Chapter 11– Tiền Kiếp Và Luân Hồi Có Thật Không? – Many Lives, Many Masters – Song ngữ

English: Dr. Brian L. Weiss.

Việt ngữ: Thích Tâm Quang.

Compile: Lotus group.

Chapter 11 – Tiền Kiếp Và Luân Hồi Có Thật Không? – Many Lives, Many Masters

Several nights later I was jolted awake from a deep sleep. Instantly alert, I had a vision of Catherine’s face, several times larger than life-size. She looked upset, as if she needed my help. I looked over at the clock; it was 3:36 a.m. There had been no outside noises to awaken me. Carole was sleeping peacefully beside me. I dismissed the incident and fell back to sleep.

Vài đêm sau đó, trong một giấc ngủ say, tôi choàng tỉnh dạy. Tỉnh táo ngay, tôi dường như nhìn thấy khuôn mặt của Catherine to hơn mặt thật của cô vài lần. Trông cô buồn bã như thể cần tôi giúp đỡ cô. Tôi nhìn vào đồng hồ, lúc đó là 3 giờ 30 phút sáng. Không có một tiếng động bên ngoài nào làm tôi tỉnh dạy cả. Carole ngủ an bình bên tôi. Tôi xua đuổi việc bất ngờ này và ngủ lại.

 

At about 3:30 that same morning, Catherine had awakened in a panic from a nightmare. She was sweating and her heart was racing. She decided to meditate to relax, visualizing my hypnotizing her in the office. She pictured my face, heard my voice, and gradually fell back to sleep.

Cũng đúng vào 3 giờ 30 sáng đó, Catherine tỉnh dậy sau cơn ác mộng hãi hùng. Cô toát mồ hôi và tim cô đập thình thịch. Cô quyết định trầm ngâm để bớt căng thẳng, mường tượng đến lúc thôi miên tại phòng mạch. Cô hình dung khuôn mặt tôi, nghe giọng nói của tôi, và từ từ ngủ lại.

 

Catherine was becoming increasingly psychic, and apparently so was I. I could hear my old psychiatry professors talking about transference and countertransference reactions in therapeutic relationships. Transference is the patient’s projection of feelings, thoughts, and wishes onto the therapist, who represents someone from the patient’s past. Countertransference is the reverse, the therapist’s unconscious emotional reactions to the patient. But this 3:30 a.m. communication was neither. This was a telepathic bond along a wavelength outside the normal channels. Somehow the hypnosis was opening up this channel. Or was it the audience, a diverse group of spirits-Masters and guardians and others-that was responsible for the new wavelength? I was beyond the point of surprise.

Catherine càng ngày càng trở nên tâm linh, và hiển nhiên tôi cũng vậy. Tôi có nghe thấy những giáo sư tâm thần cũ của tôi nói về sự phản ứng của việc chuyển đạt và phản chuyển đạt trong những mối quan hệ chữa bệnh. Chuyển đạt là làm hiện hình cụ thể những cảm nghĩ, tư tưởng, và mong ước của người bệnh cho bác sĩ chuyên khoa, tượng trưng một người nào đó trong quá khứ bệnh nhân. Phản ứng chuyển đạt thì ngược lại, những phản ứng xúc cảm vô thức của người chữa bệnh với bệnh nhân. Nhưng sự liên lạc lúc 3 giờ 30 sáng này chẳng phải cả hai. Đây là sự liên kết ngoại cảm cùng bước sóng ngoài những bệnh thông thường. Hay đó là thính giả, một nhóm các loại thần linh – các Bậc Thầy và những người bảo vệ và những người khác chịu trách nhiệm về bước sóng mới? Tôi đã vượt quá mức kinh ngạc.

 

In the next session, Catherine quickly reached a deep hypnotic level. She was instantly alarmed. “I see a big cloud … – it scared me. It was there.” She was breathing rapidly. “Is it still there?” “I don’t know. It came and went quickly . . . something up high on a mountain.” She remained alarmed, continuing to breathe heavily. I was afraid she was seeing a bomb. Could she look into the future? “Can you see the mountain? Is it like a bomb?” “I don’t know.” “Why did it scare you?” “It was very sudden. It was just there. It’s very smoky . . . very smoky. It’s big. It’s off at a distance. Oh. . ..” “You’re safe. Can you get closer to it?” “I don’t want to get closer!” she answered sharply. It was rare for her to be so resistant.

Trong buổi kế tiếp, Catherine nhanh chóng tiến vào mức độ thôi miên sâu. Cô hoảng hốt ngay. “Tôi thấy một đám mây lớn …, đám mây này làm tôi sợ hãi. Nó vẫn ở đấy.” Cô thở dồn dập.”Nó vẫn ở đấy à?””Tôi không biết. Đám mây đó đến và đi nhanh … cái gì đó cao trên núi.” Cô vẫn lo lắng, tiếp tục thở nặng nề. Tôi lo sợ cô đang nhìn thấy một quả bom. Liệu cô có nhìn về tương lai không? “Cô có nhìn thấy quả núi không? Nó có giống quả bom không?””Tôi không biết”.”Tại sao nó làm cô sợ?””Thật là rất đột ngột. Đúng là ở đấy. Rất nhiều khói… Rất nhiều khói. Nó rất lớn. Ở đằng xa. Ô…””Cô an toàn mà. Cô có thể đến gần không?”

“Tôi không muốn đến gần!” Cô trả lời dứt khoát. Rất hiếm khi cô cưỡng lại.

