Chapter 18 – Chuyện Tình Qua Nhiều Kiếp Luân Hồi – Only Love Is Real, The Story Of Soulmates Reunited – Song ngữ

English: Dr. Brian L. Weiss – 1996

Việt ngữ: Vương Thị Minh Tâm.

Compile: Lotus group.

 

Chapter 18 – Chuyện Tình Qua Nhiều Kiếp Luân Hồi – Only Love Is Real, The Story Of Soulmates Reunited

 

   Lev Nikolayevich Tolstoy (1828-1910) referred to in English as Leo Tolstoy,

   was a Russian writer regarding as one of the greatest authors of all time. He received

   nominations for the Nobel Prize in Literature every year from 1902 to 1906 and for

   the Nobel Peace Prize in 1901, 1902, and 1909. But never won is a major controversy.

 

How interesting it would be to write the story of the experiences in this life of a man who killed himself in his previous life; how he now stumbles against the very demands which had offered themselves before, until he arrives at the realization that he must fulfil those demands….

Thật là thú vị khi viết về câu chuyện trải nghiệm của một người hiện tại đã từng tự sát trong kiếp quá khứ. Bây giờ anh ta lại vấp phải chính cái yêu sách đã đưa ra từ trước. Cho đến khi anh ta nhận ra rằng anh ta phải hoàn thành mọi yêu cầu đó….

 

The deeds of the preceding life give direction to the present life.

Những nghiệp lực của kiếp sống trước đó đã chỉ ra một con đường cho kiếp sống hiện tại.

 

Leo Tolstoy

 

*   *   *

 

He felt the message sear itself into his soul. The living words pressed themselves forever into his being. As he rested after leaving his splattered body, we both pondered the different levels of meaning of these outwardly simple words.

Anh đã cảm thấy lời nhắn nhủ mạnh mẽ đi vào linh hồn. những từ ngữ đầy sức sống mãi mãi là điểm nhấn trong suốt cuộc đời anh. Sau khi rời bỏ thể xác khó hiểu đó, anh nghỉ ngơi. Cả hai chúng tôi đều suy ngẫm từng mức độ khác nhau của ý nghĩa trong từ ngữ mà bề ngoài có vẻ đơn giản.

 

The session had begun in the usual way. I regressed Pedro using a rapid induction, and he slipped quickly into a deeply tranquil state. His breathing became deep and even, and his muscles relaxed completely. His mind, focused by the hypnosis, penetrated the customary limits of space and time, and he remembered events that had happened far before his birth as Pedro.

Đợt trị liệu này bắt đầu theo cách bình thường. Tôi đưa Pedro trở về bằng cách hướng dẫn nhanh gọn, và anh trượt nhanh vào trạng thái thôi miên sâu. Hơi thở anh sâu hơn, các cơ bắp hoàn toàn thư giãn. Tâm trí anh tập trung vào một giới hạn quen thuộc của không gian và thời gian. Anh nhớ lại các sự kiện xảy ra trước khi anh được sinh ra là Pedro.

 

“I’m wearing brown shoes,” he observed as he emerged in the physical confines of a previous incarnation. “They’re old and battered. . .. I’m a man around forty years old,” he added without my prodding. “Balding on the top with hair beginning to gray. My sideburns and beard are gray already. My beard is short, and it’s shaved pretty far down my cheeks.” He was paying considerable attention to minor details. I appreciated the accuracy of his description, but I was also aware of time slipping by. “Go ahead,” I advised. “Find out what you’re doing in this life. Go to the next significant event.” “My glasses are small and wire-rimmed,” he noted, still occupied with physical features. “My nose is wide, and my skin is very pale.” It is not unusual for a hypnotized patient to be resistant to my suggestions. I have learned that you can’t always guide the patient; sometimes the patient has to guide you.

