Chương 6 – Book III – Quyển III – Phẩm Trí Nhớ – The Removal of Difficulties – Song ngữ

English: T. W. Rhys Davids – From Pali Language.

Việt ngữ: Tỳ khưu Indacanda (Trương Đình Dũng).

Compile: Middle Way Group.

Reverence be to the Blessed One, The Arahat, and the Sammâ-SamBudda.

Kính lễ đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, và đấng Chánh Biến Tri.

 

Book III – Quyển III

Chương 6 – Chapter 6 – Phẩm Trí Nhớ – 11 câu hỏi.

 

  1. Q & A.

The king said:

‘Is the body, Nâgasena, dear to you recluses?’

Đức vua đã nói rằng:

“Thưa ngài Nāgasena, có phải thân thể đối với các bậc xuất gia là đáng yêu?”

 

‘No, they love not the body.’

‘Then why do you nourish it and lavish attention upon it?’

“Tâu đại vương, thân thể đối với các bậc xuất gia là không đáng yêu.”

“Thưa ngài, vậy tại sao ngài lại nâng niu, quyến luyến?”

 

‘In all the times and places, O king, that you have gone down to battle, did you never get wounded by an arrow?’

‘Yes, that has happened to me.’

“Tâu đại vương, khi đại vương tham gia chiến trận, có phải đôi khi vào lúc nào đó đại vương có bị tên bắn?”

“Thưa ngài, đúng vậy.”

 

 

‘In such cases, O king, [74] is not the wound anointed with salve, and smeared with oil, and bound up in a bandage.’

‘Yes, such things are done to it.’

“Tâu đại vương, vậy có phải vết thương ấy được bôi cao, được thoa dầu, và được băng bó bằng miếng vải mềm?”

“Thưa ngài, đúng vậy. Nó được bôi cao, được thoa dầu, và được băng bó bằng miếng vải mềm.”

 

‘What then? Is the wound dear to you that you treat it so tenderly, and lavish such attention upon it?’

‘No, it is not dear to me in spite of all that, which is only done that the flesh may grow again.’

“Tâu đại vương, phải chăng vết thương là đáng yêu đối với đại vương nên được bôi cao, được thoa dầu, và được băng bó bằng miếng vải mềm?”

“Thưa ngài, vết thương quả là không đáng yêu đối với trẫm. Tuy nhiên, nhằm mục đích làm lành da thịt nên nó được bôi cao, được thoa dầu, và được băng bó bằng miếng vải mềm.”

 

‘Just so, great king, with the recluses and the body. Without cleaving to it do they bear about the body for the sake of righteousness of life. The body, O king, has been declared by the Blessed One to be like a wound. And therefore merely as a sore, and without cleaving to it, do the recluses bear about the, body. For it has been said by the Blessed One:

“Tâu đại vương, tương tợ y như thế thân thể đối với các bậc xuất gia là không đáng yêu, và các bậc xuất gia chăm nom thân thể mà không bị bám víu nhằm nâng đỡ việc thực hành Phạm hạnh. Tâu đại vương, thân thể ví như vết thương đã được đức Thế Tôn đề cập đến. Vì thế, các bậc xuất gia chăm nom thân thể như là (chăm sóc) vết thương mà không bị bám víu. Tâu đại vương, điều này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến:

 

“Covered with clammy skin, an impure thing and foul,

Nine-apertured, it oozes, like a sore 1.”‘

‘Well answered, Nâgasena!’

‘Được bao bọc bởi lớp da ẩm ướt, vết thương lớn có chín cửa (cửu khiếu) rỉ ra xung quanh những mùi hôi thối, không trong sạch.’”

“Thưa ngài Nāgasena, ngài thật khôn khéo.”

 

  1. 116

 

  1. Q & A.

The king said:

‘Did the Buddha, Nâgasena, the omniscient one, foresee all things?’

Đức vua đã nói rằng:

“Thưa ngài Nāgasena, có phải đức Phật là vị biết tất cả, thấy tất cả?”

