Chapter 1 – Tiền Kiếp Và Luân Hồi Có Thật Không? – Many Lives, Many Masters – Song ngữ

English: Dr. Brian L. Weiss.

Việt ngữ: Thích Tâm Quang.

Compile: Middle Way Group.

 

 

Chapter 1– Tiền Kiếp Và Luân Hồi Có Thật Không? – Many Lives, Many Masters

 

CHAPTER 1 – CHƯƠNG MỘT

 

The first time I saw Catherine she was wearing a vivid crimson dress and was nervously leafing through a magazine in my waiting room. She was visibly out of breath. For the previous twenty minutes she had been pacing the corridor outside the Department of Psychiatry offices, trying to convince herself to keep her appointment with me and not run away.

Lần đầu tôi gặp Catherine, cô mặc một bộ đồ đỏ tươi và bồn chồn dở trang tạp chí để tại phòng đợi của tôi. Rõ ràng là cô thở hỗn hển. Hai mươi phút trước đó, cô đi tới đi lui trong hành lang bên ngoài Khoa Tâm Thần, cố gắng thuyết phục mình giữ đúng hẹn gặp tôi mà không bỏ đi.

 

I went out to the waiting room to greet her, and we shook hands. I noticed that hers were cold and damp, confirming her anxiety. Actually, it had taken her two months of courage-gathering to make an appointment to see me even though she had been strongly advised to seek my help by two staff physicians, both of whom she trusted. Finally, she was here.

Tôi ra phòng đợi và chào cô, và chúng tôi bắt tay nhau. Tôi nhận thấy tay cô lạnh và ẩm ướt, xác nhận có sựlo âu. Thực ra sau haitháng trời thu thập can đảm đểlàm hẹn gặp tôi mặc dù hai thầy thuốc tư vấn mà cô tin tưởng khuyên cô tìm sựgiúp đỡnơi tôi. Cuối cùng cô đã ởđây.

 

Catherine is an extraordinarily attractive woman, with medium-length blond hair and hazel eyes. At that time, she worked as a laboratory technician in the hospital where I was Chief of Psychiatry, and she earned extra money modeling swim wear.

Catherine là một phụ nữ quyến rũ lạ thường, với mái tóc vàng hoe dài vừa phải và cặp mắt mầu nâu nhạt. Lúc đó, cô là một chuyên viên phòng thí nghiệm tại bệnh viện mà tôi là Trưởng Khoa Tâm Thần, và cô kiếm thêm tiền bằng cách làm nghề mặc áo tắm.

 

I ushered her into my office, past the couch and to a large leather chair. We sat across from each other, my semicircular desk separating us. Catherine leaned back in her chair, silent, not knowing where to begin. I waited, preferring that she choose the opening, but after a few minutes I began inquiring about her past. On that first visit we began to unravel who she was and why she had come to see me.

Tôi bảo cô vào phòng tôi, đi qua chiếc đi văng tới chiếc ghế da lớn.Chúng tôi ngồi đối diện nhau, cái bàn bán nguyệt của tôi ngăn cách chúng tôi. Catherine ngả lưng trên ghế, im lặng không biết bắt đầu từ đâu. Tôi chờ đợi, muốn để cho cô khởi đầu, nhưng sau vài phút, tôi bắt đầu hỏi về quá khứ của cô. Trong lần khám bệnh đầu, chúng tôi bắt đầu làm sáng tỏ cô là ai và tại sao cô đến tìm gặp tôi.

 

In answer to my questions, Catherine revealed the story of her life. She was the middle child, reared in a conservative Catholic family in a small Massachusetts town. Her brother, born three years earlier than she, was very athletic, and he enjoyed a freedom that she was never allowed. Her younger sister was the favorite of both parents.

Trả lời câu hỏi của tôi, Catherine cho biết câu chuyện về đời sống của cô. Cô là một đứa trẻ trung bình, sinh ra trong một gia đình Cơ Đốc Giáo ôn hòa tại một thành phố nhỏ ở Massachussetts. Người anh cô, sinh ra trước cô ba năm, rất khỏe mạnh, được hoàn toàn tự do mà cô thì không được phép. Em gái của cô là đứa con được cưng chiều nhất của cả bố mẹ.

