Chapter 2 – Chuyện Tình Qua Nhiều Kiếp Luân Hồi – Only Love Is Real, The Story Of Soulmates Reunited – Song ngữ
English: Dr. Brian L. Weiss 1996.
Việt ngữ: Vương Thị Minh Tâm.
Compile: Middle Way Group.
Chapter 2 – Chuyện Tình Qua Nhiều Kiếp Luân Hồi – Only Love Is Real, The Story Of Soulmates Reunited
Carl Jung, in full Carl Gustav Jung, (born July 26, 1875, Kesswil, Switzerland—died June 6, 1961, Küsnacht), Swiss psychologist and psychiatrist who founded analytic psychology.
My life as I lived it had often seemed to me like a story that has no beginning and no end. I had the feeling that I was a historical fragment, an excerpt for which the preceding and succeeding text was missing. I could well imagine that I might have lived informer centuries and there encountered questions I was not yet able to answer; that I had to be born again because I had not fulfilled the task that was given to me.
Carl Jung
Cuộc đời mà tôi đã sống dường như là một câu chuyện không hề có phần mở đầu, cũng không có phần kết thúc. Tôi có cảm tưởng rằng mình là một mảnh vỡ của lịch sử, một trích đoạn mà trong đó phần nguyên bản trước và phần kế tục đã lạc mất. Tôi có thể tưởng tượng rõ nét về những thế kỷ xa xôi mà chắc hẳn tôi đã từng sống. Nơi đó, còn nhiều câu hỏi gai góc mà tôi chưa thể đưa ra lời giải đáp. Do đó tôi phải tái sinh để hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Carl Jung.
Tall, thin, and attractive with long blonde hair, Elizabeth had sad blue eyes with specks of hazel in them. Her melancholy eyes overpowered her loose navy-blue business suit as she sat nervously in the large white leather reclining chair in my office. Elizabeth felt compelled to see me, searching for hope after reading Many Lives, Many Masters and identifying with Catherine, the book’s heroine, on many levels.
Elizabeth rất duyên dáng với thân hình mảnh dẻ và mái tóc vàng dài óng ả, đôi mắt xanh lơ buồn vời vợi, có vài đốm nâu vàng. Đôi mắt sầu khổ đó đã áp đảo bộ đồ công sở xanh đậm hơi rộng của cô. Cô ngồi trên cái ghế bành, bằng da, màu trắng trong phòng khám với vẻ hồi hộp. Cô cảm thấy cần phải gặp tôi để tìm kiếm niềm hy vọng. Sau khi đọc cuốn Tiền Kiếp và Luân Hồi, có thật không? cô nhận ra nhân vật chính Catherine theo nhiều cấp độ.
“I don’t know much about why you’re here,” I commented, breaking the usual impasse at the beginning of therapy. I had briefly glanced at the information sheet all new patients fill out. Name, age, referral source, chief complaints and symptoms. Elizabeth had listed grief, anxiety, and sleep disturbance as her major maladies. As she began to talk, I mentally added “relationships” to her list.
– Tôi không thể hiểu được lý do cô đến đây.Tôi đưa ra lời nhận xét, phá vỡ một tình huống khó khăn thông thường ở buổi ban đầu trong việc trị liệu. Tôi liếc nhanh qua phần điền thông tin của bệnh nhân. Tên tuổi, nghề nghiệp, nguyên nhân chuyển bệnh, bệnh sử, triệu chứng. Cô ghi chú toàn là những nỗi đau buồn, lo lắng, chứng rối loạn giấc ngủ, như là bệnh tật quan trọng. Khi cô bắt đầu kể, tôi tích cực thêm vào hồ sơ của cô một loạt các mối quan hệ.
“My life is such a mess,” she stated. Her history began to pour out, as if it were finally safe to talk about these things. The release of pent-up pressure was palpable. Despite the drama of her life’s story and the depths of emotion lying just under the surface of her telling it, Elizabeth quickly minimized its importance. “My story is not nearly as dramatic as Catherine’s,” she said. “There won’t be any book about me.” Her story, dramatic or not, flowed forth.
Cô tuyên bố: – Cuộc đời tôi như là một mớ lộn xộn. Tiểu sử của cô bắt đầu phơi bày, như thể cuối cùng thì nó cũng được an toàn để thố lộ. Rõ ràng là cảm xúc bị dồn nén lâu ngày đang trào dâng. Mặc dù tiểu sử đầy kịch tính và phần xúc cảm sâu sắc ẩn sau những điều cô kể, cô vẫn nhanh chóng làm giảm thiểu tầm quan trọng của nó. Cô nói: – Câu chuyện của tôi không quá xúc động như của Catherine. Sẽ không có cuốn sách nào nói về tôi. Có ấn tượng hay không, câu chuyện của cô vẫn tuôn trào về phía trước.
Elizabeth was a successful businesswoman with her own accounting firm in Miami. Thirty-two years old, she was born and reared in rural Minnesota. She grew up on a large farm with her parents, an older brother, and many animals. Her father was a hard-working, stoical man who had great difficulty expressing his emotions. When he did display emotion, it was usually anger and rage. He would lose his temper and lash out impulsively at his family, sometimes striking
her brother. The abuse Elizabeth received was only verbal, but it hurt her greatly.
Elizabeth là một nhà kinh doanh thành đạt, chủ của một công ty kế toán tại Miami. Năm nay cô ba mươi hai tuổi, được sinh ra và lớn lên trong một nông trại rộng lớn thuộc ngoại ô Minnesota. Ở đó, cô sống với ba mẹ, một người anh trai, và rất nhiều thú nuôi. Cha cô rất siêng năng, và cũng rất lạnh lùng. Ông ít khi biểu lộ tình cảm của mình. Thông thường tình cảm được biểu lộ là những cơn thịnh nộ, tức giận. Ông mất bình tĩnh và la lối om sòm, nhiều lúc còn đánh đập anh trai cô. Còn cô thì chỉ bị mắng chửi, nhưng nó lại làm cô tổn thương nhiều hơn.
Deep within her heart, Elizabeth still carried this childhood wound. Her self-image had been damaged by her father’s condemnations and criticisms. A profound pain enveloped her heart. She felt impaired and somehow defective, and she worried that others, especially men, could also perceive her shortcomings.
Tận trong tim, cô vẫn còn mang nặng vết thương lòng của thời niên thiếu. Hình tượng riêng của cô bị phá hủy bởi những lời châm biếm và lên án của cha cô. Niềm đau buốt này bao phủ trái tim cô. Cô cảm thấy bị tổn thương, và theo cách nào đó, cô cảm thấy mình bị nhiều khiếm khuyết. Cô lo sợ người khác, nhất là đàn ông sẽ nhìn thấy những khuyết điểm này.
Fortunately, her father’s outbursts were infrequent, and he quickly retreated to the stern and stoical isolation that characterized his personality and behavior. Elizabeth’s mother was a progressive and independent woman. She promoted Elizabeth’s self-reliance while remaining warm and emotionally nurturing. Because of the children and the times, she chose to stay on the farm and to tolerate reluctantly her husband’s harshness and emotional withdrawal.