 

“Why are you so afraid of it?” I asked again. “I think it’s some chemicals or something. It’s hard to breathe when you’re around it.” She was breathing laboriously. “Is it like a gas? Is it coming from the mountain itself . . . like a volcano?” “I think so. It’s like a big mushroom. That’s what it looks like … a white one.” “But not a bomb? It’s not an atomic bomb or anything like that?” She paused and then continued. “It’s a vol . . . some type of volcano or something, I think. It’s very scary. It’s hard to breathe. There’s dust in the air. I don’t want to be there.” Slowly her breathing returned to the usual deep and even respirations of the hypnotic state. She had left this frightening scene.

Tôi lại hỏi, “Tại sao cô lại quá sợ hãi về cái đó?””Tôi nghĩ đó là một loại hóa chất hay một thứ gì đó. Rất khó thở khi ở gần.” Cô đang thở rất khó nhọc.”Có phải giống như hơi ngạt? Có phải nó xuất phát từ quả núi giống như núi lửa?””Tôi nghĩ như vậy. Nó giống như một cái nấm to. Nó giống như… một cái nấm trắng.””Nhưng không phải là một quả bom? Không phải là một quả bom nguyên tử hay loại tương tự?” Cô ngưng lại rồi lại tiếp tục.”Tôi nghĩ nó là một … một loại núi lửa hay thứ gì đó. Thật sợ hãi. Rất khó thở. Có bụi trong không khí. Tôi không muốn ở đấy.” Từ từ hơi thở của cô trở lại mức độ bình thường, thâm chí hô hấp ở trạng thái thôi miên. Cô rời bỏ quang cảnh sợ hãi này.

 

“Is it easier to breathe now?” “Yes.” “Good. What are you seeing now?” “Nothing. … I see a necklace, a necklace on somebody’s neck. It’s blue . . . it’s silver and has a blue stone hanging off it, and then littler stones underneath that.” “Is there anything on the blue stone?” “No, it’s see-through. You can see through it. The lady has black hair and a blue hat on … with a big feather, and the dress is velvet.” “Do you know the lady?” “No.” “Are you there, or are you the lady?” “I don’t know.” “But you see her?” “Yes. I’m not the lady.” “How old is she?” “In her forties. But she looks older than what she is.” “Is she doing anything?” “No, she’s just standing next to the table. There’s a perfume bottle on the table. It’s white with green flowers on it. There’s a brush and a comb with silver handles.” I was impressed with her eye for detail.

“Bây giờ có đã thở dễ dàng hơn chưa?””Rồi””Tốt. Bây giờ cô nhìn thấy gì?””Không thấy gì cả… Tôi nhìn thấy một cái dây chuyền, một dây chuyền trên cổ một người nào đó. Nó mầu xanh … Nó bằng bạc và có treo một viên ngọc xanh và có một hạt ngọc nhỏ hơn ở dưới.””Có gì ở trên hạt ngọc xanh không?””Không, nhìn trong suốt. Ông có thể nhìn suốt qua nó. Người thiếu phụ tóc đen đội một cái mũ xanh … có lông chim dài, và bộ đồ bằng nhung.”” Cô có biết thiếu phụ này không?””Không.””Cô có ở đấy không, hay cô là thiếu phụ ấy?””Tôi không biết””Nhưng cô có trông thấy bà ta không?””Đúng tôi không phải là thiếu phụ ấy”

“Bà ta bao nhiêu tuổi?””Vào khoảng 40. Nhưng trông bà già hơn tuổi.””Bà ta đang làm gì?””Không, bà ta chỉ đứng bên cạnh một cái bàn. Có một chai nước hoa trên bàn. Nó mầu trắng có những bông hoa mầu xanh trên đó. Có một bàn chải và một cái lược có cán bằng bạc. “Tôi rất ấn tượng với sự chú ý đến chi tiết của cô.

 

“Is it her room, or is it in a store?”

“It’s her room. There’s a bed in it … with four posts on it. It’s a brown bed. There’s a pitcher on the table.” “A pitcher?” “Yes, there are no pictures in the room. There are funny, dark curtains.” “Is anybody else around?” “No.” “What relationship does this lady have to you?” “I serve her.” Once again, she was a servant. “Have you been with her long?” “No … a few months.” “Do you like that necklace?” “Yes. She’s very elegant.” “Have you ever worn the necklace?” “No,” Her short answers required my active steering in order to obtain basic information. She reminded me of my preteenager son.   

“Đấy là phòng của bà ta, hay là một cửa hiệu?”

“Đó là phòng ngủ của bà ta. Có một cái giường với bốn cái gọng giường. Giường mầu nâu. Có một cái bình để rót nước trên bàn. “Một cái bình để rót nước?””Phải, không có tranh ảnh trong phòng. Có những màn cửa sẫm rất ngộ nghĩnh.””Có người nào khác trong phòng không?””Không.””Quan hệ của bà này với cô thế nào?””Tôi hầu hạ bà ta”. Một lần nữa cô là người hầu hạ “Cô ở với bà ta lâu chưa?””Không lâu… mới vài tháng.””Cô có thích cái dây chuyền đeo cổ không?””Không.” Câu trả lời ngắn ngủi của cô đòi hỏi sự gợi ý tích cực của tôi nhằm có tin tức căn bản. Cô nhắc nhở tôi nhớ đến đứa con tuổi thiếu niên của tôi.

 

“How old are you now?”

“Maybe thirteen, fourteen. . ..” About the same age.

