Chapter 5 – Chuyện Tình Qua Nhiều Kiếp Luân Hồi – Only Love Is Real, The Story Of Soulmates Reunited – Song ngữ
English: Dr. Brian L. Weiss 1996.
Việt ngữ: Vương Thị Minh Tâm.
Compile: Middle Way Group.
Chapter 5 – Chuyện Tình Qua Nhiều Kiếp Luân Hồi – Only Love Is Real, The Story Of Soulmates Reunited
Victor Hugo (Victor- Marie Hugo) 1802-1885, was a French poet, novelist, and dramatist of the Romantic movement.
Love Heals Grief – A life time of love
And still her grief would not abate.
At last she bore another child, and great
Was the father’s joy; and loud his cry: “A Son!”
That day, to thus rejoice – he was the only one.
Dejected and wan the mother lay; her sould was numb…
Then suddenly she cried with anguish wild,
Her thoughts less on the new than on the absent child…
“My angel in his grave, and I not at his side!”
Speaking through the babe now held in her embrace
She hears again the well-known voice adored:
“Tis I, – but do not tell!” He gazes at her face.
Nỗi sầu đau của nàng vẫn không thể nguôi ngoai.
Nhưng rồi nàng lại sinh ra một đứa con khác.
Với niềm vui khôn xiết … người cha thốt lên: “Ôi! Một thằng con trai”.
Ngày đó chàng là người duy nhất hạnh phúc vui sướng như vậy.
Nàng nằm đó xanh xao nhợt nhạt, buồn bã, tâm hồn nàng chết lặng.
Rồi bỗng nhiên nàng òa khóc với niềm thống khổ xiết bao.
Nàng không yêu quý đứa con mới chào đời bằng đứa đã chết đi…
“Thiên thần của tôi đã nằm dưới nấm mồ, mà tôi không ở cạnh bên nó!”
Lời nói xuyên qua đứa bé nàng đang bồng trên tay,
nàng nghe lại một giọng nói yêu thương ngày nào
“Mẹ ơi, đây là con nè, nhưng mẹ đừng nói với ai!”
Thằng bé nhìn chằm chằm vào mặt nàng.
Victor Hugo
Pedro is an extraordinarily handsome Mexican man, fairer than I had anticipated, with sandy brown hair and wonderful blue eyes that at times seem almost green. His charm and easy wit hid the grief he was feeling at the death of his brother, who had died ten months previously in a terrible automobile accident in Mexico City.
Pedro là anh chàng Mễ Tây Cơ đẹp trai lạ thường, tóc nâu vàng và đôi mắt xanh, đôi khi có vẻ trong xanh. Nét quyến rũ và tài dí dỏm che giấu nỗi buồn mà anh đang mang trong lòng. Anh buồn về cái chết của người anh trai trong một tai nạn xe hơi tại thành phố Mexico cách đây mười tháng.
Many people suffering from acute grief reactions come to see me, hoping to understand more about death or even to encounter their deceased loved ones again. The meeting might occur in a past lifetime. It might occur in the spiritual state found in-between lifetimes. Or the reunion might take place in a mystical setting, beyond the confines of the physical body and physical geography. Whether the spiritual meetings are real or imaginary, they possess a power that is vividly felt by the patient. Lives are changed.
Nhiều người khổ sở vì phản ứng đau buồn cấp tính đến tìm tôi, hy vọng hiểu rõ về cái chết, hoặc thậm chí để gặp lại người thân yêu đã chết. Cuộc gặp gỡ có lẽ xảy ra trong một kiếp quá khứ, cũng có thể xảy ra trong trạng thái tâm linh giữa nhiều kiếp sống. Việc đoàn tụ có thể xảy ra trong bối cảnh huyền bí, nằm ngoài những giới hạn của thân thể vật chất và địa lý học tự nhiên. Bất kể những cuộc gặp gỡ tâm linh có thật hay không họ vẫn sở hữu một năng lực mà họ cảm thấy rất rõ. Và cuộc đời họ thay đổi.