May mắn thay, sự bùng phát của cha cô không thường xuyên. Ông rút lui về lại ngay cách sống lạnh lùng tách biệt, đặc điểm của con người ông. Mẹ cô là người có tính độc lập và cấp tiến. Bà ủng hộ khả năng tự lực cánh sinh của cô trong vòng tay yêu thương. Vì con cái và vào thời kỳ đó, bà chọn cuộc sống ở trang trại, miễn cưỡng tha thứ cho bản tính khó ưa của chồng, và sống thu mình lại.
“My mother was like an angel,” Elizabeth went on. “Always there, always caring, always sacrificing for the sake of her children.” Elizabeth, the baby, was her mother’s favorite. She had many fond memories of childhood. The fondest of all were times of closeness to her mother, of the special love that bonded them together and that maintained itself over time. Elizabeth grew up, was graduated from high school, and went away to college in Miami, where she had been offered a generous scholarship. Miami seemed like an exotic adventure to her, and she was lured away from the cold Midwest. Her mother reveled in Elizabeth’s adventures. They were best friends, and even though they mostly communicated by phone and mail, their mother-daughter relationship stayed strong. Holidays and vacations were happy times for them, as Elizabeth rarely missed a chance to go back home.
Elizabeth tiếp tục nói: – Mẹ tôi là một thiên thần. Luôn luôn chăm sóc, hy sinh vì con cái. Mẹ cô rất yêu quý cô. Cô có nhiều ký ức êm đềm với mẹ. Tình yêu đặc biệt đó đã kết chặt hai người lại, vượt qua mọi thời gian. Cô lớn lên, tốt nghiệp trung học, được nhận học bổng của đại học ở Miami. Thành phố này, đối với cô như là một cuộc phiêu lưu hấp dẫn, quyến rũ cô rời khỏi miền trung tâm Bắc Mỹ lạnh giá. Mẹ cô thích thú với những chuyến phiêu lưu của cô. Họ trở thành bạn thân, mặc dù hầu như họ chỉ liên lạc qua điện thoại hoặc email, nhưng mối quan hệ mẹ con khắng khít hơn. Những ngày nghỉ là thời gian hạnh phúc của họ, Elizabeth rất hiếm khi bỏ lỡ cơ hội về thăm nhà.
During some of these visits, Elizabeth’s mother talked about retiring to South Florida to be near Elizabeth. The family farm was large and increasingly difficult to run. They had saved a considerable amount of money, an amount augmented by her father’s frugality. Elizabeth looked forward to living near her mother again. Their nearly daily contacts would no longer have to occur by telephone.
Trong những cuộc thăm viếng, mẹ cô thường nhắc đến chuyện rút về miền Nam Florida để được gần gũi cô. Nông trại quá lớn, ngày càng khó cai quản hơn. Họ dành dụm được một số tiền khá lớn, khoản tiền được tăng dần do sự cần kiệm của cha cô. Elizabeth tìm cách được sống gần mẹ. Họ không cần liên lạc với nhau mỗi ngày qua điện thoại nữa.
Cancer that begins in the organ lying behind the lower part of
the stomach (pancreas). Rare, fewer than 200,000 US cases per year
So, Elizabeth stayed in Miami after college. She started her own accounting firm, which was slowly building. Competition was keen, and the work absorbed great chunks of her time. Relationships with men added to her stress. Then disaster struck. Approximately eight months prior to her first appointment with me, Elizabeth was devastated because of her mother’s death from pancreatic cancer.
Khi tốt nghiệp, Elizabeth ở lại Miami. Cô lập nghiệp bằng công ty kế toán riêng của mình, phát triển từng bước một. Sự cạnh tranh khốc liệt, và công việc đã ngốn hết thời gian của cô. Những mối quan hệ với đàn ông làm cô bị căng thẳng thêm. Rồi tai họa giáng xuống. Khoảng tám tháng trước khi cô hẹn gặp tôi, Elizabeth hoàn toàn suy sụp vì cái chết của người mẹ yêu quý. Bà bị ung thư tuyến tụy.
Elizabeth felt as if her own heart had been torn apart and ripped out b ythe death of her beloved mother. She was having an enormously difficult time resolving her grief. She couldn’t integrate it, couldn’t understand why this had to happen. Elizabeth painfully told me about her mother’s courageous battle with the virulent cancer that ravaged her body. Her spirit and her love remained untouched. Both women felt a profound sadness. Physical separation was inevitable, quietly but persistently approaching. Elizabeth’s father, grieving in anticipation, grew even more distant, wrapped in his solitude.
Elizabeth có cảm giác như thể trái tim cô bị xé tan ra từng mảnh nhỏ. Cô không thể làm tan đi nỗi đau hay hòa nhập cùng nó, cô cũng không thể hiểu tại sao điều này lại xảy ra.Elizabeth đau đớn kể với tôi về sự can đảm mà mẹ cô đã chiến đấu với vi rút bệnh ung thư. Những cơn đau nhức đã tàn phá cơ thể bà. Tuy nhiên tinh thần và tình yêu của bà vẫn không hề lay chuyển. Cả hai người đều có chung một nỗi buồn sâu lắng. Sự chia cách về mặt thể xác là không thể tránh được, gần như dai dẳng và lặng lẽ. Để tránh đau đớn, cha cô trở nên xa cách hơn, vùi mình trong bản chất đơn độc.
Her brother, living in California with a young family and a new business, kept a physical distance. Elizabeth traveled to Minnesota as often as possible. She had no one with whom to share her fears and her pain. She did not want to burden her dying mother any more than was absolutely necessary. So, Elizabeth kept her despair inside, and each day felt increasingly heavy. “I will miss you so much. … I love you,” her mother told her.
Anh trai cô sống tại California với một gia đình mới, một việc kinh doanh mới, giữ khoảng cách về mặt vật chất. Còn cô đi đi lại lại Minnesota thường xuyên hơn.
Cô không có ai để chia sẻ nỗi lo lắng, đau khổ. Cô không muốn để mẹ mình phải nặng gánh thêm. Vì vậy cô giữ nỗi tuyệt vọng cho riêng mình, và mỗi ngày trôi qua cô cảm thấy nặng nề hơn. Mẹ cô nói với cô rằng: – Mẹ rất thương con… mẹ sẽ rất nhớ con.
“The most difficult part is leaving you. I’m not afraid of dying. I’m not afraid of what awaits me. I just don’t want to leave you yet.” As she grew weaker and weaker, her mother’s resolve to stay longer gradually diminished. Death would be a welcome relief from the debility and the pain. Her last day arrived.
Thật là khó khăn biết mấy khi phải rời xa con. Mẹ không sợ chết. Mẹ không lo ngại bất cứ điều gì đang chờ đợi mẹ. Chỉ có điều là mẹ không đành bỏ con mà đi được. Càng ngày bà càng yếu đi. Hy vọng kéo dài sự sống cho bà dần dần tan biến. Chết có lẽ là một sự giải thoát tốt nhất để bà tránh khỏi sự đau đớn hành hạ thể xác. Và ngày cuối cùng rồi cũng đến.
Elizabeth’s mother was in the hospital, the small room crowded with family and visitors. Her breathing became erratic. The urine tubes showed no drainage; her kidneys had ceased to function. She lapsed into and out of consciousness. At one-point Elizabeth found herself alone with her mother. At this moment her mother’s eyes widened, and she became lucid again. “I won’t leave you,” her mother said in a suddenly firm voice. “I’ll always love you!”
