Chapter 5 – Tiền Kiếp Và Luân Hồi Có Thật Không? – Many Lives, Many Masters – Song ngữ

English: Dr. Brian L. Weiss

Việt ngữ: Thích Tâm Quang

Compile: Lotus group

Chapter 5 – Tiền Kiếp Và Luân Hồi Có Thật Không? – Many Lives, Many Masters

 

We were still in the middle of the session. Catherine ended her rest and began talking about green statues in front of a temple. I roused myself from my reverie arid listened. She was in an ancient lifetime, somewhere in Asia, but I was still with the Masters. Incredible, I thought to myself. She’s talking about previous lifetimes, about reincarnation, and yet compared to hearing messages from the Masters, it feels anti-climactic. I was already realizing, however, that she had to go through a lifetime before she could leave her body and reach the in-between state. She could not reach this state directly. And it was only there that she could reach the Masters.

Chúng tôi vẫn ở giữa buổi thôi miên. Catherine đã nghỉ ngơi xong và bắt đầu nói về những bức tượng xanh ở đằng trước một ngôi đền. Tôi khích động mình và lắng nghe. Cô đang ở vào một kiếp sống xa xưa, một nơi nào đó ở Á Đông, nhưng tôi vẫn ở với các Bậc Thầy. Không thể tưởng được, tôi thầm nghĩ. Cô đang nói về tiền kiếp, về luân hồi, và còn so sánh với những lời phán truyền nghe được từ những Bậc Thầy, nó có cảm giác hạ xuống từ cực điểm. Tuy nhiên tôi đã nhận ra rằng cô phải đi qua một kiếp sống trước khi có thể rời bỏ xác thân để tiến tới trạng thái ở nửa nọ nửa kia. Cô không thể đi thẳng tới trạng thái này được. Và chỉ ở đấy cô mới gặp được các Bậc Thầy.

 

“The green statues are in front of a large temple building,” she whispered softly, “a building with peaks and brown balls. There are seventeen steps in front, and there is a room after you climb the steps. Incense is burning. Nobody has shoes. Their heads are shaven. They have round faces and dark eyes. They are dark skinned. I am there. I have hurt my foot and have gone there for help. My foot is swollen; I can’t step on it. Something is stuck in my foot. They put some leaves on my foot . . . strange leaves . . . Tannis? [Tannin, ortannic acid, which occurs naturally in the roots, wood, bark, leaves, and fruit of many plants, has been used since ancient times as a medicine because of its styptic or astringent properties.} First, my foot was cleansed. This is a ritual before the gods. There is some poison in my foot. I stepped on something. My knee is swollen. My leg is heavy with streaks on it [blood poisoning?]. They cut a hole in the foot and put something very hot on it.”

“Những bức tượng xanh ở trước một ngôi đền lớn”, cô thì thầm dịu dàng, một tòa nhà có những chóp nhọn và quả cầu nâu. Có mười bẩy bậc ở phía trước, và có một cái phòng sau khi đã trèo hết các bậc. Hương đang cháy. Không ai có giầy cả. Đầu của họ đều cạo nhẵn. Mặt họ tròn và mắt đen. Da họ sẫm. Tôi ở đấy. Tôi bị đau chân và đã đến đấy để xin được giúp đỡ. Chân tôi bị sưng lên; Tôi không thể bước đi được. Có cái gì đó vướng ở chân tôi. Họ đắp lá vào chân tôi… những cái lá lạ lùng… Tannis (Tannin hay a xít tannic, phát sinh tự nhiên từ rễcây, gỗ, vỏ cây, lá, và trái của nhiều cây, được dùng làm thuốc từ thời thượng cổ vì tính cầm máu và làm se lại). Trước nhất, chân tôi được rửa sạch. Đó là một nghi thức trước các vị thần. Chân tôi bị nhiễm độc. Tôi đã dẫm phải một cái gì đó. Đầu gối tôi sưng lên. Chân tôi dầy đặc các vết (nhiễm độc máu). Họ khoét một cái lỗ ở chân tôi và nhét một thứ gì rất nóng vào trong đó.”

 

Catherine was now writhing in pain. She was also gagging from some terribly bitter potion that she was given to drink. The potion was made from yellow leaves. She healed, but the bones in her foot and her leg were never the same again. I progressed her in time. She saw only a bleak and poverty-stricken life. She lived with her family in a small one-room hut without a table. They ate some kind of rice, like a cereal, but they were always hungry. She aged rapidly, never escaping the poverty or the hunger, and she died. I waited, but I could see Catherine’s exhaustion. Before I could awaken her, however, she told me that Robert Jarrod needed my help. I had no idea who Robert Jarrod was, or how I could help him. There was no more.

Catherine đang quặn đau. Cô bị nghẹn vì loại độc dược đắng ghê gớm nào đó mà cô được cho uống. Độc dược làm bằng lá cây màu vàng. Cô lành bệnh nhưng xương bàn chân và chân không còn giống như trước nữa. Tôi bảo cô tiến xa hơn nữa. Cô chỉ thấy cuộc sống trống trải và nghèo khổ. Cô sống với gia đình trong một cái chòi không có bàn. Họ ăn một loại gạo nào đó, giống như ngũ cốc, nhưng họ luôn luôn bị đói. Cô già đi rất nhanh, và chưa bao giờ thoát khỏi cảnh nghèo khó và đói, và rồi cô chết. Tôi chờ đợi và tôi có thể nhìn thấy Catherine kiệt sức. Trước khi tôi có thể đánh thức cô, nhưng cô bảo tôi là Robert Jarrod cần tôi giúp đỡ. Tôi không biết Robert Jarrod là ai, hay làm sao tôi có thể giúp được. Không có gì thêm nữa.

 

After awakening from the trance, Catherine again remembered many of the details of her past-life recall. She remembered nothing at all of the after-death experiences, nothing from the in-between state, nothing of the Masters or of the incredible knowledge that had been revealed. I asked her a question.

Sau khi đánh thức cô dậy từ hôn mê, Catherine nhớ lại nhiều chi tiết về việc nhớ lại tiền kiếp của mình. Cô không nhớ tý gì về kinh nghiệm sau khi chết, không nhớ gì về trạng thái nửa nọ nửa kia, không nhớ gì về các Bậc Thầy, hay kiến thức không thể tin được nổi mà cô đã khám phá ra. Tôi hỏi cô:

 

“Catherine, what does the term ‘Masters’ mean to you?” She thought this was a golf tournament! She was improving rapidly now, but she still had difficulty integrating the concept of reincarnation into her theology. Therefore, I decided not to tell her about the Masters yet. Besides, I wasn’t sure how you broke the news to someone that she was an incredibly talented trance medium who could channel wonderful, transcendental knowledge from the Master Spirits.

