Chapter 4 – Tiền Kiếp Và Luân Hồi Có Thật Không? – Many Lives, Many Masters – Song ngữ

English: Dr. Brian L. Weiss.

Việt ngữ: Thích Tâm Quang.

Compile: Middle Way Group.

Chapter 4 – Tiền Kiếp Và Luân Hồi Có Thật Không? – Many Lives, Many Masters I see a square white house with a sandy road in front. People on horses are going back and forth.” Catherine was speaking in her usual dreamy whisper. “There are trees … a plantation, a big house with a bunch of smaller houses, like slave houses. It’s very hot. It’s in the South . . . Virginia?” She thought the date was 1873. She was a child.

“Tôi nhìn thấy một ngôi nhà trắng hình vuông với một con đường cát ở mặt tiền. Những người cưỡi ngựa đi tới đi lui”. Catherine đang nói vói giọng nói thì thầm mơ màng như thường lệ. ” Có nhiều cây cối … một đồn điền, một ngôi nhà lớn với một dãy nhà nhỏ, giống như nhà nô lệ. Trời rất nóng. Đó là miền Nam… Virginia?” Cô nghĩ là năm 1873. Cô là một đứa trẻ nhỏ.

 

“There are horses and lots of crops . . . corn, tobacco.” She and the other servants ate in a kitchen of the big house. She was black, and her name was Abby. She felt a foreboding, and her body tensed. The main house was on fire, and she watched it burn down. I progressed her fifteen years in time to 1888.

“Có nhiều ngựa và nhiều vụ mùa, … ngô, cây thuốc lá”. Cô và những người hầu hạ khác ăn trong bếp của ngôi nhà lớn. Cô là người da đen và tên là Abby. Cô cảm thấy có linh tính và thân thể cô căng thẳng. Cái nhà chính đang cháy, và cô đang thấy nó cháy rụi. Tôi dịch chuyển 15 năm của cô đến năm 1888.

 

“I’m wearing an old dress, cleaning a mirror on the second floor of a house, a brick house with windows . . . with lots of panes. The mirror is wavy, not straight, and it has knobs on the end. The man who owns the house is named James Man-son. He has a funny coat with three buttons and a big black collar. He has a beard. … I don’t recognize him [as someone in Catherine’s present lifetime]. He treats me well. I live in a house on the property. I clean the rooms. There is a schoolhouse on the property, but I’m not allowed in the school. I make butter, too!”

“Tôi mặc một bộ đồ cổ, đang lau tấm gương ở tầng thứ hai, một ngôi nhà gạch có cửa sổ… có nhiều ô. Tấm gương bị gợn, không phẳng, và có các quả đấm ở đầu mút. Người chủ ngôi nhà này có tên là James Manson. Ông ta có một cái áo choàng ngộ nghĩnh có ba khuy và một cổ áo đen lớn. Ông có râu … Tôi không nhận ra ông (là ai trong hiện kiếp của Catherine). Ông đối xử tốt với tôi. Tôi sống trong một ngôi thuộc cơ ngơi này. Tôi dọn dẹp phòng ốc. Có một trường học trong cơ ngơi này nhưng tôi không được phép đi học. Tôi cũng làm bơ!

 

Catherine was whispering slowly, using very simple terms and paying great attention to detail. Over the next five minutes, I learned how to make butter. Abby’s knowledge of churning butter was new to Catherine, too. I moved her ahead in time.

Catherine nói thì thầm chậm rãi, dùng những từ đơn giản và đểý nhiều vào chi tiết. Trên năm phút tiếp theo, tôi học cách làm bơ. Hiểu biết về khuấy bơ của Abby cũng thật mới lạ với Catherine. Tôi bảo cô tiến xa hơn nữa.

 

“I am with somebody, but I don’t think we are married. We sleep together . . . but we don’t always live together. I feel okay about him, but nothing special. I don’t see any children. There are apple trees and ducks. Other people are in the distance. I’m picking apples. Something is making my eyes itch.” Catherine was grimacing with her eyes closed. “It’s the smoke. The wind is blowing it this way …the smoke from burning wood. They’re burning up wooden barrels. “She was coughing now. “It happens a lot. They’re making the inside of the barrels black … tar … to waterproof.”

