Chapter 7 – Chuyện Tình Qua Nhiều Kiếp Luân Hồi – Only Love Is Real, The Story Of Soulmates Reunited – Song ngữ

English: Dr. Brian L. Weiss – 1996

Việt ngữ: Vương Thị Minh Tâm.

Compile: Lotus group.

 

Chapter 7 – Chuyện Tình Qua Nhiều Kiếp Luân Hồi – Only Love Is Real, The Story Of Soulmates Reunited

   John Milton (9 December 1608 – 8 November 1674) was an

   English poet, polemicist, … for the Commonwealth of England under

   Oliver Cromwell. His best known for his epic poem Paradise Lost (1667)

 

Wert thou that just Maid who once before

Forsook the hated earth, O tell me sooth,

And cam’st again to visit us once more?

Or wert thou that sweet smiling Youth? . . .

Or any other of that heavenly brood

Let down in cloudy throne to do the world good?

Or wert thou of the golden-winged host,

Who, having clad thyself in human weed,

To earth from thy prefixed seat didst post

And after short abode fly back with speed

As if to show what creatures heaven doth breed;

Thereby to set the hearts of men on fire,

To scorn the sordid world, and unto Heaven aspire?

Em là thiếu nữ,

Đã từng rời bỏ trái đất đáng ghét này. Hãy nói thật đi em,

Chúng tôi có được đón tiếp em lần nữa không?

Em là tuổi trẻ thanh xuân ngọt ngào?…

Hay thiên thần được đưa xuống trần gian?

Hay là sinh vật có đôi cánh vàng, Tự nhận mình là kẻ yếu đuối,

Đến đây từ cõi xa xăm,

Rồi chỉ một thoáng thôi lại bay nhanh trở về,

Như thể chỉ rằng loài sinh vật trên trái đất được thiên đường sinh ra;

Bằng cách đó em đã đốt cháy tim ta,

Khinh thường thế gian nhớp nhúa,

Và khao khát bước lên thiên đường?

 

John Milton

 

Elizabeth seemed less depressed as she entered my office for her third appointment. Her eyes were brighter. “I feel lighter,” she told me. “I feel freer. . ..” Her brief recollection of herself as the young boy swept off the boat had begun to sweep away some of her fears. Not just the fears of water or of the dark, but also deeper and more basic fears, fears of death and extinction.

Elizabeth có vẻ bớt buồn khi cô trở lại phòng khám vào kỳ hẹn thứ ba. Đôi mắt cô tinh nhanh hơn. – Tôi thấy sáng sủa hơn… tự do hơn… Cô kể lại. Trong một thoáng ký ức ngắn ngủi mà đứa bé trai bị sóng quét khỏi con tàu ở kiếp xưa đã bắt đầu quét đi một phần nỗi sợ hãi hiện tại của cô. Không chỉ là nỗi sợ nước, bóng tối, nhưng sâu sắc hơn và nguyên nhân của nỗi sợ là sợ chết và tuyệt chủng.

 

She had died as that boy, and yet here she was again, as Elizabeth. At a subconscious level, her grief might have been lessening because of the knowledge that she had lived before and would live again, that death was not final. And if she could spring back again, renewed and refreshed, in a new body, then so could her loved ones. So, can we all, reborn to deal once more with the joys and hardships, with the triumphs and tragedies of life on earth.

Cô có đứa bé trai đã chết, nhưng bây giờ cô, đang sống là Elizabeth. Ở mức độ tâm thức, nỗi buồn của cô đã giảm bớt vì cô biết rằng cô đã từng sống và sẽ sống mãi. Chết không phải là điểm cuối cùng. Nếu cô có thể quay trở về nữa, làm tươi mới lại, trong một thân thể mới, thì những người thân yêu của cô cũng có thể làm như vậy. Tất cả chúng ta cũng đều có thể tái sinh để đương đầu với những khó khăn, hay thưởng thức niềm vui của chiến thắng, và đối phó với cả những bi kịch trong cuộc sống trên trái đất này.

 

Elizabeth quickly went into a deep hypnotic trance. Within a few minutes, her eyes were sweeping from side to side under her closed lids as she scanned an ancient vista. “The sand is beautiful,” she began, recalling a life as a Native American in the South, probably on the west coast of Florida. “It’s so white . . . almost pink at times. . .. It’s so fine, like sugar.” She paused for a moment. “The sun sets over the big sea. To the east are large swamps, with many birds and animals. There are lots of small islands between the swamps and the sea. The waters are filled with good fish. We catch the fish, in the rivers and between the islands.”