“Catherine, từ “Bậc Thầy” có nghĩa gì với cô?” Cô nghĩ rằng đó là một cuộc đấu gôn. Bây giờ cô đã tiến bộ rất nhanh, nhưng cô vẫn còn khó khăn trong việc hợp nhất khái niệm về luân hồi vào thần học của cô. Cho nên tôi quyết định chưa nói với cô về các Bậc Thầy. Ngoài ra tôi không chắc chắn là cách bạn báo tin cho một người nào đó rằng cô là bà đồng tài giỏi không thể tưởng có thể truyền dẫn kiến thức tuyệt vời siêu việt từ những Thần Linh Bậc Thầy.

 

Catherine agreed to allow my wife to attend the next session. Carole is a well-trained, highly skilled psychiatric social worker, and I wanted her opinion about these incredible happenings. After I told her what Catherine had said about my father and our son, Adam, she was eager to help. I had no trouble taking notes of every word from the lifetimes when Catherine whispered quite slowly, but the Masters spoke much more quickly, and I decided to tape-record everything.

Catherine đồng ý cho vợ tôi tham dự buổi thôi miên tới. Carole, vợ tôi là một nhân viên công tác tâm lý xã hội có kỹ năng và được huấn luyện kỹ lưỡng và tôi muốn có ý kiến của vợ tôi về những sự việc xẩy ra không thể tưởng tượng được này. Sau khi kể cho vợ tôi nghe những gì Catherine đã nói về cha tôi và con chúng tôi, Adam, thì vợ tôi nóng lòng muốn giúp đỡ. Tôi không có khó khăn nào trong việc ghi lại mọi lời nói từ những kiếp sống khi Catherine thì thào rất chậm, nhưng các Bậc Thầy lại nói nhanh hơn nhiều, nên tôi quyết định thâu băng mọi thứ.

 

One-week later Catherine came in for her next session. She continued to improve, with diminished fears and anxieties. Her clinical improvement was definite, but I still was not sure why she was so much better. She had remembered drowning as Aronda, having her throat slashed as Johan, being a victim of a water-borne epidemic as Louisa, and other terrifyingly traumatic events. She had also experienced or re-experienced lifetimes of poverty and servitude and of abuse within her family. The latter are examples of the day-in and day-out mini traumas that also get ground into our psyches. There remembrance of both types of life times could be contributing to her improvement. But another possibility existed. Could the spiritual experience itself be helping? Could the knowledge that death is not what it appears to be contribute to a sense of well-being, of diminution of fears? Could the entirE process, not just the memories themselves, be part of the cure?

Một tuần lễ sau, Catherine đến cho buổi thôi miên tiếp. Cô tiếp tục khả quan hơn, sợ hãi và lo âu giảm thiểu. Bệnh tình của cô được cải thiện rõ ràng, nhưng tôi vẫn không chắc chắn tại sao cô lại khá hơn nhiều như thế. Cô đã nhớ việc bị chết đuối khi là Aronda, cô bị cắt họng khi là Johan, là một nạn nhân bệnh dịch lây lan do nước khi là Louisa, và những biến cố chấn thương kinh hoàng khác. Cô cũng đã trải nghiệm hay tái trải nghiệm những tiền kiếp khổ sở, làm nô lệ và bị hành hạ trong gia đình. Bị hành hạ là những thí dụ về những chấn thương nhỏ hàng ngày bắt đầu đi vào tâm linh của chúng tôi. Nhớ lại cả hai loại kiếp sống có thể góp phần vào sự cải thiện bệnh tình cô. Nhưng cũng có một khả năng khác. Phải chăng kinh nghiệm tinh thần tự nó có ích? Có thể hiểu cái chết không phải là cái xuất hiện để góp phần vào cảm giác về hạnh phúc, giảm thiểu nỗi sợ hãi không? Có thể toàn bộ tiến trình, không phải chỉ là chính ký ức, có phải là một phần của sự chữa bệnh không?

 

Catherine’s psychic abilities were increasing, and she was becoming even more intuitive. She still had problems with Stuart, but she felt able to cope with him more effectively. Her eyes sparkled; her skin glowed. She had had a strange dream during the week, she announced, but she could only remember a fragment of it. She had dreamed that the red fin of a fish was embedded in her hand.

Khả năng về tâm linh của Catherine ngày càng tăng, thậm chí cô trở nên trực giác hơn. Cô vẫn còn có khó khăn với Stuart, nhưng cô cảm thấy có thể đối phó với ông ta hữu hiệu hơn. Mắt cô sáng ra và da cô hồng hào. Cô báo cô có một giấc mơ lạ trong tuần nhưng chỉ nhớ được một phần. Cô mơ thấy một cái vây đỏ  của một con cá ấn vào trong tay cô.

 

She went under quickly and easily, reaching a deep level of hypnosis within minutes. “I see some type of cliffs. I’m standing on the cliffs, looking down. I should be looking for ships-that’s what I’m supposed 66 Brian L. Weiss, M.D. 67 Many Lives, Many Masters to be doing. . .. I’m wearing something blue, a blue type of pants . . .short pants with strange shoes . . . black shoes . . . and they buckle. The shoes have buckles, very funny shoes. … I see on the horizonthere are no ships.” Catherine was whispering softly. I progressed her in time to the next significant event in her life.

Cô đắm mình nhanh chóng dễ dàng tới mức độ thôi miên sâu trong vài phút. “Tôi thấy một loại vách đá nào đó. Tôi đang đứng trên vách đá và nhìn xuống. Tôi đang tìm kiếm thuyền bè – đó là việc tôi phải làm… Tôi mặc cái gì đó xanh, kiểu quần xanh… quần ngắn với những chiếc giầy lạ… giầy đen và chúng được thắt lại. Những chiếc giầy này có khóa, trông thật ngộ nghĩnh … tôi nhìn ra phía chân trời không có tàu bè nào cả”. Catherine đang thì thầm. Tôi bảo cô hãy tiến xa hơn nữa đến một biến cố có ý nghĩa trong đời cô.

 

“We’re drinking ale, stout ale. It’s very dark. The tankards are thick. They’re old, put together with metal stays. It’s very foul-smelling in this place, and many people are in there. It’s very loud. Everybody is talking, very noisy.” I asked her if she could hear anybody calling her name. “Christian . . . Christian is my name.” She was a male again. “We’re just eating some type of meat and drinking ale. It’s dark and very bitter-tasting. They put salt on it.”

“Chúng tôi đang uống bia, bia đen nặng. Trời tối đen. Cốc vại rất dày. Chúng rất cổ, chúng được làm thành với kim khí cho bền bỉ. Nơi đây mùi nồng nặc, và có nhiều người ở đấy. Rất là ồn ào. Ai cũng nói chuyện, rất là náo nhiệt”.Tôi hỏi cô có nghe thấy ai gọi tên cô không. “Christian … Christian là tên tôi”. Cô nay lại là đàn ông. ” Chúng tôi vừa ăn một thứ thịt nào đó và uống bia. Trời tối và bia rất đắng. Họ bỏ muối vào”.

