Chương 24: Kinh Trạm Xe – MN 24: The Relay Chariots – Song ngữ

Anh ngữ: Bhikkhu Ñāṇamoli      

Việt ngữ: Hòa thượng Thích Minh Châu

Compile: Lotus group

 

Quyển I – Trung Bộ Kinh – Volume I – Middle-length Discourses – Majjhima Nikaya

Chương 24: Kinh Trạm Xe – MN 24: The Relay Chariots (Rathavinìta sutta).

 

  1. Thus I have herad:

On one occasion the Blessed One was living at Rajagaha in the Bamboo Grove, the Squirrels’ Sanctuary.

Tôi nghe như vầy:

Một thời Thế Tôn ở Rajagaha (Vương Xá) tại Veluvana (Trúc Lâm), Kalandakanivapa. 

 

  1. Then a number of bhikkhus from [the Blessed One’s] native land, who had spent the Rains there, went to the Blessed One, and after paying homage to him, sat down at one side. The Blessed One asked them:

Lúc ấy một số đông Tỷ-kheo người địa phương, sau khi an cư mùa mưa tại địa phương xong, liền đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo đang ngồi một bên: 

 

“Bhikkhus, who in [my] native land is esteemed by the bhikkhus there, by his companions in the holy life, in this way: ‘Having few wishes himself, he talks to the bhikkhus on fewness of wishes; content himself, he talks to the bhikkhus on contentment; secluded himself, he talks to the bhikkhus on seclusion; aloof from society himself, he talks to the bhikkhus on aloofness from society; energetic himself, he talks to the bhikkhus on arousing energy; attained to virtue himself, he talks to the bhikkhus on the attainment of virtue; attained to concentration himself, he talks to the bhikkhus on the attainment of concentration; attained to wisdom himself, he talks to the bhikkhus on the attainment of wisdom; attained to deliverance himself, he talks to the bhikkhus on the attainment of deliverance; attained to the knowledge and vision of deliverance himself, he talks to the bhikkhus on the attainment of the knowledge and vision of deliverance; he is one who advises, informs, instructs, urges, [146] rouses, and encourages his companions in the holy life’?”

Này các Tỷ-kheo, ai ở tại địa phương được các Tỷ-kheo đồng phạm hạnh cùng một địa phương tán thán như sau: “Tự mình thiểu dục và giảng về thiểu dục cho các Tỷ-kheo; tự mình tri túc và giảng về tri túc cho các Tỷ-kheo; tự mình độc cư và giảng về độc cư cho các Tỷ-kheo; tự mình không ô nhiễm và giảng về không ô nhiễm cho các Tỷ-kheo; tự mình tinh cần, tinh tấn và giảng về tinh cần, tinh tấn cho các Tỷ-kheo; tự mình thành tựu giới hạnh và giảng về thành tựu giới hạnh cho các Tỷ-kheo; tự mình thành tựu Thiền định và giảng về thành tựu Thiền định cho các Tỷ-kheo; tự mình thành tựu trí tuệ và nói về thành tựu trí tuệ cho các Tỷ-kheo; tự mình thành tựu giải thoát và nói về thành tựu giải thoát cho các Tỷ-kheo; tự mình thành tựu giải thoát tri kiến và nói về thành tựu giải thoát tri kiến cho các Tỷ-kheo; vị giáo giới, vị khai thị, vị trình bày, vị khích lệ, vị làm cho phấn khởi, vị làm cho các vị đồng phạm hạnh hoan hỷ?”.

 

“Venerable sir, the venerable Punna Mantaniputta is so esteemed in the [Blessed One’s] native land by the bhikkhus there, by his companions in the holy life.”

Bạch Thế Tôn, Tôn giả Punna Mantaniputta là Tỷ-kheo địa phương được các Tỷ-kheo đồng phạm hạnh cùng một địa phương tán thán như sau: “Tự mình thiểu dục và nói về thiểu dục cho các Tỷ-kheo… (như trên)… vị làm cho các vị đồng phạm hạnh hoan hỷ.” 