The delicate and often detailed recall of past lifetimes is not a wish fulfillment. Images are not merely conjured up because a patient needs them or because they might make him feel better. What is remembered is what has happened. The specificity and accuracy of remembered details, the depth of emotion displayed, the resolution of clinical symptoms, and the life-transforming power of the memories all point to the reality of the recall.
Những gợi nhớ tinh tế và tỉ mỉ của những kiếp quá khứ không phải là một việc thực hiện mong muốn. Hình ảnh không đơn thuần chỉ là gợi nhớ, bởi vì bệnh nhân cần chúng, hoặc bởi vì chúng khiến bệnh nhân cảm thấy khỏe hơn.
Những gì được nhớ lại là những gì đã xảy ra. Nét đặc trưng và chính xác của những chi tiết gợi nhớ, phần sâu thẳm của xúc cảm đã biểu lộ, sự quyết tâm trị bệnh, năng lực chuyển hóa trong nhiều kiếp của ký ức đều chỉ ra sự thật của việc hồi tưởng.
The unusual aspect of Pedro’s story was the ten months that had elapsed since his brother’s death. By this time, grief is generally resolving. The long time span of Pedro’s grief suggested an underlying, even deeper despair. His sadness actually extended far beyond his brother’s death. We would learn in subsequent sessions that he had been separated from his loved ones over many lifetimes, and he was acutely sensitized to the loss of a love. The sudden death of his brother reminded him, in the deepest unconscious recesses of his mind, of losses even greater, even more tragic, over millennia.
Khía cạnh không bình thường trong câu chuyện của Pedro trong mười tháng trôi qua từ khi người anh mất. Lúc này đây nỗi buồn càng sâu đậm hơn. Quãng thời gian dài đau khổ của Pedro có thể xem là một lớp nằm bên dưới, thậm chí một niềm tuyệt vọng sâu xa. Nỗi buồn của anh thật sự vượt ngoài cái chết của người anh. Chúng ta có thể hiểu được qua những đợt trị liệu sau này là do anh đã bị cách chia với người yêu dấu qua rất nhiều kiếp, và rõ ràng là anh bị ảnh hưởng bởi sự mất mát này. Cái chết bất ngờ của người anh khơi dậy trong anh, trong tiềm thức sâu thẳm, nhiều sự mất mát lớn lao hơn, bi thảm hơn, trải qua hàng thiên niên kỷ.
In psychiatric theory, each loss we experience stirs repressed or forgotten feelings and memories of previous losses. Our grief is magnified by the cumulative grief of earlier losses. In my research with past lives, I was finding that the arena in which these losses occur needs to be enlarged. We cannot go back only to childhood. Earlier, past-life losses need to be included. Some of our most tragic losses and our most profound grief happened before we were born.
Trong triết lý tâm thần học, mỗi sự mất mát mà chúng ta nếm trải đều khuấy động khơi dậy những cảm giác bị dồn nén hoặc bị lãng quên, và gợi nhớ lại những mất mát đó. Nỗi đau của chúng ta biểu hiện bởi nỗi đau đã tích lũy từ rất lâu. Khi nghiên cứu về những kiếp quá khứ, tôi phát hiện ra rằng cái khán đài, nơi mà chúng ta bị mất mát, cần phải được nới rộng ra. Chúng ta không thể quay trở lại thời thơ ấu. Những mất mát trong kiếp quá khứ cần phải gộp lại. Nhiều bi kịch và nỗi đau sâu thẳm của chúng ta đã từng xảy ra trước khi chúng ta được sinh ra.
Before anything, I needed to know more about Pedro’s life. I needed landmarks to navigate the flow of future sessions. “Tell me about yourself,” I asked. “Your childhood, your family, and whatever else you feel is important. Tell me everything you think I should know.”