“Tôi đang cùng ở với một người nào đó, nhưng tôi không nghĩ là chúng tôi đã cưới nhau. Chúng tôi ngủ cùng nhau… nhưng chúng tôi không luôn luôn sống cùng nhau. Tôi cảm thấy vừa lòng với anh ta, nhưng không có gì đặc biệt cả. Tôi không thấy đứa bé nào. Có những cây táo và những con vịt. Những người khác ở cách xa. Tôi đang hái những trái táo. Có thứ gì đó làm mắt tôi cay. Catherine nhăn mặt trong khi nhắm mắt. Gió thổi phía này … khói từ gỗ cháy. Họ đang đốt các thùng gỗ”. Bây giờ cô đang bị ho. “Điều đó luôn luôn xẩy ra. Họ đang quét bên trong các thùng bằng hắc ín … để nước không thấm vào”.

 

After the excitement of last week’s session, I was eager to reach the in-between state again. We had already spent ninety minutes exploring her lifetime as a servant. I had learned about beds spreads, butter, and barrels; I was hungry for a more spiritual lesson. Forsaking my patience, I advanced her to her death.

Sau phần sôi nổi ở buổi thôi miên tuần trước, tôi rất mong muốn lại tiến tới trạng thái nửa nọ nửa kia. Chúng tôi đã mất 90 phút để thăm dò kiếp sống làm người đầy tớ của cô. Tôi đã học được về cách trải giường, làm bơ và thùng; tôi mong muốn có một bài học tinh thần. Không còn kiên nhẫn, tôi bảo cô tiến tới lúc chết.

 

“It’s hard to breathe. My chest hurts so much.” Catherine was gasping, in obvious pain. “My heart hurts; it’s beating fast. I’m so cold. . . my body’s shaking.” Catherine began to shiver. “People are in the room, giving me leaves to drink [a tea]. It smells funny. They’re rubbing a liniment on my chest. Fever . . . but I feel very cold.” She quietly died.

“Rất khó thở, ngực tôi đau lắm”. Catherine đang thở hỗn hển, trong cơn đau đớn rõ ràng. ” Tim tôi đau, nó đập nhanh. Tôi lạnh quá… thân thể tôi run lên”. Catherine bắt đầu rùng mình. “Người ta ở trong phòng, cho tôi uống trà. Mùi nó là lạ. Họ đang xoa dầu trên ngực tôi. Sốt … nhưng tôi cảm thấy rất lạnh”. Cô chết lặng lẽ.

 

Floating up to the ceiling, she could see her body in the bed, a small, shriveled woman in her sixties.

 

Floating up to the ceiling, she could see her body in the bed, a small, shriveled woman in her sixties. She was just floating, waiting for someone to come and help her. She became aware of alight, feeling herself drawn toward it. The light was becoming brighter, and more luminous. We waited in silence as minutes slowly passed. Suddenly she was in another lifetime, thousands of years before Abby.

Lơ lửng trên trần nhà, cô có thể nhìn thấy xác thân trên giường, một bà già nhỏ thó héo hon vào khoảng sáu mươi tuổi. Cô vừa mới lơ lửng đang đợi chờ người nào đó đến giúp. Cô trở nên ý thức về ánh sáng, cảm thấy bị lôi cuốn đến đó. Ánh sáng trở nên rực rỡ hơn, và chói lọi hơn. Chúng tôi chờ đợi trong im lặng và giây phút từ từ qua đi. Đột nhiên cô lại ở vào một kiếp khác, hàng ngàn năm trước Abby.

 

Catherine was softly whispering, “I see lots of garlic, hanging in an open room. I can smell it. It is believed to kill many evils in the blood and to cleanse the body, but you must take it every day. The garlic is outside too, on top of a garden. Other herbs are there . . . figs, dates, and other herbs. These plants help you. My mother is buying garlic and the other herbs. Somebody in the house is sick. These are strange roots. Sometimes you just keep them in your mouth, or ears, or other openings. You just keep them in.

Catherine đang nhẹ nhàng thì thào, “Tôi nhìn thấy rất nhiều tỏi, treo trong một cái phòng bỏ trống. Tôi ngửi thấy mùi tỏi. Người ta tin tỏi được dùng để giết ma quỷ trong máu và tẩy sạch thân thể, nhưng bạn phải dùng nó hàng ngày. Tỏi cũng có ở ngoài, ở phía trên cái vườn. Có những cây dược thảo … cây vả, cây chà là và các cây rau dược thảo khác. Những cây này có ích cho bạn. Mẹ tôi mua tỏi và các cây dược thảo khác. Trong nhà có người bị bệnh. Đây là những rễ cây lạ. Đôi khi bạn ngậm những rễ cây ấy trong miệng, để trong tai hay những chỗ mở ra. Bạn chỉ cần giữ chúng.