 

  1. Now on that occasion the venerable Sariputta was seated near the Blessed One. Then it occurred to the venerable Sariputta: “It is a gain for the venerable Punna Mantaniputta, it is a great gain for him that his wise companions in the holy life praise him point by point in the Teacher’s presence. Perhaps sometime or other we might meet the venerable Punna Mantaniputta and have some conversation with him.”

Lúc bấy giờ, Tôn giả Sariputta ngồi cách Thế Tôn không xa. Tôn giả Sariputta suy nghĩ như sau: “Hạnh phúc thay Tôn giả Punna Mantaniputta! Chơn hạnh phúc thay Tôn giả Punna Mantaniputta! Tôn giả đã được các vị đồng phạm hạnh có trí tán thán từng điểm một trước mặt bậc Đạo Sư, và được bậc Đạo Sư chấp nhận; có thể chúng ta sẽ gặp Tôn giả Punna Mantaniputta, tại một chỗ nào, trong một thời gian nào, có thể sẽ có một cuộc đàm luận với Tôn giả.” 

 

  1. Then, when the Blessed One had stayed at Rajagaha as long as he chose, he set out to wander by stages to Savatthi. Wandering by stages, he eventually arrived at Savatthi, and there he lived in Jeta’s Grove, Anathapindika’s Park.

Thế Tôn trú tại Rajagaha (Vương Xá) lâu cho đến khi vừa ý, rồi khởi hành đi Savatthi; Ngài tuần tự đi và đến Savatthi. Ở đây, Thế Tôn trú ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika. 

 

  1. The venerable Punna Mantaniputta heard: “The Blessed One has arrived at Savatthi and is living in Jeta’s Grove, Anathapindika’s Park.” Then the venerable Punna Mantaniputta set his resting place in order, and taking his outer robe and bowl, set out to wander by stages to Savatthi. Wandering by stages, he eventually arrived at Savatthi and went to Jeta’s Grove, Anathapindika’s Park, to see the Blessed One. After paying homage to the Blessed One, he sat down at one side and the Blessed One instructed, urged, roused, and encouraged him with talk on the Dhamma. Then the venerable Punna Mantaniputta, instructed, urged, roused, and encouraged by the Blessed One’s talk on the Dhamma, delighting and rejoicing in the Blessed One’s words, rose from his seat, and after paying homage to the Blessed One, keeping him on his right, he went to the Blind Men’s Grove for the day’s abiding.

Tôn giả Punna Mantaniputta được nghe: “Thế Tôn đã đến Savatthi, trú ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika”. Rồi Tôn giả Punna Mantaniputta thâu dọn lại sàng tọa, cầm y bát, khởi hành đi Savatthi. Tôn giả tuần tự đi đến Savatthi, Jetavana, vườn ông Anathapindika, đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Thế Tôn thuyết pháp cho Tôn giả Punna Mantaniputta đang ngồi một bên, khích lệ, làm cho hoan hỷ. Tôn giả Punna Mantaniputta, sau khi được Thế Tôn thuyết pháp, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài, từ tạ đi Andhavana để nghỉ trưa.

 

  1. Then a certain bhikkhu went to the venerable Sariputta and said to him: “Friend Sariputta, the bhikkhu Punna Mantaniputta of whom you have always spoken highly [147] has just been instructed, urged, roused, and encouraged by the Blessed One with talk on the Dhamma; after delighting and rejoicing in the Blessed One’s words, he rose from his seat, and after paying homage to the Blessed One, keeping him on his right, he has gone to the Blind Men’s Grove for the day’s abiding.”

Rồi một Tỷ-kheo khác đến chỗ Tôn giả Sariputta ở, sau khi đến, thưa với Tôn giả Sariputta: “Hiền giả Sariputta, Hiền giả luôn luôn tán dương Tỷ-kheo Punna Mantaniputta; vị này được Thế Tôn thuyết pháp, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài, từ tạ đi đến Andhavana để nghỉ trưa”. 