 

She could not see a year. “They’re talking about a war, about ships blockading some ports! But I can’t hear where it is. If they would be quiet, we could hear, but everyone’s talking and noisy.” I asked her where she was. “Hampstead . . . Hamstead [phonetic spelling]. It’s a port, a seaport in Wales. They’re talking British.” She went ahead in time to when Christian was on his ship. “I can smell something, something burning. It’s a terrible smell. Burning wood, but also something else. It burns your nose. . .. Something in the distance is on fire, some type of vessel, a sailing vessel. We’re loading! We’re loading something with gunpowder.” Catherine was becoming visibly agitated.

Cô không biết năm tháng. “Họ đang nói chuyện về chiến tranh và về những con tàu phong tỏa các hải cảng! Nhưng tôi không nghe biết ở đâu. Nếu họ im lặng, tôi có thể nghe thấy, nhưng ai cũng nói chuyện và ồn ào.”

Tôi hỏi cô ởđâu. “Hamstead… Hamstead (Đánh vần theo âm) Đó là một cái cảng, một hải cảng ở Wales. Họ đang nói về Anh Quốc.” Cuối cùng cô đã tiến xa tới lúc Christian ở trên tàu của anh. “Tôi ngửi thấy mùi gì đó, mùi gì đang cháy. Mùi thật là kinh tởm. Gỗ cháy, những thứ khác nữa. Nóng bỏng mũi… Một cái gì đó ở đàng xa đang cháy, một loại thuyền bè nào đó, thuyền buồm. Chúng tôi đang chất hàng! Chúng tôi đang chất thứ gì đó với thuốc súng”. Catherine trở nên bối rối trông thấy.

 

“It’s something with gunpowder, very black. It sticks to your hands. You have to move fast. The ship has a green flag on it. The flag is dark. . .. It’s a green and yellow flag. There is some type of crown with three points on it.” Suddenly Catherine grimaced with pain. She was in agony. “Uh,” she grunted, “the pain in my hand, the pain in my hand! There’s some metal, hot metal in my hand. It’s burning me! Oh! Oh!” I remembered the dream fragment and understood now about the red fin embedded in her hand. I blocked the pain, but she was still

moaning. “The splinters are metal. . .. The ship we were on was destroyed …the port side. They have the fire under control. Many men have been killed . . . many men. I have survived . . . only my hand is hurt, but it heals with time.” I took her ahead in time, letting her pick out the next significant event.

“Có cái gì đó với thuốc súng, rất đen. Nó dính vào tay. Phải di chuyển nhanh. Con tàu có lá cờ xanh. Lá cờ sẫm … Đó là một lá cờ xanh vàng. Có một loại vương miện nào đó với ba điểm trên đó”. Đột nhiên Catherine nhăn nhó vì đau. Cô đang đau đớn cực độ. ” Úi chà!”, cô càu nhàu, đau ở tay tôi, đau ở tay tôi! Có thứ kim khí gì đó, kim khí nóng trong tay tôi. Nó làm tôi chết bỏng! Ối! Ối!.Tôi nhớ lại một đoạn trong giấc mộng và bây giờ hiểu rằng cái vây cá đỏ ấn vào trong tay cô. Tôi chặn cơn đau, nhưng cô vẫn rên rỉ. “Những mảnh vụn là kim loại … Con tàu của chúng tôi bị phá hủy … bên hải cảng. Họ đã ngăn chặn được ngọn lửa. Nhiều người bị giết … rất nhiều người. Tôi sống sót, chỉ đau tay thôi, nhưng nó sẽ lành với thời gian”. Tôi bảo cô tiến xa hơn nữa và để cô chọn ra biến cố có ý nghĩa.

 

“I see some type of printshop, printing something with blocks and ink. They’re printing and binding books. . .. The books have leather covers and strings holding them together, leather strings. I see a red book. . .. It’s something about history. I can’t see the title; they haven’t finished the printing. The books are wonderful. Their covers are so smooth, the leather. They’re wonderful books; they teach you.”

“Tôi nhìn thấy một loại nhà in, in cái gì đó bằng bản khắc và mực. Họ đang in và đóng sách … Sách có bìa da và những chỉ được dùng để đóng sách, dây da. Tôi thấy một cuốn sách đỏ… Sách lịch sử. Tôi không nhìn thấy tựa đề; họ chưa in xong. Những cuốn sách rất tuyệt vời. Bìa sách rất mềm mại, bìa da. những cuốn sách rất tuyệt vời; sách dạy bạn đấy”.

 

Obviously Christian enjoyed seeing and touching the books, and he dimly realized the potential of learning this way. He seemed to be largely uneducated, however. I progressed Christian to the last day of his life.

Rõ ràng Christian vui sướng nhìn thấy sách và đang sờ vào sách, và anh lờ mờ nhận thức được tiềm năng học bằng cách ấy. Tuy vậy anh dường như không được học hành nhiều. Tôi bảo anh tiến tới ngày cuối cùng của đời anh.

 

“I see a bridge over a river. I’m an old man . . . very old. It’s difficult to walk. I’m walking over the bridge … to the other side. … I feel pain in my chest-pressure, terrible pressure-pain in my chest! Oh! Catherine was making gurgling sounds, experiencing the apparent heart attack that Christian was having on the bridge. Her breathing was rapid and shallow; her face and neck were covered with sweat. She began to cough and to gasp for air. I was concerned. Was re-experiencing a heart attack from a previous lifetime dangerous? This was a new frontier; nobody knew the answers. Finally, Christian died. Catherine was now lying peacefully on the couch, breathing deeply and evenly. I let out a deep sigh of relief.

“Tôi nhìn thấy cây cầu trên sông. Tôi là một ông già… rất già. Đi lại khó khăn. Tôi đang bước đi trên cầu … để sang bên kia … Tôi cảm thấy tức ngực, tức kinh khủng, làm đau trong lồng ngực! Ối! “Catherine đang phát ra tiếng ùng ục, cho thấy cơn đau tim trong khi Christian đi trên cầu. Hơi thở của cô rất nhanh và nông, mặt và cổ đầy mồ hôi, cô bắt đầu ho và thở hổn hển. Tôi lo lắng. Lại kinh qua cơn đau tim ở tiền kiếp có nguy hiểm không? Đó là biên giới mới; không ai biết câu trả lời. Cuối cùng Christian chết. Bây giờ Catherine nằm dài an bình trên giường khám bệnh, thở sâu và điều hòa. Tôi trút tiếng thở dài khoan khoái.

