Chapter 6 – Tiền Kiếp Và Luân Hồi Có Thật Không? – Many Lives, Many Masters – Song ngữ

English: Dr. Brian L. Weiss

Việt ngữ: Thích Tâm Quang

Compile: Lotus group

Chapter 6 – Tiền Kiếp Và Luân Hồi Có Thật Không? – Many Lives, Many Masters

I now scheduled Catherine’s weekly sessions at the end of the day, because they were lasting several hours. She still had that peaceful look about her when she came in the following week. She had talked with her father on the phone. Without giving him any details, she had, in her own way, forgiven him. I had never seen her this serene. I marveled at the rapidity of her progress. It was rare for a patient with such chronic, deep-seated anxieties and fears to improve so dramatically. But then, of course, Catherine was hardly an ordinary patient, and the course her therapy had taken was certainly unique.

Bây giờ tôi ấn định các buổi thôi miên hàng tuần cho Catherine vào cuối ngày vì các buổi này phải mất chừng vài tiếng. Cô vẫn có bề ngoài thanh thản khi cô đến vào tuần kế tiếp. Cô đã nói chuyện bằng điện thoại với cha cô. Không cho cha cô biết chi tiết nào, cô đã tha thứ cho ông theo cách của cô. Tôi chưa bao giờ thấy cô thanh thản như thế. Tôi kinh ngạc về sự tiến bộ nhanh chóng của cô. Rất hiếm có một bệnh nhân với nỗi lo âu kinh niên và sợ hãi thâm chí thâm căn cố đế chuyển biến quá đột ngột như vậy. Mặt khác, dĩ nhiên Catherine không phải là một bệnh nhân thường, và tiến trình chữa trị cho cô là duy nhất.

 

“I see a porcelain doll sitting on some type of mantel.” She had quickly fallen into a deep trance. “There are books next to the fireplace on both sides. It’s a room within some house. There are candlesticks next to the doll. And a painting . . . of the face, the man’s face. It’s him. . ..” She was scanning the room. I asked her what she was seeing. “Some type of covering on the floor. It’s fuzzy like it’s . . . it is an animal skin, yes … some type of animal-skin covering on the floor. To the right there are two glass doors . . . that lead out onto the veranda. There are four steps-columns on the front of the house-four steps down. They lead out to a path. Big trees are all around. . .. There are some horses outside. The horses are bridled … to some posts that are sitting out front.” “Do you know where this is?” I inquired. Catherine took a deep breath.

“Tôi nhìn thấy một con búp bê sứ để trên mặt loại lò sưởi nào đó.” Cô đã rơi nhanh vào hôn mê sâu. “Có những cuốn sách ở cả hai bên gần lò sưởi. Đó là một căn phòng trong một ngôi nhà nào đó. Có những cây đèn nến gần con búp bê và một bức tranh chân dung … một bộ mặt, mặt của một người đàn ông… Đó là ông ta…” Cô đang quan sát căn phòng. Tôi hỏi cô, cô nhìn thấy gì.”Một loại thảm phủ sàn nhà. Nó xù xù giống như … đó là da thú… phải một loại da thú phủ sàn nhà. Bên phải có hai cửa kính… dẫn ra ngoài hành lang. Có bốn bậc -những cái cột ở mặt tiền – Có bốn bậc thềm đi xuống. Những bậc này dẫn ra một con đường. Nhiều cây to bao chung quanh… Có một vài con ngựa bên ngoài. Những con ngựa được buộc vào …. mấy cái cọc ở phía trước”. Tôi hỏi , “Cô có biết chỗ ấy ở đâu không?” Catherine hít một hơi dài.

 

… there are trees and yellow flowers. I was reminded

of a field of sunflowers in the south of France.

 

“I don’t see a name,” she whispered, “but the year, the year must be somewhere. It’s the eighteenth century, but I don’t . . . there are trees and yellow flowers, very pretty yellow flowers.” She was distracted by these flowers. “They smell wonderful; they smell sweet, the flowers . . . strange flowers, big flowers . . . yellow flowers with black centers in them.” She paused, remaining among the flowers. I was reminded of a field of sunflowers in the south of France. I asked her about the climate. “It’s very temperate, but it’s not breezy. It’s neither hot nor cold.” We were not making any progress in identifying the locale. I rook her back into the house, away from the fascinating yellow flowers, and I asked her whose portrait was above the mantel.

