Chương 50: Kinh Hàng ma – MN 50: The Rebuke to Mara – Song ngữ

Majjhima Nikaya – Middle-length Discourses of the Buddha

Trung Bộ Kinh

Anh ngữ: Bhikkhu Ñāṇamoli      

Việt ngữ: Hòa thượng Thích Minh Châu

Compile: Lotus group

Quyển I – Trung Bộ Kinh – Volume I – Middle-length Discourses – Majjhima Nikaya

Chương 50: Kinh Hàng ma – MN 50: The Rebuke to Mara – Màratajjanìya sutta).

 

  1. Thus I have heard:

On one occasion the venerable Maha Moggallana was living in the Bhagga country at Sumsumaragira in the Bhesakala Grove, the Deer Park.

Tôi nghe như vầy:

Một thời Tôn giả Maha Moggallana trú giữa dân chúng Bhagga, tại Sumsumaragira, rừng Bhessakalavana, vườn Lộc Uyển.

 

  1. Now on that occasion the venerable Maha Moggallana was walking up and down in the open. And on that occasion Mara the Evil One went into the venerable Maha Moggallana’s belly and entered his bowels. Then the venerable Maha Moggallana considered thus: “Why is my belly so heavy? One would think it full of beans.” Thus he left the walk and went into his dwelling, where he sat down on a seat made ready.

Lúc bấy giờ, Tôn giả Maha Moggallana đang đi kinh hành ngoài trời. Khi ấy Ác ma đi vào bụng Tôn giả Maha Moggallana, ở trong bao tử. Rồi Tôn giả Maha Moggallana nghĩ như sau: “Nay sao bụng của Ta lại nặng nặng như có gì chồng chất quá đầy?” Rồi Tôn giả Maha Moggallana từ chỗ kinh hành bước xuống, đi vào tự viện, và ngồi trên chỗ đã soạn sẵn.

 

  1. When he had sat down, he gave thorough attention to himself, and he saw that Mara the Evil One had gone into his belly and had entered his bowels. When he saw this, he said:

–“Come out, Evil One! Come out, Evil One! Do not harass the Tathagata, do not harass the Tathagata’s disciple, or it will lead to your harm and suffering for a long time.”

Sau khi ngồi, Tôn giả Maha Moggallana tự chánh niệm. Tôn giả Maha Moggallana thấy Ác ma, sau khi đi vào trong bụng, đang ở trong bao tử. Thấy vậy, Tôn giả liền nói với Ác ma:

— Hãy đi ra, Ác ma! Hãy đi ra, Ác ma! Chớ có phiền nhiễu Như Lai và đệ tử Như Lai. Chớ có khiến cho Ngươi bị bất hạnh, đau khổ lâu dài!

 

  1. Then Mara the Evil One thought: “This recluse does not know me, he does not see me when he says that. Even his teacher would not know me so soon, so how can this disciple know me?”

Rồi Ác ma suy nghĩ: “Vị Sa-môn này không biết ta, không thấy ta, lại nói như sau: “Hãy đi ra, Ác ma! Hãy đi ra Ác ma! Chớ có phiền nhiễu Như Lai, và đệ tử Như Lai. Chớ có khiến cho Ngươi bị bất hạnh, đau khổ lâu dài””. Chính vị Bổn sư cũng chưa biết ta mau như vậy, làm sao vị đệ tử này có thể biết ta được?”

 

  1. Then the venerable Maha Moggallana said:

–“Even thus I know you, Evil One. Do not think: ‘He does not know me.’ You are Mara, Evil One. You were thinking thus, Evil One: ‘This recluse does not know me, he does not see me when he says that. Even his teacher would not know me so soon, so how can this disciple know me?’“

Rồi Tôn giả Maha Moggallana lại nói với Ác ma như sau:

— Này Ác ma, ta biết Ngươi. Đừng có nghĩ rằng: “Vị ấy không biết ta”. Ngươi là Ác ma. Này Ác ma, Ngươi nghĩ như sau: “Vị Sa-môn này không biết ta, không thấy ta, lại nói như sau: “Hãy đi ra, Ác ma! hãy đi ra Ác ma! Chớ có phiền nhiễu Như Lai và đệ tử Như Lai. Chớ có khiến cho Ngươi bị bất hạnh, đau khổ lâu dài!” Chính vị Bổn sư cũng không biết ta mau như vậy, làm sao vị đệ tử này có thể biết ta được?”