 

“I feel free . . . free,” Catherine gently whispered. “I’m just floating in darkness . . . just floating. There is a light around . . . and spirits, other people.” I asked if she had any thoughts about the lifetime that had just ended, her life as Christian.

“Tôi cảm thấy tự do … tựdo”, Catherine thì thầm. Tôi đúng là đang lơ lửng trong bóng tối… đúng là đang lơ lửng. Có một nguồn sáng đâu đó … và các thần linh, những người khác”. Tôi hỏi liệu cô có ý nghĩ nào về kiếp sống vừa chấm dứt, kiếp sống là Christian không”.

 

“I should have been more forgiving, but I wasn’t. I did not forgive the wrongs that people did to me, and I should have. I didn’t forgive the wrongs. I held them inside, and I harbored them for many years. … I see eyes.,. eyes.” “Eyes?” I echoed, sensing the contact. “What kind of eyes?” “The eyes of the Master Spirits,” Catherine whispered, “but I must wait. I have things to think about.” Minutes passed in tense silence.

“Tôi lẽ ra nên tha thứ nhiều hơn nữa, nhưng tôi lại không. Tôi không tha thứ những sai trái người ta đã gây ra cho tôi, và tôi lẽ ra nên tha thứ. Tôi đã không tha thứ những sai trái. Tôi giữ trong lòng và tôi đã chất chứa chúng trong nhiều năm…. Tôi nhìn thấy những cặp mắt … những cặp mắt”. “Những cặp mắt” tôi kêu lên, cảm thấy sự tiếp xúc. “Loại mắt gì?””Những cặp mắt của các Thần Linh Bậc Thầy”, Catherine thì thào, “nhưng tôi phải chờ. Tôi có những việc phải suy nghĩ”. Ít phút trôi qua trong sự im lặng căng thẳng.

 

“How will you know when they are ready,” I asked expectantly, breaking the long silence. “They will call me,” she answered. More minutes passed. Then, suddenly, her head began to roll from side to side, and her voice, hoarse and firm, signaled the change. “There are many souls in this dimension. I am not the only one. We must be patient. That is something I never learned either. . .. There are many dimensions. …” I asked her whether she had been here before, whether she had reincarnated many times. “I have been to different planes at different times. Each one is a level of higher consciousness. What plane we go to depends upon how far we’ve progressed. . ..” She was silent again. I asked her what lessons she had to learn in order to progress. She answered immediately.

Phá tan sự im lặng dài, tôi cất tiếng mong đợi, “Làm sao cô có thể biết được khi nào họ sẵn sàng.”Cô trả lời, “Họ sẽ gọi tôi”. Nhiều phút nữa qua đi. Rồi, đột nhiên đầu cô cứ lăn hết bên này sang bên kia, và giọng cô ồ ồ và quyết liệt, báo hiệu có sự thay đổi. “Có nhiều linh hồn trong phương chiều này. Tôi không phải là người duy nhất. Chúng ta phải kiên nhẫn. Có cái gì đó là điều mà tôi chưa từng biết … Có nhiều phương chiều…” Tôi hỏi cô phải chăng cô đã ở đây trước kia, phải chăng cô đã luân hồi nhiều lần. “Tôi đã ở vào những bình diện khác nhau vào những thời điểm khác nhau. Mỗi lần là một mức độ của thức cao hơn. Bình diện nào chúng ta đi lệ thuộc vào chúng ta đã tiến bộ thế nào …” Cô lại im lặng. Tôi hỏi cô phải học bài học nào cô đã học được để tiến hành. Cô trả lời ngay.

 

“That we must share our knowledge with other people. That we all have abilities far beyond what we use. Some of us find this out sooner than others. That you should check your vices before you come to this point. If you do not, you carry them over with you to another life. Only we can rid ourselves . . . of the bad habits that we accumulate when we are in a physical state. The Masters cannot do that for us. If you choose to fight and not to rid yourself, then you will carry them over into another life. And only when you decide that you are strong enough to master the external problems, then you will no longer have them in your next life.

“Đó là việc chúng ta phải chia sẻ kiến thức của chúng ta với người khác. Đó là tất cả chúng ta có khả năng vượt qua rất xa cái mà chúng ta thường sử dụng. Một số trong chúng ta tìm thấy điều này nhanh hơn người khác. Đó là việc phải xét những tật xấu của mình trước khi đi tới điểm này. Nếu không, ông sẽ phải mang theo chúng vào kiếp khác. Chỉ khi chúng ta có thể tự gột bỏ được những thói quen xấu mà chúng ta tích lũy khi chúng ta ở trạng thái thể chất. Những Thần Linh Bậc Thầy không thể làm điều đó cho chúng ta. Nếu ông chọn cách chiến đấu và không tự gột bỏ các tính xấu, ông sẽ mang chúng vào kiếp khác. Và chỉ khi ông quyết định là ông đã đủ mạnh để làm chủ những vấn đề bên ngoài, thì ông sẽ không phải mang chúng vào kiếp sau.

 

“We also must learn not to just go to those people whose vibrations are the same as ours. It is normal to feel drawn to somebody who is on the same level that you are. But this is wrong. You must also go to those people whose vibrations are wrong . . . with yours. This is the importance … in helping . . . these people.

“Chúng ta cũng phải học hỏi không chỉ đi đến chỗ những người có cùng xung động như chúng ta. Cảm thấy bị lôi kéo tới chỗ ai đó cùng một mức độ với mình là điều bình thường. Nhưng điều này sai. Ông phải tới chỗ những người có xung động sai… với xung động của ông. Điều này có tầm quan trọng… trong việc giúp … những người này”.

 

“We are given intuitive powers we should follow and not try to resist. Those who resist will meet with danger. We are not sent back from each plane with equal powers. Some of us possess powers greater than others, because they have been accrued from other times. Thus, people are not all created equal. But eventually we will reach a point where we will all be equal.”

“Chúng ta được trao các khả năng trực giác, chúng ta phải theo và không được cố gắng chống lại. Những kẻ chống lại sẽ gặp nguy hiểm. Chúng ta không được trở lại mỗi bình diện với khả năng đồng đều. Một số trong chúng ta có khả năng hơn những người khác, vì họ đã tích lũy được ở những thời điểm khác. Bởi vậy con người không phải được tạo ra đều bình đẳng. Nhưng cuối cùng, chúng ta sẽ tiến tới điểm chỗ mà chúng ta đều bình đẳng”.

 

Catherine paused. I knew these thoughts were not hers. She had no background in physics or metaphysics; she knew nothing about planes and dimensions and vibrations. But beyond that, the beauty of the words and thoughts, the philosophical implications of these utterings-these were all beyond Catherine’s capabilities. She had never talked in such a concise, poetic manner. I could feel another, higher force struggling with her mind and vocal cords to translate these thoughts into words, so that I could understand. No, this was not Catherine. Her voice had a dreamy tone.

