Hòn Đá Bên Cây Tùng – The Rock By The Pine Tree – Song ngữ

The Rock By The Pine Tree

Hòn Đá Bên Cây Tùng

English: Google Translate.

Việt ngử: Huyền Lam (United States).

Compile: Lotus group.

 

  1. Hòn Đá Bên Cây Tùng – The Rock By The Pine Tree – Song ngữ

 

Born and raised in a poor crime Ghetto area often found in the big cities, John had no father and his mother was addicted all day. The government subsidizes money monthly for poor families, but his mother used to buy alcohol, tobacco.

Sinh ra lớn lên tại khu Ghetto nghèo đầy tội phạm thường thấy tại các thành phố lớn, John không có cha, mẹ nghiện ngập suốt ngày. Bao nhiêu tiền chính phủ trợ cấp hàng tháng cho gia đình nghèo, mẹ anh dùng mua rượu, thuốc lá.


John is infected with the badness of his surroundings, though he has not been involved in drugs, but occasionally he skips school, pry open the door of car parking on street, breaks into houses to get some money to buy the things he likes. John was also arrested once by the police, but his age was underage, so, he has not yet booking into jail.

John nhiễm theo tính xấu môi trường chung quanh, tuy chưa dính vào ma túy, nhưng thỉnh thoảng trốn học, cạy cửa xe, đột nhập nhà ăn trộm để có tiền mua những món đồ mình thích. John cũng từng bị cảnh sát bắt một lần nhưng dưới tuổi trưởng thành nên chưa phải ngồi tù.

 

Because his mother no longer had money to buy food, John ate a school lunch sponsored by the Social Ministry for needy students. In the evening, John walked to the charity street food house for the poor. It has been here for many years, but John does not know anyone in the volunteer group, because every day different groups participate in the service.

Do mẹ anh không còn tiền mua thực phẩm, John ăn sáng ăn trưa tại trường học được Bộ Xã hội tài trợ cho học sinh nghèo. Chiều tối John cuốc bộ đến nhà ăn từ thiện dưới phố dành cho người khốn khó. Đến đây ăn đã nhiều năm nhưng John không quen ai trong nhóm thiện nguyện, bởi mỗi ngày có những nhóm khác nhau tham gia phục vụ.

 

The only person John remembered was an old man in his early 70s who worked on Saturday afternoons. Each time he met, he smiled brightly, greeted everyone to eat very heartily. He skillfully scooped food into the tray, tidying up neatly. When he handed the food tray, he was always welcoming, wishing the palate good appetite as if he was serving a noble guest at a luxury restaurant. Every time he saw him, John felt peaceful and gentle. Sometimes when he was deserted, seeing John sitting alone, he made an orange juice.

Người duy nhất John nhớ đến là ông già tuổi ngoài 70 thường làm vào chiều thứ Bảy. Mỗi lần gặp, ông cười tươi, chào mọi người đến ăn rất chân tình. Ông khéo léo múc các món thức ăn vào khay, tươm tất gọn gàng. Khi đưa khay thức ăn, ông bao giờ cũng niềm nở, chúc người ăn ngon miệng như thể đang phục vụ cho vị khách cao quý tại nhà hàng sang trọng nào. Mỗi lần gặp ông, John cảm thấy an lạc, nhẹ nhàng. Thỉnh thoảng khi vắng người, thấy John ngồi ăn lẻ loi một mình, ông pha ly nước cam đem đến.

 

John often did not hide anything from him, even when he was fighting at school or running a truck to steal petty goods captured by the police. He listened attentively and nodded, thanking the great teen for sharing. After each conversation, he always smiled and advised John:

John thường không giấu ông điều gì, ngay cả chuyện đánh nhau ở trường hay cạy xe ăn cắp vặt bị cảnh sát bắt. Ông ngồi nghe chăm chú gật gù, cám ơn người thiếu niên to lớn tuổi teen đã chia sẻ. Sau mỗi lần trò chuyện, ông luôn cười rất tươi khuyên John:

 

– Be a good boy! Don’t do anything more complicated, when you’re an adult it’s not good for you.