– Tôi mang giày nâu. Anh quan sát khi nhìn theo một giới hạn vật chất của sự hiện thân cũ. – Họ già và xơ xác. Tôi là đàn ông khoảng bốn mươi tuổi. Tóc bị hói và bắt đầu điểm sương. Tóc mai và râu cũng vậy. Râu ngắn được cạo sạch sẽ. Anh để ý đến chi tiết quá nhỏ nhặt. Tôi cũng thích tính chi tiết trong lời miêu tả của anh, nhưng tôi biết thời gian đang lướt nhanh, nên tôi nói: – Đi tiếp đi. Tìm xem anh đang làm gì trong kiếp đó. Đi đến điểm quan trọng hơn. – Cặp kính của tôi nhỏ xíu, gọng bằng kim loại. Mũi tôi rộng, da tái méc. Anh chú ý, vẫn còn bị các nét vật chất lấn chiếm tâm trí. Điều này cũng bình thường đối với bệnh nhân bị thôi miên, hay kháng cự lại đề nghị của tôi. Tôi biết mình không phải lúc nào cũng hướng dẫn bệnh nhân; thỉnh thoảng bệnh nhân hướng dẫn lại mình.

 

“What do you do in this life?” I asked.

“I’m a doctor,” he answered quickly, “a country doctor. I work very hard. The people are mostly poor, but I get by. They are good people overall.” “Do you know the name of the place where you live?” “I believe it is in this country, in Ohio. . ..” “Do you know the year?” “Late eighteen-hundreds, I think.” “And your name?” I delicately inquired. “Thomas . . . my name is Thomas.” “Do you have a last name?” “It starts with a D . . . Dixon or Diggins or something like that. … I don’t feel well,” he added. “What’s wrong?” “I feel very sad . . . very sad. I don’t want to go on living!”

– Anh làm gì trong kiếp đó?

Anh trả lời rất nhanh: – Tôi là bác sĩ. Bác sĩ vùng nông thôn. Tôi làm việc rất siêng năng. Dân chúng ở đây đều nghèo khó, nhưng tôi không ngại gì, nói chung họ là người tốt. – Anh có biết vùng đất đó tên gì không? – Tôi nghĩ là miên quê tại Ohio… – Anh có biết năm nào không? – Cuối thế kỷ mười tám. – Tên anh là gì? – Thomas… Tên tôi là Thomas. – Họ gì?- Bắt đầu bàng chữ D… Dixon hay Diggins gì đó. Tôi không rõ lắm. – Có chuyện gì sao? – Tôi rất buồn… rất buồn. Tôi không muốn tiếp tục sống nữa.

 

He had jumped ahead to a time of crisis. “What is making you so sad?” I inquired. “I have been despondent before,” he clarified. “It comes and goes, but this is the worst. It’s never been this bad before. The both things are just overwhelming. . .. I can’t go on this way.” “What ‘both things’?” I echoed. “My patient died. The fever killed him. They trusted me to save him. They put their faith in me, and I couldn’t. I’ve let them down. . .. Now they have no husband, no father. They will have to struggle to survive. … I couldn’t save him!” “Sometimes patients die despite our best efforts. Especially in the eighteen-hundreds,” I added, paradoxically attempting to ease his guilt and despair over an event that had occurred a century ago. I could not alter the event, only his attitude toward it. I knew that Thomas had already experienced and acted upon his feelings.

Anh nhảy xổ vào một giai đoạn khủng hoảng. Tôi hỏi:

– Chuyện gì làm anh buồn quá vậy? Anh giải thích: – Lúc trước tôi đã chán nản rồi, có khi cũng hết, nhưng lần này thì tệ hại quá. Trước kia, chưa bao giờ tệ như vậy. Cả hai điều đều tràn ngập… Tôi không thể sống như vậy được. – Hai điều gì? – Bệnh nhân của tôi chết, cơn sốt đã giết anh ta. Họ tin là tôi sẽ cứu sống anh ấy. Họ đặt niềm tin vào tôi, mà tôi thì không đủ khả năng. Tôi làm họ thất vọng… Bây giờ họ mất chồng, mất cha. Họ phải vật lộn với cuộc sống… Tôi không thể cứu anh ta. – Đôi khi bệnh nhân chết cho dù chúng ta cố gắng hết sức. Nhất là trong thế kỷ mười tám. Thật là nghịch lý, tôi cố gắng làm dịu nỗi phiền muộn, nỗi thất vọng của anh về những sự kiện xảy ra cách đây hơn một thế kỷ. Tôi không thể chỉnh sửa lại các sự kiện, chỉ là sửa lại khuynh hướng của anh đối với nó. Tôi biết rằng Thomas đã trải nghiệm và hành động theo cảm xúc.

