Chương 20: Trường Bộ Kinh – Kinh Ðại hội – Song ngữ

English: Maurice Walshe

Việt ngữ: Hòa thượng Thích Minh Châu – Phật Lịch 2535 – 1991

Compile: Lotus group

Chapter 20: Mahāsamaya Sutta: The Mighty Gathering – Page 541 – 552

Chương 20: Trường Bộ Kinh – Kinh Ðại hội

 

Devas Come to See the Buddha

 

[253] 1. THUS HAVE I HEARD.564 Once the Lord was staying among the Sakyans in the Great Forest at Kapilavatthu, with a large company of some five hundred monks, all Arahants. And devas from ten world-systems565 frequently came there to visit the Lord and his order of monks.

Như vậy tôi nghe.

Một thời, Thế Tôn trú tại bộ lạc Sakka (Thích-ca), thành Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ), ở Ðại Lâm (Mahàvana), cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị, tất cả đều là bậc A-la-hán. Và chư Thiên ở mười phương thế giới phần lớn cũng thường tập hội để chiêm ngưỡng Thế Tôn và chúng Tỷ-kheo.

 

  1. And it occurred to four devas of the Pure Abodes:566 ‘The Blessed Lord is staying at Kapilavatthu, with a large company of some five hundred monks, all Arahants. What if we were to approach him, and each recite a verse?’

Lúc bấy giờ, bốn vị Tịnh Cư thiên (Suddhàvàsa) suy nghĩ như sau: “Thế Tôn nay trú tại bộ lạc Sakka, thành Kapilavatthu, ở Ðại Lâm, cùng với Ðại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị, tất cả đều là bậc A-la-hán. Và chư Thiên ở mười phương thế giới phần lớn cũng thường tập hội để chiêm ngưỡng Thế Tôn và chúng Tỷ-kheo. Vậy chúng ta hãy đến tại chỗ Thế Tôn ở, khi đến xong mỗi chúng ta sẽ đọc một bài kệ dâng lên Thế Tôn”.

 

  1. Then those devas, as swiftly as a strong man might stretch his flexed arm, or flex it again, [254] vanished from the Pure Abodes and appeared before the Lord. Then they saluted him and stood to one side, and one of them recited this verse:‘Great the assembly in the forest here, the devas have met And we are here to see the unconquered brotherhood.’

Another said: ‘The monks with concentrated minds are straight: They guard their senses as the driver does his reins.’

Another said:‘Bars and barriers broken, the threshold-stone of lust torn up, Unstained the spotless seers go, like well-trained elephants.’ [255]

And another said:‘Who takes refuge in the Buddha, no downward path will go: Having left the body he’ll join the deva hosts.’

Rồi chư Thiên ấy, nhanh như nhà lực sĩ duỗi cánh tay co lại, hay co cánh tay duỗi ra, biến mất từ Tịnh Cư thiên và hiện ra trước mặt Thế Tôn. Chư Thiên ấy đảnh lễ Thế Tôn và đứng một bên. Sau khi đứng một bên, một vị Thiên đọc bài kệ trước Thế Tôn:

 

Ðại hội tại Ðại Lâm

Chư Thiên đồng tụ tập.

Chúng con đến Pháp hội

Ðảnh lễ chúng Bất Thắng.

 

Rồi một vị Thiên khác cũng đọc lên một bài kệ trước Thế Tôn:

 

Tại đây chúng Tỷ-kheo

Thiền định, tâm chánh trực.

Như chủ xe nắm cương,

Bậc trí hộ các căn.

 

Lại một vị Thiên khác cũng đọc lên một bài kệ trước Thế Tôn:

 

Như khóa gãy, chốt tháo,

Cửa trụ bị đào lên.

Sống thanh tịnh, có mắt

Như voi khéo điều phục.

 

Lại một vị Thiên khác cũng đọc lên một bài kệ trước Thế Tôn:

 

Những ai quy y Phật,

Sẽ không đọa ác thú,

Sau khi bỏ thân người,

Sẽ sanh làm chư Thiên.