 

  1. Then Mara the Evil One thought: “The recluse knew me, he saw me when he said that,” whereupon he [333] came up from the venerable Maha Moggallana’s mouth and stood against the door bar.

Rồi Ác ma suy nghĩ như sau: “Vị Sa-môn này biết ta, thấy ta và nói như sau: “Hãy đi ra, Ác ma! Hãy đi ra, Ác ma! Chớ có phiền nhiễu Như Lai và đệ tử Như Lai. Chớ có khiến cho Ngươi bị bất hạnh, đau khổ lâu dài””. Rồi Ác ma từ miệng Tôn giả Maha Moggallana bước ra, và đứng dựa nơi cửa (miệng?).

 

  1. The venerable Maha Moggallana saw him standing there and said: “I see you there too, Evil One. Do not think: ‘He does not see me.’ You are standing against the door bar, Evil One.

Tôn giả Maha Moggallana thấy Ác ma đứng dựa nơi cửa thấy vậy, bèn nói Ác ma: Ác ma, ở đây, ta cũng thấy Ngươi. Ngươi chớ có nghĩ rằng: “Vị ấy không thấy ta”. Này Ác ma, nay Ngươi đang đứng dựa nơi cửa (miệng?).

 

  1. “It happened once, Evil One that I was a Mara named Dusi,[i] and I had a sister named Kali. You were her son, so you were my nephew.

Này Ác ma, thuở xưa, ta-là Ác ma tên là Dusi, và chị ta tên là Kali. Ngươi là con trai chị ta. Như vậy Ngươi là cháu ta.

 

  1. “Now on that occasion the Blessed One Kakusandha, accomplished and fully enlightened, had appeared in the world.[ii] The Blessed One Kakusandha, accomplished and fully enlightened, had an auspicious pair of chief disciples named Vidhura and Sanjiva. Among all the disciples of the Blessed One Kakusandha, accomplished and fully enlightened, there was none equal to the venerable Vidhura in teaching the Dhamma. That was how the venerable Vidhura came to have the designation ‘Vidhura.’[iii] But the venerable Sanjiva, gone to the forest or to the root of a tree or to an empty hut, entered without difficulty upon the cessation of perception and feeling.

Này Ác ma, lúc bấy giờ, Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác ra đời. Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán Chánh Đẳng Giác có hai vị đệ tử tên là Vidhura, và Sanjiva, hai bậc tối thượng, hai bậc Hiền giả. Này Ác ma, đối với các vị đệ tử của Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác không một ai ở đây có thể bằng Tôn giả Vidhura về thuyết pháp. Này Ác ma, vì lý do này, Tôn giả Vidhura được gọi là Vidhura (Vô song). Còn Tôn giả Sanjiva là vị đi rừng, đi gốc cây, đi các chỗ không người và chứng Diệt thọ tưởng định không khó khăn gì.

 

  1. “It happened once, Evil One that the venerable Sanjiva had seated himself at the root of a certain tree and entered upon the cessation of perception and feeling. Some cowherds, shepherds, and ploughmen passing by saw the venerable Sanjiva sitting at the root of the tree having entered upon the cessation of perception and feeling, and they thought: ‘It is wonderful, sirs, it is marvelous! There is this recluse sitting here dead. Let us cremate him.’ Then the cowherds, shepherds, and ploughmen collected grass, wood, and cow dung, and having piled it up against the venerable Sanjiva’s body, they set fire to it and went on their way.

Này Ác ma, thuở xưa, Tôn giả Sanjiva đang ngồi nhập Diệt thọ tưởng định dưới một gốc cây. Này Ác ma, các người chăn bò, chăn thú, làm ruộng, các lữ hành thấy Tôn giả Sanjiva đang ngồi nhập Diệt thọ tưởng định dưới một gốc cây, thấy vậy liền nói với nhau như sau: “Thật vị diệu thay, này các Tôn giả! Thật hy hữu thay, này các Tôn giả! Vị Sa-môn này chết mà vẫn ngồi. Chúng ta hãy hỏa táng ngài!” Rồi này Ác ma, các người chăn bò, chăn thú, làm ruộng, các lữ hành liền thâu lượm cỏ, củi và phân bò chồng lên thân Tôn giả Sanjiva, đốt lửa và bỏ đi.

