Chương 56: Kinh Ưu-ba-ly – MN 56: To Upali – Song ngữ

Majjhima Nikaya – Middle-length Discourses of the Buddha

Trung Bộ Kinh

Anh ngữ: Bhikkhu Ñāṇamoli      

Việt ngữ: Hòa thượng Thích Minh Châu

Compile: Lotus group

Part II – Majjhima Nikaya – Middle Length Discourses – Trung Bộ Kinh

Chương 56: Kinh Ưu-ba-ly – MN 56: To Upali – (Upàli sutta).

 

  1. Thus have I heard:

On one occasion the Blessed One was living at Nalanda in Pavarika’s Mango Grove.

Tôi nghe như vầy: 

Một thời Thế Tôn ở tại Nalanda, trong rừng Pavarikamba.

 

  1. Now on that occasion the Nigantha Nataputta was staying at Nalanda with a large assembly of Niganthas. Then, when the Nigantha [named] Digha Tapassi had wandered for alms in Nalanda and had returned from his almsround, after his meal he went to Pavarika’s Mango Grove to see the Blessed One. [372] He exchanged greetings with the Blessed One, and when this courteous and amiable talk was finished, he stood at one side. As he stood there, the Blessed One said to him:

–“There are seats, Tapassi, sit down if you like.”

Lúc bấy giờ, Nigantha Nataputta trú tại Nalanda cùng với đại chúng Nigantha (Ly Hệ Phái). Rồi Nigantha Dighatapassi (Trường Khổ Hạnh Giả), sau khi đi khất thực ở Nalanda, ăn xong, trên con đường khất thực trở về, đi đến rừng Pavarikamba, chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, nói lên những lời hỏi thăm Thế Tôn. Sau khi nói lên những lời hỏi thăm thân hữu, vị này đứng một bên. Thế Tôn nói với Nigantha Dighatapassi đang đứng một bên:

— Này Tapassi, có những ghế ngồi. Nếu ông muốn, hãy ngồi xuống. 

 

  1. When this was said, Digha Tapassi took a low seat and sat down at one side. Then the Blessed One asked him:

–“Tapassi, how many kinds of action does the Nigantha Nataputta describe for the performance of evil action, for the perpetration of evil action?”

–“Friend Gotama, the Nigantha Nataputta is not accustomed to use the description ‘action, action’; the Nigantha Nataputta is accustomed to use the description ‘rod, rod. ’”

–“Then, Tapassi, how many kinds of rod does the Nigantha Nataputta describe for the performance of evil action, for the perpetration of evil action?”

–“Friend Gotama, the Nigantha Nataputta describes three kinds of rod for the performance of evil action, for the perpetration of evil action; that is, the bodily rod, the verbal rod, and the mental rod.”

“How then, Tapassi, is the bodily rod one, the verbal rod another, and the mental rod still another?”

–“The bodily rod is one, friend Gotama, the verbal rod is another, and the mental rod is still another.”

–“Of these three kinds of rod, Tapassi, thus analysed and distinguished, which kind of rod does the Nigantha Nataputta describe as the most reprehensible for the performance of evil action, for the perpetration of evil action: the bodily rod or the verbal rod or the mental rod?”

–“Of these three kinds of rod, friend Gotama, thus analysed and distinguished, the Nigantha Nataputta describes the bodily rod as the most reprehensible for the performance of evil action, for the perpetration of evil action, and not so much the verbal rod and the mental rod.”

–“Do you say the bodily rod, Tapassi?”

–“I say the bodily rod, friend Gotama.”

–“Do you say the bodily rod, Tapassi?”

–“I say the bodily rod, friend Gotama.”

–“Do you say the bodily rod, Tapassi?”

–“I say the bodily rod, friend Gotama.”

Thus the Blessed One made the Nigantha Digha Tapassi maintain his statement up to the third time. [373]

Khi nghe nói vậy, Nigantha Dighatapassi lấy một ghế thấp, rồi ngồi xuống một bên. Và Thế Tôn nói với Nigantha Dighatapassi đang ngồi một bên: 

— Này Tapassi, Nigantha Nataputta chủ trương có bao nhiêu nghiệp để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp? 

— Hiền giả Gotama, Nigantha Nataputta không có thông lệ chủ trương ‘nghiệp, nghiệp’. Hiền giả Gotama, Nigantha Nataputta có thông lệ chủ trương ‘phạt, phạt’. 

— Này Tapassi, Nigantha Nataputta chủ trương có bao nhiêu loại phạt để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp? 

— Này Hiền giả Gotama, Nigantha Nataputta chủ trương có ba loại phạt để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp, tức là thân phạt, khẩu phạt, ý phạt. 

— Này Tapassi, nhưng có phải thân phạt khác, khẩu phạt khác, ý phạt khác? 

— Hiền giả Gotama, thân phạt khác, khẩu phạt khác, ý phạt khác. 

— Này Tapassi, ba loại phạt này, được chia chẻ như vậy, được phân biệt như vậy, Nigantha Nataputta chủ trương loại phạt nào tối trọng để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp, thân phạt chăng, khẩu phạt chăng, ý phạt chăng? 

— Hiền giả Gotama, ba loại phạt này được chia chẻ như vậy, được phân biệt như vậy, Nigantha Nataputta chủ trương thân phạt là tối trọng để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp, khẩu phạt không bằng được, ý phạt không bằng được. 

— Này Tapassi, có phải Ông nói thân phạt? 

— Hiền giả Gotama, tôi nói thân phạt. 

— Này Tapassi, có phải Ông nói thân phạt? 

— Hiền giả Gotama, tôi nói thân phạt. 

— Này Tapassi, có phải Ông nói thân phạt? 

— Hiền giả Gotama, tôi nói thân phạt. 

Như vậy Thế Tôn trong cuộc đàm thoại này đã làm Nigantha Dighatapassi xác nhận cho đến lần thứ ba quan điểm (của mình). 

 

  1. Then the Nigantha Digha Tapassi asked the Blessed One:

–“And you, friend Gotama, how many kinds of rod do you describe for the performance of evil action, for the perpetration of evil action?”

–“Tapassi, the Tathagata is not accustomed to use the description ‘rod, rod’; the Tathagata is accustomed to use the description ‘action, action.’“

–“But, friend Gotama, how many kinds of action do you describe for the performance of evil action, for the perpetration of evil action?”

–“Tapassi, I describe three kinds of action for the performance of evil action, for the perpetration of evil action: that is, bodily action, verbal action, and mental action.”

–“How then, friend Gotama, is bodily action one, verbal action another, and mental action still another?”

–“Bodily action is one, Tapassi, verbal action is another, and mental action is still another.”

–“Of these three kinds of action, friend Gotama, thus analysed and distinguished, which kind of action do you describe as the most reprehensible for the performance of evil action, for the perpetration of evil action: bodily action or verbal action or mental action?”

–“Of these three kinds of action, Tapassi, thus analysed and distinguished, I describe mental action as the most reprehensible for the performance of evil action, for the perpetration of evil action, and not so much bodily action and verbal action.”

–“Do you say mental action, friend Gotama?”

–“I say mental action, Tapassi.”

–“Do you say mental action, friend Gotama?”

–“I say mental action, Tapassi.”

–“Do you say mental action, friend Gotama?”

–“I say mental action, Tapassi.”

Thus the Nigantha Digha Tapassi made the Blessed One maintain his statement up to the third time, after which he rose from his seat and went to the Nigantha Nataputta.

Khi nghe nói vậy, Nigantha Dighatapassi nói với Thế Tôn: 

— Hiền giả Gotama, Hiền giả chủ trương có bao nhiêu loại phạt để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp? 

— Này Tapassi, Như Lai không có thông lệ chủ trương ‘phạt, phạt’. Này Tapassi, Như Lai có thông lệ chủ trương ‘nghiệp, nghiệp’. 

— Hiền giả Gotama, Hiền giả chủ trương có bao nhiêu loại nghiệp để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp? 

— Này Tapassi, Ta chủ trương ba loại nghiệp để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp, tức là thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp. 

— Hiền giả Gotama, nhưng có phải thân nghiệp khác, khẩu nghiệp khác, ý nghiệp khác? 

— Này Tapassi, thân nghiệp khác, khẩu nghiệp khác, ý nghiệp khác. 

— Hiền giả Gotama, ba loại nghiệp này, được chia chẻ như vậy, được phân biệt như vậy, Hiền giả chủ trương loại nghiệp nào tối trọng để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp? Thân nghiệp chăng, khẩu nghiệp chăng, ý nghiệp chăng? 

— Này Tapassi, ba loại nghiệp này, được chia chẻ như vậy, được phân biệt như vậy, Ta chủ trương ý nghiệp là tối trọng, để tác thành ác ý, để diễn tiến ác nghiệp, thân nghiệp không bằng được, khẩu nghiệp không bằng được. 

— Hiền giả Gotama, có phải Hiền giả nói ý nghiệp? 

— Này Tapassi, Ta nói ý nghiệp. 

— Hiền giả Gotama, có phải Hiền giả nói ý nghiệp? 

— Này Tapassi, Ta nói ý nghiệp. 

— Hiền giả Gotama, có phải Hiền giả nói ý nghiệp? 

— Này Tapassi, Ta nói ý nghiệp. 

