Chương 08: Phẩm Ngũ Bá Đệ Tử Thọ Ký – Prophecy of Enlightenment for Five Hundred Disciples – Song ngữ

English: Burton Watson.

Việt ngữ: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh.

Compile: Lotus group.

 

 

At that time Purna Maitrayaniputra, hearing from the Buddha this Law as it was expounded through wisdom and expedient means and in accordance with what was appropriate, and also hearing the prophecy that the major disciples would attain anuttara-samyak-sambodhi, hearing matters relating to causes and conditions of previous existences, and hearing how the Buddha possesses great freedom and transcendental powers, obtained what he had never before, and his mind was purified and felt like dancing. Immediately he rose from his seat, advanced to a position in front of the Buddha, touched his head to the ground and bowed to the Buddha’s feet. Then he withdrew to one side, gazed up in reverence at the face of the Honored One, his eyes never leaving it for an instant, and thought to himself:

  1. Lúc bấy giờ, ngài Mãn-Từ-Tử từ nơi đức Phật nghe trí huệ phương tiện tùy cơ nghi nói pháp như thế, lại nghe thọï ký cho các vị đệ tử lớn sẽ thành vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác, lại nghe việc nhân duyên đời trước, lại nghe các đức Phật có sức tự tại thần thông lớn, được điều chưa từng có, lòng thanh tịnh hớn hở. Liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước Phật, đầu mặt lễ chân Phật rồi đứng qua một bên chiêm ngưỡng dung nhan của Phật mắt không tạm rời, mà nghĩ thế này:

 

The World-Honored One is very extraordinary, very special, his actions rarely to be encountered! Adapting himself to the various natures of the people of this world and employing expedient means and insight, he preaches the Law for them, drawing living beings away from their greed and attachment to this or that. The Buddha’s blessings are such that we cannot set them forth in words. Only the Buddha, the World-Honored One, is capable of knowing the wish that we have had deep in our hearts from the start.

  1. “Thế-Tôn rất riêng lạ, việc làm ít có, thuận theo bao nhiêu chủng tánh ở trong đời, dùng sức phương tiện tri kiến mà vì đó nói pháp, vớt chúng sanh ra khỏi chỗ tham trước, chúng con ở nơi công đức của Phật không thể dùng lời nói mà tuyên bày được, chỉ có đức Thế-Tôn hay biết bổn nguyện trong thâm tâm của chúng con”.

 

At that time the Buddha said to the monks: “Do you see this Purna Maitrayaniputra? I have always commended him as being foremost among those who preach the Law. And I have always praised his various blessings, his diligence in protecting, upholding, aiding and proclaiming my Law, his ability in teaching, benefitting and delighting the four kinds of believers, the thoroughness with which he understands the correct Law of the Buddha, the great degree to which he enriches those who carry out its brahma practices.

Bấy giờ Phật bảo các Tỳ-kheo : “Các ông thấy Mãn-Từ-Tử đây chăng? Ta thường khen ông là bậc nhất trong hàng người nói pháp, cũng thường khen các món công đức của ông, ròng rặc siêng năng hộ trì giúp tuyên bày pháp của ta, có thể chỉ dạy lời mừng cho hàng bốn chúng (1) giải thích trọn vẹn chánh pháp của Phật, mà làm nhiều lợi ích cho những người cùng đồng hạnh thanh tịnh.

 

If one excepts the Thus Come One, there is no other who can so thoroughly exemplify the eloquence of its theories. You should not suppose that Purna is capable of protecting, upholding, aiding and proclaiming my Law only. In the presence of ninety million Buddhas of the past too he protected, upheld, aided and proclaimed the correct Law of the Buddhas. Among all those who at that time preached the Law, he was likewise foremost.

Ngoài đức Như-Lai, không ai có thể cùng tận chỗ biện bác ngôn luận của ông. Các ông chớ tưởng Mãn-Từ-Tử chỉ hay hộ trì trợ tuyên pháp của ta thôi, ông cũng đã ở nơi chín mươi ức đức Phật thuở quá khứ mà hộ trì trợ tuyên chánh pháp của Phật, ở trong nhóm người nói pháp thuở đó cũng là bậc nhất.