 

What was done was done. But I could still help Pedro, by helping him to understand, by helping him to see from a higher and more detached perspective. He was silent. I hoped that I had not jarred him from that doctor’s lifetime by doing therapy aimed at a level of understanding beyond Thomas. I had not even found out the other event that had precipitated his depression. What is the other thing causing your sadness?” I asked, trying to put the genie back into the bottle. “My wife has left me,” he answered. I was relieved to be talking to Thomas again. “She has left you?” I repeated, encouraging him to elaborate. “Yes,” he answered sadly. “Our life was too difficult. We couldn’t even have children. She went back to her family in Boston. . .. I’m very ashamed. … I couldn’t help her. I couldn’t make her happy.”

Điều gì đã làm thì không thể thay đổi. Nhưng tôi vẫn có thể giúp Pedro, bằng cách để anh hiểu, bằng cách giúp anh có cái nhìn từ một cõi cao hơn, một cõi đã thoát ra khỏi thân xác. Anh im lặng. Tôi hy vọng rằng tôi không làm anh khó chịu trong hình thái là bác sĩ trong kiếp sống đó, bằng phương pháp trị liệu nhắm vào một mức độ hiểu biết ngoài khả năng của Thomas. Tôi cũng không tìm hiểu sự kiện khác gây đau khổ cho anh. Tôi hỏi, như cố nhốt ma quỷ vào trong cái lọ: – Còn gì khác làm cho anh buồn nữa không? – Vợ tôi bỏ đi. Anh trả lời làm tôi nhẹ cả người. Tôi lại nói chuyện với Thomas. – Cô ấy bỏ anh?T ôi hỏi lại để khuyến khích anh kể thêm chi tiết. Anh buồn bã nói: – Cuộc sống của chúng tôi rất khó khăn. Chúng tôi không thể có con. Cô ấy quay về gia đình tại Boston… Tôi cảm thấy mắc cỡ… Tôi chẳng giúp gì cho cô ấy. Tôi không thể mang lại hạnh phúc cho cô ấy.

 

I did not even attempt therapy with his higher mind at this time. Instead, I asked Thomas to move ahead in time to the next important event in that life. We could do the therapy later, as he reviewed this life while still in the hypnotized state, or even later, after he emerged from the hypnosis. “I have a gun,” he explained. “I’m going to shoot myself and end this misery!” I suppressed the urge to ask him why he chose a gun and not one of the many medicines or poisons available to a doctor of that time. He had made his decision at least a century ago. The question itself was probably my way of intellectualizing his despair, despair of such magnitude as to drive him to self-annihilation. “What happens next?” I asked instead. “I’ve done it,” he said simply. “I’ve shot myself in the mouth, and now I can see my body. . .. So much blood! So much blood!”

Vào lúc này, tôi không hề nỗ lực điều trị với một tâm trí cao hơn của anh. Thay vào đó, tôi đưa Thomas đi xa hơn trong kiếp đó, đến đúng thời gian mà sự kiện quan trọng xảy ra. Chúng tôi có thể dùng liệu pháp sau, khi anh đang ôn lại kiếp sống đó, trong lúc vẫn còn bị thôi miên. – Tôi đang cầm súng.  Anh giải thích thêm: – Tôi sẽ tự tử, chấm dứt nỗi khổ này! Tôi cố kềm sự thôi thúc để hỏi anh sao lại chọn súng mà không là thuốc hoặc độc dược mà bác sĩ đều có sẵn vào thời kỳ đó. Sự lựa chọn của anh cách đây ít nhất cả thế kỷ. Bản chất câu hỏi có lẽ là cái cách tôi quan tâm đến nỗi thất vọng của anh, nỗi tuyệt vọng lớn đến nỗi đưa anh đến chỗ hủy diệt bản thân. Thay vào đó, tôi hỏi: – Chuyện gì xảy ra sau đó? Anh trả lời đơn giản: – Tôi thực hiện ý định. Tôi tự bắn vào miệng. Bây giờ tôi có thể nhìn thấy thi thể mình… đầy máu!

