Chương 2 – p4 – Book 4 – Câu hỏi về sự thoát khỏi cái bẩy của thần chết – Pirit (mantra) – Song ngữ

English: T. W. Rhys Davids – From Pali Language

Việt ngữ: Tỳ khưu Indacanda (Trương Đình Dũng)

Compile: Lotus group

Reverence be to the Blessed One, The Arahat, and the Sammâ-SamBudda.

Kính lễ đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, và đấng Chánh Biến Tri.

 

Book IV – Quyển IV

Chương 2 – Phần 4

Pirit (mantra).

Câu hỏi về sự thoát khỏi cái bẩy của thần chết.

 

  1. ‘Venerable Nâgasena, it was said by the Blessed One:

 

Not in the sky, not in the ocean’s midst,

Not in the most secluded mountain cleft,

Not in the whole wide world is found the spot

Where standing one could ‘scape the snare of death 1.”

“Thưa ngài Nāgasena, điều này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến:

 

‘Không phải ở bầu trời, không phải ở giữa biển khơi, không phải đã đi vào khe của những ngọn núi mà Tử Thần không thể áp đảo người đứng ở nơi ấy, vì khu vực ấy ở trên trái đất không được tìm thấy.’

 

But on the other hand the Pirit service was promulgated by the Blessed One 2–that is to say, the Ratana Sutta and the Khanda-parittâ and the Mora-parittâ and the Dhagagga-parittâ [151] and the Âtânâtiya-parittâ and the Anguli-mala-parittâ. If, Nâgasena, a man can escape death’s snare neither by going to heaven, nor by going into the midst of the sea, nor by going to the summits of lofty palaces,

 

  1. 214

 

nor to the caves or grottoes or declivities or clefts or holes in the mountains, then is the Pirit ceremony useless. But if by it there is a way of escape from death, then the statement in the verse I quoted is false. This too is a double-headed problem, more knotty than a knot. It is now put to you, and you have to solve it.’

Và thêm nữa, các chú thuật hộ trì đã được đức Thế Tôn chỉ ra như là: ‘Ratanasutta, Khandhaparitta, Moraparitta, Dhajagga-paritta, Āṭānāṭiyaparitta, Aṅgulimālaparitta.’ Thưa ngài Nāgasena, nếu cho dầu đi đến không trung, cho dầu đi đến giữa biển khơi, cho dầu đi đến tòa lâu đài, chòi, hang, động, sườn núi, hốc kẹt, khe núi, bên trong tảng đá mà cũng không được thoát khỏi gông cùm của Thần Chết, như thế thì công việc chú thuật hộ trì là sai trái. Nếu do công việc chú thuật hộ trì mà có sự thoát khỏi gông cùm của Thần Chết, như thế thì lời nói rằng: ‘Không phải ở bầu trời, —(như trên)— không được tìm thấy’ cũng là sai trái. Câu hỏi này cũng có cả hai khía cạnh, bị thắt lại còn hơn nút thắt, được dành cho ngài. Nó nên được giải quyết bởi ngài.”

 

 

  1. ‘The Blessed One, O king, said the verse you have quoted, and he sanctioned Pirit 1. But that is only meant for those who have some portion of their life yet to run, who are of full age, and restrain themselves from the evils of Karma. And there is no ceremony or artificial means 2 for prolonging the life of one whose allotted span of existence has come to an end.

“Tâu đại vương, điều này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến:

 

‘Không phải ở bầu trời, không phải ở giữa biển khơi, không phải đã đi vào khe của những ngọn núi mà Tử Thần không thể áp đảo người đứng ở nơi ấy, vì khu vực ấy ở trên trái đất không được tìm thấy.’ 

 

Và các bài Kinh hộ trì đã được đức Thế Tôn chỉ ra. Tuy nhiên, điều ấy là dành cho người có tuổi thọ vẫn còn, đã đạt đến tuổi trưởng thành, sự ngăn cản của nghiệp đã được trừ khử, tâu đại vương nhưng không có việc áp dụng hay sự nỗ lực để duy trì đối với người có tuổi thọ đã cạn kiệt.