Như vậy Nigantha Dighatapassi trong cuộc đàm thoại này, sau khi đã làm Thế Tôn xác nhận cho đến lần thứ ba quan điểm (của mình), liền từ chỗ ngồi đứng dậy và đi đến chỗ Nigantha Nataputta. 

 

  1. Now on that occasion the Nigantha Nataputta was seated together with a very large assembly of laymen from Balaka, most prominent among them being Upali. The Nigantha Nataputta saw the Nigantha Digha Tapassi coming in the distance and asked him:

–“Now where are you coming from in the middle of the day, Tapassi?”

–“I am coming from the presence of the recluse Gotama, venerable sir.”

–“Did you have some conversation with the recluse Gotama, Tapassi?” [374]

–“I had some conversation with the recluse Gotama, venerable sir.”

–“What was your conversation with him like, Tapassi?”

Then the Nigantha Digha Tapassi related to the Nigantha Nataputta his entire conversation with the Blessed One.

Lúc bấy giờ, Nigantha Nataputta đang ngồi với một đại chúng gia chủ rất đông, do Upali (Ưu-ba-ly) người thuộc làng Balaka cầm đầu. Nigantha Nataputta thấy Nigantha Dighatapassi từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với Nigantha Dighatapassi: 

— Này Tapassi, Ông từ đâu đi đến, trong ban ngày (nóng bức) như thế này? 

— Thưa Tôn giả, con từ Sa-môn Gotama đi đến đây. 

— Này Tapassi, Ông có đàm luận gì với Sa-môn Gotama không? 

— Thưa Tôn giả, con cùng với Sa-môn Gotama có cuộc đàm thoại. 

— Này Tapassi, cuộc đàm thoại của ông với Sa-môn Gotama như thế nào? 

Rồi Nigantha Dighatapassi kể lại cho Nigantha Nataputta nghe một cách đầy đủ cuộc đàm thoại với Sa-môn Gotama. Được nghe vậy, Nigantha Nataputta nói với Dighatapassi: 

 

  1. When this was said, the Nigantha Nataputta told him:

–“Good, good, Tapassi! The Nigantha Digha Tapassi has answered the recluse Gotama like a well-taught disciple who understands his teacher’s dispensation rightly. What does the trivial mental rod count for in comparison with the gross bodily rod? On the contrary, the bodily rod is the most reprehensible for the performance of evil action, for the perpetration of evil action, and not so much the verbal rod and the mental rod.”

Tốt lành thay, tốt lành thay, Tapassi! Sa-môn Gotama đã được Nigantha Dighatapassi trả lời, một đệ tử đa văn đã hiểu đúng đắn lời dạy bậc Đạo sư. Làm sao một ý phạt hèn kém có thể sáng chói, so sánh với thân phạt cường đại này được? Thân phạt thật là tối trọng để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp, khẩu nghiệp không bằng được, ý nghiệp không bằng được. 

 

  1. When this was said, the householder Upali said to the Nigantha Nataputta:

–“Good, good, venerable sir, [on the part of] Digha Tapassi! The venerable Tapassi has answered the recluse Gotama like a well-taught disciple who understands his teacher’s dispensation rightly. What does the trivial mental rod count for in comparison with the gross bodily rod? On the contrary, the bodily rod is the most reprehensible for the performance of evil action, for the perpetration of evil action, and not so much the verbal rod and the mental rod. Now, venerable sir, I shall go and refute the recluse Gotama’s doctrine on the basis of this statement. If the recluse Gotama maintains before me what the venerable Digha Tapassi made him maintain, then just as a strong man  might seize a long-haired ram by the hair and drag him to and drag him fro and drag him round about, so in debate I will drag the recluse Gotama to and drag him fro and drag him round about. Just as a strong brewer’s workman might throw a big brewer’s sieve into a deep water tank, and taking it by the corners, might drag it to and drag it fro and drag it round about, so in debate I will drag the recluse Gotama to and drag him fro and drag him round about.

Khi được nói vậy, gia chủ Upali thưa với Nigantha Nataputta: 

— Tốt lành thay, tốt lành thay, Tôn giả Tapassi! Sa-môn Gotama đã được Tôn giả Tapassi trả lời như vậy, một đệ tử đa văn đã hiểu đúng đắn lời dạy bậc Đạo sư. Làm sao một ý phạt hèn kém có thể sáng chói, so sánh với thân phạt cường đại này được? Thân phạt thật tối trọng để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp, khẩu phạt không bằng được, ý phạt không bằng được. Thưa Tôn giả, con sẽ đi và luận chiến với Sa-môn Gotama trong cuộc đàm thoại này. Nếu Sa-môn Gotama làm con xác nhận như đã làm Tôn giả Tapassi xác nhận thời cũng như một người lực sĩ tay nắm chặt lông một con cừu có lông dài, có thể kéo tới, dặc lui, vần quanh; cũng vậy con sẽ dùng lời nói với lời nói, kéo tới, dặc lui, vần quanh Sa-môn Gotama.

 

Just as a strong brewer’s mixer might take a strainer by the corners and shake it down and shake it up and thump it about, so in debate I will shake the recluse Gotama down [375] and shake him up and thump him about. And just as a sixty-year-old elephant might plunge into a deep pond and enjoy playing the game of hemp-washing, so I shall enjoy playing the game of hemp-washing with the recluse Gotama. Venerable sir, I shall go and refute the recluse Gotama’s doctrine on the basis of this statement.”

–“Go, householder, and refute the recluse Gotama’s doctrine on the basis of this statement. For either I should refute the recluse Gotama’s doctrine or else the Nigantha Digha Tapassi or you yourself.”

Cũng như một người lực sĩ nấu rượu, sau khi nhận chìm một thùng rượu lớn xuống hồ nước sâu, nắm một góc thùng, có thể kéo tới, dặc lui, vần quanh; cũng vậy, con dùng lời nói với lời nói, kéo tới, dặc lui, vần quanh Sa-môn Gotama. Cũng như một lực sĩ nghiện rượu sống phóng đãng, sau khi nắm góc một cái sàng, lắc qua, lắc lại, lắc xoay quanh; cũng vậy, con sẽ dùng lời nói với lời nói, lắc qua, lắc lại, lắc xoay quanh Sa-môn Gotama. Và cũng như một con voi lớn sáu mươi tuổi, sau khi lặn xuống một hồ nước sâu, lại chơi trò phun nước; cũng vậy, con nghĩ, con sẽ chơi trò chơi phun nước với Sa-môn Gotama. Thưa Tôn giả, con sẽ đi và luận chiến với Sa-môn Gotama trong cuộc đàm thoại này. 

— Này Gia chủ, hãy đi và luận chiến với Sa-môn Gotama trong cuộc đàm thoại này. Vì rằng, này Gia chủ, chỉ có ta hay Nigantha Dighatapassi, hay Ông mới có thể luận chiến với Sa-môn Gotama. 

 

  1. When this was said, the Nigantha Digha Tapassi said to the Nigantha Nataputta:

–“Venerable sir, I do not think that the householder Upali should [try to] refute the recluse Gotama’s doctrine. For the recluse Gotama is a magician and knows a converting magic by which he converts disciples of other sectarians.”

–“It is impossible, Tapassi, it cannot happen that the householder Upali should go over to discipleship under the recluse Gotama; but it is possible, it can happen that the recluse Gotama might come over to discipleship under the householder Upali. Go, householder, and refute the recluse Gotama’s doctrine. For either I should refute the recluse Gotama’s doctrine or else the Nigantha Digha Tapassi or you yourself.”

Khi được nói vậy, Nigantha Dighatapassi nói với Nigantha Nataputta: 

— Thưa Tôn giả, con không được hài lòng để Gia chủ Upali luận chiến với Sa-môn Gotama. Thưa Tôn giả, Sa-môn Gotama là một huyễn sư, Sa-môn Gotama biết được huyễn thuật lôi cuốn những đệ tử ngoại đạo. 

— Này Tapassi, không thể có sự kiện, không thể có trường hợp Gia chủ Upali trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama; có thể có sự kiện Sa-môn Gotama trở thành đệ tử của gia chủ Upali. Này Gia chủ, hãy đi luận chiến với Sa-môn Gotama trong cuộc đàm thoại này chỉ có ta, Nigantha Dighatapassi, hay Ông mới có thể luận chiến với Sa-môn Gotama. 

 

For the second time … For the third time, the Nigantha Digha Tapassi said to the Nigantha Nataputta:

–“Venerable sir, I do not think that the householder Upali should [try to] refute the recluse Gotama’s doctrine. For the recluse Gotama is a magician and knows a converting magic by which he converts disciples of other sectarians.”

–“It is impossible, Tapassi, it cannot happen that the householder Upali should go over to discipleship under the recluse Gotama; but it is possible, it can happen that the recluse Gotama might come over to discipleship under the householder Upali. Go, householder, and refute the recluse Gotama’s doctrine. For either I should refute the recluse Gotama’s doctrine or else the Nigantha Digha Tapassi or you yourself.”

Lần thứ hai… (như trên)… Lần thứ ba… Nigantha Dighatapassi nói với Nigantha Nataputta: 

— Thưa Tôn giả, con không được hài lòng để gia chủ Upali luận chiến với Sa-môn Gotama. Thưa Tôn giả, Sa-môn Gotama là một huyễn sư, Sa-môn Gotama biết được huyễn thuật lôi cuốn những đệ tử ngoại đạo. 