 

“I see an old man with a beard. He’s one of the healers in the village. He tells you what to do. There is some type of … plague . . . killing the people. They’re not embalming because they’re afraid of the disease. People are just buried. The people are unhappy about this. They feel the soul cannot pass on this way {contrary to Catherine’s after-death reports]. But so many have died. The cattle are dying, too. Water . . . floods . . . people are sick because of the floods. [She apparently just realized this bit of epidemiology.] I also have some disease from the water. It makes your stomach hurt. The disease is of the bowel and stomach. You lose so much water from the body. I’m by the water to bring more back, but that’s what is killing us. I bring the water back. I see my mother and brothers. My father has already died. My brothers are very sick.”

“Tôi nhìn thấy một ông già có bộ râu. Ông là một trong những thầy lang trong làng. Người này nói cho bạn biết phải làm gì. Có một loại bệnh dịch gì đó đang giết dân chúng. Họ không ướp xác vì sợ bệnh này. Họ được đem chôn. Người ta không vui về việc ấy. Họ cảm thấy linh hồn không đi tiếp được bằng cách ấy (trái ngược với tường thuật sau khi chết của Catherine). Nhưng có quá nhiều người chết. Trâu bò cũng đang chết. Nước … lụt … người ta bị bệnh vì lụt (Cô hiển nhiên mới nhận thức được một chút về dịch tễ học). Tôi cũng mắc một vài chứng bệnh do nước. Nó làm tôi đau dạ dày. Bệnh về ruột và dạ dày. Thân thể bạn mất nhiều nước. Tôi ở bên cạnh nước, để mang về nhiều hơn, nhưng đó là cái giết chúng tôi. Tôi mang nước trở lại. Tôi thấy mẹ tôi và các anh tôi. Cha tôi đã chết. Các anh tôi rất ốm yếu. “

 

 It was automatic, a conscious part of her would leave the body around the moment of death, floating above and ‘then being drawn to a    wonderful, energizing light. And then wait for someone to come and help her.

 

I paused before progressing her in time. I was fascinated by the way her conceptions of death and the afterlife changed so much from lifetime to lifetime. And yet her experience of death itself was so uniform, so similar, every time. A conscious part of her would leave the body around the moment of death, floating above and ‘then being drawn to a wonderful, energizing light. She would then wait for someone to come and help her. The soul automatically passed on. Embalming, burial rituals, or any other procedure after death had nothing to do with it. It was automatic, no preparation necessary, like walking through a just-opened door.

Tôi tạm ngưng lại trước khi phát hiện về thời gian. Tôi say mê bởi cách có quan niệm về cái chết và kiếp sống sau thay đổi quá nhiều hết kiếp này đến kiếp khác. Tuy nhiên kinh nghiệm về chính cái chết rất đồng nhất, rất giống nhau, ở mỗi lần. Phần thức của cô rời khỏi xác vào lúc chết bay lơ lửng rồi bị cuốn vào một ánh sáng năng lượng tuyệt vời. Cô phải đợi người nào đó đến để giúp cô. Linh hồn tự động đi tiếp. Ướp xác, lễ chôn cất hay bất cứ cách thức nào khác sau khi chết không liên quan gì đến nó. Linh hồn tự động, không cần chuẩn bị, giống như đi qua cái cửa mở.

 

“The land is barren and dry. … I see no mountains around here, just land, very flat and dry. One of my brothers has died. I’m feeling better, but the pain is still there.” However, she did not live much longer. “I’m lying on a pallet with some type of covering.” She was very ill, and no number of garlic or other herbs could prevent her death. Soon she was floating above her body, drawn to the familiar light. She waited patiently for someone to come to her. Her head began to roll slowly from side to side, as if she were scanning some scene. Her voice was again husky and loud.

“Đất trơ trụi và khô cằn … Tôi không thấy có núi non quanh đây, chỉ có đất, rất phẳng và khô. Một trong các anh tôi chết. Tôi cảm thấy dễ chịu hơn, nhưng vẫn còn đau đớn” Tuy nhiên cô không sống lâu hơn. “Tôi nằm dài trên một ổ rơm có cái gì đó bao bọc.” Cô bệnh nặng và không có lượng tỏi hay dược thảo nào có thể cứu cô khỏi chết. Ngay sau khi cô bay lơ lửng trên xác, cô bị cuốn vào một ánh sáng quen thuộc. Cô đang kiên nhẫn chờ một người nào đó đến với cô. Đầu cô bắt đầu ngó ngoáy hết bên này đến bên kia như thể cô đang lướt xem cảnh tượng nào đó. Giọng cô lại khỏe lên và rõ ràng.

 

“They tell me there are many gods, for God is in each of us.”

