có nọc độc, có ác độc; hạng người không có nọc độc, không có ác độc.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người có nọc độc, nhưng không ác độc?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người rất mau phẫn nộ, nhưng phẫn nộ không tồn tại lâu dài. Như vậy là hạng người có nọc độc, nhưng không ác độc. Ví như, này các Tỷ-kheo, loại rắn có nọc độc, nhưng không ác độc ấy, Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, hạng người này giống như ví dụ ấy.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người có ác độc, nhưng không có nọc độc?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người không mau phẫn nộ, nhưng phẫn nộ tồn tại lâu dài. Như vậy là hạng người có ác độc, nhưng không có nọc… giống như ví dụ ấy.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người có nọc độc và có ác độc?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người rất mau phẫn nộ và phẫn nộ tồn tại lâu dài. Như vậy là hạng người có nọc độc và có ác độc… giống như ví dụ ấy.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người không có nọc độc và không có ác độc?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người không mau phẫn nộ và phẫn nộ không tồn tại lâu dài. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người không có nọc độc, và không có ác độc. Ví như, này các Tỷ-kheo, loại rắn không có nọc độc, không có ác độc ấy, Ta nói rằng, hạng người này giống như ví dụ ấy.

Có bốn hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, hiện hữu ở đời.

 

XII. Kesi – [XII. Phẩm Kesi] – page 492 of 1925

 

111 (1) Kesi – [(I) (111) Kesi]

 

  1. Then Kesi the horse trainer approached the Blessed One, paid homage to him, and sat down to one side.
  2. The Blessed One then said to him: “Kesi, you are reputed to be a horse trainer. Just how do you discipline a horse to be tamed?”

– “Bhante, I discipline one kind of horse gently, another kind sternly, and still another kind both gently and sternly.”

– “But, Kesi, if a horse to be tamed by you won’t submit to discipline by any of these methods,‘how do you deal with him?”

– “Bhante, if a horse to be tamed by me won’t submit to discipline by any of these methods, then I kill him. For what reason? So that there will be no disgrace to my teacher’s guild. But, Bhante, the Blessed One is the unsurpassed trainer of persons to be tamed. Just how does the Blessed One discipline a person to be tamed?”

  1. “I discipline one kind of person gently, another kind sternly, and still another kind both gently and sternly.

(1) This, Kesi, is the gentle method: ‘Such is bodily good conduct, such the result of bodily good conduct; such is verbal good conduct, such the result of verbal good conduct; such is mental good conduct, such the result of mental good con duct; such are the devas, such are human beings.

  1. Rồi Kesi, người đánh xe điều phục ngựa đi đến Thế tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế tôn nói với Kesi, người đánh xe điều phục ngựa đang ngồi một bên:
  2. – Này Kesi, Ông là người đánh xe điều phục ngựa, có chế ngự. Và này Kesi, Ông nhiếp phục ngựa như thế nào?

– Bạch Thế tôn, con nhiếp phục ngựa đáng được điều phục với lời nói mềm mỏng; con nhiếp phục ngựa đáng được điều phục với lời thô ác; con nhiếp phục ngựa đáng được điều phục với lời nói mềm mỏng và thô ác.

– Này Kesi, nếu con ngựa đáng được điều phục không chịu nhiếp phục với lời nói mềm mỏng, không chịu nhiếp phục với lời nói thô ác, không chịu nhiếp phục với lời nói mềm mỏng và thô ác, thời Ông làm gì với con ngựa ấy?

– Bạch Thế tôn, nếu con ngựa đáng được điều phục không chịu nhiếp phục với lời nói mềm mỏng, không chịu nhiếp phục với lời nói thô ác, không chịu nhiếp phục với lời nói mềm mỏng và thô ác của con, thời bạch Thế tôn, con giết nó. Vì sao? Vì mong rằng nó không làm mất danh dự cho gia đình thầy của con! Nhưng bạch Thế tôn, Thế tôn là bậc Vô thượng, đánh xe điều ngự những ai đáng được điều ngự, như thế nào Thế tôn nhiếp phục những ai đáng được điều phục?

3 – Này Kesi, Ta nhiếp phục người đáng được nhiếp phục với lời nói mềm mỏng, Ta nhiếp phục với lời nói cứng rắn, Ta nhiếp phục với lời nói vừa mềm mỏng, vừa cứng rắn.

Tại đây, này Kesi, đây là với lời nói mềm mỏng: Ðây là thân làm thiện, đây là quả báo thân làm thiện. Ðây là lời nói thiện, đây là quả báo lời nói thiện. Ðây là ý nghĩ thiện, đây là quả báo ý nghĩ thiện, Ðây là chư Thiên. Ðây là loài Người.

 

(2) This is the stern method: ‘Such is bodily misconduct, such the result of bodily misconduct; such is verbal misconduct, such the result of verbal misconduct; such is mental misconduct, such the result of mental misconduct; such is hell, such the animal realm, such the sphere of afflicted spirits.

(3) This is the gentle and stern method: ‘Such is bodily, good conduct, such the result of bodily good conduct; such is bodily misconduct, such the result of bodily misconduct, such is verbal good conduct, such the result of verbal good conduct; such is verbal misconduct, such the result of verbal misconduct.

Such is mental good conduct, such the result of mental good conduct; such is mental misconduct, such the result of mental misconduct. Such are the devas, such are human beings; such is hell, such the animal realm, such the sphere of afflicted spirits.”

– “But, Bhante, if a person to be tamed by you won’t submit to discipline by any of these methods, how does the Blessed One deal with him?”