“Cô thì thào, “Tôi không biết địa điểm”, “nhưng năm, năm phải ở đâu đây. Đó là thế kỷ thứ mười tám,nhưng tôi không biết … có cây cối và hoa vàng, những bông hoa vàng rất đẹp”. Cô bị xao lãng bởi những bông hoa này. “Mùi hoa tuyệt vời; ngọt ngào, những bông hoa… những bông hoa kỳ lạ, những bông hoa to lớn… những bông hoa vàng nhị đen ở giữa hoa”. Cô tạm ngừng, vẫn còn ở giữa những bông hoa. Tôi nhớ đến những cánh đồng hoa hướng dương ở miền nam nước Pháp. Tôi hỏi cô về khí hậu tại đấy. “Rất ôn hòa, không gió nhiều. Không nóng mà cũng chẳng lạnh”. Chúng tôi không đạt được sự tiến triển nào trong việc nhận dạng ra nơi nào. Tôi đưa cô trở lại ngôi nhà, xa rời những đóa hoa vàng quyến rũ, và tôi hỏi cô chân dung để trên lò sưởi.

 

“I can’t … I keep hearing Aaron … his name is Aaron.” I asked if he owned the house. “No, his son does. I work there.” Once again, she was cast as a servant. She had never even remotely approached the status of a Cleopatra or a Napoleon. Doubters of reincarnation, including my own scientifically trained self until the past two months, often point to the much higher than expected frequency of incarnations as famous people. Now I found myself in the most unusual position of having reincarnation being proved scientifically right in my offices in the Department of Psychiatry. And much more than reincarnation was being revealed.

“Tôi không thể…Tôi vẫn nghe Aaron… tên ông đó là Aaron.” Tôi hỏi liệu ông ta là chủ nhà không. “Không, con ông ta mới là chủ nhà. Tôi làm việc ở đấy”. Lại một lần nữa cô được phân vai là người hầu. Cô chưa bao giờ được đến gần tượng của Cleopatra hay Napoleon. Những người nghi ngờ về đầu thai luân hồi, kể cả bản thân tôi được huấn luyện khoa học cho đến tận hai tháng vừa qua, thường trông đợi vào tình trạng hay xảy ra về hóa thân hơn của những người nổi tiếng rất nhiều. Bây giờ tôi thấy mình đang ở một vị thế bất thường nhất vì đã chứng minh được luân hồi bằng khoa học ngay tại văn phòng của Khoa Tâm Thần. Và hơn thế nữa,luân hồi đang được khám phá.

 

“My leg is very . . .” Catherine continued, “very heavy. It hurts. It almost feels like it’s not there. . .. My leg is hurt. The horses kicked me.” I told her to look at herself. “I have brown hair, brown curly hair. I have some type of bonnet on, some type of white bonnet … a blue dress with some type of pinafore on the dress . . . apron. I’m young, but not a child. But my leg hurts. It just happened. It hurts terribly.” She was visibly in great pain. “Shoe . . . shoe. He kicked me with his shoe. He’s a very, very mean horse.”

“Cẳng tôi rất …” Catherine tiếp tục, “rất nặng. Nó bị đau. Hầu như là nó không ở đấy… Chân tôi đau. Ngựa đá tôi”. Tôi bảo cô hãy nhìn vào chính mình.”Tôi có tóc mầu nâu, tóc nâu xoắn. Tôi mang một loại mũ bê rê, một loại mũ bê rê trắng … một bộ đồ xanh với một loại tạp dề bên ngoài … tạp dề. Tôi trẻ nhưng không phải là đứa trẻ con. Nhưng chân tôi đau. Việc mới xẩy ra, tôi bị đau kinh khủng”. Trông cô thấy rõ là rất đau. ” Móng ngựa… móng ngựa. Nó đá tôi bằng móng của nó. Con ngựa này thật hắc búa”.

 

Her voice grew softer as the pain finally subsided. “I can smell the hay, the feed in the barn. There are other people working in the stable area.” I asked about her duties. “I was responsible for serving . . . for serving in the big house. I also had something to do with milking the cows.” I wanted to know more about the owners.

Giọng cô trở nên dịu hơn vì cuối cùng cơn đau đã giảm. “Tôi có thể ngửi thấy mùi cỏ khô, cỏ khô trong chuồng. Có người đang làm việc trong khu chuồng ngựa”. Tôi hỏi về nhiệm vụ của cô. “Tôi có bổn phận hầu hạ… hầu hạ trên nhà lớn. Tôi cũng phải làm việc vắt sữa bò”. Tôi muốn biết nhiều hơn về những người chủ.

 

“The wife is rather plump, very dowdy-looking. And there are two daughters. … I do not know them,” she added, anticipating my next question whether any had appeared yet in Catherine’s current lifetime. I inquired about her own family in the eighteenth century. “I don’t know; I don’t see them. I don’t see anybody with me.” I asked if she lives there. “I lived here, yes, but not in the main house. Very small . . . the house is provided for us. There are chickens. We gather up the eggs. They’re brown eggs. My house is very small . . . and white . . . one room. I see a man. I live with him. He has very curly hair and blue eyes.” I asked if they are married. “Not their understanding of marriage, no.” Was she born there? “No, I was brought to the estate when I was very young. My family was very poor.” Her mate did not seem familiar. I directed her to move ahead in time to the next significant event in that lifetime. “I see something white . . . white with many ribbons on it. Must be a hat. Some type of bonnet, with feathers and white ribbons.” “Who is wearing the hat? Is it-” She cut me off.

