Chapter 15 – Chuyện Tình Qua Nhiều Kiếp Luân Hồi – Only Love Is Real, The Story Of Soulmates Reunited – Song ngữ

English: Dr. Brian L. Weiss – 1996.

Việt ngữ: Vương Thị Minh Tâm.

Compile: Lotus group.

 

Chapter 15 – Chuyện Tình Qua Nhiều Kiếp Luân Hồi – Only Love Is Real, The Story Of Soulmates Reunited

 

  Walt Whitman (1819 – 1892) was an American poet, journalist…  

   And part of transition between transcendentalism and realism.

 

I know I am deathless. No doubt I have died myself ten thousand times before. I laugh at what you call dissolution, and I know the amplitude of time.

Tôi biết mình bất diệt. Không có gì nghi ngờ rằng tôi đã chết mười ngàn lần trước đây. Tôi cười vào cái mà bạn gọi là tan rã, vì tôi biết mức độ rộng lớn của thời gian.

 

Walt Whitman

 

*    *    *

 

Dreams have many functions. They help to process and integrate the day’s events. They provide clues, often in the form of symbols and metaphors, that help solve the problems of everyday life-relationships, fears, work, emotions, illnesses, and much more. They can assist us in achieving our desires and goals if not physically then at least in the form of wish fulfillment.

Giấc mơ có nhiều chức năng. Nó giúp chúng ta tiến hành và hòa nhập các sự kiện trong ngày. Nó cung cấp chứng cứ, thường là trong hình thức biểu tượng hay ẩn dụ, những điều có thể giải quyết gút mắc hàng ngày như những mối quan hệ, nỗi sợ hãi, công việc, cảm xúc, bệnh tật, và còn nhiều nữa. Nó có thể hỗ trợ chúng ta đạt được những điều mong ước, nếu không thì ít nhất cũng trong hình thức được thỏa lòng ước vọng.

 

They aid us in reviewing past events, reminding us of parallels in the present. They protect sleep by disguising stimuli such as anxieties that would otherwise awaken us. Dreams have deeper functions as well. They may provide pathways to recovering repressed or forgotten memories, whether from childhood, infancy, in-utero experiences, or even from past lives. Past-life memory fragments often emerge in the dream state, particularly in those dreams in which the dreamer sees scenes from the years or centuries preceding his or her birth.

Nó phụ giúp ta ôn lại những sự kiện trong quá khứ, nhắc nhở ta những việc song hành trong hiện tại. Nó bảo vệ giấc ngủ bằng cách che đậy những tác nhân kích thích như là lo lắng bất an, nếu không thì những điều này sẽ đánh thức chúng ta. Giấc mơ cũng có những chức năng sâu xa hơn. Nó có thể cho ta một con đường để mở ra những ký ức bị đè nén hay bị quên lãng, bất kể từ lúc còn thơ ấu, hay thành niên, hay trong những kiếp quá khứ. Những ký ức về kiếp quá khứ vỡ vụn thường được nổi lên trong giấc mơ, đặc biệt trong những giấc mơ mà người nằm mơ nhìn thấy những cảnh tượng cách đây nhiều năm, nhiều thế kỷ trước khi họ được sinh ra.

 

Dreams can be psychic or precognitive. Often these particular dreams can predict the future. Accuracy varies because the future appears to be a system of probabilities and inevitabilities, and because the ability of people to accurately interpret their dreams itself varies tremendously. These psychic or precognitive dreams are experienced by many people of all cultures and backgrounds. However, many people are shocked when their dreams literally come true.

Giấc mơ có thể thuộc về mặt tâm linh hoặc dự đoán. Thường thì những giấc mơ đặc biệt có thể dự đoán được tương lai. Sự chính xác cũng muôn màu muôn vẻ vì tương lai xuất hiện theo hệ thống của khả năng, và đó là điều không thể tránh được. Rồi do khả năng con người diễn giải về giấc mơ có chính xác hay không cũng hoàn toàn khác nhau. Những giấc mơ thuộc tâm linh và dự đoán được trải nghiệm bởi con người trong các nền văn hóa, các chủng tộc. Tuy nhiên cũng có nhiều người bị sốc khi giấc mơ của họ thật sự xảy ra.

