Chapter 17 – Chuyện Tình Qua Nhiều Kiếp Luân Hồi – Only Love Is Real, The Story Of Soulmates Reunited – Song ngữ
English: Dr. Brian L. Weiss – 1996.
Việt ngữ: Vương Thị Minh Tâm.
Compile: Lotus group.
Chapter 17 – Chuyện Tình Qua Nhiều Kiếp Luân Hồi – Only Love Is Real, The Story Of Soulmates Reunited
Robert James Waller (August 1, 1939 – March 10, 2017) was an
American author best known for The Bridges of Madison County, an enormously
successful book in 1993. He was also a photographer and musician.
For we have come by different ways to this place. I have no feeling that we met before. No deja vu. I don’t think it was you in lavender by the sea as I rode by in a.d. 1206 or beside me in the border wars. Or there in the Gallatins, a hundred years ago, lying with me in the silver-green grass above some mountain town.
Tôi đã đến đây theo nhiều cách khác nhau. Tôi không có cảm giác rằng chúng ta đã từng gặp nhau. Không có cảm giác ngờ ngợ. Tôi không cho rằng đó là em trong bụi cây oải hương bên bờ biển khi tôi lướt qua vào năm 1206, hoặc ở bên cạnh tôi trong chiến tranh biên giới. Hoặc ở đó tại Gallatins cách đây một trăm năm, nằm bên tôi trên bãi cỏ xanh rờn trong vùng núi.
Déjà vu is the feeling that one has lived through the present situation
before. This is a French phrase that translates literally as “already seen”.
I can tell by the natural ease with which you wear fine clothes and the way your mouth moves when you speak to waiters in good restaurants. You have come the way of castles and cathedrals, of elegance and empire.
Tôi có thể kể tự nhiên thoải mái về cách mà em nói chuyện với bồi bàn trong nhà hàng. Em bước đến trong cung cách của những nhà đại tư bản, thanh lịch và quý tộc.
Robert James Waller
* * *
By the time I had finished counting backward from ten to one, Elizabeth was already in a deep hypnotic trance. Her eyes were fluttering under their lids. Her body was limp, and her breathing had slowed into a very relaxed rhythm. Her mind was now ready for time travel.
Ngay khi tôi vừa đếm từ mười xuống một thì Elizabeth đã chìm sâu vào trạng thái thôi miên. Mắt cô đảo nhanh qua lại dưới mi. Thân thể cô mềm nhũn, hơi thở chầm chậm đi vào giai điệu thư thái. Tâm trí cô bây giờ đang du hành vượt qua thời gian.
I took her back slowly, this time using a peaceful mountain stream as a gateway to the distant past. She walked across the stream into a beautiful light. Walking through the light, she emerged in another time and another place, in an ancient lifetime. “I’m wearing thin sandals,” she observed, after I had instructed her to look at her feet. “There’s a binding just above the ankles. I have a long white dress of different lengths. Over it is a veil-like covering down to my ankles. The sleeves are very wide and end at my elbows. I’m wearing golden bracelets at three different levels of my arms.”
Lần này tôi đưa cô đi nhẹ nhàng theo cách bước qua dòng suối thanh bình trên núi như một cánh cổng trở về một kiếp quá khứ. Cô bước qua dòng suối theo làn ánh sáng tuyệt diệu. Qua khỏi ánh sáng đó, trong cô hiện lên một kiếp sống trong thời cổ đại. Cô quan sát, sau khi tôi chỉ dẫn cô nhìn xuống bàn chân. – Tôi mang một đôi săng đan mỏng. Có vải viền ở trên mắt cá chân một chút. Tôi mặc chiếc áo đầm trắng dài nhiều tầng, phủ dài xuống mắt cá. Tay áo dài và rộng thùng thình. Tôi đeo cái vòng xuyến ba lớp bằng vàng.
She was observing herself vividly and with great detail. “My hair is dark brown and long, below my shoulders. . .. My eyes are brown, too. . .. My skin is light brown.” “You are a girl,” I assumed. “Yes,” she patiently answered. “About how old are you?” “About fourteen.” “What do you do? Where do you live?” I fired at her, asking two questions before she had a chance to answer. “On the temple grounds,” she responded. “I’m training to be a healer and to help the priests.” “Do you know the name of this land?” I asked. “It is Egypt … a long time ago.”
“Do you know the year?” “No,” she replied. “I don’t see that . . . but it is very long ago . . . very old.” I returned to her memories and experiences of that ancient time.