“Người vợ khá tròn trĩnh, trông rất vụng về. Có hai đứa con gái… Tôi không biết chúng”.Cô nói thêm, đoán trước câu hỏi tiếp theo của tôi là liệu có người nào đã hiện thân trong đời sống hiện tại của Catherine không. Tôi hỏi về gia đình cô ở thế kỷ thứ mười tám. “Tôi không biết, Tôi không nhìn thấy họ, Tôi không thấy ai ở với tôi. Tôi hỏi có phải cô sống ở đấy không. “Vâng tôi sống ở đấy, nhưng không phải ở tòa nhà chính. Một cái nhà rất nhỏ… họ cho chúng tôi. Có những con gà. Chúng tôi nhặt trứng. Trứng gà màu nâu. Nhà tôi rất nhỏ… và trắng… một phòng. Tôi thấy một người đàn ông. Tôi sống với người này. Anh ta có bộ tóc xoắn và mắt xanh”. Tôi hỏi phải chăng họ là vợ chồng. “Không phải trong nghĩa vợ chồng, không.” Có phải cô sinh ra ở đấy không? Không, Tôi được mang về vùng này khi tôi còn rất trẻ. Gia đình tôi rất nghèo”. Người đàn ông của cô dường như không thân thuộc. Tôi bảo cô đi xa hơn nữa trong đời sống này để tìm ra biến cố có ý nghĩa hơn. “Tôi nhìn thấy cái gì đó trắng… trắng với nhiều dải trên đó. Phải là một cái mũ. Một loại mũ bê rê, với những lông vũ và dải trắng.””Ai đội mũ ấy. Có phải -Cô ngắt lời tôi.

 

“The lady of the house, of course.” I felt a bit stupid. “It’s the marriage of one of their daughters. The whole estate joined in the celebration.” I asked if there was anything in the newspaper about the wedding. If there was, I would have had her look at the date. “No, I don’t believe they have newspapers there. I see nothing like that.” Documentation was proving difficult to come by in this lifetime. “Do you see yourself at the wedding?” I asked. She answered quickly, in a loud whisper. “We’re not at the wedding. We can only watch the people coming and going. The servants are not allowed.” “What are you feeling?” “Hatred.” “Why? Do they treat you poorly?” “Because we are poor,” she answered softly, “and we’re bonded to them. And we have so little compared to what they have.” “Do you ever get to leave the estate? Or do you live out your life there?” She answered wistfully. “I live out my life there.” I could feel her sadness. Her life was both difficult and hopeless. I progressed her to the day of her death.

“Bà chủ ngôi nhà này, dĩ nhiên”. Tôi cảm thấy hơi ngớ ngẩn. Đó là đám cưới của một trong hai người con gái. Toàn bộ cơ ngơi này tham gia lễ cưới.” Tôi hỏi cô báo chí có nói gì về đám cưới này không. Nếu có tôi muốn cô nhìn vào ngày tháng. “Không, tôi không tin là có báo chí tại đấy. Tôi không thấy cái gì như thế. Khó mà tìm được tài liệu để chứng minh ở kiếp sống này”. ” Cô có thấy cô trong đám cưới này không?” Tôi hỏi. Cô to tiếng trả lời nhanh chóng.”Chúng tôi không dự đám cưới. Chúng tôi chỉ nhìn thấy người ta ra vào. Những người đầy tớ không được phép”. “Cảm nghĩ của cô thế nào?””Ghét”.”Tại sao? Họ đối xử với cô không tốt ư? “Cô trả lời dịu dàng, “Vì chúng tôi nghèo, và chúng tôi bị ràng buộc với họ. Chúng tôi không thể sánh với những gì họ có”. “Cô có bao giờ ra khỏi cơ ngơi này không? Hay cô ở đấy suốt đời?”Cô trả lời có vẻ đăm chiêu. “Tôi ở đấy suốt đời”. Tôi cảm thấy nỗi buồn của cô. Cuộc đời của cô vừa khó khăn vừa vô vọng. Tôi bảo cô tiến tới ngày chết.

 

“I see a house. I’m lying-in bed, lying on the bed. They’re giving me something to drink, something warm. It has a minty odor to it. My chest is very heavy. It’s difficult to breathe. . .. I have pain in my chest and my back. . .. It’s a bad pain . . . difficult to talk.” She was breathing rapidly and shallowly, in great pain. After a few minutes of agony, her face softened, and her body relaxed. Her breathing returned to normal. “I have left my body.” Her voice was louder and husky. “I see a wonderful light. . .. There are people coming to me. They are coming to help me. Wonderful people. They are not afraid. … I feel very light. . ..” There was a long pause. “Do you have any thoughts about the lifetime you just left?”

