Chương 2 – Book II – Quyển II – Phẩm Hành Trình The Distinguisging Characteristics of Ethical Qualities – Song ngữ

English: T. W. Rhys Davids – From Pali Language.

Việt ngữ: Tỳ khưu Indacanda (Trương Đình Dũng).

Compile: Middle Way Group.

Reverence be to the Blessed One, The Arahat, and the Sammâ-SamBudda.

Kính lễ đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, và đấng Chánh Biến Tri.

 

Book II – Quyển II

Chương 2 – Chapter 2 – Phẩm Hành Trình – 9 Q & A.

 

  1. Q & A.

[40] The king said:

‘He who is born, Nâgasena, does he remain the same or become another?’

Đức vua Milinda đã nói rằng:

“Thưa ngài Nāgasena, người đi tái sanh thì cũng chính là người ấy, hay là người khác?”

 

‘Neither the same nor another.’

‘Give me an illustration.’

Vị trưởng lão đã nói rằng: “Không phải là người ấy, mà cũng không phải là người khác.”

“Xin ngài cho ví dụ.”

 

‘Now what do you think, O king? You were once a baby, a tender thing, and small in size, lying flat on your back. Was that the same as you who are now grown up?’

‘No. That child was one, I am another.’

“Tâu đại vương, đại vương nghĩ gì về điều này? Khi đại vương còn nhỏ, trẻ thơ, bé bỏng, nằm ngửa, có phải chính đứa bé ấy là đại vương hiện nay đã được trưởng thành?”

“Thưa ngài, không phải. Đứa nhỏ, trẻ thơ, bé bỏng, nằm ngửa ấy là khác, trẫm hiện nay trưởng thành là khác.”

 

‘If you are not that child, it will follow that you have had neither mother nor father, no! nor teacher. You cannot have been taught either learning, or behaviour, or wisdom. What, great king! is the mother of the embryo in the first stage different from the mother of the embryo in the second stage, or the third, or the fourth 1? Is the mother of the baby a different person from the mother of the grown-up man? Is the person who goes to school one, and the same when he has finished his schooling another? Is it one who commits a crime, another who is punished by having his hands or feet cut off 2?’

‘Certainly not. But what would you, Sir, say to that? ‘

“Tâu đại vương, trong khi là như vậy thì cũng sẽ không có người gọi là ‘mẹ,’ cũng sẽ không có người gọi là ‘cha,’ cũng sẽ không có người gọi là ‘thầy,’ cũng sẽ không có người gọi là ‘nghệ nhân,’ cũng sẽ không có người gọi là ‘bậc giới đức,’ cũng sẽ không có người gọi là ‘bậc trí.’ Tâu đại vương, phải chăng người mẹ của bào thai mới tượng là khác, người mẹ của bào thai thời kỳ thứ hai là khác, người mẹ của bào thai thời kỳ thứ ba là khác, người mẹ của bào thai thời kỳ thứ tư là khác, người mẹ của người con lúc bé là khác, người mẹ của người con trưởng thành là khác, người học nghề là người khác, người thạo nghề là người khác, người làm việc ác là người khác, người có tay chân bị chặt là người khác?”

“Thưa ngài, không phải. Thưa ngài, nếu được nói như vậy thì ngài có thể đáp lại điều gì?”

 

The Elder replied: ‘I should say that I am the same person, now I am grown up, as I was when I was a tender tiny baby, flat on my back. For all these states are included in one by means of this body.’

‘Give me an illustration.’

Vị trưởng lão đã nói rằng: “Tâu đại vương, chính tôi đã là đứa nhỏ, trẻ thơ, bé bỏng, nằm ngửa, chính tôi hiện nay đã được trưởng thành, tất cả các sự việc ấy được tổng hợp chung lại nương vào chính thân xác này.”

“Xin ngài cho ví dụ.”

 

  1. 64

 

‘Suppose a man, O king, were to light a lamp, would it burn the night through?’

‘Yes, it might do so.’

‘Now, is it the same flame that burns in the first watch of the night, Sir, and in the second?’

‘No.’

‘Or the same that burns in the second watch and in the third?’

‘No.’

‘Then is there one lamp in the first watch, and another in the second, and another in the third?’

‘No. The light comes from the same lamp all the night through.’

“Tâu đại vương, giống như một người nào đó thắp sáng ngọn đèn, có phải ngọn đèn có thể chiếu sáng trọn đêm?”

“Thưa ngài, đúng vậy. Nó có thể chiếu sáng trọn đêm.”

“Tâu đại vương, vậy có phải ngọn lửa ở canh đầu là ngọn lửa ở canh giữa?”

“Thưa ngài, không phải.”

“Tâu đại vương, vậy có phải cây đèn ấy ở canh đầu là khác, cây đèn ở canh giữa là khác, cây đèn ở canh cuối là khác?”

“Thưa ngài, không phải. Nó được chiếu sáng trọn đêm nương vào chính cây đèn ấy.”

 

‘Just so, O king, is the continuity of a person or thing maintained. One comes into being, another passes away; and the rebirth is, as it were, simultaneous. Thus, neither as the same nor as another does a man go on to the last phase of his self-consciousness 1.’

‘Give me a further illustration.’

“Tâu đại vương, tương tợ y như thế sự diễn tiến của pháp được liên kết lại. Sanh lên là cái khác, hoại diệt là cái khác, được liên kết như là không trước không sau. Vì thế, không phải là người ấy, mà cũng không phải là người khác, tâm thức trước đi đến sự kết hợp với tâm thức sau.”

“Xin ngài cho ví dụ.”

 

  1. 65

 

‘It is like milk, [41] which when once taken from the cow, turns, after a lapse of time, first to curds, and then from curds to butter, and then from butter to ghee. Now would it be right to say that the milk was the same thing as the curds, or the butter, or the ghee?’

‘Certainly not; but they are produced out of it.’

“Tâu đại vương, giống như sữa tươi được vắt ra sau một thời gian thì trở thành sữa chua, từ sữa chua trở thành sữa đông, từ sữa đông trở thành sữa trong. Tâu đại vương, vậy thì người nào nói như vầy: ‘Vật nào là sữa tươi chính vật ấy là sữa chua, chính vật ấy là sữa đông, chính vật ấy là sữa trong;’ tâu đại vương, trong khi nói như thế có phải là người ấy nói đúng?”

 “Thưa ngài, không đúng. Vật được tạo thành là nương vào chính sữa tươi ấy.”

 

‘Just so, O king, is the continuity of a person or thing maintained. One comes into being, another passes away; and the rebirth is, as it were, simultaneous. Thus neither as the same nor as another does a man go on to the last phase of his self-consciousness.’