Cô quan sát bản thân với nhiều chi tiết rõ ràng, sống động. – Tóc tôi dài chấm vai, nâu sẫm… Mắt cũng nâu… Da nâu sáng. – Cô là cô gái? – Vâng. – Khoảng bao nhiêu tuổi? – Khoảng mười bốn. – Cô đang làm gì? Cô sống ở đâu? Tôi hỏi dồn một lúc hai câu hỏi trước khi cô kịp trả lời. – Tôi đang ở trong một ngôi đền. Tôi đang được đào tạo thành thầy thuốc để giúp các thầy tu. – Cô có biết tên đất nước đó không? – Ai Cập… thời xa xưa. – Cô có biết vào năm nào không? – Không, tôi không biết… nhưng rất xưa… cách đây rất lâu. Tôi đưa ký ức và cuộc trải nghiệm của cô đến thời cổ đại đó.
“How did you happen to receive this training, to be a healer and to work with the priests?” “I was selected by the priests, just as the others were. We are all chosen, according to our talents and abilities. . .. The priests know this from the time we are very young.” I wanted to know more about this selection process. “How do the priests know about your talents? Do they observe you in school or with your parents?”
– Làm sao mà cô lại xuất hiện và nhận khóa đào tạo để trở thành thầy thuốc và để giúp các thầy tu? – Tôi được các thầy chọn, cũng như nhiều người khác thôi. Chúng tôi đều được chọn theo khả năng và tài nghệ của chúng tôi… Các thầy tu biết từ lúc chúng tôi còn nhỏ xíu. Tôi muốn biết thêm về quá trình lựa chọn, nên hỏi tiếp: – Làm sao các thầy tu biết tài nghệ của cô? Họ quan sát cô ở lớp học hay qua cha mẹ cô?
“Oh, no,” she corrected me. “They know intuitively. They are very wise. They know who has the ability in numbers and should be an engineer or a counter or a treasurer. They know who can write and scribe. They know who has military potential and should be trained to lead armies. They know who will make the best administrators. These will be trained to be governors and officials. They know those who possess healing and intuitive abilities, and these are trained to be healers and advisers and even to be priests.”
– Ồ, không! Họ biết bằng trực giác. Họ rất giỏi. Họ biết người nào có khả năng về số học, về kỹ thuật máy móc, về kế toán, về thủ quỹ. Họ biết người nào có thể viết, chép lại. Họ biết ai có khả năng về quân sự và sẽ được chọn để đào tạo trở thành tướng lãnh. Họ biết ai có thể trở thành lãnh đạo. Những người này đều được đào tạo để trở thành chính phủ và quan chức. Họ biết ai có khả năng chữa bệnh và trực giác, thì sẽ được đào tạo để trở thành thầy thuốc, nhà cố vấn hoặc thậm chí trở thành thầy tu.
The 3,298 Years Old Mummified Face of Egyptian Pharaoh
Seti I – He was Black. Pharaoh is a ruler in ancient Egypt.
“So, the priests decide what occupations people train for,” I summarized. “Yes,” she concurred. “Talents and potentials are divined by the priests when the child is very young. His training is then set. . .. He has no choice.” “Is this training open to everyone?” “Oh, no,” she objected. “Only to those of the nobility, to those related to the pharaoh.” “You must be related to the pharaoh?” “Yes, but his family is very large. Even distant cousins are considered part of the family.” “But what of very talented people who are not related?” I asked, my curiosity causing me to linger at this family selection system. “They can get some training,” she again patiently explained. “But they can only progress so far . . . to be assistants to the leaders, who are relatives of the royal family.”
Tôi tóm tắt: – Vậy thì chính thầy tu quyết định nghề nghiệp của mỗi người mà đào tạo cho phù hợp. Cô đồng tình: – Đúng vậy. Tài nghệ và tiềm năng được các thầy tu tiên đoán khi còn nhỏ, rồi nó sẽ được tập luyện mà không có sự lựa chọn khác. – Việc đào tạo này có mở rộng cho nhiều người? – Ồ, không, chỉ những người danh giá quý tộc, chỉ những bà con của vua Ai Cập. – Chắc hẳn cô cũng là bà con với vua Ai Cập? – Dạ đúng. Đó là một đại gia tộc rất lớn. Thậm chí anh em họ xa cũng xem là một phần gia đình. – Nhưng nếu những người có tài mà không phải là bà con thì sao? Tôi hỏi nán thêm vì tò mò đến hệ thống chọn lựa gia tộc này. Cô kiên nhẫn giải thích: – Họ cũng được đào tạo theo một cách nào đó. Nhưng họ chỉ tiến đến mức độ làm trợ lý cho những nhà lãnh đạo, người có bà con thân thuộc của hoàng gia.