 

“In addition, concerning the Law of emptiness preached by the Buddhas he has clear and thorough understanding, he has gained the four unlimited kinds of knowledge, and is at all times capable of preaching the Law in a lucid and pure manner, free of doubts and perplexities. He is fully endowed with the transcendental powers of a bodhisattva.

Ông lại ở pháp không của chư Phật nói, thông suốt rành rẽ, được bốn món trí vô ngại, thường hay suy gẫm chắc chắn nói pháp thanh tịnh không có nghi lầm đầy đủ sức thần thông của Bồ-Tát tùy số thọ mạng mà thường tu hạnh thanh tịnh.

 

Throughout his allotted life span he constantly carries out brahma practices, so that the other people living in the era of that particular Buddha all think, ‘Here is a true voice-hearer! And Purna by employing this expedient means has brought benefit to immeasurable hundreds and thousands of living beings, and has converted immeasurable asamkhyas of persons, causing them to turn toward anuttara-samyak-sambodhi. In order to purify the Buddha lands he constantly devotes himself to the Buddha’s work, teaching and converting living beings.

Người đời thuở đức Phật kia đều gọi ông thật là Thanh-văn. Nhưng ông Mãn-Từ-Tử dùng phương tiện đó làm lợi ích cho vô lượng trăm nghìn chúng sanh, lại giáo hóa vô lượng vô số người khiến đứng nơi vô-thượng chánh-đẳng, chánh-giác. Ông vì muốn tịnh cõi Phật mà thường làm Phật sự giáo hóa chúng sanh.

 

“Monks, Purna was foremost among those who preached the Law in the time of the seven Buddhas. He is also foremost among those who preach the Law in my presence now.

Các Tỳ-kheo ! Ông Mãn-Từ-Tử cũng được bậc nhất ở trong hàng người nói pháp thuở bảy đức Phật, nay ở chỗ ta trong hàng người nói pháp cũng là bậc nhất.

 

And he will likewise be foremost among those who preach the Law in the time of the future Buddhas who appear in the present Wise Kalpa, in all cases protecting, upholding, aiding and proclaiming the Law of the Buddha. In the future too he will protect, uphold, aid and proclaim the Law of immeasurable, boundless Buddhas, teaching, converting and enriching immeasurable living beings and causing them to turn toward anuttara-samyak-sambodhi. In order to purify the Buddha lands he will constantly apply himself with diligence, teaching and converting living beings, little by little he will become fully endowed with the way of the bodhisattva.

Trong hàng người nói Pháp thuở các đức Phật trong Hiền kiếp về đương lai cũng lại là bậc nhất, mà đều hộ trì giúp tuyên bày pháp của Phật. Ông cũng sẽ ở trong đời vị lai hộ trì trợ tuyên chánh pháp của vô lượng vô biên các đức Phật, giáo hóa làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh khiến an lập nơi đạo vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác, vì tịnh cõi Phật mà thường siêng năng tinh tấn giáo hóa chúng sanh, lần lần đầy đủ đạo Bồ-Tát.

 

And when immeasurable asamkhya kalpas have passed, here in the land where he is dwelling he will attain anuttara-samyak-sambodhi. He will be called Law Bright Thus Come One, worthy of offerings, of right and universal knowledge, perfect clarity and conduct, well gone understanding the world, unexcelled worthy, trainer of people, teacher of heavenly and human beings, Buddha, World-Honored One.

Qua vô lượng vô số kiếp sau, ông sẽ ở nơi cõi này thành vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác, hiệu là : Pháp-Minh Như-Lai, Ứng-cúng Chánh-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Điều-ngự trượng-phu, Thiên-Nhân-Sư, Phật-Thế-Tôn.

 

“This Buddha will have thousand-millionfold worlds equal in number to Ganges sands as his Buddha land. The ground will be made of the seven treasures and level as the palm of a hand, without hills or ridges, ravines or gullies. The land will be filled with terraces and towers made of the seven treasures, and the heavenly palaces will be situated close by in the sky, so that human and heavenly beings can communicate and be within sight of each other. There will be no evil paths of existence there, nor will there be any women.

