Chương 11: Trường Bộ Kinh – Kinh Kevaddha (Kiên Cố) – Song ngữ
English: Maurice Walshe.
Vietnamese: Hòa thượng Thích Minh Châu – Phật Lịch 2535 – 1991.
Compile: Lotus group.
Chapter 11: Kevaddha Sutta: About Kevaddha – Page 304 – 313
Chương 11: Trường Bộ Kinh – Kinh Kevaddha (Kiên Cố)
What Brahma Didn’t Know
[211] 1. THUS HAVE I HEARD. Once the Lord was staying at Nālanda, in Pāvārika’s mango grove. And the householder Kevaddha 230 came to the Lord, prostrated himself before him, and sat down to one side. He then said: ‘Lord, this Nāḷandā is rich, prosperous, populous, and full of people who have faith in the Lord. It would be well if the Lord were to cause some monk to perform superhuman feats and miracles. In this way Nāḷandā would come to have even more faith in the Lord.’
The Lord replied: ‘Kevaddha, this is not the way I teach Dhamma to the monks, by saying: “Go, monks, and perform superhuman feats and miracles for the white-clothed lay-people! ’
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở tại Nalandà trong vườn Pavàrikampa. Lúc bấy giờ cư sĩ trẻ tuổi Kevaddha đến tại chỗ Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, cư sĩ trẻ tuổi Kevaddha bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, Nalandà này có uy tín và phồn thịnh, nhân dân đông đúc và tín kính Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, lành thay nếu Thế Tôn chỉ giáo cho một Tỷ-kheo thị hiện thượng nhân pháp, thần thông biến hóa. Nhờ vậy Nalandà này sẽ được nhiều người tín kính Thế Tôn hơn nữa.
Ðược nghe nói vậy, Thế Tôn nói với cư sĩ trẻ tuổi Kevaddha:
– Kevaddha, Ta không dạy cho các Tỷ-kheo pháp này: “Này các Tỷ-kheo các Ngươi hãy thị hiện thượng nhân pháp, thần thông biến hóa cho các cư sĩ áo trắng”.
- For a second time Kevaddha said: ‘Lord, I would not be importunate, but I still say: “This Nalanda is rich, prosperous … [212] and would come to have even more faith in the Lord.”’ And the Lord replied as before.
Lần thứ hai, cư sĩ trẻ tuổi Kevaddha bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, con không muốn phiền nhiễu Thế Tôn. Con chỉ nói: “Bạch Thế Tôn, Nalandà này có uy tín và phồn thịnh, nhân dân đông đúc và tín kính Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, lành thay nếu Thế Tôn chỉ giáo cho một Tỷ-kheo thị hiện thượng nhân pháp, thần thông biến hóa. Nhờ vậy Nalandà này sẽ được nhiều người tín kính Thế Tôn hơn nữa”.
Lần thứ hai, Thế Tôn nói với cư sĩ trẻ tuổi Kevaddha:
– Này Kevaddha, Ta không dạy cho các Tỷ-kheo pháp này: “Này các Tỷ-kheo, các Ngươi hãy hiện thượng nhân pháp, thần thông biến hóa cho các cư sĩ áo trắng”.
- When Kevaddha repeated his request for a third time, the Lord said: ‘Kevaddha, there are three kinds of miracle that I have declared, having realised them by my own insight. Which three? The miracle of psychic power,231 the miracle of telepathy,232 the miracle of instruction.233
Lần thứ ba, cư sĩ trẻ tuổi Kevaddha Bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, con không muốn phiền nhiễu Thế Tôn. Con chỉ nói: “Bạch Thế Tôn, Nalandà này có uy tín và phồn thịnh, nhân dân đông đúc và tín kính Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, lành thay nếu Thế Tôn chỉ giáo cho một Tỷ-kheo thị hiện thượng nhân pháp, thần thông biến hóa. Nhờ vậy Nalandà này sẽ được nhiều người tín kính Thế Tôn hơn nữa”.
– Này Kevaddha, có ba pháp thần thông này Ta đã tự mình giác ngộ và tuyên thuyết. Thế nào là ba? Tức là biến hóa thần thông, tha tâm thần thông, giáo hóa thần thông.
