Chương 49: Kinh Phạm Thiên cầu thỉnh – MN 49: The Invitation of a Brahma – Song ngữ
Majjhima Nikaya – Middle-length Discourses of the Buddha
Trung Bộ Kinh
Anh ngữ: Bhikkhu Ñāṇamoli
Việt ngữ: Hòa thượng Thích Minh Châu
Compile: Lotus group
Quyển I – Trung Bộ Kinh – Volume I – Middle-length Discourses – Majjhima Nikaya
Chương 49: Kinh Phạm Thiên cầu thỉnh – MN 49: The Invitation of a Brahma – (Brahmanimantanika sutta).
- Thus I have heard:
On one occasion the Blessed One was living at Savatth-1 in Jeta’s Grove, Anathapindika’s Park. There he addressed the bhikkhus thus: “Bhikkhus.” – “Venerable sir,” they replied. The Blessed One said this:
Tôi nghe như vầy:
Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, tịnh xá ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
— Này các Tỷ-kheo!
— Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Những vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn giảng như sau:
- “Bhikkhus, on one occasion I was living at Ukkattha in the Subhaga Grove at the root of a royal sala tree.[i] Now on that occasion a pernicious view had arisen in Baka the Brahma thus: ‘This is permanent, this is everlasting, this is eternal, this is total, this is not subject to pass away; for this neither is born nor ages nor dies nor passes away nor reappears, and beyond this there is no escape.’[ii]
Một thời, này các Tỷ-kheo, Ta ở tại Ukkattha trong rừng Subhagavana, dưới gốc cây Tala vương. Lúc bấy giờ, này các Tỷ-kheo, Phạm thiên Baka khởi lên ác tà kiến như sau: “Cái này là thường, cái này là thường hằng, cái này là thường tại, cái này là toàn diện, cái này không bị biến hoại, cái này không sanh, không già, không chết, không diệt, không khởi, ngoài cái này, không có một giải thoát nào khác hơn”.
- “I knew with my mind the thought in the mind of Baka the Brahma, so just as quickly as a strong man might extend his flexed arm or flex his extended arm, I vanished from the root of the royal Sala tree in the Subhaga Grove at Ukkattha and appeared in that Brahma-world. Baka the Brahma saw me coming in the distance and said:
–‘Come, good sir! Welcome, good sir! It is long, good sir, since you found an opportunity to come here. Now, good sir, this is permanent, this is everlasting, this is eternal, this is total, this is not subject to pass away; for this neither is born nor ages nor dies nor passes away nor reappears, and beyond this there is no escape.’
Này các Tỷ-kheo, sau khi với tự tâm biết được tâm của Phạm thiên Baka, như người lực sĩ duỗi ra cánh tay đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra, Ta biến mất tại Ukkattha, rừng Sabhagavana, dưới gốc cây Tala vương, và hiện ra tại cõi Phạm thiên ấy. Này các Tỷ-kheo, Phạm thiên Baka thấy Ta từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với Ta:
— Hãy đến, Tôn giả, thiện lai Tôn giả, đã lâu, nay Tôn giả mới có dịp đến đây. Này Tôn giả, cái này là toàn diện, cái này là thường hằng, cái này là thường tại, cái này là toàn diện, cái này không bị biến hoại, cái này không sanh, không già, không chết, không diệt, không khởi, ngoài cái này không có một giải thoát nào khác hơn.
- “When this was said, I told Baka the Brahma: ‘The worthy Baka the Brahma has lapsed into ignorance; he has lapsed into ignorance in that he says of the impermanent that it is permanent, of the transient that it is everlasting, of the non-eternal that it is eternal, of the incomplete that it is total, of what is subject to pass away that it is not subject to pass away, of what is born, ages, dies, passes away, and reappears, that it neither is born nor ages nor dies nor passes away nor reappears; and when there is an escape beyond this, he says that there is no escape beyond this.’
Khi nghe nói vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói với Phạm thiên Baka:
“– Thật sự Phạm thiên Baka bị chìm đắm trong vô minh, thật sự Phạm thiên Baka bị chìm đắm trong vô minh, khi cái vô thường lại nói là thường, cái không thường hằng lại nói là thường hằng, cái không thường tại lại nói là thường tại, cái không toàn diện lại nói là toàn diện, cái bị biến hoại lại nói là không biến hoại, và tại chỗ có sanh, có già, có chết, có diệt, có khởi, lại nói không sanh, không già, không chết, không diệt, không khởi; có một giải thoát khác hơn lại nói là không có một giải thoát nào khác hơn.”