Đức Phật đó lấy số thế giới tam-thiên đại-thiên nhiều như số cát sông Hằng mà làm thành một cõi Phật. Đất bằng bảy thứ báu, thẳng bằng như bàn tay không có núi gò, khe suối, rạch ngòi. Nhà, đài bằng bảy thứ báu đầy dẫy trong đó, cung điện của các trời ở gần trên hư không, người cùng trời giao tiếp nhau, hai bên đều thấy được nhau, không có đường dữ cũng không có người nữ.

 

All living beings will be born through transformation and will be without lewd desires. They will gain great transcendental powers, their bodies will emit a bright glow, and they will be able to fly at will. They will be firm in intent and thought, diligent and wise, and all alike will be adorned with golden color and the thirty-two features.

Tất cả chúng sanh đều do biến hóa sanh, không có dâm dục, được pháp thần thông lớn, thân chói ánh sáng, bay đi tự tại, chí niệm bền chắc có đức tinh tấn trí huệ, tất cả đều thân sắc vàng đủ ba mươi hai tướng tốt để tự trang nghiêm.

 

All the living beings in that land will regularly take two kinds of food, one being the food of Dharma joy, the other the food of meditation delight. There will be immeasurable asamkhyas, thousands, ten thousands, millions of nayutas of bodhisattvas there, who will gain great transcendental powers and the four unlimited kinds of knowledge, and will be skilled and capable in teaching and converting the different varieties of living beings. The number of voice-hearers will be beyond the power of calculation or reckoning to determine. All will be fully endowed with the six transcendental powers, the three understandings, and the eight emancipations.

Nhân dân nước đó thường dùng hai thức ăn : Một là pháp-hỷ thực, hai là thiền-duyệt thực (2) . Có vô lượng vô số nghìn muôn ức na-do-tha các chúng Bồ-Tát được sức thần thông lớn, bốn trí vô ngại (3) , khéo hay giáo hóa loài chúng sanh. Chúng Thanh-văn trong nước đó tính kể số đếm đều không thể biết được, đều được đầy đủ ba món Minh, sáu pháp thần thông và tám món giải thoát. (4)

 

“This Buddha land will thus possess measureless blessings of this kind that will adorn and complete it. The kalpa will be named Treasure Bright and the land named Good and Pure. The Buddha’s life span will be immeasurable asamkhya kalpas, his Law will endure for a very long time, and after the Buddha has passed into extinction, towers adorned with the seven treasures will be erected to him throughout the entire land.”

Cõi nước của đức Phật đó có vô lượng công đức trang nghiêm thành tựu như thế, kiếp tên Bảo-Minh, nước tên Thiện-Tịnh. Phật đó sống lâu vô lượng vô số kiếp, pháp trụ đời rất lâu. Sau khi Phật diệt độ, dựng tháp bằng bảy thứ báu khắp cả nước đó.

 

At that time the World-Honored One, wishing to state his meaning once more, spake in verse form, saying:

Bấy giờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói bài kệ rằng :

 

You monks, listen carefully!
The way followed by the sons of the Buddha,
because they are well learned in expedient means,
is wonderful beyond conception.
They know how most beings delight in a little Law
and are fearful of great wisdom.
Therefore the bodhisattvas
pose as voice-hearers or pratyekabuddhas,
employing countless expedient means
to convert the different kinds of living beings.
They proclaim themselves to be voice-hearers
and say they are far removed from the Buddha way,
and so bring emancipation to immeasurable multitudes,
allowing them all to achieve success.
Limited in aspiration, lazy and indolent though the
multitudes are,
bit by bit they are led to the attainment of Buddhahood.
Inwardly, in secret, the sons act as bodhisattvas,
but outwardly the show themselves as voice-hearers.
They seem to be lessening desires out of hatred for birth
and death,
but in truth they are purifying the Buddha lands.
Before the multitude they seem possessed of the three poisons
or manifest the signs of heretical views.
My disciples in this manner
use expedient means to save living beings.
If I were to describe all the different ways,
the many manifestations they display in converting others,
the living beings who heard me
would be doubtful and perplexed in mind.