- ‘What is the miracle of psychic power? Here, Kevaddha, a monk displays various psychic powers in different ways. Being one he becomes many, being many he becomes one… (as Sutta 2, verse 87) [213] and he travels in the body as far as the Brahma world. Then someone who has faith and trust sees him doing these things
Này Kevaddha, thế nào là biến hóa thần thông? Này Kevaddha, ở đời có Tỷ-kheo chứng được các thần thông: một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân; hiện hình, biến hình đi ngang qua vách, qua tường, qua núi, như đi ngang qua hư không; độn thổ trồi lên, ngang qua đất liền như ở trong nước, đi trên nước không chìm như đi trên đất liền; ngồi kiết- già đi trên hư không như con chim; với hai bàn tay chạm và rờ mặt trời và mặt trăng; những vật có đại oai thần lực, đại oai thần như vậy, có thể tự thân bay đến cõi Phạm thiên. Có người tín thành thấy Tỷ-kheo ấy chứng hiện các thần thông: một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân: hiện hình, biến hình đi ngang qua vách, qua tường, qua núi như đi ngang qua hư không; độn thổ trồi lên, ngang qua đất liền như ở trong nước, đi trên nước không chìm như đi trên đất liền; ngồi kiết-già đi trên hư không như con chim, với bàn tay chạm và rờ mặt trời và mặt trăng; những vật có đại oai thần lực, đại oai thần như vậy, có thể tự thân bay đến cõi Phạm thiên.
- ‘He tells this to someone else who is sceptical and unbelieving, saying: “It is wonderful, sir, it is marvellous, the great power and skill of that ascetic …” And that man might say: “Sir, there is something called the Gandhāra charm.234 It is by means of this that that monk becomes many…” What do you think, Kevaddha, would not a sceptic say that to a believer?’‘He would, Lord.’ ‘And that is why, Kevaddha, seeing the danger of such miracles, I dislike, reject and despise them.
Người có lòng tín thành ấy nói với một người không có lòng tín thành: “Này Tôn giả, thật vi diệu thay! Này Tôn giả, thật hy hữu thay, đại thần thông, đại oai đức của vị Sa-môn! Chính tôi đã thấy vị Tỷ-kheo chứng các thần thông, “một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân,… có thể tự thân bay đến cõi Phạm thiên”. Người không có lòng tín thành có thể nói với người có lòng tín thành: “Này Tôn giả, có một chú thuật gọi là Gandhhàrì. Nhờ chú thuật hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân… có thể tự thân bay đến cõi Phạm thiên”. Này Kevaddha, ngươi nghĩ thế nào? Người không có lòng tín thành có thể nói với người có lòng tín thành như vậy không?
– Bạch Thế Tôn, có thể nói như vậy.
– Này Kevaddha chính vì ta thấy sự nguy hiểm trong sự biến hóa thần thông mà ta nhàm chán, hổ thẹn, ghê sợ biến hóa thần thông.
- ‘And what is the miracle of telepathy? Here, a monk reads the minds of other beings, of other people, reads their mental states, their thoughts and ponderings, and says: “That is how your mind is, that is how it inclines, that is in your heart.” Then someone who has faith and trust sees him doing these things.
Này Kevaddha, thế nào là tha tâm thần thông? Này Kevaddha, ở đời có Tỷ-kheo nói lên tâm, nói lên tâm sở, nói lên sự suy tầm nói lên sự suy tư của các loài hữu tình khác, của các người khác: “Như vậy là ý của Ngươi”. Có người có lòng tín thành thấy Tỷ-kheo nói lên tâm sở, nói lên sự suy tầm và nói lên sự suy tư của các loài hữu tình khác, của các người khác: “Như vậy là ý của Ngươi, thế này là ý của Ngươi, như vậy là tâm của Ngươi”.
- ‘He tells this to someone else who is sceptical and unbelieving, saying: “It is [214] wonderful, sir, it is marvellous, the great power and skill of that ascetic …” And that man might say: “Sir, there is something called the Manika charm.235 It is by means of this that that monk can read the minds of others …” And that is why, seeing the danger of such miracles, I… despise them.
Người có lòng tín thành ấy nói với một người không có lòng tín thành: “Này Tôn giả, thật vi diệu thay! Này Tôn giả, thật hy hữu thay đại thần thông, đại oai đức của vị Sa-môn! Chính tôi đã thấy Tỷ-kheo nói lên tâm, nói lên tâm sở, nói lên sự suy tầm và nói lên sự suy tư của các loài hữu tình khác, của các người khác: “Như vậy là ý của ngươi, thế này là ý của ngươi, như vậy là tâm của ngươi”. Người không có lòng tín thành có thể nói với người có lòng tín thành: “Này Tôn giả, có một chú thuật gọi là Maniko, nhờ chú thuật này, Tỷ-kheo nói lên tâm, nói lên tâm sở, nói lên sự suy tầm, và nói lên sự suy tư của các loài hữu tình khác, của các người khác… “Thế này là ý của Ngươi, như vậy là tâm của Ngươi”. Này Kevaddha, Ngươi nghĩ thế nào? Người không có lòng tín thành có thể nói với Ngươi có lòng tín thành như vậy không?