- “Then Mara the Evil One took possession of a member of the Brahma’s Assembly,[iii] and he told me:
–‘Bhikkhu, bhikkhu, do not disbelieve him, do not disbelieve him; for this Brahma is the Great Brahma, [327] the Overlord, the Untranscended, of Infallible Vision, Wielder of Mastery, Lord Maker and Creator, Most High Providence, Master and Father of those that are and ever can be. Before your time, bhikkhu, there were recluses and brahmins in the world who condemned earth through disgust with earth,[iv] who condemned water through disgust with water, who condemned fire through disgust with fire, who condemned air through disgust with air, who condemned beings through disgust with beings, who condemned gods through disgust with gods, who condemned Pajapati through disgust with Pajapati, who condemned Brahma through disgust with Brahma; and on the dissolution of the body, when their life was cut off, they became established in an inferior body.[v] Before your time, bhikkhu, there were also recluses and brahmins in the world who lauded earth through delight in earth’[vi] who lauded water through delight in water, who lauded fire through delight in fire, who lauded air through delight in air, who lauded beings through delight in beings, who lauded gods through delight in gods, who lauded Pajapati through delight in Pajapati, who lauded Brahma through delight in Brahma; and on the dissolution of the body, when their life was cut off, they became established in a superior body.[vii] So, bhikkhu, I tell you this: Be sure, good sir, to do only as the Brahma says; never overstep the word of the Brahma. If you overstep the word of the Brahma, bhikkhu, then, like a man trying to deflect an approaching beam of light with a stick, or like a man losing his hold on the earth with his hands and feet as he slips into a deep chasm, so it will befall you, bhikkhu. Be sure, good sir, to do only as the Brahma says; never overstep the word of the Brahma. Do you not see the Brahma’s Assembly seated here, bhikkhu?’ And Mara the Evil One thus called to witness the Brahma’s Assembly.[viii]
Này các Tỷ-kheo, rồi Ác ma nhập vào một Phạm thiên quyến thuộc và nói với Ta như sau:
“– Tỷ-kheo, Tỷ-kheo chớ có can thiệp vào đây! Chớ có can thiệp vào đây! Này Tỷ-kheo, Phạm thiên này là Đại Phạm thiên, Toàn năng, Tối thắng, Biến nhãn, Thượng đế, Sáng tạo chủ, Hóa sanh chủ, Đại tôn, Chúa tể mọi định mạng, đấng Tự tại, Tổ phụ các chúng sanh đã và sẽ sanh. Này Tỷ-kheo, thuở xưa có những Sa-môn, Bà-la-môn, ở đời phỉ báng địa đại, ghê tởm địa đại, phỉ báng thủy đại, ghê tởm thủy đại, phỉ báng hỏa đại, ghê tởm hỏa đại, phỉ báng phong đại, ghê tởm phong đại, phỉ báng chúng sanh, ghê tởm chúng sanh, phỉ báng chư Thiên, ghê tởm chư Thiên, phỉ báng Sanh chủ, ghê tởm Sanh chủ, phỉ báng Phạm thiên, ghê tởm Phạm thiên, sau khi thân hoại, mạng sống bị cắt đứt, phải an trú vào thân ti tiện. Này các Tỷ-kheo, còn những Sa-môn, Bà-la-môn ở đời xưa kia, tán thán địa đại, hoan hỷ địa đại, tán thán thủy đại, hoan hỷ thủy đại, tán thán hỏa đại, hoan hỷ hỏa đại, tán thán phong đại, hoan hỷ phong đại, tán thán chúng sanh, hoan hỷ chúng sanh, tán thán chư Thiên, hoan hỷ chư Thiên, tán thán Sanh chủ, hoan hỷ Sanh chủ, tán thán Phạm thiên, hoan hỷ Phạm thiên, sau khi thân hoại, mạng sống bi cắt đứt, những vị này được an trú vào các thân vi diệu. Này các Tỷ-kheo, vì vấn đề này, ta nói như sau: “Phàm Phạm thiên nói với Ông những gì, Ông hãy làm như vậy. Ông chớ có đi quá xa lời Phạm thiên nói. Này các Tỷ-kheo, nếu Ông đi quá xa lời Phạm thiên nói, thì giống như người dùng gậy đánh đập thần tài (Siri) đang đi đến; giống như một người đang rơi vào vực thẳm, tay chân lại không bám vào đất. Này Tỷ-kheo, sự việc sẽ xảy ra cho Ông như vậy. Này Tỷ-kheo, phàm Phạm thiên nói với Ông những gì, Ông hãy làm như vậy, Ông chớ có đi quá xa lời Phạm thiên nói. Này Tỷ-kheo, Ông có thấy chúng Phạm thiên đang ngồi chăng?”
- “When this was said, I told Mara the Evil One:
–‘I know you, Evil One. Do not think: “He does not know me.” You are Mara, Evil One, and the Brahma and the Brahma’s Assembly and the members of the Brahma’s Assembly have all fallen into your hands, they have all fallen into your power. You, Evil One, think: “This one too has fallen into my hands, he too has fallen into my power”; but I have not fallen into your hands, Evil One, I have not fallen into your power.’