– (4) “If a person to be tamed by me won’t submit to discipline by any of these methods, then I kill him.”

Tại đây, này Kesi, đây là với lời nói cứng rắn: Ðây là thân làm ác, đây là quả báo thân làm ác. Ðây là lời nói ác, đây là quả báo lời nói ác. Ðây là ý nghĩ ác, đây là quả báo ý nghĩ ác. Ðây là địa ngục. Ðây là loài bàng sanh. Ðây là loại ngạ quỷ.

Tại đây, này Kesi, đây là lời nói vừa mềm mỏng vừa cứng rắn: Ðây là thân làm thiện, đây là quả báo thân làm thiện. Ðây là thân làm ác, đây là quả báo thân làm ác. Ðây là lời nói thiện, đây là quả báo lời nói thiện. Ðây là lời nói ác, đây là quả báo lời nói ác. Ðây là ý nghĩ thiện, đây là quả báo ý nghĩ thiện. Ðây là ý nghĩ ác, đây là quả báo ý nghĩ ác. Ðây là chư Thiên. Ðây là loài Người. Ðây là địa ngục. Ðây là loài bàng sanh. Ðây là ngạ quỷ.

– Bạch Thế tôn, nếu người đáng được điều phục không chịu nhiếp phục với lời nói mềm mỏng của Thế tôn, không chịu nhiếp phục với lời nói cứng rắn, không chịu nhiếp phục với lời nói mềm mỏng và cứng rắn, thời Thế tôn làm gì với người ấy?

– Này Kesi, nếu người đáng được điều phục không chịu nhiếp phục với lời nói mềm mỏng của Ta, không chịu nhiếp phục với lời nói cúng rắn, không chịu nhiếp phục với lời nói vừa mềm mỏng vừa cứng rắn, này Kesi, thời Ta giết hại người ấy!

 

  1. “But, Bhante, it isn’t allowable for the Blessed One to destroy life. Yet he says, ‘Then I kill him.'”

– “It is true, Kesi, that it isn’t allowable for the Tathagata to destroy life. However, when a person to be tamed won’t submit to discipline by the gentle method, the stern method, or the method that is both gentle and stern, then the Tathagata thinks he should not be spoken to and instructed, and his wise fellow monks, too, think he should not be spoken to and instructed. For this, Kesi, is ‘killing’ in the Noble One’s discipline: the Tathagata thinks one should not be spoken to and instructed, and one’s wise fellow monks, too, think one should not be spoken to and instructed.”

– “He is indeed well slain, Bhante, when the Tathagata thinks he should not be spoken to and instructed, and his wise fellow monks, too, think he should not be spoken to and instructed. “Excellent, Bhante! Excellent, Bhante! The Blessed One has made the Dhamma clear in many ways, as though he were turning upright what had been overthrown, revealing what was hidden, showing the way to one who was lost, or holding up a lamp in the darkness so those with good eyesight can see forms. I now go for refuge to the Blessed One, to the Dhamma, and to the Sahgha of bhikkhus. Let the Blessed One consider me a lay follower who from today has gone for refuge for life.”

  1. – Nhưng bạch Thế tôn, sát sanh không xứng đáng với Thế tôn. Tuy vậy, Thế tôn nói: “Này Kesi, Ta giết hại người ấy”.

– Thấy vậy, này Kesi, sát sanh không xứng đáng với Như Lai. Nhưng người đáng được điều phục ấy không chịu nhiếp phục với lời nói mềm mỏng, không chịu nhiếp phục với lời nói cứng rắn, không chịu nhiếp phục với lời nói mềm mỏng và cứng rắn, Như Lai nghĩ rằng người ấy không xứng đáng để được nói đến, để được giáo giới. Và các vị đồng Phạm hạnh có trí nghĩ rằng người ấy không xứng đáng để được nói đến, để được giáo giới. Bị giết hại, này Kesi là con người này, trong giới luật của bậc Thánh, bị Như Lai nghĩ rằng không đáng được nói đến, không đáng được giáo giới, bị các vị đồng Phạm hạnh có trí nghĩ rằng không đáng được nói đến, không đáng được giáo giới.

– Bạch Thế tôn, người ấy bị bậc Thiện Thệ giết hại là người nào bị Như Lai nghĩ rằng không xứng đáng được nói đến, không xứng đáng được giáo giới, bị các vị đồng Phạm hạnh có trí nghĩ rằng không đáng được nói đến, không đáng được giáo giới. Thật vi diệu thay, bạch Thế tôn! Thật vi diệu thay, bạch Thế tôn! … bắt đầu từ nay, mong Thế tôn nhận con làm đệ tử cư sĩ, cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.

 

112 (2) Speed – [(II) (112) Tốc Ðộ]

 

  1. “Bhikkhus, possessing four factors a king’s excellent thoroughbred horse is worthy of a king, an accessory of a king, and reckoned as a factor of kingship. What four? Rectitude, speed, patience, and mildness.

Possessing these four factors, a king’s excellent thoroughbred horse is … reckoned, as a factor of kingship.

  1. “So too, bhikkhus, possessing four qualities a bhikkhu is worthy of gifts, worthy of hospitality, worthy of offerings, worthy of reverential salutation, an unsurpassed field of merit for the world. What four? Rectitude, speed, patience, and mildness.

Possessing these four factors, a bhikkhu is worthy of gifts, worthy of hospitality, worthy of offerings, worthy of reverential salutation, an unsurpassed field of merit for the world.”