Elizabeth chìm sâu vào trạng thái thôi miên nhanh chóng. Khoảng vài phút, đôi mắt cô đảo qua đảo lại dưới mi mắt khi cô thu thập khung cảnh cổ xưa. – Bãi cát thật đẹp. Cô bắt đầu gợi lại một kiếp sống của dân da đỏ miền Nam, có lẽ tại bờ Tây của Florida. – Trắng quá… hầu như luôn là màu hồng… đẹp như đường cát. Cô ngừng lại một chút. – Mặt trời đang lặn về phía bên kia biển. Hướng Đông là những đầm lầy rộng lớn với muôn ngàn chim thú. Có rất nhiểu ốc đảo nhỏ giữa đầm lầy và biển. Cá nhiều vô kể. Chúng tôi cùng bắt cá trên những nhánh sông và giữa các ốc đảo.

 

She paused again, then continued.

“We are at peace. My life is very happy. My family is large; I seem to be related to many in the village. I know about roots, plants, and herbs. … I can make medicines from plants. … I know about healing.” In Native American cultures there was no penalty for using healing potions or for other holistic practices. Instead of being called witches and drowned or burned at the stake, healers were respected and often revered.

Cô lại ngừng, rồi tiếp tục kể: – Chúng tôi sống trong an bình. Cuộc đời tôi thật hạnh phúc. Gia đình tôi là một đại gia đình. Dường như tôi có liên quan đến nhiều thứ trong trong làng. Tôi biết về cây cỏ, gốc rễ, thuốc men… Tôi có thể làm thuốc từ cây lá… Tôi biết trị bệnh…Trong nền văn hóa của dân da đỏ, không có hình phạt do dùng thuốc trị bệnh cho cả thân thể và tâm trí. Thay vì bị gọi là phù thủy có nguy cơ bị dìm, bị thiêu sống, thầy thuốc thì được kính trọng và tôn quý hơn.

 

I took her forward in that lifetime, but no traumas emerged. Her life was peaceful and satisfying. She died of old age, surrounded by the entire village. “There is very little sadness with my death,” she noted after floating above her withered old body and surveying the scene below, “even though all of my village seem to be there.” She was not at all upset by the lack of grieving. There was great respect and caring for her, for her body and her soul. Only the sadness was missing.

Tôi đưa cô đi xa hơn trong kiếp đó, nhưng không có cảnh bi thương nào nổi lên. Kiếp sống đó hoàn toàn đầy đủ, yên lành. Cô chết già, trong vòng vây của cả làng. – Ít có người buồn vì tôi chết, thậm chí hầu như cả làng đều ở đó. Cô ghi nhận điều này khi linh hồn cô bay bổng trên thi thể và cô quan sát chung quanh. Cô cũng chẳng hề thất vọng vì có ít người buồn. Họ tôn kính và chăm sóc cô nhiều hơn, cả thi thể và linh hồn, chỉ không buồn mà thôi.

 

“We do not mourn deaths because we know that the spirit is eternal. It returns in human form again if its work is not finished,” she explained. “Sometimes by carefully examining the new body, the identity of the previous body can be known.” She pondered this concept for a few moments. “We look for birthmarks where scars used to be and for other signs,” she elaborated. “Similarly, we do not celebrate births so much . . . even though it may be good to see the spirit again.”

Cô giải thích: – Chúng tôi không khóc than cho cái chết, vì chúng tôi biết linh hồn bất diệt. Nó quay trở lại kiếp người nếu nghiệp lực bắt buộc.  Đôi khi do kiểm tra kỹ lưỡng một thân thể mới, sự xác nhận của thân thể trước đó có thể được biết đến. Cô suy ngẫm về khái niệm này một lát, rồi kể chi tiết:

– Chúng tôi tìm kiếm những cái bớt, nơi mà những vết sẹo từng để lại, và tìm ra những dấu hiệu khác. Tương tự như vậy, chúng tôi cũng không ăn mừng lúc được sinh… thậm chí có thể tốt hơn khi thấy linh hồn cũ trở lại.

