Chương 30: Trường Bộ Kinh – Kinh Tướng – Song ngữ

English: Maurice Walshe

Vietnamese: Hòa thượng Thích Minh Châu – Phật Lịch 2535 – 1991

Compile: Lotus group

 

Chapter 30: Lakkhana Sutta: The Marks of a Great Man- Page 760 – 790

Chương 30: Trường Bộ Kinh – Kinh Tướng

 

[142] 1.1. THUS HAVE I HEARD.939 Once the Lord was staying at Savatthi, in Jetavana, Anathapindika’s park. ‘Monks!’ he said, and the monks replied: ‘Lord.’ The Lord said: ‘There are, monks, these thirty-two marks peculiar to a Great Man,940 and for that Great Man who possesses them, only two careers are open. If he lives the household life, he will become a ruler, a wheelturning righteous monarch of the law, conqueror of the four quarters, who has established the security of his realm and is possessed of the seven treasures. These are: the Wheel Treasure, the Elephant Treasure, the Horse Treasure, the Jewel Treasure, the Woman Treasure, the Householder Treasure, and, as seventh, the Counsellor Treasure. He has more than a thousand sons who are heroes, of heroic stature, conquerors of the hostile army. He dwells having conquered this seagirt land without stick or sword, by the law. But if he goes forth from the household life into homelessness,he will become an Arahant, a fully-enlightene Buddha, who has drawn back the veil from the world.

Như vầy tôi nghe.

 

Tụng phẩm I

 

  1. Một thời, Thế Tôn trú tại Sàvatthi, rừng thái tử Jeta, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: “Này các Tỷ-kheo”. – “Bạch Thế Tôn”, các vị Tỷ-kheo đáp lời Thế Tôn. Thế Tôn giảng như sau:

– Này các Tỷ-kheo, những ai có đầy đủ ba mươi hai tướng Ðại Trượng phu này, những vị ấy sẽ chọn hai con đường này thôi, không có con đường nào khác. Nếu sống tại gia sẽ làm vị Chuyển luân Thánh vương, dùng Chánh pháp trị nước, bình định bốn phương, đem lại an toàn cho quốc độ, đầy đủ bảy món báu. Bảy món báu trở thành vật sở hữu của vị này, tức là xe báu, voi báu, ngựa báu, ngọc báu, nữ báu, gia chủ báu và thứ bảy là tướng quân báu. Vị này có đến hơn một ngàn thái tử, những bậc anh hùng, chiến thắng, thân thể dõng kiện, nhiếp phục địch quân. Vị này chinh phục quả đất này cho đến hải biên và trị nước với Chánh pháp, không dùng trượng, không dùng đao. Nếu vị này, từ bỏ gia đình, xuất gia sống không gia đình, vị này sẽ thành bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, vén lui màn vô minh che đời.

 

1.2. ‘And what are these thirty-two marks? [143] (1) He has feet with level tread.941 This is one of the marks of a Great Man. (2) On the soles of his feet are wheels with a thousand spokes, complete with felloe and hub. (3) He has projecting heels. (4) He has long fingers and toes.942 (5) He has soft and tender hands and feet. (6) His hands and feet are net-like.943 (7) He has highraised ankles.944 (8) His legs are like an antelope’s. (9) Standing and without bending, he can touch and rub his knees with either hand. (10) His male organs are enclosed in a sheath. (11) His complexion is bright, the colour of gold. (12) His skin is delicate and so smooth that no dust can adhere to his body. [144] (13) His body-hairs are separate, one to each pore. (14) His body-hairs grow upwards, each one bluish-black like collyrium,945 curling in rings to the right. (15) His body is divinely straight.946 (16) He has the seven convex surfaces.947 (17) The front part of his body is like a lion’s. (18) There is no hollow between his shoulders. (19) He is proportioned like a banyan-tree: the height of his body is the same as the span of his outstretched arms, and conversely. (20) His bust is evenly rounded. (21) He has a perfect sense of taste.948 (22) He has jaws like a lion’s. (23) He has forty teeth. (24) His teeth are even. (25) There are no spaces between his teeth. (26) His canine teeth are very bright. (27) His tongue is very long. (28) He has a Brahmā-like voice, like that of the karavīka-bird. (29) His eyes are deep blue. (30) He has eyelashes like a cow’s. (31) The hair949 between his eyes is white and soft like cotton-down. [145] (32) His head is like a royal turban.950 This is one of the marks of a Great Man.

Này các Tỷ-kheo, ba mươi hai tướng Ðại Trượng phu này là gì mà những ai đầy đủ những tướng Ðại Trượng phu này sẽ chọn đi hai con đường, không còn con đường nào khác? Nếu sống tại gia, sẽ làm vị Chuyển luân Thánh vương… Nếu vị ấy xuất gia, từ bỏ gia đình sống không gia đình, vị ấy sẽ thành bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, vén lui màn vô minh che đời?

Này các Tỷ-kheo, vị này có lòng bàn chân bằng phẳng. Tướng này được xem là tướng tốt của bậc Ðại nhân.

Này các Tỷ-kheo, dưới hai bàn chân của vị này có hiện ra hình bánh xe, với ngàn tăm xem với trục xe vành xe, với các bộ phận hoàn toàn đầy đủ…

Này các Tỷ-kheo, vị này có gót chân thon dài…

Vị này có ngón tay, ngón chân dài…

Vị này có tay chân mềm mại…

Vị này tay chân có màn da lưới…

Vị này có mắt cá tròn như con sò…

Vị này có ống chân như con dê rừng….

Vị này đứng thẳng, không co lưng xuống có thể sờ đầu gối với hai bàn tay…

Vị này có tướng mã âm tàng…

Vị này có màu da đồng, màu sắc như vàng…

Vị này có da trơn mướt, khiến bụi không thể bám dính vào…

Vị này có lông da mọc từ lông một, mỗi lỗ chân lông có một lông…

Vị này có lông mọc xoáy trong thẳng lên, mỗi sợi lông đều vậy, màu xanh đậm như thuốc bôi mắt, xoáy lên từng xoáy tròn nhỏ, và xoáy về hướng mặt…

Vị này có thân hình cao thẳng…

Vị nầy có thân với các góc cạnh tròn đầy, đều đặn…

Vị này có nửa thân trước như thân con sư tử…

Vị này không có lõm khuyết xuống giữa hai vai…

Vị này có thân thể cân đối như cây bàng. Bề cao của thân ngang bằng bề dài của hai tay sải rộng, bề dài của hai tay sải rộng ngang bằng bề cao của thân…

Vị này có bán thân trên vuông tròn…

Vị này có vị giác rất nhạy bén…

Vị này có quai hàm như con sư tử…

Vị này có bốn mươi cái răng…

Vị này có răng đều đặn…

Vị này có răng không khuyết hở…

Vị này có răng cửa trơn láng…

Vị này có tướng lưỡi rộng dài…

Vị này có giọng nói tuyệt diệu như tiếng chim Ca-lăng-tần-già…

Vị này có hai mắt màu xanh đậm…

Vị này có lông mi con bò cái…

Vị này có hai lông mày, có sợi lông trắng mọc lên, mịn màng như bông nhẹ…

Vị này có nhục kế trên đầu…

 

1.3. ‘These, monks, are the thirty-two marks peculiar to a Great Man, and for that Great Man who possesses them only two courses are open…And sages of other communions951 know these thirty-two marks, but they do not know the karmic reasons for the gaining of them.

Này các Tỷ-kheo, những ai có đầy đủ ba mươi hai tướng Ðại Trượng phu này, những vị ấy sẽ chọn hai con đường này thôi, không có con đường nào khác. Nếu sống tại gia, sẽ làm vị Chuyển luân Thánh vương, dùng Chánh pháp trị nước, là vị Pháp vương, bình định bốn phương, đem lại an toàn cho quốc độ, đầy đủ bảy món báu. Bảy món báu trở thành vật sở hữu của vị này, tức là xe báu, voi báu, ngựa báu, ngọc báu, nữ báu, gia chủ báu và thứ bảy là tướng quân báu. Vị này có đến một ngàn thái tử, những bậc anh hùng, chiến thắng, thân thể dõng kiện, nhiếp phục địch quân. Vị này chinh phục quả đất này cho đến hải biên và trị nước với Chánh pháp, không dùng trượng, không dùng đao. Nếu vị này từ bỏ gia đình xuất gia, sống không gia đình, vị này sẽ thành bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, vén lui màn vô minh che đời. Này các Tỷ-kheo, những vị ẩn sĩ ngoại đạo thọ trì ba mươi hai tướng Ðại Trượng phu này nhưng không biết là do tạo nghiệp nào mà được những tướng này.

 

1.4. ‘Monks, in whatever former life, former existence or dwelling-place the Tathagata, being born a human being, undertook mighty deeds to good purpose, unwavering in good conduct of body, speech and thought, in generosity, self-discipline, observance of the fast-day, in honouring parents, ascetics and Brahmins and the head of the clan, and in other highly meritorious [146] acts; by performing that kamma, heaping it up, lavishly and abundantly, at the breakingup of the body after death he was reborn in a happy state, in a heavenly world, where he was endowed beyond other devas in ten respects: in length of heavenly life, beauty, happiness, splendour, influence, and in heavenly sights, sounds, smells, tastes and contacts. Falling away from there and coming to be reborn here on earth, he acquired this mark of the Great Man: (1) feet with level tread, so that he places his foot evenly on the ground, lifts it evenly, and touches the ground evenly with the entire sole.

Này các Tỷ-kheo, trong bất kỳ đời trước nào, hiện hữu nào, trú xứ nào, Như Lai đời trước làm Người kiên trì và không dao động đối với các thiện Pháp, thiện hành về thân, thiện hành về miệng, thiện hành về ý, phân định bố thí, thủ hộ giới luật, tuân giữ các lễ Bồ tát, hiếu kính với mẹ, hiếu kính với cha, cúng dường Sa-môn, cúng dường Bà-la-môn, tôn kính các bậc đàn anh trong gia đình, và tất cả những vị tối thắng khác. Với tác động, chất chứa, tích tụ và tăng thịnh của nghiệp ấy, sau khi thân hoại mạng chung được sanh cõi thiện thú, cõi Trời hay đời này. Ở đây, Ngài có mười điểm thắng hơn chư Thiên khác, thiên giới thọ mạng, thiên sắc, thiên lạc, thiên giới danh xưng, thiên giới uy lực, thiên giới sắc tướng, thiên giới âm thanh, thiên hương, thiên vị, thiên xúc. Ngài từ trần từ chỗ kia sanh đến chỗ này được tướng Ðại Trượng phu này, nghĩa là lòng bàn chân bằng phẳng, đặt chân trên đất một cách bằng phẳng, bàn chân chạm đất với toàn thể bàn chân một lần.