Rồi này các Tỷ-kheo, Ác ma dắt Ta đến chúng Phạm thiên. Này các Tỷ-kheo, khi nghe nói vậy, Ta nói với Ác ma như sau:
“– Này Ác ma, Ta biết Ngươi. Chớ có nghĩ rằng: “Vị ấy không biết ta”. Người là Ác ma. Này Ác ma, phàm là Phạm thiên, phàm là Phạm thiên chúng, phàm là Phạm thiên quyến thuộc, tất cả đều nằm trong tay của Ngươi, tất cả đều nằm trong quyền lực của Ngươi. Này Ác ma, nếu Ngươi nghĩ rằng: “Mong vị này nằm trong tay ta; mong vị này nằm trong quyền lực của ta!. Này Ác ma, Ta không nằm trong tay của Ngươi. Ta không nằm trong quyền lực của Ngươi.
- “When this was said, Baka the Brahma told me:
–‘Good sir, I say of the permanent that it is permanent, [328] of the everlasting that it is everlasting, of the eternal that it is eternal, of the total that it is total, of what is not subject to pass away that it is not subject to pass away, of what neither is born nor ages nor dies nor passes away nor reappears that it neither is born nor ages nor dies nor passes away nor reappears; and when there is no escape beyond this, I say that there is no escape beyond this. Before your time, bhikkhu, there were recluses and Brahmins in the world whose asceticism lasted as long as your whole life. They knew, when there is an escape beyond, that there is an escape beyond, and when there is no escape beyond, that there is no escape beyond. So, bhikkhu, I tell you this: You will find no escape beyond, and eventually you will reap only weariness and disappointment. If you will hold to earth, you will be close to me, within my domain, for me to work my will upon and punish.[ix] If you hold to water … to fire … to air … to beings … to gods … to Pajapati … to Brahma, you will be close to me, within my domain, for me to work my will upon and punish.’
Này các Tỷ-kheo, khi được nói vậy, Phạm thiên Baka nói với Ta như sau:
“– Này Tôn giả, cái gì thường còn, ta nói là thường còn; cái gì thường hằng, ta nói là thường hằng; cái gì thường tại, ta nói thường tại; cái gì toàn diện, ta nói là toàn diện; cái gì không biến hoại, ta nói là không biến hoại. Ở đây, cái gì không sanh, không già, không chết, không diệt, không khởi, ta nói rằng cái ấy không sanh, không già, không chết, không diệt, không khởi, và vì không có một sự giải thoát nào khác hơn, ta nói là không có một sự giải thoát nào khác hơn. Này Tỷ-kheo, xưa kia có những Sa-môn, Bà-la-môn ở trong những đời trước Ông; những vị này đã tu hành khổ hạnh lâu dài cho đến trọn tuổi thọ của những người đó, những vị này phải biết:” Hoặc có một sự giải thoát khác hơn, thì biết rằng có một sự giải thoát khác hơn; hoặc không có một sự giải thoát khác hơn, thì biết rằng không có một sự giải thoát nào khác hơn”. Này Tỷ-kheo, ta nói như sau với Ông: Ông sẽ không thấy một giải thoát nào khác hơn, dầu ông có phải chịu đựng mệt nhọc và khổ cực. Này Tỷ-kheo, nếu Ông y trước địa đại, Ông sẽ gần ta, trú tại lãnh địa của ta, làm theo ý ta muốn, bị đứng ngoài lề; nếu Ông ý trước thủy đại… hỏa đại… phong đại… chúng sanh… Chư thiên… Sanh chủ… Nếu Ông y trước Phạm thiên, Ông sẽ gần ta, trú tại lãnh địa của ta, làm theo ý ta muốn, bị đứng ra ngoài lề.
- “‘I know that too, Brahma. If I will hold to earth, I shall be close to you, within your domain, for you to work your will upon and punish. If I will hold to water … to fire … to air … to beings … to gods … to Pajapati … to Brahma, I shall be close to you, within your domain, for you to work your will upon and punish. Further, I understand your reach and your sway to extend thus: Baka the Brahma has this much power, this much might, this much influence.’
“‘Now, good sir, how far do you understand my reach and my sway to extend?’
“– Này Phạm thiên, Ta biết việc này. Nếu Ta y trước địa đại… thủy đại… hỏa đại… phong đại… chúng sanh… chư Thiên… Sanh chủ… Nếu Ta y trước Phạm thiên, Ta sẽ gần Ông, trú tại lãnh địa của Ông, làm theo ý Ông muốn, bị đứng ra ngoài lề. Lại nữa, này Phạm thiên, Ta biết sanh thú (gati) của Ông và Ta biết sự quang vinh của Ông. Phạm thiên Baka có thần lực như vậy; Phạm thiên Baka có quyền lực như vậy; Phạm thiên Baka có uy lực như vậy.
“– Này Tỷ-kheo, Như Ông biết sanh thú, Ông biết sự quang vinh của ta: “Phạm thiên Baka có thần lực như vậy; Phạm thiên Baka có quyền lực như vậy; Phạm thiên Baka có uy lực như vậy”.