 

He had already left his body and was seeing it at a distance. “How do you feel now?” I asked. “Confused. . .. I’m still sad. . .. I’m so tired,” he answered. “But I can’t rest. Not yet. . .. Someone is here for me.” “Who is there?” “I don’t know. Someone very important. He has something to tell me.” “What does he tell you?” “That I have lived a good life, until the end. I should not have ended my life. Yet he seems to know I would do what I did.” “Is there more?” I asked, pushing this paradox aside. The answer came directly at me now, in a more powerful voice. Was this Thomas, or Pedro, or someone else? I flashed back momentarily to the Masters who spoke through Catherine. Except this was years later, and Catherine was not here. “It is the reaching out with love to help another that is important, not the results. Reach out with love. That is all you need to do. Love one another. The results of reaching out with love are not the results you look for. Results to the physical body. You must heal the hearts of men.”

Linh hồn anh đã lìa khỏi xác, và đang nhìn xuống từ một khoảng cách. Tôi lại hỏi: – Bây giờ anh cảm thấy thế nào? – Bối rối… vẫn còn buồn… rất mệt mỏi, nhưng không thể nghỉ ngơi. Chưa được… Có người nào đó đang ở đây với tôi. – Ai vậy?- Tôi không biết. Người nào đó rất quan trọng. Anh ta muốn nói với tôi điều gì đó. – Anh ta nói gì với anh? – Rằng tôi đã sống tốt cho đến khi kết thúc. Lẽ ra tôi không nên tự sát. Tuy vậy, anh ta có vẻ biết việc tôi sẽ làm. – Còn gì nữa không? Tôi hỏi lại, đẩy cái nghịch lý qua một bên. Câu trả lời đến với tôi tức thì, với một giọng đầy quyền năng. Có phải là Thomas? Hoặc Pedro? Hoặc một người nào khác?“Vươn tới tình yêu để giúp đỡ người khác là rất quan trọng, không phải thành quả. Hãy vươn tới tình yêu. Đó là tất cả những gì anh cần phải làm. Hãy yêu thương người khác. Kết quả đạt đến tình yêu không phải là kết quả anh tìm kiếm. Thành quả đưa đến thân xác vật chất. Anh phải chữa lành trái tim con người.”

 

Both physicians, Thomas and I, were being addressed, and we both listened raptly as the message continued. The voice was more powerful, more sure, more didactic than Pedro’s. “I will teach you how to heal the hearts of men. You will understand. Love one another!” We could both feel the force of these words as they were impressed into our being. The words were alive. We could never forget them. Later, Pedro told me that he vividly saw and heard everything that this luminous visitor communicated-words that danced with light as they bridged the space between them.

Cả hai thầy thuốc, Thomas và tôi, đều đang được hướng dẫn, hai chúng tôi lắng nghe mải mê và lời nhắn nhủ cứ tiếp tục. Giọng nói càng lúc càng quyền năng hơn, chắc chắn hơn, dạy đời hơn giọng nói của Pedro.“Tôi sẽ dạy anh cách chữa lành trái tim con người. Anh sẽ hiểu. “Hãy yêu người khác”!” Chúng tôi đều có cảm giác mãnh liệt trong lời nói này khi chúng nhấn mạnh vào sự tồn tại của chúng tôi. Lời lẽ này sẽ sống mãi trong tâm chúng tôi. Sau đó, Pedro kể cho tôi nghe rằng anh đã nhìn thấy rõ ràng và nghe hết những gì mà vị khách dạ quang này đã truyền đạt, các từ ngữ nhảy múa cùng với ánh sáng mà họ nối lại khoảng không gian giữa họ.

 

I had heard the same words. I was sure they were also meant for me. Important lessons leapt at me. Reach out with love and compassion, and do not worry so much about outcomes. Do not attempt to end your life before its natural time. A higher wisdom deals with outcomes and knows the time for all things. Free will and destiny coexist. Do not measure healing by physical results. Healing occurs at many levels, not just the physical, and real healing must occur at the heart level. Somehow, I would learn about healing the hearts of men. Most of all: Love one another. Timeless wisdom, easily grasped but practiced by only a few.