— Này Tapassi, không thể có sự kiện, không thể có trường hợp gia chủ Upali trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama! Có thể có sự kiện Sa-môn Gotama trở thành đệ tử của gia chủ Upali. Này Gia chủ, hãy đi luận chiến với Sa-môn Gotama trong cuộc đàm thoại này; chỉ có ta, Nigantha Dighatapassi và Ông mới có thể luận chiến với Sa-môn Gotama! 

 

  1. “Yes, venerable sir,” the householder Upali replied, and he rose from his seat, and after paying homage to the Nigantha Nataputta, keeping him on his right, he left to go to the Blessed One in Pavarika’s Mango Grove. [376] There, after paying homage to the Blessed One, he sat down at one side and asked the Blessed One:

–“Venerable sir, did the Nigantha Digha Tapassi come here?”

–“The Nigantha Digha Tapassi came here, householder.”

–“Venerable sir, did you have some conversation with him?”

–“I had some conversation with him, householder.”

–“What was your conversation with him like, venerable sir?”

Then the Blessed One related to the householder Upali his entire conversation with the Nigantha Digha Tapassi.

— Thưa vâng, Tôn giả. 

Gia chủ Upali vâng đáp Nigantha Nataputta, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Nigantha Nataputta, thân hữu hướng về Nigantha Nataputta, và đi đến rừng xoài Pavarika, chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, gia chủ Upali bạch Thế Tôn: 

— Bạch Thế Tôn, không biết Nigantha Dighatapassi có đến tại đây không? 

— Này gia chủ, Nigantha Dighatapassi có đến tại đây. 

— Bạch Thế Tôn, Thế Tôn có đàm thoại với Nigantha Dighatapassi không? 

— Này Gia chủ, Ta có đàm thoại với Nigantha Dighatapassi. 

— Bạch Thế Tôn, cuộc đàm thoại của Thế Tôn với Nigantha Dighatapassi như thế nào? 

Rồi Thế Tôn kể lại cho gia chủ Upali một cách đầy đủ cuộc đàm thoại với Nigantha Dighatapassi.

 

  1. When this was said, the householder Upali said to the Blessed One: “Good, good, venerable sir, on the part of Tapassi! The Nigantha Digha Tapassi has answered the Blessed One like a well-taught disciple who understands his teacher’s dispensation rightly. What does the trivial mental rod count for in comparison with the gross bodily rod? On the contrary, the bodily rod is the most reprehensible for the performance of evil action, for the perpetration of evil action, and not so much the verbal rod and the mental rod.”

–“Householder, if you will debate on the basis of truth, we might have some conversation about this.”

–“I will debate on the basis of truth, venerable sir, so let us have some conversation about this.”

Khi nghe nói vậy, gia chủ Upali bạch Thế Tôn: 

— Tốt lành thay, tốt lành thay, Tôn giả Tapassi! Thế Tôn đã được Tôn giả Tapassi trả lời như vậy, một đệ tử đa văn đã hiểu đúng đắn lời dạy bậc Đạo sư. Làm sao một ý phạt hèn kém có thể sáng chói, so sánh với thân phạt cường đại này được, vì thân phạt thật là tối trọng để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp? Khẩu nghiệp không bằng được, ý nghiệp không bằng được. 

— Này Gia chủ, nếu Ông có thể đàm luận y cứ trên sự thật, thời ở đây, có thể có cuộc đàm thoại giữa chúng ta. 

— Bạch Thế Tôn, con sẽ đàm luận y cứ trên sự thật. Mong rằng ở đây có cuộc đàm thoại giữa chúng ta. 

 

  1. “What do you think, householder? Here some Nigantha might be afflicted, suffering, and gravely ill [with an illness needing treatment by cold water, which his vows prohibit] and he might refuse cold water [though mentally longing for it] and use only [the permissible] hot water [thus keeping his vows bodily and verbally]. Because he does not get cold water he might die. Now, householder, where would the Nigantha Nataputta describe his rebirth [as taking place]?”

–“Venerable sir, there are gods called ‘mind-bound’; he would be reborn there. Why is that? Because when he died he was still bound [by attachment] in the mind.”

–“Householder, householder, pay attention how you reply! What you said before does not agree with what you said afterwards, nor does what you said afterwards agree with what you said before. Yet you made this statement: ‘I will debate on the basis of truth, venerable sir, so let us have some conversation about this.’“

“Venerable sir, although the Blessed One has spoken thus, yet the bodily rod is the most reprehensible for the performance of evil action, for the perpetration of evil action, and not so much the verbal rod and the mental rod.”

Này Gia chủ, Ông nghĩ thế nào? Ở đây, có người Nigantha, bệnh hoạn, đau khổ, bao bệnh, từ chối nước lạnh, chỉ uống nước nóng. Người này, vì không được nước lạnh nên mệnh chung. Này Gia chủ, theo Nigantha Nataputta, người ấy tái sanh chỗ nào? 

— Bạch Thế Tôn, có hàng chư Thiên được gọi là Manosatta (Ý Trước thiên). Ở đấy người ấy tái sanh. Vì sao vậy? Bạch Thế Tôn, vì người ấy chấp trước ý nên mệnh chung. 

— Gia chủ, Gia chủ! Sau khi suy nghĩ kỹ. Ông hãy trả lời. Lời nói trước của Ông không phù hợp lời nói sau của Ông! Lời nói sau của Ông không phù hợp lời nói trước của Ông! Thế mà này Gia chủ, Ông đã nói như sau: “Bạch Thế Tôn, con sẽ đàm luận y cứ trên sự thật. Mong rằng ở đây sẽ có cuộc đàm thoại giữa chúng ta”.

— Bạch Thế Tôn, dầu Thế Tôn có nói như vậy, nhưng chỉ có thân phạt mới là tối trọng để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp. Khẩu phạt không bằng được; ý phạt không bằng được. 

 

  1. “What do you think, [377] householder? Here some Nigantha might be restrained with four checks – curbed by all curbs, clamped by all curbs, cleansed by all curbs, and claimed by all curbs – and yet when going forward and returning he brings about the destruction of many small living beings. What result does the Nigantha Nataputta describe for him?”

–“Venerable sir, the Nigantha Nataputta does not describe what is not willed as greatly reprehensible.”

–“But if one wills it, householder?”

–“Then it is greatly reprehensible, venerable sir.”

–“But under which [of the three rods] does the Nigantha Nataputta describe willing, householder?”

–“Under the mental rod, venerable sir.”

–“Householder, householder, pay attention how you reply! What you said before does not agree with what you said afterwards, nor does what you said afterwards agree with what you said before. Yet you made this statement: ‘I will debate on the basis of truth, venerable sir, so let us have some conversation about this.’“

–“Venerable sir, although the Blessed One has spoken thus, yet the bodily rod is the most reprehensible for the performance of evil action, for the perpetration of evil action, and not so much the verbal rod and the mental rod.”

Này Gia chủ, Ông nghĩ thế nào? Ở đây, có người Nigantha được phòng hộ với sự phòng hộ của bốn loại chế giới, hoàn toàn tự chế ngự đối với nước, hoàn toàn chú tâm (vào sự chế ngự) đối với nước, hoàn toàn loại trừ đối với nước, hoàn toàn thấm nhuần (với sự chế ngự) đối với nước. Vị này khi đi qua, khi đi lại, đã giết hại rất nhiều sinh vật nhỏ bé. Này Gia chủ, theo Nigantha Nataputta, người ấy thọ quả báo nào? 

— Bạch Thế Tôn, vì không cố ý, nên Nigantha Nataputta xem không phải là một đại tội. 

— Này Gia chủ, nếu người ấy có cố ý thời như thế nào? 

— Bạch Thế Tôn, là một đại tội. 

— Này Gia chủ, ý thức (ấy), Nigantha Nataputta xem thuộc về loại gì? 

— Bạch Thế Tôn thuộc về ý phạt. 

— Gia chủ, Gia chủ! Sau khi suy nghĩ. Ông hãy trả lời. Lời nói trước của Ông không phù hợp với lời nói sau của Ông, lời nói sau của Ông không phù hợp lời nói trước của Ông. Thế mà này Gia chủ, Ông đã nói như sau: “Bạch Thế Tôn, con sẽ đàm luận, y cứ trên sự thật. Mong rằng ở đây sẽ có cuộc đàm thoại giữa chúng ta”.

— Bạch Thế Tôn, dầu Thế Tôn có nói như vậy, nhưng chỉ có thân phạt mới là tối trọng để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp. Khẩu phạt không bằng được, ý phạt không bằng được. 

 

  1. “What do you think, householder? Is this town of Nalanda successful and prosperous, is it populous and crowded with people?”

–“Yes, venerable sir, it is.”

–“What do you think, householder? Suppose a man came here brandishing a sword and spoke thus: ‘In one moment, in one instant, I will make all the living beings in this town of Nalanda into one mass of flesh, into one heap of flesh.’ What do you think, householder, would that man be able to do that?”

–“Venerable sir, ten, twenty, thirty, forty, or even fifty men would not be able to make all the living beings in this town of Nalanda into one mass of flesh, into one heap of flesh in one moment or instant, so what does a single trivial man count for?”

