Chapter 12– Tiền Kiếp Và Luân Hồi Có Thật Không? – Many Lives, Many Masters – Song ngữ

English: Dr. Brian L. Weiss.

Việt ngữ: Thích Tâm Quang.

Compile: Lotus group.

 

Chapter 12 – Tiền Kiếp Và Luân Hồi Có Thật Không? – Many Lives, Many Masters

Three and a half months had passed since our first hypnosis session. Not only had Catherine’s symptoms virtually disappeared, but she had progressed beyond merely being cured. She was radiant, with a peaceful energy around her. People were drawn to her. When she ate breakfast in the hospital cafeteria, both men and women would rush to join her. “You look so beautiful; I just wanted to tell you that,” they would say. Like a fisher, she would reel them in on an invisible psychic line. And she had been eating unnoticed in the same cafeteria for years.

Ba tháng rưỡi qua đi từ buổi thôi miên đầu tiên. Không những triệu chúng của Catherine thực sự biến hẳn, mà cô còn tiến bộ vượt qua cả việc chữa khỏi bệnh. Cô rạng rỡ với một sinh lực an lạc chung quanh cô. Cô lôi cuốn mọi người. Khi cô ăn điểm tâm tại quán Cà Phê ở bệnh viện, cả nam lẫn nữ đổ xô đến gặp cô. “Cô trông thật đẹp; tôi chỉ muốn nói với cô điều đó thôi” họ nói như vậy. Giống như người câu cá, cô muốn lôi họ vào con đường tâm linh vô hình. Không ai để ý và cô đã đến ăn tại quán cà phê này nhiều năm qua.

 

As usual, she sank quickly into a deep hypnotic trance in my dimly lit office, her blond hair spilling over in rivulets on the familiar beige pillow.

Như thường lệ cô chìm nhanh vào hôn mê thôi miên sâu trong phòng mạch không mấy sáng của tôi, mớ tóc vàng hoe của cô xìa từng cụm tỏa xuống chiếc gối quen thuộc mầu be.

 

Danes Moor, Northampton shire, England site of the battle.

“I see a building . . . it’s made out of stone. And there’s something pointed on the top of it. It’s in a very mountainous area. It’s very damp . . . it’s very damp outside. I see a wagon. I see a wagon going by … the front. The wagon has hay in it, some kind of straw or hay or something for the animals to eat. There are some men there. They’re carrying some type of banners, something flying on the end of a stick. Very bright colors. I hear them talking about Moors . . . Moors. And a war that’s being fought. There’s some type of covering made of metal. The year is 1483 – Something about Danes. Are we fighting the Danes? Some war is being fought.”

“Tôi thấy một tòa nhà … tòa nhà này làm bằng đá. Và một cái gì nhọn trên nóc tòa nhà. Đây là một nơi có nhiều núi non. Rất ẩm thấp … rất ẩm thấp bên ngoài. Tôi nhìn thấy một cỗ xe. Tôi thấy một cỗ xe đi qua trước mặt. Toa xe có cỏ khô bên trong, một loại rơm hay cỏ khô hay một thứ gì đó cho súc vật ăn. Có một số người đàn ông ở đấy. Họ mang một loại cờ nào đó, một cái gì bay phấp phới ở đầu gậy. Mầu thật sáng. Tôi nghe thấy họ nói chuyện về Moors … Moors. Và cuộc chiến đang diễn ra. Có một loại kim khí nào đó, một thứ gì bằng kim loại chùm đầu họ… Một loại mũ chùm đầu làm bằng kim loại. Năm đó là 1483. Một thứ gì đó về người Đan Mạch. Phải chăng chúng ta đánh nhau với người Đan Mạch. Một cuộc chiến nào đó đang xẩy ra.”

 

“Are you there?” I questioned.

“I don’t see that,” she answered softly.

“I see the wagons.

They have two wheels on them, two wheels and an open back. They’re open; the sides are open with slats, some type of wooden slats held together. I see … something metal they wear around their necks . . .very heavy metal in the shape of a cross. But the ends are curved, the ends are round … on the cross. It’s the feast of some saint. … I see swords. They have some type of knife or sword . . . very heavy, very blunt end. They are preparing for some battle.” “See if you can find yourself,” I instructed. “Look around. Perhaps you’re a soldier. You’re seeing them from somewhere,”

Tôi hỏi, ” Cô có ở đấy không?”

Cô trả lời dịu dàng, “Tôi không nhìn thấy cái đó”.

Tôi nhìn thấy những cỗ xe.

Những cỗ xe này có hai bánh, hai bánh và cửa hậu. Những cỗ xe này lộ thiên, hai bên hông có song gỗ, một loại thanh gỗ cùng đóng vào với nhau. Tôi nhìn thấy … một thứ gì bằng kim loại họ đeo ở cổ… rất nặng có hình chữ thập, nhưng ở có cái đầu cong, các đầu tròn… trên hình chữ thập. Đó là ngày lễ của một vị thánh nào đó… Tôi nhìn thấy những thanh kiếm. Họ có một loại dao hay gươm nào đó … rất nặng, lưỡi rất cùn. Họ đang sửa sọan cho một trận chiến nào đó. “”Xem xem cô có thể tìm thấy chính cô không?”tôi chỉ thị. “Hãy nhìn chung quanh. Có lẽ cô là một người lính đấy. Cô đang nhìn họ từ ở một chỗ nào đó.”