‘Well put, Nâgasena!’

“Tâu đại vương, tương tợ y như thế sự diễn tiến của pháp được liên kết lại. Sanh lên là cái khác, hoại diệt là cái khác, được liên kết như là không trước không sau. Vì thế, không phải là người ấy, mà cũng không phải là người khác, tâm thức trước đi đến sự kết hợp với tâm thức sau.”

“Thưa ngài Nāgasena, ngài thật khôn khéo.”

 

  1. Q & A.

The king said:

‘Is a man, Nâgasena, who will not be reborn, aware of the fact?’

Đức vua đã nói rằng:

“Thưa ngài Nāgasena, người nào không tái sanh, có phải người ấy biết rằng: ‘Ta sẽ không tái sanh’?”

 

‘Yes, O king.’

‘And how does he know it

‘By the cessation of all that is cause, proximate or remote 2, of rebirth.’

‘Give me an illustration.’

“Tâu đại vương, đúng vậy. Người nào không tái sanh, người ấy biết rằng: ‘Ta sẽ không tái sanh.’”

“Thưa ngài, làm sao biết?”

“Tâu đại vương, nhân nào duyên nào đưa đến việc tái sanh, do sự chấm dứt của nhân ấy duyên ấy nên người ấy biết rằng: ‘Ta sẽ không tái sanh.’”

“Xin ngài cho ví dụ.”

 

‘Suppose a farmer, great king, had ploughed and sown and filled his granary; and then for a period should neither plough nor sow, but live on the

 

  1. 66

 

stored-up grain, or dispose of it in barter, or deal with it as he had need. Would the farmer be aware, great king, that his granary was not getting filled?’

‘Yes, he ought to know it.’

‘But how?’

“Tâu đại vương, giống như người nông dân gia chủ, sau khi cày đất và gieo hạt, có thể làm đầy kho lúa; người ấy vào lúc khác không cày đất không gieo hạt, rồi thọ dụng thóc lúa đã được tích trữ hoặc phân phát hoặc sử dụng tùy duyên, tâu đại vương, có phải người nông dân gia chủ ấy biết rằng: ‘Ta sẽ không làm đầy kho lúa’?”

“Thưa ngài, đúng vậy. Có thể biết được.”

“Làm sao biết được?”

 

‘He would know that the cause, proximate and remote, of the filling of the granary had ceased.’

‘Just so with the man you spoke of. By the cessation of all that leads to rebirth, he would be conscious of having escaped his liability to it.’

‘Well explained, Nâgasena!’

“Nhân nào duyên nào đưa đến việc làm đầy kho lúa, do sự chấm dứt của nhân ấy duyên ấy nên người ấy biết rằng: ‘Ta sẽ không làm đầy kho lúa của ta.’”

“Tâu đại vương, tương tợ y như thế nhân nào duyên nào đưa đến việc tái sanh, do sự chấm dứt của nhân ấy duyên ấy nên người ấy biết rằng: ‘Ta sẽ không tái sanh.’”

“Thưa ngài Nāgasena, ngài thật khôn khéo.”

 

  1. Q & A.

The king said:

‘He who has intelligence, Nâgasena, has he also wisdom 2?’

Đức vua đã nói rằng:

“Thưa ngài Nāgasena, trí sanh lên cho người nào, thì tuệ sanh lên cho người ấy phải không?”

 

‘Yes, great king.’ [42]

‘What; are they both the same?’

‘Yes.’

“Tâu đại vương, đúng vậy. Trí sanh lên cho người nào, thì tuệ sanh lên cho người ấy.”

“Thưa ngài, có phải cái nào là trí thì chính cái ấy là tuệ?”

“Tâu đại vương, đúng vậy. Cái nào là trí thì chính cái ấy là tuệ.”

 

‘Then would he, with his intelligence–which, you say, is the same as wisdom–be still in bewilderment or not?’

‘In regard to some things, yes; in regard to others, no.’

‘What would he be in bewilderment about?’

“Thưa ngài, chính trí ấy chính tuệ ấy được sanh lên cho người nào, có phải người ấy còn mê mờ, hay không còn mê mờ?”

“Tâu đại vương, còn mê mờ về lãnh vực nào đó, không còn mê mờ về lãnh vực nào đó.”

“Thưa ngài, còn mê mờ về lãnh vực gì, không còn mê mờ về lãnh vực gì?”

 

‘He would still be in bewilderment as to those parts of learning he had not learnt, as to those countries he had not seen, and as to those names or terms he had not heard.’

“Tâu đại vương, còn mê mờ về những lãnh vực nghề nghiệp chưa được biết trước đây, hoặc về những địa phương chưa được đi đến trước đây, hoặc về những tên gọi và điều quy định chưa được nghe trước đây.”

 

‘And wherein would he not be in bewilderment?’

‘As regards that which has been accomplished by insight–(the perception, that is,) of the impermanence

 

  1. 67

of all beings, of the suffering inherent in individuality, and of the non-existence of any soul 1.’

“Không còn mê mờ về lãnh vực gì?”

“Tâu đại vương, điều nào đã được xử lý bởi tuệ ấy tức là ‘vô thường’ hoặc là ‘khổ não’ hoặc là ‘vô ngã,’ thì không còn mê mờ về lãnh vực ấy.”

 

‘Then what would have become of his delusions on those points.’

‘When intelligence has once arisen, that moment delusion has died away.’

‘Give me an illustration.’

“Thưa ngài, vậy thì sự si mê của người này đi đâu?”

“Tâu đại vương, vào lúc trí được sanh lên, thì si mê diệt mất ngay tại chỗ ấy.”

“Xin ngài cho ví dụ.”

 

‘It is like the lamp, which when a man has brought into a darkened room, then the darkness would vanish away, and light would appear.’

‘And what, Nâgasena, on the other hand, has then become of his wisdom?’

“Tâu đại vương, giống như người nào đó mang cây đèn vào căn nhà tối tăm, do đó bóng tối diệt mất, ánh sáng hiện ra; tâu đại vương, tương tợ y như thế vào lúc trí được sanh lên, thì si mê diệt mất ngay tại chỗ ấy.”

“Thưa ngài, vậy thì tuệ đi đâu?”

 

‘When the reasoning wisdom has effected that which it has to do, then the reasoning ceases to go on. But that which has been acquired by means of it remains–the knowledge, to wit, of the impermanence of every being, of the suffering inherent in individuality, and of the absence of any soul.’

‘Give me an illustration, reverend Sir, of what you have last said.’