“Why have you left your family?” I inquired. “I haven’t left them,” she corrected me. “I just work there.” “I see. Do you go home^o your family after that?” “Yes.” Her answers left little room for exploration. “Do they live nearby?” “Close enough. . .. We are very poor. It is necessary for us to work …to serve.”

“Bây giờ cô bao nhiêu tuổi?”

“Có thể là mười ba, mười bốn tuổi…” Vào khoảng cùng tuổi. Tôi hỏi , “Tại sao cô bỏ gia đình?”Cô sửa lại tôi, “Tôi không bỏ gia đình, tôi làm việc tại đây”.”Tôi hiểu. Cô có về nhà sau khi làm việc không?” “Có” Câu trả lời khiến cho tôi hầu như không còn chỗ để thăm dò.”Gia đình có ở gần không?””Cũng gần … Chúng tôi rất nghèo. Chúng tôi cần làm việc … phục vụ.”

 

“Do you know the lady’s name?”

“Belinda.”

“Does she treat you well?” “Yes.” “Good. Do you work hard?” “It’s not very tiring.” Interviewing teenagers was never easy, even in past lifetimes. It was fortunate that I was well practiced. “Good. Are you still seeing her now?” “No.” “Where are you now?” “In another room. There’s a table with a black covering on…, and fringe around the bottom. It smells of many herbs . . . heavy perfume.” “Does this all belong to your mistress? Does she use a lot of perfume?” “No, this is another room. I’m in another room.” “Whose room is this?” “It belongs to some dark lady.” “Dark how? Can you see her?” “She has many coverings on her head,” Catherine whispered, “many shawls. She’s old and wrinkled.” “What is your relationship to her?” “I’ve just gone to see her.”

“Có biết tên bà ta là gì không?”

“Belinda”

“Bà ta đối xử có tử tế với cô không?””Có””Tốt. Cô làm việc có khó nhọc không?””Cũng không mệt lắm”. Phỏng vấn tuổi thiếu niên không bao giờ dễ dàng, ngay cả về tiền kiếp. Rất may mà tôi hành nghề tốt. “Tốt. Bây giờ cô còn nhìn thấy bà ta nữa không?””Không””Bây giờ cô ở đâu?””Trong một phòng khác. Có một cái bàn bao phủ bằng một khăn trải bàn đen… và có tua viền chung quanh phía dưới. Có mùi của nhiều cỏ cây… mùi thơm gắt.””Có phải thứ đó thuộc về bà chủ của cô không? Bà ta dùng nhiều nước hoa lắm phải không?””Không, đây là một cái phòng khác. Tôi đang ở một phòng khác.””Phòng đó của ai?””Phòng đó của một bà có mầu da đậm””Đậm như thế nào? Cô có nhìn thấy bà ta không?””Bà ta đội nhiều khăn trên đầu” Catherine thì thào, “nhiều khăn choàng. Bà ta già và nhăn nheo”.”Quan hệ của bà ta và cô thế nào?””Tôi vừa mới đi gặp bà ta.”

 

“For what?”

“So, she may do the cards.” Intuitively I knew that she had gone to a fortune teller, one who probably read tarot cards. This was an ironic twist. Here Catherine and I were involved in an incredible psychic adventure, spanning lifetimes and dimensions beyond even that, and yet, perhaps two hundred years earlier, she had visited a psychic to find out about her future. I knew that Catherine had never visited a psychic in her present life, and she had no knowledge whatsoever about tarot cards or fortune-telling; these things frightened her.

“Để làm gì?”

“Bà ta bói bài.”Trực giác cho tôi biết cô đã gặp một người bói toán, người này đọc các lá bài. Đây là một sự biến đổi mỉa mai. Nơi đây Catherine và tôi đang tham gia vào một cuộc phiêu lưu tâm linh không thể tưởng tượng được,bao trùm những kiếp sống, và những phương chiều vượt quá cả những việc như thế và có lẽ hai trăm năm trước đó, thế mà cô lại đi xem một bà đồng để biết tương lai của mình. Tôi biết Catherine chưa bao giờ đi xem bói toán trong hiện kiếp, và cô cũng không biết gì về bói bài hay thầy bói; những thứ này làm cô khiếp sợ.

 

“Does she read fortunes?” I asked.

“She sees things.” “Do you have a question for her? What do you want to see? B What do you want to know?” “About some man . . . that I might marry.”, “What does she say when she does the cards?” “The card with . . . some kind of poles on it. Poles and flowers . . . but poles, spears, or some kind of line. There’s another card with a chalice on it, a cup. … I see a card with a man or boy carrying a shield. She says I will marry, but I will not marry this man. … I see nothing else.” “Do you see the lady?” “I see some coins.” “Are you still with her, or is this a different place?” “I am with her.” “What do the coins look like?” “They’re gold. The edges are not smooth. They are squared. There’s a crown on one side.” “See if there is a year imprinted on the coins. Something that you can read … in lettering.” “Some foreign numbers,” she replied. “X’s and I’s.” “Do you know what year that is?” “Seventeen . . . something. I don’t know when.” She was silent again.

Tôi hỏi, “Bà ta đang bói bài phải không?”