  1. Các Tỳ-kheo lóng nghe
    Đạo của Phật tử làm
    Vì khéo học phương tiện
    Chẳng thể nghĩ bàn được
    Biết chúng ưa pháp nhỏ
    Mà sợ nơi trí lớn
    Cho nên các Bồ-Tát
    Làm Thanh-văn Duyên-giác
    Dùng vô số phương tiện
    Độ các loài chúng sanh,
    Tự nói là Thanh-văn
    Cách Phật đạo rất xa
    Độ thoát vô lượng chúng
    Thảy đều được thành tựu
    Dầu ưa nhỏ, biếng lười
    Sẽ khiến lần thành Phật.
    Trong ẩn hạnh Bồ-Tát
    Ngoài hiện là Thanh-văn
    Ít muốn, nhàm sanh tử
    Thật tự tịnh cõi Phật
    Bày ba độc cho người (5)
    Lại hiện tướng tà kiến,
    Đệ tử ta như vậy
    Phương tiện độ chúng sanh
    Nếu ta nói đủ cả
    Các món việc hiện hóa
    Chúng sanh nghe đó rồi
    Thời lòng sanh nghi lầm


Now this Purna in the past
diligently practiced the way
under a thousand million Buddhas,
proclaiming and guarding the Law of those Buddhas.
In order to seek out unsurpassed wisdom
he went to where the Buddhas were,
became a leader among their disciples,
one of wide knowledge and wisdom.
He showed no fear in what he expounded
and was able to delight the assembly.
Never was he weary or disheartened
in assisting the work of the Buddhas.
Already he had passed over into great transcendental powers
and possessed the four unlimited kinds of knowledge.
He knew whether the capacities of the multitude were keen
or dull
and constantly preached the pure Law.
He expounded such principles as these,
teaching a multitude of thousands of millions,
causing them to reside in the Great Vehicle Law
and himself purifying the Buddha lands.
And in the future to will offer alms
to immeasurable, countless Buddhas,
protecting, aiding and proclaiming their correct Law
and himself purifying the Buddha lands,
constantly employing various expedient means,
preaching the Law without fear,
saving multitudes beyond calculation,
causing them to realize comprehensive wisdom.
He will offer alms to the Thus Come Ones,
guarding and upholding the treasure storehouse of the Law.

And later he will become a Buddha
known by the name Law Bright.
His land will be called Good and Pure
and will be composed of the seven treasures.
The kalpa will be named Treasure Bright.
The Multitude of bodhisattvas will be very numerous,
numbering immeasurable millions,
all having passed over into great transcendental powers,
endowed with dignity, virtue, strength,
filling the entire land.
Voice-hearers too will be numberless,
with the three understandings and eight emancipations,
having attained the four unlimited kinds of knowledge–
such as these will be monks of the Order.
The living beings of that land
will all be divorced from lewd desires.
They will be born in a pure manner by the process
of transformation,
with all the features adorning their bodies.
With Dharma joy and meditation delight to feed upon,
they will have no thought of other food.
There will be no women there
and non of the evil paths of existence.
The monk Purna
has won all these blessings to the fullest
and will acquire a pure land such as this,
with its great multitude of worthies and sages.
Of the countless matters pertaining to it
I have now spoken only in brief.