 

She paused, perhaps searching for the words to describe this concept. “Although the earth is very beautiful and continually demonstrates the harmony and interconnectedness of all things . . . which is a great lesson . . . life is much harder here. With the greater spirit there is no disease, no pain, no separation. . .. There is no ambition, no competition, no hatred, no fear, no enemy. . .. There is only peace and harmony. So, the smaller spirit, returning, cannot be happy to leave such a place. It would be wrong for us to celebrate when the spirit is saddened. It would be very selfish and unfeeling,” she concluded.

Cô loay hoay tìm từ thích hợp để giải thích khái niệm này. Rồi cô kết luận: – Dù là trái đất rất đẹp, liên tục chứng minh sự hài hòa, kết nối giữa muôn loài… đó là bài học vĩ đại… cuộc đời ở đây nhiều nỗi khó khăn. Với những linh hồn cao cả hơn thì không hề có bệnh tật, đau thương, đổ vỡ… Không có hoài bão hay cạnh tranh, không có thù ghét hay sợ hãi, không có kẻ thù… Chỉ có hòa bình và yên lành. Do đó, những linh hồn nhỏ bé, bị quay trở lại, không thể vui vẻ rời bỏ một nơi như vậy. Rất sai lầm là ăn mừng khi linh hồn đó đang buồn hiu. Quá ích kỷ và tàn nhẫn.

 

“This does not mean that we do not welcome the returning spirit,” she quickly added. “It is important to demonstrate our love and affection at this vulnerable time.” Having explained this fascinating concept of death without sadness and birth without celebration, she was silent, resting. Here again was the concept of reincarnation and the reunion in physical form of past-life family, friends, and lovers. In all times and in diverse cultures throughout history, this concept has appeared seemingly independently.

Cô nói thêm: – Điều này cũng không có nghĩa là chúng tôi không chào đón các linh hồn trở lại. Quan trọng là chúng tôi chứng minh được tình cảm và lòng yêu thương của mình ngay lúc dễ bị tổn thương. Giải thích xong khái niệm tuyệt vời của cái chết mà không buồn, được sinh ra không ăn mừng, cô yên lặng nghỉ ngơi. Một lần nữa, ở đây lại có khái niệm về luân hồi, về sự đoàn tụ trong hình thể vật chất của gia đình từ kiếp trước, của bạn bè, của những người yêu nhau. Trong mọi thời đại và trong nhiều nền văn hóa khác nhau xuyên suốt qua lịch sử, khái niệm về luân hồi xuất hiện luôn có vẻ độc lập.

 

The dim memory of that ancient life might have helped to pull her back again to Florida, reminding her at the deepest levels of an ancestral home.

Perhaps the feeling of sand and sea, of palms and of mangrove swamps called to her soul memory, helping to lure her back with a subconscious seduction. For that life had been most pleasant and filled with satisfactions not present in her current life.

Ký ức mơ hồ trong kiếp sống cổ đại hẳn đã kéo cô trở lại một kiếp ở Florida, nhắc nhở cô trong cấp độ sâu nhất về một ngôi nhà thừa tự. Có lẽ cảm giác về cát, biển, những cây cọ, những vùng đầm lầy mênh mông gợi lại ký ức tâm hồn cô, quyến rũ cô quay lại với niềm đam mê trong tiềm thức. Bởi vì kiếp sống đó hạnh phúc nhất, tràn đầy niềm vui thú hân hoan, mà trong hiện tại cô không hề có được.

 

These ancient stirrings might have led her to apply to the University of Miami, which led to her scholarship and her move to Miami. This is not coincidence. Destiny required her to be here. “Are you tired?” I asked, returning my attention to Elizabeth, who was still resting peacefully on the recliner. “No,” she answered quietly. “Do you want to explore another lifetime?” “Yes.” More quiet. Once again, we traveled back through time, and once again she emerged in an ancient land. “This is a desolate land,” Elizabeth observed after she had scanned the scene.

Những sự khuấy động trong thời cổ đại hẳn đã đưa cô nộp đơn vào trường đại học tại Miami, hẳn đã đưa cô nhận học bổng để cô đến Miami. Đây không phải là ngẫu nhiên. Số phận yêu cầu cô phải ở đây. Nhìn Elizabeth vẫn còn yên tĩnh nghỉ ngơi trong cái ghế tựa, tôi hỏi cô: – Cô có mệt không? Cô trả lời trong tĩnh lặng: – Không. – Cô có muốn khám phá một kiếp khác không? Tĩnh lặng hơn. – Vâng. Một lần nữa, chúng tôi du hành xuyên ngược dòng thời gian, một lần nữa cô nổi lên trong miền đất vào thời cổ đại. Elizabeth quan sát sau khi thu thập hình ảnh.