Mẹ cô đang nằm tại bệnh viện, trong gian phòng nhỏ chung quanh có nhiều người thân yêu và bạn bè. Bà trở nên khó thở. Đường tiết niệu của bà bị tắt nghẹn, thận ngưng hoạt động. Bà bất tỉnh. Ngay giây phút đó, Elizabeth chợt thấy chỉ một mình cô đang ở cạnh mẹ. Đôi mắt mẹ cô mở to, và bà đã tỉnh lại. Bà đột ngột nói với một giọng chắc chắn: Mẹ sẽ không bỏ con đi nữa. Mẹ sẽ luôn yêu thương con.
Those were the last words Elizabeth heard from her mother, ‘who now lapsed into a coma. Her respirations became even more erratic, with long stops and sudden, gasping starts. Soon she was gone.
Đó là những lời cuối cùng cô nghe được bà nói, trong khi bà đang chìm vào hôn mê. Bà khó thở hơn, đường hô hấp bỗng ngưng đột ngột và kéo dài, bà bắt đầu thở hổn hển. Rồi bà ra đi.
Elizabeth felt a deep and gaping hole in her heart and in her life. She could actually feel a physical aching in her chest. She felt she would never be completely whole again. Elizabeth cried for months. Elizabeth missed the frequent phone calls with her mother. She tried calling her father more often, but he remained withdrawn and had very little to talk about. He would be off the phone within a minute or two. He was not capable of nurturing or comforting her. He also was grieving, and his grief isolated him even more. Her brother in California, with his wife and two young children, was also devastated by his mother’s death, but he was busy with his family and career.
Elizabeth cảm thấy có một khoảng trống sâu thẳm trong tim và trong đời cô. Lồng ngực cô đau nhói. Dường như cô không thể phục hồi. Cô khóc day dứt hàng tháng trời. Cô đã không còn dịp điện thoại thường xuyên cho mẹ cô. Cô cố gắng điện thoại cho cha cô thường xuyên hơn. Nhưng ông vẫn sống thu mình, rất ít khi nhắc đến chuyện đó. Ông thường bỏ điện thoại xuống khoảng vài phút. Ông không thể dỗ dành, an ủi cô. Chính cuộc sống đơn độc đã làm ông còn đau đớn hơn cô rất nhiều. Anh trai cô thì đang sống với vợ và hai đứa con nhỏ tại California. Anh cũng quá buồn vì cái chết của mẹ, và anh còn bận rộn với gia đình và công việc.
Her grief began to evolve into a depression with increasingly significant symptoms. Elizabeth was having problems sleeping at night. She had difficulty falling asleep and she would awaken much too early in the morning, unable to fall back to sleep. She lost interest in food and began losing weight. She had a noticeable lack of energy. She lost enthusiasm for relationships, and her ability to concentrate became increasingly impaired. Before her mother’s death, Elizabeth’s anxiety consisted mainly of job stresses, such as deadlines and difficult decisions. She was also anxious at times about her relationships with men, with how she should act and what their responses would be. Elizabeth’s anxiety levels increased dramatically after the death of her mother. She had lost her daily confidante and adviser, her closest friend. She had lost her primary source of guidance and support. Elizabeth felt disoriented, alone, adrift.
Nỗi buồn dần dần trở thành nỗi tuyệt vọng với nhiều triệu chứng trầm trọng. Hàng đêm, cô không thể ngủ được. Cô khó ngủ, nhưng thức dậy rất sớm và không thể ngủ lại được. Cô ăn không ngon, và sụt ký. Cô mất hết sinh khí, không còn thích giao tiếp, khả năng tập trung đang mất dần. Trước khi mẹ cô mất, cô chỉ lo lắng vì công việc căng thẳng, và lo về những quan hệ với đàn ông, vì cô không biết mình nên cư xử và ăn nói làm sao để thích hợp. Sau này thì cấp độ lo sợ đó càng tăng thêm. Cô đã mất hết bạn tâm tình, người cố vấn, bạn bè thân thiết. Cô mất cả nguồn chỉ dẫn và chỗ dựa. Cô mất phương hướng, cô đơn, trôi bồng bềnh.
She called for an appointment. Elizabeth came into my office hoping to find a past life in which she had been together with her mother or to contact her in a mystical experience. In books and lectures I have talked about people in meditative states having such mystical encounters with loved ones. Elizabeth had read my first book, and she seemed aware of the possibility of these experiences.
Cô điện thoại xin một cái hẹn. Elizabeth tìm đến tôi như tìm một niềm hy vọng được trở về quá khứ để gặp lại mẹ mình, hoặc có thể liên lạc được với bà trong cuộc trải nghiệm huyền bí. Tôi đã viết nhiều sách nói về những phép trị liệu bằng hình thức thôi miên, rồi đưa bệnh nhân gặp lại những người thân yêu của họ một cách kỳ lạ. Cô đã đọc cuốn sách đầu tiên của tôi, và dường như cô ý thức rõ về khả năng của những cuộc trải nghiệm này.
As people open up to the possibility, even the probability, of life after the death of the physical body, of the continuation of consciousness after leaving the physical body, they begin to have more of these mystical experiences in dreams and in other altered states of consciousness. Whether these encounters are real or not is difficult to prove. But they are vivid and filled with feeling. Sometimes the person even becomes aware of specific information, facts or details that were known only to the deceased. These revelations from spiritual visits are difficult to ascribe solely to imagination. I believe now that such new knowledge is obtained, or visits are made, not because people wish this to happen, not because they need it, but because this is the way contacts are made.
Sau khi rời bỏ thân thể vật chất, khả năng con người rất tuyệt diệu để trải nghiệm nhiều hơn trong những giấc mơ, hoặc trong tình trạng chuyển đổi của ý thức. Bất kể những cuộc gặp gỡ này có thật hay không thì cũng không ai chứng minh được. Nhưng nó rất sống động và tràn đầy cảm xúc. Đôi khi người đó ý thức rõ hơn về nét đặc trưng, sự việc, hoặc từng chi tiết, những điều mà chỉ người chết mới biết được. Sự phát hiện từ những cuộc viếng thăm bằng tâm linh đều khác nhau nên không thể cho là trí tưởng tượng. Bây giờ thì tôi tin người ta đạt được những hiểu biết mới mẻ đó, và tin những cuộc thăm viếng đã được tạo ra, không phải vì con người mong mỏi điều đó xảy ra, hay có nhu cầu về nó. Nhưng vì đó là phương pháp tạo ra sự liên lạc.
Often the messages are very similar, especially in dreams: I’m all right. I’m fine. Take care of yourself. I love you. Elizabeth was hoping for some type of reunion or contact with her mother. Her heartache needed some balm to ease the constant pain. More of her history emerged during this first session.
Những lời nhắn nhủ thường giống nhau, nhất là trong những giấc mơ: Mẹ không sao. Mẹ rất khỏe. Con hãy tự lo cho mình. Mẹ thương con nhiều lắm. Elizabeth đang mong chờ điều này. Cô mong được gặp mẹ. Bệnh tim của cô cần chất cam lồ để xoa dịu những cơn đau dai dẳng. Nhiều tình tiết trong tiểu sử của cô nổi bật lên trong lần điều trị đầu tiên.