  1. Nay Phú-Lâu-Na đây
    Ở xưa nghìn ức Phật
    Siêng tu đạo mình làm
    Tuyên hộ các Phật pháp
    Vì cầu huệ vô thượng
    Mà ở chỗ chư Phật
    Hiện ở trên đệ tử
    Học rộng có trí huệ
    Nói pháp không sợ sệt
    Hay khiến chúng vui mừng
    Chưa từng có mỏi mệt
    Để giúp nên việc Phật.
    Đã được thần thông lớn
    Đủ bốn trí vô ngại
    Biết các căn lợi độn
    Thường nói pháp thanh tịnh
    Diễn xướng nghĩa như thế
    Để dạy nghìn ức chúng
    Khiến trụ pháp Đại-thừa
    Mà tự tịnh cõi Phật.
    Đời sau cũng cúng dườøng
    Vô lượng vô số Phật
    Hộ trợ tuyên chánh pháp
    Cũng tự tịnh cõi Phật
    Thường dùng các phương tiện
    Nói pháp không e sợ
    Độ chúng không kể được
    Đều thành nhứt-thiết-trí
    Cúng dường các Như-Lai
    Hộ trì tạng Pháp-bảo,
    Sau đó được thành Phật
    Hiệu gọi là Pháp-Minh
    Nước đó tên Thiện-Tịnh
    Bảy thứ báu hợp thành
    Kiếp tên là Bảo-Minh
    Chúng Bồ-Tát rất đông
    Số nhiều vô lượng ức
    Đều được thần thông lớn
    Sức uy đức đầy đủ
    Khắp đầy cả nước đó,
    Thanh-văn cũng vô số
    Ba minh tám giải thoát
    Được bốn trí vô ngại
    Dùng hạng này làm Tăng.
    Chúng sanh trong cõi đó
    Dâm dục đều đã dứt
    Thuần một biến hóa sanh
    Thân trang nghiêm đủ tướng
    Pháp-hỷ, thiềàn-duyệt thực
    Không tưởng món ăn khác,
    Không có hàng nữ-nhơn
    Cũng không các đường dữ.
    Phú-Lâu-Na Tỳ-kheo
    Khi công đức trọn đầy
    Sẽ được Tịnh-độ này
    Chúng hiền Thánh rất đông
    Vô-lượng việc như thế
    Nay ta chỉ lược nói.

 

At that time the twelve hundred arhats, being free in mind, thought to themselves, We rejoice at gaining that we have never had before. If the World-Honored One should give each of us a prophecy of enlightenment such as he has given to this other major disciples, would that be a cause for delight?

  1. Bấy giờ, một nghìn hai trăm vị A-la-hán, bậc tâm tự tại, nghĩ như vầy : “Chúng ta vui mừng được điều chưa từng có, nếu đức Thế-Tôn đều thọïký cho như các đệ tử lớn khác thời sung sướng lắm” .

 

The Buddha, knowing that this thought was in their minds, said to Mahakashyapa: on these twelve hundred arhats who are now before me I will one by one bestow a prophecy that they will attain anuttara-samyak-sambodhi.

Đức Phật biết tâm niệm của các vị đó nên nói với ngài đại Ca-Diếp : “Một nghìn hai trăm vị A-la-hán đó, nay ta sẽ hiện tiền thứ tự mà thọ ký đạo vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác.

 

Among this assembly is a major disciple of mine, the monk Kaundinya he will offer alms to sixty-two thousand million Buddhas, and after that will become a Buddha. He will be designated Universal knowledge, perfect clarity and conduct, well gone, understanding the world, unexcelled worthy, trainer of people, teacher of heavenly and human beings, Buddha, World-Honored One.

Trong chúng đó, đệ-tử lớn của ta là Kiều-Trần-Như Tỳ kheo, sẽ cúng dường sáu muôn hai nghìn ức đức Phật, vậy sau được thành Phật hiệu là Phổ-Minh Như-Lai, Ứng-cúng, Chính-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Điều-ngự trượng-phu, Thiên-Nhân-Sư, Phật Thế-Tôn.

 

Five-hundred arhats, including Uruvilvakashyapa, Gayakashyapa, Nadikashyapa, Kalodayin, Udayin, Anirudda, Revata, Kapphina, Bakkula, Chunda, Svagata, and others, will attain anuttara-samyak-sambodhi. All will have the same designation, being called Universal Brightness.”

Năm trăm vị A-la-hán : Ông Ưu-Lâu Tần-Loa Ca-Diếp, ông Già-Da Ca-Diếp, ông Na-Đề Ca-Diếp, ông Ca-Lưu Đà-Di, ông Ưu-Đà-Di, ông A-Nâu-Lâu-Đà, ông Ly-Bà-Đa, ông Kiếp-Tân-Na, ông Bạc-Câu-La, ông Chu-Đà, ông Sa-Dà-Đà, v.v… đều sẽ được đạo vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác, đều đồng một hiệu là Phổ-Minh.