 

“I’m not a soldier.” She was definite about this,

“Look around.” “I have brought some of the provisions. It’s a village, some village. “She was silent. “What do you see now?” “I see a banner, some type of banner. It’s red and white . . . white with a red cross.” “Is it the banner of your people?” I asked. “It’s the banner of the king’s soldiers,” she responded. “Is this your king?” “Yes.” “Do you know the king’s name?” “I don’t hear that. He’s not there.” “Can you look and see what you’re wearing? Look down and see what you’re wearing.” “Some type of leather. . . leather tunic over . . .over a very rough shirt. A leather tunic . . . it’s short. Some type of animal-skin shoes . . . not shoes, more like boots or moccasins. No one ‘stalking to me.”

“Tôi không phải là lính”. Cô quả quyết về việc này.

“Hãy nhìn chung quanh.””Tôi đã mang một số đồ tiếp tế. Đó là một cái làng, một cái làng nào đó”. Cô im lặng. “Bây giờ cô nhìn thấy gì?”Tôi thấy một lá cờ, một loại cờ nào đó. Nó đỏ và trắng … trắng có một cái hình chữ thập đỏ.”Tôi hỏi, “Có phải cái cờ ấy của dân tộc cô không?”

“Đó là cờ của binh lính nhà vua”, cô đáp lại. “Có phải vua của cô không?’”Phải””Cô có biết tên vị vua ấy không?”Tôi không nghe thấy. Ông ấy không ở đây.” “Cô hãy nhìn và xem cô đang mặc cái gì?” Hãy nhìn xuống và xem cô đang mặc gì.””Một loại da … một loại áo chẽn bằng da trên … trên một cái áo sơ mi rất thô. Một cái áo chẽn bằng da… nó ngắn. Một loại giầy bằng da thú vật … không phải là giầy, giống ủng hay những giầy da đanh hơn. Không ai nói chuyện với tôi cả.”

 

“I understand. What color is your hair?”

“It’s light, but I’m old, and there’s some gray to it.” “How do you feel about this war?” “It has become my way of life. I’ve lost a child in a previous skirmish.” “A son?” “Yes,” She was sad. “Who’s left for you? Who’s left in your family?” “My wife . . . and my daughter.” “What was your son’s name?” “I don’t see his name. I remember him. I see my wife.” Catherine had been both male and female many times. Childless in her present life, she had parented numerous children in her other lifetimes.

“Tôi hiểu. Tóc cô mầu gì?”

“Tóc thưa, vì tôi già rồi, tóc đã hoa râm rồi đó.”

“Cô cảm thấy thế nào về cuộc chiến tranh này?””Nó đã trở thành cách sống của đời tôi. Tôi đã mất một đứa con trong cuộc giao tranh nhỏ trước đây.””Một đứa con trai?””Phải”. Cô buồn rầu.”Cô còn ai? Cô còn ai trong gia đình?””Vợ tôi… và đứa con gái.””Tên đứa con trai là gì?””Tôi không thấy tên nó. Tôi nhớ nó. Tôi thấy vợ tôi .”Catherine vừa là nam vừa là nữ rất nhiều lần. Không con trong hiện kiếp, cô đã là cha mẹ của nhiều con vào những kiếp khác.

 

“What does your wife look like?”

“She’s very tired, very tired. She’s old. We have some goats.”

“Does your daughter still live with you?” “No, she is married and left some time ago.” “Are you alone, then, you and your wife?” “Yes.” “How is your life?” “We are tired. We are very poor. It has not been easy.” “No. You’ve lost your son. Do you miss him?” “Yes,” she answered simply, but the grief was palpable. “Have you been a farmer?” I changed the subject. “Yes. There’s wheat . . . wheat, something like wheat.” “Have there been many wars in your land, through your life, with much tragedy?” “Yes.” “But you have lived to be old.” “But they fight away from the village, not in the village,” she explained. “They must travel to where they do battle . . . over many mountains.”

“Trông vợ ông thế nào?”

“”Bà ấy rất mệt, rất mệt. Bà ấy già rồi. Chúng tôi có vài con dê.”

“Đứa con gái còn ở với ông không?””Không, nó đã lấy chồng và đã dọn đi khỏi nhà ít lâu nay.””Ông có cô đơn không, chỉ còn ông và vợ ông?””Phải.””Đời ông ra sao?””Chúng tôi rất mệt. Chúng tôi rất nghèo. Thật không dễ dàng.””Đúng. Ông đã mất đứa con trai. Ông có nhớ nó không?”Cô trả lời đơn giản, “Có” nhưng niềm đau buồn quá rõ ràng.Tôi đổi đề tài, “Ông có phải là nhà nông không?””Phải. Có lúa mạch … lúa mạch, thứ gì đó như lúa mạch.””Có phải có nhiều chiến tranh tại xứ ông không, trong suốt cuộc đời ông với nhiều thảm kịch?””Phải””Nhưng ông đã sống cho đến già”.”Nhưng họ đã đánh nhau ở ngoài làng chứ không phải trong làng”. Cô giải thích, “Họ phải di chuyển đến nơi họ đánh trận… qua nhiều núi non”.

 

“Do you know the name of the land that you live in? Or the town?”