 

When we started to talk about her symptoms, she became noticeably more tense and nervous. Her speech was rapid, and she leaned forward, resting her elbows on the desk. Her life had always been burdened with fears. She feared water, feared choking to the extent that she could not swallow pills, feared airplanes, feared the dark, and she was terrified of dying. In the recent past, her fears had begun to worsen. In order to feel safe, she often slept in the walk-in closet in her apartment. She suffered two to three hours of in somnia before being able to fall asleep. Once asleep, she would sleep lightly and fitfully, awakening frequently. The nightmares and sleep walking episodes that had plagued her childhood were returning. As her fears and symptoms increasingly paralyzed her, she became more and more depressed.

Khi cô bắt đầu nói về những triệu chứng của cô, cô trở nên căng thẳng và giao động nhiều. Cô nói thật nhanh và ngả người về phía trước, tựa khuỷu tay lên bàn. Đời cô luôn luôn bị đè nặng bởi sợ hãi. Cô sợ nước, sợ bị nghẹn đến mức không thể nuốt nổi viên thuốc, sợ máy bay, sợ bóng tối, và cô rất hãi hùng về cái chết. Trong thời gian vừa qua, sự sợ hãi của cô bắt đầu trở nên tồi tệ hơn. Để cảm thấy an toàn, cô thường ở phòng nhỏ có lối đi trong căn hộ của cô. Cô phải mất hai hay ba giờ mới ngủ được. Khi ngủ, cô ngủ chập chờn không ngon giấc, chốc chốc lại thức. Những cơn ác mộng và những tình tiết mộng du gây tệ hai cho cô lúc còn nhỏ bắt đầu trở lại. Khi sợ hãi và những triệu chứng ngày càng làm cô tê liệt, cô càng trở nên phiền muộn.

 

As Catherine continued to talk, I could sense how deeply she was suffering. Over the years I had helped many patients like Catherine through the agonies of their fears, and I felt confident that I could help her, too. I decided we would begin by delving into her childhood, looking for the original sources of her problems. Usually, this kind of insight helps to alleviate anxiety. If necessary, and if she could manage to swallow pills, I would offer her some mild anti-anxiety medications to make her more comfortable. This was standard textbook treatment for Catherine’s symptoms, and I never hesitated to use tranquilizers, or even antidepressant medicines, to treat chronic, severe fears and anxieties. Now I use these medicines much more sparingly and only temporarily, if at all. No medicine can reach the real roots of these symptoms. My experiences with Catherine and others like her have proved this to me. Now I know there can be cures, not just the suppression or covering-over of symptoms.

Trong khi Catherine nói chuyện, tôi có thể cảm thấy cô đau khổ sâu xa đến nhường nào. Nhiều năm qua tôi đã giúp nhiều bệnh nhân như Catherine thoát khỏi những thống khổ của sợ hãi, và tôi cảm thấy tin tưởng cũng có thể giúp cô. Chúng tôi quyết định đào sâu thời ấu thơ của cô tìm ra căn nguyên phát sinh các khó khăn của cô. Thường thường kiểu nhìn vào bên trong giúp làm nhẹ đi lo âu. Nếu cần thiết, và nếu cô có thể uống thuốc, tôi sẽcho cô một số thuốc chống lo âu loại nhẹ để cô được thoải mái hơn. Đó là cách chữa trị theo tiêu chuẩn sách vở cho các triệu chứng của Catherine, và tôi không bao giờ ngần ngại dùng thuốc an thần, hay thuốc chống suy nhược thần kinh, để chữa trị những chứng sợ hãi và lo âu nghiêm trọng và kinh niên. Bây giờ tôi ít khi dùng những thứ thuốc đó và chỉ dùng chúng tạm thời hay là không dùng nữa. Không có thứ thuốc nào có thể trừ được tuyệt căn những triệu chứng ấy. Những kinh nghiệm của tôi với Catherine và với những người khác như cô đã chứng minh điều đó với tôi. Bây giờ tôi biết có thể có những phương thuốc không chỉ ngăn chặn hay bao trùm những triệu chứng.

 

During the first session, I kept trying to gently nudge her back to her childhood. Because Catherine remembered amazingly few events from her early years, I made a mental note to consider hypnotherapy as a possible shortcut to overcome this repression. She could not remember any particularly traumatic moments in her childhood that would explain the epidemic of fears in her life.

Trong buổi chữa bệnh đầu tiên, tôi cố gắng đánh nhẹ vào thời thơ ấu của cô. Vì lạ lùng là Catherine chỉ nhớ được một số ít biến cố hồi thơ ấu, để tiến nhanh đến việc khắc phục sự ức chế này, tôi đã để tâm xem xét đến cách chữa trị bằng thôi miên. Cô không thể nhớ tí gì đến những lần chấn thương đặc biệt nào trong lúc thơ ấu có thể giải thích được sự sợ hãi lan tràn trong đời cô.