Trước hết, tôi cần hiểu rõ hơn về cuộc sống của Pedro. Tôi cần những dấu mốc để len lỏi qua nhiều đợt điều trị tiếp theo. Tôi hỏi: – Hãy kể cho tôi nghe về anh, về thời thơ ấu, gia đình, bất cứ điều gì anh cho là quan trọng. Kể hết mọi thứ mà anh nghĩ là tôi nên biết.
Pedro sighed deeply and sank back into the large, soft chair. He loosened his tie and unbuttoned the top button of his shirt. His body language told me this would not be easy for him. Pedro came from a very privileged family, both financially and politically. His father owned a large business and several factories. They lived in the hills above the city, in a spectacular house within a secure, gated community. Pedro had attended the finest private schools in the city. He had studied English since the early grades, and after living in Miami for several years, his English was excellent. He was the youngest of three children. His sister was the oldest child, and even though she was four years older than he, Pedro was extremely protective of her. His brother was two years older and very close to Pedro.
Pedro thở dài, thụt người trong cái ghế bành. Anh nới cà vạt và cởi bớt cái nút trên cổ áo. Qua ngôn ngữ cử chỉ, tôi biết anh rất khó nói ra về cả hai mặt tài chính và chính trị. Cha anh sở hữu một việc kinh doanh tầm cỡ, và có nhiều nhà máy. Họ sống trong căn nhà ngoạn mục trong khu vực được bảo vệ an ninh cẩn thận, xây trên những ngọn đồi phía trên thành phố. Anh được học trường tư tốt nhất của thành phố, và học tiếng Anh từ nhỏ. Sau đó thì sống ở Miami nhiều năm nên anh nói tiếng Anh rất chuẩn. Anh là con út trong gia đình có ba người con. Người chị cả hơn anh bốn tuổi, luôn luôn bảo vệ chăm sóc em, người anh trai hơn anh hai tuổi, rất thương yêu em.
Pedro’s father worked very hard and usually didn’t come home until late at night. His mother and the nannies, maids, and other staff ran the house and cared for the children. Pedro studied business in college. He had several girlfriends, but no serious relationship. “Somehow my mother was never very fond of the girls I dated,” Pedro added. “She always found some particular fault and never let me forget.”
Cha anh làm việc rất cực nhọc, ông thường về nhà rất khuya. Mẹ anh, mấy bà vú nuôi, mấy cô hầu, và nhiều người giúp việc chăm sóc nhà cửa, con cái. Pedro học ngành kinh doanh. Anh có nhiều bạn gái, nhưng chẳng có mối tình nào sâu sắc.
– Tôi không hiểu tại sao mẹ tôi không bao giờ thích mấy cô bạn gái mà tôi hẹn hò. Bà luôn tìm ra những lỗi đặc trưng rồi lải nhải suốt.
At this point, Pedro looked around uncomfortably. “What is it?” I inquired. He didn’t respond immediately, swallowing several times before beginning. “I had an affair with an older woman during my last year at the university,” he slowly told me. “She was older . . . and married.” Pedro paused. “Okay,” I responded after a few moments, mostly to fill the silence. I could feel his discomfort, and despite many years of experience, I still didn’t like the feeling. “Did her husband find out?” “No,” he answered, “he didn’t.” “Things could have been worse,” I pointed out, stating the obvious, trying to comfort him. “There is more,” he added ominously. I nodded, waiting for Pedro to fill me in. “She became pregnant. . .. There was an abortion. My parents don’t know about this.”
