Chapter 13 – Tiền Kiếp Và Luân Hồi Có Thật Không? – Many Lives, Many Masters – Song ngữ

English: Dr. Brian L. Weiss.

Việt ngữ: Thích Tâm Quang.

Compile: Lotus group.

 

Chapter 13 – Tiền Kiếp Và Luân Hồi Có Thật Không? – Many Lives, Many Masters

Catherine had gotten rid of her distressing symptoms. She was healthy beyond normal. Her lifetimes were beginning to repeat. I knew we were approaching a termination point, but what I did not realize on this autumn day as she again settled into her hypnotic trance was that five months would elapse between this hypnosis session and her next, which would be her last.

Catherine đã loại bỏ được những triệu chứng đau buồn. Cô khỏe mạnh hơn mọi khi. Những kiếp sống của cô bắt đầu được nhắc lại. Tôi biết chúng tôi đang gần kề điểm chót, nhưng điều tôi không hiểu là vào cái ngày thu này khi cô lại đi vào hôn mê thôi miên thì năm tháng trời trôi qua từ buổi này đến buổi kế tiếp, sẽ là buổi cuối cùng.

 

“I see carvings,” she began.

“Some of them are done in gold.

I see clay.

People are making pots. They’re red . . . some type of red material they’re using. I see a brown building, some type of brown structure. That’s where we are.” “Are you in the brown building or near it?” “I’m in it. We’re working on different things.” “Can you see yourself while you’re working?” I asked. “Can you describe yourself, what you’re wearing? Look down, what do you look like?” “I have some type of red … some long red material on. I have funny shoes, like sandals. I have brown hair. I’m working on making some type of figure. It’s a figure of a man . . . a man. He has some kind of a stick, a … a rod in his hand. The other people are making things out of … some out of metals.”

Cô bắt đầu, “Tôi nhìn thấy những bức chạm.

“Một số được làm bằng vàng.

Tôi nhìn thấy đất sét.

Người ta làm bình. Những cái bình đỏ… họ dùng một loại nguyên liệu đỏ. Tôi nhìn thấy một tòa nhà nâu, một loại kiến trúc nâu. Đó là nơi chúng tôi đang ở đấy.””Cô ở trong tòa nhà nâu hay ở gần tòa nhà ấy?””Tôi ở trong. Chúng tôi đang làm những công việc khác nhau.”Tôi hỏi, “Cô có thể nhìn thấy chính cô trong khi đang làm việc không?” “Cô có thể miêu tả chính cô không, cô ăn mặc ra sao? Hãy nhìn xuống. Trông cô thế nào?””Tôi mặc loại áo dài đỏ… Tôi có đôi giầy ngộ nghĩnh, giống như dép. Tóc tôi nâu. Tôi đang làm việc đắp hình người. Đó là hình một người đàn ông…một người đàn ông. Người này có một loại gậy… một cái gậy ở trong tay. Những người khác đang làm những đồ bằng kim khí.”

 

“Is this done in a factory?”

“It’s just a building. The building’s made out of stone.”

“The statue that you’re working on, the man with the stick, do you know who itis?” “No, it’s just a man. He takes care of the cattle . . . the cows. There are lots of them [statues] around. We just know what they look like. It’s a very funny material. It’s hard to work on. It keeps crumbling.”

“Có phải làm trong một xưởng không?”

“Chỉ là một tòa nhà. Tòa nhà được làm bằng đá.”

“Bức tượng cô đang làm, người đàn ông với cái gậy, cô biết người ấy là ai không?’”Không, chỉ là một người đàn ông. Người trông nom trâu bò …những con bò cái. Có nhiều tượng ở chung quanh đây. Chúng tôi chỉ biết trông thấy chúng giống như thế. Nó làm bằng một loại nguyên liệu là lạ. Rất khó làm. Nó cứ vỡ ra.”

 

“Do you know the name of the material?”