– Bạch Thế Tôn, có thể nói như vậy?
– Này Kevaddha chính Ta thấy sự nguy hiểm trong sự tha tâm thần thông mà Ta nhàm chán, hổ thẹn, ghê sợ tha tâm thần thông.
- ‘And what is the miracle of instruction? Here, Kevaddha, a monk gives instruction as follows: “Consider in this way, don’t consider in that, direct your mind this way, not that way, give up that, gain this and persevere in it.” That, Kevaddha, is called the miracle of instruction.
Này Kevaddha, thế nào là giáo hóa thần thông? Ở đời có Tỷ-kheo giáo hóa như sau: “Hãy suy tư như thế này, chớ có suy tư như thế kia; hãy tác ý như thế này, chớ có tác ý như thế kia; hãy trừ bỏ điều này, hãy chứng đạt và an trú điều kia”.
Này Kevaddha, như vậy gọi là giáo hóa thần thông.
9 — 66. ‘Again, Kevaddha, a Tathāgata arises in the world, an Arahant, fully-enlightened Buddha, endowed with wisdom and conduct, Well-Farer, Knower of the worlds, incomparable Trainer of men to be tamed, Teacher of gods and humans, enlightened and blessed. He, having realised it by his own super-knowledge, proclaims this world with its devas, māras and Brahmās, its princes and people. He preaches the Dhamma which is lovely in its beginning, lovely in its middle, lovely in its ending, in the spirit and in the letter, and displays the fully-perfected and purified holy life. A disciple goes forth and practises the moralities (Sutta 2, verses 41 — 63). He guards the sense-doors and attains the four jhānas (Sutta 2, verses 64 — 82); he attains various insights (Sutta 2, verses 83-84); he realises the Four Noble Truths, the path and the cessation of the corruptions (Sutta 2, verses 85-97),236 and he knows: “...There is nothing further here.” That, Kevaddha, is called the miracle of instruction.
Này Kevaddha, nay ở đời đức Như Lai xuất hiện là bậc A-la-hán Chánh Biến Tri… (đoạn kinh 9-43 tương tự như kinh Sa-môn quả, đoạn kinh số 40 – 74).
- Khi quán tự thân đã xả ly năm triền cái ấy hân hoan sanh; do hân hoan nên hỷ sanh; do tâm hoan hỷ, thân được khinh an; do thân khinh an, lạc thọ sanh; do lạc thọ, tâm được định tĩnh. Vị Tỷ-kheo, ly dục, ly ác bất thiện pháp, chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh với tầm với tứ. Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy thân mình với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không có hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần.
- Này Kevaddha, như một người hầu tắm lão luyện hay đệ tử người hầu tắm. Sau khi rắc bột tắm trong thau bằng đồng, liền nhồi bột ấy với nước, cục bột tắm ấy được thấm nhuần nước ướt, nhào trộn với nước ướt, thấm ướt cả trong lẫn ngoài với nước, nhưng không chảy thành giọt. Cũng vậy, này Kevaddha, Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy thân hình với hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần. Này Kevaddha, như vậy gọi là giáo hóa thần thông.
50…. chứng và trú thiền thứ tư… (như kinh Sa-môn quả, đoạn kinh số 77 – 81, trừ câu kết sau chót mỗi chương). Này Kevaddha như vậy gọi là giáo hóa thần thông.
- Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ xử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến chánh trí, chánh kiến… (như kinh Sa-môn quả, đoạn kinh số 83)… Này Kevaddha, như vậy gọi là giáo hóa thần thông.
53…. sau đời hiện tại, không có đời sống nào khác nữa… (xem kinh Sa-môn quả, đoạn kinh số 84 – 98), trừ câu kết sau chót của mỗi chương). Này Kevaddha, như vậy là giáo hóa thần thông.
- ‘And I, Kevaddha, have experienced these three miracles by my own super-knowledge. Once, Kevaddha, in this order of monks the thought occurred to a certain monk: “I wonder where the four great elements — the earth element, the water element, the fire element, the air element — cease without remainder.” And that monk attained to such a state of mental concentration that the way to the deva-realms appeared before him.