“Họ nói với tôi có nhiều thượng đế, Thượng Đế ở trong mỗi chúng ta”

I recognized the voice from the in-between-lives state by its huskiness as well as by the decidedly spiritual tone of the message. What she said next left me breathless, pulling the air from my lungs. “Your father is here, and your son, who is a small child. Your father says you will know him because his name is Avrom, and your daughter is named after him. Also, his death was due to his heart. Your son’s heart was also important, for it was backward, like a chicken’s. He made a great sacrifice for you out of his love. His soul is very advanced. . ., His death satisfied his parents’ debts. Also, he wanted to show you that medicine could only go so far, that its scope is very limited.”

Tôi nhận ra giọng nói từ trạng thái ở giữa nửa nọ nửa kia bởi sự khàn khàn của nó cũng như giọng nói đầy tinh thần trong lời nhắn nhủ. Những gì cô nói khiến tôi không thể thở được, như kéo hết không khí trong buồng phổi của tôi.

“Cha ông ở đây, và con ông là một đứa bé. Cha ông nói ông sẽ biết ông ấy vì tên của ông là Avrom, và con gái của ông được đặt tên theo cha ông. Và cái chết của cha ông là do bệnh tim. Tình cảm của con ông cũng rất quan trọng, vì nó rụt rè, như con gà chết. Nó đã hy sinh mạng sống cho ông vì lòng yêu thương của nó. Linh hồn của nó rất cao cả… Nó chết để trả những nợ nần cho cha mẹ. Nó cũng muốn cho ông thấy thứ thuốc đó chỉ có thể hữu hiệu đến thế vì phạm vi của nó rất hạn chế.”

 

Catherine stopped speaking, and I sat in an awed silence as my numbed mind tried to sort things out. The room felt icy cold. Catherine knew very little about my personal life. On my desk I had a baby picture of my daughter, grinning happily with her two bottom baby teeth in an otherwise empty mouth. My son’s picture was next to it. Otherwise, Catherine knew virtually nothing about my family or my personal history. I had been well schooled in traditional psychotherapeutic techniques. The therapist was supposed to be a tabula rasa, a blank tablet upon which the patient could project her own feelings, thoughts, and attitudes. These then could be analyzed by the therapist, enlarging the arena of the patient’s mind. I had kept this therapeutic distance with Catherine. She really knew me only as a psychiatrist, nothing of my past or of my private life. I had never even displayed my diplomas in the office.

Catherine ngưng nói, tôi ngồi trong sự im lặng dễ sợ và tâm trí tê cóng của tôi cố gắng lọc lõi các sự việc. Căn phòng như đông lạnh. Catherine biết rất ít về đời tư của tôi. Trên bàn làm việc của tôi có một tấm hình nhỏ của con gái tôi, nhe răng cười với hai cái răng ở hàm dưới trong cái miệng trống rỗng. Tấm hình đứa con trai tôi ở bên cạnh. Mặt khác, Catherine không biết gì về gia đình tôi hay tiểu sử của tôi. Tôi đã được học cẩn thận về phương pháp chữa bệnh truyền thống. Bác sĩ chuyên khoa có nhiệm vụ làm cái phông trắng để người bệnh có thể chiếu lên đó tất cả những cảm nghĩ riêng tư, tư tưởng và thái độ. Bác sĩ chuyên khoa sẽ phân tích chúng, mở rộng phạm vi hoạt động của tâm trí bệnh nhân. Tôi đã giữ khoảng cách chữa bệnh này với Catherine. Cô thật sự chỉ biết tôi là một bác sĩ tâm thần, không biết gì về quá khứ cũng như cuộc sống riêng tư của tôi. Thậm chí tôi cũng chưa bao giờ treo các bằng cấp của tôi ở phòng mạch.

 

The greatest tragedy in my life had been the unexpected death of our firstborn son, Adam, who was only twenty-three days old when he died, early in 1971. About ten days after we had brought him home from the hospital, he had developed respiratory problems and projectile vomiting. The diagnosis was extremely difficult to make. “Total anomalous pulmonary venous drainage with an atrial septal defect,” we were told. “It occurs once in approximately every ten million births.” The pulmonary veins, which were supposed to bring oxygenated blood back to the heart, were incorrectly routed, entering the heart on the wrong side. It was as if his heart were turned around, backward. Extremely, extremely rare.