 

1.5. ‘Being endowed with this mark, if he keeps to the household life, he will become a wheel-turning monarch…Conquering without stick or sword, but by justice, he rules over this earth as far as its oceanboundaries, a land open, uninfested by brigands, free from jungle, powerful, prosperous, happy and free from perils. As a ruler, how does he benefit? He cannot be impeded by any human foe with ill-intent. That is  his benefit as a ruler. And if he goes forth into homelessness, he will become a fully-enlightened Buddha … As such, how does he benefit? He cannot be impeded by any enemy or adversary from within or without, from greed, hatred or delusion, nor by any ascetic [147] or Brahmin, any deva, mara or Brahma, or any being in the world. That is his benefit as a Buddha.’

This was what the Lord declared.

Ngài đầy đủ tướng này, nếu ở tại gia sẽ làm vị Chuyển Luân Thánh vương, dùng Chánh pháp trị nước, là vị Pháp vương, bình định bốn phương, đem lại an toàn cho quốc độ, đầy đủ bảy món báu. Bảy món báu trở thành vật sở hữu của vị ấy là xe báu, voi báu, ngựa báu, ngọc báu, nữ báu, gia chủ báu và thứ bảy là tướng quân báu. Vị này có đến một ngàn thái tử, những bậc anh hùng, chiến thắng, thân thể dõng kiện, nhiếp phục địch quân.

Vị này chinh phục và trị nước với chánh pháp, không dùng trượng, không dùng đao, trị vì đất này cho đến hải biên, một cõi đất không hoang vu, không có tướng nguy hiểm, không có gai góc, phồn vinh, phong phú, an ổn, may mắn, không có nguy hiểm. Làm vua được những gì? Làm vua không bị người thù hay kẻ địch làm trở ngại. Làm vua được lợi như vậy. Nếu Ngài xuất gia, từ bỏ gia đình sống không gia đình, Ngài thành bậc A-La-hán, Chánh Ðẳng Giác, vén lui màn vô minh che đời. Làm Phật được lợi những gì? Ngài không bị người thù hay kẻ địch ở trong cũng như ở ngoài, không bị tham, sân, si, không bị Sa- môn, Bà-la-môn, thiên, Ma, Phạm thiên hay bất cứ một ai ở ngoài đời là trở ngại. Làm Phật được lợi như vậy.

Thế Tôn thuyết nghĩa như vậy.

 

1.6. About this it was said:

‘Truthful, righteous, tamed and stilled,

Pure and virtuous, keeping fasts,

Generous, harming none, at peace

He undertook this mighty task,

And at his end to heaven went,

To dwell in joy and happiness.

Returned from there to earth, his feet

With level tread did touch the ground.

Assembled augurs then declared:

“For him who level treads the ground,

No obstacles can bar his path,

If he leads the household life,

Or if he leaves the world behind:

This the mark does clearly show.

If a layman, no adversary,

No foe can stand before him.

No human power exists that can

Deprive him of his kamma’s fruit.

Or if the homeless life’s his choice:

On renunciation bent, and clear

Of vision — chief of men he’ll be,

Peerless, never more reborn:

This the law shall be for him.”’

Ở đây lời nói này được nói lên:

 

Sống chân thực đúng Pháp,

Ðiều phục và tự chế,

Sống với hạnh thanh tịnh,

Ngày trai giới, Bồ tát.

Bố thí, không bạo động,

Không làm hại một ai,

Tâm kiên cố hành trì,

Sống thật sự toàn diện.

Với hạnh nghiệp như vậy,

Ngài được sanh cõi Trời,

Sống trong niềm hoan hỷ,

An lạc vô cùng tận.

Từ chỗ kia mạng chung,

Tái sanh lại chỗ này,

Với bàn chân bằng phẳng,

Chạm đất thật đều đặn.

Các bậc chiêm tướng gia,

Hội họp và tuyên bố,

Không ai làm trở ngại,

Vị bàn chân bằng phẳng.

Dầu tại gia, xuất gia.

Nghĩa tướng thật rõ ràng,

Nếu sống tại gia đình,

Không bị trở ngại gì,

Chiến thắng mọi quân thù.

Ðại phá cả quân địch,

Không ai ngăn chặn được,

Vị nghiệp báo như vậy.

Nếu xuất gia ly dục,

Sống thiểu dục sáng suốt,

Là bậc Thánh siêu phàm,

Không còn phải thai sanh,

Bậc Vô Thượng, Chánh Giác,

Pháp nhĩ là như vậy.

 

1.7. ‘Monks, in whatever former life … the Tathagata, being born a human being, [148] lived for the happiness of the many, as a dispeller of fright and terror, provider of lawful protection and shelter, and supplying all necessities, by performing that kamma, … was reborn in a happy state, a heavenly world… Falling away from there and coming to be reborn here on earth, he acquired this mark of the Great Man: (2) on the soles of his feet are wheels of a thousand spokes, complete with felloe and hub.

Này các Tỷ-kheo, trong bất kỳ đời trước nào, hiện hữu nào, trú xứ nào, Như Lai đời trước làm Người, sống vì hạnh phúc cho chúng sanh, trừ diệt mọi sợ hãi kinh hoàng, sắp đặt sự che chở, hộ trì, bảo vệ đúng Pháp, bố thí cho các người tùy tùng. Với tác động, chất chứa, tích tụ và tăng thịnh của sự nghiệp ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cõi thiện thú, thiên giới hay đời này… Ngài từ trần từ chỗ kia sanh đến chỗ này được tướng Ðại Trượng phu này: Dưới bàn chân, có hình bánh xe hiện ra, với một ngàn tăm xe, với bánh xe, trục xe, các bộ phận hoàn toàn đầy đủ.

 

1.8. ‘Being endowed with this mark, if he keeps to  the household life, he will become a wheel-turning monarch … As a ruler, how does he benefit? He has a great retinue: he is surrounded by Brahmin householders, citizens and villagers, treasurers, guards, doorkeepers, ministers, tributary kings, tenants-in-chief, and

 pages. That is his benefit as a ruler. And if he goes forth into homelessness, he will become a fully-enlightened Buddha…As such, how does he benefit? He has a large retinue: he is surrounded by monks, nuns, male and female layfollowers, devas and humans, asuras,952 nāgas and gandhabbas. 953 That is his benefit as a Buddha.’ This was what the Lord declared.

Ngài đầy đủ tướng này, nếu ở tại gia thành vị Chuyển Luân Thánh vương… Làm vua được những gì? có nhiều kẻ hầu cận. Số hầu cận rất đông, có cư sĩ, Bà la môn, thị dân, thôn dân, tài chánh quan, tư pháp quan, vệ sĩ, thủ môn quan, các đại thần, các chư hầu, các hào phú, các vương tử. Làm vua được như vậy. Nếu Ngài xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, ngài thành bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, vén lui màn vô minh che đời. Làm Phật được những gì? Ngài có đại chúng hầu cận, số đại chúng rất đông, gồm có Tỷ-kheo, Tỷ kheo ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ, chư Thiên, loài Người, A-tu-la, các loài Thần rắn, Càn thát bà. Làm Phật được như vậy.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy.

 

1.9. About this it was said:

‘In times gone by, in former births

As man, to many doing good,

Dispelling fright and panic fear,

Eager to guard and give defence,

He undertook this mighty task, [149]

And at his end to heaven went,

To dwell in joy and happiness.

Returned from there to earth, his feet

Are found to bear the mark of wheels,

Each a thousand-spoked, complete.

Assembled augurs then declared,

Seeing these many marks of merit:

“Great will be his following,

All his foes he will subdue.

This is the wheel-marks clearly show.

If he does not renounce the world,

He’ll turn the Wheel, and rule the earth.

The nobles will his vassals be,

All in attendance on his power.

But if the homeless life’s his choice:

On renunciation bent, and clear

Of vision — men and devas

asuras, sakkas, rakkhasas,954

gandhabbas, nagas, garudas,

Four-foot beasts will serve him too,

Unrivalled, by devas and by men

Alike revered in all his glory.”’

Ở đây lời nói này được nói lên:

 

Trong những năm đã qua,

Trong những đời quá khứ,

Khi Ngài được làm Người,

Khiến nhiều người hạnh phúc.

Ngài trừ diệt kinh hoàng,

Hộ trì và bảo vệ,

Nhờ nghiệp ấy, sanh Thiên,

Hưởng an lạc hạnh phúc.

Từ chỗ kia mạng chung,

Tái sanh lại chỗ này,

Dưới hai bàn chân Ngài,

Có bánh xe hiện ra,

Với bánh xe đầy đủ,

Ðủ một ngàn căm xe.

Các bậc chiêm tướng gia,

Hội họp và tuyên bố,

Khi thấy trăm đức này:

Ðược quần chúng bao vây,

Ðịch quân được nhiếp phục,

Như bánh xe quay tròn,

Với vành xe đầy đủ.

Nếu Ngài không xuất gia,

Sống đời sống như vậy,

Ngài chuyển vận bánh xe,

Trị vì khắp cõi đất.

Ở đây Sát đế lỵ,

Ðều chịu thần phục Ngài,

Hầu hạ chung quanh Ngài,

Là bậc Ðại danh xưng.

Nếu xuất gia ly dục,

Sống thoát dục, sáng suốt,

chư Thiên và loài Người,

Ðế thích và Dạ xoa,

Càn thát bà, Long xà,

Phi điểu, loài bốn chân,

Tất cả đoanh vây Ngài,

Là bậc Ðại danh xưng,

Bậc Vô Thượng, Chánh Giác,

Ðược Thiên, Nhơn cung kính.

 

1.10. ‘Monks, in whatever former life…the Tathāgata, being born a human being, rejecting the taking of life and abstaining from it, and laying aside stick and sword, dwelt, kind and compassionate, having friendship and sympathy for all living beings, by performing that kamma, … was reborn in a happy state … Falling away from there and coming to be reborn on earth, he acquired these three marks of the Great [150] Man: (3) projecting heels, (4) long fingers and toes, and (15) a divinely straight body.

Này các Tỷ-kheo, trong bất kỳ đời trước nào, hiện hữu nào, trú xứ nào, Như Lai đời trước làm Người, từ bỏ sát sanh, chế ngự sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương sót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. Với tác động, chất chứa, tích tụ và tăng thịnh của nghiệp ấy, sau khi thân hoại mạng chung được sanh cõi thiện thú, Thiên giới hay đời này… Ngài từ trần từ chỗ kia, sanh đến chỗ này, được ba tướng Ðại Trượng phu này: gót chân thon dài, ngón tay, ngón chân dài và tay chân mềm mại.

 

1.11. ‘Being endowed with these marks, if he keeps to the household life,…as a ruler, how does he benefit? He is long-lived, long-enduring, attaining a great age, and during that time no human foe can possibly take his life…As a Buddha, how does he benefit? He is longlived … ; no foe, whether an ascetic or Brahmin, a deva, mara or Brahma, or anyone in the world can possibly take his life. That is his benefit as a Buddha.’ This was what the Lord declared.