Tôi đã từng nghe những lời này. Tôi chắc lời nói này cũng có ý định với tôi. Bài học quan trọng nắm lấy tôi ngay. Đạt đến tình yêu và thương cảm, không lo lắng quá nhiều về kết quả. Không cố tự tử trước khi thời gian đến một cách tự nhiên. Sự khôn ngoan ở đỉnh cao đối đầu với kết quả và biết thời gian dành cho vạn vật. Ý chí tự nguyện và định mệnh cùng tồn tại. Không đo đếm việc điều trị bằng kết quả vật chất. Chữa bệnh hiện hữu trong mức độ của con tim. Theo cách nào đó, tôi học về cách chữa lành trái tim con người. Hơn hết là tình yêu thương dành cho người khác. Sự khôn ngoan là vô hạn, dễ dàng nắm chặt nhưng thực hành chỉ ở một số ít.

 

My mind drifted back to Pedro. Themes of separation and loss plagued his lifetimes. This time they had led him to suicide. He had been warned about not ending a life prematurely. But losses were occurring anew, and grief had returned. Would he remember or would hopeless despair overtake him once again? How devastating it is to be a healer who cannot heal his patient.

Tâm trí tôi quay lại Pedro. Chủ đề chia ly, mất mát quấy rầy kiếp sống của anh. Lần này chúng đưa anh đến sự tự sát. Anh đã được cảnh báo rằng không được kết liễu cuộc sống non nớt như vậy. Nhưng sự mất mát lại xảy ra nữa, và nỗi phiền muộn đã quay trở lại. Liệu anh có nhớ không? Hay niềm vô vọng sẽ chiếm ngự anh một lần nữa? Thật đáng buồn làm sao khi người thầy thuốc không thể chữa lành cho bệnh nhân của mình.

 

Elizabeth’s “failure” in ancient Egypt. Pedro’s despair as Thomas, the Ohio physician. My own painful experiences as a healer. My first frustration as a healer who could not stop the onslaught of a rampaging illness occurred more than twenty-five years ago during my very first clinical rotation as a third-year student at Yale Medical School. I began with pediatrics, and I was assigned to Danny, a seven-year-old boy with a large Wilms’ tumor. This is a malignant tumor of the kidney that occurs almost exclusively in childhood. The younger the child, the better the prognosis. Seven was not considered young for this cancer.

Thất bại của Elizabeth trong thời Ai Cập cổ đại. Tuyệt vọng của Pedro hiện thân là

Thomas, thầy thuốc tại Ohio. Kinh nghiệm đau thương của tôi khi là nhà điều trị. Thất vọng đầu tiên của tôi là không thể dập tắt căn bệnh hoành hành dữ dội xảy ra hơn hai mươi lăm năm trước trong đợt thực tập lâm sàng đầu tiên vào năm thứ ba tại trường Y Khoa Yale. Tôi bắt đầu tại khoa nhi, và được phân công chăm sóc Danny, đứa bé trai bảy tuổi mang một khối u lớn. Đó là khối u ác tính của thận thường xảy ra ở trẻ em. Tuổi càng nhỏ, bệnh tình càng dễ đoán hơn. Bảy tuổi là đã già trong căn bệnh ung thư này.

 

Danny was the first real patient in my medical career. Prior to him, all of my experience had been in classrooms, lecture halls, laboratories, and sitting for endless hours in front of my textbooks. The third year began our clinical experience. We were assigned to hospital wards with real patients. Enough facts and theory. The time for practical application had arrived.

Danny là bệnh nhân đầu tiên, đúng nghĩa trong nghề y của tôi. Tất cả kinh nghiệm trong lớp học, giảng đường, phòng thí nghiệm, và ngồi hàng giờ nghiên cứu sách vở đều để lo chữa trị cho nó. Năm thứ ba là năm bắt đầu trải nghiệm lâm sàng. Chúng tôi được phân công trong các bệnh viện ở khu vực để tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân. Đầy đủ thực tế và lý thuyết. Thời gian áp dụng thực tiễn đã đến.

 

I had to draw Danny’s blood for the laboratory tests, and I took care of all the minor procedures, called “scut work” by more advanced practitioners but very meaningful to third-year medical students. Danny was a wonderful child, but our bond was even stronger and more special because he was my first patient.

Danny fought heroically. He had lost his hair from the powerful but toxic chemotherapy treatments. His belly was severely bloated. Yet he was rallying, and his parents and I took hope. A good percentage of children were able to recover from this type of malignancy at that time.