 

As she strained and stretched her mind to remember, isolated memory fragments emerged. When she was about five years old, she had panicked when someone had pushed her off a diving board into a swimming pool. She said that even before that incident, however, she had never felt comfortable in water. When Catherine was eleven, her mother had become severely depressed. Her mother’s strange withdrawal from the family necessitated visits to a psychiatrist with ensuing electroshock treatments. These treatments had made it difficult for her mother to remember things. This experience with her mother frightened Catherine, but, as her mother improved and became “herself” again, Catherine said that her fears dissipated. Her father had a long-standing history of alcohol abuse, and sometimes Catherine’s brother had to retrieve their father from the local bar. Her father’s increasing alcohol consumption led to his having frequent fights with her mother, who would then become moody and withdrawn. However, Catherine viewed this as an accepted family pattern.

Vì cô gắng sức căng tâm trí ra để mà nhớ lại, những mảng ký ức riêng biệt đã xuất hiện. Khi cô năm tuổi, cô đã kinh sợ khi một người nào đó đẩy cô từ cái cầu nhẩy xuống hồ bơi. Cô nói là ngay cả đến trước khi việc xẩy ra này, cô không bao giờ thấy thoải mái ở dưới nước. Khi Catherine mười một tuổi, mẹ cô bị suy nhược trầm trọng. Mẹ cô bỏ nhà một cách kỳ cục, đòi hỏi phải được khám bệnh bởi một bác sĩ tâm thần với sự điều trị bằng sốc điện. Cuộc điều trị này đã khiến cho mẹ cô rất khó nhớ lại các sự việc. Kinh qua việc này với mẹ cô làm Catherine sợ hãi, nhưng, vì mẹ cô đã đỡ nhiều và trở lại như xưa, Catherine nói, những nỗi sợ hãi của cô tiêu tan. Cha cô là một người rượu chè và đôi khi người anh Catherine phải tìm đến quán rượu địa phương để đưa ông về. Cha cô càng ngày càng uống nhiều rượu dẫn đến đánh lộn thường xuyên. Mẹ cô, bà trở nên ủ rũ và thu mình lại. Tuy nhiên Catherine thấy đó là mẫu hình gia đình đã được chấp nhận.

 

Things were better outside the home. She dated in high school and mixed in easily with her friends, most of whom she had known for many years. However, she found it difficult to trust people, especially those outside her small circle of friends.

Mọi sự tốt hơn bên ngoài gia đình. Cô có hò hẹn ở trường trung học và hòa đồng dễ dàng với bạn bè, đa số bạn cô, cô biết họ đã nhiều năm. Tuy nhiên cô thấy thật khó mà tin người, nhất là những người ở ngoài nhóm bè bạn nhỏ nhoi của cô.

 

Her religion was simple and unquestioned. She was raised to believe in traditional Catholic ideology and practices, and she had never really doubted the truthfulness and validity of her faith. She believed that if you were a good Catholic and lived properly by observing the faith and its rituals, you would be rewarded by going to heaven; if not, you would experience purgatory or hell. A patriarchal God and his Son made these final decisions. I later learned that Catherine did not believe in reincarnation; in fact, she knew very little about the concept, although she had read sparingly about the Hindus. Reincarnation was an idea contrary to her upbringing and understanding. She had never read any metaphysical or occult literature, having had no interest in it. She was secure in her beliefs.

Tôn giáo của cô thì bình dị và không có vấn đề gì. Cô được nuôi dưỡng để tin vào hệ tư tưởng cách tu tập của Cơ Đốc Giáo truyền thống, và thực sự là chẳng bao giờ cô hoài nghi về tính đứng đắn và giá trị của Cơ Đốc Giáo. Cô tin rằng nếu bạn là một người Cơ Đốc ngoan đạo và sống đúng bằng cách tuân theo niềm tin và nghi thức, sẽ được lên thiên đàng, nếu không bạn sẽ phải chuộc tội hay địa ngục. Thượng Đế Cha và Con Ngài ban ra những quyết định cuối cùng. Sau này tôi được biết Catherine không tin luân hồi; thật ra cô biết rất ít về khái niệm này, tuy thỉnh thoảng cô có đọc về những người Ấn Giáo. Luân hồi là một ý niệm trái ngược với sự dạy dỗ và hiểu biết của cô. Cô không bao giờ đọc sách về siêu hình hay huyền bí, vì chẳng bao giờ để ý đến chuyện ấy. Cô vững tin vào tín ngưỡng của mình.

