Chương 37: Tiểu kinh Đoạn tận ái – MN 37: The Shorter Discourse on the Destruction of Craving – Song ngữ

Anh ngữ: Bhikkhu Ñāṇamoli      

Việt ngữ: Hòa thượng Thích Minh Châu

Compile: Lotus group

 

Quyển I – Trung Bộ Kinh – Volume I – Middle-length Discourses – Majjhima Nikaya

Chương 37: Tiểu kinh Đoạn tận ái – MN 37: The Shorter Discourse on the

Destruction of Craving – (Cùlatanhàsankhaya sutta).

 

  1. Thus I have heard:

On one occasion the Blessed One was living at Savatthi in the Eastern Park, in the Palace of Migara’s Mother.

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Thế Tôn ở tại Savatthi (Xá-vệ), Đông Viên (Pubbarama), giảng đường Lộc Mẫu (Migaramatu). 

 

  1. Then Sakka, ruler of gods, went to the Blessed One, and after paying homage to him, he stood at one side and asked:

–“Venerable sir, how in brief is a bhikkhu liberated by the destruction of craving, one who has reached the ultimate end, the ultimate security from bondage, the ultimate holy life, the ultimate goal, one who is foremost among gods and humans?”

Rồi Thiên chủ Sakka đến tại chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn và đứng một bên. Thiên chủ Sakka đứng một bên, bạch Thế Tôn:

— Bạch Thế Tôn, nói một cách tóm tắt, đến mức độ nào, một Tỷ-kheo ái tận giải thoát, cứu cánh thành tựu, cứu cánh an ổn, khỏi các khổ ách, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh viên mãn, bậc tối thắng giữa chư Thiên và loài Người?

 

  1. “Here, ruler of gods, a bhikkhu has heard that nothing is worth adhering to. When a bhikkhu has heard that nothing is worth adhering to, he directly knows everything; having directly known everything, he fully understands everything; having fully understood everything, whatever feeling he feels, whether pleasant or painful or neither-painful-nor-pleasant, he abides contemplating impermanence in those feelings, contemplating fading away, contemplating cessation, and contemplating relinquishment. Contemplating thus, he does not cling to anything in the world. When he does not cling, he is not agitated. When he is not agitated, he personally attains Nibbana. [252] He understands: ‘Birth is destroyed, the holy life has been lived, what had to be done has been done, there is no more coming to any state of being.’ Briefly, it is in this way, ruler of gods, that a bhikkhu is liberated by the destruction of craving, one who has reached the ultimate end, the ultimate security from bondage, the ultimate holy life, the ultimate goal, one who is foremost among gods and humans.”

Ở đây, này Thiên chủ, Tỷ-kheo được nghe như sau: “Thật không xứng đáng, nếu có thiên vị đối với tất cả pháp”. Này Thiên chủ, nếu Tỷ-kheo được nghe như sau: “Thật không xứng đáng, nếu có thiên vị đối với tất cả pháp”, vị ấy biết rõ tất cả pháp. Sau khi biết rõ tất cả pháp, vị ấy biết một cách rốt ráo tất cả pháp. Do biết một cách rốt ráo tất cả pháp, nếu có một cảm thọ nào, lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ, vị ấy sống quán tánh vô thường, sống quán tánh ly tham, sống quán tánh đoạn diệt, sống quán tánh xả ly trong các cảm thọ ấy. Vị ấy nhờ sống quán tánh vô thường, sống quán tánh ly tham, sống quán tánh đoạn diệt, sống quán tánh xả ly trong các cảm thọ ấy, nên không chấp trước một vật gì ở đời; do không chấp trước nên không phiền não, do không phiền não, vị ấy chứng đạt Niết-bàn. Vị ấy tuệ tri: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm, không còn trở lại đời này nữa”. Này Thiên chủ, một cách tóm tắt, đến mức độ như vậy, một Tỷ-Kheo ái tận giải thoát, cứu cánh thành tựu, cứu cánh an ổn, khỏi các khổ ách, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh viên mãn, bậc tối thắng giữa chư Thiên và loài Người.

 

  1. Then Sakka, ruler of gods, delighting and rejoicing in the Blessed One’s words, paid homage to the Blessed One, and keeping him on his right, he vanished at once.

Rồi Thiên chủ Sakka, sau khi hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn thuyết giảng, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi biến mất tại chỗ.

 

  1. Now on that occasion the venerable Maha Moggallana was sitting not far from the Blessed One. Then he considered: “Did that spirit penetrate to the meaning of the Blessed One’s words when he rejoiced, or did he not? Suppose I found out whether he did or not.”