“Bà ta thấy các sự việc”. “Cô có hỏi bà ta không? Cô muốn xem gì? Cô muốn biết gì?””Về một người đàn ông… mà tôi có thể lấy””Bà ta nói gì khi bà ta đọc những lá bài?”Những lá bài có … loại gậy nào trên đó. Những cây gậy và hoa … nhưng những cây gậy, cây giáo hay loại như vậy. Có một con bài khác có một cái ly trên đó, một cái ly… Tôi nhìn thấy một lá bài có một người hay một cậu bé mang khiên. Cô nói tôi sẽ lấy chồng, nhưng tôi không lấy người này … Tôi không nhìn thấy khác”.”Cô có thấy bà ta không?””Tôi thấy những đồng tiền.””Cô vẫn ở với bà ta chứ, hay ở một nơi khác?” “Tôi ở với bà ta.””Trông đồng tiền thế nào?””Đồng tiền vàng. Cạnh đồng tiền không nhẵn nhụi. Chúng hình vuông. Một mặt có vương miện”.”Hãy nhìn xem có năm in trên đồng tiền không. Thứ gì cô có thể đọc được…. bằng chữ.””Những con số lạ” Cô trả lời, con số”X và I”.”Cô có biết đó là năm nào không?”

“Mười bẩy …có lẽ như vậy.Tôi không biết khi nào.” Cô lại im lặng.

 

“Why is this fortune-teller important to you?”

“I don’t know. . ..” “Does her fortune come true?” “. . . But she’s gone,” Catherine whispered. “It’s gone, I don’t know.” “Do you see anything now?” “No.” “No?” I was surprised. Where was she? “Do you know your name in this lifetime?” I asked, hoping to pick up the thread of this life several hundred years ago. “I’m gone from there.” She had left the lifetime and was resting. She could do this now on her own. It was not necessary for her to experience her death to do so. We waited for several minutes. This lifetime had not been spectacular. She had remembered only some descriptive highlights and the interesting visit to the fortune-teller.

“Tại sao sựbói toán lại quan trọng với cô?”

“”Tôi không biết…””Bà ta bói ta có đúng không?”Catherine thì thào, “Bà ta đi rồi. Việc qua rồi. Tôi không biết.””Cô có nhìn thấy gì bây giờ không?””Không””Không”. Tôi ngạc nhiên. Cô ấy hiện ở đâu? Tôi hỏi, “Cô có biết tên cô của kiếp sống này không?” Hy vọng tiếp tục theo mạch sống của kiếp này một vài trăm năm trước. “Tôi đã đi khỏi đó”, Cô đã rời khỏi kiếp đó và đang nghỉ ngơi. Từ nay trở đi cô có thể tự làm được việc này. Cô khỏi cần phải trải nghiệm cái chết để làm việc đó. Chúng tôi chờ đợi ít phút. Kiếp này không có gì lạ. Cô chỉ nhớ để mô tả một số sự việc nổi bật và cuộc viếng thăm thú vị bà thầy bói.

 

“Do you see anything now?” I asked again.

“No,” she whispered. “Are you resting?” “Yes . . . jewels of different colors. . ..” “Jewels?” “Yes. They’re really lights, but they look like jewels. . ..” “What else?” I asked. “I just . . .” she paused, and then her whisper was loud and firm. “There are many words and thoughts that are flying around. . .. It’s about coexistence and harmony . . . the balance of things.” I knew the Masters were nearby.

Tôi lại hỏi, “Cô có nhìn thấy gì bây giờ không?

“Cô thì thào “Không””Cô đang nghỉ ngơi đấy chứ?” Vâng … đá quý có nhiều mầu sắc.””Đá quý?””Vâng. Chúng thực sự lá ánh đèn, nhưng trông chúng giống đá quý”.Tôi hỏi, “Có gì khác nữa không?””Tôi vừa mới… “Cô ngưng lại và giọng thì thào của cô to lên và quả quyết. “Có nhiều lời nói và tư tưởng đang bay chung quanh đây… Đó là về sự chung sống và hòa hợp… sự quân bình các sự việc”. Tôi biết các Bậc Thầy ở đâu đây.

 

“Yes,” I urged her on.

“I want to know about these things. Can you tell me?” “Right now, they’re just words,” she answered. “Coexistence and harmony,” I reminded her. When she answered, it was the voice of the poet Master. I was thrilled to hear from him again. “Yes,” he answered. “Everything must be balanced. Nature is balanced. The beasts live in harmony. Humans have not learned to do that. They continue to destroy themselves. There is no harmony, no plan to what they do. It’s so different in nature. Nature is balanced. Nature is energy and life . . . and restoration. And humans just destroy. They destroy nature. They destroy other humans. They will eventually destroy themselves.”

Tôi thúc giục cô tiếp tục,

“Vâng, Tôi muốn biết những sự việc này, có thể cho tôi biết được không?”Cô đáp lại, “Ngay bây giờ chỉ có lời nói thôi.”

“Chung sống và hòa hợp”, tôi nhắc cô. Khi cô trả lời, đó là giọng nói của Bậc Thầy thi nhân.Tôi hồi hộp được nghe lại Bậc Thầy này. Ông trả lời, “Phải”. “Mọi thứ phải được quân bình. Thiên nhiên quân bình. Thú vật sống trong hòa hợp. Con người đã không biết làm điều đó. Họ tiếp tục tự phá hoại. Không có hòa hợp, không có kế hoạch cho điều họ làm. Thật quá khác biệt trong thiên nhiên. Thiên nhiên quân bình. Thiên nhiên là năng lượng và sự sống … và sự khôi phục. Con người chỉ phá hoại. Họ phá hoại thiên nhiên. Họ phá hoại những người khác. Cuối cùng họ tự hủy diệt”.

 

This was an ominous prediction.