–“What do you think, householder? Suppose some recluse or Brahmin came here possessed of supernormal power and attained to mastery of mind, and he spoke thus: ‘I will reduce this town of Nalanda to ashes with one mental act of hate.’ What do you think, householder, would such a recluse or Brahmin be able to do that?” [378]

–“Venerable sir, such a recluse or brahmin possessed of supernormal power and attained to mastery of mind would be able to reduce ten, twenty, thirty, forty, or even fifty Nalandas to ashes with one mental act of hate, so what does a single trivial Nalanda count for?”

–“Householder, householder, pay attention how you reply! What you said before does not agree with what you said afterwards, nor does what you said afterwards agree with what you said before. Yet you made this statement: ‘I will debate on the basis of truth, venerable sir, so let us have some conversation about this.’“

“Venerable sir, although the Blessed One has spoken thus, yet the bodily rod is the most reprehensible for the performance of evil action, for the perpetration of evil action, and not so much the verbal rod and the mental rod.”

Này Gia chủ, Ông nghĩ thế nào? Có phải Nalanda này là phú cường và phồn thịnh, dân chúng đông đúc, nhân dân trù mật? 

— Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Nalanda này là phú cường và phồn thịnh, dân chúng đông đúc, nhân dân trù mật. 

— Này Gia chủ, Ông nghĩ thế nào? Ở đây, có người đi đến, với thanh kiếm đưa cao, người này nói: “Trong một sát na, trong một giây phút, ta sẽ làm cho tất cả mọi người ở tại Nalanda này thành một đống thịt, thành một khối thịt”. Này Gia chủ, Ông nghĩ thế nào? Người ấy có thể trong một sát na, trong một giây phút, làm cho tất cả mọi người ở tại Nalanda này thành một đống thịt, thành một khối thịt không? 

— Bạch Thế Tôn, cho đến mười người, hai mươi người, ba mươi người, bốn mươi người, năm mươi người cũng không có thể, trong một sát na, trong một giây phút, làm cho tất cả mọi người ở tại Nalanda này thành một đống thịt, thành một khối thịt, huống nữa là chỉ một người nhỏ bé sao có thể sáng chói (làm thành) được? 

— Này Gia chủ, Ông nghĩ thế nào? Ở đây, có vị Sa-môn hay Bà-la-môn đến, có thần thông lực, có tâm tự tại. Vị này nói như sau. “Ta sẽ làm cho Nalanda này trở thành tro tàn với một tâm sân hận”. Này Gia chủ, Ông nghĩ thế nào? Vị Sa-môn hay vị Bà-la-môn ấy, có thần thông lực, có tâm tự tại, có thể làm cho Nalanda này trở thành tro tàn với một tâm sân hận không? 

— Bạch Thế Tôn, cho đến mười Nalanda, hai mươi, ba mươi Nalanda, bốn mươi Nalanda, năm mươi Nalanda, vị Sa-môn hay vị Bà-la-môn ấy có thần thông lực, có tâm tự tại có thể làm cho các Nalanda ấy trở thành tro tàn với một tâm sân hận, huống nữa là một Nalanda nhỏ bé này, sao có thể chói sáng được (khỏi bị trở thành tro tàn được)? 

— Gia chủ, Gia chủ! Sau khi suy nghĩ, Ông hãy trả lời. Lời nói trước của Ông không phù hợp lời nói sau của Ông! Lời nói sau của Ông không phù hợp lời nói trước của Ông! Thế mà này Gia chủ, Ông đã nói như sau: “Bạch Thế Tôn, con sẽ đàm luận y cứ trên sự thật. Mong rằng ở đây sẽ có cuộc đàm luận giữa chúng ta”.

— Bạch Thế Tôn, dầu Thế Tôn có nói như vậy, nhưng chỉ có thân phạt mới là tối trọng để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp. Khẩu phạt không bằng được, ý phạt không bằng được. 

 

  1. “What do you think, householder? Have you heard how the Dandaka, Kalinga, Mejjha, and Matanga forests became forests?”

— “Yes, venerable sir.”

— “As you heard it, how did they become forests?”

— “Venerable sir, I heard that they became forests by means of a mental act of hate on the part of the seers.”

 –“Householder, householder, pay attention how you reply! What you said before does not agree with what you said afterwards, nor does what you said afterwards agree with what you said before. Yet you made this statement: ‘I will debate on the basis of truth, venerable sir, so let us have some conversation about this.’“

Này Gia chủ. Ông nghĩ thế nào? Ông có nghe các rừng Dandaka, Kalinga, Mejjha, Matanga đã trở lại thành rừng như trước? 

— Bạch Thế Tôn con có nghe: Các rừng Dandaka, Kalinga, Mejjha, Matanga đã trở lại thành rừng (như trước). 

— Này Gia chủ, Ông nghĩ thế nào? Có thể Ông được nghe vì sao các rừng Dandaka, Kalinga, Mejjha, Matanga trở thành rừng như trước? 

— Bạch Thế Tôn, con có nghe, các rừng Dandaka, Kalinga, Mejjha, Matanga trở lại thành rừng (như trước) vì tâm sân hận các vị ân sĩ. 

— Gia chủ, Gia chủ! Sau khi suy nghĩ Ông hãy trả lời. Lời nói trước của Ông không phù hợp lời nói sau của Ông, lời nói sau của Ông không phù hợp lời nói trước của Ông. Thế mà này Gia chủ, Ông đã nói như sau: “Bạch Thế Tôn, con sẽ đàm luận y cứ trên sự thật. Mong rằng ở đây sẽ có cuộc đàm luận giữa chúng ta”. 

                                          

  1. “Venerable sir, I was satisfied and pleased by the Blessed One’s very first simile. Nevertheless, I thought I would oppose the Blessed One thus since I desired to hear the Blessed One’s varied solutions to the problem. Magnificent, venerable sir! Magnificent, venerable sir! The Blessed One has made the Dhamma clear in many ways, as though he were turning upright what had been overthrown, revealing what was hidden, showing the way to one who was lost, or holding up a lamp in the dark for those with eyesight to see forms. Venerable sir, I go to the Blessed One for refuge [379] and to the Dhamma and to the Sangha of bhikkhus. Let the Blessed One remember me as a lay follower who has gone to him for refuge for life.”

Bạch Thế Tôn, với ví dụ đầu tiên, con đã hoan hỷ, con đã thỏa mãn. Những gì con muốn nghe các vấn đáp sai biệt của Thế Tôn, nên con mới nghĩ đóng vai trò đối lập với Thế Tôn. Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật vị diệu thay, bạch Thế Tôn! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện, trình bày, giải thích. Vậy nay con quy y Thế Tôn, quy y Pháp, quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong Thế Tôn nhận con làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng. 

 

  1. “Investigate thoroughly, householder. It is good for such well-known people like you to investigate thoroughly.”

–“Venerable sir, I am even more satisfied and pleased with the Blessed One for telling me that. For the other sectarians, on acquiring me as their disciple, would carry a banner all over Nalanda announcing: ‘The householder Upali has come to discipleship under us.’ But, on the contrary, the Blessed One tells me: ‘Investigate thoroughly, householder. It is good for such well-known people like you to investigate thoroughly.’ So for the second time, venerable sir, I go to the Blessed One for refuge and to the Dhamma and to the Sangha of bhikkhus. Let the Blessed One remember me as a lay follower who has gone to him for refuge for life.”

Này Gia chủ, hãy chín chắn suy tư. Chín chắn suy tư là tốt đẹp với những người trứ danh như Ông. 

— Bạch Thế Tôn, con càng bội phần hoan hỷ, bội phần thỏa mãn với những lời Thế Tôn nói với con: “Này Gia chủ, hãy chín chắn suy tư. Chín chắn suy tư là tốt đẹp với những người trứ danh như Ông”. Bạch Thế Tôn, nếu các ngoại đạo được con làm đệ tử, họ sẽ trương cờ lên và tuyên bố: “Gia chủ Upali đã trở thành đệ tử chúng tôi”. Nhưng Thế Tôn lại nói với con: “Này Gia chủ, hãy chín chắn suy tư. Chín chắn suy tư là tốt đẹp với những người trứ danh như Ông”. Bạch Thế Tôn, lần thứ hai, con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong Thế Tôn nhận con làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng. 

 

  1. “Householder, your family has long supported the Niganthas and you should consider that alms should be given to them when they come.”

–“Venerable sir, I am even more satisfied and pleased with the Blessed One for telling me that. Venerable sir, I have heard that the recluse Gotama says thus: ‘Gifts should be given only to me; gifts should not be given to others. Gifts should be given only to my disciples; gifts should not be given to others’ disciples. Only what is given to me is very fruitful, not what is given to others. Only what is given to my disciples is very fruitful, not what is given to others’ disciples.’ But, on the contrary, the Blessed One encourages me to give gifts to the Niganthas. Anyway we shall know the time for that, venerable sir. So for the third time, venerable sir, I go to the Blessed One for refuge and to the Dhamma and to the Sangha of bhikkhus. Let the Blessed One remember me as a lay follower who has gone to him for refuge for life.”

Này Gia chủ, đã từ lâu gia đình Ông như là giếng nước mưa nguồn cho các người Nigantha. Hãy cúng dường các món ăn cho những ai đến với Ông! 

