Chương 2 – p3 – Book 4 – Câu hỏi về việc sợ hãi hay không sợ hãi sự chết – Death – Song ngữ

English: T. W. Rhys Davids – From Pali Language

Việt ngữ: Tỳ khưu Indacanda (Trương Đình Dũng)

Compile: Lotus group

Reverence be to the Blessed One, The Arahat, and the Sammâ-SamBudda.

Kính lễ đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, và đấng Chánh Biến Tri.

 

Book IV – Quyển IV

Chương 2 – Phần 3

DEATH.

Câu hỏi về việc sợ hãi hay không sợ hãi sự chết.

 

  1. ‘Venerable Nâgasena, this too was said by the Blessed One:

“All men tremble at punishment; all are afraid of death 2.” But again he said: “The Arahat has passed beyond all fear 3.”

“Thưa ngài Nāgasena, điều này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến: ‘Tất cả run sợ hình phạt, tất cả sợ hãi sự chết.’ Và thêm nữa Ngài đã nói rằng: ‘Vị A-la-hán đã vượt qua mọi sự sợ hãi.’

 

How then, Nâgasena? Does the Arahat tremble with the fear of punishment? [146] Or are the beings in purgatory, when they are being burnt and boiled and scorched and tormented, afraid of that death which would release them from the burning fiery pit of that awful place of woe 4? If the Blessed One, Nâgasena,

 

  1. 207

 

really said that all men tremble at punishment, and all are afraid of death, then the statement that the Arahat has passed beyond fear must be false. But if that last statement is really by him, then the other must be false. This double-headed problem is now put to you, and you have to solve it.’

Thưa ngài Nāgasena, phải chăng vị A-la-hán không run sợ đối với mọi sự sợ hãi về hình phạt? Hay là các chúng sanh địa ngục bị đốt cháy, bị đun sôi, bị đốt nóng, bị đun nóng ở địa ngục, trong khi đang chết từ đại địa ngục có màng lưới lửa cháy rực ấy, mới sợ hãi sự chết? Thưa ngài Nāgasena, nếu điều đã được nói bởi đức Thế Tôn là: ‘Tất cả run sợ hình phạt, tất cả sợ hãi sự chết,’ như thế thì lời nói rằng ‘Vị A-la-hán đã vượt qua mọi sự sợ hãi’ là sai trái. Nếu điều đã được nói bởi đức Thế Tôn là: ‘Vị A-la-hán đã vượt qua mọi sự sợ hãi,’ như thế thì lời nói rằng: ‘Tất cả run sợ hình phạt, tất cả sợ hãi sự chết’ cũng là sai trái. Câu hỏi này cũng có cả hai khía cạnh, được dành cho ngài. Nó nên được giải quyết bởi ngài.”

  

  1. ‘It was not with regard to Arahats, O king, that the Blessed One spake when he said: “All men tremble at punishment, all are afraid of death.” The Arahat is an exception to that statement, for all cause for fear has been removed from the Arahat 1.

“Tâu đại vương, lời nói này đã được nói bởi đức Thế Tôn: ‘Tất cả run sợ hình phạt, tất cả sợ hãi sự chết’ là không liên quan đến các vị A-la-hán. Các vị A-la-hán là ngoại lệ trong sự việc này. Nhân gây sợ hãi đã được các vị A-la-hán trừ diệt.

 

He spoke of those beings in whom evil still existed, who are still infatuated with the delusion of self, who are still lifted up and cast down by pleasures and pains. To the Arahat, O king, rebirth in every state has been cut off, all the four kinds of future existence have been destroyed, every re-incarnation has been put an end to, the rafters 2 of the house of life have broken, and the whole house completely pulled down, the Confections have altogether lost their roots, good and evil have ceased, ignorance has been demolished, consciousness has no longer any seed (from which it could be renewed), all sin has been burnt away 3, and all worldly conditions have been overcome 4. Therefore is it that the Arahat is not made to tremble by any fear.’