 

‘Yes. The Blessed One was not only omniscient. He foresaw all things.’

‘Then why was it that he was in the habit only from time to time, and as occasion arose, of laying down rules for the members of the Order 1?’

“Tâu đại vương, đúng vậy. Đức Thế Tôn là vị biết tất cả, thấy tất cả.”

“Thưa ngài Nāgasena, vậy thì tại sao đức Thế Tôn đã quy định điều học cho các đệ tử theo từng điều một?”

 

‘Is there any physician, O king, who knows all the medicinal drugs to be found on the earth?’

‘Yes, there may be such a man.’

“Tâu đại vương, có người thầy thuốc nào của ngài biết được toàn bộ dược phẩm ở trái đất này không?”

“Thưa ngài, đúng vậy. Có.”

 

‘Well, O king, does he give his decoctions to the patient to drink at a time when illness has already set in, or before that?’

‘When the malady has arisen.’

“Tâu đại vương, phải chăng người thầy thuốc ấy cho người bệnh uống thuốc khi thời điểm đã đến, hay là khi thời điểm chưa đến?”

“Thưa ngài, vị ấy cho người bệnh uống thuốc khi thời điểm đã đến, không phải khi thời điểm chưa đến.”

 

‘Just so, great king, the Blessed One, though he was omniscient and foresaw all things, laid down no rule at an unseasonable time, but only when need arose did he establish a regulation which his disciples were not to transgress as long as they lived.’

‘Well answered, Nâgasena!’

“Tâu đại vương, tương tợ y như thế đức Thế Tôn là vị biết tất cả, thấy tất cả; ngài không quy định điều học cho các đệ tử khi không phải là thời điểm. Khi thời điểm đã đến, ngài mới quy định điều học cho các đệ tử, cho đến trọn đời không nên vượt qua.”

“Thưa ngài Nāgasena, ngài thật khôn khéo.”

 

  1. Q & A.

[75] The king said:

‘Is it true, Nâgasena, that the Buddha was endowed with the thirty-two bodily marks of a great man, and graced with the eighty subsidiary characteristics; that he was golden in colour with a skin like gold, and that there spread around him a glorious halo of a fathom’s length?’

Đức vua đã nói rằng:

“Thưa ngài Nāgasena, có phải đức Phật hội đủ ba mươi hai tướng của bậc đại nhân và được phân biệt với tám mươi tướng phụ, có sắc vàng, có làn da như là vàng, có hào quang một sải tay?”

 

‘Such, O king, was the Blessed One.’

‘But were his parents like that?’

‘No, they were not.’

“Tâu đại vương, đúng vậy. Đức Thế Tôn hội đủ ba mươi hai tướng của bậc đại nhân và được phân biệt với tám mươi tướng phụ, có sắc vàng, có làn da như là vàng, có hào quang một sải tay.”

“Thưa ngài, có phải cha mẹ của đức Phật cũng hội đủ ba mươi hai tướng của bậc đại nhân và được phân biệt với tám mươi tướng phụ, có sắc vàng, có làn da như là vàng, có hào quang một sải tay?”

“Tâu đại vương, không phải.”

 

‘In that case you must say that he was born so. But surely a son is either like his mother, or those on

 

  1. 117

 

the mother’s side, or he is like his father, or those on the father’s side!’

“Thưa ngài Nāgasena, trong khi là như vậy thì không thể nào đức Phật sanh lên được hội đủ ba mươi hai tướng của bậc đại nhân và được phân biệt với tám mươi tướng phụ, có sắc vàng, có làn da như là vàng, có hào quang một sải tay. Hơn nữa, con trai là giống mẹ hay bà con bên mẹ, hoặc con trai là giống cha hay bà con bên cha.”

 

The Elder replied: ‘Is there such a thing, O king, as a lotus flower with a hundred petals?’

‘Yes, there is.’

‘Where does it grow up?’

‘It is produced in mud, and in water it comes to perfection 1.’

Vị trưởng lão đã nói rằng: “Tâu đại vương, có loại hoa sen nào có trăm cánh không?”