“I don’t see it, but it must have a name. I don’t see it.” “Is this a very religious time for you? You see crosses on the soldiers.” “For others, yes. Not for me.” “Is anybody alive yet from the rest of your family, other than your wife and your daughter?” “No.” “Your parents have died?” “Yes.” “Brothers and sisters?” “I have a sister. She is alive. I don’t know her,” she added, referring to her life as Catherine. “Okay. See if you recognize anyone else in the village or your family. “If people did reincarnate in groups, she was likely to find someone there who was also significant in her current lifetime.

“Ông có biết địa danh nơi ông ở không? Hay thành phố?”

“Tôi không nhìn thấy, nhưng nó phải có tên. Tôi không nhìn thấy”.”Có phải là thời gian sùng đạo với ông không? Ông nhìn thấy hình chữ thập trên những người lính.””Với những người khác. Chứ không phải với tôi.””Có người nào còn sống trong gia đình ông ngoài vợ và con ông không?””Không””Cha mẹ ông chết cả rồi à? “Phải”.”Các anh và chị em?””Tôi có một người chị. Chị tôi còn sống. Tôi không biết chị ấy”, cô nói thêm, nhắc đến đời sống của chị ấy là Catherine. “Được rồi. Hãy kiểm tra xem ông có nhận ra được người nào khác trong làng hay gia đình”. Nếu người ta luân hồi cả nhóm, cô sẽ tìm thấy một người nào tại đấy, người này rất có ý nghĩa trong hiện kiếp của cô.

 

“I see a stone table … I see bowls.”

“Is this your house?”

“Yes. Something made out of ker . . . something yellow, something from corn … or something . . . yellow. We eat this. . ..” “All right,” I added, trying to quicken the pace. “This has been a very hard life for you, a very hard life. What are you thinking of?” “Horses,” she whispered. “Do you own horses? Or does somebody else?” “No, soldiers . . . some of them. Mostly they walk. But they’re not horses; they’re donkeys or something littler than horses. They are mostly wild.”

“Tôi nhìn thấy một cái bàn bằng đá… Tôi nhìn thấy những cái bát.”

“Có phải là nhà của ông không?””Phải. Cái gì đó làm bằng … thứ gì vàng, thứ gì đó từ ngô … hay thứ gì đó … vàng. Chúng tôi ăn cái này…””Được rồi” Tôi nói thêm, hãy cố gắng tăng nhịp độ. “Ông đã có một cuộc đời rất khó khăn, một cuộc đời rất khó khăn. Ông nghĩ như thế nào?”Cô thì thào , “Những con ngựa”.”Ông có ngựa không hay của người nào khác?””Không, những người lính… một số người lính. Hầu hết họ đi bộ. Nhưng không phải là ngựa, chúng là những con la hay những con gì đó nhỏ hơn ngựa. Hầu hết chúng chưa thuần”.

 

“Go ahead in time now,” I instructed.

“You’re very old.

Try to go to the last day in your lifetime as an old man.” “But I’m not very old,” she objected. She was not particularly suggestible in these past lives. What was happening was happening. I could not suggest away the actual memories. I could not get her to change the details of what had happened and been remembered. “Is there more to happen in this lifetime?” I asked, changing my approach. “It is important for us to know.” “Nothing of significance,” she answered without emotion. “Then, go ahead, go ahead in time. Let’s find out what you needed to learn. Do you know?” “No. I’m still there.” “Yes, I know. Are you seeing something?” A minute or two passed before she answered. “I’m just floating,” she whispered softly. “Have you left him now?” “Yes, I’m floating.” She had entered the spiritual state again. “Do you know now what you needed to learn? It was an-other hard lifetime for you.”

Tôi chỉ thị, “bây giờ hãy tiến xa hơn nữa”,

“Ông đã rất già rồi.

Hãy cố gắng tiến tới ngày cuối cùng trong kiếp này như một người già”. Cô phản đối “Nhưng tôi chưa già lắm.”Cô đặc biệt là không để lại ảnh hưởng trong những tiền kiếp này. Cái gì diễn ra là diễn ra. Tôi cũng không thể gợi ý cắt đứt những ký ức hiện tại. Tôi cũng không thể bảo cô thay đổi những chi tiết về cái đã xẩy ra và được nhớ lại. Tôi hỏi, thay đổi cách tiếp cận, “Còn gì nhiều nữa xẩy ra trong kiếp này? Rất quan trọng cho chúng tôi để biết”.”Không có gì quan trọng” Cô trả lời không xúc động.”Rồi, tiếp tục đi, tiến xa hơn nữa. Hãy tìm xem ông cần phải học cái gì. Ông biết không?””Không, Tôi vẫn còn ở đấy”. “Phải, tôi biết. Ông có nhìn thấy gì không?” Một phút hay hai phút trôi qua trước khi cô trả lời. Cô thì thào dịu dàng, “Tôi đang trôi lơ lửng.””Bây giờ cô đã rời bỏ ông ấy?””Phải, tôi đang bềnh bồng lơ lửng”. Cô lại vào trạng thái tinh thần. “Cô có biết cô cần phải học gì không? Đây là một kiếp khó khăn khác cho cô?

 

“I don’t know. I’m just floating.”

“Okay. Rest . . . rest.”

More minutes passed silently. Then she seemed to be listening to something. Abruptly she spoke. Her voice was loud and deep. This was not Catherine. “There are seven planes in all, seven planes, each one consisting of many levels, one of them being the plane of recollection. On that plane you are allowed to collect your thoughts. You are allowed to see your life that has just passed. Those of the higher levels are allowed to see history. They can go back and teach us by learning about history. But we of the lower levels are only allowed to see our own life . . . that has just passed.