“Tâu đại vương, tuệ sau khi làm xong phận sự của nó thì diệt mất ngay tại chỗ ấy. Tuy nhiên, điều đã được xử lý bởi tuệ ấy tức là ‘vô thường’ hoặc là ‘khổ não’ hoặc là ‘vô ngã’ thì không diệt mất.”

“Thưa ngài Nāgasena, điều mà ngài đã nói là: ‘Tuệ sau khi làm xong phận sự của nó thì diệt mất ngay tại chỗ ấy,’ và ‘điều đã được xử lý bởi tuệ ấy tức là ‘vô thường’ hoặc là ‘khổ não’ hoặc là ‘vô ngã’ thì không diệt mất,’ xin ngài cho ví dụ về điều ấy.”

 

‘It is as when a man wants, during the night, to send a letter, and after having his clerk called, has a lamp lit, and gets the letter written. Then, when that has been done, he extinguishes the lamp. But though the lamp had been put out the writing would still be there. Thus does reasoning cease, and knowledge remain.’

‘Give me a further illustration.’

“Tâu đại vương, giống như người nào đó có ý định gởi đi bức thơ vào ban đêm, có thể cho gọi người thơ ký đến, bảo đem lại cây đèn rồi bảo viết bức thơ. Khi bức thơ đã được viết xong thì có thể cho làm tắt cây đèn, mặc dầu cây đèn đã được làm tắt, bức thơ vẫn không biến mất; tâu đại vương, tương tợ y như thế tuệ sau khi làm xong phận sự của nó thì diệt mất ngay tại chỗ ấy, và điều đã được xử lý bởi tuệ ấy tức là ‘vô thường’ hoặc là ‘khổ não’ hoặc là ‘vô ngã’ thì không diệt mất.”

“Xin ngài cho thêm ví dụ.”

 

‘In Eastern districts [43] the peasants have a custom of arranging five pots full of water behind

 

  1. 68

 

each hut with the object of putting out at once any spark of fire that may be kindled. Suppose now the house had caught fire, and they had thrown those five potfulls of water over the hut, and the fire had gone out, would those peasants then think of still going on using the water-pots?’

‘No, Sir, the water-pots would be done with. What would be the use of them (on that occasion) any more?’

“Tâu đại vương, giống như ở các xứ sở ở phương Đông, người ta để năm chum nước dọc theo từng nhà một để dập tắt hỏa hoạn. Khi căn nhà bị bốc cháy thì ném năm chum nước ấy ở phía bên trên căn nhà, do đó ngọn lửa được dập tắt. Tâu đại vương, có phải những người ấy sẽ khởi ý rằng: ‘Chúng ta sẽ làm công việc dập tắt lửa với năm chum nước ấy lần nữa?’”

“Thưa ngài, không phải. Đã xong rồi với năm chum nước ấy. Còn việc gì với năm chum nước ấy?” 

 

‘The five water-pots are the five organs of moral sense–faith, to wit, and perseverance in effort, and mindfulness, and meditation, and the reasoning wisdom. The peasantry are the recluse, who is devoted in effort 1; the fire is sinfulness. As the fire is put out by the water in the five pots, so is sinfulness extinguished by the five organs of moral sense, and when once extinguished it does not again arise 2.’

‘Give me a further illustration.’

“Tâu đại vương, năm chum nước là như thế nào thì ngũ quyền gồm có tín quyền, tấn quyền, niệm quyền, định quyền, tuệ quyền nên được xem xét như vậy. Những người ấy là như thế nào thì hành giả nên được xem xét như vậy. Ngọn lửa là như thế nào thì các phiền não nên được xem xét như vậy. Ngọn lửa được dập tắt bởi năm chum nước như thế nào thì các phiền não được dập tắt bởi năm quyền là như vậy. Các phiền não đã được dập tắt thì không xuất hiện lại nữa. Tâu đại vương, tương tợ y như thế tuệ sau khi làm xong phận sự của nó thì diệt mất ngay tại chỗ ấy, và điều đã được xử lý bởi tuệ ấy tức là ‘vô thường’ hoặc là ‘khổ não’ hoặc là ‘vô ngã’ thì không diệt mất.”

“Xin ngài cho thêm ví dụ.”

 

‘It is like a physician who goes to the sick man with the five kinds of drugs made from medicinal

 

  1. 69

 

roots 1, and grinding them up, gives him to drink, and thereby his sickness passes away. Would the physician in that case think of making any further use of the medicine?’

‘Certainly not, the medicine has done its work. What would be the use of any more?’

“Tâu đại vương, giống như người thầy thuốc lấy năm loại thuốc rễ cây đi đến gặp người bệnh. Sau khi nghiền nát năm loại thuốc rễ cây ấy rồi cho người bệnh uống để loại trừ các sự khó chịu nhờ vào năm loại thuốc rễ cây ấy. Tâu đại vương, có phải người thầy thuốc ấy sẽ khởi ý rằng: ‘Ta sẽ làm công việc chữa trị với năm loại thuốc rễ cây ấy lần nữa?’”

“Thưa ngài, không phải. Đã xong rồi với các loại thuốc rễ cây ấy. Còn việc gì với các loại thuốc rễ cây ấy?”

 

‘Just so, O king, when sinfulness is destroyed by the five moral powers, then reasoning ceases, but knowledge remains.’

[44] ‘Give me a further illustration.’

“Tâu đại vương, giống như người chiến sĩ tham gia chiến trận cầm lấy năm mũi tên lao vào chiến trận để đánh bại đội quân địch, vị ấy có thể phóng năm mũi tên ấy ở chiến trận và nhờ chúng đội quân địch bị phá tan; tâu đại vương, có phải người chiến sĩ tham gia chiến trận ấy sẽ khởi ý rằng: ‘Ta sẽ làm công việc bắn tên với năm mũi tên ấy lần nữa?’”

“Thưa ngài, không phải. Đã xong rồi với năm mũi tên ấy; còn việc gì với năm mũi tên ấy?”

 

‘It is like a warrior, at home in war, who takes five javelins and goes down to ‘battle to conquer the foe. And when he has cast them the enemy is broken. There is no need for him to go on casting javelins any more.’

‘Well put, Nâgasena!’

“Tâu đại vương, năm mũi tên là như thế nào thì ngũ quyền gồm có tín quyền, tấn quyền, niệm quyền, định quyền, tuệ quyền nên được xem xét như vậy. Người chiến sĩ tham gia chiến trận là như thế nào thì hành giả nên được xem xét như vậy. Đội quân địch là như thế nào thì các phiền não nên được xem xét như vậy. Đội quân địch bị phá tan bởi năm mũi tên như thế nào thì các phiền não bị phá tan bởi năm quyền là như vậy, và các phiền não đã bị phá tan thì không xuất hiện lại nữa. Tâu đại vương, tương tợ y như thế tuệ sau khi làm xong phận sự của nó thì diệt mất ngay tại chỗ ấy, và điều đã được xử lý bởi tuệ ấy tức là ‘vô thường’ hoặc là ‘khổ não’ hoặc là ‘vô ngã’ thì không diệt mất.”