Tôi phải thử máu của Danny, và chú ý đến từng chi tiết nhỏ nhặt nhất của quá trình, gọi là “việc vặt” của những bác sĩ đầy kinh nghiệm, nhưng với một sinh viên năm thứ ba thì điều này rất có ý nghĩa. Danny là một đứa trẻ tuyệt vời. Nhưng chúng tôi thậm chí phải gắn chặt với nhau mạnh hơn và đặc biệt hơn vì nó là bệnh nhân đầu tiên của tôi. Danny chiến đấu rất dũng cảm. Nó rụng hết tóc vì điều trị hóa trị, xạ trị. Bụng nó bị sưng phù. Tuy nhiên nó đang có tiến triển tốt. Cha mẹ nó và tôi đều hy vọng. Tỷ lệ trẻ em có thể hồi phục khỏi bệnh này là khá tốt vào thời điểm đó.

 

I was the youngest member of the treatment team. The medical student usually knew less clinical medicine than the intern, resident, or attending physician, all of whom were incredibly busy with their work. On the other hand, the medical student had more time to spend with the patient and family. In general, the medical student also placed a higher priority on getting to know the patient and his family. We would customarily be assigned to talk to the family or to convey messages to the patient.

Tôi là thành viên trẻ tuổi nhất trong nhóm chữa trị. Sinh viên chúng tôi thường ít biết về thuốc điều trị bằng các bác sĩ nội trú, bác sĩ điều trị, những người mà luôn luôn bận rộn đến khó tả. Mặt khác sinh viên y khoa thì có nhiều thời gian ở bên bệnh nhân và gia đình hơn. Nói chung, sinh viên chúng tôi thì đặt quyền ưu tiên cao hơn về chuyện tìm hiểu bệnh nhân và gia đình họ. Chúng tôi quen thuộc với việc phân công nói chuyện với gia đình hoặc truyền lại lời nhắn cho bệnh nhân.

 

Danny was my main patient, and I liked him a lot. I spent many hours sitting on the side of his bed, playing games, reading stories, or just talking. I admired his courage. I also spent time with his parents, frequently in Danny’s dark and drab hospital room. We even ate together in the cafeteria. They were frightened but also encouraged by his rally. Suddenly, Danny took a drastic turn for the worse. A dangerous respiratory infection overwhelmed his weakened immune system. He had difficulty breathing, and his usually bright eyes turned dull and glazed. I was shunted aside by the more senior members of the medical team. Antibiotics were started and stopped and changed, to no avail. Danny slid downhill. I stayed with his mother and father, feeling helpless and horrified. The illness won. Danny died.

Danny là bệnh nhân chính của tôi, và tôi rất thích nó. Tôi thường xuyên ngồi bên cạnh giường nó, chơi với nó, đọc truyện cho nó nghe, hoặc chỉ nói chuyện. Tôi khâm phục sự gan dạ của nó. Tôi cũng dành thời gian cho gia đình nó trong phòng buồn tẻ u ám ở bệnh viện. Chúng tôi hoảng sợ, nhưng cũng được khích lệ vì sự hồi phục của nó. Bỗng nhiên Danny trở chứng xấu hơn. Một chứng lây nhiễm về đường hô hấp nguy hiểm tràn qua hệ miễn dịch yếu ớt của nó. Nó bị khó thở, và đôi mắt sáng trở nên mờ đục. Tôi bị đẩy sang một bên do những thành viên giỏi hơn trong nhóm điều trị. Chất kháng sinh được bắt đầu, rồi ngưng, rồi thay đổi, chẳng có tác dụng gì. Danny trượt xuống dốc. Tôi vẫn ở bên cha mẹ nó, cảm thấy vô vọng và hoảng loạn. Căn bệnh đã chiến thắng. Danny chết.

 

I was too upset to spend more time with his parents, beyond a brief word and a hug. I identified with their pain as much as I could at that time. Three years later, when my own son died in a hospital, I understood even more. But at the time, I felt some vague responsibility for his death, as if I should have done something, anything, to avert it. The “failure” to heal strikes at the very soul of every healer. I understood Thomas’s despair. Far fewer psychiatric patients die of their illnesses. Yet the inability to help a severely disturbed patient evokes chords of the same frustration and sense of helplessness.