 

  1. “Now, Evil One, when the night had ended, the venerable Sanjiva emerged from the attainment.[iv] He shook his robe, and then, it being morning, he dressed, and taking his bowl and outer robe, he went into the village for alms. The cowherds, shepherds, and ploughmen passing by saw the venerable Sanjiva wandering for alms, and they thought: ‘It is wonderful, sirs, it is marvellous! This recluse who was sitting there dead has come back to life!’ [334] That was how the venerable Sanjiva came to have the designation ‘Sanjiva.’[v]

Này Ác ma, Tôn giả Sanjiva, sau khi đêm ấy đã tàn, liền xuất định, phủi áo, vào buổi sáng đắp y, cầm y bát vào làng khất thực. Này Ác ma, các người chăn bò, chăn thú, làm ruộng, các lữ hành thấy Tôn giả Sanjiva đang đi khất thực, thấy vậy liền nghĩ: “Thật vị diệu thay, này các Tôn giả! Thật hy hữu thay, này các Tôn giả! Vị Sa-môn này chết mà vẫn ngồi, nay được sống lại”. Này Ác ma, vì lý do này, Tôn giả Sanjiva được xưng danh là Sanjiva, Sanjiva.

 

  1. “Then, Evil One, the Mara Dusi considered thus: ‘There are these virtuous bhikkhus of good character, but I do not know their coming or their going. Let me now take possession of the Brahmin householders, telling them: “Come now, abuse, revile, scold, and harass the virtuous bhikkhus of good character; then perhaps, when they are abused, reviled, scolded, and harassed by you, some change will come about in their minds whereby the Mara Dusi may find an opportunity.”[vi]

Này Ác ma, rồi Ác ma Dusi nghĩ như sau: “Ta không biết chỗ đến và chỗ đi của các vị Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện pháp này. Vậy nay ta hãy nhập vào hàng Bà-la-môn gia chủ và nói như sau: “Hãy đến phỉ báng, mạ lị, thống trách và nhiễu hại các vị Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện tánh. Do bị phỉ báng, mạ lị, thống trách và nhiễu hại bởi các Người, các vị ấy có thể đổi tâm và như vậy, Ác ma Dusi mới có dịp để chi phối họ.”

 

  1. “Then, Evil One, the Mara Dusi took possession of those Brahmin householders, telling them: ‘Come now, abuse, revile, scold, and harass the virtuous bhikkhus of good character; then perhaps, when they are abused, reviled, scolded, and harassed by you, some change will come about in their minds whereby the Mara Dusi may find an opportunity.’ Then, when the Mara Dusi had taken possession of the Brahmin householders, they abused, reviled, scolded, and harassed the virtuous bhikkhus of good character thus:[vii] ‘These bald-pated recluses, these swarthy menial offspring of the Kinsman’s feet[viii] claim: “We are meditators, we are meditators!” and with shoulders drooping, heads down and all limp, they meditate, premeditate, out meditate, and mismeditate.[ix] Just as an owl on a branch waiting for a mouse meditates, premeditates, out-meditates, and mismeditates, or just as a jackal on a river-bank waiting for fish meditates, premeditates, out-meditates, and mismeditates, or just as a cat by a door-post or a dust-bin or a drain, waiting for a mouse, meditates, premeditates, out-meditates, and mismeditates, or just as a donkey unladen, standing by a door-post or a dust-bin or a drain, meditates, premeditates, out-meditates, and mismeditates, so too, these bald-pated recluses, these swarthy menial offspring of the Kinsman’s feet, claim: “We are meditators, we are meditators!” and with shoulders drooping, heads down and all limp, they meditate, premeditate, out-meditate, and mismeditate.’ Now, Evil One, on that occasion most of those human beings, when they died, reappeared on the dissolution of the body, after death, in a state of deprivation, in an unhappy destination, in perdition, even in hell. [335]