 

  1. Then the venerable Sariputta quickly picked up a mat and followed close behind the venerable Punna Mantaniputta, keeping his head in sight. Then the venerable Punna Mantaniputta entered the Blind Men’s Grove and sat down for the day’s abiding at the root of a tree. The venerable Sariputta also entered the Blind Men’s Grove and sat down for the day’s abiding at the root of a tree.

Rồi Tôn giả Sariputta vội vã đem theo tọa cụ, đi theo sau lưng Tôn giả Punna Mantaniputta, đầu hướng về trước mặt (để theo dõi). Rồi Tôn giả Punna Mantaniputta đi sâu vào rừng Andhavana, và ngồi nghỉ trưa dưới một gốc cây. Tôn giả Sariputta, sau khi đi sâu vào rừng Andhavana, ngồi nghỉ trưa dưới một gốc cây. 

 

  1. Then, when it was evening, the venerable Sariputta rose from meditation, went to the venerable Punna Mantaniputta, and exchanged greetings with him. When this courteous and amiable talk was finished, he sat down at one side and said to the venerable Punna Mantaniputta:

Rồi vào buổi chiều, Tôn giả Sariputta từ Thiền định độc cư đứng dậy, đến tại chỗ Tôn giả Punna Mantaniputta, sau khi đến nói lên với Tôn giả Punna Mantaniputta những lời chào đón, hỏi thăm, xã giao rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Sariputta thưa với Tôn giả Punna Mantaniputta:

 

  1. “Is the holy life lived under our Blessed One, friend?”

– “Yes, friend.”

– “But, friend, is it for the sake of purification of virtue that the holy life is lived under the Blessed One?”

– “No, friend.”

– “Then is it for the sake of purification of mind that the holy life is lived under the Blessed One?”

– “No, friend.”

– “Then is it for the sake of purification of view that the holy life is lived under the Blessed One?”

– “No, friend.”

– “Then is it for the sake of purification by overcoming doubt that the holy life is lived under the Blessed One?”

– “No, friend.”

– “Then is it for the sake of purification by knowledge and vision of what is the path and what is not the path that the holy life is lived under the Blessed One?”

– “No, friend.”

– “Then is it for the sake of purification by knowledge and vision of the way that the holy life is lived under the Blessed One?”

– “No, friend.”

– “Then is it for the sake of purification by knowledge and vision that the holy life is lived under the Blessed One?”

– “No, friend.”

Hiền giả, có phải chúng ta sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn?
— Thật như vậy, Hiền giả. 

— Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích giới thanh tịnh?
— Không phải vậy, Hiền giả.

— Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích tâm thanh tịnh?
— Không phải vậy, Hiền giả.

— Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là mục đích kiến thanh tịnh?
— Không phải vậy, Hiền giả. 

— Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích đoạn nghi thanh tịnh?
— Không phải vậy, Hiền giả. 

— Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh?
— Không phải vậy, Hiền giả. 

— Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích đạo tri kiến thanh tịnh?
— Không phải vậy, Hiền giả. 

— Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích tri kiến thanh tịnh?
— Không phải vậy, Hiền giả. 

 

  1. “Friend, when asked: ‘But, friend, is it for the sake of purification of virtue that the holy life is lived under the Blessed One?’ you replied: ‘No, friend.’ When asked: ‘Then is it for the sake of purification of mind … purification of view … purification by overcoming doubt … purification by knowledge and vision of what is the path and what is not the path … purification by knowledge and vision of the way … purification by knowledge and vision that the holy life is lived under the Blessed One?’ you replied: ‘No, friend.’ For the sake of what then, friend, [148] is the holy life lived under the Blessed One?”

Hiền giả, khi hỏi “có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích giới thanh tịnh?”, Hiền giả trả lời “Không phải vậy”. Khi hỏi … tâm thanh tịnh? … kiến thanh tịnh?… đoạn nghi thanh tịnh? … đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh? … đạo tri kiến thanh tịnh? … Khi hỏi “có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích tri kiến thanh tịnh?”, Hiền giả trả lời “Không phải vậy”. Như vậy, Hiền giả, với mục đích gì, sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn? 