Tôi quá đỗi buồn nản, chẳng màng dành thì giờ cho cha mẹ nó, điều này vượt xa những lời nói đau khổ hay một cái ôm chặt. Lúc đó tôi nhận ra nỗi đau của họ quá mức chịu đựng cũng như tôi. Ba năm sau, khi con trai tôi chết trong bệnh viện, tôi thấu hiểu nhiều hơn. Nhưng lúc đó tôi cảm thấy mơ hồ về trách nhiệm của tôi đối với nó, như thể là tôi hẳn phải làm điều gì đó, bất cứ điều gì để cứu lấy nó. Việc chữa trị thất bại đánh vào chính tâm hồn của bác sĩ. Tôi hiểu nỗi tuyệt vọng của Thomas. Rất hiếm bệnh nhân tâm thần chết vì bệnh này. Tuy nhiên, nếu thiếu khả năng giúp bệnh nhân tâm thần thì sẽ đem lại một giai điệu buồn thảm như nhau và một cảm giác vô dụng.

 

When I was chairman of the Psychiatry Department at Mount Sinai, I treated a beautiful and talented woman in her thirties. A successful career woman, she had recently entered into a happy marriage. Gradually she became paranoid, and the paranoia was worsening despite medicines, despite therapy, despite every intervention. Neither I nor any consultant I called in could determine why, because her course and symptoms and tests were very atypical for schizophrenia, mania, or any other of the usual psychoses. She had begun to

deteriorate soon after a trip to the Far East, and one test showed extremely high antibodies to a parasite. Still, no medical or psychiatric treatment helped, and she gradually worsened.

Khi tôi là trưởng khoa tâm thần học tại Mount Sinai, tôi điều trị một phụ nữ đẹp, thông minh ở tuổi ba mươi. Người phụ nữ thành công trong nghề nghiệp vừa mới bước vào cuộc hôn nhân đầy hạnh phúc. Dần dần cô bắt đầu hoang tưởng, chứng bệnh hoang tưởng ngày càng tệ hơn, dù rất nhiều phương pháp điều trị cũng đều vô ích. Cả tôi và những nhà tư vấn cũng không ai xác định lý do, vì các triệuchứng và xét nghiệm đều tiêu biểu cho chứng tâm thần phân liệt, chứng cuồng, hay bất cứ chứng rối loạn tâm thần bình thường khác. Cô trở nên tệ hơn từ chuyến du lịch ở miền Viễn Đông về. Một xét nghiệm mới cho thấy kháng thể cao chót vót đối với ký sinh trùng. Như vậy, không có thuốc hay giải pháp tâm lý nào giúp được, rồi cô ngày càng xấu hơn.

 

Again, I had felt the pangs of helplessness, the frustration of the healer who could not heal. To reach out with love, to do your best and not be so concerned with results or outcomes, that is the answer. This simple concept, ringing so true to me, is the balm of understanding that healers need. In a sense, I had reached out with love to Danny, and he had reached back to me.

Một lần nữa, tôi cảm thấy đau nhói vì vô dụng, nỗi buồn của một nhà chữa trị lại không thể chữa lành bệnh. Để đạt đến lòng yêu thương, để nỗ lực mà không quá lo lắng về thành quả, kết quả, đó là câu trả lời. Một ý niệm đơn giản, văng vẳng sự thật bên tôi là một chất cam lồ của sự hiểu biết mà người thầy thuốc rất cần. Về một ý nghĩa nào đó, tôi đã vươn tới tình yêu với Danny, và nó cũng đối lại với tôi như vậy.

 

Sources:

Tài Liệu tham khảo:

  1. https://tienvnguyen.net/images/file/YRPlCFHe1ggQANQv/chuyentinhquanhieukiepluanhoi.pdf
  2. https://tienvnguyen.net/images/file/3LljBlHe1ggQAFM5/onlyloveisreal.pdf
  3. http://thuvienhoasen.org/images/file/KD6h3bSo0QgQAKUC/chuyen-tinh-qua-nhieu-kiep-luan-hoi.pdf
  4. Photo 2: https://en.wikipedia.org/wiki/Leo_Tolstoy