Elizabeth had been married for a brief period of time to a local contractor, who had two children by a previous marriage. Although she was not passionately in love with this man, he was a good person, and she thought that this relationship would bring some stability into her life. But passion in a relationship cannot be artificially created. There can be respect, and there can be compassion, but the chemistry has to be there from the start. When Elizabeth discovered that her husband was having an extramarital affair with someone who could provide more excitement and passion, she reluctantly left the relationship. She was sad about the breakup and sad to leave the two children, but she did not grieve because of the divorce. The loss of her mother was much more severe.
Elizabeth đã kết hôn trong một thời gian rất ngắn với một nhà thầu xây dựng tại địa phương. Anh chàng này đã có hai đứa con trước đó. Mặc dù cô không yêu chồng nhiều lắm, nhưng anh ta cũng là người tốt. Cô nghĩ rằng mối quan hệ này sẽ mang lại cho cuộc sống của cô một sự ổn định. Nhưng niềm đam mê trong một mối quan hệ không thể giả tạo được, mà phải có sự tôn trọng, phải có sự cảm thông. Sức hấp dẫn phải xuất hiện ngay từ buổi ban đầu. Khi Elizabeth phát hiện ra chồng cô đang dan díu với người đàn bà khác, một người đã mang lại cho chồng cô niềm say mê thích thú, cô đành bỏ đi. Cô buồn vì sự đổ vỡ, buồn vì rời xa hai đứa trẻ, nhưng lại không buồn vì chuyện ly dị. Thêm vào đó, cái chết của mẹ làm cô tê tái hơn.
Because of her physical beauty, Elizabeth found it easy to meet and date other men after the divorce. But none of these relationships had fire either. Elizabeth began to doubt herself, to try to find where within herself the fault lay in her inability to establish good relationships with men. “What is wrong with me?” she would ask herself. And her self-esteem would dip another notch.
Elizabeth rất đẹp. Vì vậy, đối với cô chuyện hẹn hò bạn trai sau khi ly dị là quá dễ.
Nhưng chẳng có mối quan hệ nào nồng cháy cả. Cô bắt đầu nghi ngờ chính mình, cố tìm ra khiếm khuyết nào đó không thể xây dựng tình cảm tốt đẹp với đàn ông. Cô tự hỏi lòng mình có gì sai trái không. Với lòng tự trọng, cô đánh thêm một dấu tích nữa.
The barbed arrows of her father’s painful criticisms during her childhood had left wounds in her psyche. The failed relationships with men rubbed salt in these wounds. She began a relationship with a professor at a nearby university, but he could not commit to her because of his own fears. Even though there was a strong feeling of tenderness and understanding, and even though the two communicated very well, his inability to commit to a relationship and to trust his feelings doomed that relationship to a quiet and unspectacular ending.
Những lời chỉ trích gay gắt của cha cô lúc nhỏ đã để lại trong tâm trí cô một vết thương. Rồi những thất bại trong tình trường làm vết thương này lở loét thêm.Cô quan hệ với một vị giáo sư trong trường đại học gần đó, nhưng ông không dám công khai vì ông cũng có nỗi sợ riêng. Thậm chí cả hai đều rất yêu thương, rất hiểu biết và rất thông cảm với nhau, ông cũng không thể công khai tình yêu của cô. Ông có cảm giác rằng tình cảm của họ sẽ kết thúc lặng lẽ mà chẳng tốt đẹp gì.
Some months later Elizabeth met and began dating a successful banker. She felt secure and protected in this relationship even though, once again, the chemistry was limited. He, however, was strongly attracted to Elizabeth and became angry and jealous when she did not reciprocate with the kind of energy and enthusiasm that he expected. He began to drink more, and he became physically abusive. Elizabeth left this relationship, too. She had been quietly despairing of ever meeting a man with whom she could have a good and intimate relationship.
Vài tháng sau đó, Elizabeth lại hẹn hò với một chủ ngân hàng thành đạt. Cô cảm thấy an toàn, yên ổn trong mối quan hệ này. Nhưng lại một lần nữa, không hề có một lực hấp dẫn nào. Tuy nhiên, ông ta lại quá say mê cô đến nỗi sinh ra nhiều chuyện giận hờn ghen tuông, vì cô không thể nhiệt tình đáp lại theo cách mà ông hằng mong đợi. Ông trở nên rượu chè bè bét, cư xử thô bạo. Rốt cuộc thì cô cũng từ bỏ mối tình này. Cô âm thầm tuyệt vọng, không còn tin rằng sẽ gặp được người đàn ông đích thực cho đời mình.
She had thrown herself into her -work, enlarging her firm, hiding behind the numbers and calculations and paperwork. Her relationships primarily consisted of business contacts. And even though from time to time a man would ask her out, Elizabeth would do something to discourage that interest before it grew into anything serious.
Cô lao vào công việc, phát triển công ty, trốn mình sau những con số và những đống giấy tờ. Quan hệ chính thức của cô là những quan hệ kinh doanh. Nếu như có ai đó mời cô đi chơi, cô cũng tìm cách làm giảm lòng nhiệt tình của họ, để tránh điều gì sau đó trở nên nghiêm túc.
Elizabeth was aware that her biological clock was ticking, and she still hoped to meet the perfect man someday, but she had lost a great deal of confidence.
Cô ý thức rằng đồng hồ sinh học của cô vẫn còn kêu tích tắc, rồi cô lại hy vọng sẽ có ngày cô gặp được người đàn ông hoàn hảo của riêng mình. Nhưng cô đã mất hết tự tin.
The first therapy session, devoted to gathering historical information, formulating a diagnosis and therapeutic approach, and sowing the seeds of trust in our relationship, had ended. The ice had been broken. I decided not to use Prozac or other antidepressants at this time. We would aim for a cure, not just the covering over of her symptoms. At the next session, one week later, we would begin the arduous journey back through time.
Đợt điều trị đầu tiên kết thúc với chi chít các thông tin về tiểu sử, đề ra cách chẩn đoán và phương pháp trị liệu, gieo niềm tin trong mối quan hệ của chúng tôi. Tảng băng đã vỡ ra. Lần này tôi quyết định không dùng thuốc chống suy nhược thần kinh. Chúng tôi nhắm đến việc chữa trị, chứ không che giấu các triệu chứng của cô. Tuần sau, vào đợt điều trị kế tiếp, chúng tôi sẽ bắt đầu chuyến du hành gian khổ trở về quá khứ.
Sources:
Tài Liệu tham khảo:
- https://tienvnguyen.net/images/file/YRPlCFHe1ggQANQv/chuyentinhquanhieukiepluanhoi.pdf
- https://tienvnguyen.net/images/file/3LljBlHe1ggQAFM5/onlyloveisreal.pdf
- http://thuvienhoasen.org/images/file/KD6h3bSo0QgQAKUC/chuyen-tinh-qua-nhieu-kiep-luan-hoi.pdf
- Photo 2: https://www.britannica.com/biography/Carl-Jung
- Photo 2: https://in.pinterest.com/pin/31666003608773192/
- Photo 3: https://www.mayoclinic.org/diseases-conditions/pancreatic-cancer/symptoms-causes/syc-20355421?utm_source=Google&utm_medium=abstract&utm_content=Pancreatic-cancer&utm_campaign=Knowledge-panel
Only Love Is Real, The Story Of Soulmates Reunited
Chuyện Tình Qua Nhiều Kiếp Luân Hồi
English: Dr. Brian L. Weiss 1996.