“Tôi thấy một ngôi nhà. Tôi thức dậy muộn, đang nằm dài trên giường. Họ cho tôi uống một thứ gì đó, một thứ gì ấm. Có mùi bạc hà. Lồng ngực tôi rất nặng nề. Rất khó thở… Tôi đau nơi ngực và lưng… Đó là một nỗi đau tồi tệ… rất khó diễn đạt”. Cô thở nhanh và thở hắt ra, trong nỗi đau ghê gớm. Sau ít phút hấp hối, mặt cô dịu lại và thân thể cô giãn ra. Hơi thở của cô trở lại bình thường. “Tôi đã rời khỏi thân xác”. Giọng cô to và khàn khàn. “Tôi nhìn thấy một ánh sáng tuyệt vời … Có người lại với tôi. Họ đến để giúp tôi. Những người tuyệt vời. Họ không sợ hãi… Tôi cảm thấy rất nhẹ nhàng…” Ngưng khá lâu. “Cô có suy nghĩ nào về kiếp sống mà cô vừa bỏ đi không?”

 

“That is for later. For now, I just feel the peace. It’s a time of comfort. The party must be comforted. The soul … the soul finds peace here. You leave all the bodily pains behind you. Your soul is peaceful and serene. It’s a wonderful feeling . . . wonderful, like the sun is always shining on you. The light is so brilliant! Everything conies from the light! Energy comes from this light. Our soul immediately goes there. It’s almost liked a magnetic force that we’re attracted to. It’s wonderful. It’s like a power source. It knows how to heal.” “Does it have a color?” “It’s many colors.” She paused, resting in this light. “What are you experiencing?” I ventured. “Nothing . . . just peacefulness. You’re among your friends. They are all there. I set many people. Some are familiar; others are not. But we’re there, waiting.” She continued to wait, as minutes slowly passed. I decided to push the pace. “I have a question to ask.”

“Đó là sau này. Bây giờ, tôi cảm thấy an bình. Đây là lúc an ủi. Người tham dự phải được giải khuây. Linh hồn … linh hồn tìm thấy an bình nơi đây. Bạn để lại tất cả đau đớn thể xác sau bạn. Linh hồn của bạn an lạc và thanh thản. Đó là một cảm giác tuyệt vời…. tuyệt vời, như thể mặt trời luôn luôn chiếu sáng vào bạn. Ánh sáng thật rực rỡ! Mọi thứ xuất phát từ ánh sáng! Năng lượng xuất phát từ ánh sáng. Linh hồn của chúng ta đi ngay đến đó. Nó hầu như giống một lực từ trường lôi cuốn chúng ta vào. Thật là tuyệt vời. Nó giống như nguồn sức mạnh. Nó biết cách chữa lành.””Nó có mầu sắc không?” “Nó nhiều mầu sắc.” Cô ngưng lại và nghỉ ngơi trong ánh sáng này. Tôi đánh bạo hỏi, “Thế cô đang kinh qua cái gì?” “Không có gì cả… chỉ là sự an bình mà thôi. Bạn đang ở giữa đám bạn bè. Họ đều ở đây. Tôi nhìn thấy rất nhiều người. Một số người rất quen, một số người không quen. Nhưng chúng tôi ở đấy, chờ đợi”. Cô tiếp tục đợi và ít phút chậm chạp trôi qua. Tôi quyết định đẩy nhanh nhịp độ.

“Tôi có câu hỏi”

 

“Of whom,” Catherine asked. “Somebody-you or the Masters,” I hedged. “I think the understanding of this will help us. The question is this: Do we choose the times and the manner of our birth and our death? Can we choose our situation? Can we choose the time of our passing over again? I think understanding that will ease a lot of your fears. Is there anyone there who can answer that question?” The room felt cold. When Catherine spoke again, her voice was deeper and more resonant. It was a voice I had never heard before. It was the voice of a poet.

“Về ai” Catherine hỏi.”Một người nào đó – cô hay các Bậc Thầy”, Tôi quanh co, ” Tôi nghĩ rằng hiểu biết điều này sẽ giúp chúng tôi. Câu hỏi như thế này: Chúng ta chọn thời điểm và cách sinh ra, cách chết không? Chúng ta có thể chọn tình thế không? Có thể chúng ta chọn thời điểm né tránh nữa không? Tôi nghĩ hiểu được việc đó thì sẽ giảm nhiều sợ hãi. Có người nào ở đấy có thể trả lời câu hỏi này không?” Căn phòng hình như lạnh lẽo. Khi Catherine nói lại, giọng cô sâu hơn và âm vang hơn. Đó là một giọng nói mà tôi chưa từng nghe trước đây. Đó là giọng nói của một thi nhân.