“I don’t see that. Just red, something red.” “What will happen to the statue after you make it?” “It will be sold. Some will be sold in the marketplace. Some will begiven to the different nobles. Only those with the finest workmanship will be given to the houses of nobles. The rest will be sold.”

“Cô có biết tên của nguyên liệu đó không?”

“Tôi không nhìn thấy. Chỉbiết là một thứ gì đó đo đỏ”.”Cái gì sẽ xẩy ra sau khi cô đã làm xong tượng?””Tượng sẽ được đem bán. Một số sẽ được đem bán ngoài chợ. Một số sẽ được cho những nhà quý phái khác nhau. Chỉ những sản phẩm đẹp nhất sẽ được đưa đến các nhà quý tộc. Phần còn lại sẽ được bán”.

 

“Do you ever deal with these nobles?”

“No.”

“Is this your job?”

“Yes.”

“Do you like it?”

“Yes.” “Have you been doing this long?” “No.” “Are you good at it?” “Not very.” “Do you need more experience?” “Yes, I’m only learning.” “I understand. Do you still live with your family?” “I don’t know, but I see brown boxes.” “Brown boxes?” I repeated. “They have little openings. They have a doorway in them, and some of the statues sit inside the door. They’re made of wood, some type of wood. We have to make the statues for them.”

“Có bao giờ cô được giao thiệp với những nhà quý phái này không?”

“Không.”

“Đây là công việc của cô phải không?”

“Phải”

“Cô có thích công việc của cô không?”

“Có””Cô đã làm công việc này lâu rồi phải không?””Không.””Cô làm tốt chứ?””Không tốt lắm””Cô cần nhiều kinh nghiệm hơn phải không?””Phải, tôi đang học.””Tôi hiểu. Cô vẫn sống với gia đình đấy chứ?””Tôi không biết, nhưng tôi nhìn thấy những cái lều mầu nâu.”Tôi nhắc lại, “Lều nâu””Chúng có khe hở nhỏ. Chúng có đường dẫn vào và một số tượng ở bên trong cửa. Những tượng này làm bằng gỗ, một loại gỗ. Chúng tôi phải làm tượng cho các lều này”.

 

“What is the function of the statues?”

“They’re religious,” she answered.

“What religion is there-the statue?”

“There are many gods, many protectors . . . many gods. People are very frightened. There are many things made here. We make games, too . . . game boards with holes in them. Animal heads go in the holes.” “Do you see anything else there?” “It’s very hot, very hot and dusty . . . sandy.” “Is there water around?” “Yes, it comes down from the mountains.” This lifetime was beginning to sound familiar, too. “Are the people afraid?” I explored. “Are they superstitious people?” “Yes,” she answered. “There’s much fear. Everyone is afraid. I’m afraid, too. We must protect ourselves. There is sickness. We must protect ourselves.” “What kind of sickness?” “Something is killing everyone. Lots of people are dying.” “From the water?” I inquired. “Yes. It’s very dry … very hot, because the gods are angry, and they are punishing us.” She was revisiting the lifetime with the tannis cure. I recognized the religion of fear, the religion of Osiris and Hathor.

“Chức năng của những tượng là gì?”

Cô trả lời, “chúng đểcho tôn giáo”

“Tôn giáo gì ở đấy -bức tượng?”

“Có nhiều thần, nhiều bảo vệ… nhiều thần. Người ta rất sợ hãi. Có nhiều việc được làm nơi đây. Chúng tôi cũng làm những đồ chơi … những bảng chơi cờ có lỗ trong đó. Những đầu súc vật đi vào những lỗ đó.””Cô có nhìn thấy gì khác nữa không?””Trời rất nóng, rất nóng và bụi bậm … cát.””Có nước ở đâu đấy không?”