John was stubborn in his nature, the blood of the influence of the ghetto, laughing wryly, pointing at his biceps, proud:

– I am strong, sure as a rock. Nobody can do anything to you!

-­ Làm cậu bé tốt tính đi! Đừng làm chuyện dính vào phiền phức nữa, khi đến tuổi trưởng thành sẽ không tốt cho cháu.

John bản tính ương ngạnh, máu giang hồ ảnh hưởng từ khu ghetto, cười lanh lảnh, chỉ vào bắp tay cuồn cuộn, tự hào:

-­ Cháu mạnh, chắc như đá tảng. Không ai làm gì được cháu đâu!

 

Unlike the others who had been on a meal for a while and left, John came here daily, year after year so all volunteer groups knew about the teen. John became close to the old man, calling him intimate with a self-given name: Old Man Cool (cool: fun, calm).

Không giống như những người khác đến dùng cơm một thời gian rồi ra đi, John đến đây hàng ngày, năm này qua năm kia nên tất cả các nhóm thiện nguyện đều biết đến cậu tuổi teen này. John trở nên thân thiết gắn bó với ông già, gọi ông thân mật hí hỏm bằng cái tên tự đặt: Ông già Cool (cool: vui vẻ, điềm tĩnh).

 

After a long time, John suddenly disappeared and did not come to eat rice. People wonder but don’t know the address. A few months later, the police officer went to find Mr. Cool at the cafeteria, handed the letter:

Bẵng đi một thời gian dài John đột nhiên biến mất không đến dùng cơm. Mọi người thắc mắc muốn tìm hiểu nhưng không biết địa chỉ. Mấy tháng sau, viên cảnh sát đến tìm ông Cool tại nhà ăn, trao bức thư:

 

“Mr. Cool, I’m 20 years old now, in prison for robbery. My mother died more than half a year ago. Next month I will be released but I don’t know where to go, what to do to live. With criminal records, the guarantor will not let anyone borrow you, even if there’s a rent, nobody will rent it to you. I do not want to live back to the Wanderer to continue the old way. I want to be a good guy, grandfather!”.

“Ông Cool ơi, cháu đã 20 tuổi rồi, đang ngồi tù vì tội trộm cướp. Mẹ cháu mất hơn nửa năm nay. Tháng tới cháu sẽ được thả nhưng không biết phải đi đâu, làm gì để sống. Với hồ sơ tội phạm nếu không người bảo lãnh sẽ không ai muớn cháu, dù có tiền thuê nhà không ai sẽ cho cháu thuê. Cháu không muốn sống trở lại với giới giang hồ để tiếp tục con đường cũ. Cháu muốn làm người tốt, ông ơi!”.

 

In the afternoon, walking out of the prison, John’s face was extremely tired and confused after a night of sleeplessness. The feeling of being free was not enough to make him happy when facing the hopeless future. John stumbled upon the free car registration station for inmates who died, even though he didn’t know where to go. Looks like someone was waving their hands in the distance. That fresh smile, that calm physique, could not be anyone else, John shouted with joy, he rushed to hug and squeeze:

– Mr. Cool!

Buổi chiều bước chân ra khỏi nhà tù, nét mặt John mệt mỏi, hoang mang cực độ sau một đêm trằn trọc. Cảm giác được tự do không đủ làm anh vui khi đối diện tương lai vô vọng phũ phàng. John thất thểu bước đến trạm đăng ký xe miễn phí dành cho tù nhân mãn hạn, dù không biết phải đi đâu. Hình như có ai đang vẫy tay nơi xa xa. Nụ cười tươi mát ấy, khuôn vóc điềm tĩnh ấy, không thể nào ai khác, John mừng rỡ kêu to, anh chạy ào đến ôm choàng, siết chặt:

-­ Ông Cool!

 

He rubbed and patted the muscular back of the young adult, saying that the charitable groups at the cafeteria had donated a nearby room to help him have a place to live for six months. He will drive John home temporarily tonight and then check in tomorrow. John was shocked as if he did not believe his own ears. Just a few minutes ago, he felt lonely at the end. The world without you, human beings like you don’t know your existence. The feeling of being loved, being accepted made John thrilled. His eyes were wet the first time in his life.