“Tôi không biết. Tôi đúng là đang lơ lửng.”

“Được rồi. Hãy nghỉ ngơi, hãy nghỉ ngơi”.

Nhiều phút nữa trôi qua im lặng. Rồi dường như cô đang nghe thấy gì. Đột nhiên cô nói. Giọng cô to và sâu. Giọng này không phải của Catherine.”Có bẩy bình diện tất cả, bẩy bình diện, mỗi bình diện gồm có nhiều mức độ, một trong chúng là bình diện về ký ức. Trên bình diện này, bạn được phép thu thập các tư tưởng. Bạn được phép thấy đời sống của mình vừa mới qua đi. Những người ở mức độ cao hơn được phép xem lịch sử. Họ có thể trở lại dạy chúng ta biết về lịch sử. Nhưng chúng ta ở mức độ thấp nên chỉ được phép xem đời mình … vừa mới qua đi.

 

“We have debts that must be paid.

If we have not paid out these debts, then we must take them into another life … in order that they may be worked through. You progress by paying your debts. Some souls progress faster than others. When you’re in physical form and you are working through, you’re working through a life. … If something interrupts your ability … to pay that debt, you must return to the plane of recollection, and there you must wait until the soul you owe the debt to has come to see you. And when you both can be returned to physical form at the same time, then you are allowed to return. But you determine when you are going back. You determine what must be done to pay that debt. You will not remember your other lives . . . only the one you have just come from. Only those souls on the higher level-the sages-are allowed to call upon history and past events . . . to help us, to teach us what we must do.

“Chúng ta có nợ phải trả.

Nếu chúng ta không trả nợ xong, chúng ta phải mang những món nợ này vào kiếp khác … để chúng có thể được biết kết quả. Bạn tiến bộ bằng cách trả nợ. Một số linh hồn tiến bộ nhanh hơn những linh hồn khác. Khi bạn ở trong dạng thể chất, và bạn lao động liên miên, lao động suốt đời … Nếu điều gì đó làm bạn mất khả năng… trả nợ, bạn phải quay về bình diện của ký ức, và tại đấy bạn phải chờ đợi cho đến khi linh hồn mà bạn thiếu nợ đến gặp bạn. Và khi cả hai đều quay trở về dạng thức thể chất vào cùng một thời điểm, thì bạn được phép trở về. Nhưng bạn quyết định thời gian bạn sẽ trở về. Bạn quyết định làm gì để trả nợ đó. Bạn sẽ không nhớ được những kiếp khác… chỉ nhớ được một kiếp mà bạn vừa trở về. Chỉ những linh hồn ở mức độ cao hơn – những nhà hiền triết – được phép nhớ lịch sử và những biến cố ở quá khứ… để giúp chúng ta, dạy chúng ta điều ta phải làm.

 

  Esoteric Cosmology – Planes of Existence and Consciousness.

 

“There are seven planes . . .

Seven through which we must pass before we are returned.

One of them is the plane of transition. There you wait. In that plane it is determined what you will take back with you into the next life. We will all have … a dominant trait. This might be greed, or it might be lust, but whatever is determined, you need to fulfill your debts to those people. Then you must overcome this in that lifetime. You must learn to overcome greed. If you do not, when you return you will have to carry that trait, as well as another one, into your next life. The burdens will become greater. With each life that you go through and you did not fulfill these debts, the next one will be harder. If you fulfill them, you will be given an easy life. So, you choose what life you will have. In the next phase, you are responsible for the life you have. You choose it.” Catherine fell silent.

“Có bẩy bình diện…

Bẩy bình diện mà ta phải qua trước khi chúng ta trở về.

Một trong bẩy bình diện này là một bình diện chuyển tiếp. Nơi đó chúng ta phải chờ. Trong bình diện đó có sự quyết định về những gì bạn sẽ mang theo với bạn vào kiếp sống kế tiếp. Chúng ta tất cả đều có … điểm trội. Điều này có thể là tham lam hay có thể là khát vọng, nhưng bất cứ cái gì được quyết định, thì bạn cần phải trả xong nợ cho những người này. Rồi bạn phải vượt qua điều này trong hiện kiếp. Bạn phải học hỏi để vượt qua tham lam. Nếu không khi bạn trở về bạn phải mang theo với bạn đặc điểm đó, cũng như đặc điểm khác vào kiếp sống kế tiếp. Gánh nặng sẽ trở nên nặng hơn. Với mỗi kiếp sống mà bạn trải qua và bạn không trả xong nợ, kiếp sống kế tiếp sẽ khó khăn hơn. Nếu bạn trả hết nợ, bạn sẽ đạt được một kiếp sống dễ dàng. Cho nên bạn chọn kiếp sống nào bạn sẽ có. Trong giai đoạn kế tiếp, bạn chịu trách nhiệm về đời sống bạn có. Bạn chọn đời sống đó”. Catherine rơi vào im lặng.

 

This was apparently not from a Master.

He identified himself as “we of the lower levels,” in comparison with those souls on the higher level “the sages.” But the knowledge transmitted was both clear and practical. I wondered about the five other planes and their qualities. Was the stage of renewal one of those planes? And what about the learning stage and the stage of decisions? All of the wisdom revealed through these messages from souls in various dimensions of the spiritual state was consistent. The style of delivery differed, the phraseology and grammar differed, the sophistication of verse and vocabulary differed; but the content remained coherent. I was acquiring a systematic body of spiritual knowledge. This knowledge spoke of love and hope, faith and charity. It examined virtues and vices, debts owed to others and to one’s self. It included past lifetimes and spiritual planes between lives. And it talked of the soul’s progress through harmony and balance, love and wisdom, progress toward a mystical and ecstatic connection with God.

