Chương 16 – Phẩm Như Lai Thọ-lượng – The Life Span of the Tathagata – Song ngữ
English: Burton Watson
Việt ngữ: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Compile: Lotus group
At that time the Buddha spoke to the Bodhisattvas and all the great assembly: “Good men, you must believe and understand the truthful words of the Thus Come One.” And again, he said to the great assembly: You must believe and understand the truthful words of the Thus Come One.”
- Lúc bấy giờ, Phật bảo các Bồ-tát và tất cả đại-chúng: “Các thiện-nam-tử! Các ông phải tin hiểu lời nói chắc thực của Như-Lai.Lại bảo đại-chúng: “Các ông phải tin hiểu lời nói chắc thực của Như-Lai”.
And once more he said to the great assembly: “You must believe and understand the truthful words of the Thus Come One.”
Lại bảo các đại-chúng: “Các ông phải tin hiểu lời nói chắc thực của Như-Lai”.
At that time the bodhisattvas and the great assembly, with Maitreya as their leader, pressed their palms together and addressed the Buddha, saying: “World-Honored One, we beg you to explain. We will believe and accept the Buddha’s words.” They spoke in this manner three times, and then said once more: “We beg you to explain it. We will believe and accept the Buddha’s words.”
Lúc đó đại-chúng Bồ-tát, ngài Di-Lặc làm đầu, chắp tay bạch Phật rằng: “Thế-Tôn! Cúi mong nói đó, chúng con sẽ tin nhận lời Phật”. Ba phen bạch như thế rồi lại nói: “Cúi mong nói đó, chúng con sẽ tin nhận lời Phật”.
At that time the World-Honored One, seeing that the bodhisattvas repeated their request three times and more, spoke to them, saying: “You must listen carefully and hear of the Thus Come One’s secret and his transcendental powers. In all the worlds the heavenly and human beings and asuras all believe that the present Shakyamuni Buddha, after leaving the palace of the Shakyas, seated himself in the place of practice not far from the city of Gaya and there attained annuttara-samyak-sambodhi.
- – Bãy giờ, đức Thế-Tôn biết các vị Bồ-tát ba phen thỉnh chẳng thôi, mà bảo đó rằng:”Các ông lóng nghe! Sức bí-mật thần-thông của Như-Lai, tất cả trong đời, trời, người và A-tu-la đều cho rằng nay đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật ra khỏi cung họ Thích, cách thành Già-da chẳng bao xa, ngồi nơi đạo-tràng được vô-thượng chính-đảng chính-giác.”
But good men, it has been immeasurable, boundless hundreds, thousands, ten thousands, millions of nayutas of kalpas since I in fact attained Buddhahood. Suppose a person were to take five hundred, a thousand, ten thousand, a million nayuta asamkhya thousand-million-fold worlds and grind them to dust. Then, moving eastward, each time he passes five hundred, a thousand, ten thousand, a million nayuta asamkhya worlds he drops a particle of dust. He continues eastward in this way until he has finished dropping all the particles.
Nhưng, thiện-nam-tử! Thực ta thành Phật nhẫn lại đây, đã vô-lượng vô-biên trăm nghin muôn ức na-do-tha kiếp. Ví như năm trăm nghìn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ cõi tam-thiên, đại-thiên, giả-sử có người nghiền làm vi-trần qua phương đông, cách năm trăm nghìn muôn ức na-do-tha a-tăng kỳ cõi nước, bèn rơi một bụi trần, đi qua phía đông như thế cho đến hết vi-trần đó.
Good men, what is your opinion? Can the total number of all these worlds be imagined or calculated?”
Các thiện-nam-tử! Ý ông nghĩ sao? Các thế-giới đó có thể suy gẫm so tính biết được số đó chăng?”
The bodhisattva Maitreya and the others said to the Buddha: “World-Honored One, these worlds are immeasurable, boundless–one cannot calculate their number, nor does the mind have the power to encompass them. Even all the voice-hearers and pratyekabuddhas with their wisdom free of outflows could not imagine or understand how many there are. Although we abide in the stage of avivartika, we cannot comprehend such a matter.