 

  1. Then the Lord said to his monks: ‘Monks, it has often happened that the devas from ten world-systems have come to see the Tathāgata and his order of monks. So it has been with the supreme Buddhas of the past, and so it will be with those of the future, as it is with me now. I will detail for you the names of the groups of devas, announce them and teach them to you. Pay close attention, and I will speak.’

‘Yes, Lord’, said the monks, and the Lord said:

Rồi Thế Tôn nói với các vị Tỷ-kheo:

– Này các Tỷ-kheo, phần lớn chư Thiên mười phương thế giới tụ họp để chiêm ngưỡng Thế Tôn và chúng Tỷ-kheo. Này các Tỷ-kheo, những vị nào trong thời quá khứ đã là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, những vị này được một Thiên chúng tối thắng tụ hội xung quanh, như Ta hiện nay vậy. Này các Tỷ-kheo, những vị nào trong thời vị lai sẽ là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, những vị này cũng sẽ được một Thiên chúng tối thắng tụ hội xung quanh, như Ta hiện nay vậy. Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ tuyên bố danh tánh của chư Thiên. Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ cáo tri danh tánh của chư Thiên. Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết giảng danh tánh của chư Thiên. Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.

– Xin vâng, bạch Thế Tôn! – Tỷ-kheo ấy vâng lời Thế Tôn.

 

  1. ‘I’ll tell you them in verse: to which realm each belongs.

But those who dwell composed and resolute

Like lions in mountain-caves, have overcome

Hair-raising fear and dread, their minds

White and pure, unstained and calm.’567 [256]

In Kapilavatthu’s wood the Lord perceived

Five hundred of his Arahants and more,

Lovers of his word. To them he said:

‘Monks, observe the deva-host approach!’

And the monks strove eagerly to see.

Thế Tôn giảng như sau:

 

Bài kệ Ta sẽ giảng

Chư Thiên trú Thiên giới,

Những vị trú hang núi,

Tâm tịnh, an thiền định.

Như sư tử, tuy nằm

Làm hoảng sợ quần sanh,

Tâm tư thuần tịnh bạch,

Trong sáng, không cấu uế.

 

Biết hơn năm trăm vị,

Họp tại Ca-tỳ-la

Bậc Ðạo Sư thuyết giảng

Chúng đệ tử thích nghe:

“Các Tỷ-kheo, hãy xem

Chư Thiên chúng đến gần”.

Nghe lời dạy đức Phật

Ðại chúng nhiệt tình xem.

 

  1. With superhuman vision thus arising,

Some saw a hundred gods, a thousand some.

While some saw seventy thousand, others saw

Gods innumerable, all around.

And He-Who-Knows-with-Insight was aware

Of all that they could see and understand.

And to the lovers of his word the Lord,

Turning said: ‘The deva-hosts approach.

Look and seek to know them, monks, in turn,

As I declare their names to you in verse!’568

Và hiện ra trước chúng

Thấy rõ hàng phi nhân

Kẻ thấy trăm thiên thần,

Ngàn thần, và hơn nữa.

Kẻ thấy bảy mươi ngàn

Toàn các bậc phi nhân.

Kẻ thấy vô lượng vị,

Cùng khắp mọi phương hướng.

Với pháp nhãn thấy rõ

Và phân biệt tất cả

Bậc Ðạo Sư thuyết giảng,

Chúng đệ tử thích nghe:

“Các Tỷ-kheo hãy xem,

Chư Thiên chúng đến gần”.

Ta sẽ theo thứ lớp

Thuyết kệ cho người nghe.

 

  1. ‘Seven thousand yakkhas of Kapila’s realm,

Well-endowed with power and mighty skills,

Fair to see, with splendid train have come

Rejoicing to this wood to see such monks.

And six thousand yakkhas from Himālaya,

Of varied hue, and well-endowed with powers,

Fair to see, with splendid train have come

Rejoicing to this wood to see such monks.