Này Kevaddha, ba pháp thần thông này, Ta đã tự mình giác ngộ và tuyên thuyết. Này Kevaddha thuở xưa, chính một Tỷ-kheo có khởi nghi vấn như sau: “Trong Tỷ-kheo chúng này – địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại – đi đâu sau khi biến diệt hoàn toàn?” Này Kevaddha, vị Tỷ-kheo ấy nhập định, và trong định tâm, con đường đưa đến Thiên giới hiện ra.
- ‘Then, coming to the Realm of the devas of the Four Great Kings,237 he asked those devas: “Friends, where do the four great elements — earth, water, fire and air — cease without remainder?” At this question the devas of the Four Great Kings [216] said to him:
“Monk, we don’t know where the four great elements cease without remainder. But the Four Great Kings are loftier and wiser than we are. They may know where the four great elements cease … ”
Này Kevaddha, lúc bấy giờ vị Tỷ-kheo ấy đi đến Bốn Thiên vương thiên, khi đến xong, liền nói với các vị Bốn Thiên vương thiên: “Này các Hiền giả, bốn đại chủng này: địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại đi đâu sau khi biến diệt hoàn toàn?”.
Này Kevaddha, được nghe nói vậy Bốn Thiên vương thiên nói với vị Tỷ-kheo ấy: “Này Tỷ-kheo, chúng tôi không được biết bốn đại chủng ấy – địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại – đi đâu sau khi biến diệt hoàn toàn”. Này Tỷ-kheo, có bốn Ðại vương ưu thế hơn và thù thắng hơn chúng tôi. Những vị này có thể biết bốn đại chủng này, địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại đi đâu sau khi biến diệt hoàn toàn.
- ‘So that monk went to the Four Great Kings and asked the same question, but they replied: “We don’t know, but the Thirty-Three Gods may know…
Này Kevaddha, vị Tỷ-kheo đi đến bốn vị Ðại vương, khi đến xong liền hỏi bốn vị Ðại Thiên vương: “Này các Hiền giả, bốn đại chủng này – địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại – đi đâu sau khi biến diệt hoàn toàn?”.
Này Kevaddha, được nghe nói vậy, cả bốn vị Ðại vương nói với vị Tỷ-kheo ấy: “Này Tỷ-kheo, chúng tôi không được biết bốn đại chủng ấy – địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại – đi đâu sau khi biến diệt hoàn toàn. Này vị Tỷ-kheo, có Ba mươi ba thiên ưu thế hơn, thù thắng hơn chúng tôi. Những vị này có thể biết bốn đại chủng này – địa đại… phong đại – đi đâu sau khi biến diệt hoàn toàn”.
- ‘So that monk went to the Thirty-Three Gods, who said: “We don’t know, but Sakka, lord of the gods, may know…” [217]
Này Kevaddha, vị Tỷ-kheo ấy đi đến các vị Ba mươi ba thiên, khi đến xong, liền hỏi các vị Ba mươi ba thiên, “Này các Hiền giả, bốn đại chủng này – địa… phong đại – đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn?”.
Này Kevaddha, được nghe nói vậy, các vị Ba mươi ba thiên nói với vị Tỷ-kheo ấy: “Này Tỷ-kheo, chúng tôi không được biết bốn đại chủng ấy – địa đại … phong đại – đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn. Này Tỷ-kheo, có vị Ðế thích chư thiên tên là Sakka ưu thế hơn, thù thắng hơn chúng tôi. Vị này có thể biết bốn đại chủng này – địa đại… phong đại – đi đâu sau khi biến diệt hoàn toàn.”
- ‘Sakka, lord of the gods, said: “The Yāma devas may know … ”
Này Kevaddha, Tỷ-kheo ấy đi đến Ðế thích chư thiên tên là Sakka, khi đến xong, liền hỏi Ðế thích chư thiên tên là Sakka: “Này Hiền giả, bốn đại chủng này – địa đại… phong đại – đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn?”.
Này Kevaddha, được nghe nói vậy, Ðế thích chư Thiên tên là Sakka nói với Tỷ-kheo ấy: “Này Tỷ-kheo, tôi không được biết bốn đại chủng ấy – địa đại… phong đại – đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn. Này Tỷ-kheo, có chư Thiên tên là Yàma (Dạ-ma) ưu thế hơn, thù thắng hơn tôi. Vị này có thể biết bốn đại chủng này – địa đại… phong đại – đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn”.