Tâu đại vương, những chúng sanh nào có phiền não, có tà kiến về bản ngã quá lố, có tính khí thăng trầm theo lạc và khổ, thì điều đã được nói bởi đức Thế Tôn: ‘Tất cả run sợ hình phạt, tất cả sợ hãi sự chết’ là liên quan đến những người ấy. Tâu đại vương, đối với vị A-la-hán tất cả cảnh giới tái sanh đã bị chặt đứt, nguồn sản xuất đã bị tiêu hoại, sự nối liền với việc tái sanh đã bị hủy diệt, khung sườn đã bị phá vỡ, tất cả các điều kiện của hữu đã bị tiêu hủy, tất cả các hành đã bị trừ tuyệt, thiện và bất thiện đã bị thủ tiêu, vô minh đã bị tiêu tan, thức không còn chủng tử đã được tạo lập, tất cả phiền não đã được đốt cháy, các pháp thế gian đã được vượt lên; vì thế vị A-la-hán không run sợ đối với tất cả các nỗi sợ hãi.

 

  1. 208

 

  1. ‘Suppose, O king, a king had four chief ministers, faithful, famous, trustworthy, placed in high positions of authority. And the king, on some emergency arising, were to issue to them an order touching all the people in his realm, saying: “Let all now pay up a tax, and do you, as my four officers, carry out what is necessary in this emergency.” Now tell me, O king, would the tremor which comes from fear of taxation arise in the hearts of those ministers?’

‘No, Sir, it would not.’

‘But why not?’

Tâu đại vương, ở đây bốn vị quan đại thần của đức vua là trung thành, đã đạt danh tiếng, được tin cậy, được phong tước vị có quyền hành lớn lao. Rồi vào lúc có sự việc cần làm nào đó sanh khởi, đức vua ra lệnh đến tất cả dân chúng ở trong lãnh địa của mình rằng: ‘Hết thảy tất cả hãy nộp thuế cho trẫm. Các khanh, bốn quan đại thần, hãy hoàn thành sự việc cần làm ấy.’ Tâu đại vương, phải chăng sự run sợ do nỗi sợ hãi về thuế có thể sanh khởi cho bốn vị quan đại thần ấy?”

“Thưa ngài, không đúng.”

“Tâu đại vương, vì lý do gì?”

 

‘They have been appointed by the king to high office. Taxation does not affect them, they are beyond taxation. It was the rest that the king referred to when he gave the order: [147] “Let all pay tax.”‘

‘Just so, O king, is it with the statement that all men tremble at punishment, all are afraid of death. In that way is it that the Arahat is removed from every fear.’

“Thưa ngài, bốn người ấy đã được đức vua phong tước vị tối cao. Không có thuế má đối với họ. Họ vượt qua khỏi các loại thuế má. Điều đã được đức vua ra lệnh: ‘Hết thảy tất cả hãy nộp thuế cho trẫm’ là liên quan đến những người còn lại.”

“Tâu đại vương, tương tợ y như thế lời nói này đã được nói bởi đức Thế Tôn là không liên quan đến các vị A-la-hán. Các vị A-la-hán là ngoại lệ trong sự việc này. Nhân gây sợ hãi đã được các vị A-la-hán trừ diệt. Tâu đại vương, những chúng sanh nào có phiền não, có tà kiến về bản ngã quá lố, có tính khí thăng trầm theo lạc và khổ, thì điều đã được nói bởi đức Thế Tôn: ‘Tất cả run sợ hình phạt, tất cả sợ hãi sự chết’ là liên quan đến những người ấy. Do đó, vị A-la-hán không run sợ đối với tất cả các nỗi sợ hãi.”

 

  1. ‘But, Nâgasena, the word “all” is inclusive, none are left out when it is used. Give me a further reason to establish the point.’

“Thưa ngài Nāgasena, lời nói ấy không bao gồm phần còn lại, lời nói ‘tất cả’ ấy là trừ ra phần còn lại. Về việc ấy, xin ngài hãy nói cho trẫm thêm về lý do để xác định lời nói ấy.”

 

‘Suppose, O king that in some village the lord of the village were to order the crier, saying: “Go, crier, bring all the villagers quickly together before me.” And he in obedience to that order were to stand in the midst of the village and were thrice to call out: “Let all the villagers assemble at once in the presence of the lord!” And they should assemble in haste, and have an announcement made to the lord, saying: “All the villagers, Sire, have assembled. Do now whatsoever you require.”