From Sāta’s Mount three thousand yakkhas more

Of varied hue…

The sum is sixteen thousand yakkhas all,

Of varied hue… [257]

Bảy ngàn loại Dạ-xoa

Trú tại Ca-tỳ-la,

Có thần lực hào quang,

Có sắc tướng, danh xưng,

Hoan hỷ đến rừng này,

Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.

Sáu ngàn từ Tuyết Sơn

Dạ-xoa đủ sắc mặt

Có thần lực, hào quang,

Có sắc tướng, danh xưng,

Hoan hỷ đến rừng này,

Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo

 

Ba ngàn từ Sàtà,

Dạ-xoa đủ sắc mặt,

Có thần lực, hào quang,

Có sắc tướng, danh xưng,

Hoan hỷ đến rừng này,

Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.

 

Như vậy mười sáu ngàn

Dạ-xoa đủ sắc mặt,

Có thần lực, hào quang,

Có sắc tướng, danh xưng,

Hoan hỷ đến rừng này,

Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.

 

  1. Of Vessāmitta’s host five hundred more

Of varied hue…

Kumbhira too from Rājagaha comes

(Whose dwelling-place is on Vepulla’s slopes):

A hundred thousand yakkhas follow him.

Năm trăm từ Vessà

Dạ-xoa đủ sắc mặt,

Có thần lực, hào quang,

Có sắc tướng, danh xưng,

Hoan hỷ đến rừng này,

Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.

Kumbhira, Vương Xá,

Trú tại Vepulla,

Hơn trăm ngàn Dạ-xoa,

Hầu hạ vây xung quanh.

Kumbhira, Vương Xá

Cũng đến họp rừng này.

 

  1. King Dhatarattha,569 ruler of the East,

The gandhabbas’ Lord, a mighty king,

Has come with retinue. Many sons

Are his, who all bear Indra’s name,

All well-endowed with mighty skills…

King Virūḷha, ruler of the South,

The Kumbaṇḍhas’ lord, a mighty king…

Virūpakkha, ruler of the West,

Lord of nāgas and a mighty king…

King Kuvera, ruler of the North,

Lord of yakkhas and a mighty king… [258]

From the East King Dhatarattha shone,

From South Virūḷhaka, and from the West

Virūpakkha, Kuvera from the North:

Thus ranged in Kapilavatthu’s wood

The Four Great Kings in all their splendour stood.’

Vua Dhatarattha (Trì Quốc Thiên vương)

Trị vì tại phương Ðông,

Chúa tể Càn-thát-bà

Bậc đại vương danh tiếng.

Vị này có nhiều con,

Ðại lực, tên Indra

Có thần lực, hào quang,

Có sắc tướng, danh xưng,

Hoan hỷ đến rừng này

Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.

 

Quốc vương Virùlha (Tăng Trưởng Thiên vương).

Trị vì tại phương Nam,

Chúa tể Cưu-bàn-trà (Kumbhanda)

Bậc đại vương danh tiếng,

Vị này có nhiều con,

Ðại lực, tên Indra

Có thần lực, hào quang.

Có sắc tướng, danh xưng,

Hoan hỷ đến rừng này

Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.

 

Vua Virùpakkha, (Quảng Mục Thiên vương)

Trị vì tại phương Tây,

Chúa tể loài Nàgà

Bậc đại vương danh tiếng.

Vị này có nhiều con

Ðại lực, tên Indra,

Có thần lực, hào quang,

Có sắc tướng, danh xưng,

Hoan hỷ đến rừng này,

Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.

 

Quốc vương Kuvera, (Ða Văn Thiên vương)

Trị vì tại phương Bắc,

Chúa tể, loài Dạ-xoa,

Bậc đại vương, danh tiếng.

Vị này có nhiều con,

Ðại lực, tên Indra,

Có thần lực, hào quang,

Có sắc tướng, danh xưng,

Hoan hỷ đến rừng này,

Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.

 

Trì Quốc vương, phương Ðông

Tăng Trưởng vương, phương Nam

Quảng Mục vương, phương Tây,

Ða Văn vương, phương Bắc,

Bốn bậc đại vương này,

Khắp cả bốn phương trời,

Cùng đứng, chói hào quang,

Khắp rừng Ca-tỳ-la.