Di-Lặc Bồ-tát, thảy đều bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Các thế-giới đó vô-lượng vô-biên, chẳng phải tính được, đếm được, cũng chẳng phải tâm-lực biết đến được. Tất cả Thanh-văn, Duyên-giác dùng trí vô-lậu, chẳng có thể suy-nghĩ biết được hạn số đó, chúng con trụ bậc bất-thối, ở trong việc này cũng chẳng thông đạt.
World-Honored One, these worlds are immeasurable and boundless.”
Thế Tôn! Các thế-giới như thế, nhiều vô-lượng vô-biên”.
At that time the Buddha said to the multitude of great bodhisattvas: “Good men, now I will state this to you clearly. Suppose all these worlds, whether they received a particle of dust or not, are once more reduced to dust. Let one particle represent one kalpa. The time that has passed since I attained Buddhahood surpasses this by a hundred, a thousand, ten thousand, a million nayuta asamkhya kalpas. Ever since then I have been constantly in this saha world, preaching the Law, teaching and converting, and elsewhere I have led and benefited living beings in hundreds, thousands, ten thousands, millions of nayutas and asamkhyas of lands.
- – Bãy giờ, Phật bảo các chúng Bồ-tát: “Các Thiện-nam-tử! Nay ta sẽ tuyên nói rành-rõ cho các ông. Các thế-giới đó, hoặc dính vi-trần hoặc chẳng dính, đều nghiền cả làm vi-trần, cứ một trần là một kiếp, từ ta thành Phật nhẫn lại đến nay, lại lâu hơn số đó trăm nghìn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ kiếp. Từ đó nhẫn lại, ta thường ở cõi Ta-bà này nói pháp giáo-hóa, cũng ở trong trăm nghìn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ cõi nước khác dắt dẫn lợi-ích chúng-sinh.
“Good men, during that time I have spoken about the Buddha Burning Torch and others, and described how they entered nirvana. All this I employed as an expedient means to make distinctions.
Các Thiện-nam-tử! Nếu có chúng-sinh nào đến chỗ ta, ta dùng Phật nhãn quan-sát: tín, v.v. . . các căn lợi độn của chúng, tùy theo chỗ đáng độ, nơi nơi tự nói văn-tự chẳng đồn, niên kỷ hoặc lớn, hoặc nhỏ, cũng hại hiện nói sẽ nhập Niết-bàn, lại dùng các trí phương-tiện nói pháp vi-diệu.
“Good men, if there are living beings who come to me, I employ my Buddha eye to observe their faith and to see if their other faculties are keen or dull, and then depending upon how receptive they are to salvation, I appear in different places and preach to them under different names, and describe the length of time during which my teachings will be effective. Sometimes when I make my appearance I say that I am about to enter nirvana, and also employ different expedient means to preach the subtle and wonderful Law, thus causing living beings to awaken joyful minds.
Các Thiện-nam-tử! Nếu có chúng-sinh nào đến chỗ ta, ta dùng Phật nhãn quan-sát: tín, v.v. . . các căn lợi độn của chúng, tùy theo chỗ đáng độ, nơi nơi tự nói văn-tự chẳng đồn, niên kỷ hoặc lớn, hoặc nhỏ, cũng hại hiện nói sẽ nhập Niết-bàn, lại dùng các trí phương-tiện nói pháp vi-diệu, có thể làm cho chúng-sinh phát lòng vui mừng.
“Good men, the Thus Come One observes how among living beings there are those who delight in a little Law, meager in virtue and heavy with defilement. For such persons I describe how in my youth I left my household and attained anuttara-samyak-sambodhi. But in truth the time since I attained Buddhahood is extremely long, as I have told you. It is simply that I use this expedient means to teach and convert living beings and cause them to enter the Buddha way. That is why I speak in this manner.