“Tâu đại vương, ở đây người trưởng làng ở ngôi làng có thể ra lệnh cho viên mõ làng rằng: ‘Này ông mõ làng, hết thảy tất cả dân làng ở trong làng hãy mau chóng tụ tập lại trước mặt tôi.’ Người ấy, sau khi chấp nhận: ‘Tốt lằm, thưa trưởng làng,’ đã đứng ở giữa làng thông báo ba lần rằng: ‘Hết thảy tất cả dân làng ở trong làng hãy mau mau tụ tập lại trước mặt trưởng làng.’ Sau đó, do lời nói của viên mõ làng, các dân làng đã cấp tốc tụ tập lại rồi báo cho ông trưởng làng rằng: ‘Thưa trưởng làng, tất cả dân làng đã tụ tập lại. Ngài có việc gì cần làm, xin hãy tiến hành điều ấy.’

 

Now when the lord, O king, is thus summoning all the heads of

 

  1. 209

 

houses, he issues his order to all the villagers, but it is not they who assemble in obedience to the order; it is the heads of houses. And the lord is satisfied therewith, knowing that such is the number of his villagers. There are many others who do not come–women and men, slave girls and slaves, hired workmen, servants, peasantry, sick people, oxen, buffaloes, sheep, and goats, and dogs–but all those do not count. It was with reference to the heads of houses that the order was issued in the words: “Let all assemble.” just so, O king, it is not of Arahats that it was said that all are afraid of death. [148] The Arahat is not included in that statement, for the Arahat is one in whom there is no longer any cause that could give rise to fear.’

Tâu đại vương, người trưởng làng ấy, trong khi bảo những người chủ chốt tụ tập lại, thì ra lệnh cho tất cả dân làng như thế, và những người (dân làng) ấy dầu được ra lệnh nhưng không phải tất cả đều tụ tập lại, chỉ có những người chủ chốt tụ tập lại. Và người trưởng làng chấp nhận như thế: ‘Chỉ bấy nhiêu là dân làng của tôi.’ Những người khác đã không đến là nhiều hơn: đàn bà, đàn ông, tớ gái, tôi nam, người làm thuê, nhân công, khách lữ hành, người bệnh, bò, trâu, dê, cừu, chó; tất cả những ai không đến đều không tính. Điều đã được ra lệnh: ‘Tất cả hãy tụ tập lại’ chỉ liên quan đến những người chủ chốt. Tâu đại vương, tương tợ y như thế lời nói này đã được nói bởi đức Thế Tôn là không liên quan đến các vị A-la-hán. Các vị A-la-hán là ngoại lệ trong sự việc này. Nhân gây sợ hãi đã được các vị A-la-hán trừ diệt. Tâu đại vương, những chúng sanh nào có phiền não, có tà kiến về bản ngã quá lố, có tính khí thăng trầm theo lạc và khổ, thì điều đã được nói bởi đức Thế Tôn: ‘Tất cả run sợ hình phạt, tất cả sợ hãi sự chết’ là liên quan đến những người ấy. Do đó, vị A-la-hán không run sợ đối với tất cả các nỗi sợ hãi.

 

 ‘There is the non-inclusive expression, O king, whose meaning is non-inclusive, and the non-inclusive expression whose meaning is inclusive; there is the inclusive expression whose meaning is non-inclusive, and the inclusive expression whose meaning is inclusive.

And the meaning, in each case, should be accepted accordingly. And there are five ways in which the meaning should be ascertained-by the connection, and by taste, and by the tradition of the teachers, and by the meaning, and by abundance of reasons. And herein “connection” means the meaning as seen in the Sutta itself, “taste” means that it is in accordance with other Suttas, “the tradition of the teachers” means what they hold, “the meaning” means what they think, and “abundance of reasons” means all these four combined 1.’

Tâu đại vương, có lời nói thiếu sót với ý nghĩa thiếu sót, có lời nói thiếu sót với ý nghĩa không thiếu sót, có lời nói không thiếu sót với ý nghĩa thiếu sót, có lời nói không thiếu sót với ý nghĩa không thiếu sót. Ý nghĩa nên được tiếp thu theo từng trường hợp một.