“Are you a relative of the pharaoh?” I asked.
“A cousin . . . not too close.” “Close enough,” I uttered. “Yes,” she answered.
I decided to move on, even though I already knew that the patient after Elizabeth had cancelled her appointment that day, so time was not hurrying me along as much as usual. “Do you have any family with you?” “Yes, my brother. We are very close. He is two years older. He has also been chosen to train as a healer and priest and we are together here. Our parents live some distance away, so it is very good to have my brother with me. … I can see him now.” I risked another distraction, looking for clues to understanding Elizabeth’s relationships.
– Cô cũng là một người bà con của vua Ai Cập? – Em họ…nhưng không gần lắm. – Cũng đủ để được đào tạo? – Vâng. Tôi quyết định đưa cô đi tiếp. Tôi biết có một bệnh nhân đã hủy cuộc hẹn sau giờ của Elizabeth, vì vậy tôi không có gì phải vội vàng. – Có người nào trong gia đình ở với cô không? – Dạ có. Anh trai tôi. Hai anh em tôi rất thân thiết với nhau. Anh tôi lớn hơn tôi hai tuổi. Anh tôi được đào tạo để trở thành thầy thuốc và thầy tu, và chúng tôi cùng ở đây. Cha mẹ tôi sống cách xa, nên tôi rất mừng là có anh mình ở bên cạnh… bây giờ tôi có thể nhìn thấy anh ấy. Tôi đánh liều với sự rối trí khác, tìm đầu mối để hiểu những quan hệ của Elizabeth.
“Look closely at his face. Look into his eyes. Do you recognize him as anybody in your current life?” She seemed to be peering into his face. “No,” she said sadly. “I don’t recognize him.” I had somewhat expected her to recognize her beloved mother, or perhaps her brother or father. But there was no identification. “Go ahead in time now to the next important event in that Egyptian girl’s life. You can remember everything.” She went forward in time.
– Nhìn kỹ mặt anh ấy, nhìn vào mắt anh ấy. Cô có nhận ra anh ấy là ai trong kiếp sống hiện tại của cô không? Dường như cô ngắm nghía rất kỹ, nhưng rồi cô nói rất buồn: – Tôi không nhận ra anh ấy là ai. Tôi mong chờ một điều gì đó, rằng cô nhận ra người mẹ thân yêu, hoặc là người anh hay cha cô. Nhưng không có sự nhận dạng nào hết. – Đi tới nữa để xem nhữngsự kiện quan trọng trong kiếp làm cô gái Ai Cập. Cô có thể nhớ ra mọi thứ. Cô đi tiếp.
“I am eighteen now. My brother and I are much more advanced now. He is wearing a white and gold skirt that is short. It ends just above his knees. . .. He is very handsome,” she noted. “How are you more advanced?” I inquired, bringing her focus back to the training. “We have many more skills. We are working with special healing rods that, when mastered, greatly speed up the regeneration of tissues and limbs.” She paused for a few moments, studying these rods. “They contain a liquid energy that flows through the rods. . .. The energy is concentrated at the point of regeneration. . .. You can use this to grow limbs and heal tissue, even dying or dead tissue.”
– Bây giờ tôi đã mười tám tuổi. Hai anh em tôi có rất nhiều tiến bộ. Anh ấy mặc áo đuôi tôm màu trắng và vàng, dài chỉ tới đầu gối… Anh rất đẹp trai. Tôi hỏi tiếp để đưa cô quay lại khóa tập luyện: – Hai anh em cô tiến bộ nhiều như thế nào? – Chúng tôi có nhiều kỹ năng. Chúng tôi làm việc với những cây gậy chữa bệnh đặc biệt. Khi đã sử dụng thông thạo rồi thì những cây gậy này tăng tốc làm tái tạo lại các mô và tứ chi. Cô ngừng lại một lúc, nghiên cứu, xem xét các cây gậy. – Chúng chứa một năng lượng lỏng, tràn qua gậy… năng lượng này tập trung tại điểm cần tái tạo…Người ta có thể dùng năng lực này để phát triển tứ chi và chữa lành các mô, thậm chí cả những mô đang chết hoặc đã chết.
I was surprised. Even modern medicine cannot accomplish these feats, although nature can, as with salamanders and other lizards, which can regrow detached limbs or tails. The latest research in traumatic spinal cord injuries is just now leading to the beginning of controlled nerve regeneration, about four to five thousand years after Elizabeth’s work with healing rods that could induce limb and tissue regeneration.