“Thưa ngài, đúng vậy. Có.”

“Vậy xuất xứ của nó là từ đâu?”

“Nó sanh ra ở trong bùn, sống ở trong nước.”

 

‘But does the lotus resemble the mud of the lake, whence it springs up, either in colour, or in smell, or in taste?’

‘Certainly not.’

“Tâu đại vương, phải chăng hoa sen có sắc, hoặc có mùi, hoặc có vị tương tợ như bùn?”

“Thưa ngài, không đúng.”

 

‘Then does it resemble the water?’

‘Nor that either.’

“Vậy thì phải chăng hoa sen có sắc, hoặc có mùi, hoặc có vị tương tợ như nước?”

“Thưa ngài, không đúng.”

 

‘Just so, great king, is it that the Blessed One had the bodily signs and marks you have mentioned, though his parents had them not.’

‘Well answered, Nâgasena!’

“Tâu đại vương, tương tợ y như thế đức Thế Tôn hội đủ ba mươi hai tướng của bậc đại nhân và được phân biệt với tám mươi tướng phụ, có sắc vàng, có làn da như là vàng, có hào quang một sải tay.”

“Thưa ngài Nāgasena, ngài thật khôn khéo.”

 

  1. Q & A.

The king said:

‘Was the Buddha, Nâgasena, pure in conduct (was he a Brahma-kârin)?’

Đức vua đã nói rằng:

“Thưa ngài Nāgasena, có phải đức Phật là người hành Phạm hạnh?”

 

‘Yes, the Blessed One was pure.’

‘Then, Nâgasena, it follows that he was a follower of Brahmâ 2.’

“Tâu đại vương, đúng vậy. Đức Thế Tôn là người hành Phạm hạnh.”

“Thưa ngài Nāgasena, chính vì điều ấy có phải đức Phật là học trò của Phạm Thiên?”

 

  1. 118

 

‘Have you a state elephant, O king?’

‘Certainly.’ [76]

“Tâu đại vương, đại vương có con voi đầu đàn không?”

“Thưa ngài, đúng vậy. Có.”

 

‘Well now, does that elephant ever trumpet (literally “cry the heron’s cry 1”)?’

‘Oh, yes.’

“Tâu đại vương, phải chăng con voi ấy đôi khi vào lúc nào đó rống tiếng rống như là của loài cò?”

“Thưa ngài, đúng vậy. Nó có rống.”

 

‘But is he, then, on that account a follower of the herons?’

‘Of course not.’

“Tâu đại vương, chính vì điều ấy có phải con voi ấy là học trò của những con cò?”

“Thưa ngài, không đúng.”

 

‘Now tell me, great king, has Brahma wisdom (Buddhi), or has he not?’

‘He is a being with wisdom.’

“Tâu đại vương, có phải Phạm Thiên có tánh giác?”

“Thưa ngài, có tánh giác.”

 

‘Then (on your argument) he is surely a follower of Buddha 2.’

‘Well answered, Nâgasena!’

“Tâu đại vương, chính vì điều ấy Phạm Thiên là học trò của đức Thế Tôn.”

“Thưa ngài Nāgasena, ngài thật khôn khéo.”

  1. Q & A.

The king said:

‘Is ordination 3 a good thing?’

Đức vua đã nói rằng:

“Thưa ngài Nāgasena, có phải việc tu lên bậc trên là tốt?”

 

‘Yes, a good thing and a beautiful.’

‘But did the Buddha obtain it, or not?’

“Tâu đại vương, đúng vậy. Việc tu lên bậc trên là tốt.”

“Thưa ngài, vậy đối với đức Phật có việc tu lên bậc trên, hay là không có?”

 

‘Great king, when the Blessed One attained omniscience at the foot of the tree of Knowledge that was to him an ordination. There was no conferring of ordination upon him at the hands of others–in the way that the Blessed One laid down regulations for his disciples, never to be transgressed by them their lives long 4!’

‘Very true, Nâgasena!’