 

Another type of psychic dream occurs when communication with a person at a distance is experienced. The person may be alive and geographically distant, or the communication may be with the soul or consciousness of someone who has died, such as a relative or dear friend. Similarly, there may be communication with an angelic spirit, a teacher, or a guide. The messages in these dreams are usually genuinely moving and very important.

Một loại giấc mơ khác có tính tâm linh xuất hịên khi trải nghiệm qua sự liên lạc với

một người ở xa, người này có thể còn sống, hoặc là cách giao tiếp với linh hồn, hoặc tâm thức của người đã chết, chẳng hạn như người thân, bạn bè thân thiết. Tương tự như vậy, còn có sự giao tiếp với tâm linh thiên thần, vị thầy, v.v…

 

“Traveling” dreams also occur. During these dreams people have the experience of visiting places to which they have never physically been. Details of what they see can later be confirmed. When the person actually visits the geographical place, even months or years after the dream, a feeling of déjà vu or familiarity may occur. Sometimes the dream traveler visits places that do not seem to exist on this planet. These dreams may be far more than nocturnal imaginings. They may be mystical or spiritual experiences, accessed because the usual ego and cognitive barriers are relaxed during sleep and dreaming. Knowledge and wisdom acquired during this type of traveling dream can transform lives. On this day, when night lightened into morning, Elizabeth had one of these dreams.

Du hành trong những giấc mơ cũng hay xảy ra. Trong những giấc mơ này, người ta thường đến thăm viếng những nơi, mà với cơ thể vật chất, họ chưa bao giờ đến. Những giấc mơ như vậy có lẽ xa hơn trí tưởng tượng hoạt động về đêm. Đây có thể là cuộc trải nghiệm tâm linh hoặc huyền bí, vì bản ngã thông thường và rào cản nhận thức đã nghỉ ngơi trong giấc ngủ và giấc mơ. Sự hiểu biết và trí tuệ được yêu cầu cho loại giấc mơ lang thang du hành là có thể chuyển hóa đời sống hiện tại. Vào một ngày, khi trời vừa sáng, Elizabeth cũng có một loại giấc mơ như vậy.

 

* * *

 

Elizabeth bounced in early for her appointment, eager to tell me about the dream she had during the previous night. She appeared less anxious and more relaxed than I had ever seen her. People at work, she told me, had begun to comment that she looked better, that she was being nicer and more patient, even more so than the “old” Elizabeth, before her mother’s death. “This was not one of my typical dreams,” she stressed. “This dream was more alive and real. I still remember all the details, and I usually forget most of my dreams pretty quickly, as you know.”

Elizabeth nhún nhảy vào buổi sáng vì cuộc hẹn,cô hăm hở khoe với tôi về giấc mơ đêm hôm trước. Lần này trông cô bớt lo lắng và có vẻ thư giãn nhiều hơn mọi lần trước. Cô kể tôi nghe rằng bạn bè ở chỗ làm khen cô đẹp hơn, dễ thương hơn, kiên nhẫn hơn, thậm chí hơn “một Elizabeth cũ kỹ” trước khi mẹ cô mất. Cô nhấn mạnh: – Đây không phải là loại giấc mơ của tôi. Giấc mơ rất sống động và rất thực. Tôi nhớ rõ từng chi tiết. Bình thường, nằm mơ ít khi nào tôi nhớ được gì.

 

I had been encouraging Elizabeth to write down her dreams as soon as she awakened. Keeping a dream journal near your bed and jotting down what you remember of your dreams significantly enhances the memory. Otherwise, the dream content fades rapidly away. Elizabeth had been somewhat lazy about chronicling her dreams, and by the time she came to the office for her appointment, she had usually forgotten most of the details, if not the entire dream. This dream was different, so vivid that the details were etched in her mind. “At first, I entered a large room. There were no windows or lamps or overhead lights. But the walls were somehow glowing. They emitted enough light to illuminate the entire room.”

Tôi đã thường xuyên khuyến khích cô viết lại chi tiết trong giấc mơ khi cô vừa thức dậy. Trong cách nào đó, Elizabeth rất lười viết lại, khi đến văn phòng tôi, cô chẳng còn nhớ gì cả. Nhưng lần này giấc mơ có vẻ khác lạ, rất sống động đến nỗi mọi chi tiết đều nằm trong đầu cô. – Đầu tiên tôi bước vào một gian phòng rộng. Không có cửa sổ, cũng không có đèn trần hay đèn ngủ. Nhưng các bức tường sáng rực, ánh sáng chiếu khắp cả căn phòng.