With the world constantly in chaos and turmoil, I hoped this would not be soon. “When will this happen? “I asked. “It will happen sooner than they think. Nature will survive. Plants will survive. But we will not.” “Can we do anything to prevent that destruction? “- “No. Everything must be balanced. . ..” “Will this destruction happen in our lifetime? Can we avert it?” “It will not happen in our lifetime. We will be on another plane, another dimension, when it happens, but we will see it.”

Đó là một tiên đoán báo điềm xấu.

Với một thế giới không ngưng chao đảo và rối loạn, tôi hy vọng việc này không xẩy ra ngay. Tôi hỏi, “Việc này bao giờ xẩy ra?””Nó sẽ xẩy ra, sớm hơn họ tưởng. Thiên nhiên sẽ sống sót. Cây cối sống sót. Nhưng chúng ta thì không”.”Chúng tôi có thể làm gì để ngăn chận sự phá hoại này?””Không. Mọi thứ phải được quân bình… “”Sự tàn phá này có thể xẩy ra trong kiếp sống của chúng tôi không? Chúng tôi có thể tránh được không?””Nó sẽ không xẩy ra trong kiếp sống của chúng ta. Chúng ta sẽ ở trên một bình diện khác, một phương chiều khác, khi điều đó xẩy ra, chúng ta sẽ chứng kiến nó.”

 

“Is there no way of teaching humankind?”

I kept looking for a way out, for some mitigating possibility. “It will be done on another level. We will learn from that.” I looked on the bright side. “Well, then our souls progress in different places.” “Yes. We will no longer be … here, as we know it. We will see it.” “Yes,” I conceded. “I have a need to teach these people, but I don’t know how to reach them. Is there a way, or do they have to learn this for themselves?”

“You cannot reach everyone. In order to stop the destruction, you must reach everyone, and you cannot. It cannot be stopped. They will learn. When they progress, they will learn. There will be peace, but not here, not here in this dimension.”

“Không có cách nào để dạy nhân loại ư?”

Tôi đang tìm kiếm lối thoát, làm giảm bớt khả năng. “Việc đó sẽ được làm ở một mức độ khác. Chúng ta sẽ biết từ đó.”Tôi nhìn một cách lạc quan. “Vậy thì, những linh hồn của chúng ta tiến bộ ở những nơi khác”.”Phải. Chúng ta không còn ở đây lâu …, như chúng ta đã biết. Chúng ta sẽ chứng kiến”.Tôi thừa nhận, “Vâng”. Tôi có một nhu cầu là dạy những người này, nhưng tôi không biết cách làm thế nào. Có một cách nào không hay họ phải tự học hỏi việc này cho chính họ?” Ông không thể đến với từng người một. Muốn ngưng sự phá hoại ông phải đến từng người, nhưng ngươi không thể. Không thể ngưng lại được. Họ sẽ biết. Khi họ tiến bộ, họ sẽ biết. Sẽ có hòa bình, nhưng không ở đây, không ở đây trong phương chiều này.”

 

“Eventually there will be peace?”

“Yes, on another level.”

“It seems so far away, though,” I complained. “People seem so petty now . . . greedy, power-hungry, ambitious. They forget about love and understanding and knowledge. There is much to learn.” “Yes.” “Can I write anything to help these people? Is there some way?” “You know the way. We do not have to tell you. It will all be to no avail, for we will all reach the level, and they will see. We are all the same. One is no greater than the next. And all this is just lessons . . .and punishments.”

Cuối cùng sẽ có hòa bình?”

“Phải, ở mức độ khác.”

Tôi phàn nàn, “Dường như xa lắc”, “bây giờ người ta dường như quá đê tiện … tham lam, khát vọng uy quyền, nhiều tham vọng. Họ quên tình thương yêu, hiểu biết và kiến thức. Có nhiều cái phải học.””Phải””Tôi có thể viết gì để giúp những người này? Có cách nào không?””Ông biết cách mà. Chúng tôi không phải bảo ông. Tất cả sẽ không có ích gì, vì chúng tôi sẽ tiến tới mức độ ấy, và họ sẽ thấy. Tất cả chúng ta đều giống nhau. Người này không vĩ đại hơn người kia. Và tất cả điều này chỉ là những bài học… và những sự trừng phạt.”

 

“Yes,” I agreed.

This lesson was a profound one, and I needed time to digest it. Catherine had become silent. We waited, she resting and I pensively absorbed in the dramatic pronouncements of the past hour. Finally, she broke the spell. “The jewels are gone,” she whispered. “The jewels are gone. The lights . . . they’re gone.” “The voices, too? The words?” “Yes. I see nothing.” As she paused, her head began to move from side to side. “A spirit … is looking.” “At you?” “Yes.” “Do you recognize the spirit?” “I’m not sure … I think it might be Edward.” Edward had died during the previous year. Edward was truly ubiquitous. He seemed to be always around her.

“Vâng”, tôi đồng ý.

Bài học này là một bài sâu sắc, tôi cần có thì giờ để hấp thụ nó. Catherine đã trở nên im lặng. Chúng tôi chờ đợi, cô đang nghỉ ngơi, và tôi thu hút hết tâm trí vào những tuyên bố mạnh mẽ trong giờ qua. Cuối cùng cô phá vỡ thời gian nghỉ ngắn. Cô thì thào, “Những viên đá quý không còn nữa, những viên đá quý không còn nữa. Những ngọn đèn… Chúng đi rồi.””Cả những giọng nói, những lời nói?””Phải, tôi không nhìn thấy gì cả. ” Khi cô ngưng đầu cô bắt đầu quay hết bên này đến bên kia. ” “Một vị thần linh… đang nhìn””Vào cô””Phải””Cô có nhận ra được vị thần linh này không?””Tôi không chắc chắn… Tôi nghĩ có thể là Edward”. Edward đã chết năm ngoái rồi. Edward đúng là ở khắp nơi. Dường như lúc nào ông ta cũng ở quanh quẩn bên cô.