Việt ngữ: Vương Thị Minh Tâm.
Compile: Middle Way Group.
- Chapter 2 – Chuyện Tình Qua Nhiều Kiếp Luân Hồi – Only
Love Is Real, The Story Of Soulmates Reunited – Song ngữ
- Chapter 2 – Soulmates Reunited – Song ngữ
Chapter 2 – Chuyện Tình Qua Nhiều Kiếp Luân Hồi – Only Love Is Real, The Story Of Soulmates Reunited
Carl Jung, in full Carl Gustav Jung, (born July 26, 1875, Kesswil,
Switzerland—died June 6, 1961, Küsnacht), Swiss psychologist and
psychiatrist who founded analytic psychology.
My life as I lived it had often seemed to me like a story that has no beginning and no end. I had the feeling that I was a historical fragment, an excerpt for which the preceding and succeeding text was missing. I could well imagine that I might have lived informer centuries and there encountered questions I was not yet able to answer; that I had to be born again because I had not fulfilled the task that was given to me.
Carl Jung
Cuộc đời mà tôi đã sống dường như là một câu chuyện không hề có phần mở đầu, cũng không có phần kết thúc. Tôi có cảm tưởng rằng mình là một mảnh vỡ của lịch sử, một trích đoạn mà trong đó phần nguyên bản trước và phần kế tục đã lạc mất. Tôi có thể tưởng tượng rõ nét về những thế kỷ xa xôi mà chắc hẳn tôi đã từng sống. Nơi đó, còn nhiều câu hỏi gai góc mà tôi chưa thể đưa ra lời giải đáp. Do đó tôi phải tái sinh để hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Carl Jung.
Tall, thin, and attractive with long blonde hair, Elizabeth had sad blue eyes with specks of hazel in them. Her melancholy eyes overpowered her loose navy-blue business suit as she sat nervously in the large white leather reclining chair in my office. Elizabeth felt compelled to see me, searching for hope after reading Many Lives, Many Masters and identifying with Catherine, the book’s heroine, on many levels.
Elizabeth rất duyên dáng với thân hình mảnh dẻ và mái tóc vàng dài óng ả, đôi mắt xanh lơ buồn vời vợi, có vài đốm nâu vàng. Đôi mắt sầu khổ đó đã áp đảo bộ đồ công sở xanh đậm hơi rộng của cô. Cô ngồi trên cái ghế bành, bằng da, màu trắng trong phòng khám với vẻ hồi hộp. Cô cảm thấy cần phải gặp tôi để tìm kiếm niềm hy vọng. Sau khi đọc cuốn Tiền Kiếp và Luân Hồi, có thật không? cô nhận ra nhân vật chính Catherine theo nhiều cấp độ.
“I don’t know much about why you’re here,” I commented, breaking the usual impasse at the beginning of therapy. I had briefly glanced at the information sheet all new patients fill out. Name, age, referral source, chief complaints and symptoms. Elizabeth had listed grief, anxiety, and sleep disturbance as her major maladies. As she began to talk, I mentally added “relationships” to her list.
– Tôi không thể hiểu được lý do cô đến đây.Tôi đưa ra lời nhận xét, phá vỡ một tình huống khó khăn thông thường ở buổi ban đầu trong việc trị liệu. Tôi liếc nhanh qua phần điền thông tin của bệnh nhân. Tên tuổi, nghề nghiệp, nguyên nhân chuyển bệnh, bệnh sử, triệu chứng. Cô ghi chú toàn là những nỗi đau buồn, lo lắng, chứng rối loạn giấc ngủ, như là bệnh tật quan trọng. Khi cô bắt đầu kể, tôi tích cực thêm vào hồ sơ của cô một loạt các mối quan hệ.
“My life is such a mess,” she stated. Her history began to pour out, as if it were finally safe to talk about these things. The release of pent-up pressure was palpable. Despite the drama of her life’s story and the depths of emotion lying just under the surface of her telling it, Elizabeth quickly minimized its importance. “My story is not nearly as dramatic as Catherine’s,” she said. “There won’t be any book about me.” Her story, dramatic or not, flowed forth.
Cô tuyên bố: – Cuộc đời tôi như là một mớ lộn xộn. Tiểu sử của cô bắt đầu phơi bày, như thể cuối cùng thì nó cũng được an toàn để thố lộ. Rõ ràng là cảm xúc bị dồn nén lâu ngày đang trào dâng. Mặc dù tiểu sử đầy kịch tính và phần xúc cảm sâu sắc ẩn sau những điều cô kể, cô vẫn nhanh chóng làm giảm thiểu tầm quan trọng của nó. Cô nói: – Câu chuyện của tôi không quá xúc động như của Catherine. Sẽ không có cuốn sách nào nói về tôi. Có ấn tượng hay không, câu chuyện của cô vẫn tuôn trào về phía trước.
Elizabeth was a successful businesswoman with her own accounting firm in Miami. Thirty-two years old, she was born and reared in rural Minnesota. She grew up on a large farm with her parents, an older brother, and many animals. Her father was a hard-working, stoical man who had great difficulty expressing his emotions. When he did display emotion, it was usually anger and rage. He would lose his temper and lash out impulsively at his family, sometimes striking
her brother. The abuse Elizabeth received was only verbal, but it hurt her greatly.
Elizabeth là một nhà kinh doanh thành đạt, chủ của một công ty kế toán tại Miami. Năm nay cô ba mươi hai tuổi, được sinh ra và lớn lên trong một nông trại rộng lớn thuộc ngoại ô Minnesota. Ở đó, cô sống với ba mẹ, một người anh trai, và rất nhiều thú nuôi. Cha cô rất siêng năng, và cũng rất lạnh lùng. Ông ít khi biểu lộ tình cảm của mình. Thông thường tình cảm được biểu lộ là những cơn thịnh nộ, tức giận. Ông mất bình tĩnh và la lối om sòm, nhiều lúc còn đánh đập anh trai cô. Còn cô thì chỉ bị mắng chửi, nhưng nó lại làm cô tổn thương nhiều hơn.
Deep within her heart, Elizabeth still carried this childhood wound. Her self-image had been damaged by her father’s condemnations and criticisms. A profound pain enveloped her heart. She felt impaired and somehow defective, and she worried that others, especially men, could also perceive her shortcomings.
Tận trong tim, cô vẫn còn mang nặng vết thương lòng của thời niên thiếu. Hình tượng riêng của cô bị phá hủy bởi những lời châm biếm và lên án của cha cô. Niềm đau buốt này bao phủ trái tim cô. Cô cảm thấy bị tổn thương, và theo cách nào đó, cô cảm thấy mình bị nhiều khiếm khuyết. Cô lo sợ người khác, nhất là đàn ông sẽ nhìn thấy những khuyết điểm này.
Fortunately, her father’s outbursts were infrequent, and he quickly retreated to the stern and stoical isolation that characterized his personality and behavior. Elizabeth’s mother was a progressive and independent woman. She promoted Elizabeth’s self-reliance while remaining warm and emotionally nurturing. Because of the children and the times, she chose to stay on the farm and to tolerate reluctantly her husband’s harshness and emotional withdrawal.