Ông xoa nhẹ, vỗ về tấm lưng chắc thịt của người thanh niên mới lớn, ông cho biết các nhóm thiện nguyện tại nhà ăn đã quyên góp mướn căn phòng gần đó giúp anh có nơi cư trú trong 6 tháng. Ông sẽ chở John về nhà ở tạm đêm nay rồi ngày mai đi nhận phòng. John bàng hoàng như không tin vào chính tai mình. Mới vài phút đây thôi anh thấy cô đơn lạc lõng tận cùng. Thế giới như không có anh, loài người như không biết đến sự hiện hữu của anh. Cảm giác được yêu thương, được chấp nhận làm John xúc động mạnh. Mắt anh hoen ướt đầu tiên trong đời.

 

Mr. Cool lives alone in a small house with only one bedroom, but the living room is lined with wooden floors. Here in addition to some bookshelves, a few pillows sitting on the Japanese floor (sitting instrument), there is a rudimentary table with a beautiful smiling bronze statue that John does not know who and what it means.

Ông Cool sống một mình trong căn nhà nhỏ chỉ có một phòng ngủ nhưng có phòng khách lót sàn gỗ khá rộng thoáng. Nơi đây ngoài mấy kệ sách, vài tấm gối ngồi trên sàn của Nhật (tọa cụ), có chiếc bàn thô sơ chưng bức tượng đồng ngồi mỉm cười thật đẹp mà John không biết là ai và có ý nghĩa gì. 

 

Mr. Cool made ready-to-eat Italian noodles for John at dinner. John told him many fierce aspects of prison life. He listened attentively, nodding. Having finished his meal, he advised John to take a shower so that he could line the mattress in the living room for John to sleep tonight. When the shower was finished, John stepped out, the space was strangely serene. He was startled to see Mr. Cool in a very calm manner, sat up straight in the middle of the room, smiling with the statue on the table.

Ông Cool làm sẵn món mì Ý đãi John trong buổi cơm chiều. John kể cho ông nghe nhiều khía cạnh khốc liệt đời sống trong tù. Ông chăm chú lắng nghe, gật gù. Dùng bữa xong, ông khuyên John đi tắm để ông lót nệm ngoài phòng khách cho John ngủ tối nay. Khi tắm xong, John bước ra, không gian thanh tịnh lạ lùng. Anh chợt giật mình khi thấy ông Cool phong thái rất an nhiên, ngồi thẳng lưng lặng im giữa căn phòng, miệng mỉm cười cùng bức tượng trên bàn.

 

Suddenly he whispered:

– Sit down here beside me, on this pillow, we talk together.

John obeyed, sat down as he sat, looking at the smiling statue. Space settled, he could hear his own breathing.

Mr. Cool asked John:

– I talked about life in prison, so do you have any plans after leaving prison?

– I do not know how to start, sir, everything for me is a dead end. I was lucky to be able to volunteer for 6 months of rent, but after 6 months I did not know what to do.

Đột nhiên ông nói khẽ:

-­ Cháu ngồi xuống đây bên cạnh ta, trên tấm gối này, chúng ta cùng trò chuyện.

John nghe lời, ngồi xuống như dáng ông ngồi, nhìn vào bức tượng đang mỉm cười. Không gian lắng đọng, anh nghe được cả hơi thở chính mình.

Ông Cool hỏi John:

– Cháu kể về đời sống trong tù, thế cháu có dự tính gì sau khi ra tù không?

-­ Cháu không biết bắt đầu ra sao ông ạ, mọi chuyện đối với cháu như ngõ cụt. Cháu may mắn được ban thiện nguyện giúp 6 tháng tiền trọ, nhưng sau 6 tháng cháu cũng không biết phải làm gì.

 

Still looking at the statue, smiling, motionless, he said:

– Actually, I already know how to start. A month ago, I knew starting with the awareness that I have to be a good person. It was that that sowed the good things today. If you continue the path of being a good person, good things will continue to come to you.