Ngay tại điểm này, Pedro khó chịu đảo mắt nhìn khắp chung quanh. Tôi thắc mắc: – Có chuyện gì vậy? Anh không trả lời ngay, khó khăn lắm anh mới từ từ kể cho tôi nghe. – Năm cuối đại học tôi dan díu với người đàn bà có chồng, lớn tuổi hơn tôi…Pedro dừng lại. Tôi trả lời sau vài phút yên lặng. – Được thôi. Chồng cô ta có biết không? Tôi cảm thấy anh không thoải mái, dù đã qua nhiều năm kinh nghiệm rồi, tôi vẫn không thích cảm giác này. Anh trả lời: – Không. Ông ta không biết gì. Tôi đưa ra vấn đề rõ ràng, cố gắng làm anh thoải mái hơn. – Nhiều chuyện có thể còn tồi tệ hơn. Anh nói thêm, có vẻ ngại ngùng: – Còn nữa. Tôi gật đầu, chờ anh kể thêm. – Cô ta có thai… rồi đi nạo. Ba mẹ tôi cũng không hay biết gì.
His eyes were cast downward. He was still ashamed and feeling guilty, years after the affair and the abortion. “I understand,” I began. “Can I tell you what I have learned about abortions?” I asked him. He nodded his assent. He knew about my research into hypnosis and past lives. “An abortion, or a miscarriage, usually involves an agreement between the mother and the soul that would enter the baby. Either the baby’s body would not be healthy enough to carry out its planned tasks in the coming life,” I continued, “or the timing was not right for its purposes, or the outside situation had changed, such as the desertion of the father when the baby’s or mother’s plans required a father figure. Do you understand?”
Mắt anh dán xuống đất. Dù đã qua nhiều năm anh vẫn cảm thấy xấu hổ, tội lỗi vì sự dan díu và nạo thai. Tôi bắt đầu: – Tôi hiểu. Rồi tôi hỏi anh ta: – Tôi có thể nói với anh về kinh nghiệm mà tôi biết qua việc nạo thai không? Anh gật đầu đồng ý. Anh cũng biết về những nghiên cứu của tôi trong phép trị liệu đưa bệnh nhân trở về quá khứ. – Nạo thai hay hư thai thông thường đều do sự đồng ý của người mẹ và linh hồn nhập vào bào thai. Liệu thân thể đứa bé có đủ khỏe mạnh để thực hiện bổn phận vào kiếp sống sắp đến không. Hoặc thời gian ngoài thay đổi, chẳng hạn như người cha bỏ rơi trong khi kế hoạch của người mẹ và đứa bé yêu cầu phải có bóng dáng của người cha. Anh hiểu chứ?
“Yes,” he nodded, but he didn’t look convinced. I knew that his strong Catholic background might make the resolution of his guilt and shame more difficult. Sometimes our old, fixed beliefs interfere with the acquisition of new knowledge. I went back to the basics. “I will tell you only about my own research,” I explained, “not about what I have read or heard about from others. This information comes from my patients, usually when they are deeply hypnotized. Sometimes the words are theirs, and sometimes they seem to be coming from another, higher source.”
– Vâng. Anh gật đầu, nhưng có vẻ không chắc chắn. Tôi biết sức mạnh niềm tin của đạo Cơ Đốc có lẽ khiến tội lỗi, xấu hổ trong anh càng khó khăn hơn. Đôi khi niềm tin thâm căn cố đế của chúng ta xen vào việc thu thập những hiểu biết mới mẻ khác.Tôi trở lại vấn đề, giải thích thêm: – Tôi chỉ kể về sự nghiên cứu của tôi, không phải những gì mà tôi đọc hay nghe lại. Những thông tin này đều do bệnh nhân kể lại khi họ trong trạng thái bị thôi miên. Đôi khi từ ngữ là của chính họ, có lúc thì dường như của người khác, trong cảnh giới khác cao hơn.
Pedro nodded his head again, not speaking. “My patients tell me that the soul does not enter the body right away. Around the time of conception, a reservation is made by the soul. No other soul can have that body. The soul who has reserved that particular baby’s body can then come into and out of the body, as it wishes. It is not confined. This is similar to people in comas,” I added.