Rồi này Ác ma, Ác ma Dusi nhập vào hàng Bà-la-môn gia chủ và phỉ báng, mạ lị, thống trách và nhiễu hại các vị Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện tánh như sau: “Những kẻ trọc đầu, Sa-môn giả hiệu, tiện nô, hắc nô, sanh tự gót chân này. Họ nói: “Chúng tôi tu thiền, chúng tôi tu thiền” và với hai vai thụt xuống, với mặt cúi xuống, mê mê dại dại, tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền. Ví như con cú đậu trên cành cây, khi đang rình chuột; tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền; cũng vậy, những kẻ trọc đầu, Sa-môn giả hiệu, tiện nô, hắc nô, sanh tự gót chân này. Chúng nói: “Chúng tôi tu thiền, chúng tôi tu thiền”. Và với hai vai thụt xuống, với mặt cúi xuống, mê mê dại dại, tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền. Ví như con giả can trên bờ sông, khi đang rình cá; tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền; cũng vậy, những kẻ trọc đầu, Sa-môn giả hiệu, tiện nô, hắc nô, sanh tự gót chân này. Họ nói: “Chúng tôi tu thiền, chúng tôi tu thiền” và với hai vai thụt xuống, với mặt cúi xuống, mê mê dại dại, tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền. Ví như con mèo ngồi bên đống rác, khi đang rình chuột; tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền; cũng vậy, những kẻ trọc đầu, Sa-môn giả hiệu, tiện nô, hắc nô, sanh tự gót chân này. Họ nói: “Chúng tôi tu thiền, chúng tôi tu thiền” và với hai vai thụt xuống, với mặt cúi xuống, mê mê dại dại, tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền. Ví như con lừa, gánh nặng được đặt xuống, đang tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền; cũng vậy, những kẻ trọc đầu, Sa-môn giả hiệu, tiện nô, hắc nô, sanh tự gót chân này. Chúng nói: “Chúng tôi tu thiền, chúng tôi tu thiền”, và với hai vai thụt xuống, với mặt cúi xuống, mê mê dại dại, tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền”. Này Ác ma lúc bấy giờ, phần lớn những người ấy sau khi thân hoại mạng chung phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.

 

  1. “Then the Blessed One Kakusandha, accomplished and fully enlightened, addressed the bhikkhus thus:

–‘Bhikkhus, the Mara Dusi has taken possession of the Brahmin householders, telling them: “Come now, abuse, revile, scold, and harass the virtuous bhikkhus of good character; then perhaps, when they are abused, reviled, scolded, and harassed by you, some change will come about in their mind whereby the Mara Dusi may find an opportunity.”

Rồi này Ác ma, Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác gọi các Tỷ-kheo:

“– Này các Tỷ-kheo, những Bà-la-môn gia chủ bị Ác ma Dusi nhập vào và nói: “Hãy đến phỉ báng, mạ lị, thống trách và nhiễu hại các Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện tánh. Do bị phỉ báng, mạ lị, thống trách và nhiễu hại bởi các Người, các vị ấy có thể đổi tâm, và như vậy Ác ma Dusi mới có dịp để chi phối họ”.

 

Come, bhikkhus, abide pervading one quarter with a mind imbued with loving-kindness, likewise the second, likewise the third, likewise the fourth; so above, below, around, and everywhere, and to all as to yourselves, abide pervading the all-encompassing world with a mind imbued with loving-kindness, abundant, exalted, immeasurable, without hostility and without ill will. Abide pervading one quarter with a mind imbued with compassion … with a mind imbued with appreciative joy … with a mind imbued with equanimity … abundant, exalted, immeasurable, without hostility and without ill will.’[x]

Này các Tỷ-kheo, hãy đến biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ, rồi an trú, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Với tâm câu hữu với bi… với tâm câu hữu với hỷ…, biến mãn một phương với tâm câu hữu với xả, rồi an trú; cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại, vô biên, không hận, không sân”.

 

  1. “So, Evil One, when those bhikkhus had been thus advised and instructed by the Blessed One Kakusandha, accomplished and fully enlightened, then, gone to the forest or to the root of a tree or to an empty hut, they abided pervading one quarter with a mind imbued with loving-kindness … with a mind imbued with compassion … with a mind imbued with appreciative joy … with a mind imbued with equanimity … without hostility and without ill will.

Rồi Ác ma, các Tỷ-kheo ấy được Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác khuyến khích như vậy, khuyến giáo như vậy, đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, đi đến các chỗ không vắng, biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ rồi an trú; cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba; cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Với tâm câu hữu với bi… với tâm câu hữu với hỷ… biến mãn một phương với tâm câu hữu với xả rồi an trú; cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.