Thảm kịch lớn nhất trong đời tôi là cái chết bất ngờ của đứa con trai đầu, Adam, nó mới sinh được 23 ngày thì chết, vào khoảng đầu năm 1971. Vào khoảng mười ngày sau, chúng tôi mang nó về nhà từ bệnh viện, nó khó thở và nôn mửa. Việc chẩn bệnh cực kỳ khó khăn. “Toàn bộ dẫn lưu tĩnh mạch phổi di tật vách ngăn tim”, chúng tôi được biết là như thế. “Điều đó chỉ xẩy ra một lần trong mười triệu ca sinh đẻ”. Mạch máu của phổi phải mang máu đã ô xy hóa về tim, bị chuyển sai vào tim bằng phía sai. Dường như là tim của con tôi hoạt động ngược. Cực kỳ, hy hữu hiếm xẩy ra.

 

Heroic open-heart surgery could not save Adam, who died several days later. We mourned for months, our hopes and dreams dashed. Our son, Jordan, was born a year later, a grateful balm for our wounds. At the time of Adam’s death, I had been wavering about my earlier choice of psychiatry as a career. I was enjoying my internship in internal medicine, and I had been offered a residency position in medicine. After Adam’s death, I firmly decided that I would make psychiatry my profession. I was angry that modern medicine, with all of its advanced skills and technology, could not save my son, this simple, tiny baby.

Giải phẫu mở tim dị thường cũng không thể cứu nổi Adam, nó đã chết ít hôm sau. Chúng tôi đã thương tiếc nó nhiều tháng trời, hy vọng và giấc mơ của chúng tôi tiêu tan. Con chúng tôi, Jordan, sinh ra một năm sau, một niềm an ủi to lớn cho vết thương của chúng tôi. Vào lúc Adam chết, tôi đang lưỡng lự vềviệc chọn lựa ban đầu của tôi về ngành tâm thần. Tôi đang là bác sĩ thực tập nội trú về nội khoa, và tôi đã được đề nghị một chức vụ nội trú nội khoa. Sau khi Adam chết, tôi quyết tâm làm nghề chữa bệnh tâm thần. Tôi đau lòng thấy y khoa hiện đại với tất cả kỹ năng và kỹ thuật tiên tiến không cứu nổi con tôi, một đứa trẻ nhỏ bé bình thường.

 

My father had been in excellent health until he experienced a massive heart attack early in 1979, at the age of sixty-one. He survived the initial attack, but his heart wall had been irretrievably damaged, and he died three days later. This was about nine months before Catherine’s first appointment.

Cha tôi, sức khỏe rất tốt cho đến khi ông bị cơn đau tim nặng vào đầu năm 1979, vào lúc ông 61 tuổi. Ông qưa khỏi cơn đau tim đầu tiên, nhưng thành tim ông đã bị hư hại không thể phục hồi được nên ông qua đời ba ngày sau đó. Việc này xẩy ra vào khoảng chín tháng trước lần khám bệnh thứ nhất của Catherine.

 

My father had been a religious man, more ritualistic than spiritual. His Hebrew name, Avrom, suited him better than the English, Alvin. Four months after his death, our daughter, Amy, was born, and she was named after him.

Cha tôi là một người mộ đạo, nặng về nghi lễ hơn tinh thần. Tên Do Thái của ông là Avrom. thích hợp với ông hơn là tên bằng tiếng anh, Alvin. Bốn tháng sau khi ông chết, đứa con gái tôi, Amy sinh ra đời và được đặt tên theo tên ông.

 

Here, in 1982, in my quiet, darkened office, a deafening cascade of hidden, secret truths was pouring upon me. I was swimming in a spiritual sea, and I loved the water. My arms were goose flesh. Catherine could not possibly know this information. There was no place even to look it up. My father’s Hebrew name, that I had a son who died in infancy from a one-in-ten million heart defect, my brooding about medicine, my father’s death, and my daughter’s naming-it was too much, too specific, too true. This un sophisticated laboratory technician was a conduit for transcendental knowledge. And if she could reveal these truths, what else was there? I needed to know more.

Nơi đây, năm 1982, trong phòng mạch tịch mịch không mấy sáng của tôi, một dòng thác nước ầm vang về những sự thật bí mật, ẩn dấu được rót vào trong tôi. Tôi đang bơi trong một biển tinh thần, và tôi rất thích nước. Cánh tay tôi nổi gai ốc. Catherine không thể nào biết được những tin tức này. Không thể có chỗ nào để tìm ra được. Tên Do Thái của cha tôi, đứa con trai của tôi chết yểu vì dị tật ở tim với tỷ lệ một phần mười triệu, sự nghiền ngẫm của tôi về y khoa, cái chết của cha tôi, và tên đặt cho đứa con gái tôi – thật quá nhiều, quá đặc biệt, quá thực sự. Người chuyên viên phòng thí nghiệm ngay thật này là một ống dẫn đến kiến thức tiên nghiệm. Và nếu quả cô đã khám phá ra được những sự thật, phải có cái gì nữa ở đấy? Tôi cần biết nhiều hơn nữa.