 

  1. With them came their vassals versed in guile,

Skilled deceivers all: Kutendu first,

Then Vetendu, Vitu and Vitucca,

Candana and Kāmaseṭṭha next,

Kinnughandu and Nighaṇḍu, these,

Panāda, Opamañña, Mātali

(Who was the devas’ charioteer), Nala,

Cittasena of the gandhabbas,

Rājā, Janesabha, Pañcasikha,

Timbarū with Suriyavaccasā

His daughter — these, and more, rejoicing came

To that wood to see the Buddha’s monks.

Cũng đến các bộ hạ,

Giả dối và xảo quyệt,

Màyà, Kutendu, Vetandu, Vitu,

Vituca, Candana, Kàmasettha,

Kinnughandu,

Nighandu chín vị đến.

Panàda, Opamanna, Màtdi,

(người đánh xe chư Thiên).

Càn-thát-bà Cittasena;

Vua Nala, Janesabha

Pancasikha, Timbarù,

Suriyavaccasà cũng đến.

Như vậy cả vua chúa,

Cùng với Càn-thát-bà,

Hoan hỷ đến rừng này,

Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo!

 

  1. From Nabhasa, Vesāli, Tacchaka

Came Nāgas, Kambalas, Assataras,

Payāgas with their kin. From Yamunā

Dhatarattha came with splendid host,

Erāvana too, the mighty nāga chief570

To the forest meeting-place has come.

And the twice-born,571 winged and clear of sight,

Fierce garuda birds (the nāgas’ foes) have come [259]

Flying here — Citra and Supaṇṇā.

But here the nāga kings are safe: the Lord

Has imposed a truce. With gentle speech

They and the nāgas share the Buddha’s peace.

Từ Nàbhasa, Vesàli, Tacchakà,

Các Nàgà cũng đến.

Kambala, Assatara, Pàyàgà,

Cũng đến với quyến thuộc.

Các Nàgà có danh tiếng,

Dhatarattha và Yàmunà cũng đến.

Eravana, Long vương,

Cũng đến tại ngôi rừng.

Những thiên điểu nhị sanh,

Với cặp mắt thanh tịnh,

Mãnh liệt chống Long vương,

Nay bay đến ngôi rừng.

Tên chúng là Citrà,

Và tên Supannà.

Long vương không sợ hãi,

Nhờ ơn Phật an toàn

Với những lời nhẹ nhàng,

Chúng tự khuyên bảo nhau,

Nàgà, Supannà (Kim Sí điểu)

Ðều đến quy y Phật.

 

  1. Asuras too, whom Indra’s hand572 once struck,

Ocean-dwellers now, in magic skilled,

Vāsava’s replendent brothers came,

The Kālakañjas, terrible to see,

Dānaveghasas, Vepacitti,

Sucitti and Pahārādha too,

Fell Namuci, and Bali’s hundred sons

(Who all were called Veroca) with a band

Of warriors who joined their master Rāhu,

Who had come to wish their meeting well.

Asura ở biển,

Bị sét Kim Cang thủ,

Anh của Vàsava,

Có thần lực danh xưng.

Kàlakanjà, dị hình, (Tu-la)

Dànaveghasà, Vepacitti

Cùng với Sucitti,

Với Pahàràda, ác quỷ Namucì.

Cùng con của Bali,

Ðặt tên Veroca.

Huy động toàn quân lực,

Dâng cho vị thủ lãnh.

Ràhu nói: “Mong thay

Pháp hội được an toàn.

Phó hội chúng Tỷ-kheo

Ðều đến tại rừng này”.

 

  1. Gods of water, earth, and fire, and wind,

The Varunas and their retainers. Soma

And Yasa too. Devas born of love

And compassion, with a splendid train,

These ten, with tenfold varied hosts,

Endowed with mighty powers, and fair to see,

Rejoicing came to see the Buddha’s monks.

Thần nước, đất, lửa, gió,

Cũng đến Varunà,

Với thủy tộc, Soma,

Cả Yasa cũng đến.