- ‘The Yama devas said: “Suyāma, son of the devas,238 may know … ”
Này Kevaddha, Tỷ-kheo ấy đi đến chư Thiên tên là Yàma (Dạ-ma) xong, liền hỏi chư Thiên Dạ-ma: “Này các Hiền giả, bốn đại chủng này – địa đại… phong đại – đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn?”.
Này Kevaddha, được nghe nói vậy, chư Thiên Yàma (Dạ-ma) nói với Tỷ-kheo. “Chúng tôi không được biết bốn đại chủng ấy – địa đại… phong đại – đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn. Này Tỷ-kheo, có Thiên tử tên là Suyàma ưu thế hơn, thù thắng hơn chúng tôi. Vị này có thể biết bốn đại chủng này – địa đại… phong đại – đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn.”
- ‘Suyama said: “The Tusita [218] devas may know…”
Này Kevaddha, Tỷ-kheo ấy đi đến Thiên tử Suyàma, sau khi đến liền hỏi Thiên tử Suyàma: “Này Hiền giả, bốn đại chủng này – địa đại… phong đại – đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn?”
Này Kevaddha, được nghe nói vậy Thiên tử Suyàma nói với Tỷ-kheo ấy: “Này Tỷ-kheo, tôi không được biết bốn đại chủng này – địa đại… phong đại – đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn. Này Tỷ-kheo, có Thiên tử tên là Tusità ưu thế hơn, thù thắng hơn chúng tôi. Vị này có thể biết bốn đại chủng này – địa đại… phong đại – đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn.”
- ‘The Tusita devas said: “Santusita, son of the devas, may know…”
Này Kevaddha, Tỷ-kheo ấy đi đến chư Thiên Tusità. Khi đến xong, liền hỏi chư Thiên Tusità: “Này các Hiền giả, bốn đại chủng này – địa đại… phong đại – đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn?”.
Này Kevaddha, được nói vậy chư Thiên Tusità nói với Tỷ-kheo ấy: “Này Tỷ-kheo, chúng tôi không được biết bốn đại chủng ấy – địa đại… phong đại – đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn. Này Tỷ-kheo, có Thiên tử tên là Santusita ưu thế hơn, thù thắng hơn chúng tôi. Vị này có thể biết bốn đại chủng này – địa đại … phong đại – đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn”.
- ‘Santusita said: “The Nimmanarati devas may know…”
Này Kevaddha, Tỷ-kheo ấy đi đến Thiên tử Santusita. Khi đến xong, liền hỏi Thiên tử Santusita: “Này Hiền giả, bốn đại chủng này – địa đại… phong đại – đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn?”.
Này Kevaddha, được nghe nói vậy, Thiên tử Santusita nói với Tỷ-kheo ấy: “Này Tỷ-kheo, tôi không được biết bốn đại chủng ấy – địa đại… phong đại – đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn. Này vị Tỷ-kheo có chư Thiên tên là Nimmànarati (Hóa lạc thiên) ưu thế hơn, thù thắng hơn tôi. Những vị này có thể biết bốn đại chủng này – địa đại… phong đại – đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn”.
- [219] ‘The Nimmanarati devas said: “Sunimmita, son of the devas, may know…”
Này Kevaddha, Tỷ-kheo ấy đi đến chư Thiên Nimmànarati. Khi đến xong, liền hỏi chư Thiên Nimmànarati: “Này các Hiền giả, bốn đại chủng này – địa đại… phong đại – đi đâu sau khi biến diệt hoàn toàn?”.
Này Kevaddha, được nghe nói vậy, chư Thiên Nimmànarati nói với Tỷ-kheo ấy: “Này Tỷ-kheo chúng tôi không được biết bốn đại chủng ấy – địa đại… phong đại – đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn. Này Tỷ-kheo có Thiên tử tên là Sunimmita ưu thế hơn, thù thắng hơn chúng tôi. Vị này có thể biết bốn đại chủng này – địa đại… phong đại – đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn”.
- ‘Sunimitta said: “The Paranimmita-Vasavatti devas may know…”
Này Kevaddha, Tỷ-kheo ấy đi đến Thiên tử Sunimmita. Khi đến xong, liền hỏi Thiên tử Sunimmita. “Này Hiền giả, bốn đại chủng này – địa đại… phong đại – đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn?”.