 

  1. “Then, Evil One, the Mara Dusi considered thus: ‘Though I do as I am doing, still I do not know the coming or the going of these virtuous bhikkhus of good character. Let me now take possession of the Brahmin householders, telling them: “Come now, honour, respect, revere, and venerate the virtuous bhikkhus of good character; [336] then perhaps, when they are honoured, respected, revered, and venerated by you, some change will come about in their minds whereby the Mara Dusi may find an opportunity.’”[xi]

Này Ác ma, rồi Mara Dusi suy nghĩ như sau: “Làm như vậy, ta không thể biết chỗ đến hay chỗ đi của các Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện tánh. Vậy ta hãy nhập vào các Bà-la-môn gia chủ và nói như sau: “Hãy đến tán thán, tôn trọng, đảnh lễ cúng dường các Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện tánh này. Do được tán thán, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, các vị ấy có thể đổi tâm và như vậy, Ác ma Dusi mới có dịp để chi phối họ”.

 

  1. “Then, Evil One, the Mara Dusi took possession of those Brahmin householders, telling them: ‘Come now, honour, respect, revere, and venerate the virtuous bhikkhus of good character; then perhaps, when they are honoured, respected, revered, and venerated by you, some change will come about in their minds whereby the Mara Dusi may find an opportunity.’ Then, when the Mara Dusi had taken possession of the Brahmin householders, they honoured, respected, revered, and venerated the virtuous bhikkhus of good character. Now, Evil One, on that occasion most of those human beings, when they died, reappeared on the dissolution of the body, after death, in a happy destination, even the heavenly world.

Rồi này Ác ma, Ác ma Dusi nhập vào các Bà-la-môn gia chủ và nói: “Hãy đến tán thán, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường các Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện tánh. Những vị này được các Ngươi tán thán, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường có thể đổi tâm, và như vậy Ác ma Dusi mới có dịp để chi phối họ”, Rồi này Ác ma, những Bà-la-môn gia chủ, bị Ác ma Dusi xâm nhập, tán thán, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường các Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện tánh. Này Ác ma, sau một thời gian những vị này mạng chung và phần lớn sau khi thân hoại mạng chung được sanh lên thiện thú, Thiên giới và đời này.

 

  1. “Then, Evil One, the Blessed One Kakusandha, accomplished and fully enlightened, addressed the bhikkhus thus:

–‘Bhikkhus, the Mara Dusi has taken possession of those Brahmin householders, telling them: “Come now, honour, respect, revere, and venerate the virtuous bhikkhus of good character; then perhaps, when they are honoured, respected, revered, and venerated by you, some change will come about in their minds whereby the Mara Dusi may find an opportunity.” Come, bhikkhus, abide contemplating foulness in the body, perceiving repulsiveness in nutriment, perceiving disenchantment with all the world, contemplating impermanence in all formations.’[xii]

Rồi này Ác ma, Thế Tôn Kakusamdha, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác gọi các Tỷ-kheo:

“– Này các Tỷ-kheo, các Bà-la-môn gia chủ bị Ác ma Dusi xâm nhập và nói như sau: “Các Người hãy đến tán thán, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường các Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện tánh. Những vị này được các Người tán thán, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường có thể đổi tâm và như vậy Ác ma Dusi mới có dịp đẻ chi phối họ”. Này các Tỷ-kheo, các Người hãy sống quán bất tịnh trên thân, (quán) tưởng nhàm chán đối với các món ăn, (quán) tưởng bất khả lạc đối với tất cả thế gian, quán tánh vô thường đối với tất cả hành”.

 

  1. “So, Evil One, when those bhikkhus had been thus addressed and instructed by the Blessed One Kakusandha, accomplished and fully enlightened, then, gone to the forest or to the root of a tree or to an empty hut, they abided contemplating foulness in the body, perceiving repulsiveness in nutriment, perceiving disenchantment with all the world, contemplating impermanence in all formations.

Và này Ác ma, những Tỷ-kheo ấy được Thế Tôn Kakusandha khuyến khích như vậy, khuyến giáo như vậy, đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, đi đến các chỗ trống vắng, sống quán (tánh) bất tịnh trên thân, (quán) tưởng nhàm chán đối với các món ăn, (quán) tưởng bất khả lạc đối với tất cả thế gian, quán tánh vô thường đối với tất cả hành.

 

  1. “Then, when it was morning, the Blessed One Kakusandha, accomplished and fully enlightened, dressed, and taking his bowl and outer robe, he went into the village for alms with the venerable Vidhura as his attendant.

Rồi này Ác ma, Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, buổi sáng đắp y, mang y bát, với Tôn giả Vidhura là thị giả, đi vào làng để khất thực.