 

‘Just, O king, as with a dry and dead log of wood, dull 3, and sapless, out of which all life has departed, which has reached the end of its allotted period of life,–you might have thousands of pots of water poured over it, but it would never become fresh again or put forth sprouts or leaves. Just so there is no ceremony or artificial means, no medicine and no Pirit, which can prolong the life of one whose allotted period has come to an end. All the medicines in the world are useless, O king, to such a one, but Pirit is a protection and assistance to those who have a period yet to live, who are full of life, and restrain themselves from the evil of Karma. And it is for that use that Pirit was appointed by the

 

  1. 215

 

[paragraph continues]

Blessed One.

Tâu đại vương, giống như đối với cây đã chết, khô héo, ráo nhựa, hết tươi tắn, sức sống đã bị ngưng lại, sự tạo tác của tuổi thọ đã qua, trong khi rưới nước dầu là một ngàn chậu cũng không thể trở nên tươi tắn hoặc có trạng thái đâm chồi mọc lá xanh. Tâu đại vương, tương tợ y như thế không có việc áp dụng hay sự nỗ lực để duy trì đối với người có tuổi thọ đã cạn kiệt bằng thuốc men và việc làm chú thuật hộ trì. Tâu đại vương, những thuốc men chữa bệnh ở trên trái đất thì cũng không làm được phận sự gì đối với người có tuổi thọ đã cạn kiệt. Tâu đại vương, chú thuật hộ trì bảo vệ, gìn giữ người có tuổi thọ vẫn còn, đã đạt đến tuổi trưởng thành, sự ngăn cản của nghiệp đã được trừ khử. Vì sự lợi ích ấy mà các chú thuật hộ trì đã được đức Thế Tôn chỉ ra.

 

‘Just, O king, as a husbandman guards the grain when it is ripe and dead and ready for harvesting from the influx of water, but makes it grow by giving it water when it is young, and dark in colour like a cloud, and full of life–just so, O king, should the Pirit ceremony be put aside and neglected in the case of one who has reached his allotted term of life, [152] but for those who have a period yet to run and are full of vigour, for them the medicine of Pirit may be repeated, and they will profit by its use.’

Tâu đại vương, giống như người nông dân có thể ngăn cản việc dẫn nước vào khi lúa đã chín đều, cọng lúa đã khô. Trái lại, khi cây lúa còn non, tương tợ như đám mây, đã đạt đến lúc trưởng thành, thì nó phát triển nhờ vào sự cung cấp nước. Tâu đại vương, tương tợ y như thế đối với người có tuổi thọ đã cạn kiệt, các việc áp dụng thuốc men và chú thuật hộ trì bị đình chỉ, bị chối bỏ. Trái lại, những người có tuổi thọ vẫn còn, đã đạt đến tuổi trưởng thành, vì lợi ích cho những người ấy chú thuật hộ trì và thuốc men được đề cập đến. Những người ấy lớn mạnh nhờ vào chú thuật hộ trì và thuốc men.”

 

 

  1. ‘But, Nâgasena, if he who has a term of life yet to run will live, and he who has none will die, then medicine and Pirit are alike useless.’

“Thưa ngài Nāgasena, nếu người có tuổi thọ đã cạn kiệt thì chết, người có tuổi thọ vẫn còn thì sống, như thế thì chú thuật hộ trì và thuốc men là không có lợi ích.”

 

‘Have you ever seen, O king, a case of a disease being turned back by medicine?’

‘Yes, several hundred times.’

“Tâu đại vương, có phải ngài đã được nhìn thấy trước đây một loại bệnh nào đó được đẩy lùi bởi các loại thuốc men?”

“Thưa ngài, đúng vậy. Đã được nhìn thấy hàng trăm.”

 

‘Then, O king, your statement as to the inefficiency of Pirit and medicine must be wrong.’

‘I have seen, Nâgasena, doctors administer medicines by way of draughts or outward applications, and by that means the disease has been assuaged.’

“Tâu đại vương, như thế thì lời nói rằng: ‘Việc áp dụng chú thuật hộ trì và thuốc men không có lợi ích’ là sai trái.”

“Thưa ngài Nāgasena, các sự nỗ lực của các thầy thuốc gồm có thuốc men, thức uống, cao bôi được nhìn thấy, nhờ sự nỗ lực ấy của các thầy thuốc mà căn bệnh được đẩy lùi.”