 

“Yes, we choose when we will come into our physical state and when we will leave. We know when we have accomplished what we were sent down here to accomplish. We know when the time is up, and you will accept your death. For you know that you can get nothing more out of this lifetime. When you have time, when you have had the time to rest and re-energize your soul, you are allowed to choose your re-entry back into the physical state. Those people who hesitate, who are not sure of their return here, they might lose the chance that was given them, a chance to fulfill what they must when they’re in physical state.” I knew immediately and completely that this was not Catherine speaking. “Who is speaking to me,” I implored; “who is talking?”

“Vâng, chúng ta chọn khi chúng ta nhập vào trạng thái thể chất của chúng ta, và khi chúng ta rời bỏ. Chúng ta biết khi chúng ta đã hoàn thành cái mà chúng ta được gửi xuống nơi này để hoàn tất. Chúng ta biết khi nào thời điểm đến, và bạn sẽ phải chấp nhận cái chết của bạn. Vì bạn biết là bạn chẳng kiếm được gì nữa ngoài kiếp sống này. Khi bạn có thời gian, khi bạn đã có thời gian để nghỉ ngơi và tiếp sinh lực lần nữa cho linh hồn của bạn, bạn được phép tái nhập lại trạng thái vật chất. Những người do dự, những người không chắc chắn quay về nơi đây, họ có thể mất cơ may cho họ, cơ may để chu toàn điều họ phải làm khi họ ở trong trạng thái vật chất”. Tôi hoàn toàn biết ngay đó không phải là Catherine nói. “Ai là người đang nói với tôi,” tôi cầu khẩn; “Ai đang nói”

 

Catherine answered in her familiar soft whisper. “I don’t know. The voice of someone very . . . somebody who controls things, but I don’t know who it is. I can only hear his voice and try to tell you what he says.”

Catherine trả lời với giọng thì thào quen thuộc. “Tôi không biết. Giọng nói của một người nào đó …. chính người kiểm soát sự việc, nhưng tôi không biết là ai. Tôi chỉ có thể nghe tiếng người ấy và cố gắng nói cho ông biết người ấy nói gì.”

 

She also knew this knowledge was not coming from herself, not from the subconscious, nor from the unconscious. Not even her superconscious self. She was somehow listening to, then conveying to me, the words or thoughts of someone very special, someone who “controls things.” Thus, another Master had appeared, different from the one, or several, from whom the previous wisdom-laden messages had come. This was a new spirit, with a characteristic voice and style, poetic and serene. This was a Master who spoke about death without any hesitation, yet whose voice and thoughts were steeped with love. The love felt warm and real, yet detached and universal. It felt blissful, yet not smothering or emotional or binding. It relayed a feeling of loving detachment or detached loving-kindness, and it felt distantly familiar. Catherine’s whisper grew louder. “I have no faith in these people.” “No faith in which people?” I queried. “In the Masters.”

Cô cũng biết kiến thức này không bắt nguồn từ nơi cô, không phải từ tiềm thức, cũng không phải từ vô thức. Thậm chí không phải từ cái ngã siêu thức của cô. Bằng cách này cách khác cô đã nghe được và truyền đạt cho tôi, những lời nói và tư tưởng của một người nào đó rất đặc biệt, một người nào đó “kiểm soát sự việc.” Bởi vậy một Bậc Thầy khác đã xuất hiện, khác hẳn vị thầy hay một số thầy từ những lời phán truyền đầy thông thái trước đây. Đó là một thần linh mới, với một giọng nói và kiểu cách tiêu biểu, rất nên thơ và thanh thản. Đó là Bậc Thầy nói về cái chết không chút lưỡng lự, tuy giọng nói và tư tưởng thấm đượm tình thương yêu. Tình thương yêu dường như nồng ấm và thiết thực, tuy vô tư và phổ quát. Tình thương đó dường như hạnh phúc tột đỉnh, nhưng không che giấu, hay xúc động hay trói buộc. Nó tiếp sức cho cảm nghĩ về tình thương vô tư, hay lòng trìu mến vô tư và nó hình như thân thuộc xa xôi. Giọng thì thào của Catherine trở nên lớn hơn.”Tôi không có niềm tin vào những người này.””Không có niềm tin vào những người nào” Tôi chất vấn. “Vào những Bậc Thầy.”

 

“No faith?”

“No, I have lack of faith. That’s why my life has been so difficult. I had no faith in that lifetime.” She was calmly evaluating her eighteenth-century life. I asked her what she had learned in that lifetime. “I learned about anger and resentment, about harboring your feelings toward people. I also had to learn that I have no control over my life. I want control, but I don’t have any. I must have faith in the Masters. They will guide me throughout. But I did not have the faith. I felt like I was doomed from the beginning. I never looked at things very pleasantly. We must have faith … we must have faith. And I doubt. I choose to doubt instead of believe.” She paused.