“Tâu đại vương, đức Thế Tôn đã tu lên bậc trên ở cội cây Bồ Đề với trí biết tất cả. Đối với đức Thế Tôn không có việc tu lên bậc trên được ban cho bởi những người khác. Tâu đại vương, giống như việc đức Thế Tôn quy định điều học cho các đệ tử, cho đến trọn đời không nên vượt qua.”

“Thưa ngài Nāgasena, ngài thật khôn khéo.”

 

  1. 119

 

  1. Q & A.

The king said:

‘To which of these two, Nâgasena,–the man who weeps at the death of his mother, and the man who weeps out of love for the Truth (Dhamma),–are his tears a cure?’

Đức vua đã nói rằng:

“Thưa ngài Nāgasena, người khóc vì việc qua đời của mẹ và người khóc vì sự yêu mến Pháp, trong hai người đang khóc ấy nước mắt của ai là liều thuốc, nước mắt của ai không phải là liều thuốc?”

 

‘The tears of the one, O king, are stained and hot with the three fires of passion. The tears of the other are stainless and cool. Now there is cure in coolness and calm, but in heat and passion there can be no cure 1.’

‘Very good, Nâgasena!’

“Tâu đại vương, nước mắt của một người là nóng nảy, do tham sân si, có vấy bụi, của một người là mát mẻ, do hỷ và thiện tâm, không có vấy bụi. Tâu đại vương, cái nào mát mẻ cái ấy là liều thuốc, cái nào nóng này cái ấy không phải là liều thuốc.”

“Thưa ngài Nāgasena, ngài thật khôn khéo.”

 

  1. Q & A.

The king said:

‘What is the distinction, Nâgasena, between him who is full of passion, and him who is void of passion?’

Đức vua đã nói rằng:

“Thưa ngài Nāgasena, cái gì là sự khác biệt ở người có tham ái và ở người đã lìa tham ái?”

 

‘The one is overpowered by craving, O king, and the other not.’

‘But what does that mean?’

“Tâu đại vương, một người là bị dính mắc, một người không bị dính mắc.”

“Thưa ngài, điều gì gọi là dính mắc, và không dính mắc?”

 

‘The one is in want, O king, and the other not.’

“Tâu đại vương, một người có mong cầu, một người không có mong cầu.”

 

‘I look at it, Sir, in this way. He who has passion and he who has not–both of them alike–desire what is good to eat, either hard or soft. And neither of them desires what is wrong.’

“Thưa ngài, trẫm thấy như vầy: Người có tham ái và người đã lìa tham ái, cả hai hạng này đều ưa thích vật thực loại cứng loại mềm tốt đẹp và không ưa thích bất cứ loại nào xấu.”

 

‘The lustful man, O king, in eating his food enjoys both the taste and the lust that arises from taste, [77] but the man free from lusts experiences the taste only, and not the lust arising therefrom.’

‘Well answered, Nâgasena!’

“Tâu đại vương, người chưa lìa tham ái thọ dụng vật thực có sự nhận biết về mùi vị, có sự nhận biết về tham ái ở mùi vị, còn người đã lìa tham ái thọ dụng vật thực có sự nhận biết về mùi vị nhưng sự nhận biết về tham ái ở mùi vị là không có.”

“Thưa ngài Nāgasena, ngài thật khôn khéo.”

 

  1. 120

 

  1. Q & A.

The king said:

‘Venerable Nâgasena, where does wisdom dwell?’

Đức vua đã nói rằng:

“Thưa ngài Nāgasena, tuệ trú ở nơi nào?”

 

‘Nowhere, O king.’

‘Then, Sir, there is no such thing as wisdom.’

“Tâu đại vương, không ở nơi nào cả.”

“Thưa ngài Nāgasena, như vậy thì không có tuệ.”

 

‘Where does the wind dwell, O king?’

‘Not anywhere, Sir.’

‘So there is no such thing as wind.’

‘Well answered, Nâgasena!’

“Tâu đại vương, gió trú ở nơi nào?”

“Thưa ngài, không ở nơi nào cả.”