“Có, nước xuống từ núi”. Kiếp sống này bắt đầu có vẻ quen thuộc. Tôi thăm dò, “Người ta có sợ hãi à? Họ có dị đoan không?”Cô trả lời, “Có. Họ rất sợ hãi. Người nào cũng sợ hãi. Tôi cũng sợ hãi. Chúng tôi phải tự bảo vệ. Có bệnh. Chúng tôi phải tự bảo vệ”.”Bệnh gì?””Một loại bệnh giết mọi người. Nhiều người đang chết”. Tôi hỏi, “Bệnh do nước?””Phải, Rất khô… rất nóng, vì các thần tức giận, và các thần đang trừng phạt chúng tôi”. Cô đang đi thăm lại kiếp sống với cách trị bệnh bằng tannis. Tôi công nhận tôn giáo của sợ hãi, tôn giáo của Osiris và Hathor.

 

“Why are the gods angry?”

I asked, already knowing the answer,

“Because we have disobeyed the laws. They are angry.” “What laws have you disobeyed?” “Those that have been set down by the nobles.” “How can you appease the gods?” “You must wear certain things. Some people wear things around their necks. They will help you with the evil.” “Is there a particular god that the people fear most?” “They’re afraid of all of them.” “Do you know the names of any gods?” “I don’t know the names. I only see them. There’s one that has a human body but has the head of an animal. There’s another one that looks like a sun. There’s one that looks like a bird; he’s black. They run a rope around their necks.”

“Tại sao các thần tức giận?”,

Tôi hỏi nhưng đã biết câu trả lời. “Vì chúng tôi không tuân theo luật lệ. Các thần tức giận”.”Không tuân theo luật lệ nào?””Những luật đã được ấn định bởi những nhà quý phái”.”Làm sao để các thần nguôi giận?””Phải mặc một số thứ. Một số người mang các thứ chung quanh cổ. Những thứ này giúp chống lại ma quỷ.””Vị thần nào mà người ta sợ nhất?””Họ sợ tất cả các thần”.”Cô có biết tên vị thần nào không?”Tôi không biết tên. Tôi chỉ nhìn thấy họ thôi. Có một vị thần có thân như người nhưng đầu thú. Có một vị thần khác giống như mặt trời. Có một vị thần giống như con chim, vị thần này đen. Các vị thần quấn dây trên cổ”.

 

“Do you live through all this?”

“Yes, I do not die.”

“But members of your family do.” I remembered. “Yes . . . my father. My mother is okay.” “Your brother?” “My brother . . . he’s dead,” she remembered. “Why do you survive? Is there something particular about you? Something you’ve done?” “No,” she answered, then changed the focus. “I see something with oil in it.” “What do you see?” “Something white. It almost looks like marble. It’s . . . alabaster . . .some type of basin . . . they have oil in it. It’s used to anoint the heads. . ..” “. . . of the priests? “I added. “Yes.”

“Cô sống sót qua tất cả điều này?”

“Phải, Tôi không chết”.

“Nhưng những thân nhân của cô chết”. Tôi nhớ lại.”Phải, … cha tôi; Mẹ tôi không sao.””Anh cô?”” Anh tôi … anh ấy chết.” Cô ấy nhớ lại.”Tại sao cô sống sót? Có gì đặc biệt về cô không? Điều gì cô đã làm?””Không”, cô trả lời rồi thay đổi điểm trọng tâm. “Tôi hình như thấy thứ gì có dầu bên trong”.”Cô nhìn thấy gì?””Thứ gì trắng. Nó giống như đá hoa. Nó là … thạch cao tuyết hoa… một loại chậu nào đó… có dầu trong đó. Dầu để sức lên đầu…””… của các thầy tu.” Tôi nói thêm. “Phải”

 

“What is your function now?

Do you help with the oil?”

“No. I make the statues.”

“Is this in the same brown building?” “No . . . it’s later … a temple.” She looked distressed for some reason. “Is there a problem there for you?” “Somebody has done something in the temple that has angered the gods. I don’t know. . ..” “Was it you?” “No, no, … I just see priests. They are preparing some sacrifice, some animal . . . it’s a lamb. Their heads are bald. They have no hair on them at all, nor on their faces. . ..” She fell silent, and minutes slowly passed. Abruptly she became alert, as if she were listening to something. When she spoke, her voice was deep. A Master was present.