Các thiện-nam-tử! Như-Lai thấy những chúng-sinh ưa nơi pháp tiểu-thừa, đức mỏng tội nặng. Phật vì người đó nói: Ta lúc trẻ xuất-gia được vô-thượng chính-đẳng chính-giác, nhưng thực, từ ta thành Phật nhẫn lại, lâu xa dường ấy, chỉ dùng phương-tiện giáo-hóa chúng-sinh, khiến vào Phật-đạo, nên nói như thế.
“Good men, the scriptures expounded by the Thus Come One are all for the purpose of saving and emancipating living beings. Sometimes I speak of myself, sometimes of others: sometimes I present myself, sometimes others; sometimes I show my own actions, sometimes those of others. All that I preach is true and not false.
- – Các thiện-nam-tử! Kinh-điển của đức Như-Lai nói ra, đều vì độ thoát chúng-sinh, hoặc nói thân mình, hoặc nói thân người, hoặc chỉ thân mình, hoặc chỉ thân người, hoặc chỉ việc mình, hoặc chỉ việc người, các lời nói đều thực chẳng dối.
Why do I do this? The Thus Come One perceives the true aspect of the threefold world exactly as it is. There is no ebb or flow of birth and death, and there is no existing in this world and later entering extinction. It is neither substantial nor empty, neither consistent nor diverse. Nor is it what those who dwell in the threefold world perceive it to be. All such things the Thus Come One sees clearly and without error.
Vì sao? Vì đức Như-Lai đúng như thực thấy biết tướng của tam-giới, không có sinh-tử,, hoặc thối, hoặc xuất, cũng không ở đời và diệt-độ, chẳng phải thực, chẳng phải hư, chẳng phải như, chẳng phải dị, chẳng phải như ba cõi mà thấy nơi ba cõi. Các việc như thế Như-Lai thấy rõ, không có sai lầm.
“Because living beings have different natures, different desires, different actions, and different ways of thinking and making distinctions, and because I want to enable them to put down good roots, I employ a variety of causes and conditions, similes, parables, and phrases and preach different doctrines. This, the Buddha’s work, I have never for a moment neglected. Thus, since I attained Buddhahood, an extremely long period of time has passed. My life span is an immeasurable number of asamkhya kalpas, and during that time I have constantly abided here without ever entering extinction.
Bởi các chúng-sinh có các món tính, các món dục, các món hạnh, các món nhớ tưởng phân-biệt, muốn làm cho sinh các căn lành, nên dùng bao nhiêu nhân-duyên, thí-dụ ngôn-từ, các cách nói pháp, chỗ làm Phật-sự, chưa từng tạm bỏ. Như thế, từ ta thành Phật nhẫn lại, thực là lâu xa, thọ mệnh vô-lượng a-tăng-kỳ kiếp, thường còn chẳng mất.
Good men, originally I practiced the bodhisattva way, and the life span that I acquired then has yet to come to an end but will last twice the number of years that have already passed. Now, however, although in fact I do not actually enter extinction, I announce that I am going to adopt the course of extinction. This is an expedient means which the Thus Come One uses to teach and convert living beings.
Các thiện-nam-tử! Ta xưa tu-hành đạo Bồ-tát, cảm thành thọ-mệnh, nay vẫn chưa hết, lại còn hơn số trên, nhưng nay chẳng phải thực diệt-độ, mà bèn xướng nói sẽ diệt-độ. Đức Như-Lai dùng phương-tiện đó, giáo-hóa chúng-sinh.
“Why do I do this? Because if the Buddha remains in the world for a long time, those persons with shallow virtue will fail to plant good roots but, living in poverty and lowliness, will become attached to the five desires and be caught in the net of deluded thoughts and imaginings. If they see that the Thus Come One is constantly in the world and never enters extinction, they will grow arrogant and selfish, or become discouraged and neglectful. They will fail to realize how difficult it is to encounter the Buddha and will not approach him with a respectful and reverent mind.
“Therefore as an expedient means the Thus Come One says: ‘Monks, you should know that it is a rare thing to live at a time when one of the Buddhas appears in the world.’