Tôi thật ngạc nhiên. Ngay cả dược phẩm tiên tiến ngày nay cũng không thể hoàn thành những kỳ công này. Chỉ có loại bò sát như kỳ nhông, thằn lằn có thể tự mọc lại tứ chi và đuôi. Một nghiên cứu mới nhất về chấn thương và gây tổn thương dây cột sống của thời đại hôm nay chỉ là đưa đến một sự khởi đầu tái tạo lại hệ dây thần kinh. Trong khi đó công việc của Elizabeth với gậy thần điều trị có thể tác động vào tứ chi và tái tạo lại mô đã có từ khoảng bốn, năm ngàn năm trước.
She could not articulate how the rods worked, other than with energy. Elizabeth did not have the vocabulary or mental concepts to understand and explain.
She began to speak again, and the reasons for her lack of understanding became clear. “At least that’s what they tell me. I am young and a girl. I have held the rods, but I have never seen them work. I have not yet seen the regeneration. . .. My brother has seen this. He is allowed, and when he is older, he will be allowed this knowledge of regeneration. My training will be ended before that level. I cannot progress to that level, for I am a female,” she explained.
Cô không thể nói rõ hơn về cách hoạt động của cây gậy, cô chỉ nói về năng lượng mà thôi. Elizabeth không có từ ngữ hay khái niệm tinh thần để hiểu và giải thích. Cô bắt đầu nói tiếp, lý do vì sao cô không thể hiểu đã hình thành trong tâm trí cô. Cô giải thích: – Ít ra thì đó là những gì mà họ nói với tôi. Tôi là con gái mà còn nhỏ. Tôi chỉ nắm cây gậy mà chưa hề thấy nó hoạt động, cũng chưa từng nhìn thấy sự tái tạo… Anh trai tôi thì được phép nhìn. Đến khi lớn hơn, anh ấy sẽ được phép học hỏi về sự tái tạo. Việc thực tập của tôi sẽ kết thúc trước cấp độ đó. Tôi không thể phát triển đến cấp độ đó vì tôi là phụ nữ.
“He will be allowed the knowledge of regeneration, and you will not?” I questioned. “That is true,” she commented. “He will be allowed to know higher secrets, but I will not.” She paused, then added, “I am not jealous of him. It is the custom … a foolish custom, because I have more ability to heal than many men.” Her voice dropped to a whisper. “He will tell me the secrets anyway. . .. He has promised me. He will teach me how the rods work, too. He has already explained many things to me. . .. He has told me they are trying to revive people who have recently died!”
Tôi nêu câu hỏi:
– Anh trai cô thì được học còn cô thì không? Cô bình luận: – Đó là sự thật. Anh ấy sẽ học để biết những bí mật cao cấp, còn tôi thì không. Cô ngừng lại một chút, rồi tiếp: – Tôi không hề ganh tị với anh ấy. Đó là tục lệ… một tục lệ ngu xuẩn. Trong khi đó tôi chữa bệnh giỏi hơn nhiều người đàn ông khác. Giọng cô chùng xuống như thì thầm: – Anh tôi hứa là sẽ kể cho tôi nghe về những bí mật, và dạy tôi cách hoạt động của gậy. Anh cũng giải thích cho tôi nghe về nhiều vấn đề… Anh tôi kể rằng họ đang cố gắng làm những người vừa chết sống lại.
“Who have died?” I echoed.
“Yes, but this must be done very quickly,” she added. “How do they do this?” “I don’t know. . .. They use several of the rods. There are special chants. The body must be positioned in a certain way. There is more, but I do not know. . .. When my brother learns, he will tell me.” She ended her explanation. My logical mind arrived at the assumption that the people allegedly being revived were not really dead yet but probably near death, like patients recovering from near-death experiences. After all, they did not have equipment to monitor brainwave function in those days. They could not pinpoint the absence of brain activity, which is our modern definition of death. My intuitive sense told me to keep an open mind. Other explanations could exist, explanations beyond my current comprehension.
Tôi hỏi lại: – Người đã chết?
– Đúng vậy. Nhưng phải làm thật nhanh. – Họ làm cách nào? – Tôi không biết… Họ dùng nhiều cây gậy. Có những bài kinh đặc biệt. Xác chết phải đặt đúng vào vị trí. Còn nhiều nữa, nhưng tôi không biết… Khi nào anh trai tôi học, anh ấy sẽ nói cho tôi nghe. Cô đã giải thích xong. Tâm trí lô gích của tôi đi đến giả định rằng con người được cho là sống lại thật sự chưa chết hẳn, chỉ gần chết thôi, giống như bệnh nhân được hồi phục từ cuộc trải nghiệm hồn lìa khỏi xác. Rốt cuộc, họ không có dụng cụ để theo dõi hoạt động tầng sóng của não (đo điện tâm đồ) vào thời kỳ đó. Trực giác của tôi nói rằng tôi hãy giữ một tư tưởng phóng khoáng. Còn nhiều lời giải thích khác nữa, ngoài sự hiểu biết hiện nay của tôi.