 

“Who,” I sputtered, “who is there? Who tells you these things?” “The Masters,” she whispered, “the Master Spirits tell me. They tell me I have lived eighty-six times in physical state.”

“Ai”, tôi lẫm bẩm, “Ai ở đấy, Ai nói với cô những sự việc này?””Các Bậc Thầy”, cô thì thào, “Các Bậc Thầy Thần Linh nói với tôi. Các Ngài đã nói với tôi, tôi đã có tám mươi sáu kiếp sống là con người.”

 

Catherine’s breathing slowed, and her head stopped rolling from side to side. She was resting. I wanted to go on, but the implications of what she had said were distracting me. Did she really have eighty-six previous lifetimes? And what about “the Masters”? Could it be? Could our lives be guided by spirits who have no physical bodies but who seem to possess great knowledge. Are there steps on the way to God? Was this real? I found it difficult to doubt, in view of what she had just revealed, yet I still struggled to believe. I was overcoming years of alternative programming. But in my head and my heart and my gut, I knew she was right. She was revealing truths.

Catherine hít thở nhẹ nhàng, đầu không còn trăn trở nữa. Cô đang nghỉ ngơi. Tôi muốn tiếp tục, nhưng sự gợi ý của cô về điều cô nói đang làm tôi rối trí. Có thực là cô đã có 86 tiền kiếp? Và các Bậc Thầy là gì? Cái đó là gì? Có thể nào những kiếp sống của chúng ta được hướng dẫn bởi các thần linh là người không có thân hình nhưng dường như có kiến thức lớn lao. Phải chăng có những bước đi tiến tới Thượng Đế? Điều đó có thực không? Tôi thấy khó mà nghi ngờ, vì điều mà cô vừa tiết lộ, tuy nhiên tôi vẫn phải vật lộn đề tin được. Nhiều năm tôi đã vượt qua những chương trình lựa chọn. Nhưng trong đầu, trong tâm tôi và sự quyết tâm của tôi, tôi biết cô đúng. Cô đang tiết lộ sự thật.

 

And what about my father and my son? In a sense, they were still alive; they had never really died. They were talking to me, years after their burials, and proving it by providing specific, very secret information. And since all that was true, was my son as advanced spiritually as Catherine had said? Did he indeed agree to be born to us and then die twenty-three days later in order to help us with our karmic debts and, in addition, to teach me about medicine and humankind, to nudge me back to psychiatry? I was very heartened by these thoughts. Beneath my chill, I felt a great love stirring, a strong feeling of oneness and connection with the heavens and the earth. I had missed my father and my son. It was good to hear from them again.

Về cha tôi và con tôi thì thế nào? Trong một ý nghĩa nào đó, họ vẫn còn sống, họ không bao giờ thực sự chết cả. Họ đang nói chuyện với tôi, nhiều năm sau khi được chôn cất, và chứng minh bằng cách cung cấp tin tức rất bí mật và rõ ràng. Và vì tất cả đều đúng, phải chăng con tôi đã tiến bộ về tinh thần như Catherine đã nói? Phải chăng nó đồng ý để chúng tôi sinh ra nó rồi nó chết 23 ngày sau để giúp tôi trả nợ nghiệp của chúng tôi, hơn nữa dạy tôi về y khoa và nhân loại, thúc đẩy tôi quay về với nghề nghiệp chữa bệnh tâm thần? Tôi rất phấn khởi bởi những tư tưởng ấy. Nằm dưới sự lạnh lùng, tôi cảm thấy lòng thương yêu mãnh liệt đang khuấy động, một cảm nghĩ mạnh mẽ về sự đồng nhất và liên hệ với thiên đường và trái đất. Tôi nhớ cha tôi và con tôi. Thật là tốt lại nhận được tin của họ.

 

My life would never be the same again. A hand had reached down and irreversibly altered the course of my life. All of my reading, which had been done with careful scrutiny and skeptical detachment, fell into place. Catherine’s memories and messages were true. My intuitions about the accuracy of her experiences had been correct. I had the facts. I had the proof.

Cuộc đời của tôi sẽ không bao giờ giống như thế nữa. Có một bàn tay nào đó đã tham gia và đã biến đổi không thể đảo ngược lại dòng đời của tôi. Tất cả sự hiểu biết của tôi đã được thực thi cẩn thận cùng với lối suy nghĩ có tính chất hoài nghi, bắt đầu có ý nghĩa. Những ký ức và thông điệp của Catherine đều rất đúng. Trực giác của tôi về tính đứng đắn trong các sự việc của Catherine là đúng. Tôi có những sự việc có thật. Tôi có bằng chứng.