“Không có niềm tin?”

“Không, tôi không có niềm tin. Đó là lý do tại sao đời tôi quá khó khăn. Tôi đã không có niềm tin ở trong kiếp sống đó.” Cô bình tĩnh đánh giá cuộc sống của cô ở thế kỷ thứ mười tám. Tôi hỏi cô đã học hỏi được gì trong kiếp sống đó. “Tôi biết nóng giận và hận thù, biết nuôi dưỡng cảm nghĩ của tôi đối với người ta. Tôi cũng biết là tôi đã không kiểm soát được đời tôi. Tôi muốn kiểm soát nhưng tôi không có gì. Tôi phải có niềm tin ở các Bậc Thầy. Các Thầy sẽ hướng dẫn tôi thông suốt. Nhưng tôi lại không có niềm tin. Tôi cảm thấy như thể là bị thất bại ngày từ lúc đầu. Tôi không bao giờ nhìn vào sự việc một cách vui vẻ. Chúng ta phải có niềm tin … chúng ta phải có niềm tin. Nhưng tôi lại nghi ngờ. Tôi chọn nghi ngờ thay vì tin tưởng”. Cô ngưng lại.

 

“What should you do, and I do, to make ourselves better? Are our paths the same?” I asked. The answer came from the Master who last week had spoken of intuitive powers and of returning from comas. The voice, the style, the tone, were all different from both Catherine’s and from the masculine, poetic Master who had just spoken.

“Cô nên làm gì, và Tôi làm gì để làm cho chúng ta tốt hơn? Phải chăng con đường của chúng ta vẫn như thế?” Tôi hỏi. Câu trả lời của Bậc Thầy tuần trước đã nói về sức mạnh trực giác và sự trở về từ hôn mê bất tỉnh. Giọng nói, kiểu nói, âm thanh, tất cả đều khác với Catherine lẫn vị Thầy phái nam, thi nhân vừa mới nói.

 

“Everybody’s path is basically the same. We all must learn certain attitudes while we’re in physical state. Some of us are quicker to accept them than others. Charity, hope, faith, love … we must all know these things and know them well. It’s not just one hope and one faith and one love-so many things feed into each one of these. There are so many ways to demonstrate them. And yet we’ve only tapped into a little bit of each one. . ..

“Con đường của mỗi người trên cơ bản là giống nhau. Tất c ảchúng ta phải học hỏi một số thái độ trong khi chúng ta ở trong trạng thái vật chất. Một số người trong chúng ta chấp nhận chúng nhanh hơn những người khác. Lòng nhân từ, hy vọng, niềm tin, tình thương … tất cả chúng ta phải biết và biết rõ những điều này. Không phải chỉ có một hy vọng, một niềm tin, và một tình thương – có nhiều thứ nuôi dưỡng một trong những thứ này. Có rất nhiều cách để diễn tả chúng. Và tuy vậy chúng ta chỉ mới kết nối một chút vào mỗi một…

 

“People of the religious orders have come closer than any of us have because they’ve taken these vows of chastity and obedience. They’ve given up so much without asking for anything in return. The rest of us continue to ask for rewards-rewards and justifications for our behavior . . . when there are no rewards, rewards that we want. The reward is in doing, but doing without expecting anything . . .doing unselfishly.

“Người của những đoàn thể tôn giáo đã tới gần hơn bất kỳ ai ở trong số chúng ta vì họ đã có những lời nguyện và sự tuân theo. Họ nhượng bộ nhiều mà không đòi hỏi gì trở lại. Phần còn lại của chúng ta tiếp tục đòi hỏi ân huệ-giải thưởng và sự liên hệ cho cách ứng xử của chúng ta … khi không có giải thưởng mà chúng ta muốn. Giải thưởng nằm trong việc làm, nhưng việc làm mà không trông đợi gì, làm một cách không vị kỷ.

 

“I have not learned that,” Catherine added, in her soft whisper. For a moment I was confused by the word “chastity,” but I remembered that the root meant “pure,” referring to a much different state from that of just sexual abstinence. “. . . Not to overindulge,” she continued. “Anything done to excess …in excess. . .. You will understand. You really do understand.” She paused again.

“I’m trying,” I added. Then I decided to focus on Catherine. Perhaps the Masters had not yet left. “What can I do to best help Catherine to overcome her fears and anxieties? And to learn her lessons? Is this the best way, or should I change something? Or follow up in a specific area? How can I help her the best?”