 

  1. “Then the Mara Dusi took possession of a certain boy, and picking up a stone, he struck the venerable Vidhura on the head with it and cut his head. With blood running from his cut head, [337] the venerable Vidhura followed close behind the Blessed One Kakusandha, accomplished and fully enlightened. Then the Blessed One Kakusandha, accomplished and fully enlightened, turned around and looked at him with the elephant look: ‘This Mara Dusi- knows no bounds.’ And with that look, Evil One, the Mara Dusi fell from that place and reappeared in the Great Hell.[xiii]

Rồi này Ác ma, Ác ma Dusi nhập vào một đứa trẻ, cầm một hòn đá, đánh trên đầu Tôn giả Vidhura khiến bể đầu. Rồi này Ác ma, Tôn giả Vidhura với đầu bị bể và với máu chảy, vẫn đi sau lưng Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Rồi này Ác ma, Thế Tôn Kakusandha bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác nhìn xung quanh với cái nhìn con voi chúa và suy nghĩ như sau: “Thật vậy, Ác ma Dusi không biết sự vừa phải”. Này Ác ma, khi Thế Tôn nhìn xung quanh, thì Ác ma Dusi liền từ chỗ ấy từ trần và sinh vào cõi địa ngục.

 

  1. “Now, Evil One, there are three names for the Great Hell: the hell of the six bases for contact, the hell of the impalement with stakes, and the hell to be felt for oneself.[xiv] Then, Evil One, the wardens of hell came up to me and said: ‘Good sir, when stake meets stake in your heart, then you will know: “I have been roasting in hell for a thousand years.’“

Này Ác ma, địa ngục ấy được ba tên gọi: Sáu xúc xứ địa ngục, Thiết qua địa ngục, Biệt thọ khổ địa ngục. Rồi các người giữ địa ngục đến ta và nói như sau: “Này Tôn giả, khi cọc sắt sẽ gặp cọc sắt trong tim của Ngươi, Ngươi mới hiểu như sau: “Ta sẽ bị trụng nước sôi một ngàn năm ở địa ngục.”

 

  1. “For many a year, Evil One, for many a century, for many a millennium, I roasted in that Great Hell. For ten millennia I roasted in the auxiliary of that Great Hell, experiencing the feeling called that of emergence from ripening.[xv] My body had the same form as a human body, Evil One, but my head had the form of a fish’s head.

Và ta, này Ác ma, ta bị trụng nước sôi, trải nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm trong địa ngục. Trải qua một vạn năm trong đại địa ngục ấy, ta bị nấu sôi và cảm thọ cảm giác gọi là Vutthanima. Do vậy, này Ác ma, thân của ta là như vậy, thân như con người, và đầu ta là như vậy, đầu như con cá.

 

  1. “What can hell be well compared to

Wherein Dusi roasted, assailant

Of Vidhura the disciple

And the Brahmin Kakusandha?[xvi]

Stakes of steel, even a hundred,

Each one suffered separately;

These can hell be well compared to

Wherein Dust roasted, assailant

Of Vidhura the disciple

And the Brahmin Kakusandha.

  1. Địa ngục ấy thế nào 
    Dusi bị nấu sôi
    Vì đánh Vidhura,
    Đệ tử Kakusandha.
    Có trăm loại cọc sắt,
    Tự cảm thọ riêng biệt
    Địa ngục là như vậy,
    Dusi bị nấu sôi.
    Vì đánh Vidhura,
    Đệ tử Kakusandha

 

Dark One, you have much to suffer

By assaulting such a bhikkhu,

An Enlightened One’s disciple

Who directly knows this fact.

Tỷ-kheo đệ tử Phật, 
Hiểu biết rõ như vậy.
Vì Ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ,

 

  1. “In the middle of the ocean

There are mansions aeon-lasting,

Sapphire-shining, fiery-gleaming

With a clear translucent lustre,

Where iridescent sea-nymphs dance

In complex, intricate rhythms.

  1. Dựng lên giữa biển cả, 
    Cung điện trải nhiều kiếp,
    Bằng ngọc chói lưu ly,
    Huy hoàng cùng chiếu diệu.
    Tiên nữ múa tại đây,
    Trang sức màu dị biệt.

 

Dark One, you have much to suffer

By assaulting such a bhikkhu,

An Enlightened One’s disciple

Who directly knows this fact.