Catherine ngưng lại. Tôi biết những tư tưởng này không phải của cô. Cô không có kiến thức về vật lý hay siêu hình học; cô không biết gì về bình diện, phương chiều và xung động. Vượt lên trên cái đó, vẻ đẹp của lời nói và tư tưởng, ngụ ý triết lý trong những lời thốt ra này – những cái ấy đều vượt quá khả năng của Catherine. Cô không bao giờ nói một cách rõ ràng và văn chương như vậy. Tôi có thể cảm thấy một sức mạnh khác cao hơn vật lộn với tâm trí và dây âm thanh của cô để chuyển đạt những tư tưởng ấy thành lời, do đó mà tôi có thể hiểu. Không, đó không phải là Catherine.

 

“People who are in comas … are in a state of suspension. They are not ready yet to cross into the other plane . . . until they have decided whether they want to cross or not. Only they can decide this. If they feel they have no more learning . . . in physical state . . . then they are allowed to cross over. But if they have more learning, then they must come back, even if they do not want to. That is a rest period for them, a time when their mental powers can rest.”

Catherine ngưng lại. Tôi biết những tư tưởng này không phải của cô. Cô không có kiến thức về vật lý hay siêu hình học; cô không biết gì về bình diện, phương chiều và xung động. Vượt lên trên cái đó, vẻ đẹp của lời nói và tư tưởng, ngụ ý triết lý trong những lời thốt ra này – những cái ấy đều vượt quá khả năng của Catherine. Cô không bao giờ nói một cách rõ ràng và văn chương như vậy. Tôi có thể cảm thấy một sức mạnh khác cao hơn vật lộn với tâm trí và dây âm thanh của cô để chuyển đạt những tư tưởng ấy thành lời, do đó mà tôi có thể hiểu. Không, đó không phải là Catherine. Giọng cô là một giọng mơ màng.”Những người hôn mê …. ở trong trạng thái lơ lửng. Họ chưa sẵn sàng để vượt vào bình diện khác … cho đến khi họ quyết định liệu họ có muốn vượt qua hay không. Chỉ khi họ có thể quyết định điều đó. Nếu họ cảm thấy họ không còn gì học hỏi … trong trạng thái thể chất… thì họ được phép vượt qua. Nhưng nếu họ còn phải học nhiều hơn nữa, thì họ phải trở lại, dù rằng họ không muốn thế. Đó là giai đoạn nghỉ ngơi cho họ, một thời điểm khi những sức mạnh tinh thần của họ có thể nghỉ ngơi”.

 

So, people in comas can decide whether or not to return, depending upon how much learning they have yet to accomplish in the physical state. If they feel there is nothing further to learn, they can go directly to the spiritual state, modern medicine notwithstanding. This information meshed nicely with the research being published about near-death experiences, and why some people chose to return. Others were not given the choice; they had to return because there was more to learn. Of course, all of the people interviewed about their near-death experiences returned to their bodies. There is a striking similarity in their stories. They become detached from their bodies and “watch” resuscitation efforts from a point above their bodies. They eventually become aware of a bright light or a glowing “spiritual” figure in the distance, sometimes at the end of a tunnel. They feel no pain. As they become aware that their tasks on earth are not yet completed, and they must return to their bodies, they are immediately rejoined to their bodies and once again are aware of pain and other physical sensations.

Cho nên những người bị hôn mê có thể quyết định trở về hay không trở về, tùy theo việc họ còn phải học hỏi bao nhiêu để hoàn tất được ở trạng thái thể chất. Nếu họ cảm thấy không còn gì nữa để học hỏi, họ có thể đi ngay vào trạng thái tinh thần, bất kể y khoa hiện đại. Thông tin này phù hợp với công cuộc nghiên cứu được phổ biến về kinh nghiệm cận tử, và lý do tại sao một số người muốn quay trở về. Những người khác không được quyền lựa chọn, họ phải quay trở về vì họ còn phải học hỏi nữa. Dĩ nhiên, tất cả những người được phỏng vấn về kinh nghiệm cận tử của họ đã trở về với xác thân. Có một sự tương đồng sâu sắc trong những câu chuyện của họ. Họ rời khỏi xác thân và “quan sát” những cố gắng hồi sinh từ một điểm bên trên thân thể của họ. Cuối cùng họ nhận thấy một ánh sáng chói lọi hay một bóng dáng “thần linh” rực sáng ở xa, đôi khi ở cuối đường hầm. Họ không cảm thấy đau đớn. Khi họ nhận thức được nhiệm vụ trên thế gian chưa hoàn tất, và họ phải quay về với xác thân, họ hợp nhất ngay lại với xác thân và lại ý thức đau đớn và những cảm giác thể xác khác.

 

I have had several patients with near-death experiences. The most interesting account was that of a successful South American businessman who was seen by me for several sessions of conventional psychotherapy about two years after Catherine’s treatment ended. Jacob had been run over and knocked unconscious by a motorcycle in Holland in 1975, when he was in his early thirties. He remembers floating above his body and looking down at the scene of the accident, taking note of the ambulance, the doctor attending his injuries, and the growing crowd of onlookers. He became aware of a golden light in the distance, and as he approached it, he saw a monk wearing a brown robe. The monk told Jacob that this was not his time to pass over, that he had to return to his body. Jacob felt the wisdom and power of the monk, who also related several future events in Jacob’s life, all of which later occurred. Jacob was whooshed back into his body, now in a hospital bed, regained consciousness, and, for the first time, became aware of excruciating pain.

Tôi có một vài bệnh nhân có kinh nghiệm lúc cận tử. Câu chuyện hứng thú nhất là câu chuyện của một thương gia Nam Mỹ khá giả được tôi khám bệnh trong một số buổi tâm lý trị liệu thông thường khoảng hai năm sau khi việc điều trị cho Catherine chấm dứt. Jacob bị một người đi mô tô đâm phải không còn biết gì ở Hòa Lan năm 1975 khi ông ta mới ngoài 30 tuổi. Ông nhớ là bay lơ lửng trên xác thân và nhìn xuống xem quang cảnh chỗ tai nạn, chú ý đến xe cứu thương, bác sĩ chăm sóc vết thương, và đám đông người xúm lại xem. Ông nhận thấy ánh sáng vàng ở đằng xa, và ông tiến lại gần ánh sáng ấy, ông thấy một nhà sư mặc bộ y nâu. Nhà sư này bảo Jacob chưa phải là lúc Jacob phải chết, ông ta phải quay về với xác thân. Jacob nhìn thấy sự thông thái và tài năng của nhà sư, nhà sư này cũng nêu lên một vài biến cố tương lai trong cuộc đời của Jacob, tất cả những biến cố này sau này đều xẩy ra. Jacob nhập lại vào xác thân, nay ở bệnh viện, tỉnh lại, và lần đầu tiên nhận thấy đang bị hành ha bởi đau đớn.