 

“Friend, it is for the sake of final Nibbana without clinging that the holy life is lived under the Blessed One.”

Hiền giả, với mục đích vô thủ trước Bát-niết-bàn, nên sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn. 

 

  1. “But, friend, is purification of virtue final Nibbana without clinging?” – -“No, friend.”

– “Then is purification of mind final Nibbana without clinging?”

– “No, friend.”

– “Then is purification of view final Nibbana without clinging?”

– “No, friend.”

– “Then is purification by overcoming doubt final Nibbana without clinging?”

– “No, friend.”

– “Then is purification by knowledge and vision of what is the path and what is not the path final Nibbana without clinging?”

– “No, friend.”

– “Then is purification by knowledge and vision of the way final Nibbana without clinging?”

– “No, friend.”

– “Then is purification by knowledge and vision final Nibbana without clinging?”

– “No, friend.”

– “But, friend, is final Nibbana without clinging to be attained without these states?”

– “No, friend.”

Hiền giả, có phải giới thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
— Hiền giả, không phải vậy. 

— Hiền giả, có phải tâm thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
— Hiền giả, không phải vậy. 

— Hiền giả, có phải kiến thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
— Hiền giả, không phải vậy. 

— Hiền giả, có phải đoạn nghi thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
— Hiền giả, không phải vậy. 

— Hiền giả, có phải đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
— Hiền giả, không phải vậy. 

— Hiền giả, có phải đạo tri kiến thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
— Hiền giả, không phải vậy. 

— Hiền giả, có phải tri kiến thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
— Hiền giả, không phải vậy. 

— Hiền giả, có phải cái gì ngoài các pháp này là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
— Hiền giả, không phải vậy. 

 

  1. “When asked: ‘But, friend, is purification of virtue final Nibbana without clinging?’ you replied: ‘No, friend.’ When asked: ‘Then is purification of mind … purification of view … purification by overcoming doubt … purification by knowledge and vision of what is the path and what is not the path … purification by knowledge and vision of the way … purification by knowledge and vision final Nibbana without clinging?’ you replied: ‘No, friend.’ And when asked: ‘But, friend, is final Nibbana without clinging to be attained without these states?’ you replied: ‘No, friend.’ But how, friend, should the meaning of these statements be regarded?”

Hiền giả, khi hỏi “có phải giới thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?”, Hiền giả trả lời: “Không phải vậy. Khi hỏi “có phải tâm thanh tịnh …? … có phải kiến thanh tịnh …? … có phải đoạn nghi thanh tịnh …? … có phải đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh …? … có phải đạo tri kiến thanh tịnh là …? … có phải tri kiến thanh tịnh …? … có phải cái gì ngoài các pháp này là vô thủ trước Bát-niết-bàn?”, Hiền giả trả lời: “Không phải vậy.” Hiền giả, vậy ý nghĩa lời nói này cần phải được hiểu như thế nào?

 

  1. “Friend, if the Blessed One had described purification of virtue as final Nibbana without clinging, he would have described what is still accompanied by clinging as final Nibbana without clinging. If the Blessed One had described purification of mind … purification of view … purification by overcoming doubt … purification by knowledge and vision of what is the path and what is not the path … purification by knowledge and vision of the way … purification by knowledge and vision as final Nibbana without clinging, he would have described what is still accompanied by clinging as final Nibbana without clinging. And if final Nibbana without clinging were to be attained without these states, then an ordinary person would have attained final Nibbana, for an ordinary person is without these states.

Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố giới thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn thì Ngài cũng tuyên bố vô thủ trước Bát-niết-bàn là đồng đẳng với hữu thủ trước Bát-niết-bàn. Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố tâm thanh tịnh… Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố kiến thanh tịnh… Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố đoạn nghi thanh tịnh… Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh… Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố đạo tri kiến thanh tịnh… Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố tri kiến thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn thì Ngài cũng tuyên bố vô thủ trước Bát-niết-bàn là đồng đẳng với hữu thủ trước Bát-niết-bàn. Hiền giả, và nếu Thế Tôn tuyên bố cái gì ngoài các pháp ấy là vô thủ trước Bát-niết-bàn, thì kẻ phàm phu có thể Bát-niết-bàn, vì này Hiền giả, phàm phu là ngoài các pháp ấy. 

 

  1. “As to that, friend, I shall give you a simile, for some wise men understand the meaning of a statement by means of a simile. Suppose that King Pasenadi of Kosala while living at Savatthi [149] had some urgent business to settle at Saketa, and that between Savatthi and Saketa seven relay chariots were kept ready for him. Then King Pasenadi of Kosala, leaving Savatthi through the inner palace door, would mount the first relay chariot, and by means of the first relay chariot he would arrive at the second relay chariot; then he would dismount from the first chariot and mount the second chariot, and by means of the second chariot, he would arrive at the third chariot … by means of the third chariot, he would arrive at the fourth chariot … by means of the fourth chariot, he would arrive at the fifth chariot … by means of the fifth chariot, he would arrive at the sixth chariot … by means of the sixth chariot, he would arrive at the seventh chariot, and by means of the seventh chariot he would arrive at the inner palace door in Saketa. Then, when he had come to the inner palace door, his friends and acquaintances, his kinsmen and relatives, would ask him: ‘Sire, did you come from Savatthi to the inner palace door in Saketa by means of this relay chariot?’ How then should King Pasenadi of Kosala answer in order to answer correctly?”

Hiền giả, tôi sẽ cho Hiền giả một ví dụ, ở đây, một số kẻ có trí, nhờ ví dụ để hiểu ý nghĩa của lời nói. Hiền giả, như vua Pasenadi xứ Kosala trong khi ở tại Savatthi, có công việc khẩn cấp khởi lên ở Saketa, và bảy trạm xe được sắp đặt cho vua giữa Savatthi và Saketa. Hiền giả, rồi vua Pasenadi xứ Kosala, từ cửa nội thành ra khỏi Savatthi, leo lên trạm xe thứ nhất, và nhờ trạm thứ nhất đến được trạm xe thứ hai; từ bỏ trạm xe thứ nhất, leo lên trạm xe thứ hai, nhờ trạm xe thứ hai đến được trạm xe thứ ba; từ bỏ trạm xe thứ hai… đến được trạm xe thứ tư; từ bỏ trạm xe thứ ba… đến được trạm xe thứ năm, từ bỏ trạm xe thứ tư, leo lên trạm xe thứ năm, nhờ trạm xe thứ năm đến được trạm xe thứ sáu; từ bỏ trạm thứ năm, leo lên trạm xe thứ sáu, nhờ trạm xe thứ sáu, đến được trạm xe thứ bảy; từ bỏ trạm xe thứ sáu, leo lên trạm xe thứ bảy, nhờ trạm xe thứ bảy đến được Saketa, tại cửa nội thành. Khi vua đến tại cửa nội thành, các bộ trưởng cận thần, các thân thích cùng huyết thống hỏi như sau:”– Tâu Đại vương có phải với trạm xe này, Bệ hạ đi từ Savatthi đến Saketa tại cửa nội thành?” Hiền giả, vua Pasenadi nước Kosala phải trả lời như thế nào mới gọi là trả lời đúng đắn?

 

“In order to answer correctly, friend, he should answer thus: ‘Here, while living at Savatthi I had some urgent business to settle at Saketa, and between Savatthi and Saketa seven relay chariots were kept ready for me. Then, leaving Savatthi through the inner palace door, I mounted the first relay chariot, and by means of the first relay chariot I arrived at the second relay chariot; then I dismounted from the first chariot and mounted the second chariot, and by means of the second chariot I arrived at the third … fourth … fifth … sixth … seventh chariot, and by means of the seventh chariot I arrived at the inner palace door in Saketa.’ In order to answer correctly he should answer thus.”