Lúc bấy giờ, Tôn giả Maha Moggallana (Đại Mục-kiền liên) ngồi cách Thế Tôn không xa. Rồi Tôn giả Maha Moggallana suy nghĩ: “Không hiểu Dạ-xoa (Yakkaha) kia, sau khi hoan hỷ lời Thế Tôn dạy, có tín thọ hay không? Ta hãy tìm biết Dạ- xoa kia, sau khi hoan hỷ lời Thế Tôn dạy, có tín thọ hay không?” 

 

  1. Then, just as quickly as a strong man might extend his flexed arm or flex his extended arm, the venerable Maha Moggallana vanished from the Palace of Migara’s Mother in the Eastern Park and appeared among the gods of the Thirty-three.

Rồi Tôn giả Maha Moggallana, như người lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra, biến mất ở Đông Viên Lộc Mẫu giảng đường và hiện ra ở giữa chư thiên cõi trời Ba mươi ba. 

 

  1. Now on that occasion Sakka, ruler of gods, was furnished and endowed a hundredfold with the five kinds of heavenly music, and he was enjoying it in the Pleasure Park of the Single Lotus. When he saw the venerable Maha Moggallana coming in the distance, he dismissed the music, went to the venerable Maha Moggallana, and said to him: “Come, good sir Moggallana! Welcome, good sir Moggallana! It is long, good sir Moggallana, since you found an opportunity to come here. Sit down, good sir Moggallana; this seat is ready.”

Lúc bấy giờ Thiên chủ Sakka, với đầy đủ năm trăm nhạc khí chư thiên, đang vui chơi tại vườn Nhất bạch liên. Thiên chủ Sakka thấy Tôn giả từ xa đến, bảo năm trăm nhạc khí chư thiên dừng nghỉ, đi đến Tôn giả Maha Moggallana, sau khi đến, thưa với Tôn giả Maha Moggallana: “Hãy đến đây, Thiện hữu Moggallana; thiện lai, Thiện hữu Moggallana! Này Thiện Hữu Moggallana, lâu lắm Thiệĩn hữu mới có dịp đến đây. Hãy ngồi, Thiện hữu Moggallana, trên chỗ đã soạn sẵn”. 

 

The venerable Maha Moggallana sat down on the seat made ready, and Sakka took a low seat and sat down at one side. The venerable Maha Moggallana then asked him:

Tôn giả Mahamoggallana, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Còn Thiên chủ Sakka lấy một ghế thấp khác và ngồi xuống một bên. Rồi Tôn giả Mahamoggallana nói với Thiên chủ Sakka đang ngồi xuống một bên:

 

  1. “Kosiya, how did the Blessed One state to you in brief deliverance through the destruction of craving? It would be good if we might also get to hear that statement.”

Này Kosiya, về lời thuyết giảng mà Thế Tôn đã nói cho Ông một cách tóm tắt, thật tốt lành cho chúng tôi, nếu được nghe chỉ một phần lời thuyết giảng ấy. 

 

“Good sir Moggallana, we are so busy, we have so much to do, not only with our own business, but also with the business of the gods of the Thirty-three. Besides, good sir Moggallana, what is well heard, well learned, [253] well attended to, well remembered, does not vanish all of a sudden. Good sir Moggallana, it once happened that war broke out between the gods and the titans. In that war the gods won and the titans were defeated. When I had won that war and returned from it as a conqueror, I had the Vejayanta Palace built. Good sir Moggallana, the Vejayanta Palace has a hundred towers, and each tower has seven hundred upper chambers, and each upper chamber has seven nymphs, and each nymph has seven maids. Would you like to see the loveliness of the Vejayanta Palace, good sir Moggallana?” The venerable Maha Moggallana consented in silence.

Thiện hữu Moggallana, chúng tôi bận nhiều công việc, chúng tôi có nhiều việc phải làm, việc làm cho chúng tôi và việc làm cho chư thiên ở cõi trời Ba mươi ba. Lại nữa, này Thiện hữu Moggallana, lời thuyết giảng ấy được khéo nghe, khéo nắm vững , khéo suy tư, khéo thẩm lự nên không thể mau quên được. Này Thiện hữu Moggallana, xưa kia phát khởi chiến tranh giữa chư Thiên và chúng Asura (A-tu-la). Này Thiện hữu Moggallana, trong trận chiến này, chư Thiên thắng, chúng Asura bại. Này thiện hữu Moggallana, sau khi thắng trận chiến ấy và nhân dịp thắng trận, chúng tôi, sau khi trở về, cho xây dựng một lâu đài tên là Vejayanta (Tối Thắng Điện). Này Thiện hữu Moggallana, lâu đài Vejayanta có đến một trăm vọng tháp, trong mỗi vọng tháp có bảy ngôi nhà có hình tam giác, trong mỗi nhà tam giác có bảy tiên nữ, và mỗi tiên nữ có đến bảy thị nữ. Này thiện hữu Moggallana, Thiện hữu có muốn xem những điều khả ái của lâu đài Vejayanta không?