Này Kevaddha, được nghe nói vậy, Thiên tử Sunimmita nói với Tỷ-kheo ấy: “Này Tỷ-kheo, tôi không được biết bốn đại chủng ấy – địa đại… phong đại – đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn. Này Tỷ-kheo có chư thiên gọi là Paranimmitavasavatti (Tha hóa tự tại thiên) ưu thế hơn, thù thắng hơn tôi. Những vị này có thể biết bốn đại chủng này – địa đại… phong đại – đi đâu sau khi biến diệt hoàn toàn”.
- ‘The Paranimmita-Vasavatti devas said:“Vasavatti, son of the devas, may know…”
Này Kevaddha, Tỷ-kheo ấy đi đến chư Thiên Paranimmitavasavatti, khi đến xong, liền hỏi chư Thiên Paranimmitavasavatti (Tha hóa tự tại thiên): “Này các Hiền giả, bốn đại chủng này – địa đại… phong đại – đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn?”.
Này Kevaddha, được nghe nói vậy chư Thiên Paranimmitavasavatti nói với Tỷ-kheo ấy: “Này Tỷ-kheo, tôi không được biết – địa đại… phong đại – đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn. Này Tỷ-kheo có Thiên tử tên là Vasavatti ưu thế hơn, thù thắng hơn chúng tôi. Vị này có thể biết bốn đại chủng này – địa đại… phong đại – đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn”.
- [220] ‘Vasavatti said: “The devas of Brahmā’s retinue may know … ”
Này Kevaddha, Tỷ-kheo ấy đi đến Thiên tử Vasavatti. Khi đến xong, liền hỏi Thiên tử Vasavatti: “Này Hiền giả, bốn đại chủng này – địa đại… phong đại – đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn?”.
Này Kevaddha, được nghe nói vậy, Thiên tử Vasavatti nói với Tỷ-kheo ấy. “Này Tỷ-kheo, chúng tôi không được biết bốn đại chủng ấy – địa đại… phong đại – đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn. Này Tỷ-kheo, có chư Thiên gọi là Brahmà Kayikà ưu thế hơn, thù thắng hơn chúng tôi. Những vị này có thể biết bốn đại chủng này – địa đại… phong đại – đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn”.
- ‘Then that monk, by the appropriate concentration, made the way to the Brahmā world appear before him. He went to the devas of Brahmā’s retinue and asked them. They said: “We don’t know. But there is Brahmā, Great Brahmā, the Conqueror, the Unconquered, the All-Seeing, All-Powerful, the Lord, the Maker and Creator, the Ruler, Appointer and Orderer, Father of All That Have Been and Shall Be. He is loftier and wiser than we are. He would know where the four great elements cease without remainder.”
“And where, friends, is this Great Brahmā now?“Monk, we do not know when, how and where Brahmā will appear. But when the signs are seen — when a light appears and a radiance shines forth — then Brahmā will appear. Such signs are an indication that he will appear.”
Này Kevaddha, lúc bấy giờ, Tỷ-kheo ấy nhập định, và trong định tâm, con đường đưa đến Phạm thiên giới hiện ra.
Này Kevaddha, Tỷ-kheo ấy đi đến chư Thiên Brahmà Kayikà: “Này các Hiền giả, bốn đại chủng này – địa đại… phong đại – đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn?”.
Này Kevaddha, được nghe nói vậy, chư Thiên Brahmà Kayikà nói với Tỷ-kheo ấy: “Này Tỷ-kheo, chúng tôi không được biết bốn đại chủng ấy – địa đại… phong đại – đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn. Này Tỷ-kheo, có vị Phạm thiên, Ðại Phạm thiên, đấng Toàn năng, Tối thắng, Biến nhãn, Thượng tôn, Thượng đế, Sáng tạo chủ, Hóa sanh chủ, Ðại tôn, Chúa tể mọi định mạng, đấng Tự tại, Tổ phụ các chúng sanh đã và sẽ sanh. Vị này ưu thế hơn, thù thắng hơn chúng tôi. Vị này có thể biết bốn đại chủng này địa đại… phong đại – đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn”.
– Này Hiền giả, hiện nay Ðại Phạm thiên ấy ở đâu?
– Này Tỷ-kheo, chúng tôi không biết Phạm thiên ở đâu, vì sao có Phạm thiên và Phạm thiên từ đâu đến. Nhưng này Tỷ-kheo, khi nào triệu tướng hiện, khi nào ánh sáng sanh, khi nào hào quang hiển, thời Phạm thiên xuất hiện. Ánh sáng xanh, hào quang hiển là tướng Phạm thiên xuất hiện từ trước là như vậy.