- “‘As far as moon and sun revolve
Shining and lighting up the quarters,
Over a thousandfold such world
Does your sovereignty extend.
And there you know the high and low,
And those with lust and free from lust,
The state that is thus and otherwise,
The coming and going of beings.
“- Như nhật nguyệt lưu chuyển,
Sáng chói khắp mười phương,
Như vậy mười Thiên giới,
Dưới uy lực của Ông.
Ông biết chỗ cao thấp,
Có dục và không dục,
Hữu này và hữu kia,
Chỗ đến, đi hữu tình.
Brahma, I understand your reach and your sway to extend thus: Baka the Brahma has this much power, this much might, [329] this much influence.[x]
Như vậy, này Phạm thiên, Ta biết chỗ sanh thú và sự quang vinh của Ông: “Phạm thiên Baka có thần lực như vậy; Phạm thiên Baka có quyền lực như vậy; Phạm thiên Baka có uy lực như vậy”.
- “‘But, Brahma, there are three other bodies, which you neither know nor see, and which I know and see. There is the body called [the gods of] Streaming Radiance, from which you passed away and reappeared here.[xi] Because you have dwelt here long, your memory of that has lapsed, and hence you do not know or see it, but I know and see it. Thus, Brahma, in regard to direct knowledge I do not stand merely at the same level as you, how then could I know less? Rather, I know more than you.[xii]
Này Phạm thiên, có ba loại chư Thiên mà Ông không biết, không thấy, nhưng Ta biết, Ta thấy. Này Phạm thiên, có loại chư Thiên tên là Abhassara (Quang âm thiên), từ chư Thiên này, Ông mạng chung, và sanh ở nơi đây. Nhưng vì Ông an trú ở đấy quá lâu, nên Ông không nhớ được. Do đó, Ông không biết, không thấy, còn Ta biết, Ta thấy. Như vậy, này Phạm Thiên, Ta còn không chịu ngang hàng Ông về thượng trí huống nữa là thấp hơn. Do vậy, Ta thù thắng hơn Ông.
“‘There is the body called [the gods of] Refulgent Glory … There is the body called [the gods of] Great Fruit. You do not know or see that, but I know and see it. Thus, Brahma, in regard to direct knowledge I do not stand merely at the same level as you, how then could I know less? Rather, I know more than you.
Này Phạm thiên, lại có một loại chư Thiên tên là Subhakinna (Biến tịnh thiên)… lại có một loại chư Thiên tên là Vehapphala (Quảng quả thiên) mà Ông không biết, không thấy, nhưng Ta biết, Ta thấy. Như vậy, này Phạm thiên, Ta còn không chịu ngang hàng Ông về thượng trí, huống nữa là thấp hơn. Do vậy. Ta thù thắng hơn Ông.
- “‘Brahma, having directly known earth as earth, and having directly known that which is not commensurate with the earthiness of earth, I did not claim to be earth, I did not claim to be in earth, I did not claim to be apart from earth, I did not claim earth to be “mine,” I did not affirm earth.[xiii] Thus, Brahma, in regard to direct knowledge I do not stand merely at the same level as you, how then could I know less? Rather, I know more than you.
Này Phạm thiên, Ta biết địa đại từ địa đại, cho biết giới vức địa đại, Ta không lãnh thọ địa tánh; do biết địa đại, Ta không nghĩ: “Ta là địa đại. Ta ở trong địa đại, Ta từ địa đại, địa đại là của Ta, và Ta không tôn trọng địa đại”. Như vậy, này Phạm thiên, Ta còn không chịu ngang hàng Ông về thượng trí, huống nữa là thấp hơn. Do vậy, Ta thù thắng hơn Ông.
12-23. “‘Brahma, having directly known water as water … fire as fire … air as air … beings as beings … gods as gods … Pajapati as Pajapati … Brahma as Brahma … the gods of Streaming Radiance as the gods of Streaming Radiance … the gods of Refulgent Glory as the gods of Refulgent Glory … the gods of Great Fruit as the gods of Great Fruit … the Overlord as the Overlord … all as all, and having directly known that which is not commensurate with the allness of all, I did not claim to be all, I did not claim to be in all, I did not claim to be apart from all, I did not claim all to be “mine,” I did not affirm all. Thus, Brahma, in regard to direct knowledge, I do not stand merely at the same level as you, how then could I know less? Rather, I know more than you.’
Này Phạm thiên, Ta biết thủy đại… Này Phạm thiên, Ta biết hỏa đại… Này Phạm thiên, Ta biết phong đại… Này Phạm thiên, Ta biết chúng sanh… Này Phạm thiên, Ta biết chư Thiên… Này Phạm thiên, Ta biết Sanh chủ… Này Phạm thiên, Ta biết Phạm thiên… Này Phạm thiên, Ta biết Abhassara (Quang âm thiên)… Này Phạm thiên, Ta biết Subhakinna (Biến tịnh thiên)… Này Phạm thiên, Ta biết Vahapphala (Quảng quả thiên)… Này Phạm thiên, Ta biết Abhibhu (Thắng giải)… Này Phạm thiên, Ta biết tất cả (Sabba) từ tất cả, cho đến giới vức tất cả, Ta không lãnh thọ nhứt thiết tánh, Ta không nghĩ: “Ta là tất cả, Ta ở trong tất cả, Ta từ tất cả, tất cả là của Ta, và Ta không tôn trọng tất cả”. Như vậy, này Phạm thiên, Ta còn không chịu ngang hàng Ông về thượng trí, huống nữa là thấp hơn. Do vậy, Ta thù thắng hơn Ông.