 

“What did the spirit look like?”

“Just a … just white . . . like lights. He had no face, not like we know it, but I know it’s he.” “Was he communicating at all with you?” “No, he was just watching.” “Was he listening to what I was saying?” “Yes,” she whispered. “But he’s gone now. He just wanted to be sure I’m all right.” I thought about the popular mythology of the guardian angel. Certainly Edward, in the role of the hovering, loving spirit watching over her to make sure she was all right, approached such an angelic role. And Catherine had already talked about guardian spirits. I wondered how many of our childhood “myths” were actually rooted in a dimly remembered past.

“Trông thần linh này như thế nào?””

Chỉ là … chỉ là mầu trắng … giống như ngọn đèn. Vị thần linh này không có mặt, không giống như chúng ta biết, nhưng tôi biết chính là ông ấy”.”Ông ấy có nói chuyện với cô không?””Không, ông chỉ quan sát.””Ông ấy có nghe điều tôi nói không?” Cô thì thào , “Có”. “Nhưng ông ấy đi rồi. Ông ấy chỉ muốn chắc chắn là tôi an toàn”. Tôi nghĩ đến thần thoại trong nhân gian về những thiên thần bảo vệ. Chắc hẳn Edward, trong vai trò thần linh tình thương lượn quanh để bảo đảm là cô không có chuyện gì, gần như có vai trò thiên thần như vậy. Và Catherine cũng đã nói đến những thần linh bảo vệ. Tôi không biết đã có bao nhiêu huyền thoại trong thời thơ ấu thực sự bắt nguồn từ quá khứ được mơ hồ nhớ lại.

 

   Tree of knowledge and forbidden fruit growing out of book.

   Eve giving Adam the forbidden fruit.

I also wondered about the hierarchy of spirits, about who became a guardian and who a Master, and about those who were neither, just learning. There must be gradations based upon wisdom and knowledge, with the ultimate goal that of becoming God-like and approaching, perhaps merging somehow, with God. This was the goal that mystic theologians had described in ecstatic terms over the centuries. They had had glimpses of such a divine union. Short of such personal experience, vehicles such as Catherine, with her extraordinary talent, provided the best view. Edward had gone, and Catherine had become silent. Her face was peaceful, and she was enveloped in serenity. What a marvelous talent she possessed-the ability to see beyond life and beyond death, to talk with the “gods” and to share their wisdom. We were eating from the Tree of Knowledge, no longer forbidden. I wondered how many apples were left.

Tôi cũng băn khoăn về thứ bậc thần linh, ai trở thành bảo vệ và ai trở thành các Bậc Thầy, và những người chẳng phải là bảo vệ và cũng chẳng là các Bậc Thầy, mà chỉ là những người học hỏi. Phải có cấp bậc căn cứ vào trí tuệ và kiến thức, với mục đích tối hậu là trở nên Thánh thiện và gần như có lẽ nhập vào bằng cách nào đó với Thượng Đế. Đó là mục tiêu của thần học huyền bí đã mô tả bằng những lời lẽ xuất thần qua nhiều thế kỷ. Họ đã có nhứng cái thoáng nhìn vào sự kết hợp thiêng liêng như vậy. Thiếu những kinh nghiệm cá nhân như thế, những phương tiện như Catherine, với tài năng khác thường của cô đã cung cấp một nhãn quan tốt nhất. Edward đi rồi và Catherine lại im lặng. Mặt cô trầm ngâm và cô đang chìm đắm trong thanh thản. Cô có một tài năng tuyệt vời làm sao – khả năng nhìn vượt qua sự sống và vượt qua cái chết, nói chuyện với các “thần” và chia sẻ trí tuệ của họ. Chúng tôi đang ăn từ Cây Kiến Thức không còn bị cấm đoán. Tôi băn khoăn không biết bao nhiêu trái táo còn để lại.

 

Carole’s mother, Minette, was dying from the cancer that had spread from her breast to her bones and liver. The process had been going on for four years and now could no longer be slowed down by chemotherapy. She was a brave woman who stoically endured the pain and weakness. But the disease was accelerating, and I knew that her death was approaching.

Mẹ của Carole, Minette, sắp chết vì bệnh ung thư đã di căn từ ngực tới xương và gan. Tiến trình chữa bệnh đã tiếp tục từ bốn năm nay và không còn thể ngăn chận lại bằng hóa trị. Bà là một phụ nữ can đảm, bà đã kiên cường chịu đựng đau đớn và sự ốm yếu. Nhưng bệnh tình ngày càng trầm trọng, và tôi biết cái chết của bà rất gần.

 

      The Kabbalah tree of life. The ancient Jewish tradition, first transmitted

      orally and using esoteric methods (including ciphers). It reached the height of its

      influence in the later Middle Ages and remains significant in Hasidism.