  1. – Thành tựu với bốn chi phần, này các Tỷ-kheo, một con ngựa thuần thục hiền thiện của vua, xứng đáng cho nhà vua, là vật sở hữu của vua, được xem là biểu tượng của vua. Thế nào là bốn? Với trực tánh, với tốc độ, với nhẫn nhục, với thiện ngôn.

Thành tựu với bốn chi phần này, này các Tỷ-kheo, một con ngựa thuần thục, hiền thiện của vua, xứng đáng cho nhà vua, là vật sở hữu của vua, được xem là biểu tượng của vua.

  1. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, thành tựu với bốn pháp, Tỷ-kheo xứng đáng được cung kính, xứng đáng được tôn trọng, xứng đáng được chắp tay, là ruộng phước vô thượng ở đời. Thế nào là với bốn? Với trực tánh, với tốc độ, với kham nhẫn, với thiện ngôn.

Thành tựu với bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo xứng đáng được cung kính, xứng đáng được tôn trọng, xứng đáng được chắp tay, xứng đáng được cúng dường, là ruộng phước vô thượng ở đời.

 

113 (3) Goad – [(III) (113) Gậy Thúc Ngựa]

 

  1. “Bhikkhus, there are these four kinds of excellent thoroughbred horses found existing in the world. What four?

(1) “Here, bhikkhus, one kind of excellent thoroughbred horse is stirred and acquires a sense of urgency as soon as it sees the shadow of the goad, thinking: ‘What task will my trainer set for me today? What can I do to satisfy him?’ Such is one kind of excellent thoroughbred horse here. This is the first kind of excellent thoroughbred horse found existing in the world.

  1. (2) “Again, one kind of excellent thoroughbred horse is not stirred nor does it acquire a sense of urgency as soon as it sees the shadow of the goad, but it is stirred and acquires a sense of urgency when its hairs are struck by the goad, thinking: ‘What task will my trainer set for me today? What can I do to satisfy him?’ Such is one kind of excellent thoroughbred horse. This, is the second kind of excellent thoroughbred horse found existing in the world.
  2. (3) “Again, one kind of excellent thoroughbred horse is not stirred nor does it acquire a sense of urgency as soon as it sees the shadow of the goad, nor when its hairs are struck by the goad, but it is stirred and acquires a sense of urgency when its hide is struck by the goad, thinking: ‘What task now will my trainer set for me today? What can I do to satisfy him?’ Such is one kind of excellent thoroughbred horse. This is the third kind of excellent thoroughbred horse found existing in the world.
  3. (4) “Again, one kind of excellent thoroughbred horse is hot stirred nor does it acquire a sense of urgency as soon as it sees the shadow of the goad, nor when its hairs are struck by the goad, nor when its hide is struck by the goad, but it is stirred and acquires a sense of urgency when its bone is struck by the goad, thinking: ‘What task now will my trainer set for me today? What can I do to satisfy him?’ Such is one kind of excellent thoroughbred horse. This is the fourth kind of excellent thoroughbred horse found existing in the world.

“These are the four kinds of excellent thoroughbred horses found existing in the world.

  1. – Có bốn loài ngựa hiền thiện thuần thục này, này các Tỷ-kheo, có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là bốn?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có loài ngựa hiền thiện thuần thục, thấy bóng cây gậy thúc ngựa liền bị dao động, kích thích nghĩ rằng: “Hôm nay, người đánh xe điều ngự ngựa sẽ bảo ta làm gì, và ta đáp ứng thế nào?” Như vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây là loại ngựa hiền thiện thuần thục. Này các Tỷ-kheo, đây là loại ngựa hiền thiện thuần thục thứ nhất, có mặt, hiện hữu ở đời.

  1. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây có loài ngựa hiền thiện thuần thục, thấy bóng cây gậy thúc ngựa, không bị dao động, kích thích. Nhưng khi bị gậy thúc ngựa đâm vào lông, nó liền bị dao động, kích thích, nghĩ rằng: “Hôm nay, người đánh xe điều ngự ngựa sẽ bảo ta làm gì, và ta đáp ứng thế nào?” Như vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây là loài ngựa hiền thiện thuần thục. Này các Tỷ-kheo, đây là loài ngựa hiền thiện thuần thục thứ hai, có mặt, hiện hữu ở đời.
  2. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây có loài ngựa hiền thiện thuần thục, thấy bóng cây gậy thúc ngựa, không bị dao động, kích thích. Khi bị gậy thúc ngựa đâm vào lông, nó không bị dao động, kích thích. Nhưng khi bị cây gậy thúc ngựa đâm vào thịt, liền bị dao động, kích thích, nghĩ rằng: “Hôm nay, người đánh xe điều ngự ngựa sẽ bảo ta làm gì và ta đáp ứng thế nào?” Như vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây là loài ngựa hiền thiện, thuần thục. Này các Tỷ-kheo, đây là loài ngựa hiền thiện thuần thục thứ ba, có mặt, hiện hữu ở đời.
  3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây có loài ngựa hiền thiện thuần thục, thấy bóng cây gậy thúc ngựa, không bị dao động, kích thích; bị cây gậy thúc ngựa đâm vào lông, không bị dao động, kích thích; bị cây gậy thúc ngựa đâm vào thịt, không bị dao động, kích thích; bị cây gậy thúc ngựa đâm vào xương, bị dao động, kích thích, nghĩ rằng: “Hôm nay, người đánh xe điều ngự ngựa sẽ bảo ta làm gì và ta đáp ứng thế nào?” Như vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây là loài ngựa hiền thiện, thuần thục. Này các Tỷ-kheo, đây là loài ngựa hiền thiện, thuần thục thứ tư, có mặt, hiện hữu ở đời.