- “‘Good sir, [if you claim to directly know] that which is not commensurate with the allness of all, may your claim not turn out to be vain and empty!’[xiv]
“– Này Tôn giả, đối với tất cả, nếu Tôn giả không lãnh thọ nhất thiết tánh, thì đối với Tôn giả, trở thành trống không, trống rỗng.
- “‘The consciousness that makes no showing,
Nor has to do with finiteness,
Not claiming being with respect to all:[xv]
that is not commensurate with the earthness of earth, that is not commensurate with the waterness of water … [330] … that is not commensurate with the allness of all.’
Thức là phi sở kiến, không biên tế, chói sáng tất cả, nếu không thể lãnh thọ địa đại ngang qua đại tánh, không thể lãnh thọ thủy đại ngang qua thủy tánh, không thể lãnh thọ hỏa đại ngang qua hỏa tánh, không thể lãnh thọ phong đại ngang qua phong tánh, không thể lãnh thọ chúng sanh ngang qua chúng sanh tánh, không thể lãnh thọ chư Thiên ngang qua chư Thiên tánh, không thể lãnh thọ Sanh chủ ngang qua Sanh chủ tánh, không thể lãnh thọ Phạm thiên ngang qua Phạm thiên tánh, không thể lãnh thọ Quang âm thiên ngang qua Quang âm thiên tánh, không thể lãnh thọ Biến tịnh thiên ngang qua Biến tịnh thiên tánh, không thể lãnh thọ Quảng quả thiên ngang qua Quảng quả thiên tánh, không thể lãnh thọ Abhibhu (Thắng giả) ngang qua Abhibhu tánh, không thể lãnh thọ nhứt thiết ngang qua nhứt thiết tánh.
- “‘Good sir, I shall vanish from you.’
“‘Vanish from me if you can, Brahma.’
“Then Baka the Brahma, saying: ‘I shall vanish from the recluse Gotama, I shall vanish from the recluse Gotama,’ was unable to vanish. Thereupon I said: ‘Brahma, I shall vanish from you.’
“‘Vanish from me if you can, good sir.’
“Then I performed such a feat of supernormal power that the Brahma and the Brahma’s Assembly and the members of the Brahma’s Assembly could hear my voice but could not see me. After I had vanished, I uttered this stanza:
Này Tôn giả, nay ta sẽ biến mất trước mặt Tôn giả.
Này Phạm thiên, hãy biến đi trước mặt Ta, nếu Ông có thể biến được.
Rồi này các Tỷ-kheo, Phạm thiên Baka nói:
“– Ta sẽ biến mất trước mặt Sa-môn Gotama. Ta sẽ biến mất trước Sa-môn Gotama.
Nhưng Phạm thiên Baka không biến mất trước mặt Ta. Này các Tỷ-kheo, khi nghe nói vậy, Ta nói với Phạm thiên Baka:
“– Này Phạm thiên, Ta sẽ biến mất trước mặt Ông.
“– Này Tôn giả, Tôn giả hãy biến đi trước mặt Ta, nếu Tôn giả có thể biến được.
Rồi này các Tỷ-kheo, Ta thực hiện thần thông như sau: “Hãy để cho Phạm thiên, Phạm thiên chúng và Phạm thiên quyến thuộc nghe tiếng Ta chớ không thấy Ta”, Ta biến mất và nói lên bài kệ như sau:
- “‘Having seen fear in every mode of being
And in being seeking for non-being,
I did not affirm any mode of being,
Nor did I cling to any delight [in being].’[xvi]
“Thấy nguy hiểm trong hữu,
Từ hữu, tìm phi hữu,
Ta không tôn trọng hữu,
Không hỷ, không chấp trước”.
- “At that the Brahma and the Brahma’s Assembly and the members of the Brahma’s Assembly were struck with wonder and amazement, saying:
–‘It is wonderful, sirs, it is marvellous, the great power and great might of the recluse Gotama! We have never before seen or heard of any other recluse or brahmin who had such great power and such great might as has this recluse Gotama, who went forth from a Sakyan clan. Sirs, though living in a generation that delights in being, that takes delight in being, that rejoices in being, he has extirpated being together with its root.’