 

“There are high mountains . . . dusty dirt roads . . . the traders pass on these roads. . .. This is a route for traders going east and west. …” “Do you know the country?” I asked, looking for details. I did not like to intrude with too many questions for the logical, or left-brain, part of the mind. Such questions could interfere with the immediacy of the experience, which is more a right-brain, or intuitive, function. But Elizabeth was in a profoundly deep state. She could answer the questions and yet continue to vividly experience this scene.

– Đây là vùng đất hoang tàn… có nhiều núi… những con đường bụi mù… những thương lái đi qua những con đường đó… đây là con đường mà thương lái đi từ Đông qua Tây…Tôi hỏi cô để lấy chi tiết:

– Cô có biết đất nước đó không? Tôi không thích nhét quá nhiều câu hỏi vào sự lô gích, hay vào bộ óc bên trái, một phần của tâm trí. Những câu hỏi như vậy có thể xâm phạm vào tính cấp thiết của cuộc trải nghiệm, hơn nữa, đó là bộ óc bên phải, hoặc trực giác, hoặc chức năng. Nhưng Elizabeth không chìm sâu trong trạng thái hôn mê. Cô có thể trả lời các câu hỏi và vẫn tiếp tục với những kinh nghiệm sống động trong cảnh tượng đó.

 

Details were important, too. “India … I think,” she answered hesitantly. “Maybe just west of that … I don’t think the borders are that clear. We live in the mountains, and there are passes the traders must go through,” she added, returning to the scene. “Do you see yourself?” I asked. “Yes … I’m a girl . . . about fifteen. My skin is darker, and I have black hair. My clothes are dirty. I work in the stables . . . tending to the horses and mules. . .. We are very poor. The weather is so cold; my hands are so cold working here.”

Cô trả lời hơi do dự: – Tôi nghĩ là Ấn Độ. Cô nói thêm: – Có lẽ miền Tây Ấn Độ. Tôi không nhìn thấy rõ biên giới. Chúng tôi sống trên những ngọn núi, có nhiều người qua đường và các thương lái phải đi băng qua đó. Rồi cô quay về cảnh tượng đó. – Cô có nhìn thấy mình không? – Vâng. Tôi là cô gái… khoảng mười lăm tuổi. Da tôi đen, tóc tôi cũng đen. Quần áo tôi rất dơ . Tôi làm việc trong chuồng ngựa… chăm sóc ngựa và la… chúng tôi rất nghèo. Thời tiết lạnh giá. Tay tôi tê cứng khi làm việc này.

 

Her face grimacing, Elizabeth made fists with both hands. This young girl was innately bright but uneducated. Life was grindingly difficult. Traders frequently abused her, sometimes leaving a little money. Her family was unable to protect her. Numbing cold and constant hunger plagued her life. There was only one bright spot in that young girl’s life. “There’s a young trader who comes by often with his father and the others. He loves me, and I love him. He is funny and gentle, and we laugh a lot together. I wish he could just stay so we can be together all the time.”

Gương mặt nhăn nhúm, Elizabeth xiết đôi bàn tay lại. Cô gái nhỏ này thông minh nhưng thất học. Cuộc sống khó khăn cùng cực. Những kẻ thương buôn thường hành hạ cô, thỉnh thoảng cho một ít tiền. Gia đình cô không thể bảo bọc che chở cô. Đói và lạnh luôn luôn quấy phá cuộc đời cô. Duy có một điểm sáng trong đời cô gái nhỏ. – Có một thương buôn trẻ tuổi thường xuyên ghé qua cùng cha anh ấy và nhiều người khác. Anh ấy yêu tôi. Anh rất vui nhộn và lịch lãm. Chúng tôi vui đùa với nhau. Tôi mong anh ở lại để chúng tôi được gần gũi bên nhau mãi.

 

This was not to be. She died at the age of sixteen. Her body, already worn out because of the bitter life and elements, quickly succumbed to pneumonia. Her family was around her when she died. As we reviewed this brief life, Elizabeth was not sad. She had learned an important lesson. “Love is the strongest force in the world,” she said softly. “Love can grow and bloom even in frozen soil and in the harshest conditions. It exists everywhere, and all the time. Love is a flower for all the seasons.” Her face was filled with a beautiful smile.