Ngài đầy đủ ba tướng này, nếu sống tại gia sẽ thành vị Chuyển luân thánh vương… Làm vua được những gì? Thọ mạng lâu dài, được sống lâu năm, thọ mạng được hộ trì lâu dài, không một người nào dưới hình thức kẻ thù hay kẻ nghịch có thể hại mạng sống Ngài. Làm vua được như vậy… Làm Phật được những gì? Thọ mạng lâu dài, được sống lâu năm, thọ mạng được hộ trì lâu dài, không một kẻ thù, kẻ nghịch nào có thể hại được mạng sống Ngài, dưới hình thức Sa môn, Bà la môn, chư Thiên, Ma vương, Phạm thiên hay bất cứ ai trong đời. Làm Phật được như vậy.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy.

 

1.12. About this it was said:

‘Knowing well their dread of death,

Beings he forbore to kill.

This goodness earnt him heavenly birth,

Where he rejoiced in merit’s fruit.

Returning thence to earth he bore

On his person these three marks:

His heels are full and very long,

Brahma like he’s straight of form,

Fair to see, and shapely-limbed,

His fingers tender, soft and long. [151]

By these three marks of excellence

It’s known the youth will be long-lived.

“Long he’ll live in household life

Longer still as homeless one

Practising the noble powers:

So the three marks indicate.”’

Ở đây, lời nói này được nói lên:

 

Tự biết mình sợ hãi,

Sợ chết sợ tàn hại,

Ngài từ bỏ giết hại,

Hết mọi loài chúng sanh.

Nhờ sống hành thiện pháp,

Ðược sanh lên cõi Trời,

Tự hưởng quả dị thục,

Do thiện báo đem lại.

Từ chỗ kia mạng chung,

Tái sanh lại chỗ này,

Ðược hưởng tại nơi đây,

Ba Ðại trượng phu tướng:

Gót chân đầy và dài,

Thân thẳng như Phạm thiên.

Khả ái, hình vóc đẹp,

Khéo cân xứng, khéo sanh,

Các ngón tay, ngón chân,

Ðều mềm mại trẻ đẹp.

Với ba tướng Trượng phu,

Sống lâu luôn luôn trẻ.

Nếu sống tại gia đình,

Thọ mạng sẽ lâu dài.

Nếu sống đời xuất gia,

Tuổi thọ được dài thêm,

Như vậy tướng hảo này,

Là tướng tuổi trường thọ.

 

1.13. ‘Monks, in whatever former life… the Tathagata became a giver of fine food, delicious and tasty, hard and soft, and of drinks, by performing that kamma, … he was reborn in a heavenly world…Falling away from there and being reborn here on earth, he acquired this mark of the Great Man: (16) the seven convex surfaces, on both hands, both feet, both shoulders and his trunk.

Này các Tỷ-kheo, trong bất kỳ đời trước nào, hiện hữu nào, trú xứ nào, Như Lai đời trước làm Người, là vị bố thí các món ăn loại cứng loại mềm, các loại liếm, loại uống, cao lương mỹ vị. Với tác động, chất chứa, tích tụ và tăng thịnh của nghiệp ấy, sau khi thân hoại mạng chung được sanh cõi thiện thú, Thiên giới hay đời này… Ngài từ trần từ chỗ kia, sanh đến chỗ này, được tướng Ðại Trượng phu này là bảy chỗ tròn đầy. Bảy chỗ tròn đầy là hai tay tròn đầy, hai chân tròn đầy, hai vai tròn đầy và thân hình tròn đầy.

 

1.14 ‘Being endowed with this mark,…as a ruler, how does he benefit? He receives fine food and drinks… As a Buddha, likewise.’ [152] This is what the Lord said.

Ngài đầy đủ tướng này, nếu sống tại gia, làm vị Chuyển luân Thánh vương… Làm vua được những gì? Ðược các món ăn, loại cứng, loại mềm, các loại nếm, loại liếm, loại uống, cao lương mỹ vị. Làm vua được như vậy… Làm Phật được những gì? Ðược các món ăn loại cứng, loại mềm, các loại nếm, loại uống, cao lương mỹ vị. Làm Phật được như vậy.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy.

 

1.15. About this it was said:

‘Dispenser of delicious foods

And finest-tasting drinks he was.

This goodness brought him happy birth,

And long he dwelt in Nandana.955

To earth returned, the seven signs

On gently-swelling limbs he bore.

Assembled augurs then declared,

Fine food and drink he would enjoy:

Not merely in the household life —

For though he should renounce the world

And cut the bonds of worldly living,

Delicious food he’d still receive!’

Ở đây, lời nói này được nói lên:

 

Bố thí các món ăn,

Thượng vị hợp sở thích

Loại cứng vị hợp sở thích

Loại cứng và loại mềm,

Loại liếm cả loại nếm.

Nhờ hành thiện tốt đẹp,

Sống lâu thiên hỷ lạc.

Ðược sanh tại chỗ này,

Với bảy chỗ tròn đầy.

Với tay chân mềm mại,

Nhà chiêm tướng thiện xảo,

Tuyên bố Ngài đầy đủ,

Món ăn thật ngon lành,

Loại cứng và loại mềm.

Không riêng gì tại gia,

Ðược tướng hảo như vậy,

Nếu sống hạnh xuất gia,

Cũng được hảo tướng ấy.

Món ăn thật thượng vị

Loại cứng và loại mềm,

Chặt đứt các trói buộc

Tất cả hàng cư sĩ.

 

1.16. ‘Monks, in whatever former life … the Tathagata made himself beloved through the four bases of sympathy: 956 generosity, pleasing speech, beneficial conduct and impartiality, … on returning to this earth he acquired these two [153] marks of the Great Man: (5) soft and tender hands and feet, and (6) net-like hands and feet.

Này các Tỷ-kheo, trong bất kỳ đời trước nào, hiện hữu nào, trú xứ nào, Như Lai đời trước làm Người, được đầy đủ Bốn Nhiếp pháp: Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự. Với tác động, chất chứa, tích tụ và tăng thịnh của nghiệp ấy, sau khi thân hoại mạng chung được sanh cõi thiện thú, Thiên giới, hay đời này. Ngài từ trần từ chỗ kia, sanh đến chỗ này với hai tướng Ðại Trượng phu: Tay chân mềm mại, và có lưới da giữa ngón tay, ngón chân.

 

1.17. ‘Being endowed with these two marks,…as a ruler, how does he benefit? All his retinue are welldisposed to him: Brahmin householders, citizens and villagers, treasurers, guards, doorkeepers, … pages. As a Buddha, how does he benefit? All his followers are well-disposed to him: monks, nuns, male and female lay-folowers, devas and humans, asuras, nagas, gandhabbas. That is his benefit as a Buddha.’ This is what the Lord said.

Ngài đầy đủ hai tướng này, nếu sống tại gia, làm vị Chuyển luân Thánh vương… Làm vua được những gì? Ðược khéo thâu nhiếp các vị tùy tùng. Ðược khéo thâu nhiếp các cư sĩ, Bà-la-môn, thị dân, thôn dân, tài chánh quan, tư pháp quan, thủ môn quan, các đại thần, các chư hầu, các hào phú, các vương tử. Làm vua được như vậy. Làm Phật được những gì? Ðược khéo thâu nhiếp các vị tùy tùng, được khéo thâu nhiếp các vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, các Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ, chư Thiên, loài Người, A-tu-la, Long thần, Càn-thát-bà. Làm Phật được như vậy.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy.

 

1.18. About this it was said:

‘Through giving and through helpful acts,

Pleasing speech and evenness

Of mind, of benefit to all,

He at death to heaven went.

When he thence returned to earth,

His hands and feet were soft and tender,

His toes and fingers netwise spread.

Very fair he was to see:

Thus the infant was endowed. [154]

“He’ll be ruler of the people,

Surrounded by a faithful flock.

Fair of speech, to good deeds given,

In conduct virtuous and wise.

But if the joys of sense he spurns,

A Conqueror, he will teach the path,

And, delighted by his words,

All those who hear will follow him

In Dhamma’s great and lesser ways!”‘

Ở đây, lời nói này được nói lên:

 

Bố thí và lợi hành,

Ái ngữ và đồng sự,

Nhiếp phục nhiều tùy tùng.

Do hành thiện pháp này,

Nhờ vô lượng công đức,

Ðược sanh lên cõi Trời.

Tạ thế tại chỗ kia,

Tái sanh tại chỗ này,

Do hạnh ấy tay chân,

Mềm mại và có lưới.

Ðược sắc tướng đoan nghiêm,

Mỹ lệ và khả ái

Dầu còn là niên thiếu,

Trẻ thơ măng sữa vậy,

Quần chúng chịu tùy thuận,

Nhiếp phục cõi đất này.

Luôn luôn dùng ái ngữ,

Cầu hạnh phúc quần sanh.

Như vậy sống thanh tịnh,

Với công đức thù thắng.

Nếu Ngài sống từ bỏ,

Mọi dục lạc tài sản,

Tuyên thuyết vi diệu pháp,

Vị chiến thắng quần sanh,

Họ nghe tâm hoan hỷ,

Vâng hành lời Ngài dạy.

Họ sống thiện hành trì,

Theo Chánh pháp, Tùy pháp.

 

1.19. ‘Monks, in whatever former life … the Tathagata became a speaker to the people about their welfare, about Dhamma, explaining this to people and being a bearer of welfare and happiness to beings, a dispenser of Dhamma,…on returning to this earth he acquired these two marks of the Great Man: (7) high-raised ankles, and (14) upward-growing body-hairs.

Này các Tỷ-kheo, trong bất cứ đời trước nào, hiện hữu nào, trú xứ nào, Như Lai đời trước làm Người, Như Lai là một vị nói lời liên hệ lợi ích cho chúng sanh, liên hệ đến pháp, giải thích cho đại chúng, đem lại hạnh phúc an lạc cho chúng sanh, tán dương chánh hạnh. Với tác động, chất chứa, tích tụ và tăng thịnh của nghiệp… Ngài từ trần từ chỗ kia và tái sanh ở đây với hai tướng Ðại Trượng phu: mắt cá tròn như con sò và lông mọc xoay tròn thẳng lên.

 

1.20. ‘Being endowed with these marks,…as a ruler, how does he benefit? He becomes the chief, foremost, highest, supreme among the unrenounced957 … As a Buddha, he becomes the chief, foremost, highest, supreme among all beings. That is his benefit as a Buddha.’ This was what the Lord declared.

Ngài đầy đủ với những tướng như vậy, nếu sống tại gia, thành vị Chuyển luân Thánh vương… Làm vua được những gì. Tài vật dục lạc đều tối thắng, tối ưu, cao tột, đệ nhất. Làm vua được như vậy… Làm Phật được những gì? Ngài trở thành bậc tối thắng, tối ưu, cao tột, đệ nhất cho toàn thể chúng sanh. Làm Phật được như vậy.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy.

 

1.21. About this it was said: [155]

‘One time he spoke of all that’s good,

Preaching loud to all mankind,

Bringing blessings to all beings,

Liberal dispenser of the law.

For such conduct and such deeds,

Heavenly birth was his reward.