 

“Were the walls hot?” I asked. “I don’t think so. They gave off light but not heat. I didn’t touch the walls though.” “What else did you notice in the room?” “I knew it was a library of some sort, but I couldn’t see any shelves or any books. In the corner of the room was a statue of the Sphinx. There were two old chairs on either side of this statue, old from an olden time. They were not from modern times. Almost like a throne made out of stone or marble.”

– Tường có nóng không? – Hình như không nóng. Nó có ánh sáng nhưng không nóng. Dù tôi không chạm vào tường. – Cô còn nhận thấy gì nữa không? – Tôi biết đó là thư viện hay một dạng như vậy, nhưng tôi không thấy các kệ sách hay cuốn sách nào. Trong góc phòng có bức tượng Xphanh (hình đầu người mình sư tử) . Có hai cái ghế từ thời cổ ở hai bên bức tượng. Gần giống như cái ngai vàng được chạm bằng đá cẩm thạch.

 

She was quiet for a moment, her gaze drifting upward and to the left as she remembered the ancient chairs. “What do you think a statue of the Sphinx was doing there?” I inquired. “I don’t know. Maybe because the library helped you to understand secrets. I remembered the riddle of the Sphinx. What walks on four legs in the morning, two legs during the day, and three legs at night? Man does. A crawling baby becomes an adult who becomes elderly, needing a cane to walk. Maybe it has something to do with that riddle. Or with riddles in general.”

Cô im lặng một lát, cô nhìn mơ hồ về phía bên trái như đang nghĩ đến hai cái ghế cổ. Tôi hỏi: – Cô nghĩ gì về bức tượng đó? – Tôi không biết. Có lẽ thư viện giúp tìm hiểu về những điều bí ẩn. Tôi nhớ câu đó của tượng Xphanh (hình đầu người mình sư tử). Cái gì đi bốn chân vào buổi sáng, hai chân trong ngày, và ba chân vào ban đêm. Có lẽ có điều gì đó với câu đố, hoặc nhiều câu đố, nói chung.

 

“It could be,” I conceded, my mind drifting back to Oedipus and the first time I had heard about the riddle. “Yet there may be other meanings, too,” I added. “For example, what if the Sphinx somehow provides a clue to the nature of the library, or even to its structure or its location?”

– Có thể là vậy.Tôi thừa nhận, tâm trí tôi lướt qua người giải câu đố. Lần đầu tiên tôi nghe về chuyện câu đố này. Tôi nói thêm: – Chắc nó còn có nghĩa khác. Ví dụ, điều gì sẽ xảy ra nếu tượng Xphanh này, theo cách nào đó, cung cấp nguồn gốc về tính chất của thư viện, kết cấu, địa điểm?

 

The dreaming mind could be very complex. “I wasn’t there long enough to find out,” she answered. “Are you aware of anything else in the room?” “Yes,” she said immediately. “There was a man nearby, dressed in a long, white robe. I guess he was the librarian. He decided who could come into the room and who could not. For some reason, I was allowed in.” At this point my practical mind could not contain itself any longer. “What kind of library doesn’t have books?” I blurted out. “That’s the strange part,” she began to explain. “All I had to do was to put my arms out with my palms up and whatever book I needed began to form right in my hands! In no time the book was complete. It seemed to come right out of the wall and solidify in my hands.”

Tâm tưởng trong mơ có khi cũng rất phức tạp. Cô trả lời: – Tôi không ở đó lâu để tìm hiểu thêm. – Cô có nhận ra cái gì khác trong phòng không? Cô trả lời lập tức: – Có một người đàn ông ở gần đó, mặc cái áo choàng màu trắng. Tôi đoán là thủ thư. Ông có quyền cho phép người nào được vào thư viện hay không. Vì lẽ gì đó, tôi được phép vào. Ngay điểm này, tâm trí thực tiễn của tôi không thể kìm chế được nữa. Tôi buột miệng hỏi: – Thư viện loại gì mà không có sách? Cô giải thích: – Đó là phần lạ lùng. Tất cả điều tôi phải làm là chắp tay lại rồi cuốn sách nào tôi cần có ngay trong tay tôi!