– But how do I continue? I will try to apply for a job, but I have no experience. Who will hire someone who has been in prison like me?

Vẫn nhìn bức tượng mỉm cười, dáng an nhiên bất động, ông lên tiếng:

– Thật ra cháu đã biết bắt đầu rồi đấy chứ. Cách đây 1 tháng, cháu biết bắt đầu bằng nhận thức rằng mình phải làm người tốt. Chính điều ấy đã gieo mầm cho những điều tốt đẹp hôm nay. Nếu cháu tiếp tục con đường làm người tốt thì điều tốt đẹp sẽ tiếp tục đến với cháu.

-­ Nhưng cháu tiếp tục như thế nào hở ông? Cháu sẽ cố gắng xin việc làm, nhưng cháu không có kinh nghiệm gì. Ai sẽ mướn một người từng ở tù như cháu?

 

Gentle, Mr. Cool advised:

– Try to get a job every day. Everyone wants to hire good people. So, what should I do to give everyone the chance to know I’m a good person?

Thinking for a long time, John spoke, his voice still rattled and dry of the wanderer:

– Every day eating at a voluntary cafeteria, you will help with cleaning, washing dishes or anything to do.

Mr. Cool bright eyes expressed joy:

– Great! Do you see? You know how to start.

Nhẹ nhàng, ông Cool khuyên:

-­ Cháu hãy cố gắng kiếm việc làm hàng ngày. Ai cũng muốn thuê người tốt. Vậy cháu nên làm gì để mọi người có cơ hội biết cháu là người tốt?

Suy nghĩ một lúc lâu, John lên tiếng, giọng vẫn còn rổn rảng, khô cứng của giới giang hồ:

– Mỗi ngày ăn ở nhà ăn thiện nguyện, cháu sẽ giúp dọn dẹp, rửa chén hoặc bất cứ việc gì cần làm.

Ông Cool đôi mắt sáng biểu lộ niềm vui:

– Thật tuyệt vời! Cháu thấy không? Cháu biết mình phải bắt đầu như thế nào mà.

 

Pointing to the statue on the table, he continued:

– Being a good person includes making people around you feel good. Every day you tried to spend 10 minutes, sitting alone, breathing softly, practicing laughing like the other statue laughed. Meet everyone, you will smile gently as a statue. Doing so, many miracles will come. You will find that your lovely, anxious life is greatly reduced. For the past several decades, he has been practicing this kind of laugh every day.

Chỉ vào bức tượng trên bàn, ông nói tiếp:

– Làm người tốt bao gồm làm người chung quanh cảm thấy an vui. Mỗi ngày cháu ráng bỏ ra 10 phút, ngồi một mình, thở nhẹ nhàng, tập cười như bức tượng kia cười. Gặp ai cháu cũng cười nhẹ nhàng như bức tượng nhé. Làm được như thế, nhiều điều mầu nhiệm sẽ đến. Cháu sẽ thấy đời sống đáng yêu, âu lo cũng bớt đi rất nhiều. Mấy mươi năm nay mỗi ngày ông đều ngồi tập cười như thế.

 

John admired:

– Oh, so that’s why he always smiles very freshly to everyone. Everyone was friendly and fond of him. How do you get a statue like that? Is the Buddha a statue? Buddha is a saint like?

– I’ll give you a statue like that. Buddha is a person who can free himself by smiling in all circumstances. You can simply think: Buddha is always cool. I want to learn more later.

John trầm trồ:

– Ồ, thì ra vì thế mà ông lúc nào cũng cười rất tươi mát với mọi người. Ai cũng thân thiện quý mến ông. Làm thế nào cháu cũng có một tượng như thế? Tượng là Buddha (Phật) phải không ông? Phật là vị thánh như thế nào?

– Ông sẽ cho cháu một tượng như thế. Phật là người có thể tự tại mỉm cười trước mọi hoàn cảnh. Cháu có thể nghĩ đơn giản rằng: Phật là người lúc nào cũng cool. Sau này cháu muốn tìm hiểu thêm, ông sẽ nói thêm.