— Bạch Thế Tôn, con lại bội phần hoan hỷ, bội phần thỏa mãn với những lời Thế Tôn nói với con: “Này Gia chủ, đã từ lâu gia đình của Ông như là giếng nước mưa nguồn cho các người Nigantha. Hãy cúng dường các món ăn cho những ai đến với các Ông”. Bạch Thế Tôn, con nghe như sau: “Sa-môn Gotama đã nói: “Chỉ bố thí cho Ta, chớ bố thí cho các người khác. Chỉ bố thí cho các đệ tử Ta, chớ bố thí cho đệ tử những người khác. Chỉ bố thí cho Ta mới có phước lớn, bố thí những người khác không được phước lớn. Chỉ bố thí cho những đệ tử của Ta mới có phước lớn, bố thí cho những đệ tử những người khác không có phước lớn”. Nhưng Thế Tôn lại khuyến khích con bố thí cho các vị Nigantha. Bạch Thế Tôn, và chúng con ở đây sẽ biết thời nên làm. Bạch Thế Tôn, lần thứ ba, con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong Thế Tôn nhận con làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng. 

 

  1. Then the Blessed One gave the householder Upali progressive instruction, that is, talk on giving, talk on virtue, talk on the heavens; he explained the danger, degradation, and defilement in sensual pleasures and the blessing of renunciation. When he knew that the householder Upali’s mind [380] was ready, receptive, free from hindrances, elated, and confident, he expounded to him the teaching special to the Buddhas: suffering, its origin, its cessation, and the path. Just as a clean cloth with all marks removed would take dye evenly, so too, while the householder Upali sat there, the spotless immaculate vision of the Dhamma arose in him: “All that is subject to arising is subject to cessation.” Then the householder Upali saw the Dhamma, attained the Dhamma, understood the Dhamma, fathomed the Dhamma; he crossed beyond doubt, did away with perplexity, gained intrepidity, and became independent of others in the Teacher’s Dispensation. Then he said to the Blessed One:

–“Now, venerable sir, we must go. We are busy and have much to do.”

–“Now is the time, householder, to do as you think fit.”

Rồi Thế Tôn thuận thứ thuyết pháp cho gia chủ Upali, tức là thuyết về bố thí, thuyết về giới, thuyết về các cõi trời, trình bày sự nguy hiểm, sự hạ liệt, sự nhiễm ô các dục lạc, những lợi ích của xuất ly. Khi Thế Tôn biết gia chủ Upali tâm đã sẵn sàng, tâm đã nhu thuận, tâm không triền cái, tâm được phấn khởi, tâm được hoan hỷ, Ngài mới thuyết những pháp được chư Phật tán dương đề cao: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Cũng như một tấm vải thuần bạch, các chấm đen được gột rửa rất dễ thấm màu nhuộm, cũng vậy, chính tại chỗ ngồi ấy, pháp nhãn xa trần ly cấu khởi lên với gia chủ Upali: “Phàm pháp gì được khởi lên, tất cả pháp ấy đều bị tiêu diệt”. Rồi gia chủ Upali, thấy pháp, chứng pháp, ngộ pháp, thể nhập vào pháp, nghi ngờ tiêu trừ, do dự diệt tận, đạt được vô sở úy, không y cứ người khác đối với các pháp bậc Đạo sư. Gia chủ Upali bạch Thế Tôn: 

— Bạch Thế Tôn, nay chúng con phải đi, chúng con có nhiều công việc, có nhiều phận sự phải làm. 

— Này Gia chủ, Ông hãy làm những gì Ông nghĩ là hợp thời. 

 

  1. Then the householder Upali, having delighted and rejoiced in the Blessed One’s words, rose from his seat, and after paying homage to the Blessed One, keeping him on his right, he left to return to his own house. There he addressed the doorkeeper thus:

–“Good doorkeeper, from today on I close my door to the Niganthas and the Niganthas, and I open my door to the Blessed One’s bhikkhus, bhikkhunas, men lay followers, and women lay followers. If any Nigantha comes, then tell him thus: ‘Wait, venerable sir, do not enter. From today on the householder Upali has gone over to discipleship under the recluse Gotama. He has closed his door to the Niganthas and Niganthas, and he has opened it to the Blessed One’s bhikkhus, bhikkhunas, men lay followers, and women lay followers. Venerable sir, if you need alms, wait here; they will bring it to you here.’

–“Yes, venerable sir,” the doorkeeper replied.

Rồi Gia chủ Upali hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài, rồi đi về trú xá của mình, sau khi đến bèn nói với người giữ cửa như sau: 

— Từ nay trở đi, này người gác cửa, ta sẽ đóng cửa đối với các nam Nigantha, các nữ Nigantha. Cửa sẽ không đóng đối với các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ của Thế Tôn. Nếu có vị Nigantha nào đến, Ông hãy nói vị ấy như sau: “Tôn giả hãy đứng lại, chớ bước vào! Từ nay trở đi, Gia chủ Upali đã trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Cửa sẽ đóng đối với nam Nigantha, nữ Nigantha. Cửa sẽ không đóng đối với các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ của Thế Tôn. Nếu Tôn giả cần đồ ăn, hãy đứng ở đây. Và có người sẽ đem ra ở đây cho Tôn giả”

— Thưa vâng, Tôn giả. 

Người giữ cửa vâng đáp gia chủ Upali. 

 

  1. The Nigantha Digha Tapassi heard: “The householder Upali has gone over to discipleship under the recluse Gotama.” Then he went to the Nigantha Nataputta and told him:

–“Venerable sir, I have heard thus: ‘The householder Upali has gone over to discipleship under the recluse Gotama.’“

–“It is impossible, Tapassi, it cannot happen that the householder Upali should go over to discipleship under the recluse Gotama; but it is possible, it can happen that the recluse Gotama might come over to discipleship under the householder Upali.” [381]

Nigantha Dighatapassi nghe như sau: “Gia chủ Upali đã trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama”. Rồi Nigantha Dighatapassi đi đến chỗ Nigantha Nataputta ở, sau khi đến liền nói với Nigantha Nataputta: 

— Thưa Tôn giả, tôi có nghe gia chủ Upali đã trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. 

— Này Tapassi, không thể có sự kiện, không thể có trường hợp gia chủ Upali trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Và có thể có sự kiện Sa-môn Gotama trở thành đệ tử của gia chủ Upali. 

 

A second time … And a third time the Nigantha Digha Tapassi told the Nigantha Nataputta:

–“Venerable sir, I have heard thus: ‘The householder Upali has gone over to discipleship under the recluse Gotama.’“

–“It is impossible, Tapassi, it cannot happen … ”

–“Venerable sir, shall I go and find out whether or not the householder Upali has gone over to discipleship under the recluse Gotama?”

–“Go, Tapassi, and find out whether or not he has gone over to discipleship under the recluse Gotama.”

Lần thứ hai… (như trên)… Lần thứ ba Nigantha Dighatapassi nói với Nigantha Nataputta: 

— Thưa Tôn giả, tôi có nghe gia chủ Upali đã trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. 

— Này Tapassi, không thể có sự kiện, không thể có trường hợp gia chủ Upali trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Có thể có sự kiện Sa-môn Gotama trở thành đệ tử của gia chủ Upali. 

— Thưa Tôn giả, tôi sẽ đi và tìm biết gia chủ Upali có trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama hay không. 

— Này Tapassi, hãy đi và tìm biết gia chủ Upali có trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama hay không. 

 

  1. Then the Nigantha Digha Tapassi went to the householder Upali’s house. The doorkeeper saw him coming in the distance and told him:

–“Wait, venerable sir, do not enter. From today on the householder Upali has gone over to discipleship under the recluse Gotama. He has closed his door to the Niganthas and Niganthas, and he has opened it to the Blessed One’s bhikkhus, bhikkhunas, men lay followers, and women lay followers. Venerable sir, if you need alms, wait here; they will bring it to you here.”

–“I do not need alms, friend,” he said, and he turned back and went to the Nigantha Nataputta and told him:

–“Venerable sir, it is only too true that the householder Upali has gone over to discipleship under the recluse Gotama. Venerable sir, I did not get your consent when I told you: ‘Venerable sir, I do not think that the householder Upali should [try to] refute the recluse Gotama’s doctrine. For the recluse Gotama is a magician and knows a converting magic by which he converts disciples of other sectarians.’ And now, venerable sir, your householder Upali has been converted by the recluse Gotama with his converting magic!”

–“It is impossible, Tapassi, it cannot happen that the householder Upali should go over to discipleship under the recluse Gotama; but it is possible, it can happen that the recluse Gotama might come over to discipleship under the householder Upali.”

Rồi Nigantha Dighatapassi đi đến trú xá của gia chủ Upali. Người giữ cửa thấy Nigantha Dighatapassi ở đường xa đi đến, khi thấy vậy liền nói với Nigantha Dighatapassi: 

— Thưa Tôn giả, hãy đứng ở đây, chớ có bước vào! Từ nay trở đi, gia chủ Upali đã trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Cửa sẽ đóng đối với nam Nigantha, nữ Nigantha. Cửa sẽ không đóng đối với các vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ của Thế Tôn. Nếu Tôn giả cần đồ ăn, hãy đứng ở đây. Có người sẽ đem ra ở đây cho Tôn giả. 