May mắn thay, sự bùng phát của cha cô không thường xuyên. Ông rút lui về lại ngay cách sống lạnh lùng tách biệt, đặc điểm của con người ông. Mẹ cô là người có tính độc lập và cấp tiến. Bà ủng hộ khả năng tự lực cánh sinh của cô trong vòng tay yêu thương. Vì con cái và vào thời kỳ đó, bà chọn cuộc sống ở trang trại, miễn cưỡng tha thứ cho bản tính khó ưa của chồng, và sống thu mình lại.
“My mother was like an angel,” Elizabeth went on. “Always there, always caring, always sacrificing for the sake of her children.” Elizabeth, the baby, was her mother’s favorite. She had many fond memories of childhood. The fondest of all were times of closeness to her mother, of the special love that bonded them together and that maintained itself over time. Elizabeth grew up, was graduated from high school, and went away to college in Miami, where she had been offered a generous scholarship. Miami seemed like an exotic adventure to her, and she was lured away from the cold Midwest. Her mother reveled in Elizabeth’s adventures. They were best friends, and even though they mostly communicated by phone and mail, their mother-daughter relationship stayed strong. Holidays and vacations were happy times for them, as Elizabeth rarely missed a chance to go back home.
Elizabeth tiếp tục nói: – Mẹ tôi là một thiên thần. Luôn luôn chăm sóc, hy sinh vì con cái. Mẹ cô rất yêu quý cô. Cô có nhiều ký ức êm đềm với mẹ. Tình yêu đặc biệt đó đã kết chặt hai người lại, vượt qua mọi thời gian. Cô lớn lên, tốt nghiệp trung học, được nhận học bổng của đại học ở Miami. Thành phố này, đối với cô như là một cuộc phiêu lưu hấp dẫn, quyến rũ cô rời khỏi miền trung tâm Bắc Mỹ lạnh giá. Mẹ cô thích thú với những chuyến phiêu lưu của cô. Họ trở thành bạn thân, mặc dù hầu như họ chỉ liên lạc qua điện thoại hoặc email, nhưng mối quan hệ mẹ con khắng khít hơn. Những ngày nghỉ là thời gian hạnh phúc của họ, Elizabeth rất hiếm khi bỏ lỡ cơ hội về thăm nhà.
During some of these visits, Elizabeth’s mother talked about retiring to South Florida to be near Elizabeth. The family farm was large and increasingly difficult to run. They had saved a considerable amount of money, an amount augmented by her father’s frugality. Elizabeth looked forward to living near her mother again. Their nearly daily contacts would no longer have to occur by telephone.
Trong những cuộc thăm viếng, mẹ cô thường nhắc đến chuyện rút về miền Nam Florida để được gần gũi cô. Nông trại quá lớn, ngày càng khó cai quản hơn. Họ dành dụm được một số tiền khá lớn, khoản tiền được tăng dần do sự cần kiệm của cha cô. Elizabeth tìm cách được sống gần mẹ. Họ không cần liên lạc với nhau mỗi ngày qua điện thoại nữa.
Cancer that begins in the organ lying behind the lower part of the stomach (pancreas). Rare, fewer than 200,000 US cases per year.
So, Elizabeth stayed in Miami after college. She started her own accounting firm, which was slowly building. Competition was keen, and the work absorbed great chunks of her time. Relationships with men added to her stress. Then disaster struck. Approximately eight months prior to her first appointment with me, Elizabeth was devastated because of her mother’s death from pancreatic cancer.
Khi tốt nghiệp, Elizabeth ở lại Miami. Cô lập nghiệp bằng công ty kế toán riêng của mình, phát triển từng bước một. Sự cạnh tranh khốc liệt, và công việc đã ngốn hết thời gian của cô. Những mối quan hệ với đàn ông làm cô bị căng thẳng thêm. Rồi tai họa giáng xuống. Khoảng tám tháng trước khi cô hẹn gặp tôi, Elizabeth hoàn toàn suy sụp vì cái chết của người mẹ yêu quý. Bà bị ung thư tuyến tụy.
Elizabeth felt as if her own heart had been torn apart and ripped out b ythe death of her beloved mother. She was having an enormously difficult time resolving her grief. She couldn’t integrate it, couldn’t understand why this had to happen. Elizabeth painfully told me about her mother’s courageous battle with the virulent cancer that ravaged her body. Her spirit and her love remained untouched. Both women felt a profound sadness. Physical separation was inevitable, quietly but persistently approaching. Elizabeth’s father, grieving in anticipation, grew even more distant, wrapped in his solitude.
Elizabeth có cảm giác như thể trái tim cô bị xé tan ra từng mảnh nhỏ. Cô không thể làm tan đi nỗi đau hay hòa nhập cùng nó, cô cũng không thể hiểu tại sao điều này lại xảy ra.Elizabeth đau đớn kể với tôi về sự can đảm mà mẹ cô đã chiến đấu với vi rút bệnh ung thư. Những cơn đau nhức đã tàn phá cơ thể bà. Tuy nhiên tinh thần và tình yêu của bà vẫn không hề lay chuyển. Cả hai người đều có chung một nỗi buồn sâu lắng. Sự chia cách về mặt thể xác là không thể tránh được, gần như dai dẳng và lặng lẽ. Để tránh đau đớn, cha cô trở nên xa cách hơn, vùi mình trong bản chất đơn độc.
Her brother, living in California with a young family and a new business, kept a physical distance. Elizabeth traveled to Minnesota as often as possible. She had no one with whom to share her fears and her pain. She did not want to burden her dying mother any more than was absolutely necessary. So, Elizabeth kept her despair inside, and each day felt increasingly heavy. “I will miss you so much. … I love you,” her mother told her.
Anh trai cô sống tại California với một gia đình mới, một việc kinh doanh mới, giữ khoảng cách về mặt vật chất. Còn cô đi đi lại lại Minnesota thường xuyên hơn.
Cô không có ai để chia sẻ nỗi lo lắng, đau khổ. Cô không muốn để mẹ mình phải nặng gánh thêm. Vì vậy cô giữ nỗi tuyệt vọng cho riêng mình, và mỗi ngày trôi qua cô cảm thấy nặng nề hơn. Mẹ cô nói với cô rằng: – Mẹ rất thương con… mẹ sẽ rất nhớ con.
“The most difficult part is leaving you. I’m not afraid of dying. I’m not afraid of what awaits me. I just don’t want to leave you yet.” As she grew weaker and weaker, her mother’s resolve to stay longer gradually diminished. Death would be a welcome relief from the debility and the pain. Her last day arrived.
Thật là khó khăn biết mấy khi phải rời xa con. Mẹ không sợ chết. Mẹ không lo ngại bất cứ điều gì đang chờ đợi mẹ. Chỉ có điều là mẹ không đành bỏ con mà đi được. Càng ngày bà càng yếu đi. Hy vọng kéo dài sự sống cho bà dần dần tan biến. Chết có lẽ là một sự giải thoát tốt nhất để bà tránh khỏi sự đau đớn hành hạ thể xác. Và ngày cuối cùng rồi cũng đến.
Elizabeth’s mother was in the hospital, the small room crowded with family and visitors. Her breathing became erratic. The urine tubes showed no drainage; her kidneys had ceased to function. She lapsed into and out of consciousness. At one-point Elizabeth found herself alone with her mother. At this moment her mother’s eyes widened, and she became lucid again. “I won’t leave you,” her mother said in a suddenly firm voice. “I’ll always love you!”