“Nhiệm vụ của cô là gì bây giờ?

Cô giúp xức đầu à?”

“Không. Tôi làm các bức tượng”.

“Có phải vẫn ở trong tòa nhà nâu không?””Không… sau này là một cái đền.” Trông cô như lo lắng vì lý do nào đó.”Cô có vấn đề gì ở đó?””Người nào đó đã làm gì ở trong đền làm các thần tức giận. Tôi không biết”.”Có phải là cô không?””Không, không … Tô ichỉ nhìn thấy những thầy tu. Họ đang sửa soạn lễ hiến tế, giết súc vật … giết cừu. Đầu họ hói. Không có tóc trên đầu họ, cũng chẳng có trên mặt họ…”Cô rơi vào im lặng, và ít phút trôi qua. Đột nhiên cô trở nên tỉnh táo hồ như cô nghe thấy gì đó. Khi cô nói, giọng cô sâu. Một Bậc Thầy hiện diện.

 

“It is on this plane that some souls are allowed to manifest themselves to the people who are still in physical form. They are allowed to come back . . . only if they have left some agreement unfulfilled. On this plane intercommunication is allowed. But the other planes. . .. This is where you’re allowed to use your psychic abilities and communicate with people in physical form. There are many ways to do this. Some are allowed the power of sight and can show themselves to the people still in physical form. Others have the power of movement and are allowed to telepathically move objects. You only go to this plane if it is useful for you to go there. If you have left an agreement that has not been fulfilled, you may choose to go here and communicate in some way. But that is all … to which the agreement must be fulfilled. If your life had been abruptly ended, this would be a reason for you to go to this plane. Many people choose to come here because they are allowed to see those who are still in physical form and very close to them. But not everyone chooses to have communication with these. To some people it may be too frightening.” Catherine fell silent and seemed to be resting. She began to whisper very softly.

“Chính trên bình diện này một số linh hồn được phép xuất hiện trước những người vẫn còn ở trong dạng thức thể chất. Họ được phép trở về… chỉ khi họ đã để lại một số giao kèo chưa hoàn tất. Trên bình diện này sự liên lạc với nhau được phép. Nhưng trên những bình diện khác … Đây là chỗ bạn được phép sử dụng khả năng tâm linh để truyền thông với người trong dạng thức thể chất. Có nhiều cách làm việc này. Một số được phép dùng thần nhãn và có thể hiện ra trước những người còn ở trong dạng thức thể chất. Những người khác có quyền năng hành động được phép dùng ngoại cảm để di chuyển đồ vật. Bạn chỉ có thể đi đến bình diện này nếu việc đi này hữu ích cho bạn khi đến đấy. Nếu bạn để lại giao kèo chưa được hoàn tất, bạn có thể quyết định đến đây và truyền thông một cách nào đó. Nhưng đó là tất cả những gì… mà giao kèo phải được hoàn tất. Nếu đời bạn đột nhiên bị chấm dứt, thì đó có thể là lý do để bạn đi đến bình diện này. Nhiều người chọn đến đây vì họ được phép nhìn thấy những người vẫn ở trong dạng thức thể chất và rất gần gũi với họ. Nhưng không phải mọi người đều chọn cách truyền thông với những người này. Với một số người, việc này có thể quá sợ hãi.” Catherine rơi vào im lặng và dường như đang nghỉ ngơi. Cô bắt đầu thì thào rất dịu dàng.

 

“I see the light.”

“Does the light give you energy?” I asked.

“It’s like starting over . . . it’s a rebirth.”

“How can people in physical form feel this energy? How can they tap into it and be recharged?” “By their minds,” she answered softly. “But how do they reach this state?” “They must be in a very relaxed state. You can renew through light . . . through light. You must be very relaxed so you no longer are expending energy, but you are renewing yours. When you sleep you get renewed.” She was in her superconscious state, and I decided to expand the questioning.