Vì sao? – Vì nếu Phật ở lâu nơi đời, thời người đức mỏng, chẳng trồng gốc lành, nghèo cùng hèn-hạ, ham ưa năm món dục, sa vào trong lướI nhớ tưởng vọng-kiến. Nếu thấy đức Như-Lai thường còn chẳng mất, bèn sinh lòng buông-lung nhàm trễ, chẳng có thể sinh ra ý tưởng khó gặp-gỡ cùng lòng cung-kính, cho nên đức Như-Lai dùng phương-tiện nói rằng: “Tỷ-khiêu phải biết, các đức Phật ra đời, khó có thể gặp gỡ”.
Why does he do this? Because persons of shallow virtue may pass immeasurable hundreds, thousands, ten thousands, millions of kalpas with some of them chancing to see a Buddha and others never seeing one at all. For this reason I say to them: ‘Monks, the Thus Come One is hard to get to see.’
Vì sao? – Những người đức mỏng, trải qua trăm nghìn muôn ức kiếp, hoặc có người thấy Phật hoặc người chẳng thấy, do việc này, nên ta nói rằng: “Tỷ-khiêu! Đức Như-Lai khó có thể được thấy”.
When living beings hear these words, they are certain to realize how difficult it is to encounter the Buddha. In their minds they will harbor a longing and will thirst to gaze upon the Buddha, and then they will work to plant good roots. Therefore the Thus Come One, though in truth he does not enter extinction, speaks of passing into extinction.
Các chúng-sinh đó nghe lời như thế, ắt sẽ sinh ý-tưởng khó gặp-gỡ, ôm lòng luyến-mộ khát-ngưỡng nơi Phật, bèn trồng gốc lành, cho nên đức Như-Lai dầu chẳng diệt mà nói diệt-độ.
Good men, the Buddhas and Thus Come Ones all preach a Law such as this. They act in order to save all living beings, so what they do is true and not false.
Lại thiện-nam-tử! Phương-pháp của các đức Phật Như-Lai đều như thế, vì độ chúng-sinh đều thực chẳng dối.
Suppose, for example, that there is a skilled physician who is wise and understanding and knows how to compound medicines to effectively cure all kinds of diseases. He has many sons, perhaps ten, twenty, or even a hundred. He goes off to some other land far away to see about a certain affair. After he has gone, the children drink some kind of poison that make them distraught with pain and they fall writhing to the ground.
- – Ví như vị lương-y, trí-tuệ sáng-suốt, khéo luyện phương thuốc trị các bệnh. Người đó nhiều con cái, hoặc mười, hai mươi nhẫn đến số trăm, do có sự duyên đến nước xa khác. Sau lúc đó các người con uống thuốc độc khác, thuốc phát muộn-loạn lăn-lộn trên đất.
“At that time the father returns to his home and finds that his children have drunk poison. Some are completely out of their minds, while others are not. Seeing their father from far off, all are overjoyed and kneel down and entreat him, saying: ‘How fine that you have returned safely. We were stupid and by mistake drank some poison. We beg you to cure us and let us live out our lives!’
Bãy giờ, người cha từ nước xa trở về nhà. Các con uống thuốc độc, hoặc làm mất bản tâm, hoặc chẳng mất, xa thấy cha về đều rất vui mừng, quỳ lạy hỏi thăm: “An-lành về an-ổn. Chúng con ngu-si, lầm uống thuốc độc, xin cứu lành cho, lại ban thọ-mệnh cho chúng con.”
“The father, seeing his children suffering like this, follows various prescriptions. Gathering fine medicinal herbs that meet all the requirements of color, fragrance and flavor, he grinds, sifts and mixes them together. Giving a dose of these to his children, he tells them: ‘This is a highly effective medicine, meeting all the requirements of color, fragrance and flavor. Take it and you will quickly be relieved of your sufferings and will be free of all illness.’
Cha thấy các con khổ não như thế, y theo các kinh phương, (12) tìm cỏ thuốc tốt, mùi sắc vị ngon, thảy đều đầy-đủ. Đâm nghiền hòa-hợp, đưa bảo các con uống mà nói rằng: “Thuốc đại lương-dược này mùi sắc vị ngon, thảy đều đầy đủ, các con nên uống, mau trừ khổ-não, không còn lại có các bệnh-hoạn”.