The sessions with Catherine were going on simultaneously, and I shared the experience and revelations with Minette, I was mildly surprised that she, a practical businesswoman, readily accepted this knowledge and wanted to learn more – I gave her books to read, and she did so avidly. She arranged for and took a course with Carole and me in kabbalah, the Jewish mystical writings that are centuries old. Reincarnation and the in-between planes are basic tenets of kabbalistic literature, yet most modern-day Jews are unaware of this. Minette’s spirit strengthened as her body deteriorated. Her fear of death diminished. She began to anticipate being reunited with her beloved husband, Ben. She believed in the immortality of her soul, and this helped her endure the pain. She was holding on to life, awaiting the birth of another grandchild, her daughter Donna’s first baby. She had met Catherine in the hospital during one of her treatments, and their eyes and words joined peacefully and eagerly. Catherine’s sincerity and honesty helped convince Minette that the existence of an afterlife was indeed true.

Những buổi thôi miên của Catherine cũng đang tiến triển và tôi chia sẻ kinh nghiệm và những tiết lộ này với Minette. Tôi cũng hơi ngạc nhiên, một nữ thương gia thực tế như bà sẵn sàng chấp thuận kiến thức này và muốn biết nhiều hơn nữa. Tôi đã đưa sách để bà đọc và bà đã đọc ngấu nghiến. Bà sắp xếp cùng tôi và Carole theo một khóa học về kabbalah (pháp thuật), những bài viết huyền bí của người Do Thái cổ hàng thế kỷ. Luân hồi và những bình diện ở giữa là những giáo lý căn bản trong tài liệu pháp thuật, tuy nhiên hầu hết những người Do Thái hiện đại không biết đến. Tinh thần của Minette sung mãn trong khi cơ thể bị hư hại. Sự sợ hãi cái chết của bà đã giảm thiểu. Bà bắt đầu mong muốn được đoàn tụ với Ben, người chồng yêu quí của bà. Bà tin vào sự bất tử của linh hồn bà, và việc này giúp bà chịu đựng đau đón. Bà vẫn bám chặt lấy sự sống, chờ đợi đứa cháu khác ra đời, đứa con đầu lòng của Donna, con gái bà. Bà đã gặp Catherine tại bệnh viện trong một lần khám bệnh, và cách nhìn cũng như lời nói của họ hòa hợp một cách thanh bình và thiết tha. Sự thành thật và chân thật của Catherine đã thuyết phục Minette rằng sự sống sau khi chết quả là sự thực.

 

A week before she died, Minette was admitted to the hospital’s oncology floor. Carole and I were able to spend time with her, talking about life and death, and what awaited us all after death. A lady of great dignity, she decided to die in the hospital, where the nurses could care for her. Donna, her husband, and their six-week-old daughter came to spend time with her and say good-bye. We were almost continuously with her. About six in the evening of the night Minette died, Carole and I, having just arrived home from the hospital, both experienced a strong urge to go back. The next six or seven hours were filled with serenity and a transcendental spiritual energy. Although her breathing was labored, Minette had no more pain. We talked about her transition to the in-between state, the bright light, and the spiritual presence. She reviewed her life, mostly silently, and struggled to accept the negative parts. She seemed to know that she couldn’t let go until this process was completed. She was waiting for a very specific time to die, in the early morning. She grew impatient for this time to come. Minette was the first person I had guided to and through death in this manner. She was strengthened, and our grief was assuaged by the entire experience.

Một tuần trước khi chết, Minette được đưa vào khu ung thư của bệnh viện. Carole và tôi đã có thể ở với bà, trò chuyện về sự sống và cái chết, và cái gì đợi tất cả chúng ta sau khi chết. Là một thiếu phụ có phẩm cách lớn, bà quyết định chết tại bệnh viện, nơi đây các y tá có thể săn sóc bà. Donna với chồng và đứa con sáu tuần cũng đến với bà để chào vĩnh biệt. Chúng tôi luôn luôn bên cạnh bà. Vào khoảng sáu giờ chiều của đêm Minette chết, Carole và tôi mới từ bệnh viện về nhà, cả hai chúng tôi đều cảm thấy phải trở lại ngay. Sáu hay bẩy giờ sau đó tràn đầy thanh thản năng lượng tinh thần siêu nhiên. Mặc dù hơi thở của bà khó khăn, nhưng Minette không còn đau đớn. Chúng tôi nói về sự chuyển tiếp của bà tới trạng thái ở giữa, ánh sáng chói lọi, và sự hiện diện tinh thần. Bà nhìn lại cuộc đời, hầu như lặng lẽ, và phấn đấu để chấp nhận phần tiêu cực. Bà dường như biết bà chưa thể đi được cho đến khi tiến trình này được hoàn tất. Bà đang chờ đợi giờ phút đặc biệt để chết, vào buổi sáng sớm. Bà trở nên mất kiên nhẫn khi thời điểm đến. Minette là người đầu tiên tôi đã hướng dẫn đến và qua cái chết trong cách này. Bà trở nên vững chắc và nỗi đau của chúng tôi được khuây khỏa bởi toàn bộ kinh nghiệm này.

 

I found that my ability to heal my patients had significantly expanded, not just with phobias and anxieties, but especially in death-and-dying, or grief, counseling. I intuitively knew what was wrong and what directions to take in therapy. I was able to convey feelings of peacefulness, calm, and hope. After Minette’s death, many others who were either dying or who were the survivors of a loved one’s death came for help. Many were not ready to know about Catherine or the literature about life after death. But even without imparting such specific knowledge, I felt that I could still deliver the message. A tone of voice, an empathic understanding of the process and of their fears and feelings, a look, a touch, a word-all could get through, at some level, and touch a chord of AID. hope, of forgotten spirituality, of shared humanity, or even more. And for those ready for more, to suggest readings and to share my experiences with Catherine and others was like opening a window toa fresh breeze. The ones who were ready were revived. They gained insights even more rapidly.