“Tôi nhìn thấy ánh sáng”

Tôi hỏi, “Có phải ánh sáng này cho cô năng lượng phải không?”

“Nó giống như bắt đầu lại … nó là một sự tái sinh”.

“Làm sao người trong dạng thức thể chất cảm thấy năng lượng này? Làm sao họ có thể kết nối với nó và được nạp lại năng lượng?”Cô trả lời dịu dàng, “Bằng tâm họ”.”Làm sao họ có thể tiến tới trạng thái này?” “Họ phải ở trong trạng thái rất thoải mái. Bạn có thể hồi phục lại do ánh sáng … do ánh sáng. Bạn phải hết sức thoải mái cho nên bạn không còn tiêu thụ năng lượng, nhưng bạn đang tự hồi phục lại. Khi bạn ngủ, bạn hồi phục lại”. Cô đang ở trong trạng thái siêu thức và tôi quyết định mở rộng câu hỏi.

 

“How many times have you been reborn?” I asked.

“Have they all been here in this environment, the earth, or elsewhere as well?” “No,” she answered, “not all here.”

“What other planes, what other places, do you go to?”

“I have not finished what I have to do here. I cannot move on until I’ve experienced all of life, and I have not. There will be many lifetimes … to fulfill all of the agreements and all of the debts that are owed.”

Tôi hỏi, “Cô đã tái sinh bao nhiêu lần?

Tất cả những lần tái sinh đều ở đây, trong môi trường này, trái đất, hay ở nơi nào khác?”Cô trả lời, “Không, không phải tất cả ở đây”.”Ở bình diện nào, bình diện nào, cô đến?””Tôi chưa làm xong việc tôi phải làm tại đây. Tôi không thể đi tiếp cho đến khi tôi đã trải nghiệm tất cả sự sống, và tôi chưa trải nghiệm xong. Sẽ có nhiều kiếp sống … để hoàn thành tất cả những giao kèo và tất cả những nợ nần thiếu”.

 

“But you are making progress,” I observed.

“We always make progress.”

“How many times have you been through lifetimes on the earth?”

“Eighty-six.”

“Yes.”

“Do you remember them all?”

“I will, when it is important for me to remember them.” We had experienced either fragments or major portions of ten or twelve lives, and, lately these had been repeating. Apparently, she had no need to remember the remaining seventy-five or so lifetimes. She had indeed made remarkable progress, at least in my terms. What progress she made from here, from this point, might not depend on the recollection of lifetimes. Her future progress might not even depend on me or my help. She began to whisper softly again.

Tôi nhận xét, “Nhưng cô đang có tiến bộ”.

“Chúng ta luôn luôn có tiến bộ”.

“Đã bao nhiêu lần cô đã có kiếp sống trên trái đất?”

“Tám mươi sáu”.

“Tám mươi sáu?”

“Phải”.

“Cô có nhớ tất cả những kiếp sống này không?””Tôi sẽ nhớ, khi điều đó là quan trọng đối với tôi để nhớ lại những kiếp sống ấy”. Chúng ta đã trải nghiệm hoặc những mảnh vụn hoặc những phần chính của mười hay mười hai kiếp sống, và sau này những kiếp sống đã được lặp lại. Hiển nhiên, cô không cần phải nhớ bẩy mươi sáu kiếp sống còn lại hay những kiếp sống ấy. Quả thực cô đã có những tiến bộ xuất sắc, ít nhất trong thời gian làm việc với tôi. Tiến bộ nào cô đã đạt được ở đây, từ điểm này, không lệ thuộc vào ký ức về các kiếp sống. Tiến bộ tương lai của cô có thể cũng không lệ thuộc vào tôi hay sự giúp đỡ của tôi. Cô lại bắt đầu thì thào nhè nhẹ.