Tỷ-kheo đệ tử Phật, 
Hiểu biết rõ như vậy.
Vì Ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ,

 

  1. “I am one who, when exhorted

By the Enlightened One in person,

Shook Migara’s Mother’s Palace

With his toe, the Order watching.[xvii]

  1. Ai Thế Tôn khuyến khích,
    Được chư Tăng chứng kiến,
    Với ngón chân rung chuyển,
    Lâu đài Vijayanta!

 

Dark One, you have much to suffer

By assaulting such a bhikkhu,

An Enlightened One’s disciple

Who directly knows this fact.

Tỷ-kheo đệ tử Phật, 
Hiểu biết rõ như vậy.
Vì Ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ,

 

  1. “I am one who, wielding firmly

Strength of supernormal powers,

Shook all Vejayanta Palace

With his toe to incite the gods:[xviii] [338]

  1. Với ngón chân rung chuyển 
    Lâu đài Vijayanta?
    Đầy đủ thần thông lực,
    Chư thiên cũng hoảng sợ.

 

Dark One, you have much to suffer

By assaulting such a bhikkhu,

An Enlightened One’s disciple

Who directly knows this fact.

Tỷ-kheo đệ tử Phật, 
Hiểu biết rõ như vậy.
Vì Ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ,

 

  1. “I am one who, in that palace,

Posed to Sakka this question:

‘Do you know then, friend, deliverance

Due to craving’s full destruction?’

Whereupon Sakka then answered

Truly to the question asked him:[xix]

  1. Ai hỏi vị Sakka, 
    Tại lầu Vijayanta,
    Hiền giả, Người có biết,
    Chứng ái tận giải thoát?
    Sakka đã chân thành,
    Trả lời câu được hỏi.

 

Dark One, you have much to suffer

By assaulting such a bhikkhu,

An Enlightened One’s disciple

Who directly knows this fact.

Tỷ-kheo đệ tử Phật, 
Hiểu biết rõ như vậy.
Vì Ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ!

 

  1. “I am one who thought of posing

Brahma this question In Sudhamma Hall in heaven:

‘Is there still found in you, friend,

The wrong view you once accepted?

Is the radiance of heaven

Clearly seen by you as passing?’

Brahma then answered my question

Truthfully and in due sequence:

‘There is found in me no longer,

Sir, the wrong view that once I held;

All the radiance of heaven

I now clearly see as passing;

I disclaim my prior claim

That it is permanent, eternal’:[xx]

  1. Ai từng hỏi Phạm thiên,
    Tại hội chúng Thiện pháp,
    Hiền giả nay vẫn chấp,
    Các tà kiến thuở xưa,
    Có thấy cảnh huy hoàng,
    Phạm thiên cảnh Thiên giới?
    Brahmà đã chân thành,
    Tiếp tục đáp câu hỏi:
    Tôn giả, tôi không chấp,
    Các tà kiến thuở xưa!
    Tôi thấy sự huy hoàng,
    Phạm thiên cảnh Thiên ơi!
    Sao nay tôi nói được,
    Tôi thường hằng thường tại?

 

Dark One, you have much to suffer

By assaulting such a bhikkhu,

An Enlightened One’s disciple

Who directly knows this fact.

Tỷ-kheo đệ tử Phật, 
Hiểu biết rõ như vậy.
Vì Ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ!

 

  1. “I am one who, by liberation,

Has touched the peak of Mount Sineru,

Visited India and Pubbavideha

And all the regions of the earth.[xxi]

  1. Ai với sự giải thoát, 
    Cảm xúc Cao sơ đảnh,
    Rừng Đông Videha,
    Và người nằm trên đất,

 

Dark One, you have much to suffer

By assaulting such a bhikkhu,

An Enlightened One’s disciple

Who directly knows this fact.

Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy.
Vì Ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ.

 

  1. “There has never been found a fire

Which intends, ‘Let me burn the fool,’

But a fool who assaults a fire

Burns himself by his own doing.

So it is with you, O Mara:

By assaulting the Tathagata,

Like a fool who plays with fire

You only burn yourself alone.

By assaulting the Tathagata,

You generate much demerit.

Evil One, do you imagine

That your evil will not ripen?

Doing thus, you store up evil

Which will last long, O End-maker!

Mara, shun the Enlightened One,

Play no more your tricks on bhikkhus.”