 

The first day John returned to dine at the cafeteria, everyone was happy to greet. When he offered to help with odd jobs here, the charity workers all agreed but were a little worried in his heart: did not know his previous temperament has made the hard work more difficult? But only after a few days, people whispered gossip “the boy who went back and forth in the past is so cute now”.

Ngày đầu tiên John trở lại dùng cơm tại nhà ăn, mọi người vui vẻ đón chào. Khi anh ngỏ lời muốn giúp những việc lặt vặt tại đây, các nhân viên từ thiện đều đồng ý nhưng có chút ưu tư trong lòng: không biết tính khí giang hồ trước đây của anh có làm công việc khó khăn nặng nề thêm? Thế nhưng chỉ sau vài ngày, mọi người thì thầm bàn tán “thằng John rổn rảng ngang ngược ngày trước sao giờ dễ thương quá đỗi!”.

 

John has nothing to do with anything, from cleaning to cooking. He remembers the words Mr. Cool taught, always smiling brightly. Meeting old people, he wholeheartedly brought food and drinks to the table and occasionally asked for more. Just one month, more than a hundred volunteers from the service organizations here love John. After two months, knowing John was trying to get a job every day, the owner of a luxury restaurant chain who occasionally came here to volunteer volunteered to hire him.

John không hề câu nệ bất cứ việc gì, từ lau chùi dọn dẹp cho đến nấu nướng. Anh tâm niệm lời ông Cool dạy, lúc nào cũng niềm nở cười tươi. Gặp những người già, anh tận tình đem đồ ăn thức uống đến tận bàn và thỉnh thoảng hỏi han cần thêm chi. Chỉ một tháng, hơn trăm nhân viên tình nguyện của các tổ chức phục vụ tại đây đều quý mến John. Sau hai tháng, biết John hằng ngày nỗ lực xin việc làm, ông chủ chuỗi nhà hàng sang trọng thỉnh thoảng đến đây làm thiện nguyện đã ngỏ lời mướn anh.

 

He said to John:

– He worked without pay but still playful wholeheartedly like that, I know that when he got paid, he would do better than that.

John could not believe his ears, rejoicing when he was hired for the first time in his life.

He rushed to Mr. Cool’s house to announce the news. Meeting him, he spread his arms skyward happily shouting:

– Grandpa! Miraculously, I have a job already! I did not expect what he taught so simple to come true. First salary, I will treat your party.

Ông ta nói với John:

-­ Anh làm việc không lương mà vẫn vui tươi tận tình như thế thì tôi biết khi có lương anh sẽ làm tốt hơn thế nữa.

John như không tin vào tai mình, vui mừng cực độ khi lần đầu tiên trong đời được mướn đi làm.

Anh đến vội nhà ông Cool báo tin. Gặp ông, anh dang hai tay lên trời sung sướng hét to:

-­ Ông ơi! Thật nhiệm mầu, cháu có được việc làm rồi! Cháu thật không ngờ những điều ông dạy đơn giản như thế lại thành sự thật. Lãnh lương đầu tiên, cháu sẽ đãi tiệc ông.

 

Mr. Cool rejoiced, calm voice calmly:

– He was happy for me, but remember, every day I continue to try to spend a few minutes practicing breathing and laughing. If I neglect one day it will slowly become two days and then I will lose myself. The miracle will also disappear. Practicing in each day reminds us to live in consciousness, reminds us to live in mindfulness.

Ông Cool hân hoan, giọng điềm đạm từ tốn:

– Ông thật vui cho cháu, nhưng phải nhớ nhé, mỗi ngày cháu tiếp tục cố gắng bỏ ra ít phút tập thở và cười. Nếu mình bỏ lơ đi một ngày thì sẽ từ từ thành hai ngày và rồi đánh mất chính mình tự lúc nào. Điều mầu nhiệm cũng sẽ biến mất. Thực hành trong mỗi ngày nhắc nhở ta sống trong ý thức, nhắc nhở ta sống trong chánh niệm.

   A meal time at a charity house (artwork) – Photo: HL

John asked:

– Every Sunday afternoon, would you let me come to my house to sit with you, to teach me more?