“Thưa ngài Nāgasena, ngài thật khôn khéo.”

 

  1. Q & A.

The king said:  

‘He who will not be reborn, Nâgasena, does he still feel any painful sensation?’

Đức vua đã nói rằng:

“Thưa ngài Nāgasena, người nào không tái sanh, người ấy còn nhận biết thọ khổ nào đó phải không?”

 

The Elder replied: ‘Some he feels and some not.’

‘Which are they?’

‘He may feel bodily pain, O king; but mental pain he would not.’

Vị trưởng lão đã nói rằng: “Còn nhận biết thọ nào đó, không nhận biết thọ nào đó.”

“Nhận biết thọ gì, không nhận biết thọ gì?”

“Tâu đại vương, nhận biết thọ thuộc về thân, không nhận biết thọ thuộc về tâm.”

 

‘How would that be so?’

‘Because the causes, proximate or remote, of bodily pain still continue, he would be liable to it. But the causes, proximate or remote, of mental agony having ceased, he could not feel it. For it has been said by the Blessed One: “One kind of pain he suffers, bodily pain: but not mental.”‘

“Thưa ngài, nhận biết thọ thuộc về thân là thế nào, nhận biết thọ thuộc về tâm là thế nào?”

“Nhân nào duyên nào đưa đến việc sanh lên thọ khổ thuộc về thân, do sự chưa chấm dứt của nhân ấy duyên ấy nên người ấy nhận biết thọ khổ thuộc về thân. Nhân nào duyên nào đưa đến việc sanh lên thọ khổ thuộc về tâm, do sự chấm dứt của nhân ấy duyên ấy nên người ấy không nhận biết thọ khổ thuộc về tâm. Tâu đại vương, điều này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến: ‘Người ấy nhận biết một thọ, thuộc về thân không thuộc về tâm.’”

 

‘Then why, Sir, does he not die?’

‘The Arahat, O king, has need neither to curry

 

  1. 70

 

favour nor to bear malice. He shakes not down the unripe fruit, but awaits the full time of its maturity. For it has been said, O king, by the Elder, Sâriputta, and the Commander of the faith [45]:

“Thưa ngài Nāgasena, người ấy nhận biết thọ khổ thuộc về thân, tại sao người ấy không viên tịch Niết Bàn?”

“Tâu đại vương, đối với A-la-hán không có sự bám níu hay sự ghét bỏ. Và các vị A-la-hán không hủy diệt điều chưa chín tới. Các bậc trí chờ đợi sự chín muồi. Tâu đại vương, điều này cũng đã được trưởng lão Sāriputta, vị Tướng Quân Chánh Pháp, nói đến:

 

“It is not death, it is not life I welcome;

As the hireling his wage, so do I bide my time.

It is not death, it is not life I want;

Mindful and thoughtful do I bide my time 1.”‘

‘Well put, Nâgasena!’

‘Tôi không vui thích sự chết, tôi không vui thích sự sống, và tôi trông chờ thời điểm, giống như người làm công trông chờ tiền lương.

Tôi không vui thích sự chết, tôi không vui thích sự sống, và tôi trông chờ thời điểm, tỉnh giác, có niệm.’”

“Thưa ngài Nāgasena, ngài thật khôn khéo.”

 

  1. Q & A.

The king said:

‘Is a pleasant sensation, Nâgasena, good or evil or indifferent?’

Đức vua đã nói rằng:

“Thưa ngài Nāgasena, các thọ lạc là thiện, hay là bất thiện, hay là không xác định?”

 

‘It may be any one of the three.’

‘But surely, Sir, if good conditions are not painful, and painful ones not good, then there can arise no good condition that is at the same time painful 2.’

“Tâu đại vương, có thể là thiện, có thể là bất thiện, có thể là không xác định.”

“Thưa ngài, nếu là thiện thì không khổ, nếu là khổ thì không phải là thiện, ‘vừa là thiện vừa là khổ’ không xảy ra.”

 

‘Now, what do you think, great king? Suppose a man were to hold in one hand a red-hot ball of iron, and in the other a lump of icy snow, would they both hurt him?’

‘Yes; they both would.’

“Tâu đại vương, đại vương nghĩ gì về điều này? Trường hợp đặt xuống khối sắt được nung đỏ ở bàn tay của người đàn ông, ở bàn tay thứ nhì đặt xuống cục tuyết lạnh, tâu đại vương, phải chăng cả hai vật ấy đều có thể gây bỏng?”

“Thưa ngài, đúng vậy. Cả hai vật ấy đều có thể gây bỏng.”

 

‘But are they both hot?’

‘Certainly not.’

‘But are they both cold?’

‘No.’

“Tâu đại vương, có phải cả hai vật ấy đều nóng?”

“Thưa ngài, không phải.”

“Tâu đại vương, có phải cả hai vật ấy đều lạnh?”

“Thưa ngài, không phải.” 

 

‘Then acknowledge yourself put in the wrong! If the heat hurts, and they are not both hot, the pain cannot come from the heat. If the cold hurts,

 

  1. 71

 

and they are not both cold, the pain cannot come from the cold. How then, O king, can they both hurt you, since they are not both hot, nor both cold, and (as one is hot and the other cold) the pain comes neither from the hot nor from the cold?’

‘I am not equal to argument with you. Be so good, Sir, as to explain how the matter stands.’

“Đại vương hãy nhận biết lời bắt bẻ. Nếu vật được nung đỏ gây bỏng, tuy nhiên không phải cả hai vật ấy đều là nóng, vì thế không xảy ra. Nếu vật lạnh gây bỏng, tuy nhiên không phải cả hai vật ấy đều là lạnh, vì thế không xảy ra. Tâu đại vương, vậy thì tại sao cả hai vật ấy đều gây bỏng? Không phải cả hai vật ấy đều là nóng, không phải cả hai vật ấy đều là lạnh, mà là một nóng, một lạnh. Vậy mà cả hai vật ấy đều gây bỏng, vì thế không xảy ra.”

“Thưa ngài, trẫm không có khả năng để trò chuyện với nhà diễn thuyết như ngài. Thưa ngài, lành thay xin ngài nói về ý nghĩa.”