 

 

 

Death and Rebirth in Theravada Buddhism.

Chết và tái sinh trong Phật giáo Nguyên thủy.

 

After high school, Catherine completed a two-year technical program, emerging as a laboratory technician. Armed with a profession and encouraged by her brother’s move to Tampa, Catherine landed a job in Miami at a large teaching hospital affiliated with the University of Miami School of Medicine. She moved to Miami in the spring of 1974, at the age of twenty-one.

Sau trung học, cô hoàn tất hai năm kỹ thuật, trở thành một chuyên viên phòng thí nghiệm. Có một nghề nghiệp và được khuyến khích bởi người anh, cô chuyển về Tampa, giành được chỗ làm ở Miami tại một bệnh viện huấn nghiệp lớn liên kết với Trường Đại Học Y Khoa Miami. Cô dọn về Miami vào mùa xuân năm 1974 lúc 21 tuổi.

 

Catherine’s life in a small town had been easier than her life in Miami turned out to be, yet she was glad she had fled her family problems.

Hóa ra là đời sống của Catherine ở Miami lại khó khăn hơn ở một thành phố nhỏ, tuy nhiên cô thấy sung sướng là đã thoát khỏi những vấn đề gia đình.

 

During her first year in Miami, Catherine met Stuart. Married, Jewish, and with two children, he was totally different from any other man she had ever dated. He was a successful physician, strong and aggressive. There was an irresistible chemistry between them, but their affair was rocky and tempestuous. Something about him drew out her passions and awakened her, as if she were charmed by him. At the time Catherine started therapy, her affair with Stuart was in its sixth year and very much alive, if not well. Catherine could not resist Stuart although he treated her poorly, and she was furious at his lies, broken promises, and manipulations.

Trong năm đầu tại Miami, Catherine gặp Stuart. Là người Do Thái hai con, Stuart khác hẳn với những người mà cô từng hò hẹn. Anh là một thầy thuốc thành công, mạnh mẽ và năng động. Có một quá trình bí mật không cưỡng nổi giữa hai người, nhưng cuộc ngoại tình của họ không vững chắc và đầy bão tố. Một cái gì đó ở anh đã lôi cuốn tình cảm mạnh mẽ của cô và đã tỉnh thức cô, như thể cô bị anh mê hoặc. Vào lúc Catherine bắt đầu chữa bệnh, cuộc tình với Stuart đã được sáu năm, vẫn còn rất mặn nồng nếu không phải là sâu đậm. Catherine không thể cưỡng lại nổi Stuart tuy anh đối xử với cô không đẹp, và cô tức giận về những dối trá, không giữ lời hứa và những mánh khóe của anh.

 

Several months prior to her appointment with me, Catherine had required vocal cord surgery for a benign nodule. She had been anxious prior to the surgery but was absolutely terrified up on awakening in the recovery room. It took hours for the nursing staff to calm her. After her recovery in the hospital, she sought out Dr. Edward Poole. Ed was a kindly pediatrician whom Catherine had met while working in the hospital. They had both felt an instant rapport and had developed a close friendship. Catherine talked freely to Ed, telling him of her fears, her relationship with Stuart, and that she felt she was losing control over her life. He insisted that she make an appointment with me and only me, not with any of my associate psychiatrists. When Ed called to tell me about his referral, he explained that, for some reason, he thought only I could truly understand Catherine, even though the other psychiatrists also had excellent credentials and were skilled therapists. Catherine did not call me, however.

Một vài tháng trước khi gặp tôi để khám bệnh, Catherine cần phải giải phẫu dây thanh vì một khối u lành. Cô đã rất lo lắng trước khi giải phẫu và hết sức kinh hoàng lúc tỉnh lại tại phòng hồi sức. Phải mất nhiều giờ ban trợ y mới làm cho cô bình tĩnh lại được. Sau khi bình phục ở bênh viện, cô bèn tìm đến Bác Sĩ Edward Poole. Bác sĩ Edward là một bác sĩ nhi khoa rất tốt bụng mà Catherine đã gặp trong khi làm việc tại bệnh viện. Hai người đều cảm thấy có ngay mối quan hệ và nảy nở tình bạn hữu thân thiết. Catherine bầy tỏ hết với Bác sĩ Edward, cho biết về những sợ hãi, quan hệ với Stuart, và cô cảm thấy mất tự chủ trong cuộc sống. Bác Sĩ Edward khăng khăng bảo cô gặp tôi, chỉ tôi chứ không bác sĩ tâm thần đồng nghiệp nào khác để chữa bệnh. Khi Edward điện thoại cho tôi để giới thiệu, ông giải thích, vì lý do nào đó, ông nghĩ rằng chỉ có tôi mới có thể hiểu tường tận Catherine, dù cho các bác sĩ tâm thần khác cũng rất có tín nhiệm và là những bác sĩ chuyên khoa lành nghề. Tuy nhiên Catherine không gọi tôi.