Mr. Cool looked at John fondly, patting his shoulder.

– Yes, I’m glad you came!

John hỏi:

– Chiều Chủ nhật hàng tuần, ông cho cháu đến nhà ngồi chung với ông nhé, để dạy cháu thêm?

Ông Cool nhìn John trìu mến, vỗ nhẹ vào vai anh:

-­ Được chứ, ông rất vui khi cháu đến!

 

Since John’s life has been smooth sailing, he is sponsored by private school, promoted to the position over the years, from the waiter, the chorus, and the assistant. Ten years later he was transferred to another state as a restaurant manager. Despite being far from Mr. Cool, he still communicates every week and daily practices his teachings.

Cuộc sống John kể từ đó thuận buồm xuôi gió, anh được tài trợ đi học thêm, thăng tiến chức vụ theo năm tháng, từ người hầu bàn, thành ca trưởng, trợ lý. Mười năm sau anh được thuyên chuyển qua tiểu bang khác làm quản lý nhà hàng. Tuy xa ông Cool nhưng anh vẫn liên lạc mỗi tuần và hàng ngày thực hành lời ông dạy.

 

One day, when he called as usual, he was surprised to hear the strange voice. Through a few words of courtesy visit, the voice of the stranger reported:

– I am the Zen master Sota from another state, a few days ago the hospital announced that he had passed away. He went away, his face still smiling peacefully. He left a will, including thanks to him for a little work.

Một hôm, khi gọi thăm như thường lệ, anh rất ngạc nhiên khi nghe giọng nói đầu dây khác lạ. Qua vài câu xã giao thăm hỏi, giọng người lạ báo tin:

-­ Tôi là cháu Thiền sư Sota từ tiểu bang khác về, cách đây vài hôm bệnh viện báo tin ông đã qua đời anh ạ. Ông ra đi khuôn mặt vẫn cười rất an lạc. Ông có để lại di chúc, trong đó có nhờ anh tí việc.

 

One spring day, a man named John in his 30s, as instructed in the will of an old man teaching meditation in the Northwestern United States, drove more than 2,000 kilometers south to Zion National Park, Utah, USA. Long distance like that endless, driving alone, John released his feelings of nostalgia for the boundless old man …

Một ngày mùa xuân, người đàn ông tên John tuổi ngoài 30, theo lời dặn trong di chúc để lại của ông lão dạy thiền nơi miền Tây­ bắc Hoa Kỳ, lái xe hơn 2 ngàn cây số xuôi Nam tìm đến Vườn quốc gia Zion, bang Utah, Hoa Kỳ. Đoạn đường dài như bất tận ấy, một mình lái xe, John thả hồn trong cảm xúc nhớ thương ông lão vô biên… 

 

After spending a night resting at the inn in the National Park, he asked the manager in the early morning to help determine the location of the peak of more than a dozen peaks, and John followed the walking path to the top of the mountain. The rough road, when walking, climbing over rocks, it took 4 hours for John to arrive. He struggled along the top for a long time and then exclaimed happily:

Sau một đêm nghỉ ngơi tại nhà trọ trong Vườn quốc gia, sáng sớm anh hỏi người quản lý giúp nhận định địa điểm tên một đỉnh núi trong hơn mấy chục đỉnh tại đây, John lần theo đường mòn đi bộ lên đỉnh núi cao. Con đường trắc trở, khi đi, khi trèo qua những khối đá, phải mất 4 giờ John mới tới nơi. Anh loay hoay ngang dọc trên đỉnh một lúc lâu rồi thốt lên mừng rỡ:

 

– Oh, there it is! So beautiful!

A lush conifer grows right on the east bank of the summit where a body slithers out to the depths of a thousand meters. The wind here is quite strong, whiz, making John feel like he can knock him down the cliff at any time.

John opened his backpack and took the ashes box, he knelt down, meticulously carefully, pouring every drop of ashes through the rocks where the roots of the pine tree grew. Afterward, he sat across from the pine tree, nervously opening the letter left by Mr. Cool, not knowing what he wrote in it, but had to come here to read it.