 

In 1980, while traveling in Israel, Jacob, who is Jewish, visited the Cave of the Patriarchs in Hebron, which is a holy site to both Jews and Muslims. After his experience in Holland, he had become more religious and had begun to pray more often. He saw the nearby mosque and sat down to pray with the Muslims there. After a while, he rose to leave. An old Muslim man came up to him and said, “You are different from the others. They very rarely sit down to pray with us.” The old man paused for a moment, looking closely at Jacob before continuing. “You have met the monk. Do not forget what he has told you.” Five years after the accident and thousands of miles distant, an old man knew about Jacob’s encounter with the monk, an encounter that happened while Jacob had been unconscious.

Năm 1980 Jacob là người Do Thái trong khi đi du lịch tại Do Thái, ông ta có đến thăm Hang động của các Giáo Trưởng ở Hebron, thánh địa của cả người Do Thái Giáo lẫn Hồi Giáo. Sau kinh nghiệm tại Hòa Lan, ông đã trở nên mộ đạo nhiều hơn và đã bắt đầu cầu nguyện nhiều hơn. Ông ta thấy một nhà thờ Hồi Giáo gần đấy và ngồi xuống cầu nguyện cùng người Hồi giáo. Một lúc sau, ông đứng dậy đi. Một người Hồi Giáo già tiến lại gặp ông và nói rằng, “Ông thật khác với những người khác. Họ ít khi ngồi xuống cùng cầu nguyện với chúng tôi.” Cụ già ngừng một chút, nhìn kỹ Jacob trước khi tiếp tục, ” Ông đã gặp một nhà sư, đừng quên những gì nhà sư đã nói với ông.” Năm năm sau tai nạn xẩy ra và cách xa hàng ngàn dậm, một cụ già biết cuộc gặp gỡ giữa nhà sư và Jacob, cuộc gặp gỡ xẩy ra trong khi Jacob bất tỉnh.

 

In the office, pondering Catherine’s latest revelations, I wondered what our Founding Fathers would have thought about the proposition that all humans are not created equal. People are born with talents, abilities, and powers accrued from other lifetimes. “But eventually we will reach a point where we will all be equal.” I suspected that this point was many, many lifetimes distant.

Ở phòng mạch, cân nhắc những tiết lộ mới nhất của Catherine, tôi băn khoăn điều mà những người viết Hiến Pháp và Đạo Quyền của Mỹ có lẽ đã nghĩ về một tuyên bố rằng tất cả con người không được sinh ra bình đẳng. Người ta sinh ra với tài trí, khả năng, và sức mạnh từ những kiếp khác. “Nhưng cuối cùng chúng ta tiến đến một điểm nơi mà tất cảchúng ta sẽ bình đẳng”. Tôi nghi ngờ điểm này cách nhau nhiều, nhiều kiếp sống.

 

“I’m very restless being here. I do want to go. … When the time is right, I will go.” Again, minutes silently passed. Finally, the time must have been right. She had fallen into another lifetime. – “I see apple trees … and a house, a white house. I live in the house. The apples are rotten . . . worms, no good to eat. There is a swing, a swing on the tree.” I asked her to look at herself.

“Tôi rất bồn chồn khi ở đây. Tôi rất muốn đi … Khi nào đúng lúc, tôi sẽ đi”. Một lần nữa, ít phút im lặng trôi qua. Cuối cùng hẳn là đã đúng lúc. Cô lại rơi vào một kiếp sống khác. “Tôi nhìn thấy những cây táo và một ngôi nhà, ngôi nhà trắng. Tôi sống trong nhà đó. Những trái táo bị sâu ăn …, không tốt để ăn. Có một cái đu, một cái đu dưới vòm cây”. Tôi bảo cô hãy nhìn vào chính mình.

 

“I have light hair, blond hair; I’m five years old. My name is Catherine.” I was surprised. She had entered her present life time; she was Catherine at age five. But she must be there for some reason. “Did something happen there, Catherine?”

“Tôi có tóc mịn màng, vàng hoe; tôi năm tuổi, Tên tôi là Catherine.” Tôi rất ngạc nhiên. Cô đã vào hiện kiếp; cô là Catherine năm tuổi. Nhưng cô phải ở đấy vì một lý do nào đó. “Có điều gì đang xẩy ra ở đó Catherine?”

 

“My father is angry-at us … because we’re not supposed to be outside. ‘He . . . he’s hitting me with a stick. It’s very heavy; it hurts. . .. I’m afraid.” She was whining, speaking like a child. “He won’t stop till he’s hurt us. Why does he do this to us? Why is he so mean?” I asked her to see her life from a higher perspective and to answer her own questions. I had recently read about people being able to do this. Some writers called this perspective one’s Higher Self or Greater Self. I was curious whether Catherine could reach this state, if it existed. If she could, this would be a powerful therapeutic technique, a short cut to insight and understanding.

“Cha tôi giận dữ với chúng tôi… nguyên nhân là chúng tôi không được phép ra ngoài. Ông… ông đánh tôi bằng một cái gậy. Cái gây này rất nặng; nó làm tôi đau… Tôi sợ hãi lắm”. Cô đang rên rỉ và nói như một đứa trẻ. “Cha tôi không ngưng đánh cho đến khi ông đã làm cho chúng tôi đau. Tại làm sao ông có thể làm như vậy với chúng tôi? Tại sao ông lại hèn hạ thế? Tôi yêu cầu cô hãy nhìn đời cô bằng một cái nhìn cao hơn và trả lời những câu hỏi của chính cô. Tôi vừa mới đọc sách nói về những người có thể làm như thế. Một số nhà văn gọi cái nhìn này là cái Ngã Cao Cả hay hay Cái Ta Cao Thượng. Tôi rất tò mò muốn biết liệu Catherine có thể tiến tới trạng thái này không, nếu nó hiện hữu. Nếu cô có thể, đây sẽ là một kỹ thuật chữa bệnh mạnh, con đường tắt vào nhận thức đúng bản chất và hiểu biết.

 

“He never wanted us,” she whispered very softly. “He feels we’re an intrusion in his life. . .. He doesn’t want us.” “Your brother, too?” I asked. “Yes, my brother even more. They never planned for my brother. They weren’t married when … she was conceived.” This proved to be startling new information for Catherine. She had never known about the premarital pregnancy. Her mother later confirmed the accuracy of Catherine’s revelation.