Việc này hiển nhiên không phải từ các Bậc Thầy. Ông ta tự nhận diện mình là “chúng ta thuộc về mức độ thấp” so sánh với những linh hồn có mức độ cao -“những nhà hiền triết”. Nhưng kiến thức được truyền đạt vừa rõ ràng vừa thực tiễn. Tôi băn khoăn về năm bình diện kia và những đặc tính của nó. Giai đoạn tái sinh có phải là một trong những bình diện này? Và giai đoạn học hỏi và giai đoạn quyết định là thế nào? Tất cả trí tuệ được tiết lộ qua những thông điệp này từ những linh hồn ở các phương chiều thuộc về trạng thái tinh thần rất nhất quán. Văn phong truyền đạt khác nhau, cách nói và cú pháp khác nhau, sự sành điệu trong thơ ca và ngữ vững khác nhau; nhưng nội dung vẫn mạch lạc. Tôi đang thụ đắc một khối lượng lớn có hệ thống về kiến thức tinh thần. Kiến thức này nói về tình thương yêu và hy vọng, niềm tin và lòng nhân đức. Nó khảo sát đức hạnh và tật xấu, thiếu nợ người khác và của chính mình. Nó gồm có những kiếp sống đã qua và những bình diện tinh thần giữa các kiếp sống. Và nó nói về sự tiến bộ của linh hồn do hòa hợp và quân bình, tình thương yêu và trí tuệ, tiến tới mối liên hệ huyền bí và xuất thần với Thượng Đế.

 

There was much practical advice along the way: the value of patience and of waiting; the wisdom in the balance of nature; the eradication of fears, especially the fear of death; the need for learning about trust and forgiveness; the importance of learning not to judge others, or to halt anyone’s life; the accumulation and use of intuitive powers; and, perhaps most of all, the unshakable knowledge that we are immortal. We are beyond life and death, beyond space and beyond time. We are the gods, and they are us.

Có nhiều lời khuyên thực tiễn trên cùng phương diện: Giá trị của kiên nhẫn và chờ đợi; sự thông thái trong sự quân bình của thiên nhiên; sự loại bỏ sợ hãi, nhất là sợ hãi về cái chết; nhu cầu của học hỏi về lòng tin cậy và vị tha, tầm quan trọng của việc không phán xét người khác hay ngăn cản đời sống của người khác; tích lũy và sử dụng khả năng trực giác; và có lẽ quan trọng hơn cả là kiến thức bất di bất dịch rằng chúng ta bất tử. Chúng ta vượt qua sự sống và cái chết, vượt qua không gian và thời gian. Chúng ta là những thượng đế, và thượng đế là chúng ta.

 

“I’m floating,” Catherine was whispering softly.

“What state are you in?” I asked.

“Nothing . . . I’m floating. . .. Edward owes me something … he owes me something.” “Do you know what he owes you?” “No. . . . Some knowledge … he owes me. He had something to tell me, maybe about my sister’s child.” “Your sister’s child?” I echoed. “Yes . . . it’s a girl. Her name is Stephanie.” “Stephanie? What do you need to know about her?” “I need to know how to get in touch with her,” she answered. Catherine had never mentioned anything to me about this niece.

Catherine đang thì thào dịu dàng, “Tôi đang trôi lơ lửng.

“Tôi hỏi, “Cô ở trạng thái nào?”

“Không có gì … Tôi đang trôi lơ lửng… Edward nợ tôi cái gì đó… Ông ta thiếu tôi thứ gì đó”.”Cô có biết ông ta nợ gì cô không?””Không … một số kiến thức … ông ta nợ tôi. Ông có điều gì nói với tôi, có lẽ về đứa con của chị tôi.”Tôi lặp lại, “Đứa con của chị tôi?””Phải … Nó là đứa con gái. Tên nó là Stephanie””Stephanie? Cô cần biết gì về nó?”Cô trả lời, “Tôi cần biết cách tiếp xúc với nó”. Catherine chưa bao giờ nói gì với tôi về cháu cô.

 

“Is she very close to you?” I asked.

“No, but she’ll want to find them.

“Find who?” I questioned. I was confused. “My sister and her husband. And the only way she can do that is through me. I’m the link. He has information. Her father is a doctor; he’s practicing somewhere in Vermont, the southern part of Vermont. The information will come to me when it’s needed.” I later learned that Catherine’s sister and her sister’s future husband had put their infant daughter up for adoption. They were teenagers at that time, and they were not yet married. The adoption was arranged by the Church. There was no information available after that time.

Tôi hỏi, “Nó có thân thiết với cô không?”

“Không, nhưng nó muốn tìm họ.”Tôi hỏi,

“Tìm ai?” Tôi bối rối. “Chị tôi và người chồng. Và cách duy nhất là nhờ tôi. Tôi là mối liên lạc. Ông ta có tin tức. Cha nó là một bác sĩ, và đang hành nghề tại một nơi nào đó ở Vermont, phía nam Vermont. Tin tức đến với tôi khi cần thiết”. Sau này tôi được biết chị của Catherine và người chồng tương lai đã đem đứa con gái của họ cho người ta nuôi. Vào lúc đó họ là trẻ vị thành niên và chưa cưới nhau. Việc cho con làm con nuôi được nhà thờ thu xếp. Không có tin tức gì nữa sau thời gian này.