- ‘Then it was not long before the Great Brahmā [221] appeared. And that monk went up to him and said: “Friend, where do the four great elements — earth, water, fire, air — cease without remainder?” to which the Great Brahmā replied: “Monk, I am Brahmā, Great Brahmā, the Conqueror, the Unconquered, the All-Seeing, All-Powerful, the Lord, the Maker and Creator, the Ruler, Appointer and Orderer, Father of All That Have Been and Shall Be.”
Này Kevaddha, không bao lâu, Ðại Phạm thiên xuất hiện. Lúc bấy giờ, này Kevaddha, Tỷ-kheo ấy đến Ðại Phạm thiên. Khi đến xong, liền hỏi Phạm thiên: “Này Hiền giả, bốn đại chủng này – địa đại… phong đại – đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn?” – Này Kevaddha, được nghe nói vậy, Ðại Phạm thiên nói với Tỷ-kheo ấy: “Này Tỷ-kheo, Ta là Phạm thiên, Ðại Phạm thiên, đấng Toàn năng, Tối thắng, Biến nhãn, Thượng tôn, Thượng đế, Sáng tạo chủ, Hóa sanh chủ, Ðại tôn, Chúa tể mọi định mạng, đấng Tự tại, Tổ phụ các chúng sanh đã và sẽ sanh”.
- ‘A second time the monk said: “Friend, I did not ask if you are Brahmā, Great Brahmā … I asked you where the four great elements cease without remainder.” And a second time the Great Brahmā replied as before.
Này Kevaddha, lần thứ hai Tỷ-kheo ấy nói với Phạm thiên: “Này Hiền giả, tôi không hỏi: “Ngài có phải là Phạm thiên, Ðại Phạm thiên, đấng Toàn năng, Tối thắng, Biến nhãn, Thượng tôn, Thượng đế, Sáng tạo chủ, Hóa sanh chủ, Ðại tôn, Chúa tể mọi định mạng, đấng Tự tại, Tổ phụ các chúng sanh đã và sẽ sanh”. Này Hiền giả, tôi hỏi: “Này Hiền giả, bốn đại chủng này – địa đại… phong đại – đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn?”.
Này Kevaddha, lần thứ hai, Ðại Phạm thiên ấy nói với Tỷ-kheo ấy: “Này Tỷ-kheo, ta là Phạm thiên, Ðại Phạm thiên, đấng Toàn năng, Tối thắng, Biến nhãn, Thượng tôn, Thượng đế, Sáng tạo chủ, Hóa sanh chủ, Ðại tôn, Chúa tể mọi định mạng, đấng Tự tại, Tổ phụ các chúng sanh đã và sẽ sanh”.
- ‘And a third time the monk said: “Friend, I did not ask you that, I asked where the four great elements — earth, water, fire, air — cease without remainder.” Then, Kevaddha, the Great Brahmā took that monk by the arm, led him aside and [222] said: “Monk, these devas believe there is nothing Brahmā does not see, there is nothing he does not know, there is nothing he is unaware of. That is why I did not speak in front of them. But, monk, I don’t know where the four great elements cease without remainder. And therefore, monk, you have acted wrongly, you have acted incorrectly by going beyond the Blessed Lord and going in search of an answer to this question elsewhere. Now, monk, you just go to the Blessed Lord and put this question to him, and whatever answer he gives, accept it.”
Này Kevaddha, lần thứ ba, Tỷ-kheo ấy nói với Phạm thiên: “Này Hiền giả, tôi không hỏi: “Ngài có phải là Phạm thiên, Ðại Phạm thiên, đấng Toàn năng, Tối thắng, Biến nhãn, Thượng tôn, Thượng đế, Sáng tạo chủ, Hóa sanh chủ, Ðại tôn, Chúa tể mọi định mạng, đấng Tự tại, Tổ phụ các chúng sanh đã và sẽ sanh”. Này Hiền giả, tôi hỏi: “Này Hiền giả, bốn đại chủng ấy, – địa đại… phong đại – đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn?”.
Này Kevaddha, khi bấy giờ Ðại Phạm thiên cầm tay Tỷ-kheo ấy, kéo ra một bên rồi nói với Tỷ-kheo: “Này Tỷ-kheo, chư Thiên Brahmà Kayikà xem rằng không có gì Phạm thiên không thấy, không có gì Phạm thiên không hiểu, không có gì Phạm thiên không chứng. Do vậy, trước mặt chúng, ta không có trả lời: “Này Tỷ-kheo, ta không được biết bốn đại chủng ấy – địa đại… phong đại – đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn”. Do vậy, này Tỷ-kheo, Ngươi đã làm sai, Ngươi đã lầm lẫn, khi Ngươi bỏ qua Thế Tôn, hướng đến người khác để trả lời câu hỏi ấy. Này Tỷ-kheo, Ngươi hãy đi đến Thế Tôn hỏi câu hỏi ấy, và hãy thọ trì những gì Thế Tôn trả lời”.