  1. Thật sự lửa không nghĩ:
    “Ta đốt cháy kẻ ngu”,
    Kẻ ngu đột kích lửa,
    Tự mình bị thiêu cháy.
    Cũng vậy, này Ác ma,
    Ngươi đột kích Như Lai.
    Tự mình đốt cháy mình
    Như kẻ ngu chạm lửa,
    Ác ma tạo ác nghiệp,
    Do nhiễu hại Như Lai,
    Ngươi nghĩ chăng, Ác ma,
    “Ác quả không đến ta”.
    Điều ác Ác ma làm,
    Chất chứa đã lâu rồi,
    Ác ma, hãy tránh Phật,
    Chớ vọng tưởng Tỷ-kheo!

 

So the bhikkhu chastened Mara

In the Bhesakala thicket

Whereupon the sombre spirit

Disappeared right then and there.

Tỷ-kheo chống Ác ma,
Tại rừng Bhesakala,
Vị Dạ xoa, thất vọng,
Biến mất tại chỗ ấy.

 

Sources:

Tài liệu tham khảo:

  1. http://thuvienhoasen.org/p15a869/50-kinh-hang-ma-maratajjaniya-sutta
  2. http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/mn/
  3. http://lirs.ru/lib/sutra/The_Middle_Length_Discourses(Majjhima_Nikaya), Nanamoli, Bodhi, 1995.pdf

 

50. Maratajjaniya Sutta – The Rebuke to Mara

[i] The name means “the Corrupter” or “the Corrupted One.” In the Buddhist conception of the universe the position of Mara, like that of Maha Brahma, is a fixed one that is assumed by different individuals in accordance with their kamma.

[ii] Kakusandha was the first Buddha to arise in this present cosmological cycle called the “Auspicious Age.” He was followed by the Buddhas Konagamana and Kassapa, after whom the present Buddha Gotama arose.

[iii] The name means “the Unrivalled.”

[iv] One who has attained to cessation, it seems, is not subject to injury or death within the attainment itself. At Vsm XXIII, 37 it is said that the attainment protects even his belongings such as his robes and seat from destruction.

[v] The name means “the Survivor.”

[vi] That is, by causing defilements to arise in their minds, he will prevent them from escaping from sainsara.

[vii] MA takes pains to point out that Mara did not exercise control over their actions, in which case he alone would have been responsible and the Brahmins could not have generated bad kamma by their deeds. Rather, Mara caused the Brahmins to imagine scenes of the bhikkhus engaged in improper conduct, and this aroused their antagonism and induced them to harass the bhikkhus. Mara’s intent in doing so was to make the bhikkhus give rise to anger and dejection.

[viii] “The Kinsman” (bandhu) is Brahma, who was called thus by the Brahmins because they regarded him as their primal ancestor. MA explains that it was a belief among the Brahmins that they themselves were the offspring of Brahma’s mouth, the khattiyas of his breast, the vessas of his belly, the suddas of his legs, and samanas of the soles of his feet.

[ix] Jhayanti pa]jhayanti nijjhayanti apajjhayanti. Though the verbs individually do not have an established pejorative sense, the string is obviously intended as a denigration. At MN 108.26 the four verbs are used to describe the meditation of one whose mind is obsessed by the five hindrances.

[x] The four brahmaviharas are the appropriate antidote for the hostility of others, as well as for the tendencies to anger and dejection in one’s own mind.

[xi] This time Mara’s intent was to cause the bhikkhus to fall victim to pride, complacency, and negligence.

[xii] MA quotes a sutta (AN 7:46/iv.46-53) stating that these four meditations are the antidotes, respectively, for sexual desire, craving for tastes, attraction to the world, and infatuation with gain, honour, and praise.

[xiii] MA: The elephant look (nagapalokita) means that without twisting his neck, he turns his whole body in order to look. The Mara Dusi did not die because of the Buddha’s elephant look, but because the evil kamma he generated in wronging a great disciple cut off his life right on the spot.

[xiv] The Great Hell, also called Avici, is described in greater detail in MN 130.16-19.

[xv] MA: This feeling, experienced in the auxiliary (ussada) of the Great Hell, is said to be more painful than the feelings experienced in the Great Hell itself.

[xvi] The Buddha Kakusandha is called a Brahmin in the sense of MN 39.24.

[xvii] The reference is to SN 51:14/v.269-70.

[xviii] See MN 37.11.

[xix] See MN 37.12.

[xx] The reference is to SN 6:5/i.145.

[xxi] This verse refers to Ven. Moggallana’s mastery over the supernormal power of travelling in space like a bird.