Pedro lại gật đầu, không nói gì. Tôi nói thêm: – Bệnh nhân kể cho tôi nghe về linh hồn không nhập vào thân thể ngay tức thì. Chung quanh thời gian của ý niệm, linh hồn tự quan sát. Không hề có linh hồn khác có thể nhập vào thân thể đó. Linh hồn quan sát thân thể đặc biệt của đứa bé, rồi có thể tự ý nhập vào, xuất ra khỏi thân thể đó, không bị giam giữ. Điều này tương tự như con người trong trạng thái hôn mê.
Pedro nodded in understanding, still not speaking but listening intently.
“During pregnancy, the soul is gradually more and more attached to the baby’s body,” I went on, “but the attachment is not complete until around the time of birth, either shortly before, during, or just afterward.” I emphasized this concept by joining my hands at the base of my palms, forming a ninety-degree angle. Then I slowly closed my hands so that the rest of my palms and my fingers met, like the universal hand symbol for prayer, denoting the gradual attachment of the soul to the body. “You can never harm or kill a soul,” I added. “The soul is immortal and indestructible. It will find a way to return, if that is the plan.”
Pedro gật đầu có vẻ hiểu ra, vẫn không nói gì,nhưng chăm chú lắng nghe. Tôi tiếp tục: – Trong thời kỳ mang thai, linh hồn dần dần càng lúc càng gắn bó với thân thể đứa bé nhiều hơn. Nhưng sự gắn chặt vào thân thể chưa hợp nhất cho đến khi gần ngày sinh, có thể ngay trước đó một chút, có thể trong lúc đang sinh, hoặc có thể chỉ vừa lúc sinh ra. Tôi nhấn mạnh khái niệm này bằng cách chống hai cánh tay, và gập hai bàn tay lại theo một góc chín mươi độ, rồi từ từ úp hai lồng bàn tay lại với nhau, như chắp tay cầu nguyện, để chỉ ra linh hồn dần dần gắn chặt vào thể xác. Tôi nói thêm: – Anh không thể giết hoặc làm linh hồn bị đau. Linh hồn là bất tử và không thể hủy diệt. Nó sẽ tìm cách quay trở lại, nếu có kế hoạch.
“What do you mean?” Pedro asked. “I have had cases where the same soul, after a miscarriage or abortion, comes back to the same parents in their next baby.” “Incredible!” Pedro responded. His face appeared brighter now, not so guilty or embarrassed. “You never know,” I added. After a few moments of contemplation, Pedro sighed again and crossed his legs, adjusting his pants. We had shifted back into the history-taking mode.
– Bác sĩ muốn nói đến cái gì? – Tôi đã gặp một trường hợp: sau khi bị hư thai hay nạo thai, linh hồn đó trở lại cùng với ba mẹ cũ, đầu thai thành đứa con được sinh ra sau này. – Thật khó tin! Gương mặt anh sáng lên, không còn quá khổ sở vì tội lỗi. – Anh không bao giờ biết được. Sau vài phút trầm tư, Pedro lại thở dài, bắt chéo chân, chỉnh sửa lại ống quần. Chúng tôi quay lại cách thức lấy tiểu sử.
“What happened after that?” I asked. “After graduation, I went back home. At first, I worked in the factories, learning more about the business. Later on, I came to Miami to run the business here and abroad. I’ve been here since,” he explained. “How is the business going?” “Very well, but it occupies too much of my time.” “Is that a big problem?” “It doesn’t help my love life,” Pedro said, grinning. He was not entirely joking. Now twenty-nine years old, he felt that he was racing past the time to find love, marry, and start a family. Racing, but no prospects.
– Chuyện gì xảy ra nữa? – Tốt nghiệp xong tôi về nhà. Lúc đầu tôi làm việc trong các nhà máy, học hỏi kinh nghiệm kinh doanh. Sau đó tôi đến Miami quản lý việc kinh doanh ở đây và nước ngoài. Từ đó tới giờ tôi vẫn sống ở đây. – Việc kinh doanh của anh ra sao? – Của tôi ? – Đó là vấn đề nghiêm trọng? – Nó không giúp gì cho cuộc sống đáng yêu của tôi. Pedro cười nhăn nhở trả lời. Anh không hề có ý định đùa giỡn. Giờ đây đã hai mươi chín tuổi, anh cảm thấy mình đang chạy đua với thời gian đã mất để tìm tình yêu, lập gia đình, ổn định cuộc sống. Chạy đua, nhưng không có triển vọng.