 

“What kind of book did you receive?” “I don’t remember exactly. A book about me, about my lifetimes. I was afraid to open it.” “Afraid of what?” “I don’t know. That there was something bad there, something I would be ashamed of.” “Did the librarian help you?” “Not really. He just began to laugh. Then he said, ‘Is a rose ashamed of its thorns?’ And he laughed some more.” “Then what happened?” “He led me out, but I felt that eventually I would understand what he meant and I would come back and not be afraid to read from my book.”

– Cô nhận loại sách gì? – Tôi không nhớ chính xác. Một cuốn sách về tôi, về cuộc đời tôi. Tôi ngại mở nó. – Ngại gì?- Tôi không biết. Có điều gì xấu trong đó, điều gì mà tôi cảm thấy mắc cỡ. – Thủ thư có giúp cô không? – Không hẳn. Ông ta chỉ cười, rồi nói: “có phải hoa hồng mắc cỡ với gai của nó?” Rồi ông ta cười lớn hơn nữa. – Rồi chuyện gì xảy ra? – Ông đưa tôi ra ngoài, nhưng dần dần tôi cảm thấy cũng hiểu ra ý ông ta, và tôi sẽ quay lại rồi không sợ đọc cuốn sách đó nữa.

She grew silent, pensive. “Was that the end of the dream?” I prodded. “No. After leaving the library I went to a classroom where I was taking a course. There were fifteen or twenty other students there. One young man seemed very familiar, like he was my brother . . . but he wasn’t my brother, Charles.” She was referring to her present-life brother in California. “What kind of a course were you taking?” “I don’t know.” “Was there more?” I asked.

She responded hesitantly. “Yes.” I wondered why she hesitated now, after already relating some very unusual dream scenes. “A teacher appeared,” she continued, in a voice slightly more than a whisper. “He had the most intense brown eyes. His eyes would change to a beautiful purple color, then back to brown again. He was very tall and wore only a white robe. His feet were bare. . .. He came to me and looked deeply into my eyes.”

Cô yên lặng, trầm ngâm. Tôi hỏi tiếp: – Rồi cô thức dậy? – À không. Sau khi rời thư viện, tôi đến lớp học. Tôi đang dự một khóa học. Ở đó có khoảng mười lăm hay hai mươi sinh viên. Một thanh niên rất giống anh trai tôi… nhưng không phải Charles. Cô đang nói đến anh trai đang sống ở California. – Cô đang theo khóa học gì? – Tôi không biết. – Còn gì nữa không? Cô do dự trả lời: – Vâng. Tôi thắc mắc sao cô lại do dự sau khi đã thuật lại vài cảnh tưởng lạ lùng trong giấc mơ. Cô kể tiếp, với một giọng nhẹ hơn là thầm thì: – Thầy giáo xuất hiện. Mắt ông ta nâu sẫm, có thể thay đổi qua màu tía, rồi trở lại màu nâu. Ông ta rất cao, mặc áo choàng trắng, đi chân trần… Ông tiến đến tôi và nhìn sâu vào mắt tôi.

 

“Then what?” “I felt the most incredible love. I knew that everything would be all right, that everything I was going through was part of some plan and that the plan was perfect.” “Did he tell you that?” “No, he didn’t have to. In fact, he didn’t say anything. I just felt these things, but somehow, they seemed to be coming from him. I could feel everything. I knew everything. I knew there was nothing to fear . . . ever . . . and then he walked away.”

– Rồi sao? – Tôi cảm thấy một tình yêu đáng kinh ngạc. Tôi biết mọi thứ có thể rất an ổn, mọi thứ tôi đang đi qua là một phần của kế hoạch nào đó, và kế hoạch đó rất hoàn hảo. – Ông ta nói với cô như vậy hả? – Không. Ông ta không cần phải nói. Thật ra, ông ta chẳng nói gì cả. Chỉ là tôi có cảm giác như vậy thôi, nhưng bằng cách nào đó, nó có vẻ từ ông ta truyền qua. Tôi có thể cảm nhận tất cả, biết tất cả. Tôi biết không có gì phải sợ hãi… không gì… rồi ông ta quay đi.

 

“What else?” “I felt very light. The last thing I remember is floating in the clouds. I was feeling so loved and so safe. . . . Then I woke up.” “How do you feel now?” “I feel okay, but it’s fading. I can remember everything about the dream, but the feeling is getting weaker. The traffic driving over here didn’t help.” Everyday life, interfering again with transcendent experiences.