 

‘And when, O king, the voice of those who are repeating Pirit is heard, the tongue may be dried up, and the heart beat but faintly, and the throat be hoarse, but by that repetition all diseases are allayed, all calamities depart. Again, have you ever seen, O king, a man who has been bitten by a snake having the poison resorbed under a spell (by the snake who gave the bite 1) or destroyed (by an antidote) or having a lotion applied above or below the spot 2?’

 

  1. 216

 

‘Yes, that is common custom to this day in the world.’

“Tâu đại vương, trong khi những người đang tụng đọc các chú thuật hộ trì thì tiếng của họ được nghe, lưỡi bị khô, tim đập mạnh, cổ họng bị khan tiếng. Nhờ vào sự vận hành ấy của các chú thuật hộ trì mà tất cả các bệnh tật được tiêu trừ, tất cả các sự rủi ro qua đi. Tâu đại vương, phải chăng đại vương đã được nhìn thấy trước đây người nào đó bị rắn cắn đang tẩy trừ nọc độc, đang làm tiêu tan nọc độc, đang rửa sạch bên trên bên dưới nhờ vào câu chú thuật?”

“Thưa ngài, đúng vậy. Thậm chí vào lúc này hôm nay điều ấy vẫn tồn tại ở thế gian.”

 

‘Then what you said that Pirit and medicine are alike useless is wrong… And when Pirit has been said over a man, a snake, ready to bite, will not bite him, but close his jaws–the club which robbers hold aloft to strike him with will never strike; they will let it drop, and treat him kindly–the enraged elephant rushing at him will suddenly stop–the burning fiery conflagration surging towards him will die out–the malignant poison he has eaten will become harmless, and turn to food–assassins who have come to slay him will become as the slaves who wait upon him–and the trap into which he has trodden will hold him not.

“Tâu đại vương, như thế thì lời nói rằng: ‘Việc áp dụng chú thuật hộ trì và thuốc men không có lợi ích’ là sai trái. Tâu đại vương, bởi vì người có chú thuật hộ trì đã được thực hiện thì con rắn, có ý định cắn, vẫn không cắn và ngậm lại cái miệng đã há ra. Thậm chí cây côn của các kẻ trộm dầu đã được nâng lên cũng không có tác dụng; chúng buông rơi cây côn và thể hiện sự trìu mến. Ngay cả con long tượng bị lên cơn giận dữ đang lao đến cũng dịu lại. Khối lửa lớn đã phát cháy đang tiến gần cũng bị tắt ngấm. Thậm chí chất độc dữ tợn đã được ăn vào tự biến thành thuốc giải độc hoặc là phát tán theo dạng thức ăn. Những kẻ giết người có ý định giết chết sau khi đến gần thì trở nên trạng thái của người nô lệ. Ngay cả bẫy sập đã được bước lên cũng không hoạt động.

 

 

  1. ‘Again, have you never heard, O king, of that hunter who during seven hundred years failed to throw his net over the peacock who had taken Pirit, but snared him the very day [153] he omitted to do so 1?’

‘Yes, I have heard of it. The fame of it has gone through all the world.’

Tâu đại vương, hơn nữa đại vương đã được nghe trước đây về con chim công có chú thuật hộ trì đã được thực hiện khiến người thợ săn trong bảy trăm năm đã không thể dụ đến gần bẫy sập. Khi chú thuật hộ trì không được thực hiện thì chính vào ngày ấy người thợ săn đã dụ được nó vào bẫy sập.”

“Thưa ngài, có được nghe. Tiếng đồn ấy đã được loan truyền ở thế gian có cả chư Thiên.”

 

‘Then what you said about Pirit and medicine being alike useless must be wrong. And have you never heard of the Dânava 2 who, to guard his wife,

 

  1. 217

 

put her into a box, and swallowing it, carried her about in his stomach. And how a Vidyâdhara 1 entered his mouth, and played games with his wife. And how the Dânava when he became aware of it, vomited up the box, and opened it, and the moment he did so the Vidyâdhara escaped whither he would 2?

‘Yes, I have heard that. The fame of it too has gone throughout the world.’