Catherine thêm bằng một giọng thì thầm dịu dàng, “Tôi đã không biết điều đó.” Tôi bối rối một lần bởi từ “trong trắng” nhưng tôi nhớ nghĩa gốc của nó là “thanh khiết” nói đến ở một trạng thái rất khác với trinh tiết. Cô tiếp tục. “Không phải là ham mê thái quá, điều gì làm quá nhiều… quá nhiều Bạn sẽ hiểu. Bạn sẽ thực sự hiểu”. Cô lại ngừng.Tôi thêm,”Tôi đang cố gắng”. Rồi tôi quyết định tập trung vào Catherine. Có lẽ các Bậc Thầy chưa rời đi. ” Tôi có thể làm gì tốt nhất để giúp Catherine vượt qua sợhãi và lo âu? Và học hỏi được những bài học của cô? Đó có phải là cách tốt nhất không, hay tôi phải thay đổi cái đó? Hay phải đi vào một nơi đặc biệt? Làm sao tôi có thể giúp cô tốt nhất? “

 

The answer came in the deep voice of the poet Master. I leaned forward in my chair. “You are doing what is correct. But this is for you, not for her.” Once

again, the message was that this was for my benefit more than for Catherine’s. “For me?”

“Yes. What we say is for you.” Not only was he referring to Catherine in the third person, but he said “we.” There were, indeed, several Master Spirits in attendance.

“Can I know your names?” I asked, immediately wincing at the mundane nature of my question. “I need guidance. I have so much to know.”

The answer was a love poem, a poem about my life and my death. The voice was soft and tender, and I felt the loving detachment of a universal spirit. I listened in awe,

Câu trả lời đến từ một giọng sâu của Bậc Thầy thi nhân. Từ trên ghế tôi nhoài người về phía trước. “Ông đang làm điều đúng. Nhưng điều đó cho ông chứ không phải cho cô ấy. Một lần nữa, lời nhắn nhủ nói là vì lợi ích của tôi nhiều hơn là cho Catherine.

“Cho tôi?”

“Đúng. Cái mà chúng tôi nói là cho ông.” Không những ông đang đề cập đến Catherine ở ngôi thứ ba mà ông còn nói “chúng tôi”. Quả thực có một vài Thần Linh Bậc Thầy có mặt.

“Có thể cho tôi biết tên của các Ngài được không?” Tôi lập tức cau mày vì bản chất trần tục của câu hỏi. “Tôi cần sự hướng dẫn. Tôi có quá nhiều điều muốn biết.”Câu trả lời là một bài thơ về tình thương, một bài thơ về đời tôi và cái chết của tôi. Giọng nói dịu dàng và êm ái, và tôi cảm thấy một tình yêu vô tư của một thần linh hoàn vũ. Tôi nghe trong lòng kinh sợ

 

“You will be guided in time. You will be guided … in time. When you accomplish what you have been sent here to accomplish, then your life will be ended. But not before then. You have much time ahead of you . . . much time.” I was simultaneously anxious and relieved. I was glad he was not more specific. Catherine was becoming restless. She spoke in a small whisper.

“Ông sẽđược hướng dẫn vào đúng lúc. Ông sẽ được hướng dẫn … đúng lúc. Khi ông hoàn thành điều mà ông đã được phái đến đây để hoàn tất, rồi đời ông sẽ chấm dứt. Nhưng không phải trước lúc ấy. Ông có nhiều thì giờ ở tương lai… rất nhiều thì giờ. “Tôi vừa lo vừa thoát cơn sợ hãi. Tôi vui ông không nói gì đặc biệt nữa. Catherine trở nên bồn chồn. Cô thì thào.

 

“I’m falling, falling . . . trying to find my life … falling.” She sighed, and I did, too. The Masters were gone. I pondered the miraculous messages, very personalized messages from very spiritual sources. The implications were overwhelming. The light after death and the life after death; our choosing when we are born and when we will die; the sure and unerring guidance of the Masters; lifetimes measured in lessons learned and tasks fulfilled, not in years; charity, hope, faith, and love; doing without expectations of return-this knowledge was for me. But for what purpose? What was I sent here to accomplish?

“Tôi đang rơi, rơi xuống … cố tìm ra đời tôi… rơi xuống. Cô thở dài và tôi cũng thở dài. Các Bậc Thầy đã đi khỏi. Tôi trầm ngâm với lời giáo huấn huyền diệu, những lời nhắn gửi rất cá tính từ các nguồn gốc rất thần linh. Ngụ ý tràn đầy. Ánh sáng sau khi chết và đời sống sau khi chết; sự chọn lựa của chúng ta khi chúng ta sinh ra và khi chúng ta sẽ chết; sự hướng dẫn chính xác và không sai lầm của các Bậc Thầy; các kiếp sống được đo lường trong các bài học được học và trong các nhiệm vụ đã được thực hiện không phải trong những năm tháng; về lòng nhân từ, hy vọng, niềm tin, và tình thương yêu; làm mà không mong đợi được đền đáp – kiến thức này là cho tôi. Nhưng cho mục đích gì? Tôi được gửi đến đây để hoàn thành cái gì?