Rồi này các Tỷ-kheo, Phạm thiên, Phạm thiên chúng và Phạm thiên quyến thuộc, tâm sanh vi diệu hy hữu, nói lên như sau: “Thật vi diệu thay, chư Tôn giả! Thật hy hữu thay, chư Tôn giả! Đại thần lực, đại uy lực của Sa-môn Gotama. Thật sự từ trước đến nay chưa từng thấy, chưa từng nghe một Sa-môn hay Bà-la-môn nào khác có được đại thần lực, đại uy lực như Sa-môn Gotama, là Thích Tử, xuất gia từ giòng họ Sakya. Đối với quần chúng ái trước hữu, lạc nhiễm, hoan hỷ đối với hữu (Sa-môn Gotama) đã nhổ hữu lên tận cả gốc rễ!”
- “Then Mara the Evil One took possession of a member of the Brahma’s Assembly, and he said to me:
–‘Good sir, if that is what you know, if that is what you have discovered, do not guide your [lay] disciples or those gone forth, do not teach the Dhamma to your [lay] disciples or to those gone forth, create no yearning in your [lay] disciples or in those gone forth. Before your time, bhikkhu, there were recluses and brahmins in the world claiming to be accomplished and fully enlightened, and they guided their [lay] disciples and those gone forth; they taught the Dhamma to their [lay] disciples and to those gone forth; they created yearning in their [lay] disciples and in those gone forth; and on the dissolution of the body, when their life was cut off, they became established in an inferior body. Before your time, bhikkhu, there were also recluses and brahmins in the world claiming to be accomplished and fully enlightened, [331] and they did not guide their [lay] disciples or those gone forth; they did not teach the Dhamma to their [lay] disciples or to those gone forth; they created no yearning in their [lay] disciples or in those gone forth; and on the dissolution of the body, when their life was cut off, they became established in a superior body. So, bhikkhu, I tell you this: Be sure, good sir, to abide inactive, devoted to a pleasant abiding here and now; this is better left undeclared, and so, good sir, inform no one else.’[xvii]
Rồi này các Tỷ-kheo, Ác ma sau khi nhập vào một trong Phạm thiên quyến thuộc đã nói với Ta như sau:
“– Này Tôn giả, nếu Ông biết như vậy, giác ngộ như vậy, chớ có hướng dẫn đệ tử, chớ có hướng dẫn các vị xuất gia, chớ có thuyết pháp cho các đệ tử, chớ có thuyết pháp cho các vị xuất gia, chớ có ái luyến đệ tử, chớ có ái luyến các vị xuất gia. Này các Tỷ-kheo, trước Ông đã có những vị Sa-môn, Bà-la-môn ở đời tự xưng là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Những vị này hướng dẫn đệ tử, hướng dẫn các vị xuất gia, thuyết pháp cho các đệ tử, thuyết pháp cho các vị xuất gia, ái luyến các đệ tử, ái luyến các vị xuất gia. Sau khi hướng dẫn các đệ tử, các vị xuất gia, sau khi thuyết pháp cho các đệ tử, các vị xuất gia, sau khi ái luyến các đệ tử, các vị xuất gia, khi thân hoại, mạng sống bị cắt đứt, những vị này bị an trú trong các thân hạ liệt. Này các Tỷ-kheo, trước Ông đã có những vị Sa-môn, Bà-la-môn ở đời, tự xưng là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Những vị này không hướng dẫn đệ tử, không hướng dẫn các vị xuất gia, không thuyết pháp cho đệ tử, không thuyết pháp cho các vị xuất gia, không ái luyến các đệ tử, không ái luyến các vị xuất gia. Sau khi không hướng dẫn các đệ tử, không hướng dẫn các vị xuất gia, không thuyết pháp cho các đệ tử, không thuyết pháp cho các vị xuất gia, không ái luyến các đệ tử, không ái luyến các vị xuất gia, khi thân hoại, mạng sống bị cắt đứt, các vị này được an trú trong thân vi diệu. Này Tỷ-kheo, ta nói với Ông như sau: “Này Tôn giả, chớ có phiền lao cực nhọc, hãy sống lạc trú hiện tại. Này Tôn giả, chớ có nêu rõ việc thiện. Này Tôn giả, chớ có giảng dạy cho người khác!”