 

The World-Honored One, wishing to state his meaning once more, spoke in verse form, saying:

Bấy giờ đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

6

The monk Kaundinya
will see immeasurable Buddhas
and after asamkhya kalpas have passed
will at last achieve impartial and correct enlightenment.
Constantly he will emit a great bright light,
will be endowed with transcendental powers,
and his name will be known in all ten quarters,
respected by one and all.
Constantly he will preach the unsurpassed way;
therefore he will be named Universal Brightness.
His realm will be pure and clean,
his bodhisattvas brave and spirited.
All will ascend the wonderful towers,
travel to the lands in the ten directions,
in order to offer unsurpassed articles
as gifts to the various Buddhas.
After they have offered these alms
their minds will be filled with great joy
and they will speedily return to their native lands–
such will be their supernatural powers.
The life span of this Buddha will be sixty thousand kalpas,
his Correct Law will endure twice that time,
his Counterfeit Law twice that time again,
and when his Law is extinguished, heavenly and human beings
will grieve.

  1. Kiều-Trần-Như Tỳ-kheo
    Sẽ gặp vô lượng Phật
    Qua vô số kiếp sau
    Mới được thành chánh-giác
    Thường phóng quang minh lớn
    Đầy đủ các thần thông
    Danh đồn khắp mười phương
    Tất cả đều tôn kính
    Thường nói pháp vô thượng
    Nên hiệu là Phổ-Minh
    Cõi nước đó thanh tịnh
    Bồ-Tát đều dũng mãnh
    Đều lên lầu gác đẹp
    Dạo các nước mười phương
    Đem đồ cúng vô thượng
    Hiến dâng các đức Phật
    Làm việc cúng đó xong
    Sanh lòng rất vui mừng
    Giây lát về bổn quốc
    Có sức thần như thế.
    Phật thọ sáu muôn kiếp
    Chánh pháp trụ bội thọ
    Tượng pháp lại hơn chánh
    Pháp diệt trời người lo


The five hundred monks
will one by one become Buddhas,
all with the same name, Universal Brightness.
Each will bestow a prophecy on his successor, saying,
“After I have entered extinction,
you, so-and-so, will become a Buddha.
The world in which you carry out conversions
will be like mine today.”
The adornment and purity of their lands,
their various transcendental powers,
their bodhisattvas and voice-hearers,
their Correct Law and Counterfeit Law,
the number of kalpas in their life span–
all will be as I have described above.
Kashyapa, now you know the future
of these five hundred who are free in mind.
The remainder of the multitude of voice-hearers
will also be like this.
As for those not in this gathering,
you must expound and preach to them.

  1. Năm trăm Tỳ-kheo kia
    Thứ tự sẽ làm Phật
    Đồng hiệu là Phổ-Minh
    Thứ lớp thọ ký nhau :
    Sau khi ta diệt độ
    Ông đó sẽ làm Phật
    Thế gian của ông độ
    Cũng như ta ngày nay
    Cõi nước đó nghiêm sạch
    Và các sức thần thông
    Chúng Thanh-văn Bồ-Tát
    Chánh pháp cùng tượng pháp
    Thọ mạng kiếp nhiều ít
    Đều như trên đã nói
    Ca-Diếp! Ông đã biết
    Năm trăm vị tự tại
    Các chúng Thanh-văn khác
    Cũng sẽ làm như thế
    Vị nào vắng mặt đây
    Ông nên vì tuyên nói.

 

At that time the five hundred arhats in the presence of the Buddha, having received a prophecy of enlightenment, danced for joy. Immediately they rose from their seats, advanced to a position in front of the Buddha, touched their heads to the ground and bowed to the Buddha’s feet. They bewailed their error, reproving themselves and saying, “World-Honored One, we always used to think to ourselves, We have already attained the ultimate extinction. But now we know that we were like persons of no wisdom. Why? Because, although we were capable of attaining the wisdom of the Thus Come One, we were willing to content ourselves with petty wisdom.

  1. Bấy giờ, năm trăm vị A-la-hán ở trước Phật được thọ ký xong, vui mừng hớn hở liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật, đầu mặt lạy chân Phật ăn năn lỗi của mình mà tự trách : Thế-Tôn ! Chúng con thường nghĩ như vầy, tự cho mình đã được rốt ráo diệt độ, nay mới biết đó là như người vô trí. Vì sao? Chúng con đáng được trí huệ của Như-Lai mà bèn tự lấy trí nhỏ cho là đủ.