“Ông không bao giờ muốn chúng tôi”, cô thì thào rất nhẹ. Ông cảm thấy chúng tôi là sự xâm phạm vào đời ông… Ông không muốn có chúng tôi”. Tôi hỏi, “Cả Anh cô nữa sao?””Vâng, anh tôi còn tệ hơn nữa. Họ chưa bao giờ định có anh tôi. Họ chưa lấy nhau khi… bà đã có thai với ông”. Việc này chứng tỏ tin tức mới làm cho Catherine sửng sốt. Cô chưa bao giờ biết về việc mẹ cô mang thai trước khi cưới. Sau này, mẹ cô xác nhận khám phá của Catherine là đúng.

 

The superconscious mind encompasses a level of awareness that sees beyond material reality and taps into the energy and consciousness behind that reality. Some refer to this as the “ether” – the essence of the universe – a flow of electromagnetic waves that permeate all matter and space.

 

Although she was recounting a lifetime, Catherine now exhibited a wisdom and a perspective about her life that had previously been restricted to the in-between, or spiritual, state. Somehow there was a “higher” part of her mind, a sort of superconscious. Perhaps this was the Higher Self that others have described. Although not in contact with the Masters and their spectacular knowledge, nevertheless, in her superconscious state she possessed profound insights and information, such as her brother’s conception. The conscious Catherine, when awake, was much more anxious and limited, much simpler and comparatively superficial. She could not tap into this superconscious state. I wondered if the prophets and sages of Eastern and Western religions, those called “actualized,” were able to utilize this superconscious state to obtain their wisdom and knowledge. If so, then we all had the ability to do so, for we must all possess this superconscious. The psychoanalyst Carl Jung was aware of the different levels of consciousness. He wrote about the collective unconscious, a state with similarities to Catherine’s superconscious.

Mặc dầu cô kể lại hiện kiếp, nhưng lúc này Catherine cho thấy sự khôn ngoan và một nhãn quan về đời sống của mình trước đây đã bị giới hạn trong trạng thái nửa nọ nửa kia, hay trạng thái tinh thần. Dù sao có một phần “cao hơn trong tâm trí cô, hồ như siêu thức. Có lẽ đây là cái Ngã Cao mà những người khác đã mô tả. Mặc dầu không tiếp xúc với các Thần Linh Bậc Thầy và những kiến thức kỳ lạ của các Ngài, tuy nhiên trong trạng thái siêu thức của cô, cô có một nhận thức đúng bản chất và tin tức sâu sắc, cũng như về sự thụ thai của người anh cô. Cái thức của Catherine khi tỉnh giấc, lo lắng và giới hạn nhiều hơn, tầm thường và nông cạn hơn nhiều. Cô không thể kết nối vào trạng thái siêu thức. Tôi không biết các nhà tiên tri và những nhà hiền triết của các tôn giáo Phương Đông và Tây, những người gọi là ” hiện thực”, có thể dùng trạng thái siêu thức để đạt trí tuệ và kiến thức không. Nếu như vậy thì tất cả chúng ta đều có khả năng làm như thế vì chúng ta phải có cái siêu thức này. Nhà phân tích tâm lý Carl Jung nhận thấy có nhiều mức độ thức khác nhau. Ông viết về cái vô thức chung, một trạng thái tương tự như siêu thức của Catherine

 

I would become increasingly frustrated by the uncrossable gulf between Catherine’s conscious, awake intellect and her trance-level superconscious mind. While she was hypnotized, I would have fascinating philosophical dialogues with her at the superconscious level. When awake, however, Catherine had no interest in philosophy or related matters. She lived in the world of everyday detail, oblivious of the genius within her.

Tôi ngày càng nản lòng bởi hốsâu ngăn cách không vượt qua được giữa cái thức của Catherine, cái trí tuệ lúc thức và cái tâm trí siêu thức lúc hôn mê. Trong khi cô bịthôi miên, tôi có những cuộc đối thoại triết học say mê với cô ởmức siêu thức. Tuy nhiên khi tỉnh dạy, Catherine không quan tâm gì đến triết lý hay những vấn đề đã nêu. Cô sống trong một thế giới của những điều vụn vặt hàng ngày, quên lãng một thiên tài ở nơi cô.

 

Meanwhile, her father was tormenting her, and the reasons were

becoming evident. “He has many lessons to learn,” I stated in questioning way. “Yes … so he does.”

Trong khi đó, cha cô hành hạ cô, và những lý do trở nên rõ ràng. “Ông có nhiều bài học phải học”, tôi nói một cách ngờvực.

“Vâng… ông phải học”.

 

I asked her if she knew what he had to learn. “This knowledge is not revealed to me.” Her tone was detached, distant. “What is revealed to me is what is important to me, what concerns me. Each person must be concerned with him- or herself . . .with making him- or herself . . . whole. We have lessons to learn . . .each one of us. They must be learned one at a time … in order. Only then can we know what the next person needs, what he or she lacks or what we lack, to make us whole.” She spoke in a soft whisper, and her whisper conveyed a feeling of loving detachment.

Tôi hỏi cô liệu ông phải học gì. ” Kiến thức này không được tiết lộ cho tôi”. Giọng nói của cô rời rạc, xa xăm. “Điều gì được tiết lộ cho tôi là điều quan trọng với tôi, điều liên quan đến tôi. Mỗi người phải tự quan tâm đến mình … tự mình làm … toàn bộ. Chúng ta có những bài học để học…. mỗi một người trong chúng ta. Những bài học này phải được học một lần vào một lúc nào đó… có thứ tự. Chỉ khi đó chúng ta mới biết điều mà người kế tiếp cần, điều mà anh ấy hay chị ấy thiếu, hay chúng ta thiếu, để làm thành toàn bộ”. Cô nói trong giọng thì thào, tiếng thì thầm của cô truyền đạt một cảm giác về sự suy xét độc lập đáng mến.

 

When Catherine spoke again, the childlike voice had returned. “He’s making me sick! He’s making me eat this stuff that I don’t want. It’s some food . . . lettuce, onions, stuff I hate. He’s making me eat it, and he knows I’m gonna be sick. But he doesn’t care!” Catherine began to gag. She was gasping for air. I again suggested that she view the scene from a higher perspective, that she needed to understand why her father acted this way.

Khi Catherine lại nói, giọng trẻ nít của cô trở lại. “Ông ta làm cho tôi bệnh. Ông bắt tôi ăn những món ăn tôi không thích. Một số món như … rau diếp, hành, món ăn tôi ghét. Ông ta bắt tôi ăn thứ đó, tôi sẽ bị bệnh. Nhưng ông không cần! Catherine bắt đầu hổn hển. Cô đang hít không khí. Tôi lại gợi ý cô nhìn quang cảnh từ một nhãn quan cao hơn, cô cần hiểu rằng tại sao cha cô hành động như vậy.

 

Catherine spoke in a raspy whisper. “It must fill some void in him. He hates me because of what he did. He hates me for that, and he hates himself.” I had nearly forgotten about the sexual assault when she was three years old. “So, he must punish me. … I must have done something to make him do that.” She was only three years old, and her father was drunk. Yet she had carried this guilt deep within her ever since. I explained the obvious.