 

  1. Then Sakka, ruler of gods, and the divine King Vessavana went to the Vejayanta Palace, giving precedence to the venerable Maha Moggallana. When the maids of Sakka saw the venerable Maha Moggallana coming in the distance, they were embarrassed and ashamed and they went each into their own rooms. Just as a daughter-in-law is embarrassed and ashamed on seeing her father-in-law, so too, when the maids of Sakka saw the venerable Maha Moggallana coming, they were embarrassed and ashamed and they went each into their own rooms.

Tôn giả Maha Moggallana im lặng nhận lời. Rồi Thiên chủ Sakka cùng với đại vương Vessavana để Tôn giả Maha Moggallana đi trước và đi đến lâu đài Vejayanta. Các thị nữ của Thiên chủ Sakka thấy Tôn giả Maha Moggallana đi từ xa đến, sau khi thấy, liền hổ thẹn, bẽn lẽn, rồi bước vào phòng của mình. Ví như cô dâu khi thấy cha chồng liền hổ thẹn, bẽn lẽn; cũng như vậy, các thị nữ của Thiên chủ Sakka, khi thấy Tôn giả Maha Moggallana liền hổ thẹn, bẽn lẽn, vào phòng riêng của mình. 

 

  1. Then Sakka, ruler of gods, and the divine King Vessavana had the venerable Maha Moggallana walk all over and explore the Vejayanta Palace: “See, good sir Moggallana, this loveliness of the Vejayanta Palace! See, good sir Moggallana, this loveliness of the Vejayanta Palace!”

“It does the venerable Kosiya credit as one who has formerly made merit; and whenever human beings see anything lovely, they say: ‘Sirs, it does credit to the gods of the Thirty-three!’ It does the venerable Kosiya credit as one who has formerly made merit.”

Rồi Thiên chủ Sakka và đại vương Vessavana đưa Tôn giả Maha Moggallana đi thăm và xem khắp lâu đài Vejayanta: “Này Thiện hữu Moggallana, xem điều khả ái này của lâu đài Vejayanta; xem điều khả ái này của lâu đài Vejayanta.

Cái này chói sáng nhờ các công đức do Tôn giả Kosiya đã làm thời xưa; và loài Người, khi thấy cái gì khả ái liền nói: ‘Thật sự, cái này chói sáng từ chư thiên cõi trời Ba mươi ba. Cái này chói sáng nhờ các công đức do Tôn giả Kosiya đã làm thời xưa'”. 

 

  1. Then the venerable Maha Moggallana considered thus: “This spirit is living much too negligently. What if I stirred up a sense of urgency in him?” Then the venerable Maha Moggallana performed such a feat of supernormal power that with the point of his toe he made the Vejayanta Palace shake and quake and tremble. [254] Sakka and the divine King Vessavana and the gods of the Thirty-three were filled with wonder and amazement, and they said: “Sirs, it is wonderful, it is marvellous, what power and might the recluse has, that with the point of his toe he makes the heavenly region shake and quake and tremble!”

Rồi Tôn giả Maha Moggallana suy nghĩ: “Dạ-xoa này sống phóng dật một cách quá đáng. Ta hãy làm cho vị này hoảng sợ”. Tôn giả Maha Moggallana liền thị hiện thần thông lực, dùng ngón chân cái làm cho lầu Vejayanta rung động, chuyển động, chấn động mạnh. Thiên chủ Sakka, đại vương Sessavana và chư thiên ở cõi trời Ba mươi ba, tâm cảm thấy kỳ diệu, hy hữu: “Thật kỳ diệu thay, thật hy hữu thay đại thần thông lực, đại oai lực của Tôn giả Sa-môn! Với ngón chân cái, vị này làm cho thiên cung này rung động, chuyển động, chấn động mạnh!” 

 

  1. When the venerable Maha Moggallana knew that Sakka, ruler of the gods, was stirred to a sense of urgency with his hair standing on end, he asked him:

–“Kosiya, how did the Blessed One state to you in brief deliverance through the destruction of craving? It would be good if we might also get to hear that statement.”