Elizabeth was still silent, so I resumed the questioning. “Are there other forms of healing that you do?” I asked her. “There are many,” she responded. “One is with our hands. We touch the area of the body that needs the healing and send energy directly there . . . through our hands. Some don’t even need to touch the body. We feel above the person’s body tor areas of heat. We disperse the heat and smooth the energy. The heat must be dispersed at several levels above the body, not just the closest,” she explained. She was speaking rapidly now, describing ancient variations of healing techniques. “Others can heal mentally. They can see the problem areas in their minds, and they mentally send energy to those spots. I can’t do this yet,” she added, “but I will learn eventually.
Elizabeth vẫn còn yên lặng, vì vậy tôi tiếp tục đặt câu hỏi: – Ngoài cách chữa bệnh cô đang làm, còn cách nào khác nữa không? – Còn nhiều. Một là dùng tay. Chúng tôi dùng tay chạm vào chỗ đau và đưa năng lượng trực tiếp vào đó. Vài người không cần thiết phải chạm vào cơ thể. Chúng tôi sờ phía trên cơ thể của người bệnh tìm những chỗ nóng. Chúng tôi giải nhiệt và xoa dịu bằng năng lượng. Nhiệt độ nóng sẽ được giải tại một vài mức độ phía trên cơ thể, nhưng không quá gần. Bây giờ cô đang nói rất nhanh, diễn tả nhiều cách chữa trị khác nhau trong thời cổ đại. – Nhiều người khác có thể chữa bệnh bằng tinh thần. Họ nhìn vào chỗ có vấn đề trong tư tưởng của họ, rồi họ truyền năng lượng đến những chỗ đó bằng tinh thần. Tôi chưa làm điều này, nhưng dần dần tôi sẽ học.
“Some touch the person’s pulse with their second and third fingers held together and send energy directly into the flow of blood. You can reach the internal organs this way, and you can see the cleansing energy leaving through the person’s toes.” Elizabeth continued her rapid and increasingly technical explanation. “I am working now with putting people into very deep levels of trance and having them also see the healing as it occurs, so that they complete the healing transformation on the mental level. We give them potions to help them go very deep.” She paused for a moment. Except for the potions, this last technique very much resembles the hypnotic visualizations that I and others are using in the late twentieth century to stimulate the healing process.
Cô tiếp tục giải thích: – Nhiều người dùng ngón tay bắt mạch và truyền năng lượng trực tiếp qua đường máu. Theo cách này họ có thể chạm đến nội tạng, và nhìn thấy năng lượng sạch thoát ra qua đầu ngón chân. Cô ngừng lại, rồi nói: – Bây giờ tôi đang đặt người ta vào một cấp độ thôi miên rất sâu, và họ cũng nhìn thấy việc điều trị đang diễn ra, để họ biến đổi hoàn toàn việc chữa trị trên mức độ tinh thần. Tôi cho họ uống bùa để giúp họ đi sâu hơn. Ngoài chuyện uống bùa, phương pháp điều trị này hoàn toàn giống cách chữa trị mà tôi và nhiều người khác đang sử dụng vào cuối thế kỷ hai mươi, thuật thôi miên để kích thích quá trình chữa lành bệnh.
“Are there more methods?” I inquired.
“The ones that evoke the gods are reserved for the priests,” she answered. “These are forbidden to me.” “Forbidden?” “Yes, because women cannot become priests. We can become healers, and we assist the priests, but we cannot do their functions. . .. Oh, some women call themselves priestesses and play musical instruments in the ceremonies, but they have no power.” With some sarcasm in her voice, she added, “They are musicians like I am a healer; they are hardly priests. Even Hathor mocks them.” Hathor was the Egyptian goddess of love, mirth, and joy. She was also the goddess of festivity and dance. Elizabeth was probably remembering one of Hathor’s more esoteric functions, that of defender and protectress of women.
– Còn cách nào khác nữa không?