— Này Hiền giả, ta không cần đồ ăn. 

Nói xong, Nigantha Dighatapassi đi trở lui, đến chỗ Nigantha Nataputta ở, sau khi đến, liền thưa với Nigantha Nataputta: 

— Thưa Tôn giả, sự thật là gia chủ Upali đã trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Về vấn đề này, tôi đã không đồng ý với Tôn giả và đã nói: “Thưa Tôn giả, tôi không được hài lòng để gia chủ Upali luận chiến với Sa-môn Gotama. Thưa Tôn giả, Sa-môn Gotama là một huyễn thuật sư, Sa-môn Gotama biết được huyễn thuật lôi cuốn những đệ tử các ngoại đạo”. Thưa Tôn giả, nay gia chủ Upali của Tôn giả đã bị huyễn thuật của Sa-môn Gotama lôi cuốn rồi. 

— Này Tapassi, không thể có sự kiện, không thể có trường hợp gia chủ Upali trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Có thể có sự kiện Sa-môn Gotama trở thành đệ tử của gia chủ Upali. 

 

A second time … And a third time the Nigantha Digha Tapassi told the Nigantha Nataputta: “Venerable sir, it is only too true that the householder Upali has gone over to discipleship under the recluse Gotama [382] … with his converting magic!”

–“It is impossible, Tapassi, it cannot happen … it can happen that the recluse Gotama might come over to discipleship under the householder Upali. Now I shall go myself and find out whether or not he has gone over to discipleship under the recluse Gotama.”

Lần thứ hai… (như trên)… Lần thứ ba, Nigantha Dighatapassi nói với Nigantha Nataputta: 

— Thưa Tôn giả, sự thật là gia chủ Upali đã trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Về vấn đề này, tôi đã không đồng ý với Tôn giả và đã nói: “Thưa Tôn giả, tôi không được yên lòng để gia chủ Upali luận chiến với Sa-môn Gotama. Thưa Tôn giả, Sa-môn Gotama là một huyễn thuật sư. Sa-môn Gotama biết được huyễn thuật lôi cuốn những đệ tử các ngoại đạo. Thưa Tôn giả, nay gia chủ Upali của Tôn giả đã bị huyễn thuật của Sa-môn Gotama lôi cuốn”.

— Này Tapassi, không thể có sự kiện, không thể có trường hợp gia chủ Upali trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Có thể có sự kiện Sa-môn Gotama trở thành đệ tử của gia chủ Upali. Này Tapassi, ta sẽ đi và tìm biết gia chủ Upali đã trở thành đệ tử Sa-môn Gotama hay không. 

 

  1. Then the Nigantha Nataputta went with a large assembly of Niganthas to the householder Upali s house. The doorkeeper saw him coming in the distance and told him:

–“Wait, venerable sir, do not enter. From today on the householder Upali has gone over to discipleship under the recluse Gotama. He has closed his door to the Niganthas and Niganthas, and he has opened his door to the Blessed One’s bhikkhus, bhikkhunas, men lay followers, and women lay followers. Venerable sir, if you need alms, wait here; they will bring it to you here.”

–“Good doorkeeper, go to the householder Upali and tell him: ‘Venerable sir, the Nigantha Nataputta is standing at the outer gate with a large assembly of Niganthas; he wishes to see you.’“

–“Yes, venerable sir,” he replied, and he went to the householder Upali and told him: “Venerable sir, the Nigantha Nataputta is standing at the outer gate with a large assembly of Niganthas; he wishes to see you.”

–“In that case, good doorkeeper, make seats ready in the hall of the central door.”

–“Yes, venerable sir,” he replied,

And after he had made seats ready in the hall of the central door, he returned to the householder Upali and told him:

–“Venerable sir, the seats are made ready in the hall of the central door. Now it is time to do as you think fit.”

Rồi Nigantha Nataputta cùng với đại chúng Nigantha đi đến trú xá của gia chủ Upali. Người giữ cửa thấy Nigantha Nataputta từ xa đi đến, khi thấy vậy liền nói với Nigantha Nataputta: 

— Thưa Tôn giả, hãy đứng ở đây, chớ có bước vào! Từ nay trở đi, gia chủ Upali đã trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Cửa sẽ đóng đối với các nam Nigantha, các nữ Nigantha. Cửa sẽ không đóng đối với các vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ của Thế Tôn. Thưa Tôn giả, nếu Tôn giả cần các món ăn, hãy đứng ở đây. Có người sẽ đem ra ở đây cho Tôn giả. 

— Này người giữ cửa, hãy đi đến gia chủ Upali, sau khi đến, hãy thưa với gia chủ như sau: “Thưa Tôn giả, Nigantha Nataputta cùng với đại chúng Nigantha đang đứng ở ngoài ngưỡng cửa và muốn yết kiến Tôn giả”.

— Thưa vâng, Tôn giả. 

Người giữ cửa vâng đáp Nigantha Nataputta, đi đến gia chủ Upali, sau khi đến liền thưa với gia chủ Upali: 

— Thưa Tôn giả, có Nigantha Nataputta cùng với đại chúng Nigantha đang đứng ở ngoài ngưỡng cửa và muốn yết kiến Tôn giả. 

— Này Người giữ cửa, hãy vào soạn các chỗ ngồi trong căn phòng chính giữa có cửa. 

— Thưa vâng, Tôn giả. 

Người giữ cửa vâng đáp gia chủ Upali, sau khi cho vào soạn các chỗ ngồi trong căn phòng chính giữa có cửa, đi đến gia chủ Upali, sau khi đến, liền nói với gia chủ Upali: 

— Thưa Tôn giả, các chỗ ngồi trong căn phòng chính giữa có cửa đã được sửa soạn. Tôn giả hãy làm những gì Tôn giả nghĩ là phải thời. 

 

  1. Then the householder Upali [383] went to the hall of the central door and sat down on the highest, best, chief, most excellent seat there. Then he told the doorkeeper:

–“Now, good doorkeeper, go to the Nigantha Nataputta and tell him:

‘Venerable sir, the householder Upali says: “Enter, venerable sir, if you wish.””

–“Yes, venerable sir,” he replied, and he went to the Nigantha Nataputta and told him:

–“Venerable sir, the householder Upali says: ‘Enter, venerable sir, if you wish.’“

Then the Nigantha Nataputta went with the large assembly of Niganthas to the hall of the central door.

Rồi gia chủ Upali đi đến căn phòng chính giữa có cửa, sau khi đến tại chỗ ngồi nào là tối thượng, tối tôn, tối cao và tối thắng, sau khi ngồi trên chỗ ấy, liền bảo người gác cửa: 

— Này Người giữ cửa, hãy đi đến Nigantha Nataputta: “Thưa Tôn giả, gia chủ Upali có nói: “Thưa Tôn giả, nếu muốn, Tôn giả hãy vào”. 

— Thưa vâng, Tôn giả. 

Người giữ cửa vâng đáp gia chủ Upali, đi đến Nigantha Nataputta, sau khi đến, liền nói với Nigantha Nataputta: 

— Thưa Tôn giả, Gia chủ Upali có nói: “Thưa Tôn giả, nếu muốn, Tôn giả hãy vào”. 

Rồi Nigantha Nataputta với đại chúng Nigantha đi đến căn phòng ở giữa, có cửa. 

 

  1. Previously, when the householder Upali saw the Nigantha Nataputta coming in the distance, he used to go out to meet him, dust off the highest, best, chief, most excellent seat there with an upper robe, and having arranged it all around, have him seated on it. But now, while seated himself on the highest, best, chief, most excellent seat, he told Nigantha Nataputta:

–“Venerable sir, there are seats; sit down if you wish.”

Gia chủ Upali lúc trước mỗi khi thấy Nigantha Nataputta từ xa đi đến, sau khi thấy liền đi ra nghinh tiếp vào tại chỗ nào có chỗ ngồi tối thượng, tối tôn, tối cao và tối thắng, liền lấy thượng y lau chỗ ngồi ấy, giữ lấy và mời Nigantha Nataputta ngồi trên chỗ ngồi ấy. Nhưng tại chỗ có chỗ ngồi tối thượng, tối tôn, tối cao và tối thắng, gia chủ Upali lại ngồi trên chỗ ngồi ấy và nói với Nigantha Nataputta: 

— Thưa Tôn giả, có những chỗ ngồi. Nếu muốn, Tôn giả hãy ngồi. 

 

  1. When this was said, the Nigantha Nataputta said:

–“Householder, you are mad, you are an imbecile. You went saying: ‘Venerable sir, I shall refute the recluse Gotama’s doctrine,’ and you have come back all caught up in a vast net of doctrine. Just as if a man went to castrate someone and came back castrated on both sides, just as if a man went to put out someone’s eyes and came back with both his eyes put out; so you too, householder, went saying: ‘Venerable sir, I shall refute the recluse Gotama’s doctrine,’ and you have come back all caught up in a vast net of doctrine. Householder, you have been converted by the recluse Gotama with his converting magic!”