Here returned, two marks were his,

Marks of happiness supreme:

Upward-growing body-hairs,

Ankles high above the foot,

Built up beneath the flesh and skin,

Well-formed above, and beautiful.

“If he leads the household life,

The greatest riches will be his,

No greater man will be found:

As Jambudipā’s Lord he’ll rule. [156]

If, supremely strong, he leaves the world,

He will be the chief of beings,

No man greater will be found:

As Lord of all the world he’ll rule.”‘

Ở đây, lời nói này được nói lên:

 

Thuở xưa lời Ngài nói,

Thuyết giảng cho Ðại chúng,

Liên hệ đến mục đích,

Liên hệ đến Chánh pháp.

Ngài là người đem lại,

Hạnh phúc cho chúng sanh,

Không xan lẫn hối tiếc,

Lễ đàn pháp và chơn.

Nhờ hành trì thiện nghiệp,

Sống hoan hỷ cõi Trời.

Tái sanh tại nơi đây,

Ngài được hai hảo tướng,

Hưởng hạnh phúc tối thượng.

Lông mọc xoay thẳng lên,

Mắt cá tròn khéo gọn,

Dưới có thịt, có da

Trên hình dáng đẹp đẽ.

Nếu Ngài sống tại gia,

Tài dục đều tối thượng.

Không ai thắng hơn Ngài.

Chinh phục Diêm-phù-đề.

Nếu hạnh Ngài xuất gia,

Tinh tấn hơn mọi người,

Ngài là bậc tối thắng,

Trong tất cả chúng sanh.

Do vậy không tìm được,

Kẻ tối thắng hơn Ngài.

Ngài sống và ngự trị,

Cùng khắp mọi thế giới.

 

1.22. ‘Monks, in whatever former life…the Tathagata became a skilled exponent of a craft, a science, a way of conduct or action, thinking: “What can I learn quickly and acquire, quickly practise, without undue weariness?”… on returning to earth, he acquires this mark of the Great Man: (8) legs like an antelope’s.

Này các Tỷ-kheo, trong bất cứ đời trước nào, hiện hữu nào, trú xứ nào, Như Lai trước làm Người, ngài siêng năng học hỏi, nghề nghiệp, mọi kỹ thuật, học thuật, oai nghi hay hành động: “Làm thế nào để tôi mau học hay hành động: “Làm thế nào để tôi mau học được, làm thế nào để tôi mau biết, làm thế nào để tôi mau thâu hoạch được, khỏi phải mệt nhọc lâu ngày?”. Với tác động, chất chứa, tích tụ và tăng thịnh của nghiệp ấy… Ngài từ trần từ chỗ kia và tái sanh ở đây, với tướng Ðại Trượng phu, có ống chân giống như con dê rừng.

 

1.23. ‘Being endowed with this mark,…as a ruler he quickly acquires whatever things befit a ruler, the things that pertain to a ruler, delight him and are appropriate to him. As a Buddha, likewise.’ This was what the Lord declared.

Ngài đầy đủ với tướng này, nếu sống tại gia thành vị Chuyển luân Thánh vương… Làm vua được những gì? Tất cả sự vật xứng đáng nhà vua, đặc tướng nhà vua, tài sản nhà vua, sở hữu nhà vua, Ngài đều có được một cách mau chóng. Làm vua được như vậy. Làm Phật được những gì? Tất cả sự vật gì xứng đáng vị Sa-môn, đặc tướng Sa-môn, tài sản Sa-môn, sở hữu Sa-môn, Ngài đều có được một cách mau chóng. Làm Phật được như vậy.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy.

 

1.24. About that it was said:

‘Arts and sciences, ways and deeds:

“Let me learn with ease”, he says. [157]

Skills that harm no living thing

Fast he learnt, with little toil.

From such deeds, skilled and sweet,

Graceful and fair his limbs will be,

While fairly set in spiral curves

From tender skin the hairs stand up.

Antelope-legged is such a man:

Wealth, they say, will soon be his.

“Each single hairlet brings him luck,

If he maintains the household life.

But should he choose to leave the world

On renunciation set,

Clear-eyed, all things he’ll quickly find

Befitting such a lofty course.”‘.

Ở đây, lời nói này được nói lên:

 

Trong các nghề, kỹ thuật

Trong cử chỉ, hành động,

Ngài muốn làm thế nào,

Ðể học biết mau chóng.

Không ai bị thương hại,

Học mau, không mệt mỏi,

Do hành thiện nghiệp này,

Ðược quả thiện nghiệp này,

Ðược quả thiện tốt đẹp.

Cân đối xoay nhẹ nhàng,

Trên da trơn mềm mại,

Lông được mọc đứng lên.

Người như vậy được gọi,

Người có chân dê rừng.

Tướng này, người ta đồn,

Khiến học hỏi mau chóng.

Nếu xuất gia ly dục,

Sống thiểu dục sáng suốt.

Mọi sự vật hợp pháp,

Ngài tuần tự chứng đắc,

Sống tinh tấn cao thượng,

Quả chứng thật mau chóng.

 

1.25. ‘Monks, in whatever former life…the Tathāgata approached an ascetic or Brahmin and asked: “Sir, what is the good, what is the bad? What is blameworthy, what is not? What course is to be followed, what is not? What, if I do it, will be to my lasting sorrow and harm, what to my lasting happiness?”958… on returning to this earth, he acquired this mark of the Great Man: [158] (12) his skin is so delicate and smooth that no dust can adhere to his body.

Này các Tỷ-kheo, trong bất cứ đời trước nào, hiện hữu nào, trú xứ nào, Như Lai đời trước làm Người, đi đến các vị Sa-môn hay Bà-la-môn, sau khi đến liền hỏi: “Bạch Tôn giả, thế nào là thiện? Thế nào là bất thiện? Thế nào là có tội? Thế nào là không có tội? Ðiều nào nên làm? Ðiều nào không nên làm? Ðiều nào làm sẽ đưa đến cho ta bất hạnh và đau khổ lâu dài? Ðiều nào nếu làm sẽ đưa đến cho ta hạnh phúc và an lạc lâu dài? Với tác động, chất chứa, tích tụ, tăng thịnh của nghiệp này…” Ngài sau khi từ trần từ chỗ kia được tái sanh lại đây với tướng Ðại Trượng phu này: Da của Ngài trơn mịn khiến bụi bặm không thể bám dính vào thân.

 

1.26. ‘Being endowed with this mark,… as a ruler he will be very wise, and among the unrenounced there will be none equal or superior to him in wisdom … As a Buddha he will have great wisdom, extensive wisdom, joyous wisdom, swift wisdom, penetrative wisdom, discerning wisdom,959 and among all beings there will be none equal to him or superior to him in wisdom.’

This was what the Lord declared.

Ngài đầy đủ với các tướng này, nếu sống tại gia làm vị Chuyển luân Thánh vương… Làm vua, được những gì? Ðại trị tuệ, không có ai bằng Ngài về trí tuệ. Hay không ai hơn Ngài về tài sản thế tục. Làm vua được như vậy. Làm Phật được những gì? Ðược đại trí tuệ, quảng trí tuệ, hỷ tâm trí tuệ, mẫn tiệp trí tuệ, thông nhuệ trí tuệ, yểm ly trí tuệ, không có ai bằng Ngài về trí tuệ hay không có chúng sanh nào hơn Ngài. Làm Phật, Ngài được như vậy.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy.

 

1.27. About this it was said:

‘In former days, in former births,

Eager to know, a questioner,

He waited on the homeless ones:

Keen to learn the truth, he would

Heed their words about life’s goal.

The fruit of this, when born again

As man, his skin was soft and tender.

Assembled augurs thus declared:

“Subtle meanings he’ll discern.

If he does not leave the world,

He’ll be a wheel-revolving king

Wise to know all subtleties,

Equalled or surpassed by none. [159]

But should he choose to leave the world

On renunciation set,

Highest wisdom will be his,

Enlightenment supreme and vast.”‘

Ở đây, lời nói này được nói lên:

 

Trong những ngày quá khứ,

Ngài tha thiết muốn biết,

Ngài tha thiết muốn hỏi,

Yết kiến vị xuất gia,

Khéo nghe và học hỏi.

Chính nhờ hạnh nghiệp ấy,

Ngài chứng được trí tuệ.

Và sanh vào loài Người,

Ngài được da mịn màng.

Các vị chiêm tướng gia,

Hội họp và tuyên bố,

Vị này biết và thấy,

Mọi ý nghĩa tế nhị.

Nếu hạnh không xuất gia,

Sống hành trì như vậy,

Ngài là vị Chuyển luân,

Ngự trị cõi đất này.

Những vị nắm được nghĩa,

Không ai hơn bằng Ngài.

Nếu xuất gia ly dục,

Sống thoát tục sáng suốt;

Chứng được đạo Bồ-đề,

Tuệ tối hảo vô thượng.

 

1.28. ‘Monks, in whatever former life…the Tathāgata lived without anger, perfectly unruffled, and even after many words had been uttered was not abusive, or agitated, or wrathful, or aggressive, displaying neither anger nor hatred nor resentment, but was in the habit of giving away fine, soft rugs, cloaks, fine linen, cotton, silk and woollen stuffs,…on returning to this earth, he acquired this mark of the Great Man: (11) a bright complexion, the colour of gold.

Này các Tỷ-kheo, trong bất cứ đời trước nào, hiện hữu nào, trú xứ nào, Như Lai đời trước làm Người, không sân hận, hoàn toàn không ảo não, dầu có bị nói nhiều cũng không tức tối, không phẫn nộ, không hiềm khích, không mất bình tĩnh, không hiểu lộ phẫn nộ, không sân hận phiền muộn. Trái lại, Ngài bố thí các đồ che đắp, mang mặc mềm mại, nhẹ nhàng; vải quyên mềm mại, vải bông mềm mại, vải lụa mềm mại, vải len mềm mại. Với tác động… Ngài từ trần từ chỗ kia, thác sanh tại chỗ này, được tướng Ðại Trượng phu này: sắc hoàng kim, da màu đồng, sáng bóng.

 

1.29. ‘Being endowed with this mark,…as a ruler he  will receive such fine stuffs,…as a Buddha, likewise.’

This was what the Lord declared.

Ngài đầy đủ với tướng này, nếu sống tại gia, thành vị Chuyển luân Thánh vương. Làm vua được những gì? Ðược các đồ che đắp, mang mặc mềm mại, nhẹ nhàng; vải quyên mềm mại, vải bông mềm mại, vải lụa mềm mại, vải len mềm mại. Làm Phật được những gì? Ðược các đồ che đắp, mang mặc mềm mại, nhẹ nhàng; vải quyên mềm mại, vải bông mềm mại, vải lụa mềm mại, vải len mềm mại. Làm Phật, Ngài được như vậy.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy.

 

1.30. About this it was said:

‘Established in goodwill, he gave

Gifts of clothing, soft and fine. [160]

In former lives he thus dispensed

As the rain-god pours down showers.