- “When this was said, I told Mara the Evil One:
–‘I know you, Evil One. Do not think: “He does not know me.” You are Mara, Evil One. It is not out of compassion for their welfare that you speak thus, it is without compassion for their welfare that you speak thus. You think thus, Evil One: “Those to whom the recluse Gotama teaches the Dhamma will escape from my sphere.” Those recluses and brahmins of yours, Evil One, who claimed to be accomplished and fully enlightened, were not accomplished and fully enlightened. But I, who claim to be accomplished and fully enlightened, am accomplished and fully enlightened. If the Tathagata teaches the Dhamma to disciples he is such, Evil One, and if the Tathagata does not teach the Dhamma to disciples he is such.[xviii] If the Tathagata guides disciples he is such, Evil One, and if the Tathagata does not guide disciples he is such. Why is that? Because the Tathagata has abandoned the taints that defile, bring renewal of being, give trouble, ripen in suffering, and lead to future birth, ageing, and death; he has cut them off at the root, made them like a palm stump, done away with them so that they are no longer subject to future arising. Just as a palm tree whose crown is cut off is incapable of further growth, so too, the Tathagata has abandoned the taints that defile … cut them off at the root, made them like a palm stump, done away with them so that they are no longer subject to future arising.’“
Này các Tỷ-kheo khi nghe nói vậy, Ta nói với Ác ma như sau:
“– Này Ác ma, Ta biết Ngươi! Ngươi chớ có nghĩ rằng: “Vị ấy không biết ta”. Này Ác ma, Ngươi là Ác ma! Ngươi là Ác ma! Này Ác ma, Ngươi nói như vậy không phải vì lòng thương tưởng đối với Ta. Này Ác ma, Ngươi nói như vậy vì không có lòng thương tưởng đối với Ta. Này Ác ma, Ngươi nghĩ như sau: “Những ai được Sa-môn Gotama thuyết pháp, những người ấy sẽ thoát ra ngoài tầm tay ảnh hưởng của ta”. Này Ác ma, những Sa-môn, Bà-la-môn ấy không phải Chánh Đẳng Giác, nhưng tự xưng là: “Chúng ta-là Chánh Đẳng Giác”. Này Ác ma, Ta là Chánh Đẳng Giác và Ta tự xưng Ta là Chánh Đẳng Giác. Này Ác ma, Như Lai có thuyết pháp cho đệ tử, Như Lai cũng vẫn là Như Lai. Này Ác ma, Như Lai không thuyết pháp cho các đệ tử, Như Lai cũng vẫn là Như Lai. Này Ác ma, Như Lai có hướng dẫn cho các đệ tử, Như Lai cũng vẫn là Như Lai. Này Ác ma, Như Lai không hướng dẫn cho các đệ tử, Như Lai cũng vẫn là Như Lai. Vì sao vậy? Này Ác ma, đối với Như Lai, các lậu hoặc tương ưng với phiền não, đưa đến tái sanh, gây nên phiền lụy, đem đến quả khổ dị thục; đưa đến sanh, già, chết trong tương lai; các lậu hoặc ấy đã được diệt trừ, được cắt đứt tận gốc, được làm như thân cây Tala, khiến không thể tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai. Này Ác ma, ví như cây tala, dầu thân cây này bị chặt dứt, khiến không thể lớn lên được; cũng vậy, này Ác ma, đối với Như Lai, các lậu hoặc tương ứng với phiền não, đưa đến tái sanh, gây nên phiền lụy, đem đến quả khổ dị thục, đưa đến sanh, già, chết, trong tương lai; các lậu hoặc ấy đã được diệt trừ, được cắt đứt tận gốc, được làm như thân cây tala, khiến không thể tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai”.
- Thus, because Mara was unable to reply, and because [it began] with the Brahma’s invitation, this discourse is entitled “On the Invitation of a Brahma.”
Như vậy, vì Ác ma đã thất bại, không thể thuyết phục (Ta), vì có lời mời Phạm thiên, nên bài trả lời này cũng được gọi là Kinh Phạm Thiên Cầu Thỉnh.
Sources:
Tài liệu tham khảo:
- http://thuvienhoasen.org/p15a868/49-kinh-pham-thien-cau-thinh-brahmanimantanika-sutta
- http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/mn/
- http://lirs.ru/lib/sutra/The_Middle_Length_Discourses(Majjhima_Nikaya), Nanamoli, Bodhi, 1995.pdf
49. Brahmanimantanika Sutta – The Invitation of a Brahma
[i] The Mulapariyaya Sutta (MN 1) was also delivered by the Buddha while he was living in the Subhaga Grove at Ukkattha, and the similarity in formulation and theme between these two suttas – perhaps the only two recorded as originating at Ukkattha – is striking. It is even possible to see the present sutta as a dramatic representation of the same ideas set forth by the Mulapariyaya in abstract philosophical terms. Thus Baka the Brahma may be taken to represent being or personality in its most eminent form, blindly engaged in the activity of conceiving, sustaining itself with its delusions of permanence, pleasure, and selfhood. Underlying being is craving, symbolised by Mara – seemingly inconspicuous in the assembly, yet the real author of all the outpourings of conceiving, the one who holds the entire universe in his grip. The alliance of Brahma and Mara, God and Satan, an incomprehensible union from the perspective of Western theism, points to the thirst for continued being as the hidden root of all world affirmation, whether theistic or non-theistic. In the sutta the superficial theoretical contest between Baka and the Buddha soon gives way to a gripping deep-level confrontation between Mara and the Buddha – Mara as craving demanding the affirmation of being, the Enlightened One pointing to the cessation of being through the uprooting of delight.