– Còn một cách là gọi thần linh. Cách này chỉ dành cho thầy tu. Tôi bị cấm. – Bị cấm? – Vâng. Vì phụ nữ không thể trở thành thầy tu. Chúng tôi chỉ trở thành thầy thuốc, trợ lý cho thầy tu, nhưng không thực hiện chức năng của họ… Ồ, vài phụ nữ tự nhận là nữ tu, và chơi nhạc trong các buổi lễ, nhưng họ không có sức mạnh năng lượng. Với một giọng mỉa mai, cô nói thêm: – Họ là nhạc công giống như tôi là thầy thuốc; Họ khó trở thành thầy tu. Ngay cả Hathor cũng nói xỏ họ. Hathor là nữ thần Ai Cập, nữ thần của tình yêu, hạnh phúc và niềm vui. Bà cũng là nữ thần của lễ hội và vũ hội. Elizabeth có lẽ đang nhớ lại một trong nhiều chức năng bí truyền của Hathor, đó là người che chở và bảo vệ phụ nữ.
Hathor’s mockery of these priestesses underlined the empty grandiosity of their titles. Elizabeth grew silent again, and as she did, my mind drew parallels to the current time. Glass ceilings seem to be as old as time itself. The road to advancement in this period of primitive Egypt seemed to be restricted to only a few. Relatives of the pharaoh, who himself was considered half divine, could advance, but female relatives would soon bump into the gender barrier. Male relatives of the pharaoh were the privileged few.
Hathor nói xỏ nhữn gnữ tu này có nghĩa là nhấn mạnh tước hiệu rỗng tuếch của họ. Elizabeth lại im lặng. Còn tâm trí tôi thu hút theo một con đường song song trở về hiện tại. Con đường đến sự tiến bộ vào thời cổ Ai Cập có vẻ bị giới hạn cho một số rất ít. Bà con thân quyến của vua, bản thân ông ta cũng tự coi mình là nửa thần thánh có thể tiến bộ, còn thân quyến nữ giới thì sớm đương đầu với sự phân biệt giới tính. Bà con nam giới của vua là một số ít được quyền ưu tiên.
Elizabeth was still silent, and I urged her forward. “Go ahead in time to the next important event in that life. What do you see?” “My brother and I are advisers now,” she commented, after progressing a few more years into the future. “We stand behind the governor of this area and we advise him. He is a great administrator and a good military leader, too. But he is impulsive and needs our intuition and inner guidance. . .. We help to balance him.” “Are you happy doing this?” “Yes, it is good to be with my brother. . .. And the governor is usually kind. He often listens to our advice. . .. We do our healing work also.”
Elizabeth vẫn im lặng, tôi giục cô đi xa hơn: – Đi tiếp đến sự kiện quan trọng trong kiếp sống đó, nhìn xem cô thấy gì? – Bây giờ anh tôi và tôi là người cố vấn. Cô bình luận, khi tiến đến tương lai vài năm sau đó. – Chúng tôi đứng phía sau nhà cầm quyền của vùng đất này và tư vấn cho ông ta. Ông ta là nhà lãnh đạo vĩ đại và cũng là nhà quân sự tuyệt vời. Nhưng ông ta bốc đồng nên cần trực giác và sự hướng dẫn bên trong của chúng tôi… Chúng tôi giúp ông ta cân bằng lại. – Cô làm việc này có vui không? – Rất vui, vì cùng làm với anh trai tôi… Và nhà lãnh đạo cũng rất tốt. Ông thường lắng nghe chúng tôi khuyên giải… Chúng tôi cũng chữa bệnh.
She seemed contented, if not ecstatic. She had not married, so her brother was her family. I moved her ahead in time. She was visibly upset now. She began to cry, then stopped. “I know too much for this. I must be strong. It is not that I fear exile or death. Not at all. But to leave my brother . . . that is hard!” Another tear fell. “What happened?” I asked, somewhat startled at the sudden decline in her fortunes.
Cô có vẻ rất hài lòng, nếu không nói là mê mẩn. Cô không lập gia đình, nên anh trai là gia đình cô. Tôi đưa cô đi xa hơn trong kiếp đó. Bây giờ cô rất thất vọng, bắt đầu khóc, rồi nín: – Tôi biết điều này quá rõ. Tôi phải mạnh mẽ. Không phải tôi sợ bị trục xuất hay chết. Không phải vậy. Nhưng phải rời xa anh trai tôi…thật quá khó! Một dòng nước mắt lại rơi xuống. – Chuyện gì xảy ra? Tôi hỏi lại, điều gì đó đột nhiên thay đổi làm suy sụp vận may của cô.