Khi nghe nói vậy, Nigantha Nataputta nói với gia chủ Upali: 

— Này Gia chủ, Ông thật là điên cuồng. Này Gia chủ, Ông thật là ngu si. Ông nói: “Thưa Tôn giả, tôi sẽ đi luận chiến với Sa-môn Gotama”. Sau khi đi, Ông đã trở về bị trói buộc trong lưới lớn luận nghị. Này Gia chủ, ví như người đi với hai cao hoàn, đi về với cao hoàn bị thiến. Này Gia chủ, như người đi với hai con mắt, đi về với hai con mắt bị khoét. Cũng vậy, này Gia chủ, Ông nói: “Thưa Tôn giả, con sẽ đi luận chiến với Sa-môn Gotama, sau khi đi đã trở về bị trói buộc trong lưới lớn luận nghị”. Này Gia chủ, Ông đã bị huyễn thuật của Sa-môn Gotama lôi cuốn rồi. 

 

  1. “Auspicious is that converting magic, venerable sir, good is that converting magic! Venerable sir, if my beloved kinsmen and relatives were to be converted by this conversion, it would lead to the welfare and happiness of my beloved kinsmen and relatives for a long time. If all nobles were to be converted by this conversion, it would lead to the welfare and happiness of the nobles for a long time. [384] If all brahmins … all merchants … all workers were to be converted by this conversion, it would lead to the welfare and happiness of the workers for a long time. If the world with its gods, its Maras, and its Brahmas, this generation with its recluses and brahmins, its princes and its people, were to be converted by this conversion, it would lead to the welfare and happiness of the world for a long time. As to this, venerable sir, I shall give you a simile; for some wise men here understand the meaning of a statement by a simile.

Thưa Tôn giả, vi diệu thay, huyễn thuật lôi cuốn này! Tốt lành thay, huyễn thuật lôi cuốn này! Thưa Tôn giả, nếu bà con huyết thống thân yêu của tôi được huyễn thuật này lôi cuốn, thời thật là an lạc, hạnh phúc lâu dài cho các bà con huyết thống của tôi. Thưa Tôn giả, nếu tất cả các người Sát đế ly được huyễn thuật này lôi cuốn, thời thật là an lạc hạnh phúc lâu dài cho tất cả các vị Sát-đế-lị. Thưa Tôn giả, nếu tất cả các người Bà-la-môn… nếu tất cả các người Vessa (Phệ-xá)… nếu tất cả các người Sudda (Thủ-đà) được huyễn thuật này lôi cuốn, thời thật là an lạc, và hạnh phúc lâu dài cho tất cả các người Sudda. Thưa Tôn giả, nếu thế giới với chư Thiên, chư Ma, chư Phạm thiên, với chúng Sa-môn và Bà-la-môn với chư Thiên và loài Người được huyễn thuật này lôi cuốn, thời như vậy là an lạc, hạnh phúc lâu dài cho thế giới với chư Thiên, chư Ma, chư Phạm thiên, với chúng Sa-môn và Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người. Thưa Tôn giả, tôi sẽ nói cho Tôn giả ví dụ này. Ở đây, những người có trí nhờ ví dụ sẽ biết rõ ý nghĩa của lời nói. 

 

  1. “Venerable sir, there was once a brahmin who was old, aged, and burdened with years, and he had as a wife a young brahmin girl who was pregnant and near her confinement. Then she told him: ‘Go, brahmin, buy a young monkey in the market and bring it back to me as a playmate for my child.’ He replied: ‘Wait, madam, till you have borne the child. If you bear a boy, then I will go to the market and buy a young male monkey and bring it back to you as a playmate for your little boy; but if you bear a girl, then I will go to the market and buy a young female monkey and bring it back to you as a playmate for your little girl.’ For the second time she made the same request and received the same answer. For the third time she made the same request. Then, since his mind was bound to her with love, he went to the market, bought a young male monkey, brought it back, and told her: ‘I have bought this young male monkey in the market [385] and brought it back to you as a playmate for your child.’ Then she told him: ‘Go, brahmin, take this young male monkey to Rattapani the dyer’s son and tell him: “Good Rattapani, I want this young male monkey dyed the colour called yellow-unguent, pounded and re-pounded, and smoothened out on both sides.’“Then, since his mind was bound to her with love, he took the young male monkey to Rattapani the dyer’s son and told him: ‘Good Rattapani, I want this young male monkey dyed the colour called yellow-unguent, pounded and re-pounded, and smoothened out on both sides.’ Rattapani the dyer’s son told him: ‘Venerable sir, this young male monkey will take a dyeing but not a pounding or a smoothening out.’ So too, venerable sir, the doctrine of the foolish Niganthas will give delight to fools but not to the wise, and it will not withstand testing or being smoothened out.

“Then, venerable sir, on another occasion that brahmin took a pair of new garments to Rattapani the dyer’s son and told him: ‘Good Rattapani, I want this pair of new garments dyed the colour called yellow-unguent, pounded and re-pounded, and smoothened out on both sides.’ Rattapani the dyer’s son told him: ‘Venerable sir, this pair of new garments will take a dyeing and a pounding and a smoothening out.’ So too, venerable sir, the doctrine of that Blessed One, accomplished and fully enlightened, will give delight to the wise but not to fools, and it will withstand testing and being smoothened out.”

Thưa Tôn giả, thuở xưa có người Bà-la-môn đã về già tuổi đã lớn, bậc trưởng lão, có người vợ còn trẻ, trong tuổi thanh xuân, (người vợ này) đang mang thai, sắp đến kỳ sinh nở. Thưa Tôn giả, người vợ trẻ nói với người Bà-la-môn: “Này Bà-la-môn, hãy đi phố mua một khỉ con đực để cùng chơi với con tôi”. Thưa Tôn giả, được nói vậy, người Bà-la-môn nói với cô vợ trẻ: “Này mình, hãy chờ cho đến khi mình sanh. Nếu mình sanh con trai, tôi sẽ đi chợ mua một con khỉ con đực mang về để cùng chơi với đứa con trai của mình. Còn nếu mình sanh con gái, tôi sẽ đi chợ mua một con khỉ con cái và mang về để cùng chơi với đứa con gái của mình”. Thưa Tôn giả, lần thứ hai, người vợ trẻ nói với người Bà-la-môn ấy: “Này Bà-la-môn, hãy đi phố mua một con khỉ con đực để cùng chơi với con tôi”. Thưa Tôn giả, lần thứ hai, người Bà-la-môn ấy nói với cô vợ trẻ: “Này mình, hãy chờ cho đến khi mình sanh. Nếu mình sanh con trai, tôi sẽ đi chợ mua một con khỉ con đực mang về để cùng chơi với đứa con trai của mình. Còn nếu mình sanh con gái, tôi sẽ đi chợ mua một con khỉ con cái và mang về để cùng chơi với đứa con gái của mình”. Thưa Tôn giả, lần thứ ba, người vợ trẻ nói với người Bà-la-môn ấy: “Này Bà-la-môn, hãy đi phố mua một con khỉ con đực để cùng chơi với con tôi”. Thưa Tôn giả, người Bà-la-môn ấy vì quá yêu thương, quá ái luyến cô vợ trẻ của mình nên đi chợ mua một con khỉ đực, đem về và nói với cô vợ trẻ: “Này mình, đây là con khỉ con đực, tôi mua ở chợ và mang về, hãy để nó cùng chơi với con của mình”. Thưa Tôn giả, khi nghe nói vậy cô vợ trẻ ấy nói với người Bà-la-môn: “Này Bà-la-môn hãy đi, đem con khỉ con đực này đến Rattapani con người thợ nhuộm, sau khi đến hãy nói với Rattapani con người thợ nhuộm: “Này bạn Rattapani, tôi muốn con khỉ đực này được nhuộm với màu vàng, được khéo đập, khéo ủi xung quanh và cả hai phía được làm thành mềm dịu” Thưa Tôn giả, người Bà-la-môn ấy vì quá yêu thương, quá ái luyến cô vợ trẻ của mình đem con khỉ con đực này đi đến Rattapani con người thợ nhuộm, khi đến xong liền nói với Rattapani, con người thợ nhuộm: “Này bạn Rattapani, tôi muốn con khỉ đực này được nhuộm màu vàng, được khéo đập, khéo ủi xung quanh, và cả hai phía được làm thành mềm dịu”. Thưa Tôn giả, được nói vậy, Rattapani con người thợ nhuộm nói với người Bà-la-môn kia: “Này Tôn giả, con khỉ con đực này có thể nhuộm được, nhưng không có thể đập được, ủi được, không có thể làm thành mềm dịu”. Cũng vậy, thưa Tôn giả, là lý thuyết của những Nigantha ngu si, lý thuyết này có thể ăn nhuộm đối với những người ngu si, chớ không ăn nhuộm đối với người có trí. Thưa Tôn giả, người Bà-la-môn ấy, sau một thời gian, lấy một cặp áo mới, đi đến chỗ Rattapani, con người thợ nhuộm, sau khi đến, nói với Rattapani, con người thợ nhuộm: “Này Rattapani, tôi muốn nhuộm cặp áo mới này với màu nhuộm màu vàng, được đập và ủi xung quanh, và cả hai phía được làm thành mềm dịu”. Thưa Tôn giả, được nói vậy, Rattapani con người thợ nhuộm nói với người Bà-la-môn ấy: “Thưa Tôn giả, cặp áo mới này của Tôn giả có thể nhuộm được, có thể đập và ủi xung quanh và có thể làm thành mềm dịu”. Cũng vậy, thưa Tôn giả, là lý thuyết của Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, có thể ăn nhuộm đối với người có trí, không phải đối với người ngu si, có thể đập được, ủi được, và có thể khiến trở thành mềm dịu”.