Those children who have not lost their senses can see that this is good medicine, outstanding in both color and fragrance, so they take it immediately and are completely cured of their sickness. Those who are out of their minds are equally delighted to see their father return and beg him to cure their sickness, but when they are given the medicine, they refuse to take it.
Trong các con, những người chẳng thất tâm, thấy thuốc lương dược ấy, sắc hương đều tốt, liền bèn uống đó, bệnh trừ hết, được lành mạnh. Ngoài ra, những người thất tâm, thấy cha về dầu cũng vui mừng hỏi thăm, cầu xin trị bệnh, song trao thuốc cho mà không chịu uống.
Why? Because the poison has penetrated deeply and their minds no longer function as before. So although the medicine is of excellent color and fragrance, they do not perceive it as good. The father thinks to himself: My poor children! Because of the poison in them, their minds are completely befuddled. Although they are happy to see me and ask me to cure them, they refuse to take this excellent medicine. I must now resort to some expedient means to induce them to take the medicine.
Vì sao? Vì hơi độc đã thâm-nhập làm mất bản tâm, nơi thuốc tốt thơm đẹp này mà cho là không ngon. Người cha nghĩ rằng: “Người con này đáng thương, bị trúng độc, tâm đều điên-đảo, dầu thấy ta về, mừng cầu xin cứu lành, nhưng thuốc tốt như thế, mà chẳng chịu uống, nay ta bày chước phương-tiện, khiến chúng uống thuốc này”.
So he says to them: ‘You should know that I am now old and worn out, and the time of my death has come. I will leave this good medicine here. You should take it and not worry that it will not cure you.’ Having given these instructions, he then goes off to another land where he sends a messenger home to announce, ‘Your father is dead.’
Nghĩ thế rồi liền bảo rằng: “Các con phải biết, ta nay già suy, giờ chết đã đến, thuốc “lương-dược” tốt này nay để ở đây, các con nên lấy uống, chớ lo không lành”. Bảo thế, rồi lạì đến nước khác, sai sứ về nói: “Cha các ngươi đã chết”.
“At that time the children, hearing that their father has deserted them and died, are filled with great grief and consternation and think to themselves: If our father were alive he would have pity on us and see that we are protected. But now he has abandoned us and died in some other country far away. We are shelter-less orphans with no one to rely on! Constantly harboring such feelings of grief, they at last come to their senses and realize that the medicine is in fact excellent in color and fragrance and flavor, and so they take it and are healed of all the effects of the poison. The father, hearing that his children are all cured, immediately returns home and appears to them all once more.
Bãy giờ, các con nghe cha chết, lòng rất sầu khổ mà nghĩ rằng: “Nếu cha ta còn, thương xót chúng ta,có thể được cứu hộ, hôm nay bỏ ta xa chết ở nước khác”. Tự nghĩ mình nay côi cút, không có chổ cậy nhờ, lòng thường bi-cảm, tâm bèn tỉnh ngộ biết thuốc này, sắc hương vị ngon, liền lấy uống đó, bệnh độc đều lành. Người cha nghe các con đều đã lành mạnh, liền trở về cho các con đều thấy.
“Good men, what is your opinion? Can anyone say that this skilled physician is guilty of lying?”
“No, World-Honored One.”
Các Thiện-nam-tử! Ý ông nghĩ sao? Vả có người nào có thể nói ông lương y đó mắc tội hư-dối chăng?
– Thưa Thế-Tôn, không thể được!
The Buddha said: “It is the same with me. It has been immeasurable, boundless hundreds, thousands, ten thousands, millions of nayuta and asamkhya kalpas since I attained Buddhahood. But for the sake of living beings I employ the power of expedient means and say that I am about to pass into extinction. In view of the circumstances, however, no one can say that I have been guilty of lies or falsehoods.”