[ii] A similar encounter between the Buddha and Baka is recorded at SN 6:4/i.142-44, though without the dramatic trappings of this meeting and with an extended exchange in verse. According to MA and MT, he held this eternalist view with regard to both his own individual personality and the world over which he presided. His denial of an “escape beyond” is a rejection of the higher jhana planes, the paths and fruits, and Nibbana, none of which he even knows exist.
[iii] MA: When Mara discovered that the Buddha had gone to the Brahma-world, he became anxious that the Brahmas might be won over to the Dhamma and escape from his control; thus he went there to discourage the Buddha from teaching the Dhamma.
[iv] MA: Because they considered it to be impermanent, suffering, and not self.
[v] MA: In the four states of deprivation. Here, and at §10 and §29, the word “body” (kaya) is used to mean plane of existence.
[vi] MA: They lauded it by speaking praise of it as permanent, everlasting, eternal, etc., and delighted in it by way of craving and views.
[vii] MA: In the Brahma-world.
[viii] MA: Mara’s intention is to show: “If you do as Brahma says without overstepping his word, you too will shine with the same splendour and glory as that with which the Brahma’s Assembly shines.”
[ix] MA says that by the first two terms he tries to cajole the Buddha, by the remaining two terms he threatens him. To “hold to earth” is to grasp it by way of craving, conceit, and views. The list of categories here, though condensed, is reminiscent of MN 1.
[x] MA: Baka Brahma was a Brahma exercising sovereignty over a thousand world-systems, but above him there are Brahmas exercising sovereignty over two, three, four, five, ten thousand, and a hundred thousand world-systems.
[xi] The body of Streaming Radiance is a realm of rebirth pertaining to the second jhana, while Baka Brahma’s realm pertains only to the first jhana. The body of Refulgent Glory and the body of Great Fruit in the next paragraph pertain to the third and fourth jhanas.
[xii] In the Brahmajala Sutta (DN 1.2.2-6/ii.17-19) the Buddha shows how Maha Brahma gives rise to the delusion that he is the supreme creator God. When the world begins to form again after a period of dissolution, a being of great merit is the first to be reborn in the newly formed Brahmaworld. Subsequently, other beings take rebirth in the Brahma-world and this causes Maha Brahma to imagine that he is their creator and master. See Bodhi, The Discourse on the All-Embracing Net of Views, pp. 69-70, 159-166.
[xiii] This passage, parallel in structure to the corresponding passage of MN 1, is a difficult one. The difficulty centres around the verb used in the first four statements regarding earth, about which there is not even certainty as to the correct reading. Nm prefers the BBS ed. reading apahosim, which he takes to be an aorist of pabhavati, meaning “to produce, to give being to.” MA glosses: “I did not grasp earth through the obsessions of craving, conceit, and views.” Nm had rendered ananubhutam as “not co-essential with.” This has been replaced by “not commensurate with,” following MA’s gloss, “not reached by earth” and MT: “Its nature is not shared in common with earth.” MA says that what is “not commensurate with the earthness of earth” is Nibbana, which is detached from all that is conditioned.
[xiv] The PTS ed. is surely mistaken in omitting here the ti ending a direct quotation, and this misleads Horner into ascribing the following passage to Baka rather than to the Buddha (MLS 1:392). The BBS and SBJ eds. supply the ti.
[xv] These lines (which also appear as part of a full verse at DN 11.85/i.223) have been a perennial challenge to Buddhist scholarship, and even Acariya Buddhaghosa seems to founder over them. MA takes the subject of the sentence to be Nibbana, called “consciousness” in the sense that “it can be cognized.” This is obviously a contrived derivation, since nowhere in the Canon is Nibbana ever described as consciousness. MA offers three explanations of the phrase sabbato pabham: (1) completely possessed of splendour (pabha); (2) possessing being (pabhutam) everywhere; and (3) a ford (pabham) accessible from all sides, i.e., through any of the thirty-eight meditation objects. Only the first of these seems to have any linguistic legitimacy. Nm, in Ms, explains that he takes pabham to be a negative present participle of pabhavati – apabham – the negative-prefix a dropping off in conjunction with sabbato: “The sense can be paraphrased freely by ‘not predicating being in relation to “all,’“or ‘not assuming of “all” that it is or is not in an absolute sense.’“
As an alternative translation more in keeping with MA, Maurice Walshe renders: “ … consciousness [that] is signless, boundless, all-luminous” (Thus Have I Heard, p. 179).
[xvi] The Buddha’s disappearance seems to be a “visible” demonstration of his verse. Having extirpated delight in being, he is able to vanish from the sight of Baka, the supreme representative of being and world affirmation. But Baka, bound to being by clinging, cannot transcend the range of the Buddha’s knowledge, which encompasses both being and non-being at the same time that it transcends them.
[xvii] This is the same inclination that arose in the Buddha’s mind in the period immediately after his enlightenment – see MN 26.19. Compare also DN 16.3.34/ii.112 where Mara attempts to persuade the newly enlightened Buddha to pass away peacefully at once.
[xviii] Tadiso: that is, whether he teaches or not he remains the Tathagata.