Điều này không thể xảy ra. Cô chết năm mười sáu tuổi. Thi thể cô xác xơ. Những năm tháng nghèo khổ, và thời tiết khắc nghiệt, nhanh chóng đẩy cô đến cái chết vì bệnh phổi. Gia đình đứng chung quanh thi thể cô. Khi chúng tôi ôn lại kiếp sống ngắn ngủi này, Elizabeth không buồn. Cô đã học được bài học quan trọng. Cô nói dịu dàng: – Tình yêu là năng lực mãnh liệt nhất trên đời. Tình yêu vẫn luôn đơm hoa, kết trái, thậm chí trong đất lạnh hay trong tình trạng tồi tệ nhất. Nó tồn tại khắp nơi, và bất diệt. Tình yêu là cánh hoa trong cả bốn mùa. Khuôn mặt cô rạng rỡ với nụ cười tươi tắn.

 

A patient of mine, a Catholic attorney, had just finished recalling a European lifetime in the late Middle Ages. He had remembered his death in that lifetime, a lifetime filled with greed, violence, and deceit. He was cognizant that some of these traits had persisted into his current life. Now, reclining in the soft leather chair in my office, he was aware of floating out of his body in that medieval lifetime. Suddenly he found himself standing in a hell like environment, amidst fires and devils. This surprised me. Although I had encountered thousands of past-life deaths in my patients, no one had ever had an experience with hell. Almost invariably people find themselves drawn to an indescribably beautiful light, a light that renews and reenergizes the spirit. But hell?

Một bệnh nhân của tôi là luật sư, thuộc đạo Thiên Chúa, đã từng trở về một kiếp sống ở Châu Âu cuối thời Trung cổ. Anh nhớ lại cái chết của mình trong kiếp đó, một kiếp sống đầy tham lam, bạo lực, lừa dối. Anh nhận thức được rằng có vài nét này vẫn còn tồn tại trong kiếp hiện tại của anh. Khi nằm tựa vào cái ghế da bành trong phòng khám của tôi, anh thấy mình đang bay lơ lửng trên thi thể của thời Trung cổ. Bỗng nhiên anh thấy mình đang đứng giữa địa ngục, giữa những ngọn lửa và quỷ sứ. Điều này làm tôi ngạc nhiên. Mặc dù tôi đã đối mặt với hàng

ngàn cái chết trong quá khứ của bệnh nhân, không có người nào đã từng trải nghiệm dưới địa ngục. Hầu hết bao giờ con người cũng tìm thấy chính mình bị kéo theo một ánh sáng diệu kỳ, ánh sáng làm mới và truyền sinh lực lại cho linh hồn. Nhưng địa ngục?

 

I waited for something to happen, but he reported that nobody paid any attention to him. He was waiting, too. Minutes passed. Finally, a spiritual figure, whom he identified as Jesus, appeared and walked over to him. This was the first being who even noticed him. “Don’t you realize that this is all illusion?” Jesus said to him. “Only love is real!” And then the fires and the devils instantly disappeared, revealing the beautiful light that had been there, unseen, behind the illusion. Sometimes you get what you expect, but it may not be real.

Tôi mong chờ điều gì đó xảy ra, nhưng anh kể lại rằng không ai quan tâm đến anh. Anh cũng đang chờ. Nhiều phút trôi qua. Cuối cùng thì có một bóng hình linh hồn mà anh nhận ra là Chúa Jesus xuất hiện và bước đến phía anh. Đây là người đầu tiên để ý đến anh. Jesus nói với anh: – Con không nhận ra đây chỉ là ảo tưởng sao? Chỉ có tình yêu mới là thật! Rồi các ngọn lửa và quỷ sứ biến mất lập tức, để lộ ra ánh sáng tuyệt vời ở đó, mà anh không nhìn thấy, giấu sau ảo tưởng. Đôi khi chúng ta đạt được cái ta mong đợi, nhưng nó không thật.

 

Sources:

Tài Liệu tham khảo:

  1. https://tienvnguyen.net/images/file/YRPlCFHe1ggQANQv/chuyentinhquanhieukiepluanhoi.pdf
  2. https://tienvnguyen.net/images/file/3LljBlHe1ggQAFM5/onlyloveisreal.pdf
  3. http://thuvienhoasen.org/images/file/KD6h3bSo0QgQAKUC/chuyen-tinh-qua-nhieu-kiep-luan-hoi.pdf