Phật nói: “Ta cũng như thế, từ khi thành Phật đến nay đã vô-lượng vô-biên trăm nghìn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ kiếp, vì chúng sinh dùng sức phương-tiện nói: “sẽ diệt độ”, cũng không ai có thể đúng như pháp mà nói ta có lỗi hư dối.
At that time the World-Honored One, wishing to state his meaning once more, spoke in verse form, saying:
Khi đó, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Since I attained Buddhahood
the number of kalpas that have passed
is an immeasurable hundreds, thousands, ten thousands,
millions, trillions, asamkhyas.
Constantly I have preached the Law, teaching, converting
countless millions of living beings,
causing them to enter the Buddha way,
all this for immeasurable kalpas.
In order to save living beings,
as an expedient means I appear to enter nirvana
but in truth I do not pass into extinction.
I am always here preaching the Law.
- Từ ta thành Phật lại
Trải qua các kiếp số
Vô-lượng trăm nghìn muôn
A-tăng-kỳ ức năm
Thường nói pháp giáo-hóa
Vô-số ức chúng-sinh
Khiến vào nơi Phật-đạo
Đến nay vô-lượng kiếp
Vì độ chúng-sinh vậy
Phương-tiện hiện Niết-bàn
Mà thực chẳng diệt-độ
Thường trụ đây nói pháp
I am always here,
but through my transcendental powers
I make it so that living beings in their befuddlement
do not see me even when close by.
When the multitude see that I have passed into extinction,
far and wide they offer alms to my relics.
All harbor thoughts of yearning
and in their minds thirst to gaze at me.
When living beings have become truly faithful,
honest and upright, gentle in intent,
single-mindedly desiring to see the Buddha
not hesitating even if it costs them their lives,
then I and the assembly of monks
appear together on Holy Eagle Peak.
Ta thường trụ ở đây
Dùng các sức thần-thông
Khiến chúng-sinh điên-đảo
Dầu gần mà chẳng thấy
Chúng thấy ta diệt-độ
Rộng cúng-dàng Xá-lợi
Thảy đều hoài luyến mộ
Mà sinh lòng khát-ngưỡng,
Chúng-sinh đã tín-phục
Ngay thực ý diệu-hòa
Một lòng muốn thấy Phật
Chẳng tự tiếc thân mệnh
Giờ ta cùng chúng tăng
Đều ra khỏi Linh-Thứu
At that time I tell the living beings
that I am always here, never entering extinction,
but that because of the power of an expedient means
at times I appear to be extinct, at other times not,
and that if there are living beings in other lands
who are reverent and sincere in their wish to believe,
then among them too
I will preach the unsurpassed Law.
But you have not heard of this,
so you suppose that I enter extinction.
When I look at living beings
I see them drowned in a sea of suffering;
therefore I do not show myself,
causing them to thirst for me.
Then when their minds are filled with yearning,
at last I appear and preach the Law for them.
Such are my transcendental powers.
Ta nói với chúng-sinh
Thường ở đây chẳng diệt
Vì dùng sức phương-tiện
Hiện có diệt chẳng diệt.
Nước khác có chúng-sinh
Lòng cung-kính tín-nhạo
Ta ở lại trong đó
Vì nói pháp vô-thượng
Ông chẳng nghe việc đó
Chỉ nói ta diệt-độ.
Ta thấy các chúng-sinh
Chìm ở trong khổ-não
Nên chẳng vì hiện thân
Cho kia sinh khát-ngưỡng
Nhân tâm kia luyến-mộ
Hiện ra vì nói pháp
Sức thần-thông như thế
For asamkhya kalpas
constantly I have dwelled on Holy Eagle Peak
and in various other places.
When living beings witness the end of a kalpa
and all is consumed in a great fire,
this, my land, remains safe and tranquil,
constantly filled with heavenly and human beings.
The halls and pavilions in its gardens and groves
are adorned with various kinds of gems.
Jeweled trees abound in flowers and fruit
where living beings enjoy themselves at ease.
The gods strike heavenly drums,
constantly making many kinds of music.