 

Then the Elder reasoned with king Milinda, persuading him by talk on the subject drawn from the Abhidhamma, such as: ‘There are these six pleasures, O king, connected with life in the world, and these other six with renunciation. There are six griefs connected with life in the world, and six with renunciation. There are six kinds of indifference to pleasure and to grief connected with life in the world, and six with renunciation. [46] Altogether there are thus six series of six, that is to say, thirty-six kinds of sensations in the present, and the like number in the past, and the like in the future. And adding all these up in one total we arrive at one hundred and eight kinds of sensation.’

‘Well put, Nâgasena!’

Do đó, vị trưởng lão đã giúp cho đức vua Milinda hiểu được bằng sự thuyết giảng liên quan đến Vi Diệu Pháp: “Tâu đại vương, đây là sáu hỷ tâm liên quan thế tục, sáu hỷ tâm liên quan xuất ly, sáu sân tâm liên quan thế tục, sáu sân tâm liên quan xuất ly, sáu xả liên quan thế tục, sáu xả liên quan xuất ly; đây là sáu nhóm sáu. Hơn nữa, ba mươi sáu thọ thuộc quá khứ, ba mươi sáu thọ thuộc vị lai, ba mươi sáu thọ thuộc hiện tại, sau khi gom lại đặt chung lại với nhau thì có một trăm lẻ tám thọ.”

“Thưa ngài Nāgasena, ngài thật khôn khéo.”

 

  1. Q & A.

The king said:

‘What is it, Nâgasena that is reborn?’

Đức vua đã nói rằng:

“Thưa ngài Nāgasena, ai đi tái sanh?”

 

‘Name-and-form is reborn.’

‘What, is it this same name-and-form that is reborn?’

Vị trưởng lão đã nói rằng: “Tâu đại vương, danh sắc đi tái sanh.”

“Có phải chính danh sắc này đi tái sanh?”

 

‘No: but by this name-and-form deeds are done, good or evil, and by these deeds (this Karma) another name-and-form is reborn.’

 

  1. 72

 

‘If that be so, Sir, would not the new being be released from its evil Karma 1?’

“Tâu đại vương, không phải chính danh sắc này đi tái sanh. Tâu đại vương, tuy nhiên con người tạo nghiệp thiện hoặc ác với danh sắc này, do nghiệp ấy mà danh sắc khác đi tái sanh.”

“Thưa ngài Nāgasena, nếu không phải chính danh sắc này đi tái sanh, không lẽ người ấy sẽ được thoát khỏi các nghiệp ác?”

 

The Elder replied: ‘Yes, if it were not reborn. But just because it is reborn, O king, it is therefore not released from its evil Karma.’

‘Give me an illustration.’

Vị trưởng lão đã nói rằng: “Nếu không đi tái sanh thì có thể thoát khỏi các nghiệp ác. Tâu đại vương, và chính vì đi tái sanh mà không được thoát khỏi các nghiệp ác.”

“Xin ngài cho ví dụ.”

 

‘Suppose, O king, some man were to steal a mango from another man, and the owner of the mango were to seize him and bring him before the king, and charge him with the crime. And the thief were to say: “You’re Majesty! I have not taken away this man’s mangoes. Those that he put in the ground are different from the ones I took. I do not deserve to be punished.” How then? Would he be guilty?’

‘Certainly, Sir. He would deserve to be punished.’

“Tâu đại vương, giống như người nào đó lấy trộm trái xoài của người nào khác, người chủ trái xoài bắt lấy chính người ấy rồi đem trình diện đức vua: ‘Tâu bệ hạ, các trái xoài của thần bị người này lấy trộm.’ Người ấy nói như vầy: ‘Tâu bệ hạ, thần không lấy trộm các trái xoài của người này. Các trái xoài đã được người này trồng là các trái khác, các trái xoài đã bị thần lấy trộm là các trái khác. Thần không đáng bị hình phạt.’ Tâu đại vương, phải chăng người ấy đáng bị hành phạt?”

“Thưa ngài, đúng vậy. Đáng bị hành phạt.”

 

‘But on what ground?’

‘Because, in spite of whatever he may say, he would be guilty in respect of the last mango which resulted from the first one (the owner set in the ground).’

“Vì lý do gì?”

“Thưa ngài, cho dầu người ấy có thể nói như thế, người ấy có thể chối bỏ trái xoài trước, vẫn đáng bị hành phạt với trái xoài sau.”

 

‘Just so, great king, deeds good or evil are done by this name-and-form and another is reborn. But that other is not thereby released from its deeds (its Karma).’

‘Give me a further illustration.’

“Tâu đại vương, tương tợ y như thế con người tạo nghiệp thiện hoặc ác với danh sắc này, do nghiệp ấy mà danh sắc khác đi tái sanh, do đó không được thoát khỏi các nghiệp ác.”

“Xin ngài cho thêm ví dụ.” 

 

‘It is like rice or sugar so stolen, of which the same might be said as of the mango. [47] Or it is like the fire which a man, in the cold season, might kindle, and when he had warmed himself, leave still burning, and go away. Then if that fire were to set

 

  1. 73

 

another man’s field on fire, and the owner of the field were to seize him, and bring him before the king, and charge him with the injury, and he were to say: “Your Majesty! It was not I who set this man’s field on fire. The fire I left burning was a different one from that which burnt his field. I am not guilty.” Now would the man, O king, be guilty?’

‘Certainly, Sir.’

“Tâu đại vương, giống như người nào đó lấy trộm lúa sāli — (như trên) — lấy trộm mía của người nào khác, — (như trên) — Tâu đại vương, giống như người nào đó vào mùa đông đốt ngọn lửa, sau khi sưởi ấm đã không dập tắt rồi ra đi. Sau đó, ngọn lửa ấy đốt cháy ruộng lúa của người khác. Người chủ ruộng bắt lấy chính người ấy rồi đem trình diện đức vua: ‘Tâu bệ hạ, ruộng của thần bị người này đốt cháy.’ Người ấy nói như vầy: ‘Tâu bệ hạ, thần không đốt cháy ruộng của người này. Ngọn lửa thần quên dập tắt ấy là khác, ngọn lửa đốt cháy ruộng của người này là khác. Thần không đáng bị hình phạt.’ Tâu đại vương, phải chăng người ấy đáng bị hành phạt?”

“Thưa ngài, đúng vậy. Đáng bị hành phạt.”

 

‘But why?’

‘Because, in spite of whatever he might say, he would be guilty in respect of the subsequent fire that resulted from the previous one.’

“Vì lý do gì?”

“Thưa ngài, cho dầu người ấy có thể nói như thế, người ấy có thể chối bỏ ngọn lửa trước, vẫn đáng bị hành phạt với ngọn lửa sau.”

 

‘Just so, great king, deeds good or evil are done by this name-and-form and another is reborn. But that other is not thereby released from its deeds (its Karma).’