Chư Thiên Từ Bi sanh

Có danh xưng cũng đến

Mười vị thiên tộc này

Dung mạo thật dị biệt,

Có thần lực, hào quang,

Có sắc tướng, danh xưng,

Hoan hỷ đến rừng này,

Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.

 

  1. Veṇhu573 too with his Sahalis came,

The Asamas, the Yama twins, and those

Devas who attend on moon and sun,

Constellation-gods, sprites of clouds, [260]

Sakka the Vasus’ lord, ancient giver,574

These ten, with tenfold varied hosts…

Venhù, Sahali,

Asamà, Yamà,

Chư Thiên thuộc Nguyệt tộc,

Vị thủ lãnh cũng đến.

Chư Thiên thuộc Nhật tộc

Vân thần tên Manda,

Quần tinh vị thủ lãnh

Vàsava, Vasù

Thần Sakka cũng đến.

Mười vị Thiên tộc này,

Dung mạo thật dị biệt,

Có thần lực, hào quang,

Có sắc tướng, danh xưng.

Hoan hỷ đến rừng này,

Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.

 

  1. The Sahabhus, radiant, bright, came next,

Fiery-crested. The Aritthakas,

The Rojas, cornflower-blue, with Varuṇā

And Sahadhamma, Accuta, Anejaka,

Sūleyya, Rucira, the Vasavanesis,

These ten, with tenfold varied hosts…

Sahavhù cũng đến,

Với đầu lửa đỏ rực,

Aritthakà, Rojà,

Như bông hoa Ummà

Varunà, Sahadhammà,

Accutà, Anejakà

Sùleyya-rucirà,

Vàsavanesi cũng đến.

Mười vị Thiên tộc này,

Dung mạo thật dị biệt

Có thần lực, hào quang,

Có sắc tướng, danh xưng,

Hoan hỷ đến rừng này,

Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.

 

  1. The Samanas and Mahā-Samānas both,

Beings manlike and more than manlike came,

The ‘Pleasure-corrupted’ and ‘Mind-corrupted’gods,575

Green devas, and the red ones too,

Paragas, Mahā-Pāragas with train,

These ten, with tenfold varied hosts…

Samànà, Mahàsamànà,

Mànusà, Mànusuttamà,

Khiddà-padùsikà, Mano-padùsikà

Harayo, Lohita-vàsino,

Pàragà, Mahà-Pàragà

Có danh xưng cũng đến.

Mười vị Thiên tộc này,

Dung mạo thật dị biệt

Có thần lực, hào quang,

Có sắc tướng, danh xưng,

Hoan hỷ đến rừng này,

Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.

 

  1. Sukkas, Karumhas, Arunas, Veghanasas,

Follow in the Odatagayhas’ wake.

Vicakkhanas, Sadamattas, Haragajas,

Those gods called ‘Mixed in Splendour’, and Pajunna

The Thunderer, who also causes rain,

These ten, with tenfold varied hosts… [261]

Sukkà, Karumhà,

Arunà, Veghanasà

Odàta-gayhà,

Vicakkhanà cũng đến,

Sadàmattà, Hàragaja,

Missakà có danh xưng cũng đến.

Pajjunna thần sét,

Làm mưa khắp mọi phương.

Mười vị Thiên tộc này,

Dung mạo thật dị biệt,

Có thần lực hào quang,

Có sắc tướng, danh xưng

Hoan hỷ đến rừng này,

Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.

 

  1. The Khemiyas, the Tusitas and Yamas,

The Katthakas with train, Lambitakas,

The Lama chiefs, and the gods of flame

(The Asavas), those who delight in shapes

They’ve made, and those who seize on others work,576

These ten, with tenfold varied hosts…

Khemiyà, Tusità, Yamà,

Danh xưng Katthakà, Lambitakà,

Thủ lãnh các Làmà,

Jotinàmà, Asava,

Tha Hóa Tự Tại thiên,

Hóa Lạc thiên cũng đến.

Mười vị thiên tộc này,

Dung mạo thật dị biệt,

Có thần lực, hào quang,

Có sắc tướng, danh xưng

Hoan hỷ đến rừng này,

Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.