 

Yet, even in that very instant of joy and understanding, even in that moment of the mystical experience, the old and familiar logical and doubting part of my mind lodged an objection. Perhaps it’s just ESP or some psychic skill. Granted, it’s quite a skill, but it doesn’t prove reincarnation or Master Spirits. Yet this time I knew better. The thousands of cases recorded in the scientific literature, especially those of children speaking foreign languages to which they had never been exposed, of having birthmarks at the site of previous mortal wounds, of these same children knowing where treasured objects were hidden or buried thousands of miles away and decades or centuries earlier, all echoed Catherine’s message. I knew Catherine’s character and her mind. I knew what she was and what she wasn’t. No, my mind could not fool me this time. The proof was too strong and too overwhelming. This was real. She would verify more and more as our sessions progressed.

Tuy nhiên, ngay cả trong lúc vui sướng và sự hiểu biết đó, cả lúc trải nghiệm huyền bí, phần tâm trí ngờ vực và lo gic cũ kỹ của tôi đã chứa đựng sự phản đối. Có lẽ đó là ESP (tri giác ngoại cảm) hay khả năng tâm linh nào đó. Cứ cho là như vậy, đó đúng là một khảnăng, nhưng nó không chứng minh luân hồi hay các Bậc Thần Linh Bậc Thầy. Nhưng lần này tôi hiểu biết hơn. Cả ngàn trường hợp được ghi trong tài liệu khoa học, nhất là những trẻ em nói tiếng ngoại quốc mà các em chưa bao giờ ở đó, có những vết chàm ở chỗ những vết tử thương trước đây, về những trẻ em biết chỗ những đồ vật quý giá được chôn dấu ở xa hàng ngàn dậm và hàng thập kỷ hay ở thế kỷ trước đó, tất cả vang vọng trong lời truyền lại của Catherine. Tôi biết cá tính của Catherine và tâm trí cô. Tôi biết rõ cô như lòng bàn tay. Không, tâm trí tôi không thể đánh lừa tôi lúc này. Chứng cớ quá rõ ràng và tràn đầy. Đó là sự thực. Cô sẽ xác minh ngày càng nhiều khi các buổi thôi miên tiến triển.

 

At times over the succeeding weeks, I would forget the power and immediacy of this session. At times I would fall back into the rut of everyday life, worrying about the usual things. Doubts would surface. It was as if my mind, when not focused, tended to drift back into the old patterns, beliefs, and skepticism. But then I would remind myself-this actually happened! I appreciated how difficult it is to believe these concepts without having personal experience. The experience is necessary to add emotional belief to intellectual understanding. But the impact of experience always fades to some degree.

Đôi khi trong những tuần lễ liên tiếp tôi có thể quên đi sức mạnh và tính cấp thiết của buổi thôi miên này. Đôi khi tôi rơi trở lại lối mòn của dòng đời thường nhật, lo lắng về mọi sự việc bình thường. Nghi ngờ lại nổi lên. Dường như thể tâm tôi khi không tập trung, có khuynh hướng trở về với những mô hình, niềm tin, và hoài nghi cũ. Nhưng lúc ấy tôi tự nhắc nhở-điều này đã thực sự xẩy ra! Tôi hiểu thật khó khăn làm sao để tin vào những khái niệm ấy khi không có những kinh nghiệm cá nhân. Kinh nghiệm rất cần để thêm niềm tin tình cảm vào sự hiểu biết tinh thần. Nhưng tác động của kinh nghiệm bao giờ cũng mờ nhạt tới mức độ nào đó.

 

At first, I was not aware of why I was changing so much. I knew I was more calm and patient, and others were telling me how peaceful I looked, how I seemed more rested and happier. I felt more hope, more joy, more purpose, and more satisfaction in my life. It dawned on me that I was losing the fear of death. I wasn’t afraid of my own death or of nonexistence. I was less afraid of losing others, even though I would certainly miss them. How powerful the fear of death is. People go to such great lengths to avoid the fear: mid-life crises, affairs with younger people, cosmetic surgeries, exercise obsessions, accumulating material possessions, procreating to carry on a name, striving to be more and more youthful, and so on.