Mẹ cô đang nằm tại bệnh viện, trong gian phòng nhỏ chung quanh có nhiều người thân yêu và bạn bè. Bà trở nên khó thở. Đường tiết niệu của bà bị tắt nghẹn, thận ngưng hoạt động. Bà bất tỉnh. Ngay giây phút đó, Elizabeth chợt thấy chỉ một mình cô đang ở cạnh mẹ. Đôi mắt mẹ cô mở to, và bà đã tỉnh lại. Bà đột ngột nói với một giọng chắc chắn: Mẹ sẽ không bỏ con đi nữa. Mẹ sẽ luôn yêu thương con.
Those were the last words Elizabeth heard from her mother, ‘who now lapsed into a coma. Her respirations became even more erratic, with long stops and sudden, gasping starts. Soon she was gone.
Đó là những lời cuối cùng cô nghe được bà nói, trong khi bà đang chìm vào hôn mê. Bà khó thở hơn, đường hô hấp bỗng ngưng đột ngột và kéo dài, bà bắt đầu thở hổn hển. Rồi bà ra đi.
Elizabeth felt a deep and gaping hole in her heart and in her life. She could actually feel a physical aching in her chest. She felt she would never be completely whole again. Elizabeth cried for months. Elizabeth missed the frequent phone calls with her mother. She tried calling her father more often, but he remained withdrawn and had very little to talk about. He would be off the phone within a minute or two. He was not capable of nurturing or comforting her. He also was grieving, and his grief isolated him even more. Her brother in California, with his wife and two young children, was also devastated by his mother’s death, but he was busy with his family and career.
Elizabeth cảm thấy có một khoảng trống sâu thẳm trong tim và trong đời cô. Lồng ngực cô đau nhói. Dường như cô không thể phục hồi. Cô khóc day dứt hàng tháng trời. Cô đã không còn dịp điện thoại thường xuyên cho mẹ cô. Cô cố gắng điện thoại cho cha cô thường xuyên hơn. Nhưng ông vẫn sống thu mình, rất ít khi nhắc đến chuyện đó. Ông thường bỏ điện thoại xuống khoảng vài phút. Ông không thể dỗ dành, an ủi cô. Chính cuộc sống đơn độc đã làm ông còn đau đớn hơn cô rất nhiều. Anh trai cô thì đang sống với vợ và hai đứa con nhỏ tại California. Anh cũng quá buồn vì cái chết của mẹ, và anh còn bận rộn với gia đình và công việc.
Her grief began to evolve into a depression with increasingly significant symptoms. Elizabeth was having problems sleeping at night. She had difficulty falling asleep and she would awaken much too early in the morning, unable to fall back to sleep. She lost interest in food and began losing weight. She had a noticeable lack of energy. She lost enthusiasm for relationships, and her ability to concentrate became increasingly impaired. Before her mother’s death, Elizabeth’s anxiety consisted mainly of job stresses, such as deadlines and difficult decisions. She was also anxious at times about her relationships with men, with how she should act and what their responses would be. Elizabeth’s anxiety levels increased dramatically after the death of her mother. She had lost her daily confidante and adviser, her closest friend. She had lost her primary source of guidance and support. Elizabeth felt disoriented, alone, adrift.
Nỗi buồn dần dần trở thành nỗi tuyệt vọng với nhiều triệu chứng trầm trọng. Hàng đêm, cô không thể ngủ được. Cô khó ngủ, nhưng thức dậy rất sớm và không thể ngủ lại được. Cô ăn không ngon, và sụt ký. Cô mất hết sinh khí, không còn thích giao tiếp, khả năng tập trung đang mất dần. Trước khi mẹ cô mất, cô chỉ lo lắng vì công việc căng thẳng, và lo về những quan hệ với đàn ông, vì cô không biết mình nên cư xử và ăn nói làm sao để thích hợp. Sau này thì cấp độ lo sợ đó càng tăng thêm. Cô đã mất hết bạn tâm tình, người cố vấn, bạn bè thân thiết. Cô mất cả nguồn chỉ dẫn và chỗ dựa. Cô mất phương hướng, cô đơn, trôi bồng bềnh.
She called for an appointment. Elizabeth came into my office hoping to find a past life in which she had been together with her mother or to contact her in a mystical experience. In books and lectures I have talked about people in meditative states having such mystical encounters with loved ones. Elizabeth had read my first book, and she seemed aware of the possibility of these experiences.
Cô điện thoại xin một cái hẹn. Elizabeth tìm đến tôi như tìm một niềm hy vọng được trở về quá khứ để gặp lại mẹ mình, hoặc có thể liên lạc được với bà trong cuộc trải nghiệm huyền bí. Tôi đã viết nhiều sách nói về những phép trị liệu bằng hình thức thôi miên, rồi đưa bệnh nhân gặp lại những người thân yêu của họ một cách kỳ lạ. Cô đã đọc cuốn sách đầu tiên của tôi, và dường như cô ý thức rõ về khả năng của những cuộc trải nghiệm này.
As people open up to the possibility, even the probability, of life after the death of the physical body, of the continuation of consciousness after leaving the physical body, they begin to have more of these mystical experiences in dreams and in other altered states of consciousness. Whether these encounters are real or not is difficult to prove. But they are vivid and filled with feeling. Sometimes the person even becomes aware of specific information, facts or details that were known only to the deceased. These revelations from spiritual visits are difficult to ascribe solely to imagination. I believe now that such new knowledge is obtained, or visits are made, not because people wish this to happen, not because they need it, but because this is the way contacts are made.
Sau khi rời bỏ thân thể vật chất, khả năng con người rất tuyệt diệu để trải nghiệm nhiều hơn trong những giấc mơ, hoặc trong tình trạng chuyển đổi của ý thức. Bất kể những cuộc gặp gỡ này có thật hay không thì cũng không ai chứng minh được. Nhưng nó rất sống động và tràn đầy cảm xúc. Đôi khi người đó ý thức rõ hơn về nét đặc trưng, sự việc, hoặc từng chi tiết, những điều mà chỉ người chết mới biết được. Sự phát hiện từ những cuộc viếng thăm bằng tâm linh đều khác nhau nên không thể cho là trí tưởng tượng. Bây giờ thì tôi tin người ta đạt được những hiểu biết mới mẻ đó, và tin những cuộc thăm viếng đã được tạo ra, không phải vì con người mong mỏi điều đó xảy ra, hay có nhu cầu về nó. Nhưng vì đó là phương pháp tạo ra sự liên lạc.
Often the messages are very similar, especially in dreams: I’m all right. I’m fine. Take care of yourself. I love you. Elizabeth was hoping for some type of reunion or contact with her mother. Her heartache needed some balm to ease the constant pain. More of her history emerged during this first session.
Những lời nhắn nhủ thường giống nhau, nhất là trong những giấc mơ: Mẹ không sao. Mẹ rất khỏe. Con hãy tự lo cho mình. Mẹ thương con nhiều lắm. Elizabeth đang mong chờ điều này. Cô mong được gặp mẹ. Bệnh tim của cô cần chất cam lồ để xoa dịu những cơn đau dai dẳng. Nhiều tình tiết trong tiểu sử của cô nổi bật lên trong lần điều trị đầu tiên.