 

“Some people touch the astral plane by using drugs, but they do not understand what they have experienced. But they have been allowed to cross over.” I had not asked her about drugs. She was teaching, sharing knowledge, whether I asked specifically or not. “Can’t you use your psychic powers to help you progress here?” I asked. “You seem to be developing these more and more.” “Yes,” she agreed. “It is important, but not so important here as it will be in the other planes. That is part of evolution and growth.” “Important to me and to you?” “Important to all of us,” she replied. “How do we develop these faculties?” “You develop through relationships. There are some with higher powers who have come back with more knowledge. They will seek out those who need the development and help them.” She lapsed into a long silence. Leaving her superconscious state, she entered another lifetime.

“Một số người tiếp xúc bình diện thiên thể bằng cách dùng ma túy, nhưng họ không hiểu điều họ đã trải nghiệm. Nhưng họ đã được phép vượt qua. Tôi không hỏi cô về ma túy. Cô đang dạy, chia sẻ kiến thức, dù tôi hỏi cụ thể hay không.”Không thể sử dụng sức mạnh tâm linh của cô để giúp cô tiến bộ ở đây?”, tôi hỏi, “Cô dường như phát triển sức mạnh này càng ngày càng nhiều”. Cô đồng ý, “Đúng, quan trọng, nhưng không quá quan trọng ở đây như sẽ ở trên các bình diện khác. Đây chỉ là một phần của tiến hóa và phát triển”. “Quan trọng cho tôi và cho cô?”Cô đáp lại, “Quan trọng cho tất cả chúng ta”.”Làm sao chúng ta pháttriển khảnăng này?””Ông phát triển qua những mối quan hệ. Có một số người có quyền năng cao hơn đã trở lại với nhiều kiến thức hơn. Họ sẽ tìm ra những người cần sự phát triển và giúp những người này”. Cô lại rơi vào im lặng rất lâu. Rời bỏ trạng thái siêu thức cô lại đi vào một kiếp khác.

 

“I see the ocean.

I see a house near the ocean. It’s white.

The ships come and go from the port. I can smell the sea-water.”

“Are you there?”

“Yes.”

“What is the house like?” “It is small. It has some type of tower on the top … a window where you might look out onto the sea. It has some type of telescope. It’s brass, wood and brass.” “Do you use this telescope?” “Yes, to look for the ships.” “What do you do?” “We report the merchant vessels when they come into port.” I remembered she had done this in another past lifetime, when she was Christian, the sailor whose hand was wounded during a naval battle.

“Tôi nhìn thấy đại dương. Tôi nhìn thấy một ngôi nhà gần đại dương. Nhà trắng. Tầu bè đi lại ở hải cảng. Tôi ngửi thấy mùi nước biển”.

“Cô ở đấy phải không?”

“Đúng vậy”.

“Cái nhà ấy trông thế nào?””Nó nhỏ thôi.Có một loại tháp nào đó ở trên nóc… một cái cửa sổ có thể nhìn ra ngoài nhìn ra biển. Có một kính viễn vọng nào đó. Nó bằng đồng, gỗ và đồng.””Cô có sử dụng kính viễn vọng này không?””Có, để theo dõi tầu bè.””Cô làm gì?””Chúng tôi báo cáo về các thương thuyền khi chúng vào hải cảng”. Tôi nhớ cô đã làm việc này ở một tiền kiếp, khi cô là Christian, người thủy thủ có tay bị thương trong một trận thủy chiến.

 

“Are you a sailor?” I asked, looking for confirmation.

“I don’t know . . . maybe.”

“Can you see what you’re wearing?”

“Yes. Some type of white shirt and brown short pants and shoes with big buckles. … I am a sailor later in my life, but not now.” She could see into her future, but the act of doing so caused her to jump ahead to that future. “I’m hurt,” she winced, writhing in agony. My hand is hurt.” She was indeed Christian, and she was again reliving the sea battle. ^^ “Was there an explosion?” “Yes . . . I smell gunpowder!” “You will be all right,” I reassured her, already knowing the outcome. “Many people are dying!” She was still agitated. “The sails are torn… part of the port side has been blown away.” She was scanning the ship for damage. “We must repair the sails. They must be repaired.”