This goodness brought him heavenly birth.

Where he rejoiced in merit’s fruit.

That time past, like fine-wrought gold

His body is, more fair than all

The gods he seems, great Indra’s like.

‘If he lives the household life,

He’ll regulate this wicked world,

And, for what he’s done, receive

Clothes of finest quality,

Rugs and coverlets of the best.

And should he choose to leave the world,

Such things likewise he’ll receive:

Virtue’s fruit can not be lost.”‘

Ở đây, lời nói này được nói lên:

 

Cương quyết không sân hận,

Ngài sẵn sàng bố thí,

Các loại vải mềm mại,

Các đồ đắp mềm mại.

Trong những đời sống trước,

Ngài cương quyết phân phát,

Như thần mưa tung vải,

Mây móc trên đất liền.

Nhờ hạnh nghiệp như vậy,

Từ trần tại chỗ kia,

Ðược sanh lên cõi Trời,

Hưởng quả báo thiện hạnh.

Tận hưởng thiện báo xong,

Ngài sanh tại nơi đây,

Với thân màu hoàng kim,

Sáng chói như vàng ròng,

Mỹ lệ hùng tráng hơn,

Chẳng khác gì Ðế-thích.

Nếu không muốn xuất gia,

Ngài trị vì đất này,

Nhờ sức mạnh quá khứ,

Ngài được thật đầy đủ,

Mềm mại và tế nhị,

Ðồ che đắp mang mặc.

Nếu Ngài sống đời sống,

Xuất gia, không gia đình,

Kiên trì Ngài tận hưởng,

Quả báo nghiệp quá khứ,

Những điều Ngài đã làm,

Không bao giờ vô hiệu.

 

1.31. ‘Monks, in whatever former life … the Tathāgata reunited those long-lost with relatives, friends and companions who had missed them, reunited mother with child and child with mother, father [161] with child and child with father, brother with brother, brother with sister and sister with brother, making them one again with great rejoicing,… on returning to earth he acquired this mark of the Great Man: (10) his male organs are enclosed in a sheath.

Này các Tỷ-kheo, trong bất cứ đời trước nào, hiện hữu nào, trú xứ nào, Như Lai đời trước làm Người, Ngài làm cho sum họp lại những bà con bạn bè thân tín không gặp nhau lâu ngày, bị đau khổ lâu ngày, làm cho sum họp lại mẹ với con, con với mẹ, làm cho sum họp lại cha với con, con với cha, làm cho sum họp lại giữa anh em với nhau, làm cho sum họp lại giữa anh và chị, giữa chị và em, làm cho hòa hợp lại, sống vui vẻ với nhau. Với tác động… Ngài từ trần tại chỗ kia, thác sanh tại chỗ này với tướng Ðại Trượng phu này là tướng mã âm tàng.

 

1.32. ‘Being endowed with this mark,…as a ruler he will have numerous sons, more than a thousand sons, powerfully built heroes, crushers of the enemy host. As a Buddha, likewise.’ This was what the Lord declared.

Ngài đầy đủ tướng này, nếu sống tại gia, làm vị Chuyển luân Thánh vương. Làm vua được những gì? Ðược nhiều con, hơn một ngàn người con đều là bậc anh hùng, bậc chiến thắng, dõng kiện, nhiếp phục địch quân. Làm vua, vị ấy được như vậy… Làm Phật được những gì? Ðược nhiều con, sẽ có hàng ngàn người con (xuất gia và tại gia) đều là bậc anh hùng, các bậc vô song, các bậc dõng kiện, nhiếp phục các địch quân. Làm Phật, Ngài được như vậy.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy.

 

1.33. About this it was said:

‘In former days, in former births,

Long-lost friends and relatives,

Companions too, he brought together,

Thus uniting them in joy.

This good deed brought heavenly birth,

Bliss and joy were his reward.

When he thence returned to earth,

Sheath-enclosed his organs were. [162]

“Numerous children such will have,

More than a thousand sons are his,

Hero-champions, conquerors,

And filial too, the layman’s joy.

But if he leaves the world, still more

With children he will be endowed:

Those who depend upon his word.

And so, renounced or not, this sign

Such benefits as this portends.”’

[End of first recitation-section]

Ở đây, lời nói này được nói lên:

 

Thuở xưa trong quá khứ,

Trong nhiều đời tiền thân,

Ngài khiến cho sum họp,

Bà con, bạn, thân tín.

Ðã đau khổ lâu ngày,

Ðã phiêu bạt lâu ngày,

Ngài khiến họ hòa hợp,

Sống hoan hỷ với nhau.

Hạnh này Ngài sanh Thiên,

Hưởng hạnh phúc hỷ lạc,

Chết kia, sanh chỗ này,

Ngài được mã âm tàng.

Ngài có rất nhiều con,

Hơn đến số ngàn vị,

Là những bậc anh hùng,

Chiến thắng nhiếp địch quân,

Ðón chào lời hiếu kính,

Khiến tại gia hoan hỷ.

Nếu xuất gia tu đạo,

Uy lực thắng hơn nhiều.

Số con có nhiều hơn,

Biết vâng lời chỉ giáo.

Dầu tại gia, xuất gia,

Hảo tướng thật rõ ràng.

 

2.1. ‘Monks, in whatever former life… the Tathāgata, considering the welfare of people, knew the nature of each, knew each one himself, and knew how each one differed: “This one deserves such-and-such, that one deserves so-and-so”, so he distinguished them,… on returning to earth he acquired these two marks of the Great Man: (19) he is proportioned like a banyan-tree, and (9) standing, without bending, he can touch and rub his knees with both hands.

 

Tụng phẩm II

 

  1. Này các Tỷ-kheo, trong bất cứ đời trước nào, hiện hữu nào, trú xứ nào, Như Lai đời trước làm Người quán sát và hiểu biết rõ ràng toàn thể Ðại chúng, biết mình, biết người, biết sự sai biệt giữa mọi người: “Người này xứng đáng như thế này, người này xứng đáng như thế này”, và Ngài hành động tùy theo sự sai biệt giữa mọi người ấy. Do tác động… Ngài từ trần từ chỗ kia tái sanh tại đây với hai tướng Ðại Trượng phu: thân hình tròn như cây Nigrodha (cây bàng) và đứng thẳng không cong lưng, Ngài có thể sờ và thoa đầu gối với hai lòng bàn tay.

 

2.2. ‘Being endowed with these marks,… as a ruler [163] he will be rich, of great wealth and resources, having a full treasury of gold and silver, all sorts of goods, and his granary will be full of corn. As a Buddha he will be wealthy and rich, and these will be his treasures: faith, morality, moral shame,960 moral dread,961 learning, renunciation962 and wisdom.’ This was what the Lord declared:

Ngài đầy đủ những tướng như vậy, nếu sống tại gia thành vị Chuyển luân Thánh vương… Làm vua được những gì? Làm vị triệu phú, đại triệu phú, với kho tàng đầy vàng bạc, đầy tài vật, đầy tiền lúa, kho tàng tràn đầy. Làm vua được như vậy… Làm Phật được những gì? Làm vị triệu phú, đại triệu phú. Tài vật của Ngài là tín tài, giới tài, tàm tài, quý tài, đa văn tài, thí tài, trí tuệ tài. Làm Phật được như vậy.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy.

 

2.3. About this it was said:

‘Weighing in the balance, noting,

Seeking people’s benefit,

Seeing: “This one that deserves,

And that one this”, he judged them.

Now he can unbending stand

And touch his knees with both his hands,

And his tree-like girth and height

Is the fruit of virtuous deeds.

Those who read the marks and signs,

Experts in such lore declare:

“Things that suit the household life

As a child he’ll get in plenty, [164]

Much worldly wealth as this world’s lord,

As befits a layman, shall be his.

But should he worldly wealth renounce,

He’ll gain the wealth that’s unsurpassed.”’

Ở đây, lời nói này được nói lên:

 

Cân nhắc, tìm, suy tư,

Ngài quán sát Ðại chúng,

Ở chỗ này chỗ kia,

Người này xứng thế này.

Hành động Ngài tương xứng,

Sự sai biệt loài Người.

Ðứng thẳng không cong lưng,

Hai tay sờ đầu gối,

Thân như cây tròn cao,

Là thiện báo đặc biệt.

Bậc thiện xảo siêu nhân,

Ðều tuyên bố như sau:

Ðứa trẻ được tất cả,

Những gì xứng cư sĩ,

Là cư sĩ, Ngài được,

Mọi dục lạc tài sản,

Phong phú và thích hợp,

Với vua cõi đất này.

Nếu phát tâm từ bỏ,

Mọi dục lạc tài sản,

Ngài sẽ được tài vật,

Vô thượng và tối thiện.

 

2.4. ‘Monks, in whatever former life the Tathāgata… desired the welfare of the many, their advantage, comfort, freedom from bondage, thinking how they might increase in faith, morality, learning, renunciation, in Dhamma, in wisdom, in wealth and possessions, in bipeds and quadrupeds, in wives and children, in servants, workers and helpers, in relatives, friends and acquaintances,… on returning to earth he acquired these three marks of the Great Man: (17) the front part of his body is like a lion’s, (18) there is no hollow between his shoulders, and (20) his bust is evenly rounded.

Này các Tỷ-kheo, trong bất cứ đời trước nào, hiện hữu nào, trú xứ nào, Như Lai đời trước làm Người, tha thiết với sự lợi ích của Ðại chúng, tha thiết với hạnh phúc, tha thiết với sự thoải mái, tha thiết với sự an ủi của Ðại chúng: “Làm thế nào cho họ tăng trưởng lòng tin, tăng trưởng giới, tăng trưởng đa văn, tăng trưởng bố thí, tăng trưởng pháp, tăng trưởng trí tuệ, tăng trưởng tài vật và lúa gạo, tăng trưởng đất ruộng, tăng trưởng các loài hai chân và bốn chân, tăng trưởng vợ con, tăng trưởng đầy tớ và lao công, tăng trưởng bà con, tăng trưởng bạn bè, tăng trưởng quyến thuộc”. Với tác động, chất chứa, tích tụ, và tăng thịnh của nghiệp ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cõi thiện thú, Thiên giới hay đời này. Ngài tạ thế từ chỗ kia, sanh tại chỗ này, được ba tướng Ðại Trượng phu: nửa thân trên như thân con sư tử, hai vai không có lõm khuyết xuống, và thân hình tròn đều.

 

2.5. ‘Being endowed with these marks,…as a ruler [165] he cannot lose anything: wealth and possessions, bipeds and quadrupeds, wives and children losing nothing, he will succeed in all things. As a Buddha he cannot lose anything: faith, morality, learning, renunciation or wisdom — losing nothing, he will succeed in all things.’ This was what the Lord declared.