‘Give me a further illustration.’

“Tâu đại vương, tương tợ y như thế con người tạo nghiệp thiện hoặc ác với danh sắc này, do nghiệp ấy mà danh sắc khác đi tái sanh, do đó không được thoát khỏi các nghiệp ác.”

“Xin ngài cho thêm ví dụ.”

 

‘Suppose, O king, a man were to take a lamp and go up into the top storey of his house, and there eat his meal. And the lamp blazing up were to set the thatch on fire, and from that the house should catch fire, and that house having caught fire the whole village should be burnt. And they should seize him and ask: “What, you fellow, did you set our village on fire for?” And he should reply: “I’ve not set your village on fire! The flame of the lamp, by the light of which I was eating, was one thing; the fire which burnt your village was another thing.” Now if they, thus disputing, should go to law before you, O king, in whose favour would you decide the case?’

“Tâu đại vương, giống như người nào đó cầm lấy cây đèn rồi leo lên căn gác và sử dụng nó. Cây đèn trong khi được đốt cháy có thể đốt cháy cỏ, cỏ trong khi được đốt cháy có thể đốt cháy căn nhà, căn nhà trong khi được đốt cháy có thể đốt cháy ngôi làng, dân làng bắt lấy chính người ấy rồi nói như vầy: ‘Này ông, tại sao ông đốt cháy ngôi làng?’ Người ấy nói như vầy: ‘Này các ông, tôi không đốt cháy ngôi làng. Ngọn lửa của cây đèn mà tôi đã sử dụng ánh sáng là khác, ngọn lửa đã đốt cháy ngôi làng là khác.’ Trong khi tranh cãi, họ đã đi đến gặp bệ hạ. Tâu đại vương, đại vương có thể chấp nhận lời giải thích của ai?”

 

‘In the villagers’ favour.’

‘But why?’

 

  1. 74

 

‘Because, Sir, in spite of whatever the man might say, the one fire was produced from the other.’

“Thưa ngài, của dân làng.”

“Vì lý do gì?”

“Thưa ngài, cho dầu người ấy có thể nói như thế, tuy nhiên ngọn lửa ấy đã phát khởi chính từ đó.”

 

‘Just so, great king, it is one name-and-form which has its end in death, and another name-and-form, which is reborn. But the second is the result of the first, and is therefore not set free from its evil deeds.’

‘Give me a further illustration.’

“Tâu đại vương, tương tợ y như thế cho dầu danh sắc cận tử là khác, danh sắc trong sự đi tái sanh là khác, tuy nhiên danh sắc ấy đã phát khởi chính từ đó. Vì thế không được thoát khỏi các nghiệp ác.”

“Xin ngài cho thêm ví dụ.”

 

‘Suppose, O king, a man were to choose a young girl in marriage, and give a price 1 for her and go away. [48] And she in due course should grow up to full age, and then another man were to pay a price for her and marry her. And when the first one had come back he should say: “Why, you fellow, have you carried off my wife?” And the other were to reply: “It’s not your wife I have carried off! The little girl, the mere child, whom you chose in marriage and paid a price for is one; the girl grown up to full age whom I chose in marriage and paid a price for, is another.” Now if they, thus disputing, were to go to law about it before you, O king, in whose favour would you decide the case?’

“Tâu đại vương, giống như người nào đó hỏi cưới cô con gái còn nhỏ, sau khi dâng vật đính hôn rồi ra đi. Cô gái ấy sau này trưởng thành đến tuổi thành hôn. Sau đó có người đàn ông khác dâng vật đính hôn rồi cử hành đám cưới. Người kia trở lại và nói như vầy: ‘Này ông, vì sao ông dẫn đi người vợ của tôi?’ Người ấy nói như vầy: ‘Này ông, tôi không dẫn đi người vợ của ông. Cô con gái còn nhỏ trẻ tuổi đã được ông hỏi cưới và dâng vật đính hôn là cô khác, cô con gái trưởng thành đến tuổi thành hôn được tôi hỏi cưới và dâng vật đính hôn là cô khác.’ Trong khi tranh cãi, họ đã đi đến gặp bệ hạ. Tâu đại vương, đại vương có thể chấp nhận lời giải thích của ai?” 

 

‘In favour of the first.’

‘But why?’

‘Because, in spite of whatever the second might say, the grown-up girl would have been derived from the other girl.’

“Thưa ngài, của người trước.”

“Vì lý do gì?”

“Thưa ngài, cho dầu người ấy có thể nói như thế, tuy nhiên cô gái ấy trưởng thành phát khởi chính từ đó.”

 

‘Just so, great king, it is one name-and-form which has its end in death, and another name-and-form

 

  1. 75

 

which is reborn. But the second is the result of the first, and is therefore not set free from its evil deeds.’

‘Give me a further illustration.’

“Tâu đại vương, tương tợ y như thế cho dầu danh sắc cận tử là khác, danh sắc trong sự đi tái sanh là khác, tuy nhiên danh sắc ấy đã phát khởi chính từ đó. Vì thế không được thoát khỏi các nghiệp ác.”

“Xin ngài cho thêm ví dụ.”

 

‘Suppose a man, O king, were to buy of a herdsman a vessel of milk, and go away leaving it in his charge, saying: “I will come for it to-morrow;” and the next day it were to become curds. And when the man should come and ask for it, then suppose the other were to offer him the curds, and he should say: “It was not curds I bought of you; give me my vessel of milk.” And the other were to reply: “Without any fault of mine 1 your milk has turned to curds.” Now if they, thus disputing, were to go to law about it before you, O king, in whose favour would you decide the case?’

“Tâu đại vương, giống như người nào đó mua lọ sữa tươi từ tay của người chăn bò, sau khi để lại ở tay của chính người ấy rồi ra đi (nói rằng): ‘Ngày mai, tôi sẽ nhận lấy rồi khởi hành.’ Ngày hôm sau, sữa tươi ấy có thể trở thành sữa chua. Người kia đi đến và nói như vầy: ‘Hãy trao cho tôi lọ sữa tươi.’ Người chăn bò trao sữa chua. Người kia nói như vầy; ‘Tôi không mua sữa chua từ tay của ông. Hãy trao cho tôi lọ sữa tươi.’ Người ấy nói như vầy: ‘Bộ ông không biết sữa tươi của ông đã trở thành sữa chua?’ Trong khi tranh cãi, họ đã đi đến gặp bệ hạ. Tâu đại vương, đại vương có thể chấp nhận lời giải thích của ai?”

 

‘In favour of the herdsman.’

‘But why?’

‘Because, in spite of whatever the other might say, the curds were derived from the milk.’