 

“Yes,” I agreed. “When it’s the right time.”

“Yes. Then he will tell me. He’ll tell me.”

“What other information does he have for you?” “I don’t know, but he has things to tell me. And he owes me something . . .something. I don’t know what. He owes me something.” She was silent. “Are you tired?” I asked. “I see a bridle” was her whispered reply. “Tackle on the wall. A bridle … I see a blanket lying on the outside of a stall.” “Is it a barn?” “They have horses there. They have many horses.” “What else do you see?” “I see many trees-with yellow flowers. My father is there. He takes care of the horses.” I realized I was talking to a child.

Tôi đồng ý, “Phải, khi nào thì đúng lúc?”

“Phải. Rồi ông ta sẽ nói với tôi. Ông ta sẽ nói với tôi”.

“Ông ta có tin tức gì khác cho cô biết không?””Tôi không biết, nhưng ông ta có những điều nói với tôi. Và ông ta thiếu tôi thứ gì đó … thứ gì đó. Tôi không biết thế nào. Ông ta thiếu tôi thứ gì đó”. Cô im lặng. Tôi hỏi, “Cô có mệt không?”Cô thì thào trả lời, “Tôi thấy bộ dây cương ngựa. Cột trên tường. Bộ dây cương … Tôi thấy một cái mền ở bên ngoài chuồng ngựa”. “Có phải là chuồng ngựa không?””Họ có ngựa tại đấy. Họ có nhiều ngựa”.”Ngoài ra cô nhìn thấy gì nữa?””Tôi nhìn thấy nhiều cây – với những bông hoa vàng. Cha tôi ở đấy. Ông săn sóc ngựa”. Tôi hiểu tôi đang nói chuyện với một đứa bé.

 

“What does he look like?”

“He’s very tall, with gray hair.”

“Do you see yourself?” “I’m a child … a girl.” “Does your father own the horses or just take care of them?” “He just takes care of them. We live nearby.” “Do you like horses?” “Yes.” “Do you have a favorite?” “Yes. My horse. His name is Apple.” I remembered her lifetime as Mandy, when a horse named Apple had also appeared. Was she again repeating a lifetime we had already experienced? Perhaps she was approaching it from another perspective.

“Trông ông ra sao?”

“Ông rất cao, với tóc muối tiêu.”

“Cô có nhìn thấy chính cô không?””Tôi là một đứa bé … một đứa con gái”.

“Cha cô là chủ ngựa hay ông chỉ là người săn sóc ngựa?””Ông chỉ là người săn sóc ngựa. Chúng tôi sống ở gần đấy.”Cô có thích ngựa không?””Có””Cô thích nhất con ngựa nào?””Có, Con ngựa của tôi. Tên nó là Apple (QuảTáo)”. Tôi nhớ lại kiếp sống mà cô có tên là Mandy khi con ngựa có tên là Apple xuất hiện. Phải chăng cô lại nhắc lại kiếp sống mà chúng ta đã trải nghiệm? Có lẽ cô đang tiếp cận kiếp này từ một cái nhìn khác.

 

“Apple . . . yes.

Does your father let you ride Apple?”

“No, but I can feed him things. He’s used for pulling the master’s wagon, pulling his carriage. He’s very big. He has big feet. If you’re not careful, he’ll step on you.” “Who else is with you?” “My mother is there. I see a sister . . . she’s bigger than me. I don’t see anyone else.” “What do you see now?” “I just see the horses.” “Is this a happy time for you?” “Yes. I like the smell of the barn.” She was being very specific, referring to that moment in time, in the barn. “Do you smell the horses?” ‘Yes.” “The hay?” “Yes . . . their faces are so soft. There are dogs there, too. . . black ones, some black ones and some cats . . . lots of animals. The dogs are used for hunting. When they hunt for birds, the dogs are allowed to go.”

“Apple… phải.

Cha cô có cưỡi con Apple của cô không?”

“Không, nhưng tôi có thể cho nó ăn các thứ. Nó thường kéo cỗ xe của ông hiệu trưởng, kéo xe ngựa. Nó rất to lớn. Chân nó to. Nếu ông không cẩn thận, nó có thể giẫm lên chân ông.””Còn ai nữa không?””Mẹ tôi ở đấy. Tôi thấy một người chị… Chị tôi to lớn hơn tôi. Tôi không nhìn thấy người nào khác”.”Bây giờ cô nhìn thấy gì không?””Tôi chỉ nhìn thấy ngựa”.”Đây là thời gian hạnh phúc của cô phải không?””Phải. Tôi thích mùi chuồng ngựa”. Cô rất rõ ràng, đề cập đúng lúc đến thời gian ở chuồng ngựa.”Cô có ngửi thấy mùi ngựa không?”‘Có””Mùi cỏ khô?””Có… mặt chúng rất dịu dàng. Cũng có những con chó tại đấy, chó đen, vài con chó đen và vài con mèo … nhiều súc vật. Chó dùng để đi săn. Khi họ săn chim, chó được phép đi theo.”

 

“Does anything happen to you?”

“No.” My question was too vague.