Ngài với những tướng như thế này, nếu sống tại gia sẽ thành vị Chuyển luân Thánh vương. Làm vua được những gì? Ngài không bị thất bại và mất mát. Ngài không mất tài sản lúa gạo, ruộng đất, các loài hai chân bốn chân, vợ con, đầy tớ lao công, bàn bè, quyến thuộc. Ngài thành tựu tất cả, không thất bại một điều gì… Làm Phật, Ngài được những gì? Ngài không bị thất bại và mất mát. Ngài không mất tín, giới, văn, thí xả và tuệ. Ngài thành tựu tất cả, không bị thất bại một điều gì.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy.

 

2.6. About this it was said:

‘Faith, morality, learning, wisdom,

Restraint and justice, much good else,

Wealth, possessions, wives and sons,

Flocks, kin, friends, colleagues,

Strength, good looks and happiness:

These things he wished for others

That they might keep and never lose.

“So, lion-fronted, he was born,

Not hollow-backed, and round before.

Through past good kamma well stored up,

With such birth-marks spared all loss,

In household life he’s rich in goods,

In wife and sons and quadrupeds,

Or if renounced, possessing naught,

Supreme enlightenment is his,

Where no failure enters in.”’ [166]

Ở đây, lời nói này được nói lên:

 

Tín, giới, văn, trí tuệ,

Thí, pháp, nhiều thiện sự.

Tài sản, lúa, ruộng đất,

Vợ con, loài bốn chân.

Quyến thuộc, bạn, bà con,

Lúa, sắc và hạnh phúc.

Ngài ao ước mong cầu,

Không một ai tổn hại.

Thân trên như sư tử,

Vai vuông tròn đều đặn.

Nhờ hạnh xưa, không hư,

Tại gia được tăng trưởng,

Gạo, tài sản, vợ con,

Cùng với loài bốn chân.

Xuất gia không vật gì,

Chứng Bồ-đề vô thượng,

Không bao giờ tiêu diệt,

Pháp nhĩ là như vậy.

 

2.7. ‘Monks, in whatever former life the Tathāgata…was one who avoided harming beings by hand, by stones, stick or sword,… on returning to earth he acquired this mark of the Great Man: (21) he has a perfect sense of taste. Whatever he touches with the tip of his tongue he tastes in his throat, and the taste is dispersed everywhere.

Này các Tỷ-kheo, trong bất cứ đời trước nào, hiện hữu nào, trú xứ nào, Như Lai đời trước làm Người, không làm điều gì hại đến các loài hữu tình, hoặc bằng tay, bằng đá, bằng gậy, hay bằng đao. Với tác động chất chứa, tích tụ và tăng thịnh của nghiệp ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên cõi thiện thú, Thiên giới, cõi đời này… Ngài tạ thế từ chỗ kia, sanh tại chỗ này được tướng Ðại Trượng phu này: cảm vị hết sức nhạy bén, khi vật gì chạm đầu ngón lưỡi, những cảm giác được khởi lên tại cổ họng và truyền đi khắp nơi.

 

2.8. ‘Being endowed with this mark,…as a ruler he will suffer little distress or sickness, his digestion will be good, being neither too cold nor too hot.963 As a Buddha likewise, he is also equable and tolerant of exertion.’ This was what the Lord declared.

Ngài đầy đủ với tướng này, nếu sống tại gia thì làm vị Chuyển luân Thánh vương. Làm vua được những gì? Thiểu bệnh, thiểu não, tiêu hóa tốt đẹp, nhiệt độ thăng bằng, không lạnh quá, không nóng quá. Làm vua được như vậy. Làm Phật được những gì? Thiểu bệnh, thiểu não, tiêu hóa tốt đẹp, nhiệt độ thăng bằng, không lạnh quá, không nóng quá, trung bình, có thể kham nhẫn, siêng năng. Làm Phật được như vậy.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy.

 

2.9. About this it was said:

‘Harming none by hand, stick, stone,

Causing death to none by sword,

Harmless, threatening none with bonds,

With happy birth he gained the fruit

Of these good deeds, and then reborn, [167]

Erect his taste-buds, and well-set.964

Those who know the marks declare:

“Great happiness will be his lot

As layman or as wanderer:

That’s the meaning of this sign.”’

Ở đây, lời này được nói lên:

 

Ngài không hại một ai,

Với tay, gậy, đá, gươm,

Không trói, không dọa dạt,

Không sát sanh hại mạng.

Do vậy Ngài sanh thiên,

Hưởng quả báo an lạc,

Tái sanh tại nơi đây,

Cảm vị rất nhạy bén,

Cổ họng khéo an trú,

Thượng vị nhạy truyền đi.

Thiện xảo chiêm tướng gia,

Tuyên bố về Ngài rằng:

Người này sẽ được hưởng,

Nhiều hạnh phúc an lạc,

Dầu tại gia xuất gia,

Hảo tướng thật rõ ràng.

 

2.10. ‘Monks, in whatever former life the Tathāgata…was accustomed to look at people not askance, obliquely or furtively, 965 but directly, openly and straight-forwardly, and with a kindly glance,… on returning to earth he acquired these two marks of the Great Man: (29) deep blue eyes, and (30) eyelashes like a cow’s.

Này các Tỷ-kheo, Như Lai… lúc xưa làm Người, có thói quen không ngó liếc, không ngó xiên, không ngó trộm, nhưng với tâm chánh trực mở rộng, cao thượng, Ngài nhìn Ðại chúng với tâm từ bi. Với tác động, chất chứa, tích tụ, tăng thịnh của nghiệp ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên cõi thiện thú, Thiên giới, cõi đời này… Sau khi tạ thế từ chỗ kia, Ngài sanh lại tại chỗ này với hai tướng Ðại Trượng phu: cặp mắt hết sức xanh và lông mi như con bò cái.

 

2.11. ‘Being endowed with these marks,…as a ruler, he will be looked upon with love by the common people; he will be popular and loved by Brahmin householders [168] citizens and villagers, treaturers, guards, doorkeepers,.. pages. As a Buddha, he will be popular with and loved by monks, nuns, male and female lay-followers, devas and humans, asuras, nagas and gandhabbas.’ This was what the Lord declared.

Ngài đầy đủ với những tướng này, nếu sống tại gia làm vị Chuyển luân Thánh vương. Làm vua được những gì? Ðại chúng ưa nhìn Ngài. Các cư sĩ, Bà-la-môn, thị dân, thôn dân, tài chánh quan, tư pháp quan, vệ sĩ, các thủ môn quan, các đại thần, chư hầu, phú gia, vương tử đều hoan nghênh, tương kính Ngài. Làm vua được như vậy. Làm Phật được những gì? Ðại chúng ưa Ngài. Các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ, chư Thiên, loài Người, A-tu-la, Long xà, Càn-thát-bà hoan nghênh và thương kính Ngài. Làm Phật được như vậy.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy.

 

2.12. About this it was said:

‘Not looking askance, obliquely, or

Turning aside his glance, he looks

Direct and openly at folk

With candour and with kindly eye.

In happy place reborn, he there

Enjoys the fruits of his good deeds.

Reborn here, his lashes are

Like a cow’s; his eyes are blue.

Those who know such things declare

(Interpreting the marks with skill),

“A child with such fine eyes will be

One who’s looked upon with joy.

If a layman, thus he’ll be

Pleasing to the sight of all. [169]

If ascetic he becomes,

Then loved as healer of folk’s woes.”’

Ở đây, lời nói này được nói lên:

 

Không ngó liếc, ngó xiên,

Và cũng không ngó trộm,

Nhưng với tâm chánh trực,

Rộng mở và cao thượng,

Ngài nhìn khắp Ðại chúng,

Với từ tâm của Ngài.

Ở đây Ngài tận hưởng,

Quả an lạc chư Thiên,

Ở đây lông mi Ngài,

Như mi con bò cái,

Cặp mắt hết sức xanh,

Ðẹp đẽ thật ưa nhìn.

Chiêm tướng gia lão luyện,

Tinh thông về hảo tướng,

Ngài thành bậc Thiện nhân.

Với cặp mắt tế nhị,

Ðược mọi người hoan nghênh,

Ưa thích ngắm nhìn Ngài.

Cư sĩ ưa nhìn Ngài,

Ðược mọi người kính yêu.

Tại gia hay Sa-môn,

Ngài được người kính mến,

Như người đã cứu chữa,

Khổ sầu cho Ðại chúng.

 

2.13. ‘Monks, in whatever former life the Tathāgata…became the foremost in skilled behaviour, a leader in right action of body, speech and thought, in generosity, virtuous conduct, observance of fasts, in honouring father and mother, ascetics and Brahmins and the head of the clan, and in various other proper activities, … on returning to earth he acquired this mark of the Great Man: (32) a head like a royal turban.

Này các Tỷ-kheo, Như Lai… lúc xưa làm người là vị lãnh đạo Ðại chúng về các thiện pháp, là vị tiền phong Ðại chúng về thiện hành thuộc thân, khẩu, ý, phân phát bố thí, thủ hộ giới luật, tham dự các lễ Bố-tát, hiếu kính cha mẹ, lễ kính Sa-môn, cung kính bậc trưởng thượng trong gia đình và về các thiện pháp đặc biệt khác. Với sự tác động, chất chứa, tích tụ, tăng thịnh của nghiệp ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên cõi thiện thú, Thiên giới, cõi đời này… Ngài sau khi tạ thế từ chỗ kia, sanh tại chỗ này với tướng Ðại Trượng phu là có nhục kế trên đầu.

 

2.14. ‘Being endowed with this mark,…as a ruler he will receive the loyalty of Brahmin householders, citizens…As a Buddha he will receive the loyalty of monks, nuns…’ This was what the Lord declared.

Ngài đầy đủ với tướng này, nếu sống tại gia, sẽ thành vị Chuyển luân Thánh vương. Làm vua, Ngài được những gì? Ngài được sự trung thành của Ðại chúng, các Cư sĩ, Bà-la-môn, thị dân, thôn dân, các tài chính quan, tư chánh quan, vệ sĩ, thủ môn quan, đại thần, phó vương, phú gia, các vương tử đều trung thành với Ngài. Làm vua, ngài được như vậy. Làm Phật Ngài được những gì? Ngài được sự trung thành của Ðại chúng. Các vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ, chư Thiên, loài Người, các hàng A-tu-la, các loài Long xà, Càn-thát-bà đều trung thành với Ngài. Làm Phật, Ngài được như vậy.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy.

 

2.15. About this it was said:

‘He led the way in conduct then,

Intent on living righteously.

Thus folk were loyal to him here,

And heavenly reward was his. [170]

And after that reward was done,

He reappeared with turbaned head.

Those who know the signs declared:

“He will be the first of men,

All will serve him in this life

Just as was the case before.

If a nobleman of wealth,

He’ll gain the service of his folk,

But should he leave the world, this man

Of doctrine will a master be,

And all the folk will flock to hear

The teaching that he will proclaim.”’

Ở đây, lời nói này được nói lên:

 

Lãnh đạo các chánh hạnh,

Hoan hỷ trong pháp lành,

Ðược Ðại chúng trung thành,

Hưởng công đức chư Thiên.

Hưởng xong các thiện quả,

Sanh đây được nhục kế.