“The governor’s son became severely ill. He died before anything could be done. He knows about our work with regeneration and our attempts to bring the recently dead back to life. So he demanded that I bring his son back from the dead. If I did not, I would be sent to permanent exile. I know that place. Nobody returns.” “And the son?” I asked hesitantly. “He could not be returned. It was not allowed. So, I had to be punished.” She was again sad and the tears welled up once more in her eyes. “It makes no sense,” she said slowly. “I was never allowed to learn about the rods. … I was never allowed to acquire the knowledge of regeneration and revival. My brother taught me a little, but not enough. . .. They didn’t know he told me anything.”
– Tôi chết mà không kịp trở tay. Ông ta biết về công việc tái sinh của chúng tôi, và làm hồi sinh lại người vừa chết. Vì vậy ông ta ra lệnh cho tôi phải đem con trai ông trở về. Nếu tôi không làm được tôi sẽ bị đày đi xa xứ. Tôi biết nơi đó. Không ai có thể quay về.Tôi e dè hỏi lại: – Còn đứa con trai? – Hắn không thể sống lại. Điều này không được tha thứ. Tôi phải bị xử tội. Cô buồn rười rượi, mắt ứa lệ. Cô nói chậm rãi: – Thật vô lý. Tôi chưa bao giờ được học về cách điều trị đó… Không bao giờ được phép tiếp thu kinh nghiệm tái sinh. Anh trai tôi dạy tôi một ít, nhưng không đủ… Họ không biết anh đã nói gì với tôi.
“What happened to your brother?”
“He was away, so he was spared. All the priests were away. Only I was around. . .. He returned in time to see me before the exile began. I don’t fear exile or death, only leaving him. . .. There is no choice.” “How long are you in exile?” I asked. “Not very long,” she answered. “I know how to leave my body. One day I left my body and did not return. That was my death, for without the soul, the body dies.” She had jumped to that point and was speaking from a higher perspective. “As simple as that?” “There is no pain, no interruption in awareness when such a death is chosen. That is why I did not fear death. I knew I could never see my brother again. I could not do my work on that barren island. There was no reason to stay in physical form. The gods understand.”
– Chuyện gì xảy ra với anh trai cô? – Anh đang đi xa, vì vậy anh được an toàn. Tất cả các thầy tu đều đi vắng. Chỉ có mình tôi ở lại… Anh trở về chỉ vừa kịp lúc nhìn tôi bị đày đi. Tôi không sợ bị đi đày hay chết, chỉ sợ xa anh tôi thôi … Không có sự lựa chọn. – Chừng nào thì cô bị đày đi? – Không lâu đâu. Tôi biết cách rời bỏ thân xác tôi. Một ngày kia, tôi rời bỏ thể xác và không quay lại. Đó là cái chết của tôi, không còn linh hồn, thể xác không còn sống. Cô nhảy đến một điểm khác, và đang nói chuyện từ một viễn cảnh cao hơn. – Đơn giản như vậy sao? – Không có đau đớn, không có ngăn cản ý thức khi cái chết được lựa chọn. Đó là lý do tôi không sợ chết. Tôi biết mình có thể gặp lại anh trai. Tôi không thể làm việc trên ốc đảo cằn cỗi. Không có lý do gì ở lại trong một hình thái vật chất. Thần linh thấu hiểu.
She was silent, resting. I knew that her love for her brother would survive physical death, as would her brother’s love for her. Love is eternal. Had they met again over the intervening centuries? Would they meet again in the future? I also knew that this memory would help ease her grief. Once more she had found herself in the distant past. Her consciousness, her soul, had survived physical death and centuries of time to emerge once again, this time as Elizabeth. If she could survive through time, so could her mother. So, could all of us. She had not found her mother in ancient Egypt, but she had found a beloved brother, a companion soul whom she could not recognize in her current life. At least not yet.
Cô yên lặng, nghỉ ngơi. Tôi biết rằng tình yêu thương cô dành cho anh mình có thể sống lâu hơn cái chết vật lý, cũng như tình yêu của anh trai cô dành cho cô. Tình yêu là vĩnh cữu. Không biết họ có gặp lại nhau qua bao thế kỷ? Có thể họ sẽ gặp nhau trong tương lai? Ký ức này sẽ làm cô nhẹ lòng hơn. Một lần nữa cô lại tìm thấy mình trong quá khứ xa xôi. Ý thức, linh hồn đã sống lâu hơn cơ thể vật lý. Hàng bao thế kỷ trôi qua giờ đây cô lại xuất hiện thành một Elizabeth. Nếu cô đã sống lại qua bao thế kỷ thì mẹ cô cũng vậy, tất cả chúng ta đều sẽ như vậy. Cô không tìm thấy mẹ mình trong thời Ai Cập cổ đại, nhưng cô đã gặp lại người anh trai yêu quý, một linh hồn đồng hành mà cô không thể nhận ra trong kiếp hiện tại, ít nhất là chưa nhận ra.