Này các Tỷ-kheo, có bốn loài ngựa hiền thiện, thuần thục, có mặt, hiện hữu ở đời.

 

  1. “So too, bhikkhus, there are these four kinds of excellent thoroughbred persons found existing in the world. What four?

(1) “Here, bhikkhus, one kind of excellent thoroughbred person hears: ‘In such and such a village or town some woman or man has fallen ill or died. He is stirred by this and acquires a sense of urgency. Stirred, he strives carefully. Resolute, he realizes the supreme truth with the body and, having pierced

it through with wisdom, he sees it. I say that this excellent thoroughbred person is similar to the excellent thoroughbred horse that is stirred and acquires a sense of urgency as soon as it sees the shadow of the goad. Such is one kind of excellent thoroughbred person. This is the first kind of excellent thoroughbred person found existing in the world.

  1. (2) “Again, one kind of excellent thoroughbred person does not hear: ‘In such and such a village or town some woman or man has fallen ill or died. Rather, he himself sees a woman or a man who has fallen ill or died. He is stirred by this and acquires a sense of urgency. Stirred, he strives carefully. Resolute, he realizes the supreme truth with the body and, having pierced it through with wisdom, he sees it. I say that this excellent thoroughbred person is similar to the excellent thoroughbred horse that is stirred and acquires a sense of urgency when its hairs are struck by the goad. Such is one kind of excellent thoroughbred person. This is the second kind of excellent thoroughbred person found existing in the world.
  2. (3) “Again, one kind of excellent thoroughbred person does not hear: In such and such a village or town some woman or man has fallen ill or died, nor does he himself see a woman or a man who has fallen ill or died. Rather, a relative or family member of his has fallen ill or died. He is stirred by this and acquires a sense, of urgency. Stirred, he strives carefully, Resolute, he realizes the supreme truth with the body and having pierced it through with wisdom, he sees.it. I say

that this excellent thoroughbred person is similar to the excellent thoroughbred horse that is stirred and acquires a sense of urgency when its hide is struck by the goad. Such is one kind of excellent thoroughbred person. This is the third kind of excellent thoroughbred person found existing in the world.

  1. (4) “Again, one kind of excellent thoroughbred person does not hear: In such and such a village or town some woman or man has fallen ill or died, nor does he himself see a woman or a man who has fallen ill or died, nor has a relative or family member of his fallen ill or died. Rather, he himself is stricken by bodily feelings that are painful, racking, sharp, piercing, harrowing, disagreeable, sapping one’s vitality. He is stirred by this and acquires a sense of urgency. Stirred, he strives carefully. Resolute, he realizes the supreme truth with the body and, having pierced it through with wisdom, he sees it. I say that this excellent thoroughbred person is similar to the excellent thoroughbred horse that is stirred and acquires a sense of urgency w hen its bone is struck by the goad. Such is one kind of excellent thoroughbred person. This is the fourth kind of excellent thoroughbred person found existing in the world.

“These, bhikkhus, are the four kinds of excellent thoroughbred persons found existing in the world.”

  1. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người hiền thiện, thuần thục này có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là bốn?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người hiền thiện, thuần thục nghe tại một làng hay thị trấn kia, có người đàn bà hay người đàn ông bị khổ đau hay bị mạng chung; người ấy do vậy bị dao động, kích thích. Bị kích thích, vị ấy như lý tinh cần. Do tinh cần, với thân, vị ấy chứng ngộ được tối thắng sự thật; với trí tuệ, vị ấy sau khi thể nhập, thấy được sự thật ấy. Ví như, này các Tỷ-kheo, con ngựa hiền thiện, thuần thục ấy, thấy bóng cây gậy thúc ngựa, bị dao động kích thích, Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, con người hiền thiện thuần thục này giống như ví dụ ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây có hạng người hiền thiện. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người hiền thiện thuần thục thứ nhất có mặt, hiện hữu ở đời.