 

“World-Honored One, it was like the case of a man who went to the house of a close friend and, having become drunk on wine, lay down to sleep. At that time the friend had to go out on official business. He took a priceless jewel, sewed it in the lining of the man’s robe, and left it with him when he went out. The man was asleep drunk and knew nothing about it. When he got up, he set out on a journey to other countries. In order to provide himself with food and clothing he had to search with all his energy and diligence, encountering very great hardship and making do with what little he could come by.

Thế-Tôn! Thí như có người đến nhà bạn thân say rượu mà nằm, lúc đó người bạn thân có việc quan phải đi, lấy châu báu vô giá cột trong áo của gã say, cho nó rồi đi. Gã đó say mèm đều không hay biết, sau khi dậy bèn dạo đi đến nước khác, vì việc ăn mặc mà phải gắng sức cầu tìm rất là khổ nhọc, nếu có được chút ít bèn cho là đủ.

 

“Later, the close friend happened to meet him by chance. The friend said, ‘How absurd, old fellow! Why should you have to do all this for the sake of food and clothing? In the past I wanted to make certain you would be able to live in ease and satisfy the five desires, and so on such-and-such a day and month and year I took a priceless jewel and sewed it in the lining of your robe. It must still be there now. But you did not know about it, and fretted and wore yourself out trying to provide a living for yourself. What nonsense! Now you must take the jewel and exchange it for goods. Then you can have whatever you wish at all times and never experience poverty or want.’

Lúc sau người bạn thân gặp gỡ thấy gã bèn bảo rằng : “Lạ thay! Anh này sao lại vì ăn mặc mà đến nỗi này. Ta lúc trước muốn cho anh được an vui tha hồ thụ năm món dục, ở ngày tháng năm dó, đem châu báu vô giá cột vào trong áo anh nay vẫn còn đó mà anh không biết, lại đi nhọc nhằn sầu khổ để cầu tự nuôi sống thực là khờ lắm; nay anh nên đem ngọc báu đó đổi chác lấy đồ cần dùng thì thường được vừa ý không chỗ thiếu thốn.

 

“The Buddha is like this friend. When he was still a bodhisattva, he taught and converted us, inspiring in us the determination to seek comprehensive wisdom. But in time we forget all that, became unaware, unknowing. Having attained the way of the arhat, we supposed we had gained extinction. Finding it difficult to provide for our livelihood, as it were, we made do with what little we could come by. However, we not yet lost the desire for comprehensive wisdom. And now the World-Honored One awakens us and makes us aware, speaking these words: ‘Monks, what you have acquired is not the ultimate extinction. For a long time I caused you to cultivate the good roots of Buddhahood, and as on expedient means I showed you the outward signs of nirvana, but you supposed that you had in truth attained nirvana.’

Đức Phật cũng lại như vậy, lúc làm Bồ-Tát giáo hóa chúng con, khiến phát lòng cầu nhứt-thiết-trí, mà chúng con liền bỏ quên không hay không biết. Đã được đạo A-la-hán tự nói là diệt-độ, khổ nhọc nuôi sống được chút ít cho là đủ, tất cả trí nguyện vẫn còn chẳng mất. Ngày nay đức Thế-Tôn giác ngộ chúng con mà nói rằng : “Các Tỳ-kheo! Đạo của các ông không phải rốt ráo diệt. Ta từ lâu đã khiến các ông gieo căn lành của Phật, dùng sức phương tiện chỉ tướng Niết-bàn mà các ông cho là thật được diệt độ”.

 

“World-Honored One, now we understand. In fact we are bodhisattvas and have received a prophecy that we will attain anuttara-samyak-sambodhi. Fro this reason we are filled with great joy, having gained what we never had before.”

Thế-Tôn! Chúng con nay mới biết mình thật là Bồ Tát được thọ ký sẽ thành đạo vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác. Vì nhân-duyên đó lòng rất vui mừng được điều chưa từng có.