Elizabeth had been married for a brief period of time to a local contractor, who had two children by a previous marriage. Although she was not passionately in love with this man, he was a good person, and she thought that this relationship would bring some stability into her life. But passion in a relationship cannot be artificially created. There can be respect, and there can be compassion, but the chemistry has to be there from the start. When Elizabeth discovered that her husband was having an extramarital affair with someone who could provide more excitement and passion, she reluctantly left the relationship. She was sad about the breakup and sad to leave the two children, but she did not grieve because of the divorce. The loss of her mother was much more severe.
Elizabeth đã kết hôn trong một thời gian rất ngắn với một nhà thầu xây dựng tại địa phương. Anh chàng này đã có hai đứa con trước đó. Mặc dù cô không yêu chồng nhiều lắm, nhưng anh ta cũng là người tốt. Cô nghĩ rằng mối quan hệ này sẽ mang lại cho cuộc sống của cô một sự ổn định. Nhưng niềm đam mê trong một mối quan hệ không thể giả tạo được, mà phải có sự tôn trọng, phải có sự cảm thông. Sức hấp dẫn phải xuất hiện ngay từ buổi ban đầu. Khi Elizabeth phát hiện ra chồng cô đang dan díu với người đàn bà khác, một người đã mang lại cho chồng cô niềm say mê thích thú, cô đành bỏ đi. Cô buồn vì sự đổ vỡ, buồn vì rời xa hai đứa trẻ, nhưng lại không buồn vì chuyện ly dị. Thêm vào đó, cái chết của mẹ làm cô tê tái hơn.
Because of her physical beauty, Elizabeth found it easy to meet and date other men after the divorce. But none of these relationships had fire either. Elizabeth began to doubt herself, to try to find where within herself the fault lay in her inability to establish good relationships with men. “What is wrong with me?” she would ask herself. And her self-esteem would dip another notch.
Elizabeth rất đẹp. Vì vậy, đối với cô chuyện hẹn hò bạn trai sau khi ly dị là quá dễ.
Nhưng chẳng có mối quan hệ nào nồng cháy cả. Cô bắt đầu nghi ngờ chính mình, cố tìm ra khiếm khuyết nào đó không thể xây dựng tình cảm tốt đẹp với đàn ông. Cô tự hỏi lòng mình có gì sai trái không. Với lòng tự trọng, cô đánh thêm một dấu tích nữa.
The barbed arrows of her father’s painful criticisms during her childhood had left wounds in her psyche. The failed relationships with men rubbed salt in these wounds. She began a relationship with a professor at a nearby university, but he could not commit to her because of his own fears. Even though there was a strong feeling of tenderness and understanding, and even though the two communicated very well, his inability to commit to a relationship and to trust his feelings doomed that relationship to a quiet and unspectacular ending.
Những lời chỉ trích gay gắt của cha cô lúc nhỏ đã để lại trong tâm trí cô một vết thương. Rồi những thất bại trong tình trường làm vết thương này lở loét thêm.Cô quan hệ với một vị giáo sư trong trường đại học gần đó, nhưng ông không dám công khai vì ông cũng có nỗi sợ riêng. Thậm chí cả hai đều rất yêu thương, rất hiểu biết và rất thông cảm với nhau, ông cũng không thể công khai tình yêu của cô. Ông có cảm giác rằng tình cảm của họ sẽ kết thúc lặng lẽ mà chẳng tốt đẹp gì.
Some months later Elizabeth met and began dating a successful banker. She felt secure and protected in this relationship even though, once again, the chemistry was limited. He, however, was strongly attracted to Elizabeth and became angry and jealous when she did not reciprocate with the kind of energy and enthusiasm that he expected. He began to drink more, and he became physically abusive. Elizabeth left this relationship, too. She had been quietly despairing of ever meeting a man with whom she could have a good and intimate relationship.
Vài tháng sau đó, Elizabeth lại hẹn hò với một chủ ngân hàng thành đạt. Cô cảm thấy an toàn, yên ổn trong mối quan hệ này. Nhưng lại một lần nữa, không hề có một lực hấp dẫn nào. Tuy nhiên, ông ta lại quá say mê cô đến nỗi sinh ra nhiều chuyện giận hờn ghen tuông, vì cô không thể nhiệt tình đáp lại theo cách mà ông hằng mong đợi. Ông trở nên rượu chè bè bét, cư xử thô bạo. Rốt cuộc thì cô cũng từ bỏ mối tình này. Cô âm thầm tuyệt vọng, không còn tin rằng sẽ gặp được người đàn ông đích thực cho đời mình.
She had thrown herself into her -work, enlarging her firm, hiding behind the numbers and calculations and paperwork. Her relationships primarily consisted of business contacts. And even though from time to time a man would ask her out, Elizabeth would do something to discourage that interest before it grew into anything serious.
Cô lao vào công việc, phát triển công ty, trốn mình sau những con số và những đống giấy tờ. Quan hệ chính thức của cô là những quan hệ kinh doanh. Nếu như có ai đó mời cô đi chơi, cô cũng tìm cách làm giảm lòng nhiệt tình của họ, để tránh điều gì sau đó trở nên nghiêm túc.
Elizabeth was aware that her biological clock was ticking, and she still hoped to meet the perfect man someday, but she had lost a great deal of confidence.
Cô ý thức rằng đồng hồ sinh học của cô vẫn còn kêu tích tắc, rồi cô lại hy vọng sẽ có ngày cô gặp được người đàn ông hoàn hảo của riêng mình. Nhưng cô đã mất hết tự tin.
The first therapy session, devoted to gathering historical information, formulating a diagnosis and therapeutic approach, and sowing the seeds of trust in our relationship, had ended. The ice had been broken. I decided not to use Prozac or other antidepressants at this time. We would aim for a cure, not just the covering over of her symptoms. At the next session, one week later, we would begin the arduous journey back through time.
Đợt điều trị đầu tiên kết thúc với chi chít các thông tin về tiểu sử, đề ra cách chẩn đoán và phương pháp trị liệu, gieo niềm tin trong mối quan hệ của chúng tôi. Tảng băng đã vỡ ra. Lần này tôi quyết định không dùng thuốc chống suy nhược thần kinh. Chúng tôi nhắm đến việc chữa trị, chứ không che giấu các triệu chứng của cô. Tuần sau, vào đợt điều trị kế tiếp, chúng tôi sẽ bắt đầu chuyến du hành gian khổ trở về quá khứ.
Sources:
Tài Liệu tham khảo:
- https://tienvnguyen.net/images/file/YRPlCFHe1ggQANQv/chuyentinhquanhieukiepluanhoi.pdf
- https://tienvnguyen.net/images/file/3LljBlHe1ggQAFM5/onlyloveisreal.pdf
- http://thuvienhoasen.org/images/file/KD6h3bSo0QgQAKUC/chuyen-tinh-qua-nhieu-kiep-luan-hoi.pdf
- Photo 2: https://www.britannica.com/biography/Carl-Jung
- Photo 2: https://in.pinterest.com/pin/31666003608773192/
- Photo 3: https://www.mayoclinic.org/diseases-conditions/pancreatic-cancer/symptoms-causes/syc-20355421?utm_source=Google&utm_medium=abstract&utm_content=Pancreatic-cancer&utm_campaign=Knowledge-panel