– Còn gì nữa? – Tôi cảm nhận rất rõ. Điều cuối cùng tôi nhớ là bay lên mây. Tôi cảm thấy rất dễ thương và an toàn… Rồi tôi thức dậy. – Bây giờ cô cảm thấy ra sao?- Tôi cảm thấy rất tốt, nhưng nó đang tan dần. Tôi nhớ rất rõ về giấc mơ, nhưng cảm giác thì dần dần nhẹ đi. Mỗi ngày, lại xen thêm vào những trải nghiệm siêu việt.

 

* * *

 

A woman wrote to me, thanking me for writing my first book. The information in the book helped her to understand and accept two dreams she had had-dreams that were more than two decades apart. Her letter was destroyed when Hurricane Andrew ripped through my office, but I remember it well.

Một phụ nữ viết thư cám ơn tôi về cuốn sách đầu tiên tôi viết. Những thông tin trong đó giúp cô hiểu và chấp nhận hai giấc mơ mà cô đã trải qua cách nhau hai thập niên. Lá thư của cô đã bị rách nát khi Hurricane Andrew ghé qua văn phòng tôi. Nhưng tôi còn nhớ rất rõ.

 

From the time she was a young girl she knew that she would have a special child named David. She grew older, got married, and had two daughters but no son. She reached her mid-thirties, and she became more and more concerned. Where was David? In a vivid dream an angel came to her and said, “You can have your son, but he can only stay for nineteen and a half years. Is that acceptable to you?”

Lúc còn nhỏ, cô biết mình sẽ có một đứa con trai đặc biệt tên David. Lớn lên cô lấy

chồng, có hai cô con gái, không có con trai. Khi cô ở tuổi ba mươi, cô bắt đầu quan tâm. David ở đâu? Trong một giấc mơ sống động, một thiên thần bước đến nói với cô: “Cô sẽ có con trai, nhưng nó chỉ sống tới mười chín tuổi rưỡi. Cô có chấp nhận điều đó không?”

 

The woman agreed.

A few months later, she became pregnant, and soon David was born. He was indeed a special child-kind, sensitive, and loving. “An old soul,” she would say. She never told David about her dream and the agreement with the angel. It came to pass that he died at nineteen and a half years of age due to a rare type of cancer of the brain. She felt guilty, anguished, grief-stricken, despondent. Why had she accepted the angel’s offer? Was she somehow responsible for David’s death? In a vivid dream a month after David’s death, the angel reappeared. This time David was with the angel, and David spoke to her. “Don’t grieve so,” he said. “I love you. I chose you. You did not choose me.” And she understood.

Người phụ nữ gật đầu. Vài tháng sau cô có mang, rồi David được sinh ra. Nó thật sự là một đứa bé đặc biệt, dễ thương, nhạy cảm, đáng yêu. Cô nói rằng: “Một linh hồn cũ”. Cô không bao giờ kể cho David nghe về giấc mơ, và sự thỏa thuận với thần linh. Như dự kiến, David chết đúng năm mười chín tuổi rưỡi vì căn bệnh ung thư não hiếm thấy. Cô cảm thấy tội lỗi, đau khổ, bi quan, kiệt sức vì đau buồn sâu sắc. Tại sao cô lại chấp nhận đề nghị của vị thần đó? Theo cách nào đó, cô có lỗi trong cái chết của David? Một tháng sau khi David chết, thiên thần lại xuất hiện trong giấc mơ. Lần này thiên thần đó chính là David. David nói với cô: “Đừng

đau lòng quá, con rất thương mẹ, chính con đã chọn mẹ, chứ không phải mẹ chọn con.” Và cô đã thấu hiểu.

 

Sources:

Tài Liệu tham khảo:

  1. https://tienvnguyen.net/images/file/YRPlCFHe1ggQANQv/chuyentinhquanhieukiepluanhoi.pdf
  2. https://tienvnguyen.net/images/file/3LljBlHe1ggQAFM5/onlyloveisreal.pdf
  3. http://thuvienhoasen.org/images/file/KD6h3bSo0QgQAKUC/chuyen-tinh-qua-nhieu-kiep-luan-hoi.pdf
  4. Photo 2: https://en.wikipedia.org/wiki/Walt_Whitman
  5. Photo 3: https://www.britannica.com/topic/Great-Sphinx