Catherine nói bằng giọng tha thứ. ” Phải làm đầy cái trống trải nơi ông. Ông ghét tôi vì điều ông đã làm. Ông ghét tôi vì điều đó, và chính ông ghét ông”. Tôi đã gần quên đi vụ cưỡng hiếp khi cô ba tuổi. “Cho nên ông phải phạt tôi … Tôi hẳn đã làm điều gì để ông làm tôi như thế”. Cô mới có ba tuổi và cha cô say rượu. Tuy nhiên cô đã âm thầm mang tội lỗi này trong lòng cô từ đấy. Tôi giải nghĩa hiển nhiên này.

 

“You were just a baby. You must now relieve yourself of this guilt. You didn’t do anything. What could a three-year-old do? It wasn’t you; it was your father.” “He must have hated me then, too,” she gently whispered. “I knew him before, but I cannot draw on that information now. I must go back to that time.” Although several hours had already passed, I wanted to go back to their previous relationship. I gave her detailed instructions. “You are in a deep state. In a moment I am going to count backward, from three to one. You will be in a deeper state and will feel totally safe. Your mind will be free to roam back in time again, back to the time when the connection to your father in your current life began, back to the time that had the most significant bearing on what happened in your childhood between you and him. When I say ‘one,’ you will go back to that lifetime and remember it. It is important for your cure. You can do that. Three . . . two . . . one.”

There was a long pause.

“Cô chỉ là trẻ thơ. Bây giờ cô phải tự mình thoát ra khỏi tội lỗi ấy. Cô đã không làm gì cả. Làm sao một đứa trẻ ba tuổi có thể làm gì? Không phải tội lỗi cô, mà chính là cha cô”.

“Lúc ấy, ông hẳn là ghét tôi”, cô thì thào nhẹ nhàng. “Tôi biết ông trước đây, nhưng bây giờ không thể dùng được tin tức này. “Tôi phải trở lại thời gian đó”. Mặc dù một vài giờ đã qua đi, tôi muốn quay về với những quan hệ trước đây của họ. Tôi cho cô chỉ dẫn với chi tiết. “Cô đang ở trang trạng thái hôn mê sâu. Vào lúc tôi sắp sửa đếm ngược trở lại ba đến một ngay. Cô sẽ ở trong trạng thái sâu hơn và cô sẽ cảm thấy hoàn toàn an toàn. Tâm trí cô sẽ tự do lang thang về thời gian trước đây, thời gian liên quan đến cha cô trong cuộc sống hiện tại của cô bắt đầu, trở về thời gian có ý nghĩa nhất về việc xẩy ra lúc thơ ấu giữa cha cô và cô. Khi tôi nói “một”, cô sẽ quay trở về kiếp sống đó và hãy nhớ lấy. Việc này rất quan trong cho việc chữa bệnh của cô. Cô có thể làm được việc đó. Ba… hai… một. ” Im lặng một hồi lâu.

 

“I do not see him . . . but I see people being killed!” Her voice became loud and husky. “We have no right to abruptly halt peoples ‘lives before they have lived out their karma. And we are doing it. We have no right. They will suffer greater retribution if we let them live. When they die and go to the next dimension, they will suffer there. They will be left in a very restless state. They will have no peace. And they will be sent back, but their lives will be very hard. And they will have to make up to those people that they hurt for the injustices that they did against them. They are halting these people’s lives, and they have no right to do that. Only God can punish them, not us. They will be punished.”

“Tôi không nhìn thấy ông… nhưng tôi nhìn thấy người ta bị giết!’. Giọng của cô trở thành ầm ĩ và khàn khàn. Chúng ta không có quyền ngăn chặn đời sống của người khác trước khi họ đã sống sót ngoài nghiệp của họ. Và chúng ta đang làm việc này. Chúng ta không có quyền. Họ sẽ bị quả báo nếu chúng ta để họ sống. Khi họ chết họ sẽ đi vào phương chiều kế tiếp, họ sẽ khổ sở tại đấy. Họ sẽ bị đưa vào một trang thái rất buồn bực. Họ sẽ không có yên ổn. Họ sẽ bị gửi trở lại, và đời sống của họ sẽ rất khó khăn. Họ sẽ phải đền bù những người mà họ gây đau đớn vì bất công, những người họ đã chống lại. Họ đã ngăn chận đời sống của những người này, và họ không có quyền làm thế. Chỉ có Thượng Đế mới trừng phạt được những người ấy thôi, chứ không phải là chúng ta. Họ sẽ bị trừng phạt.

 

A minute of silence passed. “They are gone,” she whispered. The Master Spirits had given us one more message today, strong and clear. We are not to kill, no matter what the circumstances. Only God can punish.

Một phút im lặng trôi qua. Cô thì thầm, “Họ đi rồi”. Hôm nay các vị Thần Linh Bậc Thầy đã cho chúng ta một lời phán truyền nữa, mạnh mẽ và rõ ràng. Chúng ta không được giết, dù trong hoàn cảnh nào. Chỉ có Thượng Đế mới có thể trừng phạt.

 

Catherine was exhausted. I decided to postpone our pursuit of the past-life connection to her father, and I brought her out of her trance. She remembered nothing except her incarnations as Christian and as young Catherine. She was tired, yet peaceful and relaxed, as if a huge weight had been lifted from her. My eyes met Carole’s. We were also exhausted. We had shivered and we had sweated, hanging on to every word. We had shared an incredible experience.

Catherine mệt lử. Tôi quyết định rời lại việc truy cứu về sự liên hệ ở tiền kiếp với cha cô, và tôi đưa cô ra khỏi hôn mê. Cô không nhớ gì cả ngoại trừ hóa thân là Christian và Catherine còn nhỏ. Cô mệt mỏi, nhưng an lạc và thư giãn như thể trút được một gánh nặng đã được nhấc đi từ cô. Mắt tôi bắt gặp mắt Carole, Chúng tôi đều mệt lừ. Chúng tôi đã run rẩy và đã đổ mồ hôi, chú tâm vào mỗi lời nói. Chúng tôi cùng chia sẻ một kinh nghiệm khổng thể tưởng tượng được.

 

Sources:

Tài liệu tham khảo:

  1. https://tienvnguyen.net/a2066/tien-kiep-va-luan-hoi-co-that-khong-many-lives-many-masters-
  2. https://tienvnguyen.net/images/file/Wful-wTe1ggQAFce/manylivesmanymasters.pdf
  3. https://tienvnguyen.net/images/file/sLziGUbf1ggQALdp/tienkiepvaluanhoicothatkhong.pdf
  4. Photo 2: https://thriveglobal.com/stories/expereince-the-superconscious-mind/