“Thưa ngài, của người chăn bò.”

“Vì lý do gì?”

“Thưa ngài, cho dầu người ấy có thể nói như thế, tuy nhiên sữa chua ấy phát khởi chính từ đó.”

 

‘Just so, great king, it is one name-and-form that finds its end in death, and another that is reborn. But that other is the result of the first, and is therefore not thereby released from its evil deeds (its bad Karma).’

‘Very good, Nâgasena!’

“Tâu đại vương, tương tợ y như thế cho dầu danh sắc cận tử là khác, danh sắc trong sự đi tái sanh là khác, tuy nhiên danh sắc ấy đã phát khởi chính từ đó. Vì thế không được hoàn toàn thoát khỏi các nghiệp ác.”

“Thưa ngài Nāgasena, ngài thật khôn khéo.”

 

  1. Q & A.

The king said:

‘Will you, Nâgasena, be reborn?’

Đức vua đã nói rằng:

“Thưa ngài Nāgasena, có phải ngài sẽ không đi tái sanh?”

 

  1. 76

 

Nay, great king, what is the use of asking that question again? Have I not already told you that if, when I die, [49] I die with craving in my heart, I shall; but if not, not 1?’

‘Give me an illustration.’

“Tâu đại vương, thôi đi. Điều gì với việc hỏi điều ấy? Không phải tôi đã nói trước đây là: ‘Tâu đại vương, nếu tôi còn chấp thủ tôi sẽ tái sanh. Nếu tôi không còn chấp thủ thì tôi sẽ không đi tái sanh’?”

“Xin ngài cho ví dụ.”

 

‘Suppose, O king, a man were to render service to the king 2: and the king, pleased with him, were to bestow an office upon him. And then that he, while living through that appointment, in the full possession and enjoyment of all the pleasures of sense, should publicly declare that the king had repaid him naught. Now would that man, O king, be acting rightly?’

‘Most certainly not.’

“Tâu đại vương, giống như người nào đó làm việc phục vụ cao quý đến đức vua, đức vua hoan hỷ ban cho phần thưởng. Với phần thưởng ấy, người ấy đạt được, có được, hưởng được năm phần dục lạc. Nếu người ấy tuyên bố với mọi người rằng: ‘Đức vua không đền đáp cho tôi.’ Tâu đại vương, phải chăng người ấy có sự hành xử đúng đắn?”

“Thưa ngài, không phải.”

 

‘Just so, great king, what is the use of asking that question again? Have I not already told you that if, when I die, I die with craving in my heart, I shall; and if not, not?’

‘You are ready, Nâgasena, in reply.’

“Tâu đại vương, tương tợ y như thế điều gì cho đại vương với việc hỏi điều này? Không phải tôi đã nói trước đây là: ‘Tâu đại vương, nếu tôi còn chấp thủ tôi sẽ tái sanh. Nếu tôi không còn chấp thủ thì tôi sẽ không đi tái sanh’?”

“Thưa ngài Nāgasena, ngài thật khôn khéo.”

 

  1. Q & A.

The king said:

‘You were talking just now of name-and-form. What does “name” mean in that expression, and what “form”?’

Đức vua đã nói rằng:

“Thưa ngài Nāgasena, điều mà ngài đã nói là ‘danh sắc,’ ở nơi ấy cái gì là danh, cái gì là sắc?”

 

‘Whatever is gross therein, that is “form”: whatever is subtle, mental, that is “name.”‘

“Tâu đại vương, ở nơi ấy cái nào thô thiển cái ấy là sắc. Ở nơi ấy những pháp nào vi tế, là tâm và sở hữu tâm, cái ấy là danh.”

‘Why is it, Nâgasena, that name is not reborn separately, or form separately?’

“Thưa ngài Nāgasena, vì lý do gì không chỉ riêng danh đi tái sanh, hoặc không chỉ riêng sắc (đi tái sanh)?”

 

‘These conditions, great king, are connected one with the other; and spring into being together.’

‘Give me an illustration.’

“Tâu đại vương, các pháp này nương tựa lẫn nhau, sanh lên chung với nhau.”

“Xin ngài cho ví dụ.”

 

‘As a hen, great king, would not get a yoke or

 

  1. 77

 

an egg-shell separately, but both would arise in one, they two being intimately dependent one on the other; just so, if there were no name there would be no form. What is meant by name in that expression being intimately dependent on what is meant by form, they spring up together. And this is, through time immemorial, their nature 1.’

‘You are ready, Nâgasena, in reply.’

“Tâu đại vương, giống như không có mầm trứng ở con gà mái thì cũng không có quả trứng. Và trong trường hợp ấy, cái nào là mầm trứng, và cái nào là quả trứng, cả hai vật này nương tựa lẫn nhau, chúng có sự sanh lên chung với nhau. Tâu đại vương, tương tợ y như thế ở nơi ấy nếu không có danh thì cũng không có sắc. Ở nơi ấy cái nào là danh, cái nào là sắc, cả hai cái này cũng nương tựa lẫn nhau, chúng có sự sanh lên chung với nhau. Như vậy hành trình [2] diệu vợi này được tạo nên.”

“Thưa ngài Nāgasena, ngài thật khôn khéo.”

 

  1. Q & A.

The king said:

‘You speak, Nâgasena, of time immemorial. What does this word “time” mean?’

Đức vua đã nói rằng:

“Thưa ngài Nāgasena, điều mà ngài đã nói là ‘hành trình diệu vợi,’ hành trình này gọi là gì?”

 

‘Past time, O king, and present, and future.’

“Tâu đại vương, quá khứ là hành trình, vị lai là hành trình, hiện tại là hành trình.”

 

‘But what? Is there such a thing as time?’

‘There is time which exists, and time which does not.’

‘Which then exists, and which not?’

“Thưa ngài, phải chăng hành trình là hiện hữu?”

“Tâu đại vương, cũng có loại hành trình là hiện hữu, cũng có loại hành trình là không hiện hữu.”

“Thưa ngài, loại nào là hiện hữu, loại nào là không hiện hữu?”

 

[50] ‘There are Confections (constituent potentialities of being) 2, O king, which are past in the sense of having passed away, and ceased to be, or of having been dissolved, or altogether changed. To them time is not. But there are conditions of heart which are now producing their effect, or still have in them the inherent possibility of producing

 

  1. 78

 

effect, or which will otherwise lead to reindividualisation. To them time is. Where there are beings who, when dead, will be reborn, there time is. Where there are beings who, when dead, will not be reborn, there time is not; and where there are beings who are altogether set free (who, having attained Nirvâna in their present life, have come to the end of that life), there time is not–because of their having been quite set free 1.’