Chiêm tướng gia thiện xảo,

Ðồng tuyên bố về Ngài:

Ngài lãnh đạo Ðại chúng,

Ðược tiền của hiến dâng,

Quá khứ, nay cũng vậy,

Mọi người phục vụ Ngài.

Nếu là Sát-đế-ly,

Ngài trị vì quốc độ,

Ðược đa số quần chúng,

Thành tâm phục vụ Ngài.

Nếu Ngài sống xuất gia,

Thời vị Thượng nhân này,

Tinh thông và thiện xảo,

Ðối với các thiện pháp.

Ðược quần chúng trung thành,

Ðược mọi người phục vụ,

Vì đã quá hoan hỷ,

Công đức dạy của Ngài.

 

2.16. ‘Monks, is whatever former life the Tathāgata,… rejecting false speech, put away lies and became a truth-speaker, wedded to the truth, reliable, consistent, not deceiving the world,… on returning to earth he acquired these two marks of the Great Man: (13) his body-hairs separate, one to each pore, and (31) the hair between his brows white and soft like cotton-down.

Này các Tỷ-kheo, Như Lai… lúc xưa làm Người từ bỏ nói láo, tránh xa nói láo, nói lời chân thật, y chỉ chơn thật, chắc chắn đáng tin cậy, không thất hứa một ai. Với tác động, chất chứa, tích tụ, tăng thịnh của nghiệp ấy… Ngài sau khi tạ thế từ chỗ kia, sanh tại chỗ này với hai tướng Ðại Trượng phu: mỗi lỗ chân lông là mỗi một sợi lông mọc lên và giữa hai lông mày có tướng bạch hào sanh, màu trắng, mềm mại giống như bông.

 

2.17. ‘Being endowed with these marks,… as a ruler he will be obeyed by Brahmin householders…[171] As a Buddha he will be obeyed by monks…’ This was what the Lord declared.

Ngài đầy đủ những tướng này, nếu sống tại gia sẽ thành vị Chuyển luân Thánh vương. Làm vua được những gì? Ðại chúng tuân theo ý muốn của Ngài. Các cư sĩ, Bà-la-môn, thị dân, thôn dân, các tài chánh quan, tư chánh quan, các vệ sĩ, thủ môn quan, đại thần, phó vương, phú gia, vương tử đều tuân theo ý muốn của Ngài. Làm vua, Ngài được như vậy. Làm Phật, Ngài được những gì? Ðại chúng đều tuân theo ý muốn của Ngài. Các vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ, Thiên, Nhân, A-tu-la, Long xà, Càn-thát-bà tuân theo ý muốn của Ngài. Làm Phật Ngài được như vậy.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy.

 

2.18. About this it was said:

‘True to his promise in past births,

Sincere of speech, he shunned all lies.

Breaker of his word to none,

He pleased by truth and honesty.

White and bright and soft as down

The hair appeared between his brows,

And from one pore no two hairs grew,

But each one separate appeared.

Assembled augurs thus declared

(Having read the marks with skill):

“With such a mark between the brows,

And such hairs, he’ll be obeyed

By all, and if a layman still,

They’ll respect him for past deeds;

If renounced, possessionless,

As Buddha they will worship him.”’

Ở đây, lời này được nói lên:

 

Trong những đời quá khứ,

Ngài giữ hạnh chân thật,

Không nói lời hai lưỡi,

Trách lời nói hư vọng.

Ðối với chung tất cả,

Không bội ước một ai,

Ngài sống trong hoan hỷ,

Chơn chánh và như thật.

Ngài có tướng bạch hào,

Mọc giữa hai chân mày,

Trắng, sáng và mịn màng,

Như bông Ðâu-la-miên.

Các lông của Ngài mọc,

Không hai lông một chỗ.

Khi nhiều vị chiêm tướng,

Hội họp chung với nhau.

Những vị tinh thông này,

Ðồng tuyên bố về ngài:

Mười bạch hào hảo tướng,

Và lông mày khéo mọc,

Nên Ngài được mọi người,

Vâng theo ý muốn Ngài.

Là Cư sĩ, Ðại chúng,

Tuân theo ý muốn Ngài,

Vì hành động quá khứ,

Quá rõ ràng cao thượng.

Bỏ tất cả, xuất gia,

Ngài được cả Ðại chúng,

Tuân theo bậc Giác Ngộ,

Tối vô thượng, tịch tịnh.

 

2.19. ‘Monks, in whatever former life the Tathāgata,… rejecting slander, abstained from it, not repeating there what he had heard here to the detriment of these, or repeating what he had heard there to the detriment of those… [172] Thus he was a reconciler of those at variance and an encourager of those at one, rejoicing in peace, loving it, delighting in it, one who spoke up for peace (as Sutta 1, verse 1.9). On returning to earth he acquired these two marks of the Great Man: (23) forty teeth, and (25) no spaces between the teeth.

Này các Tỷ-kheo, Như Lai trong bất cứ đời trước nào… đời trước làm Người, từ bỏ nói hai lưỡi, tránh xa nói hai lưỡi, nghe điều gì chỗ này không đi nói chỗ kia để sanh chia rẽ ở những người này, nghe điều gì ở chỗ kia không đi nói với những người này để sanh chia rẽ ở những người kia. Ngài sống hòa hợp những kẻ ly gián, tăng trưởng những kẻ đã hòa hợp, hoan hỷ trong hòa hợp, nói lời đưa đến hòa hợp. Do tác động, chất chứa, tích tụ, tăng thịnh của nghiệp ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên cõi thiện thú, Thiên giới, cõi đời này… Ngài sau khi tạ thế từ chỗ kia sanh lại tại chỗ này với hai tướng Ðại Trượng phu: có bốn mươi răng, và giữa răng không có kẻ hở.

 

2.20. ‘Being endowed with these marks,… as a ruler, his followers: Brahmin householders, citizens…will not be divided among themselves. Likewise as a Buddha, his followers: monks, nuns…will not be divided among themselves.’ This was what the Lord declared.

Ngài đầy đủ các tướng này, nếu sống tại gia sẽ là vị Chuyển luân Thánh vương. Làm vua, được những gì? Chúng tùy tùng của Ngài không có chia rẽ. Các vị cư sĩ, Bà-la-môn, thị dân, thôn dân, tài chánh quan, tư chánh quan, vệ sĩ, thủ môn quan, các đại thần, phó vương, phú gia, các vương tử đều không chia rẽ. Làm vua, Ngài được như vậy… Làm Phật, được những gì? Các người tùy tùng không có chia rẽ. Các vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ, chư Thiên, loài Người, các vị A-tu-la, các Long xà, các Càn-thát-bà đều không chia rẽ. Làm Phật được như vậy.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy.

 

2.21. About this it was said:

‘He’s no speaker of wicked words

That cause dissension or increase it,

Prolonging strife and bitterness,

Leading to good friendship’s end.

What he spoke was all for peace,

And relinking severed bonds. [173]

His power he used to end all strife,

Harmony was his delight.

In happy realm reborn, he there

Enjoyed the fruits of his good deeds.

Returned to earth, his teeth grew close,

Forty of them, firmly set.

“If a nobleman of wealth,

Gentle will his subjects be;

If a recluse, free from taint,

Well set-up his flock will be.”‘966

Ở đây, lời nói này được nói lên:

 

Không nói lời hai lưỡi,

Khiến chia rẽ hòa hợp,

Khiến phát sanh đấu tranh,

Khiến tăng trưởng chia rẽ.

Không nói lời vô ích,

Làm tranh luận tăng trưởng,

Lời nói sinh chia rẽ

Giữa những người hòa hợp.

Ngài chỉ nói những lời,

Tăng hòa ái lâu ngày,

Lời phát sanh liên kết,

Giữa những người chia rẽ.

Những lời có khả năng,

Trừ tranh chấp mọi người,

Ngài hoan hỷ thoải mái,

Trong đoàn kết hòa hợp.

Do nghiệp báo dị thục,

Ðược sanh cõi thiện thú,

Ngài hoan hỷ thọ hưởng,

Phước báo cõi chư Thiên.

Ở đây răng của Ngài,

Ðều đặn, không kẻ hở,

Có bốn mươi tất cả,

Mọc trong miệng khéo bày.

Nếu sanh Sát-đế-ly,

Ngài trị vì quốc độ,

Dân chúng Ngài trị vì,

Là dân chúng thuần lương.

Sống làm bậc Sa-môn,

Thanh tịnh không cấu uế,

Dân chúng tháp tùng Ngài,

Kỷ cương, không dao động.

 

2.22. ‘Monks, in whatever former life the Tathāgata,…rejecting harsh speech, abstained from it, spoke what was blamless, pleasing to the ear, agreeable, reaching the heart, urbane, pleasing and attractive to the multitude,… on returning to earth he acquired these two marks of the Great Man: (27) his tongue was very long, and (28) he had a Brahmā-like voice, like the karavīka-bird.

Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn… trong đời trước làm Người, Ngài từ bỏ nói lời độc ác, tránh nói lời độc ác, nói những lời không lỗi lầm, đẹp tai, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người, vui lòng nhiều người. Ngài nói những lời như vậy. Với tác động, chất chứa, tích tụ, tăng thịnh của nghiệp ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên cõi thiện thú, Thiên giới, cõi đời này… sau khi tạ thế từ chỗ kia, sanh lại tại chỗ này, Ngài được hai tướng Ðại Trượng phu: lưỡi dài và giọng nói dịu ngọt như tiếng chim Karavika (Ca-lăng-tần-già).

 

2.23. ‘Being endowed with these marks,…as a ruler he will have a persuasive967 voice: all…Brahmin householders, citizens… will take his words to heart. As a Buddha, too, [174] he will have a persuasive voice: all…monks, nuns…will take his words to heart.’ This was what the Lord declared.

Ngài đầu đủ các tướng ấy, nếu sống tại gia làm vị Chuyển luân Thánh vương. Làm vua được những gì? Lời nói được chấp nhận. Các vị cư sĩ, Bà-la-môn, thị dân, thôn dân, tài chánh quan, tư chánh quan, võ sĩ, thủ môn quan, đại thần, phó vương, phú gia, các vương tử đều chấp nhận lời nói của Ngài. Làm vua Ngài được như vậy… Làm Phật được những gì? Lời nói Ngài được chấp nhận. Các vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ, chư Thiên, loài Người, A-tu-la, Long xà, Càn-thát-bà chấp nhận lời của Ngài. Làm Phật được như vậy.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy.

 

2.24. About this it was said:

‘He’s no speaker of abuse,

Harsh and painful, hurting folk,

His voice is gentle, kind and sweet,

Appealing to the hearts of folk

And delightful to their ears.

In happy realm reborn, he there

Enjoyed the fruits of his good deeds.

Having tasted this reward,

With Brahmā-voice endowed, to earth

He returned, and long his tongue.

“And what he says will carry weight.

If layman, he will prosper much.