  1. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây có hạng người hiền thiện, thuần thục không có nghe tại một làng hay thị trấn kia, có người đàn bà hay người đàn ông bị đau khổ hay bị mệnh chung, nhưng khi tự mình thấy người đàn bà hay người đàn ông khổ đau hay mệnh chung, người ấy do vậy bị dao động, kích thích. Bị kích thích, vị ấy như lý tinh cần. Do tinh cần, với thân, vị ấy chứng ngộ được sự thật tối thắng; với trí tuệ, vị ấy sau khi thể nhập, thấy được sự thật ấy. Ví như, này các Tỷ-kheo, con ngựa hiền thiện thuần thục ấy, khi bị cây gậy thúc ngựa đâm vào da, bị dao động, kích thích, Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, con người hiền thiện thuần thục này giống như ví dụ ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây có hạng người hiền thiện. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người hiền thiện thuần thục thứ hai có mặt, hiện hữu ở đời.
  2. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây có hạng người hiền thiện, thuần thục không có nghe tại một làng hay thị trấn kia, có người đàn bà hay người đàn ông bị khổ đau hay bị mệnh chung, không có tự mình thấy người đàn bà hay người đàn ông khổ đau hay mệnh chung. Nhưng, khi có một người bà con hay người đồng một huyết thống khổ đau hay bị mệnh chung, người ấy do vậy bị dao động, kích thích. Bị kích thích, vị ấy như lý tinh cần. Do tinh cần, với thân vị ấy chứng ngộ được sự thật tối thắng; với trí tuệ, vị ấy sau khi thể nhập, thấy được sự thật ấy. Ví như, này các Tỷ-kheo, con ngựa hiền thiện thuần thục ấy, khi bị cây gậy thúc ngựa đâm vào thịt, bị dao động, kích thích, Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, con người hiền thiện thuần thục này giống như ví dụ ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây có hạng người hiền thiện. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người hiền thiện thuần thục thứ ba có mặt, hiện hữu ở đời.
  3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây có hạng người hiền thiện thuần thục không có nghe tại một làng hay thị trấn kia, có người đàn bà hay người đàn ông bị khổ đau hay mệnh chung, không có tự mình thấy người đàn bà hay người đàn ông khổ đau hay bị mệnh chung, không có người bà con hay người đồng một huyết thống khổ đau hay bị mệnh chung. Nhưng khi tự mình cảm xúc những cảm thọ về thân khổ đau, nhói đau, chói đau, mãnh liệt, kịch liệt, không phải khả hỷ, không khả ý, đoạt mạng sống, vị ấy bị dao động, kích thích. Bị kích thích, vị ấy như lý tinh cần. Do tinh cần, với thân, vị ấy chứng ngộ được sự thật tối thắng; với trí tuệ, vị ấy sau khi thể nhập, thấy được sự thật ấy. Ví như, này các Tỷ-kheo, con ngựa hiền thiện thuần thục ấy, khi bị cây gậy thúc ngựa đâm vào xương mới bị dao động, kích thích, Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, con người hiền thiện thuần thục này giống như ví dụ ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây có hạng người hiền thiện thuần thục. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người hiền thiện thuần thục thứ tư có mặt, hiện hữu ở đời.

Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người hiền thiện thuần thục này có mặt, hiện hữu ở đời.

 

114 (4) Bull Elephant – [(IV) (114) Con Voi]

 

  1. “Bhikkhus, possessing four factors a king’s bull elephant is worthy of a king, an accessory of a king, and reckoned as a factor of kingship. What four?

Here, a king’s bull elephant is one who listens, who destroys, who patiently endures, and who goes.

  1. (1) “And how, bhikkhus, is a king’s bull elephant one who listens?

Here, whatever task the elephant trainer sets for it, whether o r not it has ever done it before, the king’s bull elephant heeds it, attends to it, directs his whole mind to it, and listens with eager ears. It is in this way that a king’s bull elephant is one who listens.

  1. (2) “And how is a king’s bull elephant one who destroys?

Here, when a king’s bull elephant has entered the battle, it destroys elephants and elephant riders; it destroys horses and cavalry; it destroys chariots and charioteers; it destroys infantry. It is in this way that a king’s bull elephant is one who destroys.

  1. (3) ‘”And how is a king’s bull elephant one who patiently endures?

Here, when a king’s bull elephant has entered the battle, it patiently endures being struck by spears, swords, arrows, and axes; it endures the thundering of drums, kettledrums, conches, and tom-toms. It is in this way that a king’s

bull elephant is. one who patiently endures.

  1. – Thành tựu bốn chi phần này, này các Tỷ-kheo, con voi của vua xứng đáng cho vua, là tài sản của Vua, được xem là biểu tượng của vua. Thế nào là bốn?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, con voi của vua biết nghe, biết sát hại, biết nhẫn, biết đi đến.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là con voi của vua biết nghe?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, con voi của vua, khi người nài sai làm một công tác, hoặc đã làm từ trước hay chưa làm từ trước, sau khi nhiệt tâm tác ý, hoàn toàn chú tâm lóng tai và lắng nghe. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là con voi của vua biết nghe.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là con voi của vua biết sát hại?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, con voi của vua sau khi đi đến chiến trận, giết voi, giết người cưỡi voi, giết ngựa, giết người cưỡi ngựa, giết hại xe, giết hại người cưỡi xe, giết các bộ binh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là con voi của vua biết sát hại.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là con voi của vua biết kham nhẫn?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, con voi của vua sau khi đi đến chiến trường, chịu đựng cây giáo đâm, chịu đựng kiếm chém, chịu đựng tên bắn, chịu đựng búa chặt, chịu đựng tiếng trống lớn, tiếng thanh la, tiếng tù và, tiếng trống nhỏ và các tiếng ồn ào khác. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là con voi của vua biết kham nhẫn.

 

  1. (4) “And how is a king’s bull elephant one who goes?

Here, the king’s bull elephant quickly goes to whatever region the elephant trainer sends it, whether or not it has ever gone there before. It is in this way that a king’s bull elephant is one who goes.

“Possessing these four factors, a king’s bull elephant is worthy of a king, an accessory of a king, and reckoned as a factor of kingship.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là con voi của vua biết đi đến?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, con voi của vua, khi người nài sai đi đến hướng nào, hoặc trước kia đã có đi hay trước kia không có đi, liền đi đến chỗ ấy một cách mau mắn. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là con voi của vua biết đi đến.

Thành tựu với bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, là con voi của vua xứng đáng là của vua, là tài sản của vua, đi đến làm biểu tượng của vua.

 

  1. “So too, bhikkhus, possessing four qualities, a bhikkhu is worthy of gifts, worthy of hospitality, worthy of offerings, worthy of reverential salutation, an unsurpassed field of merit for the world. What four? Here, a bhikkhu is one who listens, who destroys, who patiently endures, and who goes.
  2. (1) “And how, bhikkhus, is a bhikkhu one who listens?