Trước nhất, tôi không ý thức được tại sao tôi thay đổi quá nhiều. Tôi biết tôi bình tĩnh và kiên nhẫn hơn, và những người khác nói trông tôi thật an bình, tôi dường như thoải mái và hạnh phúc hơn. Tôi cảm thấy hy vọng hơn, niềm vui hơn, quả quyết hơn, và thỏa mãn hơn trong cuộc sống. Tôi thấy rõ ràng là tôi không còn sợ chết. Tôi không còn sợ chết hay sự không tồn tại. Tôi ít sợ mất những người khác mặc dù chắc chắn là tôi sẽ mất họ. Sợ chết mạnh xiết bao. Người ta đã làm tất cả những gì để tránh sợhãi: khủng hoảng giữa cuộc đời, yêu đương người trẻ tuổi, giải phẫu thẩm mỹ, tự kỷ ám thị, tích lũy của cải vật chất, sinh ra để tiếp tục có danh tiếng, tranh đấu để ngày càng trẻ và vân vân…

 

We are frightfully concerned with our own deaths, sometimes so much so that we forget the real purpose of our lives. I was also becoming less obsessive. I didn’t need to be in control all the time. Although I was trying to become less serious, this transformation was difficult for me, I still had much to learn.

Chúng ta hết sức lo lắng về cái chết của chính chúng ta, đôi khi quá lo lắng đến nỗi quên cả mục đích thực sự của cuộc đời. Tôi cũng trở nên ít bị ám ảnh hơn. Tôi không cần lúc nào cũng phải canh chừng. Mặc dầu tôi đang cố gắng trở nên ít nghiêm nghị, nhưng sự thay đổi này thật khó đối với tôi. Tôi vẫn còn phải học nhiều.

 

My mind was indeed now open to the possibility, even the probability, that Catherine’s utterances were real. The incredible facts about my father and my son could not be obtained through the usual senses. Her knowledge and abilities certainly proved an outstanding psychic ability. It made sense to believe her, but I remained wary and skeptical about what I read in the popular literature. Who are these people reporting psychic phenomena, life after death, and other amazing paranormal events? Are they trained in the scientific method of observation and validation? Despite my overwhelming and wonderful experience with Catherine, I knew my naturally critical mind would continue to scrutinize every new fact, every piece of information. I would check to see if it fit into the framework being built with every session. I would examine it from every angle, with a scientist’s microscope. And yet I could no longer deny that the framework was already there.

Quả thực tâm trí tôi giờ đây sẵn sàng tiếp nhận khả năng này, thâm chí khả năng xảy ra mà những lời nói của Catherine là thực. Những sự thật không thể tin được về cha tôi và con tôi, không thể nào đạt được bằng giác quan thông thường. Kiến thức và khả năng của cô chứng minh chắc chắn một khả tâm linh nổi bật.Thật khôn ngoan để tin cô, nhưng tôi vẫn giữ cẩn trọng và hoài nghi về cái tôi đọc trong tài liệu phổ cập. Ai là những người thuật lại hiện tượng tâm linh, đời sống sau khi chết, và những biến cố huyền bí lạ lùng? Họ có được huấn luyện theo phương pháp quan sát khoa học và đánh giá không? Mặc dầu có kinh nghiệm tràn đầy và tuyệt vời với Catherine, tôi biết tâm trí phê phán tự nhiên chống đối của tôi vẫn tiếp tục xem xét kỹ lưỡng mỗi dữ kiện mới, từng mẩu tin tức. Tôi phải kiểm tra để xem nó có phù hợp với khuôn khổ được xây dựng với mỗi buổi thôi miên không. Tôi sẽ xem xét nó dưới một góc độ, với một kính hiển vi của nhà khoa học. Và tuy nhiên tôi không còn phủ nhận khuôn khổ làm việc đã có rồi.

 

Sources:

Tài liệu tham khảo:

  1. https://tienvnguyen.net/a2066/tien-kiep-va-luan-hoi-co-that-khong-many-lives-many-masters-
  2. https://tienvnguyen.net/images/file/Wful-wTe1ggQAFce/manylivesmanymasters.pdf
  3. https://tienvnguyen.net/images/file/sLziGUbf1ggQALdp/tienkiepvaluanhoicothatkhong.pdf
  4. Photo 2a: https://en.wikipedia.org/wiki/Out-of-body_experience#/media/File:Schiavonetti_Soul_leaving_body_1808.jpg
  5. Photo 2b: https://www.eg24.news/2020/01/this-is-what-happens-at-death-a-doctor-reveals-secrets-about-the-exit-of-the-soul.html
  6. Photo 3: http://evdhamma.org/index.php/documents/buddhist-meditation/item/72-chin-tang-tam-thuc-song-ngu