“Cô có phải là thủy thủ không?” Tôi hỏi chờ đợi sự xác nhận.

“Tôi không biết … có thể”.

“Cô có thể nhìn cô ăn mặc thế nào không?”

“Có. Một loại áo sơ mi trắng quần sọc nâu và giầy có nút thắt lớn… Tôi là thủy thủ ở cuối đời, chứ không phải bây giờ”. Cô có thể nhìn về tương lai nhưng hành động này khiến cô nhẩy đến tương lai đó. “Tôi bị thương”, cô co rúm lại, quằn quại trong cơn đau. Tay tôi bị thương. Quả thực cô là Christian, và cô đang sống lại trận thủy chiến. “Có một tiếng nổ?””Phải… tôi ngửi thấy mùi thuốc súng!””Cô sẽ không sao cả”. Tôi trấn an cô vì đã biết hậu quả. “Nhiều người đang chết!” Cô vẫn còn khích động. “Buồm bị rách … một phần của hải cảng bị phá hủy”. Cô đang chăm chú xem thiệt hại của con thuyền. “Chúng tôi phải sửa lại buồm. Buồm phải được sửa chữa”.

 

“Do you recover?” I asked.

“Yes. It’s very difficult to stitch the fabric on the sails.”

“Are you able to work with your hand?”

“No, but I’m watching others . . . sails. They’re made of canvas, some type of canvas, very hard to stitch. . .. Many people are dead. They have much pain.” She winced. “What is it?” “This pain . . . in my hand.” “Your hand heals. Go ahead in time. Do you sail again?” “Yes.” She paused. “We are in South Wales. We must defend the coastline.” “Who is attacking you?” “I believe they are Spanish . . . they have a large fleet.” “What happens next?” “I just see the ship. I see the port. There are shops. In some of the shops they make candles. There are shops where they buy books.”

Tôi hỏi, “Cô đã bình phục chưa?”

“Vâng, khâu vải trên những cột buồm thật là khó”.”Cô có thể làm bằng tay của cô không?”

“Không, nhưng tôi đang quan sát những người khác… những cánh buồm. Buồm làm bằng vải bạt, loại vải bạt nào đó, rất khó khâu… Nhiều người đã chết. Họ đau đớn nhiều.” Cô co rúm người lại. “Cái gì thế?””Đau này … ở tay tôi”.”Tay cô lành rồi. Hãy tiến xa hơn. Cô có đi biển nữa không?””Có” Cô ngưng. “Chúng tôi đang ở phía Nam Wales. Chúng tôi phải bảo vệ bờ biển”.”Ai tấn công? “Tôi tin là người Tây Ban Nha.. Họ có chiến thuyền lớn”.”Cái gì sẽ xẩy ra?””Tôi chỉ nhìn thấy con tàu. Tôi nhìn thấy hải cảng. Có những cửa hàng. Ở một số cửa hàng, họ làm nến. Có những cửa hàng bán sách.”

 

“Yes. Do you ever go in the book shops?”

“Yes. I like them very much. The books are wonderful . . . I see many books. The red one is with history. They are written about towns …the land. There are maps. I like this book. . .. There’s a shop where they have hats.” “Is there a place where you drink?” I remembered Christian’s description of the ale. “Yes, there are many,” she responded. “They serve ale … very dark ale … with some type of meat . . . some mutton and bread, very large bread. The ale is very bitter, very bitter. I can taste it. They have wine, too, and long wooden tables. …”

“Vâng. Cô có bao giờ vào tiệm sách không?”