Here, when the Dhamma and discipline proclaimed by the Tathagata

is being taught, a bhikkhu heeds it, attends to it, directs his whole mind to it, and listens with eager ears. It is in this way that a bhikkhu is one who listens.

  1. (2) “And how is a bhikkhu one who destroys?

Here, a bhikkhu does not tolerate an arisen sensual thought, but abandons

it, dispels it, terminates it, and obliterates it. He does not tolerate an arisen thought of ill will … an arisen thought of harming … any other bad unwholesome states that arise from time to time, but abandons them, dispels them, terminates them, and obliterates them. It is in this way that a bhikkhu is one who destroys.

  1. (3) “A nd how is a bhikkhu one who patiently endures?

Here, a bhikkhu patiently endures cold and heat; hunger and thirstcontact

with flies, mosquitoes, wind, the burning sun, and serpents; rude and offensive ways of speech; he is able to bear up with arisen bodily feelings that are painful, racking, sharp, piercing, harrowing, disagreeable, sapping one’s vitality. It is

this way that a bhikkhu is one who patiently endures.

  1. (4) “And how is a bhikkhu one who goes?

Here, a bhikkhu quickly goes to that region where he has never before gone in

this long stretch of time, that is, to the stilling of all activities, the relinquishment of all acquisitions, the destruction of craving, dispassion, cessation, nibbana. It is in this way that a bhikkhu is one who goes.

“Possessing these four qualities, a bhikkhu is worthy of gifts … an unsurpassed field of merit for the world.”

  1. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, thành tựu với bốn pháp, Tỷ-kheo xứng đáng được cung kính, xứng đáng được tôn trọng, xứng đáng được chắp tay, xứng đáng được cúng dường, là ruộng phước vô thượng ở đời. Thế nào là bốn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo biết nghe, biết sát hại, biết kham nhẫn, biết đi đến.
  2. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo biết nghe?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng, sau khi nhiệt tâm tác ý hoàn toàn, chú tâm và lắng nghe. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo biết nghe.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo biết sát hại?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không có chấp nhận dục tầm đã khởi lên, từ bỏ, gạn lọc, chấm dứt, làm cho không hiện hữu, không có chấp nhận sân tầm đã khởi lên … không có chấp nhận hại tầm đã khởi lên, từ bỏ, gạn lọc, chấm dứt, làm cho không hiện hữu. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo biết sát hại.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo biết kham nhẫn?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo kham nhẫn lạnh, kham nhẫn nóng, kham nhẫn đói, khát, sự xúc chạm của ruồi, muỗi, gió, sức nóng mặt trời, các loài bò sát, kham nhẫn những cách nói chửi mắng, phỉ báng, chịu đựng các cảm thọ về thân, khổ đau, nhói đau, mãnh liệt, không khả hỷ, không khả ý, chết điếng người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo biết kham nhẫn.

  1. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo biết đi?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo theo phương hướng nào từ trước chưa từng đi, tại đấy, mọi hành được chỉ tịnh, mọi sanh y được từ bỏ, ái được đoạn diệt. Niết-bàn, vị ấy đi đến chỗ ấy một cách mau chóng. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo biết đi.

Thành tựu với bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo xứng đáng được cung kính, xứng đáng được tôn trọng, xứng đáng được chắp tay, xứng đáng được cúng dường, là ruộng phước vô thượng ở đời.

 

115 (5) Deeds – [(V) (115) Các Trường Hợp]

 

  1. “Bhikkhus, there are these four cases of deeds. What four?

(1) There is a deed that is disagreeable to do which will prove harmful. (2) There is a deed that is disagreeable to do which will prove beneficial. (3) There is a deed that is agreeable to do which will prove harmful. (4) There is a deed that is agreeable to do which will prove beneficial.

  1. (1) “Bhikkhus, take first the case of the deed that is disagreeable to do which will prove harmful. One considers that this deed should not be done on both grounds; because it is disagreeable to do and because it will prove harmful. One considers that this deed should not be done on both grounds.
  2. (2) “Next, take the case of the deed that is disagreeable to do which will prove beneficial. It is in this case that one can understand who is a fool and who is a wise person in regard to manly strength, manly energy, and manly exertion. The fool does not reflect thus: ‘Although this deed is disagreeable to do, still it will prove beneficial.’ So, he does not do that deed, and his refraining from it proves harmful. But the wise person does reflect thujs: ‘Although this deed is disagreeable to do, still it will prove beneficial. So he does that deed, and it proves beneficial.
  3. (3) “Next, take the case of the deed that is agreeable to do which will prove harmful. It is in this case, too, that one can understand who is a fool and who is a wise person in regard to manly strength, manly energy, and manly exertion. The fool does not reflect thus: ‘Although this deed is agreeable to do, still it will prove harmful. So he does that deed, and it proves harmful. But the wise person does reflect thus: ‘Although this deed is agreeable to do, still it will prove harmful. So he does not do that deed, and his refraining from it proves beneficial.
  4. (4) “Next, take the case of the deed that is agreeable to do which will prove beneficial. This deed is considered one that should be done on both grounds: because it is agreeable to do and because it proves beneficial. This deed is considered one that should be done on both grounds.

“These, bhikkhus, are the four cases of d eeds.”

1.- Này các Tỷ-kheo, có bốn trường hợp này. Thế nào là bốn?