–“Good sir Moggallana, I went to the Blessed One, and after paying homage to him, I stood at one side and said: ‘Venerable sir, … [as in §2] … of gods and humans?’ When this was said, good sir Moggallana, the Blessed One told me: ‘Here, ruler of gods, … [as in §3] … of gods and humans.’ That is how the Blessed One stated to me in brief deliverance through the destruction of craving, good sir Moggallana.”

Tôn giả Mahamoggallana sau khi biết Thiên chủ Sakka đã hoảng sợ, lông tóc dựng ngược liền nói với Thiên chủ Sakka:

— Này Kosiya, về lời thuyết giảng mà Thế Tôn đã nói cho Ông một cách tóm tắt, thật tốt lành cho chúng tôi, nếu được nghe chỉ một phần lời thuyết giảng ấy. 

— Ở đây, này Thiện hữu Moggallana, tôi đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn và đứng một bên. Này Thiện hữu Moggallana, sau khi đứng một bên, tôi bạch với Thế Tôn như sau:

“– Bạch Thế Tôn, một cách tóm tắt, đến mức độ nào, một Tỷ-kheo là ái tận giải thoát, cứu cánh thành tựu, cứu cánh an ổn, khỏi các khổ ách, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh viên mãn, bậc tối thắng giữa chư Thiên và loài Người?

Khi nghe nói vậy, này Thiện hữu Moggallana, Thế Tôn nói với tôi như sau:

“– Ở đây, này Thiên chủ, Tỷ-kheo được nghe như sau: “Thật không xứng đáng, nếu có thiên vị đối với tất cả pháp””. Vị ấy biết rõ tất cả pháp. Sau khi biết rõ tất cả pháp, vị ấy biết một cách rốt ráo tất cả pháp”. Do biết một cách rốt ráo tất cả pháp, nếu có cảm thọ nào, lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ, vị ấy sống quán tánh vô thường, sống quán tánh ly tham, sống quán tánh đoạn diệt, sống quán tánh xả ly trong các cảm thọ ấy. Vị ấy nhờ sống quán tánh vô thường, sống quán tánh ly tham, sống quán tánh đoạn diệt, sống quán tánh xả ly trong các cảm thọ ấy nên không chấp trước một vật gì ở đời; do không chấp trước nên không phiền não; do không phiền não, vị ấy chứng đạt Niết-bàn. Vị ấy tuệ tri: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm, không còn trở lại đời này nữa”. “Này Thiên chủ, một cách tóm tắt, đến mức độ như vậy, một Tỷ-kheo ái tận giải thoát, cứu cánh thành tựu, cứu cánh an ổn, khỏi các khổ ách, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh viên mãn, bậc tối thắng giữa chư Thiên và loài Người”.

Như vậy, này Thiện hữu Moggallana, Thế Tôn nói một cách tóm tắt cho tôi về ái tận giải thoát. ”

 

  1. Then the venerable Maha Moggallana delighted and rejoiced in the words of Sakka, ruler of gods. [255] Then, just as quickly as a strong man might extend his flexed arm or flex his extended arm, he vanished from among the gods of the Thirtythree and appeared in the Eastern Park in the Palace of Migara’s Mother.

Rồi Tôn giả Maha Moggallana, sau khi hoan hỷ, tín cho lời Thiên chủ Sakka nói, như một nhà lực sĩ duỗi ra cánh tay đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra, biến mất giữa chư thiên ở cõi trời Ba mươi ba, và hiện ra tại Đông Viên Lộc Mẫu giảng đường. 

 

  1. Then, soon after the venerable Maha Moggallana had gone, the attendants of Sakka, ruler of gods, asked him:

–“Good sir, was that your teacher, the Blessed One?”

— “No, good sirs, that was not my teacher, the Blessed One. That was one of my companions in the holy life, the venerable Maha Moggallana.”

— “Good sir, it is a gain for you that your companion in the holy life has such power and might. Oh, how much more so that the Blessed One is your teacher!”

Sau khi Tôn giả Mahamoggallana đi chẳng bao lâu, các thị nữ của Thiên chủ Sakka nói với Thiên chủ Sakka như sau: 

— Thưa Thiên chủ, có phải vị ấy là Thế Tôn, bậc Đạo sư của Thiên chủ?

— Không, vị ấy không phải là Thế Tôn, bậc Đạo Sư của ta. Vị ấy là đồng phạm hạnh với ta, Tôn giả Maha Moggallana. 

— Thưa Thiên chủ, thật là điều tốt lành cho Thiên chủ, có một vị đồng phạm hạnh có đại thần thông, có đại oai lực như vậy. Chắc chắn vị ấy là Thế Tôn, bậc Đạo Sư của Thiên chủ. 