Hiền giả, vua Pasenadi nước Kosala phải trả lời như thế này mới trả lời đúng đắn: “– Ở đây, trong khi ta ở Savatthi, có công việc khẩn cấp khởi lên ở Saketa, và bảy trạm xe được sắp đặt cho ta, giữa Savatthi và Saketa. Ta từ cửa nội thành ra khỏi Savatthi, leo lên trạm xe thứ nhất, và nhờ trạm xe thứ nhất, ta đến được trạm xe thứ hai; từ bỏ trạm xe thứ nhất, ta leo lên trạm xe thứ hai; và nhờ trạm xe thứ hai, ta đến được trạm xe thứ ba; từ bỏ trạm xe thứ hai… đến được trạm xe thứ tư; từ bỏ trạm xe thứ ba… đến được trạm xe thứ năm; từ bỏ trạm xe thứ tư… đến được trạm xe thứ sáu; từ bỏ trạm xe thứ năm, leo lên trạm xe thứ sáu, nhờ trạm xe thứ sáu, đến được trạm xe thứ bảy; từ bỏ trạm xe thứ sáu… leo lên trạm xe thứ bảy, nhờ trạm xe thứ bảy, Ta đến được Saketa, tại cửa nội thành”. Hiền giả, vua Pasenadi nước Kosala trả lời như vậy mới trả lời một cách đúng đắn.

 

  1. “So too, friend, purification of virtue is for the sake of reaching purification of mind; purification of mind is for the sake of reaching purification of view; purification of view is for the sake of reaching purification by overcoming doubt; purification by overcoming doubt [150] is for the sake of reaching purification by knowledge and vision of what is the path and what is not the path; purification by knowledge and vision of what is the path and what is not the path is for the sake of reaching purification by knowledge and vision of the way; purification by knowledge and vision of the way is for the sake of reaching purification by knowledge and vision; purification by knowledge and vision is for the sake of reaching final Nibbana without clinging. It is for the sake of final Nibbana without clinging that the holy life is lived under the Blessed One.”

Cũng vậy, này Hiền giả, giới thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) tâm thanh tịnh; tâm thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) kiến thanh tịnh; kiến thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) đoạn nghi thanh tịnh; đoạn nghi thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh; đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) đạo tri kiến thanh tịnh; đạo tri kiến thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) tri kiến thanh tịnh; tri kiến thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) vô thủ trước Bát-niết-bàn. Này Hiền giả, sống phạm hạnh dưới sự chỉ dẫn của Thế Tôn là với mục đích vô thủ trước Bát-niết-bàn.

 

  1. When this was said, the venerable Sariputta asked the venerable Punna Mantaniputta: “What is the venerable one’s name, and how do his companions in the holy life know the venerable one?”

“My name is Punna, friend, and my companions in the holy life know me as Mantaniputta.”

Khi được nói vậy, Tôn giả Sariputta nói với Tôn giả Punna Mantaniputta:

— Tôn giả tên là gì? Và các vị đồng phạm hạnh biết Tôn giả như thế nào?

— Hiền giả, tên tôi là Punna và các vị đồng phạm hạnh biết tôi là Mantaniputta.

 

“It is wonderful, friend, it is marvellous! Each profound question has been answered, point by point, by the venerable Punna Mantaniputta as a learned disciple who understands the Teacher’s Dispensation correctly. It is a gain for his companions in the holy life, it is a great gain for them that they have the opportunity to see and honour the venerable Punna Mantaniputta. Even if it were by carrying the venerable Punna Mantaniputta about on a cushion on their heads that his companions in the holy life would get the opportunity to see and honour him, it would be a gain for them, a great gain for them. And it is a gain for us, a great gain for us that we have the opportunity to see and honour the venerable Punna Mantaniputta.”