“Are you having relationships with women?” “Yes,” he answered, “but nothing special. I haven’t really fallen in love. … I hope I can,” he added with some concern in his voice. “I will very soon have to return to Mexico and live there,” Pedro mused, “in order to take over my brother’s duties. Perhaps I will meet someone there,” he commented without conviction. I wondered if his mother’s criticisms of Pedro’s girlfriends and the experience of the affair and the abortion were psychological obstacles to a loving and intimate relationship. We would look at those issues later, I thought.
– Anh có đang quan hệ với phụ nữ nào không? – Có. Nhưng chẳng có gì đặc biệt. Tôi chưa hề yêu thật sự… tôi hy vọng có thể. Pedro nói thêm với một giọng quan tâm: – Tôi sẽ sớm trở về Mexico, và sống ở đó. Anh thầm thì: – Để đảm nhận lại trách nhiệm của anh tôi. Có lẽ tôi sẽ gặp ai đó. Anh nói mà không tin chắc. Tôi thắc mắc liệu những lời chỉ trích của mẹ anh đối với các bạn gái, và kinh nghiệm trong lần dan díu rồi nạo thai có phải là những trở ngại tâm lý trong tình yêu và mối quan hệ thân thiết. Tôi nghĩ rằng chúng tôi sẽ nhìn tới vấn đề này sau. Tôi hỏi, muốn làm lòng anh nhẹ đi, trong lúc thu thập thêm thông tin:
“And how is your family in Mexico?” I asked, lightening the mood while continuing to collect information.
“They are well. My father is more than seventy now, so my brother and I-” Pedro stopped abruptly. He swallowed and took a deep breath before resuming. “So I have more responsibility in the business,” he concluded in a quiet voice. “My mother is also well.” He paused before amending his answer. “But they are both not coping well with the death. It has taken a great deal out of them. They have grown much older.” “And your sister?” “She is sad also, but she has her husband and her children,” Pedro explained. I nodded my head in understanding. She had more distractions to help her cope. Pedro was in excellent physical health. His only complaint was of intermittent pain in his neck and left shoulder, but this problem had been present for a very long time, and doctors had not found anything unusual. “I’ve learned to live with it,” Pedro told me.
– Gia đình anh ở Mexico như thế nào? – Họ đều khỏe cả. Cha tôi đã hơn bảy mươi rồi, vì vậy tôi và anh tôi…Pedro dừng lại đột ngột, nuốt giọng, lấy hơi trước khi tiếp tục: – Do đó, tôi phải nhận lấy trách nhiệm nặng hơn trong việc kinh doanh.
Anh kết luận bằng một giọng nói khẽ: – Mẹ tôi còn khỏe. Anh dừng lại trước khi chỉnh sửa câu trả lời. – Nhưng cả hai người đều quá đau buồn. Càng ngày họ càng già đi nhanh hơn. – Còn người chị? – Chị cũng quá buồn. Chị đã có gia đình. Tôi gật đầu ra chiều thông cảm. Cô ta còn rối trí hơn. Pedro quả thật có sức khỏe. Anh chỉ than đau từng cơn ở cổ và vai trái, nhưng vấn đề này xuất hiện từ lâu. Bác sĩ cũng không thấy gì bất thường. Pedro nói rằng anh đã học kinh nghiệm sống chung với nó.
I became aware of time. Looking at my watch, I saw that we had run twenty minutes late. My internal alarm clock was usually much more reliable. I must have been really absorbed in the drama of Pedro’s story, I rationalized silently, unaware that even more absorbing dramas were only now beginning to unfold.