But if this man should leave the world, [175]

Folk will take his words to heart,

And set great store by all he says.”‘

Ở đây, lời nói này được nói lên:

 

Không nói lời độc ác,

Gây tranh luận có hại,

Lời thô bạo cộc cằn,

Não hại, hiếp Ðại chúng.

Ngài nói lời ngọt ngào,

Hòa dịu cùng thân ái,

Lời nói đẹp ý lòng,

Ði sâu vào nội tâm.

Lời nói khiến tai nghe,

Cảm thấy lòng an lạc,

Ngài thọ hưởng quả báo,

Do khẩu hành tốt đẹp,

Hưởng công đức quả báo,

Tại cảnh giới chư Thiên.

Sau khi hưởng quả lành,

Do thiện hành đem lại,

Ngài tái sanh nơi đây,

Với phạm âm thù thắng,

Ðược tướng lưỡi tốt đẹp,

Vừa rộng lại vừa dài.

Lời nói Ngài phát ra,

Ðược mọi người chấp nhận.

Nếu làm vị cư sĩ,

Lời nói được thành công.

Nếu Ngài sống xuất gia,

Lời nói được chấp nhận,

Lời nói Ngài càng nhiều,

Càng nhiều người tin tưởng.

 

2.25. ‘Monks, in whatever former life the Tathagāta,…rejecting idle cha?er, spoke at the right time, what was correct and to the point, of Dhamma and discipline, and what was bound up with profit,…on returning to earth he acquired this mark of the Great Man: (22) jaws like a lion’s.

Này các Tỷ-kheo, trong bất kỳ đời trước nào, thiện hữu nào, trú xứ nào, Như Lai đời trước làm Người, từ bỏ lời nói ỷ ngữ, tránh xa lời nói ỷ ngữ, nói đúng thời, nói những lời chân thật, nói những lời có ý nghĩa, nói những lời về Chánh pháp, nói những lời về Luật, nói những lời đáng được gìn giữ, những lời hợp thời, thuận lý, có mạch lạc, hệ thống, có ích lợi. Với tác động, chất chứa, tích tụ, tăng thịnh của nghiệp ấy, sau khi thân hoại mạng chung được sanh lên cõi thiện thú, Thiên giới, cõi đời này… Ngài sau khi tạ thế từ chỗ kia, sanh lại tại chỗ này được tướng Ðại Trượng phu này là hàm như hàm con sư tử.

 

2.26. ‘Being endowed with this mark,… as a ruler he cannot be overcome by any human foe or opponent. As

a Buddha he cannot be overcome by any foe or hostile thing from within or without, by lust, hatred or delusion, by any ascetic or Brahmin, deva, mara, Brahmā or anything in the world.’ This was what the Lord declared.

Ngài đầy đủ với tướng này, nếu sống tại gia thì làm vị Chuyển luân Thánh vương. Làm vua được những gì? Ngài không bao giờ bị ai chinh phục, kẻ thù hay kẻ địch, thuộc loại người nào. Làm vua, Ngài được như vậy. Làm Phật, được những gì? Ngài không bị ai chinh phục bởi nội địch hay ngoại địch, nội oán hay ngoại oán, bởi tham, sân hay si, bởi vị Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên, Ma vương, Phạm thiên hay bất cứ một ai ở đời. Làm Phật, Ngài được như vậy.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy.

 

2.27. About this it was said:

‘No idle talk or foolishness,

Fruit of scatterbrain was his.

Harmful things he put aside,

Speaking only all men’s good. [176]

And so at death he went to heaven

To taste the fruit of deeds well done.

Returned to earth once more, his jaw

Resembled that of him that’s lord

Of all twice-two-footed things.

“He will be a king unbeaten,

Lord of men, of mighty power,

Like the Lord of threefold heaven,968

Like the greatest of the gods.

gandhabbas, sakkas, asuras

Will strive in vain to cast him down.

As layman thus he’ll be throughout

All the quarters of the world.”‘969

Ở đây, lời nói này được nói lên:

 

Không nói lời ỷ ngữ,

Ngu độn và dao động,

Từ bỏ lời có hại,

Chỉ nói lời có lợi.

Những lời đem an lạc,

Cho tất cả Ðại chúng.

Làm vậy Ngài tạ thế,

Ðược sanh lên Thiên giới,

Và hưởng thọ quả báo,

Do thiện hạnh đem lại.

Sau khi Ngài tạ thế,

Ðược sanh lại nơi đây,

Ngài được làm tối thắng,

Loại chúa muôn loài thú.

Làm vua, thành Ðế-thích,

Chinh phục cả nhân loại,

Thống lãnh khắp nhân gian,

Có nhiều đại uy lực,

Là Ðế-thích ngự trị,

Thành trì cõi chư Thiên,

Bậc siêu thăng tối thắng,

Trên cả các chư Thiên.

Nhiếp phục Càn-thát-bà,

A-tu-la, Ðế-thích,

Dạ-xoa và chư Thiên,

Không ai nhiếp thắng Ngài.

Nếu sống có gia đình,

Ngài sẽ là như vậy,

Cùng khắp cả bốn phương,

Bốn duy và thượng hạ.

 

2.28. ‘Monks, in whatever former life the Tathāgata,… rejecting wrong livelihood, lived by right livelihood, refraining from cheating with false weights and measures, from bribery and corruption, deception and insincerity, from wounding, killing, imprisoning, lighway robbery, and taking goods by force.970[177] On returning to earth he acquired these two marks of the Great Man: (24) even teeth, and (26) very bright canine teeth.

Này các Tỷ-kheo, trong bất cứ đời trước nào, hiện hữu nào, trú xứ nào, Như Lai đời trước làm Người, từ bỏ tà mạng, nuôi  sống theo chánh mạng, tránh xa các sự gian lận bằng cân tiền bạc đo lường, hối lộ, gian trá, lừa đảo, không làm tổn thương, sát hại, câu thúc, bức đoạt, trộm cắp, cướp phá. Với tác động, chất chứa, tích tụ, tăng thịnh của nghiệp ấy… Sau khi tạ thế từ chỗ kia, sanh lại tại chỗ này, được hai tướng Ðại Trượng phu này là các răng đều đặn và sáng chói.

 

2.29. ‘Being endowed with these marks, if he keeps to the household life he will be a wheel-turning monarch…As a ruler, his followers… Brahmin householders… will be pure.

Ngài đầy đủ những tướng này, nếu sống tại gia thành vị Chuyển luân Thánh vương, dùng Chánh pháp trị nước, là vị pháp vương bình định bốn phương, đem lại an toàn cho quốc độ, đầy đủ bảy món báu. Bảy món báu trở thành vật sở hữu của vị ấy, tức là xe báu, voi báu, ngựa báu, ngọc báu, nữ báu, gia chủ báu, và thứ bảy là tướng quân báu. Vị này có hơn một ngàn thái tử, những bậc anh hùng, chiến thắng, thân thể dõng kiện, nhiếp phục địch quân. Vị này chinh phục quả đất này cho đến hải biên, và trị nước với Chánh pháp, không dùng trượng, không dùng đao. Làm vua được những gì? Tùy tùng của Ngài được tâm thanh tịnh. Các vị tài chánh quan, tư chánh quan, vệ sĩ, thủ môn quan, các đại thần, các phó vương, phú gia, các vương tử đều có tâm thanh tịnh. Làm vua Ngài được như vậy.

 

2.30. ‘But if he goes forth from the household life into homelessness,… as a Buddha, his followers… monks, nuns… will be pure.’ This was what the Lord declared.

Nếu Ngài xuất gia, từ bỏ gia đình, Ngài là vị A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, vén lui màn vô minh che đời. Làm Phật được những gì? Các tùy tùng của Ngài được tâm thanh tịnh. Các vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ, chư Thiên, loài Người, các A-tu-la, các Long xà, Càn-thát-bà được tâm thanh tịnh. Làm Phật, Ngài được như vậy.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy.

 

2.31. About this it was said:

‘Wrongful living he gave up

And took a pure and righteous course. [178]

Harmful things he cast aside,

Working only for folk’s good.

Heaven brings him sweet reward

For deeds he’s done that earn the praise

Of those who’re wise and skilled:

He shares in all delights and joys

Like the lord of threefold heaven.

Falling thence to human state,

As residue of virtue’s fruit,

He gains evenness of teeth,

Purity and brightness too.

Assembled augurs thus declared

He’ll be the wisest of mankind,

“And pure his followers will be,

Whose even teeth like birds’ plumes shine.

As king his pure retainers will

Bow to his, their lord’s, command. [179]

Not oppressed by force, they will

Strive for general weal and joy.

But if he dwells, a wanderer,

Free from evil, all lust quenched,

Drawing back the veil;971 with pain

And weariness all gone, he’ll see

This world and the next, and there

Lay-folk and renounced, who flock

To cast aside, as he has taught,

Those impure, evil things he blames.

Thus his followers are pure,

For he drives out from their hearts

Evil and corrupting states.“’

Ở đây, lời nói này được nói lên:

 

Từ bỏ sống tà mạng,

Sống thanh tịnh đúng Pháp,

Từ bỏ hạnh có hại,

Chỉ làm hạnh có lợi.

Các hạnh đem an lạc,

Cho tất cả chúng sanh,

Làm Người Ngài hưởng quả,

An lạc ở Thiên giới.

Do vậy đời sống Ngài,

Hưởng hỷ lạc, hoan lạc,

Như vị chúa tối tôn,

Ở kinh thành chư Thiên.

Từ đó xuống làm Người,

Nhờ kết quả thiện hạnh,

Hàm răng Ngài đều đặn,

Thanh tịnh và trong sáng.

Nhiều vị chiêm tướng giỏi,

Ðến tụ họp tuyên bố:

Ngài thống lãnh loài Người,

Ðược kính trọng tối thắng,

Các tùy tùng đồ chúng,

Là những vị thanh tịnh.

Răng thanh tịnh trong sáng,

Trắng bạch đều như chim.

Làm vua, có quần chúng,

Tùy tùng đều thanh tịnh,

Trị vì mọi quốc độ.

Quần chúng sẽ không bị,

Áp bức bởi sức mạnh.

Họ sống đời mong cầu,

Hạnh phúc cho mọi người.

Nếu Ngài sống xuất gia,

Từ bỏ các áp pháp,

Ái nhiễm được gột sạch,

Vô mình được vén lên,

Lo âu cùng mệt mỏi,

Thảy đều được trừ diệt,

Thấy đời này, đời sau,

Nhiều cư sĩ, xuất gia,

Hành trì theo Ngài dạy,

Tránh xa đời bất tịnh,

Lỗi lầm và độc ác.

Tùy tùng đồ chúng Ngài,

Ðều là bậc thanh tịnh,

Trừ được mọi uế chướng,

Tội quá cùng phiền não.

 

Sources

Tài liệu tham khảo:

  1. http://lirs.ru/lib/sutra/Long_Discourses_of_the_Buddha(Digha_Nikaya).Walshe.pdf
  2. https://www.budsas.org/uni/u-kinh-truongbo/truong30.htm