- ‘So that monk, as swiftly as a strong man might flex or unflex his arm, vanished from the Brahma world and appeared in my presence. He prostrated himself before me, then sat down to one side and said: “Lord, where do the four great elements — the earth element, the water element, the fire element and the air element – cease without remainder?”
Này Kevaddha, Tỷ-kheo ấy, như nhà đại lực sĩ duỗi ra cánh tay đã co lại, hay co lại cánh tay đã duỗi ra, biến mất ở Phạm thiên giới và hiện ra trước mặt Ta. Này Kevaddha, Tỷ-kheo ấy đảnh lễ Ta và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, này Kevaddha, Tỷ-kheo ấy nói với Ta: “Bạch Thế Tôn, bốn đại chủng này, – địa đại… phong đại – đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn?”.
- ‘I replied: “Monk, once upon a time seafaring merchants, when they set sail on the ocean, took in their ship a land-sighting bird. When they could not see the land themselves, they released this bird. The bird flew to the east, to the south, to the west, to the north, it flew to the zenith and to the intermediate points of the compass. If it saw land anywhere, it flew there. But if it saw no land, it returned to the ship. In the same way, monk, you have been [223] as far as the Brahma world searching for an answer to your question and not finding it, and now you come back to me. But, monk, you should not ask your question in this way:
‘Where do the four great elements — the earth element, the water element, the fire element, the air element — cease without remainder?’ Instead, this is how the question should have been put:
‘Where do earth, water, fire and air no footing find?
Where are long and short, small and great, fair and foul –
Where are “name-and-form” wholly destroyed?’239
And the answer is:
‘Where consciousness is signless,240 boundless, all-luminous, 241 That’s where earth, water, fire and air find no footing,
There both long and short, small and great, fair and foul – There “name-and-form” are wholly destroyed.
With the cessation of consciousness this is all destroyed.”” 242
Thus the Lord spoke, and the householder Kevaddha, delighted, rejoiced at his words.
Này Kevaddha, được nghe nói vậy, Ta nói với Tỷ-kheo ấy: “Này Tỷ-kheo, thuở xưa các hải thương khi đi thuyền vượt biển thường đem theo con chim có thể thấy bờ. Khi chiếc thuyền vượt biển quá xa không trông thấy bờ, các nhà hải thương liền thả con chim có thể thấy bờ. Con chim bay về phía Ðông, bay về phía Nam, bay về phía Tây, bay về phía Bắc, bay lên Trên, bay về các hướng Trung gian. Nếu con chim thấy bờ xung quanh, con chim liền bay đến bờ ấy. Nếu con chim không thấy bờ xung quanh, con chim bay trở về thuyền”. Cũng vậy, này Tỷ-kheo, Ngươi đã tìm cho đến Phạm thiên giới mà không gặp được câu trả lời cho câu hỏi ấy, nên nay trở về với Ta. Này Tỷ-kheo, câu hỏi không nên hỏi như sau: “Bạch Thế Tôn, bốn đại chủng ấy – địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại – đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn?”. Này Tỷ-kheo, câu hỏi phải nói như sau:
“Chỗ nào mà địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại, dài ngắn, tế, thô, tịnh, bất tịnh không có chân đứng? Chỗ nào cả danh và sắc tiêu diệt hoàn toàn?” và đây là câu trả lời cho câu hỏi này:
“Thức là không thể thấy, vô biên, biến thông hết thảy xứ. Ở đây, địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại không có chân đứng.
Ở đây, cũng vậy dài, ngắn, tế, thô, tịnh và bất tịnh.
Ở đây danh và sắc tiêu diệt hoàn toàn.
Khi thức diệt, ở đây mọi thứ đều diệt tận”.
Thế Tôn thuyết như vậy. Kevaddha, cư sĩ trẻ tuổi hoan hỷ tín thọ lời dạy của Thế Tôn.
Sources
Tài liệu tham khảo:
- http://lirs.ru/lib/sutra/Long_Discourses_of_the_Buddha(Digha_Nikaya).Walshe.pdf
- https://www.budsas.org/uni/u-kinh-truongbo/truong11.htm