Có trường hợp, này các Tỷ-kheo, làm không thích ý, đưa đến không lợi ích cho người làm. Có trường hợp, này các Tỷ-kheo, làm không thích ý, đưa đến lợi ích cho người làm. Có trường hợp, này các Tỷ-kheo, làm được thích ý, không đưa đến lợi ích cho người làm. Có trường hợp, này các Tỷ-kheo, làm được thích ý, đưa đến lợi ích cho người làm.

  1. Tại đây, này các Tỷ-kheo, trường hợp này làm không thích ý; không đem lại lợi ích cho người làm; trong trường hợp này, này các Tỷ-kheo, nghĩ rằng về cả hai phương diện không nên làm. Trường hợp này làm không thích ý, đây là trường hợp nghĩ rằng không nên làm. Trường hợp làm không đem lại lợi ích cho người làm, đây là trường hợp nghĩ rằng không nên làm. Ðây là trường hợp, này các Tỷ-kheo, nghĩ rằng về cả hai phương diện không nên làm.
  2. Tại đây, này các Tỷ-kheo, trường hợp này làm không thích ý, nhưng đem lại lợi ích cho người làm; trong trường hợp này, này các Tỷ-kheo, người ta có thể biết kẻ ngu, bậc trí, về sức kiên trì của con người, tinh tấn của con người, nỗ lực của con người. Và này các Tỷ-kheo, người ngu không suy xét rằng: “Dầu trường hợp này không thích ý, nhưng trường hợp này đem lại lợi ích cho người làm”. Người ấy không làm trường hợp này. Do không làm trường hợp này, nên không đưa lại lợi ích cho người ấy. Còn người trí, này các Tỷ-kheo, suy xét rằng: “Dầu trường hợp này làm không được thích ý, nhưng trường hợp này đem lại lợi ích cho người làm”. Người ấy làm trường hợp này. Do làm trường hợp này, nên đem lại lợi ích cho người ấy.
  3. Tại đây, này các Tỷ-kheo, trường hợp này làm được thích ý, nhưng không đem lại lợi ích cho người làm; trong trường hợp này, này các Tỷ-kheo, người ta có thể biết kẻ ngu, bậc trí, về sức kiên trì của con người, tinh tấn của con người, nỗ lực của con người. Này các Tỷ-kheo, người ngu không suy xét rằng: “Dầu trường hợp này, làm được thích ý, nhưng trường hợp này không đem lại lợi ích cho người làm”. Người ấy làm trường hợp này không đem lại lợi ích cho người làm. Người ấy làm trường hợp này, và trường hợp này không đem lại lợi ích cho người ấy. Còn người trí, này các Tỷ-kheo, suy xét như sau: “Dầu trường hợp này làm được thích ý, nhưng không đem lại lợi ích cho người làm”. Vị ấy không làm trường hợp này, do không làm trường hợp này, nên đem lại lợi ích cho người ấy.
  4. Tại đây, này các Tỷ-kheo, trường hợp này làm được thích ý, và đem lại lợi ích cho người làm; trong trường hợp này, này các Tỷ-kheo, nghĩ rằng về cả hai phương diện đều nên làm. Trường hợp này, làm được thích ý, đây là trường hợp nghĩ rằng cần phải làm. Trường hợp này đem lại lợi ích cho người làm, đây là trường hợp nghĩ rằng cần phải làm. Trường hợp này, này các Tỷ-kheo, nghĩ rằng về cả hai phương diện đều phải làm.

Này các Tỷ-kheo, có bốn trường hợp này.

 

116 (6) Heedfulness – [(VI) (116) Không Phóng Dật]

 

  1. “Bhikkhus, there are four occasions when heedfulness should be practiced. What four?

(1) “Abandon bodily misconduct and develop bodily good conduct; do not be heedless in this. (2) Abandon verbal misconduct and develop verbal good conduct; do not be heedless in this. (3) Abandon mental misconduct and d evelop mental good conduct; do not be heedless in this. (4) Abandon wrong view and develop right view; do not be heedless in this.

“Bhikkhus, when a bhikkhu has abandoned bodily misconduct and developed bodily good conduct; when he has abandoned verbal misconduct, and developed verbal good conduct; when he has abandoned mental misconduct, and developed mental good conduct; when he has abandoned wrong view and developed right view, then he need not fear death in the future.”

  1. – Trong bốn trường hợp, này các Tỷ-kheo, cần phải không phóng dật. Thế nào là bốn?

Hãy từ bỏ thân làm ác, này các Tỷ-kheo, hãy tu tập thân làm lành, và ở đây chớ có phóng dật. Hãy từ bỏ lời nói ác, này các Tỷ-kheo, hãy tu tập lời nói lành, và ở đây chớ có phóng dật. Hãy từ bỏ ý nghĩ ác, này các Tỷ-kheo, hãy tu tập ý nghĩ lành, và ở đây chớ có phóng dật. Hãy từ bỏ tà kiến, này các Tỷ-kheo, hãy tu tập chánh kiến, và ở đây chớ có phóng dật.

  1. Khi nào, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đã từ bỏ thân làm ác, tu tập thân làm lành … (như trên) … đã từ bỏ tà kiến, đã tu tập chánh kiến, vị ấy không sợ hãi về đời sau, về chết.

 

117 (7) Guarding – [(VII) (117) Hộ Trì]

 

  1. “Bhikkhus, one bent on his own welfare should practice heedfulness, mindfulness, and guarding of the mind in four instances. What four?