 

  1. “Householder, the assembly and the king know you thus: ‘The householder Upali is a disciple of the Nigantha Nataputta.’ Whose disciple should we consider you to be?”

When this was said, the householder Upali rose from his seat, and arranging his upper robe on one shoulder, [3861 he extended his hands in reverential salutation in the direction of the Blessed One and told the Nigantha Nataputta:

Này Gia chủ, quần chúng này gồm cả các vua chưa được biết như sau: “Gia chủ Upali là đệ tử của Nigantha Nataputta”. Này Gia chủ, nay chúng tôi xem Gia chủ là đệ tử của ai? 

Được nói vậy, gia chủ Upali từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y qua một bên vai, chắp tay vái chào về hướng Thế Tôn và nói với Nigantha Nataputta: 

 

  1. “In that case, venerable sir, hear whose disciple I am:

He is the Wise One who has cast off delusion,

abandoned the heart’s wilderness  victor in battle;

He knows no anguish, is perfectly even-minded,

mature in virtue, of excellent wisdom;

Beyond all temptations,  he is without stain:

The Blessed One is he, and I am his disciple.

Bậc Trí sáng suốt, 
Đoạn trừ si ám.
Phá tan hoang vu,
Chiến thắng địch quân.
Đau khổ đoạn diệt,
Tâm an bình tĩnh.
Giới đức trưởng thành,
Tuệ đức viên minh.
Phiền não nội tịnh,
Rời trần ly cấu.
Tôi thật chính là,
Đệ tử Thế Tôn. 

 

Free from perplexity, he abides contented,

spurning worldly gains, a vessel of gladness;

A human being who has done the recluse’s duty,

a man who bears his final body;

He is utterly peerless and utterly spotless:

The Blessed One is he, and I am his disciple.

Do dự đoạn trừ, 
Biết vừa, biết đủ,
Thế lợi tuyệt không,
Tâm tư hoan hỷ,
Làm Sa-môn hạnh,
Sanh ở nhân gian,
Thân này sau cùng,
Làm người nhân thế.
Bậc Thánh cao nhất,
Rời trần ly cấu.
Tôi thật chính là,
Đệ tử Thế Tôn. 

 

He is free from doubt and skilful,

the discipliner and excellent leader.

None can surpass his resplendent qualities;

without hesitation, he is the illuminator;

Having severed conceit, he is the hero:

The Blessed One is he, and I am his disciple.

Không tâm do dự, 
Khéo hành thiện xảo.
Bậc trì giới luật,
Điều ngự tối thượng.
Là Vô Thượng Sĩ,
Sáng chói hào quang,
Nghi hoặc đoạn trừ,
Soi sáng mọi nơi.
Kiêu mạn đoạn tận,
Vô nhân anh hùng.
Tôi thật chính là
Đệ tử Thế Tôn. 

 

The leader of the herd, he cannot be measured,

his depths are unfathomed, he attained to the silence;

Provider of safety, possessor of knowledge,

he stands in the Dhamma, inwardly restrained;

Having overcome all bondage, he is liberated:

The Blessed One is he, and I am his disciple.

Ngài bậc Ngưu Vương, 
Tâm tư vô lượng,
Thâm sâu khôn lường
Bậc thánh Mâu ni,
Tác thành an ổn,
Bậc có Trí tuệ,
An trú Pháp vị,
Tự phòng hộ thân,
Vượt qua tham ái,
Bậc Giải Thoát Trí.
Tôi thật chính là,
Đệ tử Thế Tôn. 

 

The immaculate tusker, living in remoteness,

with fetters all shattered, fully freed;

Skilled in discussion, imbued with wisdom,

his banner lowered’  he no longer lusts;

Having tamed himself, he no more proliferates:

The Blessed One is he, and I am his disciple.

Ngài bậc Long Vương, 
Sống xa thế tục.
Kiết sử đoạn trừ,
Siêu đẳng giải thoát.
Biện tài từ tốn,
Trong sạch thanh tịnh,
Cờ xí triệt hạ,
Tham ái đoạn trừ,
Điều ngự nhiếp phục,
Hý luận diệt tận.
Tôi thật chính là,
Đệ tử Thế Tôn, 

 

The best of seers, with no deceptive schemes,

gained the triple knowledge, attained to holiness;

His heart cleansed, a master of discourse,

he lives ever tranquil, the finder of knowledge;

The first of all givers, he is ever capable:

The Blessed One is he, and I am his disciple.

Đệ nhất tiên nhân. 
Không tin lời đồn.
Ba minh thành tựu,
Đạt quả Phạm thiên.
Tắm sạch thân tâm,
Văn cú thông đạt.
Khinh an yên ổn,
Tránh trí chứng đắc.
Công phá thành trì,
Thiên chủ Đế thích.
Tôi chính thật là,
Đệ tử Thế Tôn. 

 

He is the Noble One, developed in mind,

who has gained the goal and expounds the truth;

Endowed with mindfulness and penetrative insight,

he leans neither forwards nor back;

Free from perturbation, attained to mastery:

The Blessed One is he, and I am his disciple.

Ngài bậc Thánh Giả, 
Tự tu tự tập.
Chứng điều phải chứng,
Thuyết giảng hiện tại,
Chánh niệm tỉnh giác,
Thiền quán tinh tế
Không thiên tà dục,
Không nuôi tâm hận.
Giao động không còn,
Thân tâm tự tại.
Tôi chính thật là
Đệ tử Thế Tôn. 

 

He has fared rightly and abides in meditation,

inwardly undefiled, in purity perfect;

He is independent and altogether fearless,

living secluded, attained to the summit;

Having crossed over himself, he leads us across:

The Blessed One is he, and I am his disciple.

Sống theo chánh đạo, 
Trầm tư Thiền tưởng,
Nội tâm không nhiễm,
Thanh tịnh trong sạch,
Không trước không chấp,
Không nguyện không cầu,
Độc cư độc tọa,
Chứng tối thượng vị,
Đã vượt qua dòng,
Giúp người vượt qua.
Tôi thật chính là
Đệ tử Thế Tôn, 

 

Of supreme serenity, with extensive wisdom,

a man of great wisdom, devoid of all greed;

He is the Tathagata, he is the Sublime One,

the person unrivalled, the one without equal;

He is intrepid, proficient in all:

The Blessed One is he, and I am his disciple.

Bậc chứng tịch tịnh, 
Trí tuệ vô biên,
Trí tuệ quảng đại,
Tham ái đoạn tận.
Ngài là Như Lai,
Ngài là Thiện Thệ,
Không người sánh bằng,
Không ai đồng đẳng,
Giàu đức tự tin,
Viên mãn thành tựu.
Tôi thật chính là,
Đệ tử Thế Tôn

 

He has severed craving and become the Enlightened One,

cleared of all clouds, completely untainted;

Most worthy of gifts, most mighty of spirits,

most perfect of persons, beyond estimation;

The greatest in grandeur, attained the peak of glory:

The Blessed One is he, and I am his disciple.”

Tham ái đoạn tận, 
Giác ngộ chánh giác,
Khói mù tiêu tan,
Ô uế trừ sạch
Xứng đáng cúng dường,
Dạ xoa thanh tịnh.
Vô thượng Thánh nhân,
Không thể cân lường
Đại nhân Đại giác
Đạt đến danh xưng.
Tôi thật chính là,
Đệ tử Thế Tôn. 

 

  1. “When did you concoct that hymn of praise to the recluse Gotama, householder?

–“Venerable sir, suppose there were a great heap of many kinds of flowers, [387] and then a clever garland-maker or garland-maker’s apprentice were to knot them into a multicoloured garland; so too, venerable sir, the Blessed One has many praiseworthy qualities, many hundred praiseworthy qualities. Who, venerable sir, would not praise the praiseworthy?

Này Gia chủ, Ông chất chứa những ưu điểm này về Sa-môn Gotama từ bao giờ?

— Thưa Tôn giả, ví như một đống hoa, có nhiều loại khác nhau; người làm vòng hoa thiện xảo hay người đệ tử làm vòng hoa có thể kết thành một vòng hoa có những loại hoa sai biệt. Cũng vậy, thưa Tôn giả, Thế Tôn có nhiều đức tánh, có hàng trăm đức tánh. Thưa Tôn giả, và ai lại không tán thán những bậc đáng tán thán! 

 

  1. Then, since the Nigantha Nataputta was unable to bear this honour done to the Blessed One, hot blood then and there gushed from his mouth.

Vì Nigantha Nataputta không thể nghe lời tán thán Thế Tôn, nên ngay tại chỗ ấy đã thổ ra huyết nóng. 

 

Sources:

Tài liệu tham khảo:

  1. http://thuvienhoasen.org/p15a876/56-kinh-uu-ba-ly-upali-sutta
  2. http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/mn/
  3. http://lirs.ru/lib/sutra/The_Middle_Length_Discourses(Majjhima_Nikaya), Nanamoli, Bodhi, 1995.pdf