Tôi thấy khả năng chữa bệnh của tôi đã mở rộng có nghĩa lý không những với ám ảnh sợ hãi và lo âu mà còn đặc biệt là về sự chỉ dẫn cho cái chết và sắp chết, hay nỗi đau đớn. Tôi theo trực giác biết điều sai và hướng đi nào phải chọn trong cách chữa bệnh. Tôi có thể truyền cảm nghĩ an lạc, bình tĩnh và hy vọng. Sau cái chết của Minette, nhiều người khác hoặc sắp chết hoặc có những người có thân nhân bị chết đã tìm đến đễ được giúp đỡ. Nhiều người không có ý muốn biết về Catherine hay tài liệu nói về sự sống và cái chết. Nhưng dù không phổ biến kiến thức riêng này, tôi cảm thấy tôi có thể gửi đi lời nhắn nhủ. Một giọng nói, một sự hiểu biết có thiện cảm về quá trình này, và về những sợ hãi và cảm nghĩ của họ, một cái nhìn, một tiếp xúc, một lời nói – tất cả có thể thông suốt, ở một mức độ nào đó, và chạm vào dây cung của hy vọng, về tính chất tinh thần bị bỏ quên, về nhân tính chung, và còn nhiều hơn nữa. Và cho những người có ý muốn biết nhiều hơn nữa, muốn hiểu biết rộng và chia sẻ kinh nghiệm của tôi với Catherine và cho những người khác như thể mở cửa sổ cho một luồng gió mát. Những người đã sẵn sàng thì tỉnh lại. Họ đạt được sự hiểu biết thấu đáo nhanh chóng hơn.

 

I believe strongly that therapists must have open minds. Just as more scientific work is necessary to document death-and-dying experiences, such as Catherine’s, so is more experiential work necessary in the field. Therapists need to consider the possibility of life after death and integrate it into their counseling. They do not have to use hypnotic regressions, but they should keep their minds open, share their knowledge with their patients, and not discount their patients’ experiences.

Tôi tin tưởng mạnh mẽ rằng những thầy thuốc chuyên khoa phải có một tâm hồn cởi mở. Đúng là các công trình khoa học hơn nữa cần phải chứng minh những kinh nghiệm chết và sắp chết, như của Catherine, những công trình thí nghiệm nhiều hơn nữa cũng rất cần thiết trong lĩnh vực này. Các thầy thuốc chuyên khoa cần xét khả năng của sự sống sau khi chết để sát nhập nó vào việc chỉ dẫn của họ. Họ không cần phải sử dụng thôi miên lùi về dĩ vãng, nhưng họ phải có đầu óc cởi mở, chia sẻ kiến thức của mình với bệnh nhân, và không nên coi nhẹ kinh nghiệm của bệnh nhân.

 

People are now devastated by threats to their mortality. The plague of AIDS, nuclear holocaust, terrorism, disease, and many other catastrophes hang over our heads and torture us daily. Many teenagers believe that they won’t live past their twenties. This is incredible, reflecting the tremendous stresses in our society.

Bây giờ con người bị tàn phá bởi những đe dọa về tính bất tử. Tai họa của bệnh AIDS, sự tàn phá khủng khiếp của (vũ khí) hạt nhân, khủng bố, bệnh tật, và nhiều tai họa lớn treo trên đầu chúng ta và hành hạ chúng ta hàng ngày. Nhiều thiếu niên tin rằng chúng không sống quá hai mươi tuổi. Điều này không thể tưởng tượng được, phản ảnh sự căng thẳng khủng khiếp trong xã hội chúng ta.

 

On the individual level, Minette’s reaction to Catherine’s messages is encouraging. Her spirit had strengthened, and she had felt hope in the face of great physical pain and bodily deterioration. But the messages are for all of us, not just the dying. There is hope for us, too. “We need more clinicians and scientists to report on other Catherine’s, to confirm and expand her messages. The answers are there. We are immortal. We will always be together.

Trên mức độ cá nhân, phản ứng của Minette với thông điệp của Catherine rất đáng khuyến khích. Tinh thần của bà được cũng cố, bà cảm thấy hy vọng trước đau đớn vật chất và cơ thể bị tàn phá. Nhưng những thông điệp đó là cho tất cả chúng ta, không chỉ để cho những người sắp chết. Cũng có niềm hy vọng cho tất cả chúng ta. Chúng ta cần nhiều hơn nữa những thầy thuốc và khoa học gia thông báo những Catherine khác, để xác nhận và mở rộng thông điệp của cô. Những câu trả lời là ở đấy. Chúng ta bất tử. Chúng ta lúc nào cũng bên nhau.

 

Sources:

Tài liệu tham khảo:

  1. https://tienvnguyen.net/a2066/tien-kiep-va-luan-hoi-co-that-khong-many-lives-many-masters-
  2. https://tienvnguyen.net/images/file/Wful-wTe1ggQAFce/manylivesmanymasters.pdf
  3. https://tienvnguyen.net/images/file/sLziGUbf1ggQALdp/tienkiepvaluanhoicothatkhong.pdf
  4. Photo 2: https://www.123rf.com/photo_56520076_tree-of-knowledge-and-forbidden-fruit-growing-out-of-book.html
  5. Photo 3: https://www.pinterest.com/pin/448882287832067186/