Thật hy hữu thay, Hiền giả! Thật kỳ diệu thay, Hiền giả! Những câu hỏi sâu kín đã được trả lời từng điểm một bởi một đệ tử nghe nhiều, đã biết rõ giáo lý của bậc Đạo Sư, và vị đệ tử ấy là Tôn giả Punna Mantaniputta. Thật hạnh phúc thay cho các vị đồng phạm hạnh! Thật chơn hạnh phúc thay cho các vị đồng phạm hạnh được thăm viếng, được thân cận Tôn giả Punna Mantaniputta! Nếu các vị đồng phạm hạnh đội Tôn giả Punna Mantaniputta trên đầu với một cuộn vải làm khăn để được thăm viếng, để được thân cận, thì thật là hạnh phúc cho các vị ấy, thật là chơn hạnh phúc cho các vị ấy! Thật hạnh phúc cho chúng tôi, thật chơn hạnh phúc cho chúng tôi được thăm viếng, được thân cận Tôn giả Punna Mantaniputta!

 

  1. When this was said, the venerable Punna Mantaniputta asked the venerable Sariputta:

-“What is the venerable one’s name, and how do his companions in the holy life know the venerable one?”

-“My name is Upatissa, friend, and my companions in the holy life know me as Sariputta.”

Khi được nói vậy, Tôn giả Punna Mantaniputta nói với Tôn giả Sariputta:

— Tôn giả tên là gì, và các vị đồng phạm hạnh biết Tôn giả như thế nào?

— Hiền giả, tôi tên là Upatissa, và các vị đồng phạm hạnh biết tôi là Sariputta. 

 

“Indeed, friend, we did not know that we were talking with the venerable Sariputta, the disciple who is like the Teacher himself. If we had known that this was the venerable Sariputta, we should not have said so much. It is wonderful, friend, it is marvellous! Each profound question has been posed, point by point, by the venerable Sariputta as a learned disciple who understands the Teacher’s Dispensation correctly. It is a gain for his companions in the holy life, it is a great gain for them that they have the opportunity to see and honour the venerable Sariputta. Even if it were by carrying the venerable Sariputta about on a cushion on their heads that his companions in the holy life would get the opportunity to see and honour him, [151] it would be a gain for them, a great gain for them. And it is a gain for us, a great gain for us that we have the opportunity to see and honour the venerable Sariputta.”

Tôi đang luận bàn với bậc đệ tử được xem là ngang hàng với bậc Đạo Sư mà không được biết là Tôn giả Sariputta. Nếu chúng tôi được biết là Tôn giả Sariputta, thì chúng tôi đã không nói nhiều như vậy. Thật hy hữu thay, Hiền giả! Thật kỳ diệu thay, Hiền giả! Những câu hỏi sâu kín đã được trả lời từng điểm một, bởi một đệ tử nghe nhiều, đã biết rõ giáo lý của bậc Đạo Sư. Và vị đệ tử ấy là Tôn giả Sariputta. Thật hạnh phúc thay cho các vị đồng phạm hạnh! Thật chơn hạnh phúc thay cho các vị đồng phạm hạnh… được thăm viếng, được thân cận Tôn giả Sariputta! Nếu các vị đồng phạm hạnh đội Tôn giả Sariputta trên đầu với một cuộn vải làm khăn để được thăm viếng, được thân cận, thì thật hạnh phúc cho các vị ấy, thật chơn hạnh phúc cho các vị ấy! Thật hạnh phúc cho chúng tôi, thật chơn hạnh phúc cho chúng tôi được thăm viếng, được thân cận Tôn giả Sariputta!

 

Thus it was that these two great beings rejoiced in each other’s good words.

Như vậy, hai bậc cao đức ấy cùng nhau thiện thuyết, cùng nhau tùy hỷ.

 

Sources:

Tài liệu tham khảo:

  1. http://thuvienhoasen.org/p15a807/24-kinh-tram-xe-rathavinita-sutta
  2. http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/mn/
  3. http://lirs.ru/lib/sutra/The_Middle_Length_Discourses(Majjhima_Nikaya),

Nanamoli, Bodhi, 1995.pdf