“Tâu đại vương, như vậy thì không có gió.”

“Thưa ngài Nāgasena, ngài thật khôn khéo.”

 

  1. Q & A.

The king said:

‘When you speak of transmigration 1, Nâgasena, what does that mean?’

Đức vua đã nói rằng:

“Thưa ngài Nāgasena, điều mà ngài đã nói là ‘luân hồi,’ luân hồi ấy là gì?”

 

‘A being born here, O king, dies here. Having died here, it springs up elsewhere. Having been born there, there it dies. Having died there, it springs up elsewhere. That is what is meant by transmigration.’

‘Give me an illustration.’

“Tâu đại vương, người sanh ra ở nơi đây, chết ngay tại nơi đây; chết tại nơi đây, sanh lên ở nơi khác; sanh ra ở nơi kia, chết ngay tại nơi kia; chết tại nơi kia, sanh lên ở nơi khác. Tâu đại vương, luân hồi là như vậy.”

“Xin ngài cho ví dụ.”

 

‘It is like the case of a man who, after eating a mango, should set the seed in the ground. From that a great tree would be produced and give fruit. And there would be no end to the succession, in that way, of mango trees.’

‘Very good, Nâgasena!’

“Tâu đại vương, giống như người nào đó sau khi ăn trái xoài chín rồi ươm trồng cái hột, từ đó cây xoài nảy mầm, lớn lên, rồi cho các trái. Rồi người ấy sau khi ăn trái xoài chín cũng từ đó rồi ươm trồng cái hột, cũng từ đó cây xoài nảy mầm, lớn lên, rồi cho các trái. Như vậy, điểm tận cùng của các cây này không được biết đến. Tâu đại vương, tương tợ y như thế người sanh ra ở nơi đây, chết ngay tại nơi đây; chết tại nơi đây, sanh lên ở nơi khác; sanh ra ở nơi kia, chết ngay tại nơi kia; chết tại nơi kia, sanh lên ở nơi khác. Tâu đại vương, luân hồi là như vậy.”

“Thưa ngài Nāgasena, ngài thật khôn khéo.”

 

  1. Q & A.

The king said:

‘By what, Nâgasena, does one recollect what is past and done long ago?’

Đức vua đã nói rằng:

“Thưa ngài Nāgasena, nhờ vào cái gì mà hồi tưởng lại việc đã làm từ lâu trong quá khứ?”

 

‘By memory.’

‘But is it not by the mind 2, not by the memory 2, that we recollect?’

“Tâu đại vương, nhờ vào trí nhớ.”

“Thưa ngài Nāgasena, thế chẳng phải hồi tưởng lại là bằng tâm, không phải bằng trí nhớ?”

 

‘Do you recollect any business, O king that you have done and then forgotten?’

‘Yes.’

“Tâu đại vương, đại vương có nhận biết được rằng sau khi làm một việc cần làm nào đó rồi quên lửng không?”

“Thưa ngài, đúng vậy.”

 

‘What then? Were you then without a mind?’

 

  1. 121

 

‘No. But my memory failed me.’

“Tâu đại vương, phải chăng vào thời điểm ấy ngài là không có tâm?”

“Thưa ngài, không đúng. Vào thời điểm ấy trẫm đã không có trí nhớ.”

 

‘Then why do you say that it is by the mind, not by the memory, that we recollect?’

‘Very good, Nâgasena 1’

“Tâu đại vương, vậy tại sao ngài đã nói như vầy: ‘hồi tưởng lại là bằng tâm, không phải bằng trí nhớ’?”

“Thưa ngài Nāgasena, ngài thật khôn khéo.”

 

  1. Q & A.

The king said:

‘Does memory, Nâgasena, always arise subjectively, [78] or is it stirred up by suggestion from outside 1?’

Đức vua đã nói rằng:

“Thưa ngài Nāgasena, toàn bộ trí nhớ được sanh lên là thuộc về chủ quan hay trí nhớ là thuộc về khách quan?”

 

‘Both the one and the other.’