“Tâu đại vương, như thế thì lời nói rằng: ‘Việc áp dụng chú thuật hộ trì và thuốc men không có lợi ích’ là sai trái. Tâu đại vương, hơn nữa đại vương đã được nghe trước đây về người khổng lồ, trong khi gìn giữ người vợ, liền cho vào vỏ bọc, nuốt vào, và mang theo ở trong bụng. Khi ấy, có người thầy pháp đã đi vào miệng của người khổng lồ ấy và vui thú với người vợ. Đến khi người khổng lồ ấy biết được thì ói ra cái bọc rồi mở nó ra. Khi cái bọc được mở ra thì người thầy pháp đã thoát thân theo như ý muốn.”

“Thưa ngài, có được nghe. Tiếng đồn ấy cũng đã được loan truyền ở thế gian có cả chư Thiên.”

 

‘Well, did not the Vidyâdhara escape capture by the power of Pirit?’

‘Yes, that was so.’

‘Then there must be power in Pirit. And have you heard of that other Vidyâdhara who got into the harem of the king of Benares, and committed adultery with the chief queen, and was caught, and then became invisible, and got away 3?’

‘Yes, I heard that story.’

‘Well, did not he too escape capture by the power of Pirit.’

‘Yes, Sir.’

‘Then, O king, there must be power in Pirit.’

“Tâu đại vương, không lẽ người thầy pháp ấy được thoát khỏi sự bắt giữ nhờ vào năng lực của chú thuật hộ trì?”

“Thưa ngài, đúng vậy.”

“Tâu đại vương, như thế thì có năng lực của chú thuật hộ trì.”

  1. Tâu đại vương, hơn nữa phải chăng đại vương đã được nghe trước đây về một người thầy pháp khác gian díu với hoàng hậu ở nội cung của đức vua xứ Bārāṇasī, trong khi đang bị bắt giữ thì trong phút chốc đã trở nên không còn nhìn thấy nhờ vào năng lực của chú thuật?”

“Thưa ngài, có được nghe.”

“Tâu đại vương, không lẽ người thầy pháp ấy được thoát khỏi sự bắt giữ nhờ vào năng lực của chú thuật hộ trì?”

“Thưa ngài, đúng vậy.”

“Tâu đại vương, như thế thì có năng lực của chú thuật hộ trì.”

 

 

  1. ‘Venerable Nâgasena, is Pirit a protection to everybody?’

 

  1. 218

 

‘To some, not to others.’

 

‘Then it is not always of use?’

 

‘Does food keep all people alive?’

 

‘Only some, not others.’

 

‘But why not?’

 

‘Inasmuch as some, eating too much of that same food, die of cholera.’

 

‘So it does not keep all men alive?’

 

‘There are two reasons which make it destroy life–over-indulgence in it, and weakness of digestion. And even life-giving food may be made poisonous by an evil spell.’

 

‘Just so, O king, is Pirit a protection to some and not to others. And there are three reasons [154] for its failure–the obstruction of Karma, and of sin, and of unbelief. That Pirit which is a protection to beings loses its protecting power by acts done by those beings themselves. just, O king, as a mother lovingly nourishes the son who has entered her womb, and brings him forth with care 1. And after his birth she keeps him clean from dirt and stains and mucus, and anoints him with the best and most costly perfumes, and when others abuse or strike him she seizes them and, full of excitement, drags them before the lord of the place. But when her son is naughty, or comes in late, she strikes him with rods or clubs on her knee or with her hands. Now, that being so, would she get seized and dragged along, and have to appear before the lord?’

 

‘No, Sir.’

 

‘But why not?’

 

  1. 219

 

‘Because the boy was in fault.’

 

‘Just in the same way, O king, will Pirit which is a protection to beings, yet, by their own fault, turn against them.’

 

‘Very good, Nâgasena! The problem has been solved, the jungle made clear, the darkness made light, the net of heresy unravelled–and by you, O best of the leaders of schools!’

 

[Here ends the dilemma as to Pirit.]

Câu hỏi về sự thoát khỏi cái bẫy của Thần Chết là thứ tư.

 

 

Sources:

Tài liệu tham khảo:

  1. http://budsas.net/uni/u-kinh-mitien/mitien-00.htm
  2. http://www.tamtangpaliviet.net/VHoc/45/Mil_05.htm
  3. http://www.sacred-texts.com/bud/sbe35/sbe3513.htm
  4. http://globalbuddhismcommunity.com/vi-vn/Dictionary/AVThienPhuc/dtsr.aspx