(1) “‘May my mind not become excited by things that provoke lust!’ One bent on his own welfare should practice heedfulness, mindfulness, and guarding of the mind thus. (2) “‘May my mind not be full of hate toward things that provoke hatred! One bent on his own welfare should practice heedfulness, mindfulness, and guarding of the mind thus. (3) “‘May my m ind not be deluded by things that cause delusion!’ One bent on his own welfare should practice heedfulness,

mindfulness, and guarding of the mind thus. (4) “”May my mind not be intoxicated by things that intoxicate!’ One bent on his own welfare should practice heedfulness, mindfulness, and guarding of the mind thus.

  1. “Bhikkhus, when a bhikkhu’s mind is not excited by things that provoke lust because he has gotten rid of lust; when his mind is not full of hate toward things that provoke hatred because he has gotten rid of hatred; when his mind is not

deluded by things that cause delusion because he has gotten rid of delusion; when his mind is not intoxicated by things that intoxicate because he has gotten rid of intoxication, then he does, not cower, does not shake, does not tremble or become terrified, nor is he swayed by the words of [other], ascetics.”

  1. – Trong bốn trường hợp, này các Tỷ-kheo, không phóng dật, niệm và tâm hộ trì cần phải làm do tự mình. Thế nào là bốn?

Với ý nghĩ: “Mong rằng đối với các pháp khiến cho tham đắm, tâm ta chớ có tham đắm!”, không phóng dật, niệm và tâm hộ trì cần phải làm do tự mình. Với ý nghĩ: “Mong rằng đối với các pháp khiến cho sân hận, tâm ta chớ có sân hận!”, không phóng dật, niệm … do tự mình. Với ý nghĩ: “Mong rằng đối với các pháp khiến cho si mê, tâm ta chớ có si mê!”, không phóng dật, niệm … do tự mình. Với ý nghĩ: “Mong rằng đối với các pháp khiến cho say đắm, tâm ta chớ có say đắm!”, không phóng dật, niệm và tâm hộ trì cần phải làm do tự mình.

  1. Khi nào, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đối với các pháp khiến cho tham đắm, tâm không tham đắm, tự ngã được ly tham; đối với các pháp khiến cho sân hận, tâm không sân hận, tự ngã được ly sân; đối với các pháp khiến cho si mê, tâm không si mê, tự ngã được ly si; đối với các pháp khiến cho say đắm, tâm không say đắm, tự ngã được ly đắm say; thời vị ấy không có sợ hãi, không có dao động, không có hốt hoảng, không rơi vào hoảng sợ, không có đi do nhân các Sa-môn có nói gì.

 

118 (8) Inspiringmi – [(VIII) (118) Xúc Ðộng]

 

  1. “Bhikkhus, these four inspiring places should be seen by a clansman endowed with faith. What four?

(1) The place where the Tathagata was born is an inspiring place that should be seen by a clansman endowed with faith. (2) The place where the Tathagata awakened to the unsurpassed perfect enlightenment is an inspiring place that should be seen by a clansman endowed with faith. (3) The place where the Tathagata set in motion the unsurpassed wheel of the Dhamma is an inspiring place that should be seen by a clansman endowed with faith. (4) The place where the Tathagata attained final nibbana by the nibbana element without residue remaining is an inspiring place that should be seen by a clansman endowed with faith.

These, bhikkhus, are the four inspiring places that should be seen by a clansman endowed with faith.”

  1. – Có bốn trú xứ, này các Tỷ-kheo, khi một tín nam thấy cần phải xúc động mãnh liệt. Thế nào là bốn?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Như Lai sanh. Ðây là trú xứ khi một tín nam thấy, cần phải xúc động mãnh liệt. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Như Lai đã giác ngộ Vô Thượng Chánh Ðẳng Giác. Ðây là trú xứ khi một tín nam thấy, cần phải xúc động mãnh liệt. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Như Lai chuyển pháp luân vô thượng. Ðây là trú xứ khi một tín nam thấy, cần phải xúc động mãnh liệt. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Như Lai đã nhập Niết-bàn giới, không có dư. Ðây là trú xứ khi một tín nam thấy, cần phải xúc động mãnh liệt.

Có bốn trú xứ, này các Tỷ-kheo, khi một tín nam thấy cần phải xúc động mãnh liệt.

 

  • ) Perils (1) – [(IX) (119) Sợ Hãi (1)]

 

  • “Bhikkhus, there are these four perils. What four?

The peril of birth, the peril of old age, the peril of illness, and the peril of

death.

– These are the four perils.”

– Này các Tỷ-kheo, có bốn sự sợ hãi này. Thế nào là bốn? Sợ hãi về sanh, sợ hãi về già, sợ hãi về bệnh, sợ hãi về chết.

– Này các Tỷ-kheo, có bốn sự sợ hãi này.

 

120 (10) Perils (2) – [(X) (120) Sợ Hãi (2)]

 

  • “Bhikkhus, there are these four perils. What four? The peril of

fire, the peril of floods, the peril of kings, and the peril of bandits.

  • These are the four perils.”

– Này các Tỷ-kheo, có bốn sự sợ hãi này. Thế nào là bốn? Sợ hãi về lửa, sợ hãi về nước, sợ hãi về vua, sợ hãi về ăn trộm.

– Này các Tỷ-kheo, có bốn sự sợ hãi này.

 

Sources:

Tài liệu tham khảo:

  1. http://www.budsas.org/uni/u-kinh-tangchibo/tangchi04-0712.htm
  2. http://lirs.ru/lib/sutra/The_Numerical_Discourses_of_the_Buddha,Anguttara_Nikaya,Bodhi,2012.pdf