-­ Ô, đây rồi! Ôi, đẹp quá!

Một cây tùng xanh tươi mọc ngay trên bờ đông của đỉnh mà một phần thân trườn ra bên ngoài vực sâu thăm thẳm cả ngàn mét. Gió ở đây khá mạnh, rít từng cơn làm John cảm tưởng có thể hất văng anh xuống vực bất cứ lúc nào.

John mở ba-­lô lấy hộp đựng tro, anh quỳ xuống, cẩn thận tỉ mỉ, rót từng giọt tro qua những khe đá nơi rễ cây tùng mọc. Xong việc anh ngồi đối diện cây tùng, hồi hộp mở lá thơ ông Cool để lại, không biết ông viết gì trong ấy mà phải đến đây mới được đọc.

 

John’s voice every time he choked:

“When I was young, so many mistakes, I wandered here. In despair and despair, we intend to jump down a cliff to end our life. But mi – conifer suddenly appeared firmly on the wall. There are only rocks and wind here, your body can fall into the abyss at any time, but you still live well in this harsh mountain, still green, still fresh and shady to cover the hard rock side edge. Thank you for saving my life, help me to learn the miracle. Please send the ashes to you.”

John giọng mỗi lúc mỗi nghẹn ngào:

“Thời trai trẻ biết bao lầm lỗi, ta lang thang đến đây. Trong tuyệt vọng chán chường ta có ý định nhảy xuống vách núi kết liễu cuộc đời. Nhưng mi ­- cây tùng ­ bỗng nhiên hiện diện vững vàng ngay trên vách. Ở đây chỉ có đá và gió, thân mi thì có thể rơi xuống vực sâu bất cứ lúc nào, nhưng mi vẫn sống khỏe trên vùng núi khắc nghiệt này, vẫn xanh, vẫn tươi mát chở che soi bóng cho hòn đá thô cứng bên cạnh. Cám ơn mi cứu mạng, giúp ta bài học nhiệm mầu. Xin gởi đám tro tàn góp phần cho mi”.

 

John’s tears flowed, feeling every emotion in his body. John found himself very blessed to be directed by Mr. Cool in the flesh, every step of the way. And Mr. Cool started with only pine trees. He found himself tasked with being a successor to other stones.

Nước mắt John tuôn chảy, xúc cảm từng cơn chấn động châu thân. John thấy mình hết sức phước đức được ông Cool bằng xương bằng thịt chỉ dẫn từng bước trong cuộc sống. Còn ông Cool khởi đầu chỉ có cây tùng. Anh thấy mình có nhiệm vụ làm cây tùng tiếp nối cho những hòn đá khác.

 

Choking, majestic, he recited Mr. Cool’s poem loudly to make the pinecone on the top of the mountain, in the windy space:

Nghẹn ngào, hùng tráng, anh ngâm to bài thơ ông Cool làm cho cây tùng trên đỉnh núi cao, giữa không gian lộng gió:

 

High mountains

Abyss deep

Crazy wind!

Thunder roared!

Clown stand! Smiling along the years

Reflecting life covered by stone.

Núi sừng sững cao

Vực thăm thẳm sâu

Gió cuồng điên bạt!

Sấm gầm động vang!

Hề ta đứng! Mỉm cười cùng năm tháng

Soi bóng đời che chở đá cô liêu.

 

Source:

Tài liệu tham khảo:

  1. https://translate.googleusercontent.com/translate_c?depth=1&hl=en&prev=search&rurl=translate.google.com&sl=vi&sp=nmt4&u=https://thuvienhoasen.org/a23085/hon-da-ben-cay-tung&usg=ALkJrhjtX4zn0Fh4L3PvYRWEdjcV5nW8ug
  2. https://thuvienhoasen.org/a23085/hon-da-ben-cay-tung
  3. Photo 1: https://thuvienhoasen.org/a23085/hon-da-ben-cay-tung
  4. Photo 2: https://thuvienhoasen.org/a23085/hon-da-ben-cay-tung
  5. Photo 3: https://en.wikipedia.org/wiki/Zion_National_Park