 

  1. Then the venerable Maha Moggallana went to the Blessed One, and after paying homage to him, he sat down at one side and asked him:

–“Venerable sir, does the Blessed One recall stating in brief – to a certain one of the renowned spirits with a great following -deliverance through the destruction of craving?”

–“I do recall doing so, Moggallana. Here Sakka, ruler of gods, came to me, and after paying homage to me, he stood at one side and asked:

–‘Venerable sir, how in brief is a bhikkhu liberated by the destruction of craving, one who has reached the ultimate end, the ultimate security from bondage, the ultimate holy life, the ultimate goal, one who is foremost among gods and humans?’

Rồi Tôn giả Maha Moggallana đến tại chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Tôn giả Maha Moggallana bạch Thế Tôn:

— Bạch Thế Tôn, Thế Tôn có biết chăng, Thế Tôn vừa mới nói về ái tận giải thoát một cách tóm tắt cho một Dạ-xoa có đại oai lực?

— Này Moggallana, Ta biết. Ở đây, Thiên chủ Sakka đến tại chỗ Ta ở, sau khi đến, đảnh lễ Ta rồi đứng một bên. Sau khi đứng một bên, này Moggallana, Thiên chủ Sakka bạch với Ta:

“– Bạch Thế Tôn, nói một cách tóm tắt, đến mức độ nào, một Tỷ-kheo ái tận, giải thoát, cứu cánh thành tựu, cứu cánh an ổn, khỏi các khổ ách, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh viên mãn, bậc tối thắng giữa chư Thiên và loài Người?

 

When this was said, I told him:

–‘Here, ruler of gods, a bhikkhu has heard that nothing is worth adhering to. When a bhikkhu has heard that nothing is worth adhering to, he directly knows everything; having directly known everything, he fully understands everything; having fully understood everything, whatever feeling he feels, whether pleasant or painful or neitherpainful-nor-pleasant, he abides contemplating impermanence in those feelings, contemplating fading away, contemplating cessation, contemplating relinquishment. Contemplating thus, he does not cling to anything in the world. When he does not cling, he is not agitated. When he is not agitated, he personally attains Nibbana. He understands: “Birth is destroyed, the holy life has been lived, [256] what had to be done has been done, there is no more coming to any state of being.” Briefly, it is in this way, ruler of gods, that a bhikkhu is liberated by the destruction of craving … one who is foremost among gods and humans.’

That is how I recall stating in brief to Sakka, ruler of gods, deliverance through the destruction of craving.”

That is what the Blessed One said. The venerable Maha Moggallana was satisfied and delighted in the Blessed One’s words.

 

Khi nghe nói vậy, này Maha Moggallana, Ta nói với Thiên chủ Sakka:

“– Ở đây, này Thiên chủ, Tỷ-kheo được nghe như sau: “Thật không xứng đáng, nếu có thiên vị đối với tất cả pháp”. Này Thiên chủ, nếu Tỷ-kheo được nghe như sau: “Thật không xứng đáng nếu có thiên vị đối với tất cả pháp”. Vị ấy biết rõ tất cả pháp. Sau khi biết rõ tất cả pháp, vị ấy biết một cách rốt ráo tất cả pháp. Do biết một cách rốt ráo tất cả pháp, nếu có một cảm thọ nào, lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ, vị ấy sống quán tánh vô thường, sống quán tánh ly tham, sống quán tánh đoạn diệt, sống quán tánh xả ly trong các cảm thọ ấy. Vị ấy nhờ sống quán tánh vô thường, sống quán tánh ly tham, sống quán tánh đoạn diệt, sống quán tánh xả ly trong các cảm thọ ấy nên không chấp trước một vật gì ở đời. Do không chấp trước nên không phiền não, do không phiền não, vị ấy chứng đạt Niết-bàn. Vị ấy tuệ tri: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm, không còn trở lại đời này nữa”. Này Thiên chủ, một cách tóm tắt, đến mức độ như vậy, một Tỷ-kheo ái tận, giải thoát, cứu cánh thành tựu, cứu cảnh an ổn, khỏi các khổ ách, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh viên mãn, bậc tối thắng giữa chư Thiên và loài Người”.

Như vậy, này Moggallana, Ta biết Ta vừa nói một cách tóm tắt về ái tận giải thoát cho Thiên chủ Sakka.”

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn giả Maha Moggallana hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.

 

Source:

Tài liệu tham khảo:

  1. http://thuvienhoasen.org/p15a820/37-tieu-kinh-doan-tan-ai-culatanhasankhaya-sutta
  2. http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/mn/
  3. http://lirs.ru/lib/sutra/The_Middle_Length_Discourses(Majjhima_Nikaya), Nanamoli, Bodhi, 1995.pdf