Tâu đại vương, ý nghĩa nên được tiếp thu theo năm cách: theo đoạn văn trích dẫn, theo nghĩa chính yếu, theo truyền thống của vị thầy, theo ý định, theo tính chất vượt trên lý do. Chính ở đây, ‘đoạn văn trích dẫn’ là đoạn Kinh thích hợp, ‘nghĩa chính yếu’ là phù hợp với Kinh, ‘truyền thống của vị thầy’ là học thuyết của vị thầy, ‘ý định’ là quan niệm của bản thân, ‘tính chất vượt trên lý do’ là lý do đã được tổng hợp từ bốn cách này. Tâu đại vương, ý nghĩa nên được tiếp thu theo năm lý do này. Câu hỏi ấy nên được giải quyết một cách khéo léo đúng y như thế.”

 

 

  1. 210

 

  1. ‘Very well, Nâgasena! I accept it as you say. The Arahat is an exception in this phrase, and it is the rest of beings who are full of fear. But those beings in purgatory, of whom I spoke, who are suffering painful, sharp, and severe agonies, who are tormented with burnings all over their bodies and limbs, whose mouths are full of lamentation, and cries for pity, and cries of weeping and wailing and woe, who are overcome with pains too sharp to be borne, who find no refuge nor protection nor help, who are afflicted beyond measure, who in the worst and lowest of conditions are still destined to a certainty to further pain, who are being burnt with hot, sharp, fierce, and cruel flames, who are giving utterance to mighty shouts and groans born of horror and fear, who are embraced by the garlands of flame which intertwine around them from all the six directions, and flash in fiery speed through a hundred leagues on every side–can those poor burning wretches be afraid of death?’

‘Yes, they can.’

“Thưa ngài Nāgasena, hãy là như vậy, trẫm chấp nhận điều ấy. Xem như các vị A-la-hán là ngoại lệ trong sự việc này, và các chúng sanh còn lại run sợ. Trái lại, các chúng sanh địa ngục ở nơi địa ngục, trong khi cảm nhận các thọ khổ, sắc bén, nhức nhối, với tất cả các phần thân thể và tứ chi bị thiêu đốt, bị đốt cháy, với miệng khóc lóc, rên rỉ thảm thương, than vãn, van xin, bị nhận lãnh các nỗi khổ đau sắc bén không thể chịu đựng, không có sự bảo vệ, không nơi nương nhờ, ở tình trạng không có chốn nương nhờ, không ít sầu bệnh, có cảnh giới tái sanh tận sau cùng, chốn đến kế tiếp toàn là sầu muộn, có sự đốt cháy và chói sáng nóng bức, mãnh liệt, dữ tợn, và thô tháo, có các âm thanh ồn ào của tiếng gào thét gây ra sự khiếp đảm và sợ hãi, bị bao vây bởi màng lưới lửa sáu màu kết lại với nhau, với cường độ của ngọn lửa tỏa nóng đến một trăm do-tuần ở xung quanh, trong khi nói đến đại địa ngục cùng cực, nóng bức, có phải họ sợ hãi sự chết?”

“Tâu đại vương, đúng vậy.”

 

‘But, venerable Nâgasena, is not purgatory a place of certain pain? And, if so, why should the beings in it be afraid of death, which would release them from that certain pain? What! Are they fond of purgatory?’

‘No, indeed. They like it not. They long to be released from it. It is the power of death of which they are afraid.’

“Thưa ngài Nāgasena, chẳng lẽ địa ngục là phải chịu cảm thọ toàn là khổ đau? Hơn nữa, tại sao các chúng sanh địa ngục phải chịu cảm thọ toàn là khổ đau lại sợ hãi sự chết trong khi lìa khỏi địa ngục? Ở địa ngục có cái gì mà họ thích thú?”

“Tâu đại vương, không phải các chúng sanh địa ngục ấy thích thú nơi địa ngục, chúng quả có mong muốn được giải thoát khỏi địa ngục. Tâu đại vương, điều ấy là oai lực của sự chết, vì điều ấy mà sự run sợ sanh khởi ở các chúng sanh ấy.”

 

‘Now this, Nâgasena, I cannot believe, that they, who want to be released, should be afraid of rebirth.

 

  1. 211

 

[paragraph continues] [149]

They must surely, Nâgasena, rejoice at the prospect of the very condition that they long for. Convince me by some further reason 1.’