 

The dramatic messages and events cascading upon me in the office mirrored deep changes in my personal and family life. The transformation gradually crept into my awareness. For example, I was driving with my son to a college baseball game when we became stuck in a huge traffic jam. I have always been annoyed by traffic jams, and now we would miss the first inning or two as well. I was aware of not being annoyed. I wasn’t projecting the blame on some incompetent driver. My neck and shoulder muscles were relaxed. I didn’t take out my irritation on my son, and we were passing the time talking to each other. I became aware of just wanting to spend a happy afternoon with Jordan, watching a game we both enjoy. The goal of the afternoon was to spend time together. If I had become annoyed and angry, the whole outing would have been ruined.

Những lời nhắn gây ấn tượng mạnh và những biến cố đổ như thác đổ vào tôi trong phòng mạch phản ảnh những thay đổi sâu xa trong đời sống cá nhân và gia đình tôi. Sự thay đổi từ từ len lỏi vào nhận thức của tôi. Thí dụ, tôi đang lái xe đưa con trai tôi đi tới xem trận đấu bóng chày của trường đại học khi chúng tôi bị kẹt xe. Tôi lúc nào cũng rất khó chịu khi bị kẹt xe và bây giờchúng tôi sẽ mất lượt chơi đầu hay lượt chơi thứ hai của trận đấu. Tôi thấy không khó chịu. Tôi không còn trách cứ người lái xe kém cỏi nào đó. Cơ bắp cổ tôi và vai tôi thấy thoải mái. Tôi không cáu kỉnh với con tôi, và chúng tôi vượt qua thời gian trong khi nói chuyện với nhau. Tôi nhận thấy rằng chỉ muốn có một buổi chiều vui vẻvới Jordan để xem trận đấu mà cả hai cha con tôi đều vui vẻ. Mục đích của buổi chiều hôm đó là được ở cùng nhau. Nếu tôi khó chịu và giận dữ, cuộc đi chơi có lẽ đã bị hỏng.

 

I would look at my children and my wife and wonder if we had been together before. Had we chosen to share the trials and tragedies and joys of this life? Were we ageless? I felt a great love and tenderness toward them. I realized that their flaws and faults are minor. These are not really so important. Love is.

Tôi nhìn vào các con tôi và vợ tôi và băn khoăn không biết chúng tôi có ở với nhau từ trước không. Phải chăng chúng tôi đã lựa chọn để cùng nhau chia sẻ những thử thách và những thảm kịch và những niềm vui của đời sống này? Phải chăng chúng tôi trẻ mãi không già? Tôi cảm thấy lòng thương yêu và trìu mến to lớn đối với vợ con tôi. Tôi hiểu rằng những thiếu sót và sai lầm của họ đều rất nhỏ nhoi. Những điều đó thực sự không quan trọng. Tình thương yêu mới quan trọng.

 

I even found myself overlooking my own flaws, for the same reasons. I didn’t need to try to be perfect or in control all the time. There really was no need to impress anyone.

Thậm chí tôi thấy mình bỏ qua những thiếu sót của chính tôi vì cùng một lý do. Tôi không cần phải cố gắng để được hoàn hảo hay lúc nào cũng biết kiềm chế. Thực sự không cần gây ấn tượng cho ai.

 

I was very glad that I could share this experience with Carole. We would often talk after dinner and sort out my feelings and reactions to Catherine’s sessions. Carole has an analytical mind and is very well grounded. She knew how driven I was to pursue the experience with Catherine in a careful, scientific manner, and she would play the devil’s advocate to help me look at this information objectively. As the critical evidence mounted that Catherine was indeed revealing great truths, Carole felt and shared my apprehensions and my joys.

Tôi rất sung sướng được chia sẻ kinh nghiệm này với Carole. Chúng tôi nói chuyện với nhau sau bữa cơm chiều và đưa ra những cảm nghĩ và phản ứng của tôi về những buổi thôi miên với Catherine. Carole có bộ óc phân tích và có kiến thức vững vàng. Carole biết tôi vất vả xiết bao theo đuổi các công việc với Catherine bằng một cách thận trọng và khoa học, và Carole vờ phản đối để giúp tôi nhìn vào tin tức một cách khách quan. Vì những bằng chứng có tính quyết định chồng chất cho thấy quả thực Catherine đang bộc lộ những sự thật tuyệt vời, Carole tin và chia sẻ sự lĩnh hội và niềm vui của tôi.

 

Sources:

Tài liệu tham khảo:

  1. https://tienvnguyen.net/a2066/tien-kiep-va-luan-hoi-co-that-khong-many-lives-many-masters-
  2. https://tienvnguyen.net/images/file/Wful-wTe1ggQAFce/manylivesmanymasters.pdf
  3. https://tienvnguyen.net/images/file/sLziGUbf1ggQALdp/tienkiepvaluanhoicothatkhong.pdf
  4. Photo 2: https://www.pinterest.com/pin/576320083543432555/