‘But does not that amount to all memory being subjective in origin, and never artificial?’

“Tâu đại vương, trí nhớ được sanh lên vừa thuộc về chủ quan, trí nhớ vừa thuộc về khách quan.”

“Thưa ngài Nāgasena, chính vì như thế phải chăng toàn bộ trí nhớ là thuộc về chủ quan, không có trí nhớ thuộc về khách quan?”

 

‘If, O king, there were no artificial (imparted) memory, then artisans would have no need of practice, or art, or schooling, and teachers would be useless. But the contrary is the case.’

‘Very good, Nâgasena!’

“Tâu đại vương, nếu không có trí nhớ thuộc về khách quan thì những người thợ học nghề không có cái gì cần phải làm đối với các lãnh vực về nghề nghiệp, đối với các lãnh vực về học tập, hoặc đối với các tư liệu về kiến thức; không có nhu cầu về các thầy dạy học. Tâu đại vương, bởi vì có trí nhớ thuộc về khách quan mà có việc cần phải làm đối với các lãnh vực về nghề nghiệp, đối với các lãnh vực về học tập, hoặc đối với các tư liệu về kiến thức; và có nhu cầu về các thầy dạy học.”

“Thưa ngài Nāgasena, ngài thật khôn khéo.”

 

 

Here ends the Sixth Chapter.

Phẩm Trí Nhớ là thứ sáu.

(Trong phẩm này có mười một câu hỏi)

 

 

Footnotes

 

115:1 I have not been able to trace this couplet. On the sentiment compare the eloquent words of the young wife at vol. i, p. 200 of my ‘Buddhist Birth Stories,’ and Sutta Nipâta I, 11.

116:1 This is how Hînati-kumburê understands the passage.

117:1 Âsîyati. See Dr. Morris in the ‘Journal of the Pâli Text Society,’ 1884, p. 72.

117:2 There is an untranslatable play here upon the name of the god, which is used in its sense of ‘pure, best,’ in the expression ‘pure in conduct.’ The first question really amounts to: Was the Buddha’s conduct ‘Brahma,’ that is, ‘best,’ which has come to have the meaning ‘pure’ for the same reason that our expression ‘a moral man’ has often that particular connotation? It is quite true that the etymological meaning of the word is neither ‘best’ nor ‘pure’; but when our author wrote the secondary sense had completely, in Pâli, driven out the etymological sense.

118:1 This technical term for an elephant’s trumpeting is not infrequent. See, for instance, Gâtaka I, 50.

118:2 As a matter of fact Brahmâ, the nearest approach in the Indian thought of that time to our idea of God, is always represented, in Buddhism, as a good Buddhist, See, for instance, ‘Buddhist Suttas,’ p. 116, and my note at p. 117.

118:3 ‘Upasampadâ. Admission to the higher grade in the Order.

 

118:4 Mr. Trenckner again suspects something dropped out in this reply. But the connection of ideas seems to me quite sufficient. p. 119 The Simhalese follows the Pâli, but that of course only shows that the text before the translator was here the same as in Mr. Trenckner’s edition.

 

119:1 The point of this lies in the allusion to the coolness and calm of Nirvâna, or Arahatship, which is the dying out of the three fires of lust, ill-will, and delusion. The word used for coolness, Sîtala, is one of the many epithets of Arahatship.

 

120:1 Samsâra.

120:2 Kittena, no satiyâ.

 

121:1 I follow Hînati-kumburê’s interpretation of the difficult words in the text, which Mr. Trenckner says is corrupt. Katumika is ‘artificial,’ like the Sanskrit kritrima. It has only been found as yet in our author.

 

Sources:

Tài liệu tham khảo:

  1. http://budsas.net/uni/u-kinh-mitien/mitien-00.htm
  2. http://www.tamtangpaliviet.net/VHoc/45/Mil_03.htm
  3. http://www.sacred-texts.com/bud/sbe35/sbe3510.htm
  4. http://globalbuddhismcommunity.com/vi-vn/Dictionary/AVThienPhuc/dtsr.aspx