Mandarava blossoms rain down,
scattering over the Buddha and the great assembly.
My pure land is not destroyed,
yet the multitude see it as consumed in fire,
with anxiety, fear and other sufferings
filling it everywhere.
These living beings with their various offenses,
through causes arising from their evil actions,
spend asamkhya kalpas
without hearing the name of the Three Treasures.
Ở trong vô-số kiếp
Thường tại núi Linh-Thứu
Và các trụ xứ khác.
Chúng-sinh thấy tận kiếp
Lúc lửa lớn thiêu đốt
Cõi ta đây an-ổn
Trời người thường đông vầy
Vườn rừng các nhà gác
Những món báu trang-nghiêm
Cây báu nhiều hoa trái
Chỗ chúng-sinh vui chơi
Các trời đánh trống trời
Thường trổi những kỹ nhạc
Rưới hoa mạn-đà-la
Cúng Phật và đại-chúng.
Tịnh-độ ta chẳng hư
Mà chúng thấy cháy rã
Lo-sợ các khổ-não
Như thế đều đầy-dẫy
Các chúng-sinh tội đó
Vì nhân-duyên nghiệp dữ
Quá a-tăng-kỳ kiếp
Chẳng nghe tên Tam-bảo.
But those who practice meritorious ways,
who are gentle, peaceful, honest and upright,
all of them will see me
here in person, preaching the Law.
At times for this multitude
I describe the Buddha’s life span as immeasurable,
and to those who see the Buddha only after a long time
I explain how difficult it is to meet the Buddha.
Such is the power of my wisdom
that its sagacious beams shine without measure.
This life span of countless kalpas
I gained as the result of lengthy practice.
You who are possessed of wisdom,
entertain no doubts on this point!
Cast them off, end them forever,
for the Buddha’s words are true, not false.
Người nhu-hòa ngay thực
Có tu các công-đức
Thời đều thấy thân ta
Ở tại đây nói pháp.
Hoặc lúc vì chúng này
Nói Phật thọ vô-lượng,
Người lâu thấy Phật
Vì nói Phật khó gặp.
Trí-lực ta như thế
Tuệ-Quang soi vô-lượng
Thọ-mệnh vô-số kiếp
Tu hành lâu cảm được.
Các ông người có trí
Chớ ở đây sinh nghi
Nên dứt khiến hết hẳn
Lời Phật thật không dối.
He is like a skilled physician
who uses an expedient means to cure his deranged sons.
Though in fact alive, he gives out word he is dead,
yet no one can say he speaks falsely.
I am the father of this world,
saving those who suffer and are afflicted.
Because of the befuddlement of ordinary people,
though I live, I give out word I have entered extinction.
For if they see me constantly,
arrogance and selfishness arise in their minds.
Abandoning restraint, they give themselves up to the
five desires
and fall into the evil paths of existence.
Always I am aware of which living beings
practice the way, and which do not,
and in response to their needs for salvation
I preach various doctrines for them.
At all times I think to myself:
How can I cause living beings
to gain entry into the unsurpassed way
and quickly acquire the body of a Buddha?
Như lương-y chước khéo
Vì để trị cuồng-tử
Thực còn mà nói chết
Không thể nói hư-dối.
Ta là cha trong đời
Cứu các người đau-khổ
Vì phàm-phu điên-đảo
Thực còn mà nói diệt,
Vì cớ thường thấy ta
Mà sinh lòng kiêu-tứ
Buông-lung ham ngũ-dục
Sa vào trong đường dữ.
Ta thường biết chúng-sinh
Hành-đạo chẳng hành-đạo
Tùy chổ đáng độ được
Vì nói các pháp-môn
Hằng tự nghĩ thế này:
Lãy gì cho chúng-sinh
Được vào tuệ vô-thượng
Mau thành-tựu thân Phật.
Sources:
Tài liệu tham khảo:
- https://nichiren.info/buddhism/lotussutra/text/chap16.html
- http://thuvienhoasen.org/p16a591/16-pham-nhu-lai-tho-luong