“Thưa ngài Nāgasena, trẫm không tin điều ấy là việc sự run sợ sự chết sanh khởi ở những người có mong muốn được giải thoát. Thưa ngài Nāgasena, việc những người ấy đạt được điều đã mong mỏi; sự kiện ấy nực cười. Xin ngài hãy giúp cho trẫm hiểu bằng lý lẽ.”

 

 

  1. ‘Death, great king, is a condition which those who have not seen the truth 2 are afraid of. About it this people is anxious and full of dread. Whosoever is afraid of a black snake, or an elephant or lion or tiger or leopard or bear or hyena or wild buffalo or gayal, or of fire or water, or of thorns or spikes or arrows, it is in each case of death that he is really in dread, and therefore afraid of them. This, O king, is the majesty of the essential nature of death. And all being not free from sin are in dread and quake before its majesty. In this sense it is that even the beings in purgatory, who long to be released from it, are afraid of death.’

“Tâu đại vương, cái ‘sự chết’ này là cơ sở đem lại sự run sợ cho những người chưa nhìn thấy Sự Thật; hạng người này run sợ và bị kích động về việc này. Tâu đại vương, và người nào sợ hãi rắn mãng xà, người ấy trong khi sợ hãi sự chết thì sợ hãi rắn mãng xà. Và người nào sợ hãi voi, — (như trên) — sợ hãi sư tử, hổ, báo, gấu, chó sói, trâu rừng, bò mộng, lửa, nước, chông, gai. Và người nào sợ hãi gươm đao, người ấy trong khi sợ hãi sự chết thì sợ hãi gươm đao. Tâu đại vương, việc chúng sanh còn phiền não run sợ, sợ hãi sự chết, điều ấy là quyền lực của thực chất và bản thể của sự chết. Tâu đại vương, mặc dầu có mong muốn được giải thoát chúng sanh địa ngục cũng run sợ sự chết.

 

 

  1. ‘Suppose, O king, a boil were to arise, full of matter, on a man’s body, and he, in pain from that disease, and wanting to escape from the danger of it, were to call in a physician and surgeon. And the surgeon, accepting the call, were to make ready some means or other for the removal of his disease–were to have a lancet sharpened, or to have sticks put into the fire to be used as cauterisers, or to have something ground on a grindstone to be mixed in a salt lotion. Now would the patient begin to be in dread of the cutting of the sharp lancet, or of the burning of the pair of caustic sticks, or of the application of the stinging lotion?’

‘Yes, he would.’

Tâu đại vương, ở đây có bệnh mỡ đóng cục sanh khởi ở thân thể của người đàn ông. Người ấy bị khổ sở vì căn bệnh ấy, có ước muốn được thoát khỏi hẳn cơn nguy kịch, nên cho mời người thầy thuốc phẫu thuật. Người thầy thuốc phẫu thuật, sau khi chấp nhận người ấy, sẽ đem lại dụng cụ để lấy đi căn bệnh ấy của người ấy, sẽ mài bén con dao mổ, sẽ đặt thanh dẹp cho việc đốt nóng ở ngọn lửa, sẽ cho nghiền nát chất kiềm và muối ở đá nghiền, tâu đại vương, phải chăng sự run sợ có thể sanh khởi ở người bệnh ấy do việc mổ xẻ bằng con dao bén, do việc đốt nóng bằng hai thanh dẹp, do việc đắp vào chất kiềm và muối?”

“Thưa ngài, đúng vậy.”

 

 

  1. 212

 

‘But if the sick man, who wants to be free from his ailment, can fall into dread by the fear of pain, just so can the beings in purgatory, though they long to be released from it, fall into dread by the fear of death.’

“Tâu đại vương, như thế người bệnh ấy, mặc dầu có ước muốn được giải thoát khỏi căn bệnh, cũng có sự run sợ do nỗi sợ hãi về cảm thọ sanh khởi. Tâu đại vương, tương tợ y như thế các chúng sanh địa ngục, mặc dầu có ước muốn được giải thoát khỏi địa ngục, cũng có sự run sợ do nỗi sợ hãi về sự chết sanh khởi.

 

 

  1. ‘And suppose, O king, a man who had committed an offence against the crown, when bound with a chain, and cast into a dungeon, were to long for release. And the ruler, wishing to release him, were to send for him. Now would not that man, who had thus offended, and knew it, be in dread [150] of the interview with the king?’