“Do you grow up on this farm?” “Yes. The man who is taking care of the horses.” She paused. “He’s not really my father.” I was confused. “He’s not your real father?” “I don’t know, he’s . . . he’s not my real father, no. But he is like a father to me. He’s a second father. He is very good to me. He has green eyes.”

“Có điều gì xẩy ra cho cô?”

“Không”. Câu hỏi của tôi quá mơ hồ.

“Cô lớn lên tại nông trại này phải không?””Phải. Người đàn ông săn sóc ngựa”. Cô ngưng. “Ông ta không phải thực là cha tôi.” Tôi bối rối.”Ông ấy không phải thực sự là cha cô sao?””Tôi không biết … ông ta không phải thực là cha tôi. Nhưng ông giống như là cha tôi. Ông là người cha thứ hai. Ông rất tốt với tôi. Mắt ông xanh”.

 

“Look in his eyes-green eyes-and see if you can recognize him.

He’s good to you. He loves you.” “He’s my grandfather . . . my grandfather. He loved us very much. My grandfather loved us very much. He used to take us out with him all the time. We used to go with him to where he would drink. And we could get sodas. He liked us.” My question had jolted her out of that lifetime into her observing, superconscious state. She was viewing Catherine’s life now and her relationship with her grandfather.

Hãy nhìn vào mắt ông – mắt xanh – và xem cô có nhận ra ông.

Ông ta rất tốt với cô. Ông ta thương yêu cô.””Ông là ông tôi … ông tôi. Ông yêu chúng tôi lắm. Ông tôi yêu chúng tôi lắm. Ông thường dẫn chúng tôi ra ngoài với ông. Chúng tôi thường đi với ông đến chỗ ông uống rượu. Và chúng tôi được uống nước ngọt. Ông thích chúng tôi”. Câu hỏi của tôi làm cô bật ra khỏi kiếp sống đó rơi vào trạng thái quan sát, siêu thức. Bây giờ cô đang xem đời sống của Catherine và mối quan hệ của cô với người ông cô.

 

“Do you still miss him?” I asked.

“Yes,” she answered softly.

“But you see he has been with you before.” I was explaining, trying to minimize her hurt. “He was very good to us. He loved us. He never hollered at us. He used to give us money and take us with him all the time. He liked that. But he died.” “Yes, but you’ll be with him again. You know that.” “Yes. I’ve been with him before. He was not like my father. They’re so different.” “Why does one love you so much and treat you so well, and the other one is so different?” “Because one has learned. He has paid a debt he has owed. My father has not paid his debt. He has come back . . . without understanding. He will have to do it again.”

Tôi hỏi, “Cô có nhớ ông không?

“Cô trả lời dịu dàng, “Có”

“Nhưng cô biết ông đã ở với cô trước đây.” Tôi đang giải thích cố gắng làm giảm bớt sự buồn đau của cô.”Ông rất tốt với chúng tôi. Ông yêu chúng tôi. Ông không bao giờ la rầy chúng tôi. Ông thường cho chúng tôi tiền và đưa chúng tôi đi chơi với ông. Ông thích như thế, nhưng ông chết.””Phải, nhưng cô sẽ lại được ở với ông. Cô biết điều đó.””Phải. Tôi đã ở với ông trước đây. Ông không giống như cha tôi. Họ khác biệt nhau rất nhiều.””Tại sao người này yêu cô nhiều và đối xử với cô rất tốt và người kia lại quá khác biệt?””Vì một người đã học hỏi. Người ấy đã trả nợ người ấy thiếu. Cha tôi không trả món nợ của mình. Ông đã trở lại … không có hiểu biết. Ông phải làm lại”

 

   The Gate Of Choice – The Seven Planes of Existence – C. W. Leadbeater

     There are seven Cosmic Planes. Humanity experiences on the lowest…

 

“Yes,” I agreed.

“He has to learn to love, to nurture.”

“Yes,” she answered.

“If they don’t understand this,” I added, “they treat children like property, instead of like people to love.” “Yes,” she agreed. “Your father still has to learn this.” “Yes.” “Your grandfather already knows. . ..” “I know,” she interjected. We have so many stages we go through when we’re in physical state . . . just like the other stages of evolution. We have to go through the infancy stage, the baby stage, the child stage. . .. We have so far to go before we reach . . . before we reach our goal. The stages in physical form are hard. Those in the astral plane – are easy. There we just rest and wait. These are the hard stages now.”

Tôi đồng ý,

“Đúng”, ông phải học hỏi yêu thương, dưỡng dục.

“Cô trả lời, “Phải”

“Nếu họ không hiểu biết điều này, tôi nói thêm, “họ coi trẻ con như tài sản, không biết yêu thương con người”. Cô đồng ý, “Đúng”.”Cha cô phải học hỏi điều này.””Phải””Ông cô đã biết rồi…”Cô xen vào, “Tôi biết”, Chúng ta trải qua nhiều giai đoạn khi chúng ta ở trạng thái thể chất… giống như những giai đoạn tiến hóa khác. Chúng ta phải đi qua giai đoạn ấu thơ, giai đoạn em bé, giai đoạn đứa trẻ… Chúng ta phải đi thật xa trước khi tiến tới… trước khi chúng ta tiến tới mục tiêu. Các giai đoạn trong dạng thể chất rất khó khăn. Những người trong bình diện thiên thể lại dễ dàng. Ở đấy chúng ta chỉ nghỉ ngơi và chờ đợi. Bây giờ đây là những giai đoạn khó khăn”

 

“How many planes are there in the astral state?”