 

At that time Ajnata Kaundinya and the others, wishing to state their meaning once more, spoke in verse form, saying:

Bấy giờ, ông A-Nhã Kiều-Trần-Như muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng :

 

We have heard the sound of this prophecy
assuring us of unsurpassed ease and tranquility;
we rejoice in gaining what we never had before
and make obeisance to the Buddha of measureless wisdom.
Now in the presence of the World-Honored One
we bewail our faults and errors.
Of the Buddha’s immeasurable treasure
we have gained only a small portion of nirvana,
and like ignorant and foolish persons
have taken that to be sufficient.
We are like the poor and impoverished man
who went to the house of a close friend.
The house was a very prosperous one
and he served many trays of delicacies.
The friend took a priceless jewel,
sewed it in the lining of the poor man’s robe,
gave it without a word and then went away,
and the man, being asleep, knew nothing of it.
After the man had gotten up,
he journeyed here and there to other countries,
seeking food and clothing to keep himself alive,
finding it very difficult to provide for his livelihood
He made do with what little he could get
and never hoped for anything finer,
unaware that in the lining of his robe
he had a priceless jewel.
Later the close friend who had given him the jewel
happened to meet the poor man
and after sharply rebuking him,
showed him the jewel sewed in the robe.
When the poor man saw the jewel
his heart was filled with great joy,
for he was rich, possessed of wealth and goods
sufficient to satisfy the five desires.
We are like that man.
Through the long night the World-Honored One
constantly in his pity teaches and converts us,
causing us to plant the seeds of an unsurpassed aspiration.
But because we are without wisdom,
we are unaware of this, unknowing.
Having gained a small portion of nirvana,
we are satisfied and seek nothing more.
But now the Buddha awakens us,
saying ‘This is not really extinction,
when you have gained the Buddha’s unsurpassed wisdom,
then that will be true extinction!’
Now we have heard from the Buddha
these prophecies and descriptions of adornment,
and how each in turn will bestow a prophecy on his successor,
and in body and mind we are filled with joy.

  1. Chúng con nghe vô thượng
    Tiếng thọ ký an ổn
    Vui mừng chưa từng có
    Lạy Phật trí vô lượng.
    Nay ở trước Thế-Tôn
    Tự hối các lỗi quấy
    Trong Phật báu vô lượng
    Được chút phần Niết-bàn
    Bèn tự cho là đủ.
    Như người ngu vô trí
    Thí như người nghèo cùng
    Qua đến nhà bạn thân
    Nhà đó rất giàu lớn
    Bày đủ các tiệc ngon
    Đem châu báu vô giá
    Cột dính trong vạt áo
    Thầm cho rồi bỏ đi
    Gã say nằm không hay
    Sau khi gã tỉnh dậy
    Dạo đi đến nước khác
    Cầu ăn mặc tự sống
    Nuôi sống rất khốn khổ
    Được ít cho là đủ
    Chẳng lại muốn đồ tốt
    Chẳng biết trong vạt áo
    Có châu báu vô giá
    Người thân hữu cho châu
    Sau gặp gã nghèo này
    Khổ thiết trách gã rồi
    Chỉ cho châu trong áo.
    Gã nghèo thấy châu đó
    Lòng gã rất vui mừng
    Giàu có các của cải
    Tha hồ hưởng ngũ dục.
    Chúng con cũng như vậy
    Thế-Tôn từ lâu xưa
    Thường thường giáo hóa cho
    Khiến gieo nguyện vô thượng
    Chúng con vì vô trí
    Chẳng hay cũng chẳng biết
    Được chút phần Niết-bàn
    Cho đủ chẳng cầu nữa.
    Nay Phật giác ngộ con
    Nói chẳng phải thật diệt.
    Được Phật huệ vô thượng
    Đó mới là thật diệt
    Con nay từ Phật nghe
    Thọ ký việc trang nghiêm
    Cùng tuần tự thọ ký
    Thân tâm khắp vui mừng.

 

Sources:

Tài liệu tham khảo:

  1. http://thuvienhoasen.org/p16a582/8-pham-ngu-ba-de-tu-tho-ky
  2. https://nichiren.info/buddhism/lotussutra/text/chap08.html