I like to think of soul relationships as similar to a large tree with a thousand leaves on it. Those leaves that are on your twig are intimately close to you. You may even share experiences, soul experiences, among yourselves. There may be three or four or five leaves on your twig. You are also highly and closely related to the leaves on the branch next to yours. They share a common limb. They are close to you, but not as close as the leaves on your own twig. Similarly, as you extend farther out along the tree, you are still related to these other leaves or souls, but not as closely as those in your immediate proximity.
Tôi tin rằng những mối liên hệ của linh hồn tương tự như một cây to lớn có hàng ngàn lá. Những chiếc lá này nằm trên cành con của ta nên rất gần gũi thân thiết với ta. Chúng ta có thể chia sẻ kinh nghiệm với nhau, những kinh nghiệm về mặt tâm linh. Một có bà con đặc biệt, thân thiện với những chiếc lá trên những nhánh kế bên. Chúng cũng ở cùng trên một nhánh cây, chúng cũng gần gũi với ta, nhưng không thân thiết như những chiếc lá trên cành của mình. Tương tự như vậy, nếu ta kéo dài ra theo cả cây to lớn đó, chúng ta liên quan đến rất nhiều lá trên cây, nhưng rõ ràng là không gần gũi lắm.
You are all part of one tree and one trunk. You can share experiences. You know each other. But those on your twig are the closest. There are many other trees in this beautiful forest. Each tree is connected to the others through the root system in the ground. So even though there may be a leaf on a distant tree that seems quite different from you and very far away, you are still connected to that leaf. You are connected to all leaves. But you are the most closely connected to those on your tree. And even more intimately connected to those on your branch. And almost as one with those on your own twig. You probably have met the other souls farther out on your tree in previous lifetimes. They may have been in many different relationships with you. Their interactions may have been extremely brief. Even a thirty-minute encounter could have helped you learn a lesson or helped them or the both of you, as is usually the case. One of these souls may have been the beggar in the road to whom you gave a heart’s gift, allowing you to extend your compassion to another human being and allowing the recipient to learn about receiving love and help. You and the beggar may have never met again in that lifetime, and yet you are part of the drama. Your meetings vary in duration-five minutes, one hour, a day, a month, a decade, or more-this is how souls relate. Relationships are not measured in time but in lessons learned.
Có lẽ chúng ta đã gặp một linh hồn khác từ kiếp xa xôi. Có lẽ họ đã nằm trong nhiều mối quan hệ khác nào đó trong cuộc đời mình. Sự trao đổi qua lại chắc hẳn là rất ngắn ngủi. Có thể chỉ khoảng ba mươi phút gặp nhau để giúp nhau học hỏi kinh nghiệm. Một trong những linh hồn này có thể là một kẻ ăn mày trên con đường mà ta vô tình đi qua, và ta đã tặng họ một món quà từ trái tim. Chúng ta tỏ lòng thương cảm đến người khác, cũng như sẽ được nhận lại lòng yêu thương và sự giúp đỡ. Có lẽ chúng ta và kẻ ăn mày đó không hề gặp lại nhau trong kiếp đó, tuy nhiên chúng ta vẫn là một phần trong vở kịch đó. Những cuộc gặp gỡ trong đời luôn khác nhau về thời gian, không gian. Gặp gỡ nơi này, nơi khác. Gặp năm phút, một giờ, một ngày, một tuần, một tháng, một thập kỷ, còn nhiều hơn nữa. Đây là cách mà linh hồn kết nối, liên quan. Những mối quan hệ không hề được cân đong đo đếm, nhưng đều là những bài học đáng giá để chúng ta học hỏi.
Sources:
Tài Liệu tham khảo:
- https://tienvnguyen.net/images/file/YRPlCFHe1ggQANQv/chuyentinhquanhieukiepluanhoi.pdf
- https://tienvnguyen.net/images/file/3LljBlHe1ggQAFM5/onlyloveisreal.pdf
- http://thuvienhoasen.org/images/file/KD6h3bSo0QgQAKUC/chuyen-tinh-qua-nhieu-kiep-luan-hoi.pdf
- Photo 2: https://en.wikipedia.org/wiki/Robert_James_Waller
- Photo 3: https://www.scientificamerican.com/article/can-science-explain-deja-vu/
- Photo 4: https://www.africaspeaks4africa.net/the-3298-years-old-mummified-face-of-egyptian-pharaoh-seti-i-he-was-black/