“There are seven,” she answered.

“What are they,” I questioned, looking to confirm those beyond the two mentioned earlier in the session. “I’ve only been told two,” she explained. “The transition stage and the stage of recollection.” “Those are the two that I’m familiar with, also.” “We will know the others later.” “You have learned at the same time I did,” I observed. “We learned today about debts. It is very important.” “I will remember what I should remember,” she added enigmatically.

“Có bao nhiêu bình diện trong trạng thái thiên thể?

“Cô trảlời, “Có bẩy “Tôi hỏi,

“Những bình diện ấy thế nào, chú ý để xác nhận những bình diện vượt qua hai bình diện đã ghi trước đây trong buổi thôi miên. Cô giải thích, “Tôi chỉ được biết hai”. Giai đoạn chuyển tiếp và giai đoạn ký ức.””Những bình diện này là hai bình diện mà tôi quen thuộc”. “Sau này chúng ta sẽ biết những bình diện kia”.”Cô đã học hỏi cùng lúc như tôi”, tôi nhận xét.”Hôm nay chúng ta học về nợ nần. Việc này rất quan trọng”. “Tôi sẽ nhớ cái mà tôi nên nhớ”, cô nói thêm một cách khó hiểu.

 

“Will you remember these planes?” I inquired.

“No. They aren’t important to me.

They are important to you.” I had heard this before. This was for me. To help her, but more than that. To help me, but more than that, too. Yet I could not quite fathom what the greater purpose could be. “You seem to be getting so much better now,” I went on. “You are learning so much.” “Yes,” she agreed. “Why are people now so drawn to you? Attracted to you?” “Because I’ve been freed from so many fears, and I’m able to help them. They feel some psychic pull to me.” “Are you able to deal with this?” “Yes.” There was no question about it. “I’m not afraid,” she added. “Good, I will help you.” “I know,” she replied. “You’re my teacher.”

Tôi hỏi, “Cô sẽ nhớ những bình diện này chứ?”

“Không. Chúng không quan trọng với tôi.

Chúng quan trọng với ông”. Tôi đã nghe thấy điều này trước đây. Điều này là cho tôi. Để giúp cô, tuy còn nhiều hơn thế. Để giúp tôi, cũng còn nhiều hơn thế. Tuy tôi không thể hiểu đầy đủ mục đích to lớn hơn là gì.Tôi tiếp tục, “Dường như bây giờ cô đạt được nhiều điều tốt hơn?”, “Cô đang học nhiều.” “Đúng”, Cô đồng ý.”Tại sao bây giờ người ta bị lôi cuốn đến với cô? bị thu hút đến với cô? “Vì tôi đã thoát khỏi quá nhiều sợ hãi, và tôi có thể giúp họ. Họ cảm thấy một sự lôi kéo tâm linh đến với tôi.””Cô có thể giải quyết với việc này?””Được”. Không có vấn đề gì. “Tôi không sợ”. Cô nói thêm.”Tốt, Tôi sẽ giúp cô”. Cô trả lời, “Tôi biết, Ông là thầy của tôi”.

The Thirty-One Planes (bhuṃ) of Existence – The 31 planes are divided

into three separate levels or realms: Arupaloka, Rupaloka and Kamaloka.

 

– Buddhists believe in reincarnation, namely that all beings go through many cycles of birth, life, death and rebirth. Death is followed by immediate rebirth in one of the 31 planes of existence as a result of each being’s previous kamma. These 31 planes of existence comprise 20 planes of supreme deities (brahmas); 6 planes of deities (devas); the human plane (Manussa); and lastly 4 planes of deprivation or unhappiness (Apaya). The 31 planes are divided into three separate levels or realms: Arupaloka, Rupaloka and Kamaloka.

Phật tử tin vào luân hồi, tức là tất cả chúng sinh đều trải qua nhiều chu kỳ sinh, sống, chết và tái sinh. Tiếp theo cái chết là sự tái sinh ngay lập tức ở một trong 31 cõi hiện hữu do nghiệp trước của mỗi chúng sinh. 31 bình diện tồn tại này bao gồm 20 bình diện của các vị thần tối cao (brahmas); 6 bình diện của các vị thần (devas); cỏi người (Manussa); và cuối cùng là 4 cõi thiếu thốn hay bất hạnh (Apaya). 31 bình diện được chia thành ba cấp độ hoặc cảnh giới riêng biệt: Arupaloka (Vô sắc giới), Rupaloka (Sắc giới) và Kamaloka (Dục giới).

 

Sources:

Tài liệu tham khảo:

  1. https://tienvnguyen.net/a2066/tien-kiep-va-luan-hoi-co-that-khong-many-lives-many-masters-
  2. https://tienvnguyen.net/images/file/Wful-wTe1ggQAFce/manylivesmanymasters.pdf
  3. https://tienvnguyen.net/images/file/sLziGUbf1ggQALdp/tienkiepvaluanhoicothatkhong.pdf
  4. Photo 2: https://en.wikipedia.org/wiki/Battle_of_Edgcote
  5. Photo 3: http://mysticandesoteric.blogspot.com/2018/11/esoteric-cosmology-planes-of-existence.html
  6. Photo 4: https://www.pinterest.com/pin/460985711832400225/
  7. Photo 5: https://www.pinterest.com/pin/475692779364144831/