 

  1. These sixty deva-hosts, of varied kinds,

All came arranged in order of their groups,

And others too, in due array. They said:

‘He who’s transcended birth, he for whom

No obstacle remains, who’s crossed the flood,

Him, cankerless, we’ll see, the Mighty One,

Traversing free without transgression, as

It were the moon that passes through the clouds.’

Sáu mươi Thiên chúng này,

Với diện mạo dị biệt,

Theo danh tộc chúng đến,

Cũng nhiều vị khác nữa.

Nói rằng: “Sanh đã tận,

Then cài không còn nữa.

Bộc lưu đã vượt qua,

Ðã thành bậc Vô Lậu.

Chúng con thấy vị ấy,

Như voi vượt bộc lưu,

Như trăng thoát mây tối”.

 

  1. Subrahma next, and with him Paramatta,

Sanankumara, Tissa, who were sons

Of the Mighty One, these also came.

Mahā-Brahmā, who ruled a thousand worlds,

In the Brahmā-world supreme, arisen there,

Shining bright, and terrible to see,

With all his train. Ten lords of his who each

Rule a Brahmā-world, and in their midst

Harita, who ruled a hundred thousand.

Subrahmà, Paramatta,

Con các vị thần lực,

Sanamkumàra Tissa,

Ðến hội tại ngôi rừng.

Ðại Phạm thiên, chúa tể,

Ngự trị ngàn Phạm giới,

Thác sanh có hào quang,

Dị hình có danh xưng,

Mười đấng Tự Tại đến,

Ngự trị mỗi mỗi cõi,

Giữa vị này Hàrita,

Cũng đến với đồ chúng.

 

  1. And when all these had come in vast array,

With Indra and the hosts of Brahma too,

Then too came Mara’s hosts, and now observe

That Black One’s folly.577 [262] For he said:

‘Come on, seize and bind them all! With lust

We’ll catch them all! Surround them all about,

Let none escape, whoever he may be!’

Thus the war-lord urged his murky troops.

With his palm he struck the ground, and made

A horrid din, as when a storm-cloud bursts

With thunder, lightning and with heavy rain —

And then — shrank back, enraged, but powerless!

Tất cả đều cùng đến,

Với Indra, Phạm thiên,

Ma quân cũng tiến đến,

Xem Hắc quỷ ngu si.

“Hãy đến và bắt trói,

Những ai bị tham triền,

Hãy bao vây bốn phía,

Chớ để ai thoát ly!”

Như vậy Ðại Tướng quân,

Truyền lệnh đoàn Hắc quỷ,

Với bàn tay vỗ đất,

Tiếng dội vang khiếp đảm.

Như trong cơn giông tố,

Sấm chớp và mưa rào,

Nó liền thối quân lui,

Phẫn nộ nhưng bất lực.

 

  1. And He-Who-Knows-by-Insight saw all this

And grasped its meaning. To his monks he said:

‘The hosts of Mara come, monks — pay good heed!’

They heard the Buddha’s words, and stayed alert.

And Mara’s hosts drew back from those on whom

Neither lust nor fear could gain a hold.‘Victorious, transcending fear, they’ve won:

His followers rejoice with all the world!’

Với pháp nhãn thấy rõ,

Và phân biệt tất cả,

Bậc Ðạo Sư thuyết giảng,

Chúng đệ tử thích nghe:

“Ma quân đã tiến đến;

Tỷ-kheo hãy biết chúng”.

Nghe lời dạy đức Phật,

Ðại chúng tâm nhiệt tình.

Kẻ thù đã bỏ đi,

Xa vô tham, vô úy.

Tất cả đều chiến thắng,

Vô úy và vô xưng!

Ðệ tử những vị này,

Danh xưng, tâm hoan hỷ.

 

Sources

Tài liệu tham khảo:

  1. http://lirs.ru/lib/sutra/Long_Discourses_of_the_Buddha(Digha_Nikaya).Walshe.pdf
  2. https://www.budsas.org/uni/u-kinh-truongbo/truong20.htm