Tôi nhớ ra đã hết giờ, đã quá hai mươi phút. Chuông đồng hồ trong tôi thường đáng tin cậy nhiều hơn. Tôi thật sự bị thu hút vào kịch tính trong câu chuyện của Pedro, tôi lặng lẽ lý sự, không biết rằng thậm chí còn nhiều kịch tính hấp dẫn chỉ bắt đầu khám phá ngay bây giờ.
I don’t think of the past anymore, I don’t think of the future anymore, I’m free from the past, from the future, and there is a real encounter between me and the tea.
The Vietnamese Buddhist monk and philosopher, Thich Nhat Hanh, writes about enjoying a good cup of tea. You must be completely awake in the present to enjoy the tea. Only in the awareness of the present can your hands feel the pleasant warmth of the cup. Only in the present can you savor the aroma, taste the sweetness, appreciate the delicacy. If you are ruminating about the past or worrying about the future, you will completely miss the experience of enjoying the cup of tea. You will look down at the cup, and the tea will be gone.
Tu sĩ Phật giáo Việt Nam Thích Nhất Hạnh có viết về sự thưởng thức một tách trà. Bạn phải hoàn toàn ý thức được ngay lúc hiện tại để tận hưởng tách trà đó. Chỉ trong lúc ý thức rõ hiện tại, đôi tay bạn mới cảm nhận được sự ấm áp thú vị của cái tách. Chỉ ngay lúc đó bạn mới cảm nhận được hương vị ngon thơm của trà. Nếu bạn tư lự về quá khứ, lo lắng về tương lai, bạn sẽ bỏ lỡ một cơ hội thưởng thức trà. Khi bạn nhìn xuống cái tách thì vị trà đã bay đi.
Life is like that. If you are not fully in the present, you will look around and it will be gone. You will have missed the feel, the aroma, the delicacy and beauty of life. It will seem to be speeding past you. The past is finished. Learn from it and let it go. The future is not even here yet. Plan for it, but do not waste your time worrying about it. Worrying is worthless. When you stop ruminating about what has already happened, when you stop worrying about what might never happen, then you will be in the present moment. Then you will begin to experience joy in life.
Cuộc sống thì cũng giống như vậy. Nếu bạn không hết lòng sống ngay hiện tại, bạn liếc nhìn chung quanh, thì cuộc sống cũng trôi đi. Bạn sẽ bỏ lỡ cảm giác, hương vị ngọt ngào, và nét đẹp của cuộc đời. Có vẻ như cuộc đời sẽ lướt nhanh qua bạn.Quá khứ đã hết. Hãy rút kinh nghiệm từ nó và để nó đi qua. Tương lai còn chưa đến. Hãy lên kế hoạch cho nó nhưng không cần phải lo lắng về nó. Lo lắng cũng vô ích thôi. Nếu chúng ta không còn tư lự về những gì đã xảy ra, không lo lắng về những gì có thể không bao giờ xảy ra, thì chúng ta sẽ sống trọn vẹn ngay giây phút này. Rồi chúng ta sẽ bắt đầu thưởng thức cuộc sống.
Sources:
Tài Liệu tham khảo:
- https://tienvnguyen.net/images/file/YRPlCFHe1ggQANQv/chuyentinhquanhieukiepluanhoi.pdf
- https://tienvnguyen.net/images/file/3LljBlHe1ggQAFM5/onlyloveisreal.pdf
- http://thuvienhoasen.org/images/file/KD6h3bSo0QgQAKUC/chuyen-tinh-qua-nhieu-kiep-luan-hoi.pdf
- Photo 2: https://en.wikipedia.org/wiki/Victor_Hugo
- Photo 3: https://wednesdayswithmalou.wordpress.com/2008/12/11/love-heals-grief/
- Photo 4: https://lovelyhealing.wordpress.com/a-cup-of-tea/