‘You are ready, Nâgasena, in reply.’

  “Tâu đại vương, các hành quá khứ, đã qua khỏi, bị hoại diệt, bị biến đổi, loại hành trình ấy không hiện hữu. Các pháp tạo quả và các pháp có nhân tạo quả, chúng ban cho sự đi tái sanh ở nơi khác, loại hành trình ấy là hiện hữu. Các chúng sanh chết đi rồi sanh lên ở nơi khác, loại hành trình ấy là hiện hữu. Các chúng sanh chết đi rồi không sanh lên ở nơi khác, loại hành trình ấy là không hiện hữu. Và các chúng sanh nào viên tịch Niết Bàn, loại hành trình ấy là không hiện hữu, là sự viên tịch Niết Bàn.”

“Thưa ngài Nāgasena, ngài thật khôn khéo.”

 

Here ends the Second Chapter.

Phẩm Hành Trình là thứ nhì.

(Trong phẩm này có chín câu hỏi)

 

 

Footnotes

 

63:1 On these four stages see Gâtaka IV, 496, and Samyutta X, 1, 3.

 

63:2 Hardy makes sad nonsense of all this.

 

64:1 Hardy (p. 429) renders this as follows: ‘In the same way, great king, one being is conceived, another is born, another dies; when comprehended by the mind, it is like a thing that has no before, and no after; no preceding, no succeeding existence. Thus the being who is born does not continue the same, nor does he become another; the last winyâna, or consciousness, is thus united with the rest.’ (!) He confesses himself in doubt as to the last few words, but is quite unconscious of having completely misinterpreted the whole paragraph.

 

The meaning is really quite plain in both the Pâli and the Simhalese. A man, at any one moment, is precisely all that he is then conscious of. The phase of his self-consciousness, the totality of that of which he is conscious, is always changing; and is so different at death from what it was at birth that, in a certain sense, he is not the same at the one time as he was at the other. But there is a continuity in the whole series;–a continuity dependent p. 65 on the whole body. And this fits the simile, in which the lamp is the body, and the flame the changing self-consciousness; whereas it is impossible to make the simile fit the conclusion as rendered by Hardy.

 

On the phrase apubbam akariyam see Dr. Morris’s note at p. 101 of the Pâli Text Society’s journal, 1887, and the passages he there quotes.

 

65:1 Omitted in Hardy. The correlative question is discussed below, III, 5, 8, p. 112.

 

65:2 That is to say, Tanhâ and Upâdâna.

 

66:1 Summarised in Hardy’s ‘Manual,’ p. 414.

 

66:2 Ñâna and paññâ.

 

67:1 That is, he might still be wrong on matters of mere worldly knowledge, but would be clear in his mind as to the fundamental truths of religion. Compare the analogous distinctions often drawn as to the inspiration of Scripture, or the infallibility of the Pope.

 

68:1 Yogâvakaro; one of the technical terms in constant use by our author, but not found in the Pâli Pitakas. Hardy renders it, ‘who is seeking Nirvâna;’ but though this may be suggested by the term, it is not its meaning. Literally it is ‘he whose sphere, whose constant resort, is Yoga.’ Now yoga is ‘diligence, devotion, mental concentration;’ and there is nothing to show that our author is using the word as an epithet of Arahatship. It seems to me, therefore, that the whole compound merely means one of those ‘religious,’ in the technical sense, who were also religious in the higher, more usual sense. It would thus be analogous to the phrase samgâmâvakaro, ‘at home in war,’ used of a war elephant in the Samgâmâvakara Gâtaka (Fausböll, II, 95), and of a soldier below, Mil. 44.

 

68:2 This must, I think, be understood in a modified sense, for the first of the four Great Exertions (Sammappadhânas) is the effort to prevent sinful conditions arising.

 

69:1 Pañka mûla bhessaggâni: not the five principal sorts of medicine mentioned by Childers.

 

70:1 These verses are nearly the same as those put in reverse order into Sâriputta’s mouth in the Theri Gâthâ, 1003, 1002. And the first two lines, as Dr. Rost was good enough to point out to me, are identical (except as to a slight grammatical variation) with Manu V1, 45.

 

70:2 And the same, therefore, of pleasant sensations that are evil.

 

71:1 This dialogue is in Hardy, p. 429 (No. 7).

 

72:1 Repeated below, III, 5, 7, p. 112.

 

74:1 Sunkam datvâ. Literally ‘paying a tax.’ So early were early marriages! Compare Theri Gâthâ, 402. Hînati-kumburê, p. 58, has wœtup dî, ‘having provided her with means of subsistence.’ But, of course, the Sunka must have been a price paid to the parents.

 

75:1 Agânato: there is an ambiguity here, as the word may mean ‘to me not knowing it,’ or ‘to you not knowing it.’ Hînati-kumburê takes the latter interpretation, and renders: ‘O come! Do you not know that your milk has become curds?’ (Embala, tâge kiri mawû bawa no dannehi dœyi.)

 

75:2 Not in Hardy.

 

76:1 See above, Chapter i, § 6, p. 50.

 

76:2 This simile, with a different conclusion, recurs below, II, 3, 10 (p. 93).

 

77:1 Evam etam dîgham addhânam sambhâvitam: which Hardy, p. 141, renders: ‘They accompany each other (as to the species, but not as to the individual) during infinitude.’ But even the Simhalese text cannot be made to mean this.

 

77:2 Samkhârâ. See the full list in my ‘Buddhism,’ pp. 91, 92 (a list, indeed, not found as yet in the Pitakas, and probably later, but yet founded on the older divisions, and explanatory of them). They are all those divisions into which existence (or the process of becoming and ceasing to be as Buddhism looks at it) should be divided, and are practically so many sorts of action (Karma). For the older divisions see the note at the passages quoted in ‘Vinaya Texts,’ I, 76.

 

78:1 Parinibbutattâ. Hardy renders this whole clause (the last lines): ‘Nirvâna is attained, time is no longer.’ But this is one of the endless confusions arising out of not knowing the distinction between Nirvâna and Parinirvâna. To a man who had ‘attained Nirvâna’ there would still be time as long as he was in the enjoyment of it that is as long as he continued in his present (and last) existence. The Simhalese is perfectly clear.

 

Sources:

Tài liệu tham khảo:

  1. http://budsas.net/uni/u-kinh-mitien/mitien-00.htm
  2. http://www.tamtangpaliviet.net/VHoc/45/Mil_02.htm
  3. http://www.sacred-texts.com/bud/sbe35/sbe3505.htm
  4. http://globalbuddhismcommunity.com/vi-vn/Dictionary/AVThienPhuc/dtsr.aspx