‘Yes, Sir.’

Tâu đại vương, ở đây có người là kẻ phạm tội đối với chủ nhân bị bắt, bị tống vào phòng giam với sự trói lại bằng sợi xích, có ước muốn được tự do. Chủ nhân ấy, có ý muốn trả tự do, bảo đưa người ấy đến, tâu đại vương, phải chăng sự run sợ do việc nhìn thấy chủ nhân sẽ sanh khởi ở người ấy, là kẻ phạm tội đối với chủ nhân, trong khi biết rằng: ‘Ta đã làm quấy’?”

“Thưa ngài, đúng vậy.”

 

 

‘But if so, then can also the beings in purgatory, though they long to be released from it, yet be afraid of death.’

‘Give me another illustration by which I may be able to harmonise 1 (this apparent discrepancy).’

“Tâu đại vương, như thế người ấy, là kẻ phạm tội đối với chủ nhân, mặc dầu có ước muốn được tự do, cũng có sự run sợ do nỗi sợ hãi chủ nhân sanh khởi. Tâu đại vương, tương tợ y như thế đối với các người ở địa ngục, mặc dầu có ước muốn được giải thoát khỏi địa ngục, sự run sợ do nỗi sợ hãi về sự chết cũng sẽ sanh khởi ở nơi họ.”

“Thưa ngài, xin hãy nói thêm về lý do khác nữa, nhờ vào lý do ấy trẫm có thể xác định niềm tin.”

 

 

‘Suppose, O king, a man bitten by a poisonous snake should be afraid, and by the action of the poison should fall and struggle, and roll this way and that. And then that another man, by the repetition of a powerful charm, should compel that poisonous snake to approach to suck the poison back again 2. Now when the bitten man saw the poisonous snake coming to him, though for the object of curing him, would he not still be in dread of it?’

‘Yes, Sir.’

“Tâu đại vương, ở đây có người nam bị cắn bởi rắn độc có nọc độc ở nanh. Do tác động của nọc độc ấy, người ấy ngã xuống, té lên, lăn qua, lăn lại. Khi ấy, có một người nam khác với câu bùa chú có năng lực đem lại con rắn độc có nọc độc ở nanh ấy, rồi cho hút ngược trở lại nọc độc ở nanh ấy, tâu đại vương đối với người nam bị nhiễm nọc độc ấy, khi con rắn có nộc độc ở nanh ấy đang tiến đến gần với nguyên nhân tốt lành, phải chăng nỗi run sợ có thể sanh khởi ở người ấy?”

“Thưa ngài, đúng vậy.”

 

‘Well, it is just so with the beings in purgatory.

 

  1. 213

 

[paragraph continues]

Death is a thing disliked by all beings. And therefore are they in dread of it though they want to be released from purgatory.’

‘Very good, Nâgasena! That is so, and I accept it as you say.’

“Tâu đại vương, ở hình thức tương tợ như thế, trong khi con rắn đang tiến đến gần, mặc dầu với nguyên nhân tốt lành, nỗi run sợ cũng sanh khởi ở người ấy. Tâu đại vương, tương tợ y như thế đối với các chúng sanh ở địa ngục, mặc dầu có ước muốn được giải thoát khỏi địa ngục, sự run sợ do nỗi sợ hãi về sự chết cũng sanh khởi nơi họ. Tâu đại vương, đối với tất cả chúng sanh sự chết là điều không được mong muốn. Do đó, các chúng sanh ở địa ngục, mặc dầu có ước muốn được giải thoát khỏi địa ngục, cũng sợ hãi về sự chết.”

“Thưa ngài Nāgasena, tốt lắm! Trẫm chấp nhận điều này đúng theo như vậy.”

 

[Here ends the dilemma as to the fear of death.]

Câu hỏi về việc sợ hãi hay không sợ hãi sự chết là thứ ba.

 

 

Sources

Tài liệu tham khảo:

  1. http://budsas.net/uni/u-kinh-mitien/mitien-00.htm
  2. http://www.tamtangpaliviet.net/VHoc/45/Mil_05.htm
  3. http://www.sacred-texts.com/bud/sbe35/sbe3513.htm
  4. http://globalbuddhismcommunity.com/vi-vn/Dictionary/AVThienPhuc/dtsr.aspx