“Có. Tôi rất thích những tiệm sách này. Những sách thật là tuyệt vời… Tôi nhìn thấy nhiều sách. Cuốn sách đỏ là lịch sử. Sách viết về những thành phố… đất đai. Có những bản đồ. Tôi thích cuốn sách này… Có cửa hàng bán mũ”. Tôi nhớ đến Christian mô tả về bia, “Có nơi nào ở đấy cô uống rượu không?” Cô đáp, “Có rất nhiều. Họ bán bia… bia mầu rất sẫm… với loại thịt nào đó… loại thịt cừu và bánh, bánh rất lớn. Bia rất đắng, rất đắng. Tôi có thể nếm thấy. Họ cũng có cả rượu vang và những bàn gỗ dài. “

 

I decided to call her by name, to see her responses. “Christian,” I called emphatically. She answered loudly, without hesitation. “Yes! What do you want? ” “Where is your family, Christian?” “They are in an adjacent town. We sail from this port.” “Who is in your family?” * “I have a sister … a sister, Mary.” “Where is your girlfriend?” “I don’t have one. Just the women in the town.” “Nobody special?” “No, just the women … I returned to sailing. I fight in many battles, but I am safe.”

Tôi quyết định gọi cô bằng tên, để xem phản ứng. “Christian”. Tôi gọi lớn Cô trả lời lớn tiếng, không lưỡng lự. “Có! Ông muốn gì?””Christian, gia đình anh ở đâu?””Họ đang ở một thành phố gần kề. Chúng tôi ra khơi từ hải cảng này”.”Có những ai trong gia đình anh?”

“Tôi có một người chị…một người chị, Mary”.”Bạn gái của anh ở đâu?””Tôi không có bạn gái. Chỉ là những phụ nữ trong thành phố”.”Không ai đặc biệt?””Không, chỉ là phụ nữ… Tôi lại ra khơi. Tôi đã đánh nhiều trận, nhưng tôi không sao cả”.

 

“You grow old. . ..” “Yes.”

“Do you ever marry?”

“I believe so. I see a ring.” “Do you have children?” “Yes. My son will also sail. . .. There’s a ring, a ring with a hand. It’s a hand holding something. I can’t see what. The ring is a hand; it’s a hand clasping something.” Catherine began to gag. “What’s wrong?” “The people on the ship are sick . . . it’s from the food. We’ve eaten some food that is bad. It’s salt pork.” Her gagging continued. I took her ahead in time, and the gagging ceased. I decided not to progress her through Christian’s heart attack again. She was already exhausted, and so I brought her out of the trance.

” Anh đã già …””Vâng”

“Anh đã bao giờ lấy vợ chưa?

“Tôi tin là đã. Tôi nhìn thấy cái nhẫn”.”Anh có con không?”Có. Con trai tôi cũng sẽ đi biển… Có một cái nhẫn, một cái nhẫn với một bàn tay. Bàn tay cầm thứ gì đó. Tôi không nhìn thấy nó là cái gì. Cái nhẫn là bàn tay, một bàn tay nắm chặt cái gì đó”. Catherine bắt đầu nôn ọe.”Có việc gì không ổn?””Người trên thuyền đều bệnh… bệnh do đồ ăn. Chúng tôi đã ăn đồ ăn xấu, Thịt lợn muối”. Cô tiếp tục nôn ọe. Tôi đưa cô ra khỏi thời gian ấy, và sự nôn ọe ngưng hẳn. Tôi quyết định không tiếp tục với cô qua bệnh đau tim của Christian nữa. Cô đã kiệt sức rồi, và tôi đưa cô ra khỏi hôn mê.

 

Sources:

Tài liệu tham khảo:

  1. https://tienvnguyen.net/a2066/tien-kiep-va-luan-hoi-co-that-khong-many-lives-many-masters-
  2. https://tienvnguyen.net/images/file/Wful-wTe1ggQAFce/manylivesmanymasters.pdf
  3. https://tienvnguyen.net/images/file/sLziGUbf1ggQALdp/tienkiepvaluanhoicothatkhong.pdf