 

Eight weeks passed. In the crunch of my busy practice as head of the Department of Psychiatry, I had forgotten about Ed’s call. Catherine’s fears and phobias worsened. Dr. Frank Acker, Chief of Surgery, had known Catherine casually for years, and they often bantered good-naturedly when he visited the laboratory where she worked. He had noticed her recent unhappiness and sensed her tension. Several times he had meant to say something to her but had hesitated. One afternoon, Frank was driving to a smaller, out-of-the way hospital to give a lecture. On the way, he saw Catherine driving to her home, which was close to that hospital, and impulsively waved her to the side of the road. “I want you to see Dr. Weiss now” he yelled through the window. “No delays.” Although surgeons often act impulsively, even Frank was surprised at how emphatic he was.

Tám tuần lễ trôi qua. Là Viện Trưởng Khoa tâm thần, tôi rất bận với công việc nên đã quên bẵng cuộc điện đàm với Bác sĩ Edward. Sợ hãi và ám ảnh sợ hãi của Catherine trở nên tồi tệ. Bác Sĩ Frank Acker, trưởng Khu phẫu thuật, tình cờ biết Catherine từ nhiều năm, thường đùa vui với Catherine khi ông đến thăm phòng thí nghiệm nơi Catherine làm việc. Ông cảm thấy cô không vui và bị căng thẳng. Mấy lần ông muốn nói với cô song lại lưỡng lự. Một buổi chiều, Frank lái xe trên một con đường nhỏ để ra khỏi bệnh viện để tới nơi thuyết trình. Trên đường đi, ông thấy Catherine lái xe về nhà ở gần bệnh viện, ông vội vẫy cô vào lề đường, rồi nói to với Catherine, ” Tôi muốn Catherine gặp ngay Bác Sĩ Weiss”, ông la lên qua kính xe “Không được chậm trễ”. Mặc dầu các bác sĩ giải phẫu thường thôi thúc hành động, nhưng ngay cả Frank cũng ngạc nhiên là làm sao ông đã nhấn mạnh đến nhường nào.

 

Catherine’s panic attacks and anxiety were increasing in frequency and duration. She began having two recurrent nightmares. In one, a bridge collapsed while she was driving across it. Her car plunged into the water below, and she was trapped and drowning. In the second dream, she was trapped in a pitch-black room, stumbling and falling over things, unable to find a way out. Finally, she came to see me.

Những cơn sợ hãi và lo âu ngày càng hay xảy ra và kéo dài dài. Cô bắt đầu bị hai cơn ác mộng tái phát. Một ác mộng về một cây cầu sập khi cô đang lái xe qua cầu. Xe cô đâm xuống nước, cô bị mắc kẹt và chết đuối. Trong ác mộng thứ hai, cô bị kẹt ở trong căn phòng quét hắc ín đen, trượt chân và vấp vào mọi thứ, không thể tìm thấy lối ra. Cuối cùng cô đã đến gặp tôi.

 

At the time of my first session with Catherine, I had no idea that my life was about to turn upside down, that the frightened, confused woman across the desk from me would be the catalyst, and that I would never be the same again.

Lần chữa trị đầu tiên, tôi không hình dung là cuộc sống của tôi sắp đảo ngược mà người thiếu nữ sợ sệt bối rối ngồi bên kia bàn tôi, là chất xúc tác, và tôi không bao giờ còn như trước nữa.

 

Sources:

Tài liệu tham khảo:

  1. https://tienvnguyen.net/a2066/tien-kiep-va-luan-hoi-co-that-khong-many-lives-many-masters-
  2. https://tienvnguyen.net/images/file/Wful-wTe1ggQAFce/manylivesmanymasters.pdf
  3. https://tienvnguyen.net/images/file/sLziGUbf1ggQALdp/tienkiepvaluanhoicothatkhong.pdf
  4. Photo 2: http://vuonthien.com/en/death-and-rebirth-in-theravada-buddhism/